Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Phần IV
HẬU QUẢ
Chương 36
Chim hải âu của nước Mỹ


I.
Ở Washington tôi đă thấy có những thay đổi khá mạnh mẽ trong cảnh tượng sau chiến tranh. Phần lớn những người cộng tác cũ với tôi đă quay trở lại cuộc sống dân thường, và trong cơ quan của OSS ở cuối đại lộ Hiến Pháp chỉ có một số ít văn pḥng c̣n tiếp tục mở cửa. Rơ ràng có thể thấy ở đây đang diễn ra một sự chuyển biến nổi bật sang một thời kỳ nhàn nhă thảnh thơi. Khi tôi tới là vào giữa tháng 11 và được vào làm việc trong một cơ quan quan trọng, ở đó tôi có nhiệm vụ khởi thảo kế hoạch về Đông Dương và giữ liền lạc với Bộ Ngoại giao và Bộ Chiến tranh. Trước một đống báo cáo và điện tín dồn dập từ khắp nơi: Sài G̣n, Hà Nội, Côn Minh, Thượng Hải và Kandy gửi về, tôi cảm thấy ḿnh trở thành lạc lơng và vô tích sự. Tất cả đều báo hiệu trước một sự trở lại nguyên trạng cũ ở Đông Dương. Việc chúng tôi rời khỏi sân khấu khu vực này đă được người ta coi như một sự chấp nhận chính thức của Mỹ cho việc Pháp quay trở lại.
Trong giới chính quyền ở Washington, những lời tuyên bố cao thượng trong thời kỳ chiến tranh về tự do, công bằng và tự quyết đă nhanh chóng bị ch́m ngập trong cuộc xô đẩy vội vàng để đưa nước Mỹ trở lại thời kỳ trước chiến tranh. Dĩ nhiên, chúng tôi đă có một Tổng thống mới và một Bộ trưởng Ngoại giao mới, nhưng cả hai đều có thể bị khuất phục trước những áp lực to lớn về chính trị - kinh tế từ trong và ngoài nước. Ê kíp mới ở Nhà Trắng đă không có ǵ gắn bó và phần lớn cũng đă không tham gia vào cái viễn vọng của Roosevelt về một thế giới hoà b́nh, thoát khỏi mọi sợ hăi và thiếu thốn. Nền chính trị đối nội và đối ngoại của chúng tôi đang ở trong t́nh trạng hỗn loạn, đầy rẫy những nghi ngờ, xung đột, đấu tranh và ngập ngừng.
Sản xuất chiến tranh đă đột ngột dừng lại và luồng nhân lực mới được giải ngũ ào tới đă gây nên vấn đề không có công ăn việc làm cực kỳ to lớn; sự bất lực của công nghiệp nhằm nhanh chóng chuyển các xí nghiệp sang sản xuất vật dụng thời b́nh, đă làm cho giới lănh đạo nhà nước hoảng sợ. Thị trường thế giới bị tan vỡ và khủng hoảng làm tăng thêm các khó khăn trong nước. Các nước châu Âu và châu Á đúng trước nhiệm vụ phải phục hưng đất nước, đang trông cậy vào nước Mỹ vẫn c̣n được nguyên vẹn để cứu trợ và lănh đạo họ trong việc khôi phục lại nền kinh tế.
Từ trước Thế chiến thứ hai, chính sách đối ngoại của Mỹ đă phản ảnh một thứ chủ nghĩa bành trướng áp đảo trong lănh vực tài chính và thương mại Chính sách tiềm tàng này đă dẫn đến việc thiết lập một cách không tự giác trên toàn thế giói, một mạng lưới các khu vực ảnh hưởng kinh tế, phục vụ quyền lợi các tập đoàn kinh doanh và các giới kinh tài có đặc quyền đặc lợi. Việc bảo vệ quyền lợi của các tập đoàn đó đ̣i hỏi phải có những người đại diện trung thành của họ tham gia vào việc ấn định và thi hành mọi chính sách và luật lệ của đất nước. Ngay trước Thế chiến thứ nhất, Washington đă trở thành nơi đất thánh của các thế lực muốn gây ảnh hưởng trong Nghị viện, và của các nhóm có đặc quyền đặc lợi. T́nh h́nh đúng như điều Bộ trưởng Quốc pḥng C.E. Wilson đă nêu ra sau Thế chiến thứ hai, “Cái ǵ tốt cho hăng Général Motor, đều là tốt cho đất nước”. Và cũng từ đó, các nhà kinh tế học đă đề xuất ra cái học thuyết là tư bản ngự trị trên tất cả và phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào.
Những năm tháng trong Thế chiến thứ hai đă khẳng định học thuyết này; các nhà học giả đă rút ra được và suy tôn ư kiến là nền an ninh quốc gia của Mỹ đă được gắn chặt không thể gỡ ra được với sự kiểm soát thị trường và tài nguyên bên ngoài bằng liên kết trong nền thống trị về chính trị và quân sự. V́ thế cho nên, ngay trước khi danh từ “tổ hợp quân sự - công nghiệp” ra đời, các cấp chóp bu trong chính quyền chúng ta cùng với các phần tử thống trị của tập đoàn kinh doanh và ngân hàng, mang quân phục hay thường phục, đă lớn tiếng kêu gọi phải bảo vệ quyền lợi kinh tế Mỹ trên khắp thế giới chống lại sự xâm lược của các nước Xă hội chủ nghĩa.
Sau thất bại của các nước trong phe Trục, chỉ có hai nước Liên Xô và Mỹ nổi lên như là các siêu cường quốc, một t́nh thế mà Tổng thống Roosevelt đă dự kiến, nhưng Tổng thống Truman đă không muốn và cũng không chấp nhận. Sự hợp tác trong thời kỳ chiến tranh giữa hai nước đă chấm dút và Liên Xô đă trở lại thành nước thù địch đối với các nước không Cộng sản, đặc biệt là Mỹ, như thời kỳ trước chiến tranh. Các lănh tụ Liên Xô tuyên bố “bọn con buôn chiến tranh” ở Mỹ (giới trùm kinh tài) đang âm mưu chống lại Liên Xô, việc khuếch trương chủ nghĩa Cộng sản là cần thiết cho nền an ninh Xô viết, và chủ nghĩa Cộng sản nhất định sẽ chiến thắng chủ nghĩa Tư bản trên phạm vi toàn thế giới.
Chính quyền mới theo dơi một cách lo ngại sự bành trướng thế lực, tư tưởng và kinh tế của Liên Xô vào Trung Âu và châu Á. Và trong một mưu đồ tuyệt vọng nhằm ngăn chặn “làn sóng đỏ”, không cho nuốt chửng các đất đai phụ thuộc, Tổng thống Truman đă không công bố chính sách ngăn chặn và thi đua kinh tế, đặc biệt bằng cách thông qua sự viện trợ cho các nước kém phát triển. Điều này đă đặt các siêu cường và các nước có quan hệ gắn bó với họ vào một cuộc xung đột giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Tư bản.
*
Trong những công văn đầu tiên chuyển qua cơ quan của tôi, có một bức điện đề ngày 5-10 của Bộ trưởng Ngoại giao Acheson gửi cho Roberton, đại biện Đại sứ quán chúng ta ở Trung Quốc, báo cho ông ta biết rằng Mỹ “không phản đối mà cũng không ủng hộ việc thiết lập lại nền cai trị của người Pháp ở Đông Dương”. Nhưng Mỹ tỏ ra “hài ḷng” khi thấy quyền cai trị của Pháp “được thiết lập trên cơ sở của một kết luận trong tương lai về sự ủng hộ của dân chúng đối với các yêu sách của Pháp”. Đây chẳng qua chỉ là nhũng lời quanh co, giả nhân nghĩa để nhằm làm dịu bớt nỗi lo lắng của Pháp đối với việc không tán thành của Mỹ.
Nhưng đă đến lúc Pháp phải giữ một vai tṛ then chốt trong kế hoạch Mỹ nhằm thực hiện một sự tập hợp đội ngũ chính trị và kinh tế mạnh mẽ với Anh ở hàng đầu ở châu Âu và châu Á. Trở ngại chủ yếu vẫn là Charles De Gaulle. Sự thù địch của Truman đối với ông này đă vượt xa những sự bực bội của Roosevelt, và đă phản ánh đúng thái độ chính thức của Mỹ đối với nước Pháp. Tổng thống cho De Gaulle là người nóng nảy, kiêu kỳ và không dáng tin cậy về mặt chính trị. Ông nghi ngờ những sự cố gắng của De Gaulle v́ trong mùa đông 1944, đă có hành động chập chờn giữa Đông và Tây qua việc De Gaulle bay tới Mátxcơva để điều đ́nh về một Hiệp ước hữu nghị với người Nga mà một năm sau điều đó đă được coi như là một thất bại hoàn toàn. Tổng thống cũng được biết việc Stalin tỏ ra khinh miệt ra mặt đối với “người Pháp suy đồi” và Stalin đă phản đối việc mời người Pháp tham dự hội nghị Yalta cũng như hội nghị Postdam, việc cho đến cuối năm 1945, De Gaulle vẫn tiếp tục theo đuổi sự ủng hộ của Cộng sản ở trong và ngoài nước. Tổng thống Truman cũng không lạ ǵ các luận điểm được nhắc di nhắc lại của De Gaulle nhằm cô lập nước Mỹ khỏi thế giới qua chủ trương của ông cho rằng chỉ có thể xây dựng sự thống nhất của châu Âu dựa trên ba cực: London, Paris và Mátxcơva. Truman tin chắc rằng De Gaulle sẽ ngả theo Liên Xô nếu điều đó trùng hợp với lợi ích của Pháp.
Ở đây cũng c̣n vấn đề De Gaulle luôn luôn nhấn mạnh việc ông phải được đối xử như đối với Mỹ, Anh và Nga trong một châu Âu sau chiến tranh. Tháng 8-1945, ở Washington, De Gaulle đă không hề giấu giếm cái viễn cảnh một nước Pháp đảm nhận vai tṛ lănh đạo khối Tây Âu chống lại cả Liên Xô và Mỹ - mà chủ yếu là Mỹ. Trong các cuộc đàm thoại về vấn đề này, De Gaulle đă không che giấu mối bất b́nh của ḿnh đối với ảnh hưởng của Mỹ, đă gạt bỏ các nguyện vọng của Pháp trong kế hoạch sau chiến tranh muốn được tái kiến thiết lại đất nước trên sự hoang tàn của Đức, và trở thành một trung tâm kinh tế và công nghiệp ở châu Âu. Truman đă đặc biệt phiền ḷng với cái tính tự cao tự đại của De Gaulle trong việc đ̣i cho nước Pháp quyền kiểm soát vùng tả ngạn sông Rhin và quốc tế hoá vùng Ruhr, để Pháp có phần trong sản xuất và phân phối các tài nguyên vùng đó. Sau hết, khi vấn đề các căn cứ quân sự Mỹ trong kế hoạch pḥng thủ toàn cầu được nêu lên, De Gaulle đă tỏ ra không tha thiết với việc cho nhường lại hoặc hợp tác với Mỹ trong vấn đề có liên quan đến đất đai của Pháp - một điều mà Truman không quên một cách dễ dàng. Trong bầu không khí chống đối và không tin cậy đó, Truman không có ư muốn viện trợ tài chính đặc biệt hoặc ủng hộ chính trị cho Pháp, và thay vào đó, đă gợi ư là tốt nhất Pháp phải loại những người Cộng sản ra ngoài chính phủ và đánh giá lại phương hướng hoạt động của ḿnh trong tương lai.
Sau các cuộc hội đàm, De Gaulle có cảm giác là Mỹ đă không đối xử với Pháp như là một cường quốc hạng nhất, c̣n Truman lại bị ám ảnh bởi những nghi ngờ nghiêm trọng xung quanh xu hướng ngả về Liên Xô và chủ nghĩa Cộng sản của Pháp. Đó thực là một khởi điểm đáng buồn trong mối quan hệ của Pháp - Mỹ sau chiến tranh. Và, với những vấn đề quan trọng đó ở tuyến đầu, trong quan điểm của Mỹ, tương lai Việt Nam chỉ là một vấn đề hết sức ngoài lề.
*
Dưới chủ trương của phương châm chỉ đạo lúc đó, tôi thấy các báo cáo của các Đại sứ quán chúng ta từ Paris và Trùng Khánh gửi về đầy những mâu thuẫn. Chúng không chỉ chống lại cái mà chúng tôi đă làm ở Đông Dương, mà c̣n gây thiệt hại cho quyền lợi quốc gia của chúng ta; nhưng qua đó chúng tôi cũng thấy được rằng Nhà Trắng đă biết được đến đâu, chẳng rơ có ai chú ư đến vấn đề này không.
Đại sứ Caffery ở Paris báo cáo là ngày 22-9 ông đă có một cuộc hội đàm với Philippe Baudet ở Bộ Ngoại giao Pháp. Baudet đă mô tả Việt Minh “đă được tổ chức ít nhiều theo chủ trương đường lối Cộng sản” và “có liên lạc mật thiết với Phái đoàn Xô viết tại Trùng Khánh”, nhưng lúc đó ông cũng có ư kiến là “Việt Minh không phải là một tổ chức Cộng sản”. Baudet nói rằng ở miền Bắc Đông Dương, đảng Cộng sản “đă ít nhiều biến mất, không c̣n là đảng Cộng sản nữa và đă thể hiện ra như là đă bị thu hút vào trong Việt Minh”. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bức điện từ Paris gửi về chỉ nhắc lại những tin tức thất thiệt của Pháp, trong khi mà qua suốt 6 tháng trước đây, đă có rất nhiều báo cáo và điện tín liên quan tới Đông Dương được gửi tới cho Caffery ở Paris.
Để kết luận, Baudet đă bày tỏ với Caffery “sự đánh giá sâu sắc của Pháp đối với việc chuyên chở mà Mỹ đă giúp đỡ ở Thái B́nh Dương” và nhấn mạnh vào tầm quan trọng có được tàu bè “của người Anh cấp để đưa sang Đông Dương số quân Pháp cần thiết cho việc lập lại trật tự ở đây”. Rơ ràng đó là những tàu bè mà tướng Leclerc đă sử dụng để đưa quân đội của ông ta tới Sài G̣n. Và sau đó, vào tháng 10 và tháng 12, các tàu này đă chuyển quân Pháp tới Hải Pḥng.
Ngày 15-1-1946, Bộ trưởng Chiến tranh đă được Bộ Ngoại giao báo cho biết “việc sử dụng các tàu chiến và máy bay mang cờ Mỹ để chuyên chở quân đội của bất cứ nước nào đến hoặc đi khỏi Nam Dương quần đảo hay Đông Dương thuộc Pháp, cũng như việc cho Pháp dùng các tàu bè trên để chở vũ khí, đạn dược, và các thiết bị quân sự tới các vùng này”, đều trái với chính sách của Mỹ. Nhưng chỉ 3 ngày sau, khi H.F. Mathews, thủ trưởng vụ châu Âu, xin chỉ thị Acheson về việc Anh đề nghị chuyển giao cho Pháp khoảng 800 xe jeep và ô tô vận tải, lúc đó ở Sài G̣n và trước đây Anh đă nhận được từ viện trợ vay mượn. Acheson đă trả lời “Tổng thống cũng nghĩ rằng chúng ta sẽ đồng ư cho chuyển giao số xe” với lư do là việc điều động các thiết bị này sẽ “không thể thực hiện được”. Việc chuyển giao các khí tài quân sự nói trên đă thể hiện rơ ràng là các chỉ thị hiện hành đă được uốn nắn lại.
Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946, cơ quan tôi đă nhận được các bản sao của nhiều bức điện và thư của Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, và Liên hợp quốc. Đó là những lời khẩn thiết kêu gọi can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đă h́nh thành trong Hiến chương Đại Tây Dương và v́ lư do nhân đạo. Các văn kiện trên chủ yếu yêu cầu một sự ủng hộ chính trị trong việc giành độc lập của người Việt Nam, nêu ra ví dụ của Mỹ ở Philippin và bày tỏ hy vọng là người Pháp sẽ noi gương người Mỹ. Tôi hỏi Bộ Ngoại giao xem các thư từ và điện tín này đă được tŕnh bày chưa hoặc ít ra th́ cũng đă được ai đó có thẩm quyền xem xét một cách nghiêm chỉnh không; và tôi đă được nói cho biết rằng “Chính phủ” Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được Mỹ công nhận và sẽ là một điều không thích đáng “nếu như Tổng thống hoặc một người có chức quyền nào khác xem xét tới các tài liệu đó”. Hơn nữa, Mỹ “đă cam kết” dựa vào người Pháp hơn là dựa vào những người Việt Nam Quốc gia để nhằm thực hiện những bước đi xây dựng tiến tới nền độc lập của Việt Nam.

Cuộc tuyển cử ngày 6-1-1946 đă bầu ra Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, A.B. Moffat, đứng đầu Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ Ngoại giao có đến gặp tôi. Ông hỏi những tin tức mật về Hồ Chí Minh và tôi đă cung cấp cho ông những ǵ mà tôi có. Rất nhiều, đặc biệt là công việc ông Hồ làm ở Quốc tế Cộng sản (Comintern) và sự tham gia của ông với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng, trước hết, tôi nhấn mạnh đến tính chất dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ - cái điều trước tiên phải là một người Việt Nam yêu nước rồi thứ đến mới là người Cộng sản.
Ông Hồ cố gắng một cách tuyệt vọng muốn “đóng hàng” đất nước mới ra đời của ông với các nước phương Tây và muốn xoá bỏ những lời lên án của Pháp cho ông và Việt Minh của ông là tay sai của Mátxcơva, nhưng chúng ta đă không ghi nhận tín hiệu đó của ông.
Khi tôi đang theo dơi kết cấu t́nh h́nh ở Đông Dương th́ lại đúng là lúc tôi phải tiếp tục những công việc khác không có liên quan ǵ tới Viễn Đông. Nhưng cũng chính v́ thế mà sự quan sát của tôi tỏ ra đúng mức, và tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng rằng không có một sự chống đối nào lại có thể làm cho Việt Nam chuyển hướng khỏi cuộc đấu tranh v́ độc lập của họ, dù cho họ phải trả bằng giá nào và điều dó phải kéo dài đến đâu.
Thật đáng tiếc là chính đất nước chúng ta đă không chịu nh́n nhận cho hết thực tế này và đă không vạch ra được một phương hướng có thể đáp ứng lại những quyền lợi tối cao của chúng ta. Có thể nghĩa là hoàn toàn đứng ngoài sự việc trên và giữ vững một thái độ thực sự trung lập, một cách cụ thể và theo quan điểm đă được vạch ra của chúng ta.
T́nh h́nh Đông Dương diễn biến theo chiều hướng đă được dự đoán. Người Trung Quốc đă kéo dài thời gian đủ để “bóp nặn” người Pháp được ở mức tối đa: từ 28-2 tới 14-3 năm 1946, Pháp đă phải kư một loạt các Hiệp định nhượng lại các đặc quyền đặc lợi trước chiến tranh của họ ở Trung Quốc. Theo hiệp định 14-3, việc rút lui của quân chiếm đóng Trung Quốc sẽ bắt đầu vào ngày 15-3 và kết thúc vào ngày 31, nhưng trong thực tế th́ măi tới tháng 10-1946, đơn vị cuối cùng của Trung Quốc mới rời khỏi Hải Pḥng. Trong khi đó bọn tay sai thương mại và tài chính của Tưởng đă triển khai được một cách chắc chắn một cơ sở kinh tế khá vững vàng để tiến hành bóc lột Đông Dương trong một thời gian kéo dài hơn 30 năm sau, như hiện nay chúng ta đă thấy qua câu chuyện “thuyền nhân”.
Bị Mỹ bỏ rơi, không được thế giới Cộng sản biết tới, lại bị người Tnmg Quốc tham lam vô độ o ép, Hồ Chí Minh đă phải đi tới chấp nhận một “Hiệp định” khá mong manh, ngày 6-3-1946, không phải với chính phủ Pháp, mà với một quan chức cấp thấp hơn, đại diện cho giới quân sự ở Đông Dương. Nhưng ông Hồ cũng đă sớm thấy ngay là bản Hiệp định không có sự phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp và các điều khoản buộc Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự do”, có “Nghị viện riêng, quân đội riêng, và nền tài chính riêng của ḿnh”, nên bản Hiệp định đó đă không bao giờ được thi hành.
Thay vào đó, quân đội Pháp đă nhanh chóng vào chiếm đóng Hà Nội ngày 18-3. Và đúng một tháng sau khi chính thúc kết thúc việc chiếm đóng của Đồng minh, quân đội Leclerc (phần lớn do Mỹ viện trợ vận chuyển, trang bị vũ khí và khí tài) đă chiếm đóng các thành phố chủ yếu của Việt Nam. Chính sách của Mỹ đối với Đông Dương lúc đó đă ngả từ phương hướng chiến lược thời chiến sang lănh vực kinh tế chính trị của mối quan hệ giữa Mỹ và Pháp.
Hiệp định 6-3 đă nhanh chóng dẫn đến Hội nghị Đà Lạt (từ tháng 4 đến tháng 5). Ở đó “bè lũ Sài G̣n” do D'Argenlieu, “một Raesputin(1) người Pháp” cầm đầu, đă tạm thời cắt rời Nam Kỳ khỏi Việt Nam. Tiếp sau đó là Hội nghị Fontainebleau (tháng 7 đến tháng 9) tai hại. Ở đó, ông Hồ đă kư kết một cuộc ngừng bắn nhưng nó đă sớm chết yểu. Quyết tâm của ông Hồ cộng tác với người Pháp ít nhất cũng trong một thời gian, đă làm cho cả những người Quốc gia thân Trung Quốc cũng như các thế lực thực dân Pháp hoảng sợ. Việc tiếp tục tồn tại của ông Hồ và Việt Minh của ông có nghĩa là họ sẽ chết, và đó là điều họ muốn tránh bằng bất cứ giá nào. Qua những con đường có thế lực ở Trùng Khánh và Paris, một chiến dịch chống ông Hồ và Việt Minh lại được bung ra với những thủ đoạn cũ, cho họ là những tay sai trung thành của Mátxcơva.
Mùa hè 1946, những luận điệu tuyên truyền này lan tới Washington, và trong tất cả những ǵ chính thức nói đến ông Hồ đều được gắn thêm chữ “Cộng sản”. Ngày 5-12-1946, khi Moffat tới thăm Đông Dương, Bộ trưởng Acheson đă có điện chỉ dẫn trong trường hợp có thể gặp ông Hồ, Moffat “phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ đă được xác định là một tay sai của Quốc tế Cộng sản…”, mặc dù vẫn tồn tại một điều thực tế là dấu vết âm mưu do Kremlin điều khiển đều có thể t́m thấy được ở mọi nơi, trừ Việt Nam ra. Chúng ta không có chứng cớ ǵ về mối liên lạc Việt Nam - Mátxcơva. Liên Xô không những đă không ủng hộ ông Hồ trong cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây, mà c̣n không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong nhiều năm sau nữa.
Từ Fontainebleu “tay không” trở về, ông Hồ lại phải đương đầu với sự phản đối kịch liệt của các phần tử chống lại ông trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội. Chúng ḥ hét kết tội ông là “phản bội” và “hợp tác” yêu cầu ông từ chức. Để tránh đổ máu và tranh thủ thông qua được Hiệp định Fontainebleu, ông Hồ cho triệu tập phiên họp thứ hai Quốc hội để phê chuẩn bản Hiệp định đ́nh chiến và do đó gạt bỏ trước được sự chống đối của Pháp. Quốc hội đă biểu quyết tín nhiệm ông Hồ và yêu cầu ông đứng ra lập nội các mới.
Ngày 8-11, nội các mới được thành lập gồm có 7 Cộng sản, 2 Dân chủ, 1 Xă hội, 1 Việt Nam Quốc dân Đảng, và 1 độc lập. Như vậy là Việt Minh vẫn nắm trọn quyền kiểm soát lúc đó, những cuộc ngừng chiến th́ chỉ kéo dài vừa vặn 70 ngày.
Kết thúc của cuộc ngừng bắn bắt đầu từ hôm 20-11, khi nổ ra một cuộc xô xát vũ trang ở Hải Pḥng giữa Hải quân Pháp với bộ đội Việt Minh xung quanh vấn đề thuế quan. Hai bên bắn nhau trong 2 ngày trước khi đi tới một cuộc dàn xếp ở địa phương. Nhưng đô đốc D'Argenglieu, lúc đó đang ở Paris, tức giận về cái ông ta cho là một sự xúc phạm của người Việt Nam, đă điện cho thiếu tướng J. Valluy, người phó của ông ta ở Sài G̣n, phải “dạy cho bọn An Nam một hỗn láo này một bài học”. Ba ngày sau, Pháp gửi một tối hậu thư cho các nhà chức trách Việt Minh, bắt trong ṿng 2 tiếng đồng hồ phải rút hết quân đội ra khỏi khu vực Hải Pḥng. Khi điều đó bị bác bỏ, quân Pháp được pháo từ chiếm hạm Suffren ngoài khơi bắn yểm hộ, đă tấn công vào khu vực Hoa kiều trên bến cảng, gây thương vong khoảng 25.000 người trong đó có 6.000 người chết.
Bị bất ngờ trước cuộc tấn công tàn bạo của Pháp, nhưng ông Hồ vốn là người muốn thương lượng điều đ́nh, nên đă cố gắng t́m cách tránh một cuộc đụng độ toàn diện và kêu gọi người Pháp ngừng bắn. Giới quân sự Pháp, được khích lệ bởi việc D'Argrenglieu khinh thường ông Hồ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của ông, đă t́m được một cái cớ để phá vỡ hiệp định Fontainebleau nên dă không đếm xỉa tới lời kêu gọi hoà hoăn của ông Hồ, lại cho tăng thêm các cuộc đánh phá. V́ vậy ngày 19-12, đội Tự vệ địa phương đă phá huỷ nhà máy diện Hà Nội, báo hiệu mở đầu cuộc tổng tiến công vào người Pháp; ông Hồ và Chính phủ ông chuyển vào rừng sâu. Thế là từ đó, cuộc chiến tranh Đông Dương, được phát động từ ban đầu bằng cú của Cédile ở Sài G̣n, nhưng ít nhiều đă bị ḱm lại không mở rộng ra ngay được v́ thực lực quân Pháp lúc đó và chủ trương thương lượng của ông Hồ, đă bắt đầu trở thành một thực tế có quy mô toàn diện.
*
Trong khi người Việt và người Pháp phải đương đầu với cuộc chiến tranh kéo dài của họ, th́ quyết định của chúng ta giúp đỡ người Pháp dưới h́nh thức viện trợ quân sự, một sự viện trợ bắt nguồn từ các yêu cầu kinh tế và các vấn đề chính trị châu Âu, đă được trưng ra như một quyết định về đấu tranh tư tưởng b́nh thường - đó là vấn đề chống Cộng. Năm 1947, Hy Lạp đang bị rối loạn về kinh tế và bị du kích Cộng sản tấn công. Nước Thổ bị Nga làm áp lực bắt nhượng lại eo biển Dardanelles. Những cố gắng này của Cộng sản, nếu thành công sẽ mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô tới tận miền Đông Địa Trung Hải. V́ thế, Tổng thống Truman đă phải tuyên bố, trong cái mà sau này được kêu là học thuyết Truman, “chính sách của Mỹ là phải ủng hộ các dân tộc tự do” chống lại sự xâm lược trực tiếp và gián tiếp của Cộng sản. Kết quả là nhờ viện trợ kinh tế Mỹ, Hy Lạp đă phục hồi lại dược nền kinh tế, và nhờ viện trợ quân sự Mỹ, đă đánh bại được các cuộc tấn công của Cộng sản. Được viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ hỗ trợ một cách mạnh mẽ, Thổ đă chống lại được các yêu sách kiểm soát Dardanelles của Nga.
Yêu cầu của nền kinh tế trong nước đ̣i hỏi phải không ngừng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm Mỹ dưới h́nh thức thương mại hay viện trợ. Do đó, đến năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Marshall đă đề nghị cấp viện trợ kinh tế cho tất cả các nước châu Âu, bao gồm cả Nga và các nước phụ thuộc Nga. Ông nói “Chính sách của chúng ta không nhằm chống lại bất cứ nước nào hay học thuyết nào, mà chống lại đói khát, nghèo nàn, thất vọng và rối loạn”. Thực tế Mỹ chỉ muốn giúp cho châu Âu thôi không phải xin các quỹ cứu trợ tràn lan và ít hiệu quả của Mỹ nữa, để khuyến khích phát triển một nền mậu dịch hai bên cùng có lợi giữa Mỹ và châu Âu, và cũng là để giảm nhẹ nguy cơ đe doạ của Cộng sản ở Tây Âu, nhất là ở Pháp và Ư. Những người nắm chính sách đối ngoại của Mỹ sợ rằng nếu Tây Âu rơi vào ṿng thống trị của Liên Xô th́ cùng với nhau, họ sẽ thành một khối quân sự, kinh tế cực kỳ mạnh, và sẽ gây nguy hại một cách không thể tránh khỏi cho quyền lợi quốc gia Mỹ trên toàn thế giới. Trong 4 năm (1948-1951), Kế hoạch Marshall, c̣n được gọi là Kế hoạch Phục hưng châu Âu (ERP), đă cung cấp cho Tây Âu 12,5 tỷ dollar, phần lớn cho việc chi phí ở đây về thực phẩm, nguyên liệu và thiết bị máy móc. Nhưng điều đó cũng đă giúp giữ vững dược nền kinh tế của chúng ta và đồng thời tăng cường được sự ổn định chính trị ở các nước ngoài và làm giảm được ảnh hưởng của Cộng sản.
Nga đă kết tội Kế hoạch Marshall là một mưu mô của Mỹ nhằm giành quyền kiểm soát kinh tế và chính trị châu Âu, và điều đó chúng có phần đúng. Họ đă từ chối không nhận một sự viện trợ nào cho họ, cũng như cho các nước phụ thuộc họ, và đă đưa ra một chương tŕnh viện trợ kinh tế riêng tức là Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON). Cuộc thi đua này lại càng khiến cho Mỹ gia tăng nỗ lực mạnh hơn nữa trong việc thống trị toàn cầu. Trong bài diễn văn nhận chức năm 1949, Tổng thống Truman khẳng định sự chống đối của Mỹ với sự bành trướng của Liên Xô bằng cách mở rộng ngoại viện Mỹ qua việc cung cấp kỹ thuật, kiến thức và trang bị cho các nước nghèo. Chương tŕnh mới, gọi là Chương tŕnh Điểm Bốn(2), cũng khuyến khích sự đầu tư mạnh mẽ của tư bản tư nhân vào các nước kém phát triển với mục tiêu cuối cùng là giành được sự ủng hộ của họ.
Cuộc đấu tranh để giành lănh đạo về tư tưởng và kinh tế giữa hai siêu cường đă tràn sang lĩnh vực chiến lược vào năm 1948, khi thế giới tự do bị chấn động bởi ba cuộc tấn công do Liên Xô sắp đặt - đảo chính ở Tiệp Khắc, áp lực đối với Phần Lan để nhập vào quỹ đạo Xô viết, và cuộc khủng hoảng Berlin. Trong năm 1949, Mỹ đă cùng 12 nước trong thế giới tự do lập thành Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), một hiệp ước pḥng thủ chung, bảo đảm an ninh tập thể của các nước, nhưng đồng thời cũng là một thị trường tiêu thụ các khí tài chiến lược mới do các nước chủ chốt trong hiệp ước - Mỹ, Anh, Pháp và sau này có thêm Đức, sản xuất.
Đến đó, một quy tŕnh đă được khép kín - từ tư tưởng tới kỉnh tế (ERF, Điểm Bốn), rồi chiến lược (NATO, sau đó là ANZUS và SEATO). Và giống như trong cuộc xung đột tư tưởng và kinh tế, Liên Xô đă trả đũa bằng các liên minh chiến lược - Hiệp ước Trung - Xô (1950) và Hiệp ước Varsaw (1955).
Cũng phải đến tháng giêng 1953 mới có một nhà lănh đạo Mỹ xác định một cách trung thực quyền lợi quốc gia của chúng ta như chúng đă và vẫn c̣n được ấn định như hiện nay. Trong bài diễn văn nhận chức của ông, Tổng thống Eisenhower tuyên bố:
“Chúng ta biết rằng chúng ta gắn bó với tất cả các dân tộc tự do không phải chỉ đơn thuần bằng một lư tưởng cao thượng mà bởi một nhu cầu khá giản đơn. Không một nước tự do nào lại có thể bám giữ măi lấy một đặc quyền hay được hưởng an toàn trong sự cô lập về kinh tế. Nguyên vật liệu của chúng ta có thể đáp ứng đầy đủ cho mọi người, nhưng chúng ta cần thị trường trên thế giới để tiêu thụ vật phẩm dư thừa của các đồn điền và nhà máy của chúng ta. Trái lại, chứng ta cần đến những vật liệu và sản phẩm sống c̣n của các vùng đất khác do chính ngay các đồn điền và nhà máy đó. Quy luật cơ bản về sự tương hỗ này, đă thể hiện quá rơ rệt trong nền thương mại thời b́nh, sẽ được áp dụng ở mức độ cực kỳ mạnh mẽ hơn nữa trong thời chiến”.
Eisenhower đă nói rơ ra điều mà nhiều người chúng ta đă biết nhưng cũng ít khi chịu chấp nhận, đó là vấn đề quyền lợi quốc gia chúng ta sẽ được phục vụ tốt hơn hết bằng sự trao đổi thương mại, đặc biệt là khi việc buôn bán này cung cấp cho chúng ta những nguyên liệu (tài nguyên nước ngoài) cần thiết để sản xuất các vật phẩm có thể xuất cảng, làm ra từ nước Mỹ và đem bán trên thị trường thế giới.
Sự lo lắng về an ninh quốc gia của Mỹ đă thể hiện qua việc Mỹ chống đối tích cực với địch thủ chủ yếu của ḿnh là Liên Xô trong việc tranh giành các vùng ảnh hưởng trên thế giới.
Thoạt đầu, điều đó chỉ thể hiện một cách duy nhất trong quần chúng như là một cuộc chống đối với một khối Cộng sản thống nhất. Nhưng thực tế đă không phải như vậy, v́ những rạn nứt đă thỉnh thoảng xuất hiện trong khối thống nhất này; chẳng hạn như việc chính phủ Cộng sản Nam Tư của Tito ly khai hoàn toàn với Liên Xô năm 1948; và sau đó Tito đă đ́nh chỉ viện trợ cho du kích Cộng sản ở Hy Lạp.
Người Pháp đă thấy rất sớm họ cần phải lợi dụng một cách tốt nhất những sự lo sợ về tư tưởng lúc đó đang tồn tại ở Mỹ như thế nào. Mối đe doạ Pháp có thể “thành Cộng sản” đă mang lại những hậu quả nhanh chóng. Việc phong trào quốc gia Việt Nam bị gán cho nhăn hiệu là “đỏ” hay “do Mátxcơva điều khiển” đă hoàn toàn gạt bỏ mọi hành động của Chính phủ Mỹ trong việc thăm ḍ các khả năng mở được đường tới chính phủ Hồ Chi Minh. Đó cũng là một h́nh thức doạ nạt đă được thực hiện khá tốt trong một thời kỳ căng thẳng.
Ngay sau khi nổ ra cuộc xung đột Pháp - Việt, ngày 8-1-1947, Bộ Ngoại giao đă điện cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho Pháp biết rằng chúng ta có thiện cảm với người Pháp, và sẵn sàng sử dụng “thiện chí” của chúng ta để giúp thanh toán cuộc tranh chấp. Ông cũng được phép báo cho Pháp biết là Mỹ sẽ đồng ư bán vũ khí cho Pháp “trừ các trường hợp tỏ ra có liên quan tới Đông Dương”. Người Pháp đă không để phải đợi trả lời. Ngay ngày hôm đó, Đại sứ quán Pháp ở Washington đă thông báo cho biết đánh giá của Pháp về việc ông Achenson “đă có thái độ hiểu biết trong khi thảo luận về vấn đề Đông Dương”, và đă lịch sự gạt bỏ “thiện chí” của chúng ta với một lời nói cạnh rằng Pháp sẽ cố gắng giải quyết vấn đề của ḿnh mà không cần tới sự giúp đỡ từ bên ngoài “một khi Pháp được xác nhận lại quyền lực của ḿnh”. Nhắc lại luận điệu cũ về sự liên can của Mỹ trong việc Pháp gặp rối ren ở Đông Nam Á, người đại diện Pháp cho rằng Mỹ phải gánh phần trách nhiệm về việc chậm trễ xác định lại quyền lực của Pháp ở Đông Dương, v́ chúng ta “đă không đáp ứng những yêu cầu viện trợ vật chất của Pháp vào mùa thu 1945”.
Về vấn đề Pháp hiểu lầm lập trường của chúng ta ở Đông Dương và việc Pháp có thể rút lui ở châu Âu, đầu tháng 2-1947, Đại sứ Caffery đă nhận được chỉ thị phải bảo đảm với Thủ tướng Ramadier về “những t́nh cảm hữu nghị” của Mỹ đối với Pháp và lợi ích của Mỹ trong việc giúp Pháp khôi phục lại lực lượng kinh tế, chính trị và quân sự. Sau khi đảm bảo với Ramadier là Mỹ công nhận chủ quyền Pháp tại Đông Dương, chúng ta đă đưa ra lư lẽ là vấn đề thuộc địa này đă “lỗi thời” rồi. C̣n đối với Hồ Chí Minh, Caffery đă nhận được chỉ thị phải nói rằng chúng ta không bỏ qua thực tế là ông Hồ “có những mối liên quan trực tiếp với Cộng sản” và hiển nhiên là “chúng ta không thấy có lợi ích ǵ trong việc nền cai trị đế quốc thực dân lại được thay thế bởi nền triết lư và các tổ chức chính trị bắt nguồn từ Kremlin và do Kremlin kiểm soát”. Do đó, Mỹ đă lựa chọn lập trường đứng ngoài cuộc xung đột và càng không ngăn chặn Pháp trong vai tṛ xâm lược của Pháp tại Việt Nam.
Nhưng chỉ vài tuần sau, chính sách Mỹ đă được định h́nh. Ngày 13-5-1947, các nhà ngoại giao của chúng ta ở Paris, Sài G̣n và Hà Nội đă nhận được chỉ thị chính thức sau đây:
“Lập trường chủ yếu trong nhận thức của chúng ta là, ở Đông Nam Á, chúng ta nhất thiết phải cùng thuyền cùng hội với người Pháp, cũng như với người Anh và Hà Lan… Chúng ta phải thấy rằng sự liên kết chặt chẽ giữa Pháp và các thành viên trong Liên hiệp Pháp không phải chỉ có lợi cho các nước liên quân, mà c̣n có lợi cho chúng ta một cách gián tiếp… Đông Nam Á đang trải qua một giai đoạn nghiêm trọng… với 7 nước mới đang trong quá tŕnh đấu tranh hoặc thực hiện nền độc lập hoặc nền tự trị. Các nước này bao gồm 1/4 dân số thế giới và sự phát triển tương lai của họ… sẽ là một nhân tố hết sức quan trọng cho sự ấn định toàn cầu. Đi theo với việc nền cai trị của người châu Âu được nới ra… các nước mới này có thể bị ch́m sâu vào những cuộc bất hoà dữ dội… các xu hướng Liên Á chống phương Tây có thể trở thành lực lượng chính trị quan trọng nhất, hoặc Cộng sản cũng có thể nắm lấy chính quyển. Chúng ta cho rằng điều đảm bảo nhất cho sự an toàn đối với các t́nh huống có thể xảy ra nói trên phải là một sự liên kết chặt chẽ được tiếp tục giữa các dân tộc mới được tự trị với các cường quốc đă từ lâu trước đây chịu trách nhiệm về sự thịnh vượng của họ. Đặc biệt chúng ta công nhận (rằng) người Việt Nam trong một thời gian nhất định vẫn c̣n cần tới sự giúp đỡ về vật chất và kỹ thuật của Pháp cùng với một sự chỉ dẫn sáng suốt về chính trị mà chỉ một nước có truyền thống dân chủ lâu đời đă được công nhận là biết tôn trọng nhân quyền và giá trị cá nhân con người như nước Pháp mới có thể đáp ứng được”.
Những người làm chính sách của chúng ta ở Washington cảm thấy sẽ phải chịu một sự tổn thất không thể tránh khỏi và cũng không thể sửa lại được về các tài nguyên quan trọng cho các nước phương Tây, nên đă ra sức củng cố các cường quốc thực dân. Và với một sự trắng trợn điển h́nh gần như hốt hoảng, bản chỉ thị chính thức tiếp tục viết:
“… Có chứng cớ là những người Cộng sản Pháp đă được chỉ dạo phải tăng cường hoạt động ở các thuộc địa Pháp dù cho đến mức họ có thể mất sự ủng hộ của dân chúng ngay trên đất Pháp; đó cũng là dấu hiệu cho thấy Kremlin sẵn sàng hy sinh những thắng lợi tạm thời với 40 triệu người Pháp cho đường lối chiến lược lâu dài về thuộc địa với 600 triệu dân chúng các nước phụ thuộc; điều đó góp phần đ̣i hỏi một cách hết sức cấp bách phải có những sự nh́n nhận đi trước…
Bộ rất lo ngại, sợ rằng Pháp cho các cố gắng của Pháp để t́m “những đại diện thực sự” của Việt Nam rồi điều đ́nh với họ để thành lập một chính phủ bất lực theo kiểu chế độ Nam Kỳ, hoặc có thể có mưu đồ phục hồi lại Bảo Đại (sic), với những quyền dân chủ hạn chế để hỗ trợ cho nền quân chủ, được coi là vũ khí để chống lại chủ nghĩa Cộng sản”.
Cái bóng ma Cộng sản đang xâm nhập vào các vùng đất từ trước đến nay vẫn được coi là lănh địa của các nước dân chủ phương Tây đă thúc đẩy Bộ Ngoại giao chúng ta phải xem xét lại lập trường của ḿnh. Mặc dù Mỹ vẫn chính thức coi cuộc chiến tranh Đông Dương căn bản là một vấn đề của Pháp, nhưng cuộc đấu tranh lâu dài này lại tỏ ra có lợi cho những người quốc gia Việt Nam - mà đó lại là những người Cộng sản, nên Mỹ đă gợi ư cho Pháp để họ có những nhân nhượng có ư nghĩa đối với những người quốc gia Việt Nam, đă chấm dứt sự ủng hộ đối với người lănh tụ duy nhất hợp lư và có năng lực là Hồ Chí Minh. Do đó, chính sách Mỹ đă quay theo chính sách dùng biện pháp Bảo Đại của Pháp chẳng phải v́ ông này là một người Quốc gia có cỡ, mà chỉ v́ ông này không phải là Cộng sản. Đến đây, rơ ràng Mỹ đă ít quan tâm đến phong trào dân tộc Việt Nam hơn là việc ngăn chặn “làn sóng đỏ”.
Chính sách không can thiệp của Mỹ đă bắt đầu chấm dứt từ năm 1949. Cũng vào tháng giêng năm đó, Bắc Kinh rơi vào tay Cộng sản Trung Quốc và Mỹ đă phản ứng một cách gay gắt trước việc người Pháp thiếu khẩn trương trong việc hứa cho Việt Nam tự trị. Tiếp theo thoả hiệp Élysée (kư tháng 3-1949), ngày 10-5, Bộ Ngoại giao đă chỉ thị cho lănh sự Mỹ ở Sài G̣n phải làm cho mọi người thấy là Mỹ mong muốn “cuộc thí nghiệm Bảo Đại phải được xúc tiến ngay sau khi ở đây đă thể hiện rơ không c̣n có biện pháp thay thế nào khác”. Mỹ c̣n tỏ ư sẵn sàng muốn đóng góp bằng cách công nhận chính phủ Bảo Đại, cung cấp vũ khí và viện trợ kinh tế vào lúc thích đáng. Đó chỉ là cái mồi để nhử Pháp khẩn trương hoạt động. Acheson đă nhấn mạnh với lănh sự của chúng ta về “sự cấp bách và cần thiết phải nhanh chóng giải quyết cuộc xung đột giữa Pháp - Việt trong khoảng thời gian ngắn ngủi có thể c̣n lại trước khi Đông Dương bị xáo động bởi những thắng lợi của Cộng sản ở Trung Quốc”. Cái kiểu đối phó hàng ngày gặp đâu hay đấy này của Mỹ, phản ánh một nỗi lo sợ bẩm sinh đối với chủ nghĩa Cộng sản, đă làm khổ nước này suốt trong 1/4 thế kỷ tiếp sau đó trong những mối quan hệ của chúng ta với Việt Nam, và đó cũng là đặc tính chính sách đối ngoại Mỹ trong sự giao dịch với Liên Xô và thế giới Cộng sản.
***
Các sự kiện năm 1948 và 1949 ở Trung Quốc đă mang lại cho Mỹ một sự cảnh giác mới về sức sống mănh liệt của Cộng sản châu Á; và Mỹ cảm thấy cấp bách phải ngăn chặn họ lại. Các công cụ chính trị Mỹ đă triển khai để đương đầu với những thử thách quyết định của Cộng sản châu Âu đă được áp dụng mà không có mấy thay đổi với các vấn đề hoàn toàn khác biệt ở Viễn Đông. Đồng thời với việc phát triển khối NATO, Mỹ bắt đầu nghiên cứu xây dựng khối an ninh tập thể châu Á. Các chương tŕnh viện trợ kinh tế và quân sự mới được ấn định và học thuyết Truman đă hoàn toàn đạt tới những quy mô mới qua việc được mở rộng sang các vùng mà các đế quốc thực dân châu Âu đă bị tan ră. Do đó vào những tháng cuối năm 1949, phương hướng chính sách Mỹ là nhằm chặn đứng sự bành trướng mới của Cộng sản ở châu Á bằng tổ chức an ninh tập thể nếu như người châu Á đă sẵn sàng, và bằng sự cộng tác với các nước đồng minh châu Âu chủ yếu và nếu có thể với các nước trong khối Liên hiệp Anh, hoặc chỉ hợp tác tay đôi nếu như cần thiết. Phương hướng đường lối chính sách đó đă dẫn đến cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), đến việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) năm 1954, và việc can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào Việt Nam.
Ngày 30-12-1949, Pháp đă kư một loạt các hiệp ước về việc chuyển giao nền cai trị trong nước cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại tiếp theo Hiệp định Élysée kư trong tháng 3 trước. Vào tháng 1-1950, các đạo quân của Mao tiến tới sát biên giới Bắc Việt Nam, và Bắc Việt Nam cũng chuyển vào quỹ đạo Trung - Xô. Ngày 18-1, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và hai nước đă kư một thoả hiệp thương mại ở Bắc Kinh về viện trợ quân sự. Mười hai ngày sau, Liên Xô cũng công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Báo chí Mátxcơva đă giải thích một cách hài hước là Nga chỉ công nhận một Chính phủ mà Pháp đă công nhận từ năm 1946 mà thôi. Tại sao ông Hồ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của ông lại không được công nhận từ trước th́ không được giải thích.
Ngày hôm sau (1-2), tiếp tục phản ứng, Bộ trưởng Acheson công khai tỏ ra “ngạc nhiên” về việc Kremlin công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và công khai nói rằng hành động của Liên Xô “sẽ gạt bỏ mọi ảo tưởng về cái gọi là thực chất “Quốc gia” trong các mục tiêu Hồ Chí Minh đang theo đuổi và tố giác ông Hồ như là một kẻ tử thù của nền độc lập của người bản xứ Đông Dương”. Hiển nhiên là ông Acheson đă không thấy được rằng đă hơn 1/4 thế kỷ nay, chỉ có Hồ Chí Minh mới giữ cho ngọn đuốc độc lập bừng cháy trong trái tim và khối óc những người Việt Nam, Cộng sản cũng như không Cộng sản; và duy nhất chỉ có ông đă trở thành hiện thân của chủ nghĩa Quốc gia Việt Nam - một George Washington Việt Nam. Trong khi coi ông Hồ như một Washington khác th́ cũng phải nói thêm rằng không c̣n nghi ngờ ǵ việc ông là người lănh tụ phong trào kháng chiến Việt Nam duy nhất đă được quảng đại quần chúng tôn sùng và cũng là người đứng đầu của phong trào độc lập mạnh mẽ nhất và duy nhất có quy mô toàn quốc. Ông đă từ lâu trở thành “Bác Hồ” của người nghèo và b́nh dân, với một ánh hào quang trên đầu là tất cả các chế độ bù nh́n liên tiếp đă không bao giờ có khả năng đánh đổ được. Nhưng những sự thực đó đă tuột khỏi Bộ trưởng Ngoại giao của chúng ta, ông ta chỉ có kinh nghiệm cộng tác chặt chẽ với các cường quốc thực dân châu Âu trong việc miệt thị các dân tộc bản xứ thuộc địa. Người ta đă thôi không gọi họ là “dân bản xứ”, nhưng trong suy nghĩ th́ vẫn c̣n.
Việc nước Pháp chính thức thông qua vấn đề cho Việt Nam “độc lập” được công bố vào ngày 2-2. Xem xét kỹ th́ cái “độc lập” này chỉ là một kiểu trưng bày mới trong tủ kính mà đằng sau đó cơ cấu thực dân cũ vẫn c̣n nguyên vẹn. Song le, cũng vào ngày Pháp thông qua vấn đề này, trong một bản giác thư gửi Tổng thống, Acheson đă đề nghị chính thức công nhận “ba chính phủ Việt Nam, Lào và Cambodia được thành lập một cách hợp pháp”. Ông mô tả ông Hồ là “một tay sai Cộng sản… từ 1925”, là một người “đă quấy rối Pháp từ đó đến nay” và ghi chú thêm là Trung Cộng (ngày 18-1) và Nga Xô (ngày 30-1) đă công nhận Hồ Chi Minh là người đứng đầu Chính phủ hợp pháp ở Việt Nam… Ở đây, một lần nữa đă phản ánh căn bệnh chống Cộng cố hữu của chính quyền (Mỹ) và một phản ứng tức th́ đối với các hoạt động Trung - Xô.
Người ta có thể suy ra nhiều điều từ lập luận của Acheson trong việc đề nghị Tổng thống công nhận ngay các chính phủ bù nh́n của Pháp. Trong chương IV bản giác thư, ông nói rằng việc công nhận “tỏ ra là được mọi người mong muốn và phù hợp với chính sách đối ngoại Mỹ v́ nhiều lư do. Trong đó có: khuyến khích các xu hướng dân tộc không chịu sự lănh đạo Cộng sản của các dân tộc các vùng thuộc địa ở Đông Nam Á; thành lập những chính phủ không Cộng sản ổn định trong các vùng tiếp giáp với Trung Cộng; ủng hộ một nước bạn, thành viên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương; và một biểu thị không bằng ḷng đối với các chiến thuật Cộng sản…”.

Trong các lư lẽ này của ông ta, chẳng ai có thể t́m thấy bất cứ một sự liên tưởng nào tới các nguyên tắc dân chủ, tự do, độc lập hay quyền tự quyết của Mỹ. Trái lại, đây là một ủng hộ mạnh mẽ đối với sự thống trị tiếp tục của chủ nghĩa thực dân của một hội đồng minh châu Âu, do dollar Mỹ tài trợ, và phục vụ cho lợi ích tập đoàn đầu sỏ kinh tế. Nguyên nhân cơ bản của cuộc xung đột, vấn đề độc lập đối với sự thống trị của nước ngoài, đă ngang nhiên được gạt sang một bên để thích ứng với “một nước bạn” và cũng là để đảm bảo cho ngay chúng ta một vành đai chiến lược ở Đông Nam Á. Quả thực đó cũng là một h́nh ảnh khá lạ lùng của nền dân chủ Mỹ mà chúng ta phô bày trước các dân tộc phụ thuộc.
Tuy vậy, ngày hôm sau Tổng thống Truman cũng ưng thuận việc Mỹ công nhận Bảo Đại và các quốc gia liên kết Đông Dương và ngày 4-2, Tổng Lănh sự Mỹ ở Sài G̣n đă nhận được chỉ thị chuyển đến Cựu hoàng một bản thông điệp chúc mừng của Tổng thông, đồng thời với sự công nhận về ngoại giao chính phủ Quốc gia Việt Nam.
Người Pháp đă không để phí thời giờ trong việc yêu cầu Mỹ viện trợ. Bực v́ Mỹ làm áp lực phải xúc tiến “giải pháp Bảo Đại” và cho Việt Nam được quyền tự trị lớn hơn, Pháp lại giở tṛ “bóp nặn” của phương Đông. Ngày 16-2, Bộ Ngoại giao Pháp gặp Đại sứ của chúng ta ở Paris và nói toạc ra rằng “do kết quả của t́nh h́nh phát triển mới đây (ở Trung Quốc) và triển vọng ít ra th́ Trung Cộng cũng sẽ tăng cường viện trợ quân sự cho Hồ Chí Ḿnh” nên t́nh h́nh của Pháp đă trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Hơn nữa, “… cố gắng của Pháp ở Đông Dương giống như một ḍng nước cuốn ở Pháp, đ̣i hỏi cần phải có một chương tŕnh giúp đỡ dài hạn mà chỉ có Mỹ mới có thể cung cấp được. Nếu không… rất có khả năng Pháp có thể bị buộc phải (xem xét) chấm dứt các sự tổn thất của ḿnh và rút lui khỏi Đông Dương”.
Vấn đề đă được đưa ra trước Hội đồng An ninh Quốc gia và ngày 27-2 Hội đồng đă đi tới kết luận “phải thi hành mọi biện pháp có thể được để ngăn chặn sự phát điển sau này của Cộng sản ở Đông Nam Á… Thái Lan và Miến Điện có thể bị rơi vào ách thống trị của Cộng sản nếu như Đông Dương bị một chính phủ do Cộng sản khống chế cai trị. Lúc đó sự cân bằng lực lượng ở Đông Nam Á sẽ ở trong một t́nh thế cực kỳ nguy hiểm”. Đây cũng có thể là mầm mống của “thuyết domino”. Vấn đề lại được chuyển cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân; các Tham mưu trưởng tán thành kết luận của Hội đồng An ninh Quốc gia và đă kiến nghị với Bộ trưởng Quốc pḥng cung cấp viện trợ cho Pháp ở Đông Dương. Ngày 1-5, Tổng thống đă nhanh chóng duyệt cấp một khoản tiền 10 triệu dollar khí cụ chiến tranh, lần đầu tiên đánh dấu cái quyết định quan trọng việc Mỹ tham gia về quân sự.
Từ đó, chẳng có thảo luận ǵ thêm, nhưng một cách không thể nào thay đổi được, Mỹ đă cam kết, ủng hộ chế độ bù nh́n của Pháp trong cuộc chiến tranh chống lại những người quốc gia Việt Nam và bảo vệ quyền lợi thực dân của Pháp ở Đông Nam Á trong tấn thảm kịch đang diễn ra, đó là Việt Nam. Viện trợ Mỹ, bắt đầu một cách khiêm tốn với 10 triệu dollar năm 1950, đă vượt quá 1 tỷ dollar chỉ riêng trong năm tài chính 1954, và lúc này đă chiếm tới 78% chi phí về gánh nặng chiến tranh của Pháp.
Mặc dù Bộ Ngoại giao chúng ta có một nhóm khá mạnh thân Pháp, nhưng trong các quan chức cơ quan đối ngoại cũng c̣n có nhiều đầu óc thực tế, biết trước hết chú trọng đến quyền lợi của nước Mỹ. Họ quan niệm việc chúng ta tham gia vào đó, dù đúng hay sai, chỉ như là biện pháp cần thiết để ngăn ngừa Đông Dương không bị rơi vào phe Cộng sản, chứ không phải để giúp đỡ Pháp, một cường quốc thực dân hay một đồng minh thành viên khối NATO. Tuy vẫn theo đuổi mục đích cũ, nhưng các phần tử này vẫn cùng với các nhà làm chính trị khác trong chính quyền khuyến khích Pháp trao hoàn toàn độc lập cho các nước trong Liên hiệp.
Nhưng thực không may mà các mục tiêu Pháp theo đuổi lại không trùng hợp với mục đích của Mỹ nhằm phi thực dân hoá Đông Dương và dựng lên một nước đệm chống Cộng giữa Trung Cộng và các nước Đông Nam Á. Suốt trong thời kỳ chúng ta giúp đỡ cho nỗ lực quân sự Pháp (1950-1954) người ta vẫn có thể nghe thấy rơ những tiếng vang vọng của năm 1945 trong các mối quan hệ Mỹ - Pháp. Như trong kinh nghiệm 1945, Mỹ đă lúng túng không biết phải làm ǵ cho đúng. Phái đoàn quân sự của chúng ta (MAAG) ở Sài G̣n th́ nhỏ bé và bị người Pháp hạn chế trong nhiệm vụ của một nhóm hỗ trợ tiếp tế hậu cần. Tất cả các khoản viện trợ Mỹ cho các quốc gia Liên hiệp chỉ được cấp, với sự đồng ư và nhất thiết phải qua tay Pháp. Sĩ quan MAAG không được tự do phát triển công tác t́nh báo thu tin trong quá tŕnh diễn biến cuộc chiến tranh; tin tức t́nh báo do Pháp cung cấp bị hạn chế, thường không xác thực, có khi được cố t́nh làm sai lạc đi. Người Pháp cưỡng lại với sự nhắc nhở thường xuyên của Mỹ đ̣i phải xây dựng các quân đội bản xứ các quốc gia Liên hiệp và cả ngay khi những đội quân này đă tồn tại th́ chúng cũng không thành được một quân đội quốc gia Việt Nam thực sự - đó cũng là một bài học mà chúng ta đă không thuộc khi chúng ta trực tiếp nắm vấn đề này.
Có một sự thực lịch sử là mỗi khi chúng ta liều lĩnh t́m cách đi ngược lại sự bành trướng của học thuyết Marxism, chúng ta đều trở nên lúng túng và thực tế phải đi tới chỗ phủ nhận cái nguyên nhân đầu tiên của sự bất măn đă dẫn dắt các dân tộc phụ thuộc tới việc tim kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù chúng ta có thiện chí và cho rằng chỉ có h́nh thức dân chủ của chúng ta mới là lời giải đáp duy nhất đúng, chúng ta lại không chịu chấp nhận cho các dân tộc khác cái nguyên lư cơ bản của một nền dân chủ - quyền dân tộc tự quyết. Xu hướng các nhà lănh đạo Mỹ là dùng các đ̣n bẩy kinh tế và quân sự để chống lại “mối đe doạ” của chủ nghĩa Cộng sản, nhưng trong mọi trường hợp cái đ̣n bẩy này đă bị nổ tung ra. Và ở đâu chúng ta thành công một thời gian trong việc áp đặt được lối sống của chúng ta, th́ thông thường ở đó có bội bạc, phải trả giá đắt mà vẫn khổ sở.
Khi những tiếng vọng của 1945 hăy c̣n vang dội, chúng ta không thể không tự hỏi: Đông Nam Á có thực là quan trọng đối với quyền lợi an ninh của Mỹ năm 1950 không? Thuyết domino có đúng không? Không có sự ủng hộ của dân chúng Việt Nam, chúng ta có thể thắng trận được không? Và khi chúng ta chiến đấu bên cạnh nước Pháp, chúng ta có thể tránh được vết nhơ của chủ nghĩa thực dân không? Tuy các vấn đề này đang được bàn căi, nhưng thực tế lúc đó và hiện nay cũng đủ sức để trả lời “không” với mỗi câu hỏi trên. Dưới ánh sáng kinh nghiệm của chúng ta trong những năm 1940, cuộc liên minh của chúng ta với Pháp trong những năm 1950 và sự trực tiếp thiết thực tham gia với Ngô Đ́nh Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là thuần tuư điên rồ. Chúng ta chưa khi nào chịu t́m hiểu tiếng nói của nhân dân. Mặc dù chúng ta đă có một truyền thống huy hoàng chống chủ nghĩa thực dân, có nguyên tắc tự quyết của Wilson, và những lời tuyên bố độc lập cho các dân tộc phụ thuộc của Roosevelt, chúng ta đă bỏ ngoài tai những lời kêu gọi của Việt Nam đ̣i giải phóng khỏi ách thống trị của bên ngoài và chế độ thực dân.
Sẽ quá dễ dàng khi nói rằng chính phủ của chúng ta đă không được hiểu thực chất của vấn đề Đông Dương; hoặc ở đó đă không có được một lănh tụ quần chúng; hoặc người Việt Nam không có năng lực tự quản. C̣n Hồ Chí Minh, ngay với các bí danh khác nhau của ông, ông đă được thế giới phương Tây biết tới từ năm 1919. Các quan chức Mỹ, cũng biết ông và việc ông đă làm để thống nhất dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập từ 1942, và đă theo dơi các thành tựu của ông cho tới khi ông chết năm 1969. Những người biện hộ cho Bộ Ngoại giao chúng ta đă khó mà thanh minh được rằng họ không biết tới tính cách dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ và sự ngay thật trong phong trào giành độc lập dân tộc của ông. Nhưng chính ngay những tập hồ sơ trong Bộ của họ từ năm 1942 đă tiết lộ rằng ông Hồ và Việt Minh là đặc biệt có tinh thần Quốc gia và không có những cam kết dính líu về chính trị với bên ngoài cho đến năm 1950.
Cho đến tận tháng 2-1950, những lời ám chỉ thưởng quyên và thô lỗ nói ông Hồ là một “tên Quốc tế” hay “phái viên của Quốc tế Cộng sản” một cách không có chứng cớ rơ ràng, đă tác động một cách ngây thơ đến chính sách đối ngoại của chúng ta và một lần nữa đă làm chúng ta mất cơ hội để đi đến một cuộc hoà giải với nhân dân Đông Dương. Tháng 5-1949, Bộ trưởng Acheson, mặc dù chẳng có lấy được một mẩu chứng cớ nào về các mối liên lạc giữa ông Hồ với Kremlin, đă chỉ thị cho đại diện Mỹ tại Hà Nội cảnh cáo những người quốc gia Việt Nam để ngăn chặn việc chấp nhận một sự liên minh với ông Hồ, bằng những lời lẽ sau đây:
“Qua hiểu biết về quá tŕnh đào tạo của ông Hồ, không thể có nhận định nào khác hơn ông Hồ là “một tên” Cộng sản quốc tế thực thụ v́: 1) rơ ràng ông Hồ đă không thể chối căi được các mối liên hệ với Mátxcơva và chủ nghĩa Cộng sản quốc tế; và 2) là một cá nhân được đề cao trong báo chí Quốc tế Cộng sản và dược họ ủng hộ. Hơn nữa, Mỹ đă không hề bị xúc động bởi tính chất dân tộc chủ nghĩa của lá cờ đỏ với ngôi sao vàng (sic)”.
Đây chỉ là bước đầu để sau này ông ta công khai tuyên bố ông Hồ “với bộ mặt thật là một kẻ tử thù của nền độc lập ở Đông Dương”. Mà điều này một lần nữa đă khoá trước mọi quan hệ với ông Hồ vào tháng 2-1950.
Dù cho ông Hồ là một người Quốc gia hay một người Cộng sản đi nữa th́ vấn đề cũng không phải ở đó. Sự việc là ở chỗ trước hết ông là một người Quốc gia, và thứ hai mới là Cộng sản. Ông quan tâm đến độc lập và chủ quyền của Việt Nam hơn là làm theo lợi ích và mệnh lệnh của Mátxcơva và Bắc Kinh. Nếu có sự ủng hộ của Mỹ, ông Hồ có thể đă chấp nhận một h́nh thức trung lập nào đó trong cuộc xung đột Đông - Tây và giữ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một chướng ngại trung lập và lâu dài chống lại sự bành trướng của Trung Quốc về phía Nam.. Người Việt Nam đă chứng minh họ có một mối lo sợ đối với sự đô hộ của Trung Quốc. Họ sẽ c̣n tiếp tục như vậy. Và họ có đầy đủ lư do riêng để hành động trong khả năng làm một vật đệm. Ông Hồ có thể phục vụ tốt cho mục tiêu rộng lớn hơn trong chính sách của Mỹ ở châu Á, không phải như những “con rối Cộng sản” dùng để che mắt chúng ta.
Cuối thập niên 1940, nhiều tài liệu đă được đưa ra để chứng minh về đường lối lănh đạo của ông Hồ. Cũng có những tài liệu cho rằng một chính sách khác của Mỹ có thể khiến cho ông Hồ có đường lối không đi theo và chống lại với Bắc Kinh; nhưng một số người khác; trong đó có tác giả lại nhấn mạnh và một kết quả tất yếu là ông Hồ đă bị buộc phải phụ thuộc vào Bắc Kinh và Mátxcơva chỉ v́ có sự chống đối hoặc bàng quang của Mỹ.
Ông Hồ là một người Cộng sản; tự ông đă nói với tôi như vậy và ông không hề chối bỏ điều đó mỗi khi các nhà báo ngoại quốc hỏi. Nhưng một người Cộng sản không có nghĩa là ông bị cưỡng ép phải đặt các mục tiêu, h́nh thức, và kỷ luật tổ chức Quốc tế Cộng sản lệ thuộc vào việc giành độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Đă nhiều lần ông Hồ và các nhà lănh đạo khác của Việt Minh đă cho tôi hay họ có nhiều nghi ngại xung quanh vấn đề coi chủ nghĩa Cộng sản là một h́nh thức chính trị thích hợp với Việt Nam. Ông Hồ đặc biệt không tin là người Việt Nam đă đủ trưởng thành về mặt chính trị để có thể chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản - nhưng có thể một h́nh thức dân chủ xă hội chủ nghĩa có cải biên sẽ là lời giải đáp đúng đắn. Song dù cho về cuối những năm 1940, ông Hồ đă tỏ ra muốn xem xét tới chủ nghĩa trung lập, việc gắn bó với phương Tây, chủ nghĩa xă hội hay các h́nh thức không Cộng sản khác, th́ ở đây ông Hồ cũng chỉ đưa ra những sự lựa chọn có mức độ. Ông đă không có liên lạc trực tiếp với Mỹ từ 1946, và những tín hiệu ông nhận được từ Washington có thể rất không đáng phấn khởi. Vào năm 1947, các trang bị quân sự Mỹ đă được quân đội Pháp và Anh sử dụng để chống lại người Việt Nam và Mỹ đă đồng ư cấp cho Pháp một khoản tiền 160 triệu dollar để mua xe cộ và các thiết bị máy móc sử dụng trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Tháng 1-1947, Marshall chỉ công khai tuyên bố mong muốn “cần phải t́m được một cơ sở hoà b́nh cho việc hoà giải cuộc xung đột”, nhưng kế hoạch Marshall cho châu Âu đă tuồn các tài nguyên của Mỹ vào nước Pháp một cách có tính chất quyết định. C̣n sự chi viện của người Nga về mặt vật chất th́ không nhiều hơn. Trong khi người Xô viết chỉ trích kịch liệt các cường quốc thực dân khác mà không đả động ǵ tới nước Pháp, th́ khả năng trước mắt của một chính phủ Cộng sản Pháp cũng sẽ chỉ là giữ không lên tiếng ủng hộ ông Hồ, huống chi là nói đến công nhận và viện trợ.
Một người có đầu óc thực dụng như ông Hồ thấy ngay được rằng Việt Nam chỉ đứng hàng thứ hai trong chính sách đối ngoại Mỹ và Việt Nam cũng không thể tranh thủ được sự biệt đăi của mẫu quốc Nga khi nước này c̣n đang phải đấu tranh giành ưu thế khá rơ nét: “Chúng ta rơ rệt là hoàn toàn đơn độc; chúng ta đấu tranh quân sự ở Việt Nam tiếp tục và vị trí của Pháp thường tỏ ra có vẻ mạnh, th́ vùng nông thôn rộng lớn vẫn không bị chinh phục. Ưu thế của Pháp đă bị hạn chế chặt chẽ chỉ có ở các thành phố và đường giao thông”.
Sau năm 1947, t́nh h́nh chuyển biến ít nhiều có lợi cho ông Hồ. Việc t́m kiếm viện trợ Mỹ từ 1947 đến 1949 đă chẳng mang lại được ǵ tốt đẹp và đến 1950 th́ hoàn toàn hết hy vọng. Nhưng ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông tiến những bước nhảy vọt trong việc chống lại Tưởng Giới Thạch và đến 1950, Mao đă ở trong thế có thể giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không c̣n bị cô lập như trước, ông đă có nhiều đồng minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó Liên Xô. Một cuộc đấu bóng mới đă bắt đầu.

Chuyện ǵ đă xảy ra cho Pháp ở Đông Dương từ khi cuộc ngừng bắn đổ vỡ năm 1946? Vào năm 1947-1948, “bè lũ Sài G̣n” bắt đầu thừa nhận khả năng cho một số ít hạn chế người Việt Nam tham gia Chính phủ Đông Dương nhưng không phải là cho Việt Minh. D'Argenlieu hống hách chủ trương không điều đ́nh với ông Hồ và những người đi theo ông Hồ, và đưa ra ư kiến chỉ có thể chấp nhận biện pháp duy nhất là quay trở lại “chế độ quân chủ cổ truyền”. Ông ta cho một phái viên tới Hongkong để móc nối với cựu hoàng Bảo Đại. Phản ứng đầu tiên của ông này là ngờ vực và không muốn tiếp xúc với D'Argenlieu, con người mà Việt Nam kinh tởm. Nhưng Bảo Đại cũng chẳng muốn bác bỏ Hồ Chí Minh, người mà ông ta ca tụng là một nhà yêu nước chân chính, và trên lư thuyết ông ta c̣n phục vụ với danh nghĩa “cố vấn chính trị tối cao”.
Bảo Đại không phải hoàn toàn chỉ là một “tay chơi đế vương”, một “Farouk Viễn Đông”, hay là một “ông vua các hộp đêm” như người Pháp thường thích gọi, mà ông cũng c̣n là một nhà chính trị thận trọng và có tính toán. Ông cũng không phải chỉ là một tên bù nh́n sẵn sàng làm vừa ḷng người Pháp chỉ v́ tiền tài và bổng lộc, như người Pháp đă thấy v́ họ cũng phải để mất hơn 2 năm mới thuyết phục được Bảo Đại đồng ư làm theo mưu mô của Pháp. Bây giờ mới rơ đó cũng là một cách để Bảo Đại giũ sạch sự đô hộ của Pháp để ông ta nổi lên, theo kiểu của ông, như là một người dân tộc chủ nghĩa.
Vào đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu hồi về nước và nhiều sự kiện mới xảy ra đă làm cho Bảo Đại phải xem xét lại t́nh h́nh. D’Argenlieu bị gọi về chính là do bị người Việt Nam ở Đông Dương và những người Xă hội - Cộng sản Pháp căm ghét sâu sắc. Trong năm 1947, Chính phủ Ramadier giữ lập trường là Pháp có ư định thương lượng một cuộc hoà giải với “những đại diện chân chính ở Việt Nam”. Điều đó có vẻ thành thật, nhưng thực ra chỉ là một sự thoả hiệp không hay ho ǵ giữa những người Cộng sản cùng với một số ít người Xă hội đ̣i phải mở lại một cuộc điều đ́nh với ông Hồ; và cánh tả đảng Cộng hoà B́nh dân Pháp không muốn có quan hệ với ông Hồ. Trong lúc đó th́ sự việc diễn ra một cách không thuận lợi cho ông Hồ lắm v́ ông đă không tranh thủ được một sự đảm bảo về chiến lược và chính trị nào. Ông đă phải vào ẩn náu trong vùng rừng núi, c̣n người Pháp kiểm soát các đô thị và thành phố. Ngày 21-3, ông đưa ra một bản thông báo, trong đó ông “trịnh trọng tuyên bố” là nhân dân Việt Nam chỉ mong muốn được thống nhất và độc lập “trong Liên hiệp Pháp” và đảm bảo “tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam”. Chưa bao giờ lại có điều kiện thuận lợi cho một cuộc hoà giải hơn như trong mùa xuân 1947 này.
Nhưng vào lúc đó, lại nổi lên một sự kiện mới, Việt Nam Quốc dân Đảng thân Trung Quốc, Đại Việt và Đồng minh Hội, được Quốc dân Đảng của Tưởng, bọn quân phiệt Trung Quốc và cả Mỹ khuyến khích đă đi đến thành lập một tập đoàn chính trị mới gọi là Mặt trận Liên hiệp Quốc gia. Tổ chức này được mô tả như là một liên minh lỏng lẻo của những phần tử hợp tác cũ đă mất uy tín, những tên mưu mô đầy tham vọng, bọn bè phái bất lực và một số lănh tụ thành thật nhưng nông cạn và không có quần chúng. Trong số sau này phải kể đến Ngô Đ́nh Diệm, lần đầu tiên và cũng là lần độc nhất tham gia vào một đảng phái không phải do ông tự lập ra. Mặt trận Liên hiệp Quốc gia đă bắt liên lạc với một số phần tử bảo thủ và, “ly khai” ở Nam Kỳ như Cao Đài, Hoà Hảo và đảng Xă hội Dân chủ Nam Kỳ. Họ hội họp ở Quảng Châu và thống nhất ư kiến thôi không ủng hộ Bảo Đại. Mặc dù các phần tử này gần như hoàn toàn mất uy tín trong nhân dân Việt Nam nhưng người Pháp lại cho việc khuyến khích họ là điều thích đáng đối với quyền lợi của nước Pháp.
Người thay D'Argenlieu là E. Bollaert, một nghị sĩ thuộc đảng Xă hội cấp tiến và đă đến Sài G̣n ngày 1-4 để phải đối phó với hai phe đối địch nhau, Chính phủ “hợp pháp” Việt Nam đang hoạt động từ vùng rừng núi, và các nhóm khác nhau đă họp thành Mặt trận Liên hiệp Quốc gia. Bảo Đại lánh mặt ở hậu trường, Hoàng Minh Giám, Bộ trưởng Ngoại giao của ông Hồ gặp Bollaert ngày 19-4 và đă đưa ra một đề nghị hoà giải chính thức; nhưng một lần nữa thời cơ thuận lợi cho một cuộc thương lượng hoà b́nh lại tan biến v́ các điều khoản cua Pháp chẳng khác ǵ một đ̣i hỏi Việt Minh phải đầu hàng.
Giữa lúc đó, Mặt trận Liên hiệp Quốc gia mới được các người Công giáo Việt Nam ủng hộ đề xuất ra “giải pháp Bảo Đại”. Người Pháp lúc bấy giờ, tuy hoàn toàn biết rơ về “tên tay chơi” này nhưng lại nghĩ rằng họ có thể sai khiến được ông ta, cũng giống như thời 1933, khi ông ta c̣n là một thanh niên rất trẻ. Theo quan điểm của Pháp lúc đó, một Việt Nam thống nhất và có “bộ mặt độc lập” do Bảo Đại đứng đầu, sẽ là một trong hai điều ít hại nhất và cũng là một giải pháp duy nhất thiết thực. Họ lập luận rằng những người đi theo Bảo Đại bao gồm những người bảo thủ và những người Quốc gia cánh hữu, cũng như những người thuộc giai cấp quan lại sẽ tăng cường cho chủ nghĩa tư bản Pháp và nhà băng Đông Dương. C̣n ở Mỹ, điều đó sẽ giúp xoa dịu các phần tử chống Cộng và đồng thời nó cũng có thể xoá nhoà các thành kiến chống thực dân bằng những lời hứa hẹn của Pháp cho Đông Dương tự trị dần từng bước.
Nhưng có một điều thường đă không được biết tới, ngay cả đối với người Mỹ năm 1965, là về mặt quân sự không thể “b́nh định” được Việt Nam nếu không có sự tăng cường quân đội Pháp ở Đông Dương bằng hàng trăm ngàn người. Ở Pháp, đảng Cộng hoà B́nh dân đă nhầm lẫn khi cho rằng đưa được Bảo Đại lên ngôi vua th́ cuộc kháng chiến của Việt Minh sẽ nhanh chóng bị tàn lụi, trong khi nhưng người đảng viên Xă hội lại hy vọng rằng Bảo Đại có thể hoạt động gần giống như mọi người trung gian và sẽ lôi cuốn được Việt Minh đi theo Mặt trận Liên hiệp Quốc gia.
Để chấm dứt cuộc xung đột kéo dài, người Pháp đă làm áp lực với Mặt trận Liên hiệp Quốc gia, kêu gọi Bảo Đại thành lập một chính phủ trung ương. Họ đă cử phái đoàn đến gặp cựu hoàng ở Hongkong vào tháng 5-1947, nhưng Bảo Đại vẫn c̣n lưỡng lự. Nhà “ái quốc” Bảo Đại đă không coi Mặt trận Liên hiệp Quốc gia là đại diện cho nhân dân và ông ta cũng không muốn tán thành một chính phủ do Pháp đỡ đầu. Có thể ông ta cũng muốn có một sự hoà giải nào đó với Việt Minh mà ông cho là một lực lượng thiết yếu nhất ở Việt Nam. Nhà “chính trị” Bảo Đại, lại nhận thức được rằng Đảng Cộng hoà B́nh dân ở Paris, trong mùa hè 1947 đă kêu gọi nổ súng, sẽ không bao giờ bắt tay với ông Hồ. V́ vậy, ông ta quyết định đóng một vai tṛ tích cực và tuyên bố ông ta chống lại Việt Minh. Lúc đó, đă có dư luận cho rằng Bảo Đại đă nghĩ rằng qua hành động trên, ông ta đă tranh thủ được sự ủng hộ của Mỹ để chống lại người Pháp, như là Mỹ đă dùng ảnh hưởng của ḿnh ở Indonesia để chống lại người Hà Lan.
Cuối cùng, Bảo Đại trong thâm tâm vẫn hy vọng vào sự ủng hộ của Mỹ, đă gặp Bollaert trên một tàu chiến Pháp tại vịnh Hạ Long. Hai người đă kư tắt một bản hiệp định sơ bộ, hứa hẹn độc lập bằng những lời lẽ mơ hồ; nhưng sau đó Bảo Đại đă được báo cho biết là bản tài liệu nói trên chỉ đơn thuần là một bản “ghi chép” các cuộc thương lượng và không ràng buộc ông ta vào bất cứ vấn đề ǵ(3). Bản tài liệu đă buộc Pháp phải trao cho Việt Nam quyền tự trị tối thiểu ở mức mà Diệm cũng như phần lớn số cơ hội chủ nghĩa trong Mặt trận Liên hiệp Quốc gia đă phản đối ngay tức khắc.
Việc Bảo Đại cảm thấy Mỹ có thể nh́n ông bằng một con mắt thiện cảm không phải là không có căn cứ. Ba tuần lễ sau khi ông ta kư bản hiệp định sơ bộ, tuần báo Life của Mỹ đă đăng một bài của W.C. Bullit, cựu đại sứ chúng ta ở Pháp, trong đó Bullit bênh vực một chính sách nhằm kết thúc cuộc “chiến tranh buồn thảm nhất” bằng cách giành lại đa số những người quốc gia Việt Nam từ phía Hồ Chí Minh để chuyển sang một phong trào được xây dựng chung quanh Bảo Đại. Ở Pháp, quan điểm của Bullit được dư luận rộng răi coi như một lời công bố chính sách Mỹ và cũng là một sự tán thành và hứa hẹn trực tiếp Mỹ viện trợ cho Bảo Đại.
Mặc dù h́nh như đă có được một sự đồng ư của Mỹ, Bảo Đại cũng vẫn lo ngại v́ Mặt trận Liên hiệp Quốc gia lên án hiệp định ông đă kư là không có giá trị. Ông liền tự tách ḿnh khỏi những mưu toan đang h́nh thành và bay sang châu Âu ngao du trong 4 tháng. Ở đây, dù cho ông ta có ăn phải cái bả mà Bullit đă đưa ra hay không, h́nh như Bảo Đại cũng cảm thấy Mỹ trước sau cũng sẽ không tránh khỏi bị lôi cuốn vào Đông Nam Á, và ông ta hy vọng một cách mạnh mẽ rằng việc Mỹ can thiệp sẽ dẫn theo việc Mỹ sẽ dựa vào phong trào quốc gia chủ nghĩa Việt Nam để làm áp lực với Pháp.
Người Pháp, mặc dù đối tượng vẫn lẩn tránh, đă phái các nhà ngoại giao đuổi theo “ông vua” đang du hành và công bố quyết định chung của họ “cho xúc tiến, ngoài Chính phủ Hồ Chí Minh, mọi hoạt động và điều đ́nh cần thiết để khôi phục lại hoà b́nh và tự do trên đất nước Việt Nam”, có nghĩa là dĩ nhiên họ đă tự ràng buộc ḿnh với một chiến thắng quân sự và Bảo Đại.
Bollaert đă t́m gặp được Bảo Đại ở Genève (tháng 1-1948) và hai bên đă hội họp với nhau nhiều lần, qua đó Bảo Đại phát biểu là nếu như Hiệp định Hạ Long không được bổ sung thêm th́ ông ta sẽ không trở về Việt Nam. Sau đó, ông ta đă đi Cannes rồi về Paris để xem xét t́nh h́nh. Ở Paris, ông ta thấy được Đông Dương đă trở thành một vấn đề tranh căi quan trọng giữa các Bộ khác nhau, các đảng phái đối lập, các nhóm tài phiệt và các nhà chính trị. Những người cực hữu theo De Gaulle phản đối kịch liệt nhất cho rằng bản hiệp định sơ bộ đă đi quá xa. Bảo Đại bèn trở lại Hongkong vào tháng 3, không để cho ḿnh bị ràng buộc một lần nữa.
Trong khi đó, Pháp vẫn nài ép và Mặt trận Liên hiệp Quốc gia làm áp lực bắt Bảo Đại phải tiếp tục điều đ́nh với Bollaert nên họ lại gặp nhau tại vịnh Hạ Long ngày 5-6-1948. Lần này, bản hiệp đ́nh đă được “bổ sung” và nước Pháp “trịnh trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam”, nhưng đặc biệt họ chỉ giữ lại quyền kiểm soát công tác đối ngoại và quân đội, c̣n việc chuyển giao các chức năng khác của chính phủ th́ sẽ được giải quyết ở các cuộc thương lượng sau. Thực tế người Việt Nam chẳng được trao cho quyền hành ǵ.
Ở Đông Dương, phản ứng nổ ra dữ dội. Việt Minh la lối cho là xấu xa tội lỗi v́ Bảo Đại đă nài xin được người Pháp chữ “độc lập” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đă cố gắng giành giật ở Fontainebleu không được và bây giờ th́ điều đó có thể đào phá sự ủng hộ của quần chúng đối với Việt Minh. Đối với “bè lũ Sài G̣n” và đám thực dân, họ cũng cho là đă chẳng mang lại điều ǵ có ư nghĩa cho những người “A nam mít”,nhưng báo chí của họ vẫn lớn tiếng chống lại việc “đầu hàng” của Bollaert, yêu cầu cắt Nam Kỳ ra khỏi miền Bắc và cho trở lại chế độ của một xứ bảo hộ. Các chính trị gia ở Paris ra sức trấn an đám thực dân và đảm bảo với họ rằng sẽ không có ǵ thay đổi - cuộc chiến tranh cũng không chấm dứt. Các lănh tụ Cộng hoà B́nh dân và nhiều người thân cận với Cộng hoà B́nh dân lại cho rằng kéo dài chiến tranh sẽ hết sức có lợi và đă đi đến quyết định không để cho cuộc chiến tranh kết thúc sớm.
Bảo Đại một lần nữa lại rút lui khỏi sân khấu và sang châu Âu, trong khi ở Hà Nội, Pháp chuẩn bị để đưa ra một chính phủ người bản xứ thể hiện rơ ràng là bất lực. Từ Saint Germain, ngày 25-8, Bảo Đại báo cho Bollaret biết ông ta sẽ không trở về Việt Nam nếu như chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ không bị huỷ bỏ, và ông ta không nhận được sự đảm bảo cho Việt Nam độc lập. Ngày hôm sau đă thấy các Bộ trưởng ở Paris phát biểu “thực sự hắn đă bắt đầu bất chấp cả chúng ta” (tiếng Pháp). Ở đây đă có khá nhiều điều cho thấy Bảo Đại không phải chỉ là một tên bù nh́n và “vua hộp đêm” như mọi người vẫn tưởng.
Nhưng cuối cùng (ngày 8-3-1949), Bảo Đại đă nhân nhượng và kư bản Hiệp định Auriol - Bảo Đại, rất-được-hoan-nghênh, hiệp định mà người ta c̣n gọi là Thoả hiệp Élysée, trong đó các bộ phận chủ chốt trong chính phủ vẫn do Pháp nắm giữ và cơ cấu thuộc địa cũ vẫn c̣n nguyên vẹn. Tại sao Bảo Đại phải nhượng bộ cho người Pháp? H́nh như là nếu ông ta kéo dài thêm sự chống đối th́ Pháp sẽ t́m một biện pháp thay thế khác, và Đông Dương sẽ măi măi vẫn c̣n là một thuộc địa của Pháp. Ảnh hưởng của Việt Minh sẽ không suy giảm và cơ hội cuối cùng để đi đến một hoà b́nh không có Cộng sản đă sớm tiêu tan. Cuộc viếng thăm Paris của Bảo Đại năm trước đă cho ông ta thấy rơ đường lối cứng rắn của cánh hữu Pháp quyết tâm theo đuổi cuộc chiến tranh lâu dài khi nào mà điều đó vẫn có lợi. Để tránh được điều đó, Bảo Đại đă liều kư thoả hiệp Élysée để nhằm một khi nắm được chính quyền, ông ta có thể sẽ chơi một ván bài quốc tế theo kiểu cách của chính ông. Ông ta đă kư gửi rất nhiều ḷng tin vào sự ủng hộ của Mỹ mà ông hy vọng sẽ ḱm giữ được Pháp và cung cấp cho Việt Nam một sự viện trợ tối cần thiết về kinh tế.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy Bảo Đại vừa là một nhà chính trị, vừa là một người dân tộc chủ nghĩa. Sau khi đă kư thoả hiệp Élysée, Bảo Đại cố gắng t́m cách thanh toán với ông Hồ. Vào tháng 5, có tin tung ra nói ông Hồ có thể cũng không bị mất quyền ưu tiên trong một chính phủ mới của Bảo Đại. Trong điệu nhảy rất chi là tưởng tượng vừa với người Pháp vừa với người Mỹ của ḿnh, Bảo Đại vẫn nghĩ rằng sẽ không thể có một chính phủ thực sự đại diện nếu như không có được sự tham gia, hay ít ra cũng phải là một sự tán thành ngầm của Việt Minh mà dù sao đi nữa th́ ông ta cũng vẫn c̣n ngưỡng mộ. V́ vậy, một khi trở về Việt Nam, ông ta đă từ chối không tuyên bố ḿnh chống đối lại với cái gọi là “kháng chiến”.
Công việc đầu tiên đặt ra trước mắt cựu hoàng (ông tự phong cho ḿnh nhiệm vụ phải giành được địa vị quốc tế) là thành lập một chính phủ, một việc đầy những khó khăn: sự ngoan cố của Pháp, sự thờ ơ của quần chúng và sự chống đối về chính trị. Nhưng người Pháp đă tính toán và cho hoăn việc thi hành thoả hiệp Élysée. Quân đội của họ đóng lại, nhân viên hành chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền; người Việt Nam chẳng được trao cho một chút quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị của Pháp.

Khi Bảo Đại cố nài Pháp phải có một hành động tích cực th́ Léon Pignon, Cao uỷ mới và là người của D'Argenlieu đă cho biết Pháp chỉ trao trả chủ quyền cho “một chính phủ được Pháp tin cậy nhất”. Mùa hè 1949, Bảo Đại đă thất bại trong việc thành lập một chính phủ đáng tin cậy chỉ v́ thiếu sự tín nhiệm của những người trung thực và v́ các tham vọng cá nhân. Những người Quốc gia ngay thẳng đă không tham gia v́ họ thấy nguyện vọng độc lập dân tộc không được đáp ứng. Khi Ngô Đ́nh Diệm không được chấp nhận làm Thủ tướng; ông này đă phê phán những người không liêm chính ra nhận việc lúc đó như sau:
“Nguyện vọng dân tộc của nhân dân Việt Nam sẽ chỉ được thoả măn khi ngày mà đất nước chúng ta đạt được một chế độ chính trị giống như Ấn Độ và Pakistan đă được hưởng… Tôi cho rằng chỉ có một cách duy nhất đúng là phải dành những chức vụ tốt nhất trong nước Việt Nam mới cho những người xứng đáng nhất của đất nước. Tôi muốn nói đó là “những người kháng chiến”.
Thay v́ cho “những phần tử kháng chiến”, Bảo Đại đă chọn thủ lĩnh các cấp của ông ta trong những người đồng hoá sâu sắc với Pháp, những người giàu lớn đáng ngờ hoặc có dính líu chặt chẽ với giới mại bản xấu xa của Việt Nam và không một ai được quần chúng ủng hộ.
Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, được phái sang Việt Nam để nghiên cứu t́nh h́nh (tháng 5, 6 năm 1949) và sau đó đă viết:
“Hồ Chí Minh đă có khả năng chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là v́ nhà lănh đạo Việt Minh đă biết tập hợp chung quanh ḿnh một nhóm những người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại đă có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng khó mà đếm một được 25 đảng viên”.
Nhưng lúc đó ở Pháp, chính phủ Henri Queille đă cho ra một bản tuyên bố công khai (8-9-1949) tán dương việc “đă giải quyết xong vấn đề Đông Dương bằng cách thiết lập được chế độ Bảo Đại. Thực chỉ là câu chuyện phiếm. “Giải pháp Bảo Đại” đă chẳng đạt được một cái ǵ lâu dài, và cuộc chiến tranh Đông Dương vẫn cứ tiếp tục, càng ngày càng đào xới sâu thêm vào nền kinh tế Pháp và có nguy cơ phát triển từ một cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa thành một cuộc chiến tranh có tầm cỡ thế giới.
Bản thân Bảo Đại gần như không làm ǵ để cho chính phủ của ông ta thành đại diện và có hiệu lực hơn. Ông ta tiêu phí thời gian trong các cuộc vui chơi ở các thành phố nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang và Ban Mê Thuột; sống ngoài lề các hoạt động của chính phủ. Có lẽ để bào chữa cho hành động và thái độ của ḿnh, ông ta đă có ư kiến về t́nh h́nh năm 1950 như sau: “Cái mà người ta gọi là một giải pháp Bảo Đại, nay đă không c̣n thực sự là một giải pháp của Pháp nữa… T́nh h́nh Đông Dương mỗi ngày một trở nên tồi tệ”. Nhưng vào đầu năm 1950, chính phủ Bảo Đại lại biểu thị hoan nghênh Hồ Chí Minh v́ việc Trung Cộng và Liên Xô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đă mang lại cho Pháp và cho chế độ của ông ta viện trợ Mỹ và đă quốc tế hoá cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Trong t́nh huống đó, Pháp đă bị đặt vào trong một địa vị khó xử đối với Mỹ. Nếu phải chứng minh mục đích của Pháp là đấu tranh nhằm bảo vệ chính phủ Bảo Đại chống lại những người Cộng sản, th́ không có ǵ khác hơn là Pháp phải thông qua thoả hiệp Élysée, nhờ đó mà chính phủ Bảo Đại mới tồn tại. Chỉ lúc đó Pháp mới có thể đ̣i hỏi chúng ta viện trợ trực tiếp về quân sự cho chiến tranh Đông Dương. Như vậy là sau khi đă kéo dài gần một năm, cuối cùng Pháp mới chịu thông qua Thoả hiệp vào ngày 16-2-1950.
***
Trong khi nước Mỹ có thể sử dựng một ảnh hưởng quyết định để thúc đẩy một cuộc thanh toán những nỗi cơ cực của người Việt Nam vào năm 1945-1946, và khi người Pháp có thể điều đ́nh một cách khá thuận lợi với người Việt Nam trong mùa xuân 1947, cuối năm 1949 và suốt trong năm 1950, th́ đă có một số trường hợp dần dần phát triển ra và có tác dụng ḱm hăm sự tiến triển của t́nh h́nh qua một phức hợp các vấn đề quốc tế nan giải.
Trong thời kỳ này, nền kinh tế Mỹ đang mục kích một sự biến đổi hoàn toàn từ sản xuất chiến tranh sang cung ứng cho các yêu cầu thời b́nh. Hạ tầng cơ sở công nghiệp cũng đă thay đổi. Khối dự trữ lao động đă bị quân đội hút đi mất khá nhiều nhân lực từ 1941 đến 1945, phải bổ sung bằng lực lượng phụ nữ, trước đây vẫn tách rời với công việc ngoài xă hội. Sau chiến tranh, sức sản xuất được mở rộng hết sức của chúng ta đă được dùng để thoả măn các nhu cầu đă bị gạt đi trong thời chiến và đưa đến một mức sống cao hơn cho cả đất nước. Trong đại bộ phận các ngành công nghiệp, mức sản xuất phục vụ cho tiêu dùng trong nước và viện trợ kinh tế cho nước ngoài, đă đạt tới những đỉnh cao chưa từng có như trong năm 1947-1948. Nhưng bắt đầu từ cuối 1948 và sang 1949, đă cần phải có một sự điều chỉnh để giảm bớt số các nhà máy thu nhập kém không đảm bảo định mức. Mặt thay đổi khác của nền kinh tế sau chiến tranh của chúng ta là hiện trạng kinh tế xă hội thu nhập bằng tiền lương kép trong xă hội Mỹ. Cả chồng lẫn vợ đều làm việc nên sức mua của họ tăng nhanh một cách rất không cân đối với thu cầu b́nh thường của họ, dẫn đến lạm phát gay gắt và làm giảm sức mua của đồng dollar. Các diều kiện này đă gợi ra trong tiềm thức người ta ư muốn quay trở lại với một nền kinh tế chiến tranh “hạn chế”. Đó chính là t́nh trạng kinh tế nước Mỹ trước khi nổ ra cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Có thể như Mỹ đă tính toán trong việc cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Đông Dương vào đầu 1950, các quốc gia liên hiệp và Pháp đă mở cuộc điều đ́nh ở Pau (Pháp) để ấn định thời gian và mức độ trao quyền tự trị cho chế độ Bảo Đại. Cuộc thương lượng lúc đầu dự tính vào tháng 1-1950, nhưng măi đến 29-6 mói tiến hành được và kéo dài cho đến khi kết thúc vào tháng 11. Bảo Đại đến Pháp để chờ Hiệp định Élysée được thông qua, chỉ đóng vai một “quan sát viên” suốt trong thời gian hội nghị, trước sự phiền ḷng của Pháp v́ họ chỉ muốn ông ta ở lại Việt Nam có lợi hơn và đừng can thiệp vào công việc ở Pau.
Tuy các hiệp định Élysée và Pau đă đưa lại dược ít nhiều kết quả cụ thể cho chính phủ tự trị, nhưng người Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát về quân sự, ngoại giao và thương mại, hệ thống tài chính và toà án. Và dù cho nhượng bộ ít ỏi, nhưng nhiều người Pháp lại cho Hội nghị Pau là một sự từ bỏ quyền hành tai hại cho Pháp và cũng có nghĩa như là một sự cáo chung của Pháp ở Đông Nam Á. Phái đoàn quốc gia Việt Nam lúc đó lại quan niệm các kết quả đạt được cũng là một bước tiến bộ. Họ cảm thấy muốn giành được cái ǵ từ người Pháp th́ cũng phải “rỉa mồi” dần, do đó cần phải có thời gian và kiên nhẫn. Tất nhiên họ đă lầm, không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập để mất Đông Dương. Bảo Đại trở về Việt Nam và cho rằng ông ta đă làm hết sức ḿnh để người Pháp phải giữ lời cam kết. Ông sẽ chờ và xem. Có thể người Mỹ sẽ khích lệ giúp đỡ. Nhưng sau một ngày ở Sài G̣n, thấy Pháp từ chối không cho ông sử dụng dinh Norodom, trụ sở chính quyền thuộc địa Pháp, Bảo Đại liền rút lui về nhà ở Đà Lạt. Sự việc này cho thấy rơ t́nh h́nh chẳng có ǵ thay đổi cả.
Giá như cuộc thương lượng đă mang lại một nền độc lập thực sự cho chế độ Bảo Đại, th́ mối quan hệ tiếp theo sau giữa Mỹ và Pháp cũng có thể ít phức tạp hơn và cũng ít cay đắng một cách có ư nghĩa hơn. Không những thế, việc Pháp miễn cưỡng nhận phải trao trả quyền hành về chính trị và kinh tế cho Bảo Đại c̣n được các viên tư lệnh ngoan cố có khuynh hướng hiếu chiến khuyến khích thêm; họ nghi ngờ người Mỹ, quyết tâm giành chiến thắng quân sự, và khinh thường “giải pháp Bảo Đại”. Khi Pháp xin viện trợ, tướng Marcel Carpentier, Tổng tư lệnh quân Pháp, đă trả lời báo New York Times (9-3-1950) như sau: “Tôi sẽ không khi nào đồng ư cấp trang bị trực tiếp cho người Việt Nam. Nếu việc đó cứ được làm, tôi sẽ từ chức trong ṿng 2 tiếng đồng hồ. Người Việt không có tướng, không có tá, không có tổ chức quân sự để có thể sử dụng một cách có hiệu quả các trang thiết bị được giao. Đó sẽ là một sự lăng phí, mà Mỹ ở Trung Quốc đă phải gánh chịu khá nhiều”.
Cuối cùng chính phủ Pléven đă phải thay Pignon (tháng 12-1950) và cử tướng Jean De Lattre De Tassigny làm Cao uỷ và Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, người đầu tiên và duy nhất được trao cả hai nhiệm vụ trong tay. De Lattre đă kích động được quân Pháp đang mất tinh thần và tập hợp họ lại thành lực lượng chiến đấu. Ông tự xưng là người lănh đạo một đội thập tự quân chống Cộng và sẽ giành thắng lợi quyết định ở Việt Nam trong ṿng 15 tháng, “cứu Việt Nam ra khỏi tay Bắc Kinh và Mátxcơva”. Ông không thừa nhận ư kiến cho rằng Pháp vẫn c̣n hành động theo chủ nghĩa thực dân và đă từng nói với một kư giả Mỹ: Chúng tôi không c̣n có nhiều quyền lợi ở đó. Chúng tôi đă từ bỏ hoàn toàn tất cả các đất đai thuộc địa của chúng tôi. Ở đó, chúng tôi chỉ được một ít cao su, than và gạo… Có ǵ có thể so sánh được với máu của con em chúng tôi đă phải đổ ra, và với số tiền 350 triệu quan chúng tôi tiêu mỗi ngày ở Đông Dương?
Việc mà chúng tôi làm là chỉ nhằm để cứu vớt dân chúng Việt Nam. V́ vậy chiến dịch tuyên truyền của Mỹ nói rằng chúng tôi vẫn là thực dân chỉ gây ra những tai hại ghê gớm cho chúng tôi, cho tất cả chúng ta: người Việt Nam, bản thân các ông và chúng tôi”.
Hơn thế nữa, De Lattre, c̣n tin tưởng rằng người Việt phải được đưa vào tham gia chiến đấu. Qua lời phát biểu trong “Lời kêu gọi các thanh niên Việt Nam”, ông tuyên bố:
“Cuộc chiến tranh này, dù các anh muốn hay không th́ cũng vẫn là một cuộc chiến tranh của Việt Nam, cho Việt Nam. Và nước Pháp sẽ chỉ theo đuổi nó v́ các anh và nếu như các anh cũng theo đuổi cuộc chiến đó cùng với nước Pháp… Thanh niên Việt Nam mà tôi thân thương như đối với thanh niên ở chính nước tôi, đă đến lúc các anh phải tự bảo vệ lấy đất nước ḿnh”.
Nhưng tướng De Lattre có nhiều điều nghi ngại về chính sách Mỹ đối với Bảo Đại. Ông ta cho rằng người Mỹ đau khổ v́ “nhiệt tâm cứu thế” của ḿnh, đă “làm bùng lên ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc cục đoan. Ở đây, truyền thống của Pháp phải là chủ yếu. Không được và không thể thủ tiêu nó. Không ai chỉ có thể đơn giản qua một đêm mà xây dựng ngay được một nước mới bằng cách duy nhất cung cấp các viện trợ kinh tế và vũ khí!”. Cũng như Carpentier, De Lattre kiên quyết chống lại viện trợ trực tiếp của Mỹ cho quân đội Việt Nam và trao cho giới quân sự Việt Nam một chút ít quyền hành.
Edmund A. Gullion, Bí thư Cố vấn của chúng ta ở Sài G̣n (từ 1950) đă nhầm lẫn khi cho De Lattre không có khả năng động viên một sự năng động mănh liệt trong quân đội Quốc gia Việt Nam như ông ta đă từng làm được với số c̣n lại của quân viễn chinh Pháp:
“Thật khó mà truyền được một tinh thần dân tộc hăng say vào một đội quân người bản xứ mà trước đây sĩ quan và hạ sĩ quan của họ đều là người Pháp da trắng… Các đơn vị Việt Nam đi hoạt động rất ít khi được người Pháp hỗ trợ… Có lẽ dấu hiệu có ư nghĩa nhất và cũng là đáng buồn nhất trong việc Pháp thiếu sót không tổ chức được quân đội Việt Nam thực sự độc lập và có thế chiến đấu theo cách của De Lattre hiểu, là ở Điện Biên Phủ đă vắng bóng mọi đơn vị chiến đấu Việt Nam. Đó là một cuộc tŕnh diễn của Pháp”.
Gullion đă ít nhiều sai lầm chung quanh vấn đề Điện Biên Phủ; tỷ lệ thành phần dân tộc trong số quân pḥng thủ cứ điểm ngày 6-5-1954 cho thấy người Việt Nam chiếm gần 3% số sĩ quan, 16,2% số hạ sĩ quan, 39,2% số lính. Nhưng cơ bản Gullion đă nói đúng. Quân đội Việt Nam đă không hoặc có rất ít tiếng nói trong việc quyết định về các vấn đề chiến lược và chiến thuật và cũng có rất ít lư do để chiến đấu một cách mănh liệt trong một cuộc chiến tranh của người Pháp.
***
Ở Washinton đă h́nh thành nhiều nhận định quan trọng làm cơ sở cho việc quyết định các chính sách của chúng ta từ 1950 đến 1954; sự quan trọng ngày càng lớn của châu Á trên chính trường thế giới, khuynh hướng của ta nh́n nhận “mối đe doạ Cộng sản” toàn cầu theo kiểu của một khối thống nhất, và mưu đồ của chế độ Việt Minh quyết tâm loại trừ người Pháp ra khỏi Đông Dương. Vấn đề chót này đă được giải quyết như là biểu hiện của một bộ phận trong âm mưu thôn tính toàn cầu ở Đông Nam Á của Cộng sản và nó cũng biện minh cho một định kiến được chấp nhận rộng răi trong giới quan chức Washington cho rằng nếu Đông Dương “bị mất” th́ toàn bộ c̣n lại của Đông Nam Á sẽ không tránh khỏi bị rơi vào xâm nhập của Cộng sản và sẽ bị chiếm qua một phản ứng dây chuyền. Khái niệm chiến lược này đă có trước khi nổ ra cuộc chiến Triều Tiên tháng 6-1950. Chắc rằng nó đă trải qua thời kỳ thai nghén trong khi Quốc dân Đảng rút khỏi lục địa Trung Quốc (12-1949). Sau khi Bộ trưởng Quốc pḥng Louis Johnson bày tỏ lo ngại đối với sự tiến triển t́nh h́nh tại Đông Nam Á và đề cập tới việc mở rộng các chủ trương trước đây đối với từng nước một sang một kế hoạch cho từng khu vực.

Vào năm 1949 th́ Nga, chứ không phải Trung Quốc, được coi như là nguồn gốc chính của mối đe doạ Cộng sản ở châu Á, mặc dù mọi người cũng nhận thức rằng Trung Quốc, Nhật và cả Ấn Độ cũng có thể mưu đồ thống trị châu Á trong quá tŕnh thời gian. Nhưng trong năm 1949, Hội đồng An ninh Quốc gia của chúng ta đă giữ lập trường cho Mỹ là một nước lớn phương Tây, nên sẽ phải ḱm chế không để cho bị lôi kéo vào Đông Nam Á; thay v́ điều đó sẽ khuyến khích các dân tộc Ấn Độ, Pakistan, Philippin và các nước châu Á khác tích cực chủ động việc ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản. Hội đồng đă đặc biệt nêu ra Đông Dương, nhấn mạnh ở đó “phải có hành động làm cho người Pháp thấy rơ được sự cấp bách phải gạt bỏ các chướng ngại đă ngăn trở không cho Bảo Đại giành được sự ủng hộ của phần lớn những người Việt Nam”. Đông Dương có một tầm quan trọng đặc biệt v́ đó là vùng độc nhất tiếp giáp với Trung Quốc và ở đó đang có một đội quân người Âu to lớn chiến đấu chống lại các lực lượng “Cộng sản”. Các nguồn tin chính thức Pháp vẫn tiếp tục báo cáo với các nhà ngoại giáo của ta ở Paris, Sài G̣n, Hà Nội và Washington là “có một số đội quân Trung Quốc ở Bắc Kỳ, và một số lớn khác đang chuẩn bị hoạt động” chống lại người Pháp trên biên giới phía Trung Quốc. Cả hai Bộ Ngoại giao và Quốc pḥng, với những báo cáo (không đầy đủ) này lại có đầy đủ lư do để yêu cầu Hội đồng An ninh Quốc gia xem xét t́nh h́nh và nghiên cứu các biện pháp để bảo vệ các quyền lợi Mỹ ở Đông Dương.
Căn cứ vào t́nh h́nh đó, Bộ Ngoại giao đă đưa ra một văn bản với đầu đề “lập trường của Mỹ đối với Đông Dương”. Vấn đề được nêu ra là “để quyết định biện pháp thực tế của Mỹ nhằm bảo đảm an ninh của Mỹ ở Đông Dương và ngăn chặn không cho sự xâm lược của Cộng sản bành trướng trong vùng này”. Sau khi đă phân tích vấn đề một cách rộng răi dựa trên các nhận định như “mối đe doạ của Cộng sản xâm lược Đông Dương chỉ là một bước trong kế hoạch đă có sẵn của Cộng sản để chiếm lấy tất cả vùng Đông Nam Á” và việc Trung Quốc và Nga công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh mới đây đă đe doạ nghiêm trọng chế độ Bảo Đại do Pháp đỡ đầu, các tác giả văn kiện nói trên đă kết luận “điều quan trọng đối với quyền lợi an ninh Mỹ là phải cho thi hành mọi biện pháp thiết thực để ngăn chặn sự bành trướng sau này của Cộng sản ở Đông Nam Á”. Văn kiện đă được đệ tŕnh Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 27-2-1950 để được “xem xét một cách khẩn cấp”.
Hội đồng An ninh Quốc gia khôn ngoan đă đồng ư với các kết luận của tác giả văn kiện, đặc biệt đối với khái niệm cho rằng cần phải thấy Thái Lan và Miến Điện sẽ có thể bị rơi vào ṿng thống trị Cộng sản nếu như Đông Dương bị kiểm soát bởi một Chính phủ do Cộng sản “cầm đầu” và “lúc đó th́ cán cân lực lượng ở Đông Nam Á sẽ bấp bênh nghiêm trọng”. Văn kiện đă được ghi dưới kư hiệu NSC- và được tŕnh cho Tổng thống kèm theo lời đề nghị của Hội đồng “yêu cầu Tổng thống chấp nhận các kết luận và ra lệnh cho các Bộ và các Tổng cục có liên quan trong Chính phủ Mỹ thi hành dưới sự hiệp đồng của Bộ Ngoại giao”. Tài liệu đă được Tổng thống thông qua ngày 27-3-1950 và được chấp nhận là chính sách của Mỹ.
Cũng cần phải thấy rằng bản tài liệu NSC-64 đă được chuẩn bị và được chính quyền Truman thông qua trước khi nổ ra cuộc chiến tranh Triều Tiên. Lời tuyên bố kết luận của nó mà người ta thường gọi là “thuyết domino” được coi là có liên quan nhiều đến Triều Tiên, nhưng thực ra nó bắt nguồn từ cuộc đấu tranh Đông Dương. Cuộc chiến Triều Tiên bùng nổ vào tháng 6 chỉ củng cố thêm quan điểm của chính quyền về “thuyết domino”, và làm các học thuyết Truman về vành đai ngăn chặn trở thành mục tiêu của quốc gia.
Cả các nhà chiến lược và các nhà làm chính sách đều thống nhất một ư nghĩ - giữ vững được tuyến Đông Nam Á là điều cần thiết cho quyền lợi an ninh nước Mỹ. Cuộc đấu tranh của Pháp ở Đông Dương, hơn bao giờ hết, được coi như là một bộ phận cấu thành của chiến lược ngăn chặn Cộng sản trong vùng này của thế giới, và chúng ta đă tăng cường và mở rộng các chương tŕnh viện trợ của chúng ta cho Đông Dương. Việc chuyên chở viện trợ quân sự cho Pháp để tiến hành chiến tranh Đông Dương đă đạt mức ưu tiên thứ hai trong năm 1951, ngay sau Chương tŕnh viện trợ chiến tranh Triều Tiên.
Ở Paris, người ta tiếp nhận tin tức về việc bùng nổ cuộc chiến tranh Triều Tiên với nhiều nỗi lo lắng và ác cảm lớn. Phản ứng đầu tiên cho đó chỉ là một sự kiện địa phương, một cuộc chiến không liên quan ǵ tới Pháp và không trở thành một vấn đề quốc tế quan trọng. Nhiều người lại sợ rằng việc tham gia vào đó sẽ làm Mỹ xao lăng vấn đề kinh tế châu Âu và các chương tŕnh pḥng thủ chung. Người khác lại nghi ngờ Mỹ có những động cơ ích kỷ và vụ lợi, chỉ nhằm mở rộng tuyến ngăn chặn của Mỹ sang phía tây của một nước Triều Tiên “thống nhất”, bảo vệ những quyền lợi của Mỹ ở Nhật và Đài Loan chống lại “mối đe doạ đỏ”, một hành động có thể dễ dàng đưa Mỹ và Liên Xô vào một cuộc đối đầu công khai và Thế chiến thứ ba.
Có thể thấy một thí dụ về quan điểm của Pháp trong bài của báo Le Monde ngày 27-6, nói rằng nếu Triều Tiên bị mất th́ ít ra cũng có lợi là dạy cho Mỹ một bài học. Điều đó sẽ bắt buộc chúng ta phải điều chỉnh lại chính sách đối với chân Á và phải xét xem một t́nh huống giống như thế có thể xảy đến cho Đông Nam Á không. Bài báo đ̣i hỏi chúng ta phải chấm dứt các thất bại ở Triều Tiên và Đài Loan bằng mọi cách giúp đỡ cho Pháp chống đỡ được ở Đông Dương.
Nó cũng cho biết quan điểm của Pháp là Đông Dương cũng đă khá loạn rồi, tại sao làm rối thêm bằng cách để cho bị lôi cuốn vào Triều Tiên nữa?
Thực ra, cuộc chiến Đông Dương đă trở thành một gánh nặng về tâm lư và kinh tế cho người Pháp. Nó đă trở thành “La sale guerre”(4) và có vẻ cứ tiếp tục không bao giờ dứt. Vào năm 1949-1950, chỉ có một vài nhà chính trị và kinh doanh lớn có nói đến “cuộc thập tự chinh chống Cộng sản” và việc bảo vệ “danh dự Pháp” ở Viễn Đông. Tinh thần chống chiến tranh ở Pháp, Trung Cộng thắng lợi ở phía Bắc, có khả năng có thể xảy ra một cuộc thất bại quân sự của Pháp, tất cả đă tạo ra một cảnh tượng u buồn.
Nỗi lo ngại chung sợ rằng cuộc chiến mới ở Triều Tiên có thể không có ǵ ḱm hăm được nữa và đ̣i hỏi Pháp phải đóng góp nhiều hơn để phục vụ quyền lợi Mỹ ở Viễn Đông, đă tiêu tan trước lời tuyên bố ngày 27-6 của Tổng thống Truman, nói rằng ông đă chỉ thị “gia tăng việc cung cấp viện trợ quân sự cho quân đội Pháp và các quốc gia liên hiệp ở Đông Dương và gửi đến đó một phái đoàn quân sự”. Mặc dù việc mở rộng viện trợ đă được quyết định trước khi nổ ra chiến tranh Triều Tiên, và cũng chỉ được công bố sau đó 2 ngày, nhưng cũng đủ là một phát súng lệnh cho giới tư bản kinh doanh kếch xù đang hoạt động trên một quy mô lớn ở Đông Nam Á và rất mong muốn cho cuộc chiến ở Đông Dương tiếp tục kéo dài.
Với sự tham gia tích cực của Mỹ vào châu Á, cuộc chiến Đông Dương đă đạt tới một quy mô mới. Nó đă được “quốc tế hoá” và trở thành một bộ phận của cuộc thập tự chinh chống Cộng của Mỹ. Mỹ đă mang lại sức sống cho cuộc chiến Đông Dương đúng ngay giữa lúc dư luận công chúng Pháp đang nghiêng về phía muốn gói ghém nó lại. Quy mô mới này của cuộc chiến đă là một nguồn kích thích mạnh mẽ cho tất cả những thế lực chính trị và thương mại ở Pháp đang theo đuổi cuộc chiến tranh cho đến “thắng lợi cuối cùng”. Nhưng nó cũng làm cho nước Pháp càng phụ thuộc thêm vào Mỹ, ngay cả trên các lĩnh vực mà Pháp đă cố gắng giành giật lấy một sự độc lập tương đối trong chính sách của ḿnh. Kết quả là ở Pháp, số người Pháp kiếm được lời lớn nhờ việc kéo dài cuộc chiến đă tăng lên rất nhiều.
Ở tầm cỡ quốc tế, cuộc chiến không chỉ đă đưa lại quy mô mới đă nói ở trên mà c̣n cả một vấn đề ư thức trách nhiệm, thậm chí là ư thức phạm tội, mà điều này đă trở thành lư lẽ cho người Pháp cũng như người Mỹ sử dụng làm đ̣n bẩy để thực hiện những mục tiêu cuối cùng của họ. Đă có ư kiến là trong khi cuộc chiến Đông Dương, đă và tiếp tục sẽ c̣n là một cuộc chiến của Pháp, do người Pháp điều khiển để nhằm đạt được một mục tiêu của Pháp (chủ nghĩa thực dân) th́ “hành động cảnh sát” của Mỹ ở Triều Tiên chủ yếu lại là một cuộc chiến của Mỹ, do các tướng Mỹ điều khiển, người và tài chính do Mỹ cung cấp và chỉ nhằm phục vụ cho một mục tiêu của Mỹ ở châu Á (ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản). Qua sự chống đối cố hữu về các mục tiêu nói trên (“thuyết domino” chống với chủ nghĩa thực dân), người ta cũng có thể giải thích được khá nhiều về những bất đồng đă nảy sinh ra giữa Mỹ và Pháp trong thời kỳ 1950-1954.
Một sự thật hiển nhiên là nếu không có viện trợ Mỹ, Pháp đă không thể theo đuổi được cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng chúng ta đă thiếu sót trong việc sử dụng cái đ̣n bẩy to lớn đó để ép Pháp phải có những bước đi tích cực hơn nữa trong việc trao hoàn toàn độc lập cho các quốc gia liên hiệp. Xem xét các mối quan hệ Pháp - Mỹ trong thời gian từ 1950 đến 1954, cho thấy rơ đ̣n bẩy của Mỹ đă được sử dụng một cách hết sức hạn chế và chính v́ ưu tiên trong chính sách Mỹ lại đặt ở vấn đề ngăn chặn Cộng sản ở châu Á, nên giữa hai nước với nhau th́ áp lực của Pháp đối với Mỹ lại mạnh hơn. Điều này cũng chẳng bao hàm ư nghĩa là nếu các quan điểm của Mỹ thắng thế th́ vấn đề Cộng sản ở Đông Dương cũng sẽ được giải quyết. Cuộc đấu tranh của Việt Minh để giành độc lập hoàn toàn đứng trên một b́nh diện Xă hội chủ nghĩa vẫn cứ tiếp tục, nhưng nó cũng có khả năng được các giới tư bản phương Tây chấp nhận nhiều hơn.
Đúng là áp lực của Pháp thực ghê gớm. Trong thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh, Pháp tương đối yếu và phụ thuộc vào Mỹ qua khối NATO và Kế hoạch Marshall để có an ninh quân sự và phục hồi lại nền kinh tế. Trong cả hai lĩnh vực đó đều có những điểm tựa có thể sử dụng để tác động đến chính sách Pháp ở Đông Dương. Cả NATO và Kế hoạch Marshall đều được Chính phủ chúng ta và công chúng đánh giá là hết sức quan trọng đối với quyền lợi quốc gia Mỹ, trong khi đă được xác nhận rơ ràng là có một mối đe doạ của Xô viết đối với Tây Âu. Việc Cộng sản nắm chính quyền ở Pháp là một khả năng hiện thực (Lúc đó đảng Cộng sản Pháp là một đảng chính trị lớn nhất và đấu tranh mạnh nhất ở Pháp). Do đó, một sự đe doạ của Mỹ về việc rút viện trợ quân sự chính trị cho Pháp nếu Pháp không chịu thay đổi chính sách ở Đông Dương, là điều không thể chấp nhận được và sẽ gây nguy hại cho quyền lợi Mỹ ở châu Âu, quan trọng hơn rất nhiều so với bất cứ cái ǵ ở Đông Dương.
Chỉ có nguồn duy nhất khác để gây ảnh hưởng là chương tŕnh viện trợ quân sự cho Đông Dương. Ở đây, đ̣n bẩy của chúng ta lại bị các viên chỉ huy mặt trận của Pháp ràng buộc một cách ngặt nghèo. Tướng H.E. Navarre cho rằng ngoài công việc kế toán ra th́ mọi chức năng của US-MAAG(5) ở Sài G̣n đều là can thiệp vào công việc nội bộ của Pháp. Ngay cả khi đă nhận thức được rằng không có viện trợ Mỹ th́ thực khó mà tiếp tục được cuộc chiến tranh, nhưng người Pháp cũng không bao giờ cho phép người Mỹ tham gia vào công tác đặt kế hoạch chiến lược hoặc định các chính sách. Hơn thế nữa, như trong năm 1945, người Pháp đă nghi ngờ viện trợ kinh tế Mỹ nhằm lôi kéo những người quốc gia Việt Nam và đă yêu cầu chúng ta cung cấp viện trợ “không có ràng buộc kèm theo” và thực sự không có sự kiểm soát về mặt sử dụng các hàng viện trợ đó. Qua thái độ này, cũng vào năm 1945, là một sự nghi ngờ ngấm ngầm cho rằng Mỹ muốn thay thế hoàn toàn người Pháp ở Đông Dương, về mặt kinh tế cũng như về mặt chính trị.
Nỗi sợ hăi quá mức đối với cái bóng ma Cộng sản đă là một điều làm hại chúng ta. Không có lúc nào chúng ta đă xem xét tới khả năng khối Trung - Xô lại có thể là thực sự đáng sợ đối với chúng ta như chúng ta đă sợ họ.
Cũng chẳng bao giờ các chiến lược gia và các nhà quyết định chính sách của chúng ta đă xác định được những mục tiêu thiết thực và có khả năng đạt được hơn với những định mức nhất định cho sự phát triển kinh tế và chiến lược của chúng ta, và đưa ra được một chính sách quốc gia dựa trên tham vọng toàn cầu, để có thể v́ thế mà sự chung sống với thế giới Cộng sản đă được trả giá ít đắt đỏ và mang lại hiệu quả nhiều hơn. Như trước đây và bây giờ cũng vẫn c̣n ít nhiều như vậy để đối phó với mỗi “mối đe doạ của Cộng sản”, chúng ta chỉ bước được theo điệu nhảy của người Xô viết mà thôi và rất ít khi đứng được trên một lập trường sức mạnh đưa vào những kế hoạch đă được chuẩn bị sẵn sàng và vững vàng. V́ sợ, không có quyết tâm và hám lợi, chúng ta đă phải chịu khuất phục trước những doạ nạt của cả bạn bè và kẻ thù.
Trong những năm đầu thập kỷ 1950, Pháp đă có khả năng làm áp lực với Mỹ, chính v́ ở Washington người ta đă quá tin ở điều cho việc bảo vệ một Đông Dương không Cộng sản là sống c̣n đối với quyền lợi của phương Tây và đặc biệt là của Mỹ. Điều cơ bản nhất là Pháp đă tiến hành một cuộc chiến mà chúng ta cho là rất cần thiết. Do đó, người Pháp bao giờ cũng có thể, chỉ bằng cách đe doạ rút lui khỏi Đông Dương, cũng giành được nhân nhượng và giúp dỡ thêm. Khi nước Pháp thấy đă mệt mỏi về “cuộc chiến bẩn thỉu”, th́ đó cũng chẳng phải là một điều không được đông đảo quần chúng trong nước Pháp tán thành. Năm 1953, khi chính phủ Laniel yêu cầu gia tăng mạnh mẽ viện trợ Mỹ, đại diện của Bộ Ngoại giao trong buổi họp của Hội đồng An ninh Quốc gia đă phân tích “nếu chính phủ Pháp này đang đề nghị chúng ta tăng cường viện trợ cho Đông Dương mà không được chúng ta giúp đỡ trong lúc này, th́ đó cũng là chính phủ cuối cùng đă có một sự cố gắng thật sự để giành thắng lợi ở Đông Dương”.

Thành công của những thủ đoạn này là ở chỗ viện trợ của chúng ta đă được sử dụng để tăng thêm ít nhiều hiệu quả và quyết tâm chiến đấu của Pháp, chúng ta cũng đă có thể thúc đẩy Paris đặt ra kế hoạch Navarre điển h́nh, nhưng chúng ta đă không ảnh hưởng ǵ được tới cách điều khiển chiến tranh của Pháp hoặc đưa Pháp tới giải quyết vấn đề tranh chấp bằng chính trị..
Điều cám dỗ phải “đi cùng” với người Pháp cho tới khi nào Việt Minh bị đánh bại là hấp dẫn nhất v́ hy vọng thắng trận vẫn lan tràn trong giới chính quyền Washington. Trước Điện Biên Phủ, tướng J.W. O'Daniel, chỉ huy MAAG ở Sài G̣n, đă báo cáo cụ thể là có thể giành chiến thắng nếu như Mỹ tiếp tục chi viện. Vào tháng 11-1953, ông ta lại đệ tŕnh một bản báo cáo về Kế hoạch Navarre, nói rằng quân đội Liên hiệp Pháp nắm quyền chủ động và sẽ mở các chiến dịch tấn công vào giữa tháng 1-1954; đồng thời sẽ ḱm giữ và phá lợi thế của Việt Minh ở đồng bằng Bắc Kỳ cho tới tháng 10-1954, để khi đó Pháp sẽ mở một cuộc tiến công quyết định trong vùng bắc vĩ tuyến 19. O'Daniel kết luận kế hoạch Navarre cơ bản là tốt và sẽ được ủng hộ, v́ nó sẽ đưa lại thắng lợi quyết định.
O'Daniel đă không biết được ông và chính phủ ông đă bị lừa. Trong một bản báo cáo mật gửi chính phủ Pháp vào cuối năm 1953 (đă được đưa ra trong bản hồi kư của ḿnh năm 1956), chính Navarre đă tuyên bố là không phải giành lấy thắng lợi trong chiến tranh theo đồng nghĩa quân sự của nó một cách đơn giản, mà tất cả những ǵ có thể hy vọng được chỉ là một “coup nul”(6) - một đ̣n tháo gỡ ra ngoài cuộc. Cả O’Daniel và các quan chức Bộ Ngoại giao chúng ta đều không biết về những chỉ thị tuyệt mật của Hội đồng Quốc pḥng Pháp gửi cho Navarre, ra lệnh cho ông ta phải pḥng thủ Lào, nếu có thể được, nhưng “trước hết, phải bảo đảm an toàn cho đội quân viễn chinh Pháp” và chuẩn bị, bằng những điều kiện quân sự tốt nhất mà ông ta có thể làm được, để đi đến thương lượng.
Một vấn đề quan trọng khác giúp làm đ̣n bẩy cho Pháp là t́nh h́nh ở châu Âu. Một mục tiêu ưu tiên trong chính sách đối ngoại Mỹ năm 1953-1954 là việc thành lập một cộng đồng pḥng thủ châu Âu (EDC) để “trùm lên” một quân đội Tây Đức mới được đặt trong một lực lượng liên kết Đồng minh để pḥng thủ Tây Âu. Pháp không nhiệt t́nh tham gia EDC do Mỹ bảo trợ, v́ một mặt Pháp sợ một nước Đức vũ trang, mặt khác Pháp không đồng t́nh với Mỹ về một cuộc xâm lược của Xô viết vào châu Âu. Nhưng Pháp tham dự EDC lại là cần thiết để 5 nước tham dự khác chấp thuận vào cộng đồng, do đó Mỹ phải ra sức thuyết phục Pháp. Chính v́ sự ưu tiên cao đối với EDC trong kế hoạch của Mỹ, nên chúng ta đă phải miễn cưỡng rất nhiều trong việc chống chọi với Pháp ở Đông Dương, đă không thấy ngay được một sự mâu thuẫn ngầm trong chính sách của chúng ta thúc ép Pháp cùng một lúc vừa phải chấp nhận vào EDC, vừaa phải có cố gắng lớn hơn nữa ở Đông Dương đang đ̣i hỏi Pháp tăng cường lực lượng sang Viễn Đông. Nhưng Quốc hội Pháp sẽ không chấp nhận EDC nếu như, ít nhất, Pháp không được bảo đảm là quân đội Pháp ở châu Âu sẽ được cân bằng với quân đội của Đức. V́ thế, Pháp đă viện cớ là việc tham gia EDC có khả năng ngăn trở Pháp đưa thêm lực lượng sang Đông Dương.
Lại c̣n một đ̣n bẩy khác thể hiện trong khả năng Pháp có thể đưa vấn đề Đông Dương ra bàn ở Hội nghị Genève. Điều đó đă xảy ra trong cuộc họp của các Ngoại trưởng Tứ cường tháng 2-1954 ở Berlin. Hội nghị Genève sẽ họp bàn để t́m một giải pháp chinh trị cho cuộc chiến Triều Tiên. Bộ trưởng Ngoại giao J. Foster Dulles không muốn thương lượng về Đông Dương nếu như chưa có được một sự cải thiện rơ rệt trong t́nh h́nh quân sự của Pháp để họ phải điều đ́nh trên một thế mạnh hơn rất nhiều.
Nhưng chính phủ Laniel, dưới áp lực ngày càng mạnh của dư luận công chúng Pháp muốn kết thúc chiến tranh Đông Dương, mặc dù đă có sự phản dối của chúng ta, nhưng vẫn cố nài đưa vấn đề Đông Dương ra bàn ở Hội nghị Genève. Có tin nói Bộ trưởng Ngoại giao Bidault đă báo cho biết là nếu chúng ta không chấp thuận th́ EDC chắc chắn sẽ bị nhấn ch́m.
Tổng hợp các nhân tố đó lại, thấy thực tế chúng ta đă để cho chúng ta bị kẹt trong việc đưa ra một đường lối hợp lư đối với Việt Nam từ 1950 đến 1954. Chúng ta đă bị giam chặt bởi chính ngay “thuyết domino” của chúng ta, bởi những hy vọng lạc quan của chúng ta về một chiến thắng quân sự của Pháp, bởi sự thiếu sót trong việc đưa ra các định mức thực tế trong các chính sách chống Cộng được dựa vào các kế hoạch vững chắc và v́ đă để cho các nhu cầu kinh tế trong nước của chính chúng ta đóng một vai tṛ quá lớn. Về phía Pháp, trong cuộc đấu tranh, đồng thời nhưng hoàn toàn khác, để nhằm giữ lại thuộc địa Đông Dương cũ của họ, Pháp đă sẵn sàng ngăn chặn mọi chủ trương khác bằng cách chối từ không cho Bảo Đại bất kỳ một sự tự trị thực sự nào, ḱm hăm sự phát triển của quân đội Quốc gia Việt Nam, và sử dụng đ̣n bẩy to lớn của họ trong các khó khăn ở châu Âu để thủ tiêu các cố gắng chống thực dân Pháp của chúng ta ở Việt Nam.
***
T́nh h́nh chiến tranh Việt Nam càng ngày càng tồi tệ đă nói lên rất rơ những thất bại về chính trị của chúng ta suốt trong 4 năm đó. Cuối năm 1949, quân Pháp dưới quyền của tướng M. Carpentier đă mất quyền chủ động, và tháng 1-1950, tướng Giáp đă mở một loạt các chiến dịch chống lại người Pháp. Qua cuộc tấn công đầu tiên Giáp không uy hiếp trực tiếp vùng chiến lược đồng bằng sông Hồng và từ tháng 2 đến tháng 4 đă xúc tiến những chiến dịch quy mô lớn nhằm đảm bảo cho Việt Minh kiểm soát cả miền đông bắc Bắc Bộ. Trong mùa hè 1950, khi quân Liên hợp quốc đánh đi đánh lại xuyên qua bán đảo Triều Tiên, Giáp lại bồi thêm thất bại cho quân đội Carpentier trên hành lang Lạng Sơn - Cao Bằng. Vừa bị đánh bại trong các cuộc hành quân với Giáp, người Pháp c̣n bị chính phủ trong nước họ làm mất tinh thần v́ quyết định giảm đi 9.000 quân ở Đông Dương. Quốc hội Pháp đă bày tỏ t́nh cảm của ḿnh tiếp tục ủng hộ cuộc chiến đấu bằng cách yêu cầu chính phủ không được đưa lính mới gọi nhập ngũ sang bổ sung cho Đông Dương.
Sau hơn 3 năm chiến đấu không mang lại được kết quả ǵ, người Pháp vẫn đánh giá thấp quyết tâm của Việt Minh và đánh giá quá cao ḷng dũng cảm của chính ḿnh. Khi mà lính thuỷ đánh bộ của chúng ta đổ bộ ở Inchon, Triều Tiên giữa tháng 9, th́ Giáp cũng mở trận tấn công vào thị trấn chiến lược Đông Khê (20 dặm đông nam Cao Bằng). Đồn quân của Pháp ở Cao Bằng đă hoảng sợ bỏ chạy về phía Nam và bị tổn thất nặng nề trên đường rút lui. Ngày 17-10, Pháp rút bỏ Lạng Sơn và đến cuối tháng th́ toàn bộ nửa phần Bắc Bộ đă lọt vào tay Việt Minh, và không bao giờ quân Pháp c̣n đặt chân tới đó được nữa. Như một nhà văn đă viết “Khi đám khói tan đi, người Pháp mới thấy đă phải chịu một thất bại ở thuộc địa lớn nhất kể từ khi Montcalam chết ở Quebec”(7).
Ở chính quốc Pháp là một t́nh h́nh không thể chịu đựng được nữa. Thua trong nhiều trận đánh là điều có thể tha thứ được, nhưng thua cuộc chiến Đông Dương sẽ là một tai hoạ cho số thực dân và những người cầm đầu buôn bán chiến tranh ở Pháp. Trước đó mấy tháng, Pháp đă yêu cầu sự viện trợ của chúng ta dựa trên cơ sở hứa hẹn cuộc chiến phải được tiến hành một cách thắng lợi. Mấy tuần sau đó (tháng 5-1950), Tổng thống Truman đă cho mở một ngân khoản và đặt ra một Phái đoàn Viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) để đến tháng 6 chúng ta chỉ c̣n việc ra sức cổ vũ người Pháp. Nhưng đến tháng 11 th́ cuộc chiến Đông Dương đă chuyển thành một cuộc tháo lui nhục nhă. Đó là một sự bối rối không thể nào chịu được đối với người Pháp kiêu hănh và làm dấy lên những hoài nghi nghiêm trọng ở Pháp cũng như ở Mỹ về việc quân Pháp có thể giành dược thắng lợi quân sự đang mong muốn.
Bộ chỉ huy tối cao Pháp trong một thời gian đă tỏ ra rất lo lắng về t́nh trạng cuộc chiến không thể tiến triển được: thực tế nó đă trở thành bế tắc. Sau lần đi thanh tra về, tướng G. Revers đă đề nghị phải có một số thay đổi về chính trị và quân sự, nhưng tất cả những điều đó đều không được bộ máy chỉ huy quân sự và chính phủ Pháp ưa chuộng. Nhiều phần trong bản báo cáo tối mật của Revers đă “được tiết lộ” cho những người Cộng sản Pháp biết, và vào tháng 4-1950, trước sự kinh ngạc của người Pháp, nhiều đoạn nguyên văn trong báo cáo đă được phát đi từ Đài phát thanh Việt Bắc (đài phát thanh Việt Minh).
Nguy hại hơn nữa là phần chính trị trong báo cáo Revers cũng lại “bị tiết lộ” và được mọi người biết và gọi là “vụ án các tướng”, một vụ bê bối của quốc gia phản ảnh mặt trái hành vi của một số tướng Pháp.
Vụ bê bối các thất bại quân sự đặt ra vấn đề lại phải có thay đổi trong chỉ huy và “điệu nhảy valse cho các tướng” lại tiếp tục. Từ Leclerc năm 1945 đến Valluy, Blaizot, rồi Carpentier, nay thêm De Lattre tháng 12-1950 và tiếp theo nữa là Salan, Navarre và cuối cùng là Ély. Tướng De Lattre nắm quyền chỉ huy thay tướng Carpentier và cũng thay Pignon để làm Cao uỷ Pháp. Trước mắt ông ta là một quân đội mất tinh thần, bại trận, bị sứt mẻ, tháo chạy từ vùng đông bắc Bắc Kỳ về Hà Nội đầy những thường dân hoảng loạn đang chuẩn bị trốn chạy trước cuộc đột kích của Việt Minh. Họ đă nghe đài phát thanh Việt Bắc nói chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sắp trở lại Hà Nội, và cộng đồng người Pháp cũng đang ở trong t́nh trạng hết sức hoang mang. Lại có tin đồn Giáp đă hứa với Hồ Chí Minh là ông sẽ vào Hà Nội trong ngày Tết âm lịch, tháng 2-1951.
Dưới áp lực của công chúng; chính phủ Pháp đă phải cho đưa tàu Pasteur, chiếc tàu khách to nhất c̣n lại lúc đó sang Đông Dương để di tản tất cả thường dân Pháp đi khỏi Bắc Việt Nam. Nhưng De Lattre, một con người nổi tiếng về mọi phương diện, đă không nói đến chuyện rút lui, mà cũng chẳng muốn chịu thua mà không chiến đấu. Ông ta đă cho chuyển xuống tàu Pasteur toàn những binh lính bị thương tới 2/3 chuyến tàu và cho chở về Pháp, mặc cho nghị viện ở Paris la ó và bất b́nh.
De Lattre, một trong những viên tướng có năng lực của Pháp trong Thế chiến thứ hai, được đánh giá cao là một viên tư lệnh chiến trường và nhà chiến lược. Nhưng cá tính độc đoán của ông, thường được so sánh chẳng kém ǵ D'Argenlieu, sẽ làm cho các giới giao tiếp cá nhân và tập thể với ông hết sức khó khăn. Tính kiêu kỳ và tính khí của ông làm cho các người dưới quyền khiếp đảm và họ đă gọi (sau lưng) ông ta là “Vua Jean”. Không nói đến đặc điểm cá tính th́ phải nhận rằng De Lattre là một người lănh đạo và gây được tin tưởng. Khi được hỏi tại sao lại nhận lấy một sự nghiệp nhiều phần được coi như là thất bại rồi, ông đă trả lời là chưa thất bại và ông đang chiến đấu trong một đội Thập tự quân chống lại Cộng sản. Trái với quan điểm của nhiều người lúc bấy giờ, cho rằng Bộ chỉ huy tối cao Pháp đă đề cử ông cốt để làm dịu những lời chỉ trích của Bộ Tổng Tham mưu trong vụ bê bối của các tướng và để chủ tŕ cho sự cáo chung một cách có hệ thống Đế quốc Pháp ở Viễn Đông, De Lattre lại cho thấy nhiều dấu hiệu ông không có ư định rút lui. Như đă nói ở trên, ông ta hy vọng sẽ chiến thắng trong ṿng 15 tháng.
Việc đầu tiên ông ta thực hiện là chuyển từ hỗn loạn sang trật tự, từ thất vọng sang hy vọng, từ lănh đạm sang chủ động và không phải chỉ ở trong quân đội của ông mà trong cả thường dân Pháp và những người Việt không Cộng sản. Ông hứa hẹn ít: không cải tiến, không tăng cường, không có thắng lợi dễ dàng mà chỉ có nhiều hy sinh hơn nữa. Và, với quân đội, ông nói “Không có vấn đề ǵ cả, các người sẽ được chỉ huy”. Đối với những người lính trước đây đă rất ít khi hiểu được họ làm ǵ ở Đông Dương, th́ đây là một lời tuyên bố tích cực đầu tiên của Bộ chỉ huy tối cao. C̣n với danh nghĩa là Cao uỷ, ông đă đặt ra nhiệm vụ pḥng vệ cho các thường dân Pháp ở Đông Dương, và đă trưng dụng mà không cần báo trước các máy bay dân sự cua Pháp khi hạ cánh xuống Sài G̣n để chuyên chở lực lượng tăng viện ra mặt trận.
De Lattre chưa có mặt ở Đông Dương một tháng trước khi Giáp thực hiện “giai đoạn cuối cùng” cuộc tổng tiến công để đẩy người Pháp ra khỏi đồng bằng và chiếm lại thủ đô Hà Nội. Giáp đă tấn công vào quân đội De Lattre ở chung quanh Vĩnh Yên ngày 16-1. Sau thắng lợi ban đầu của Việt Minh, hoả lực của Pháp có bom napall không quân hỗ trợ, đă giúp giành lại được ban ngày, và bộ đội của Giáp rút khỏi chiến trường ngày 17.
Không hề nản sau trận thất bại đầu, Giáp tập hợp lực lượng và lại đánh vào Mạo Khê (15 dặm bắc đông bắc Hái Pḥng). Trận đánh bắt đầu từ đêm 23-24 tháng 3 và kéo dài đến chiều ngày 28. Một lần nữa, Giáp lại không phá được tuyến pḥng thủ của Pháp; Pháp chỉ bị 40 người chết và 150 người bị thương.
Một cuộc tấn công thứ ba, ít tham vọng hơn, đă xảy ra ngày 29-5, dọc bên bờ sông Đáy, khoảng 60 dặm nam Hà Nội. Mặc dù đă giành được ít nhiều thắng lợi ban đầu, nhưng trận đánh đă kết thúc ngày 18-6.
Giáp chưa chuẩn bị đầy đủ cho “giai đoạn cuối cùng” và mùa mưa tới đă làm gián đoạn các chiến dịch của ông.
Nhưng De Lattre thấy ông ta không thể bảo vệ 7 triệu dân và 7.000 dặm vuông đất đai đồng bằng Sông Hồng v́ thiếu binh lực nên đă vội vàng cho xây một loạt các cứ điểm mạnh từ Móng Cái tới Vĩnh Yên (45 dặm bắc Hà. Nội) rồi về phía nam tới bờ biển. Hệ thống cứ điểm pḥng ngự này được gọi là “pḥng tuyến De Lattre” và cũng giống như pḥng tuyến Maginot nổi tiếng.
Các tuyến pḥng thủ cố định này luôn được tuần tiễu, nhưng Việt Minh cũng vẫn dễ dàng xâm nhập qua được.
“Tuyến De Lattre” và các đơn vị cơ động tuần tiễu đ̣i hỏi phải có khoảng 1 vạn lính mà De Lattre khó ḷng cung cấp đủ nếu ông c̣n muốn để quân t́m đánh Việt Minh. Nhưng Bộ Tổng Tham mưu Pháp đă đồng ư cho xây dựng pḥng tuyến do tướng Revers đề ra từ tháng 5-1949, mà lại không cho tăng thêm quân số. Sự chống đối chính trị ở Pháp không cho gửi lính mới nhập ngũ sang Đông Dương nên đă tước bỏ mọi hy vọng có thêm quân tăng viện từ chính quốc. Chỉ c̣n có một giải pháp khác: quân đội Quốc gia Việt Nam.

Với tư cách là quốc trưởng, Bảo Đại có thể gọi một đội quân quốc gia, nhưng ông ta đă cưỡng lại không làm. Ông ta không có những nhà lănh đạo quân sự. Người Pháp cũng đă không đào tạo ra được người Việt Nam nào có cấp bậc cao hơn những người chỉ huy các đơn vị nhỏ hoặc thông thạo các vấn đề chiến lược. Bảo Đại c̣n bị các quan chức cai trị Pháp chống đối mạnh mẽ, số này vốn là tay chân của Pignon, người được De Lattre thay thế, và đi theo đường lối của đảng Cộng hoà B́nh dân và Tập hợp Dân chúng Pháp chống lại việc có một đội quân người bản xứ không do Pháp trực tiếp kiểm soát. Sau cùng là Bảo Đại cũng lo một đội quân như thế rất có thể sẽ chạy hàng loạt sang phía Việt Minh.
Chính De Lattre (khi đó c̣n ở Pháp) đă gạt bỏ được sự chống đối đó và thuyết phục người Pháp là cần có một quân đội quốc gia do người Việt Nam chỉ huy để đỡ gánh nặng quân sự cho Pháp. De Lattre đă tác động đến thái độ của Pháp và sau đó một học viện quân sự đă được mở ra vào tháng 11-1950. Nhưng các sĩ quan tốt nghiệp học viện lại chỉ được phục vụ trong đội quân viễn chinh Pháp, được đưa vào các đơn vị “da vàng” của quân viễn chinh, có nghĩa là họ không phải là quân nhân Việt Nam, mà là quân nhân Pháp. Đó không phải là đúng như ư định của De Lattre và càng thúc bách Bảo Đại và thủ tướng Trần Văn Hữu của ông ta phải lập một quân đội quốc gia.
Cuối cùng, đến tháng 7-1951, Bảo Đại cho tiến hành cuộc gọi quân đầu tiên, nhưng chỉ có một số ít người đáp lại. Các nhà chức trách quốc gia cũng như địa phương đă không nhiệt t́nh hưởng ứng v́ sợ có ảnh hưởng không hay về chính trị. Nhiều thanh niên, để trốn bị động viên đă đi theo các đơn vị dân binh Cao Đài hoặc Hoà Hảo. De Lattre nổi cáu, đă nói với một toán tân binh “Hăy chiến đấu cho đất nước các anh như những con người. Nếu các anh là Cộng sản th́ hăy đi theo Việt Minh. Ở đó cũng có người đang say mê chiến dấu cho một lư tưởng tồi tệ!”(8).
De Lattre đă làm được nhiều việc trong thời gian ngắn ngủi khi ông ở Đông Dương, tuy chẳng có việc ǵ tác động được đến bước kết thúc cuối cùng của cuộc chiến tranh. Hoạt động của ông ta đă bị chững lại v́ bị bệnh nguy kịch; vị Thống chế tương lai của nước Pháp c̣n phải chịu đựng cái chết bi thảm của người con trai độc nhất, thiếu uư Bemard De Lattre, hy sinh ở trận sông Đáy trong đợt chiến dịch thứ ba không thành công của Giáp nhằm chiếm lại đồng bằng và Hà Nội.
Ông ta đă đến Washington (tháng 9-1951) dể thảo luận vấn đề viện trợ Mỹ cho Pháp, mà ông đánh giá cao, nhưng khi trở về Paris th́ t́nh trạng sức khỏe bị suy sụp. Nhưng ông ta vẫn cho rằng viện trợ trực tiếp cho các quốc gia liên hiệp là “có hại” và vẫn muốn viện trợ phải do Pháp phân phối và qua con đường của Pháp. Ông nói với Robert Blum, lúc đó phụ trách chương tŕnh viện trợ kinh tế Mỹ, “với tư cách là một người nghiên cứu lịch sử, tôi có thể hiểu được điều đó (viện trợ Mỹ), nhưng là người Pháp th́ tôi không thích”.
Blum (vào năm 1952) đă nói về cái tam giác Bảo Đại - Pháp - Mỹ như sau:
“Một mặt là những lời tuyên bố chính thức được nhắc đi nhắc lại là Pháp không hề có quyền lợi vị kỷ ở Đông Dương, chỉ mong muốn thực hiện độc lập cho các quốc gia liên hiệp và ngăn chặn được sự xói ṃn ghê gớm nguồn tài nguyên của Pháp. Mặt khác lại là vô số các tỉ dụ về sự cố t́nh kéo dài nền cai trị của Pháp, việc can thiệp vào các vấn đề chính trị chủ yếu, việc đầu cơ, thường xuyên căi vă và nói xấu sự chuyến giao quyền lực và giải quyết vấn đề độc lập…
Rơ ràng là có mâu thuẫn trong hành động của Pháp giữa sự mong muốn rút ra khỏi cuộc chiến không được dân chúng ủng hộ, tốn kém và chắc chắn là không có kết quả, với ư định được thấy nó kết thúc trong danh dự, thoả măn được niềm tự hào của Pháp, đồng thời lại bảo toàn được quyền lợi. Sự khác biệt này đă thể hiện một cách khá sâu sắc trong thái độ với tướng De Lattre ở Đông Dương, nơi ông được ca tụng như một thiên tài chính trị và là một vị cứu tinh về quân sự… và đối với ông, ở Pháp, bị người ta nghi ngờ cho rằng chỉ v́ danh vọng cá nhân mà đem tài nguyên của Pháp tiêu phí trong một cuộc phiêu lưu nguy hiếm.
Về vấn để tham gia của Mỹ, Blum nói tiếp:
“Thực khó mà đánh giá được kết quả của gần 2 năm (1950-1952) Mỹ tích cực tham gia vào công việc ở Đông Dương. Mặc dù chúng ta đă lao vào một cuộc hợp tác không dễ dàng, một mặt, với người Pháp sặc mùi “thực dân” nhưng không thể tránh khỏi, và mặt khác, với những người Việt Nam yếu đuối và chia rẽ, nhưng chúng ta cũng đă không có đầy đủ khả năng hoà giải hai bạn đồng minh đó trong một cuộc đấu tranh có xu hướng đặc biệt chống Cộng”.
Và Blum kết luận:
“T́nh h́nh ở Đông Dương không làm cho chúng ta hài ḷng và thể hiện không có triển vọng tiến bộ có thể, không thể giành được một chiến thắng quân sự quyết định, chính phủ Bảo Đại có rất ít hứa hẹn phát triển được tài năng và giành được sự trung thành của dân chúng, và việc đạt tới được các mục tiêu của Mỹ thực là xa xôi”.
Phân tích và kết luận của Blum về thực chất không khác ǵ các nhận xét của thượng nghị sĩ John F. Kennedy khi ông tới thăm Việt Nam tháng 11-1951 và đă tuyên bố:
“… tự chúng ta đă ĺên minh với sự cố gắng tuyệt vọng của chế độ Pháp nhằm duy tŕ những tàn dư của một đế quốc. Nhưng chính phủ Việt Nam bản xứ đă không có được một sự ủng hộ rộng răi trong nhân dân của vùng này”.
Tuy De Lattre đă làm cho Pháp được thảnh thơi chút ít trước cuộc tiến công mănh liệt nhưng không có kết quả của Việt Minh, nhưng cuộc thương lượng đ́nh chiến ở Triều Tiên bắt đầu từ tháng 7-1951 đă làm cho cả Pháp và Mỹ lo ngại về khả năng một cuộc xâm lược qui mô lớn của Trung Quốc đối với Đông Dương. Điều đó không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ đă có một số lớn quân Trung Quốc tập trung ở biên giới Bắc Kỳ và nhiều đồ viện trợ đă được cung cấp cho Việt Minh.
Pháp đă nhận định về mối đe doạ mới đó với một nỗi hoảng sợ và thất vọng. Các nhà làm chính trị của họ đă bắt đầu nghĩ tới thương lượng và thoả hiệp với Việt Minh khi mà lực lượng so sánh, theo họ nghĩ, sẽ nghiêng về phía Pháp. Nhưng Mỹ lại nhận định khả năng xâm lược của Trung Quốc trong điều kiện địa vị quân sự của Pháp tiếp tục suy sụp, nặng về phía coi đó là một mối đe doạ của sự bành trướng Cộng sản hơn là về việc mất mát một thuộc địa của Pháp.
Sau các cuộc thất trận của Việt Minh vào đầu 1951, Giáp đă phải xem xét lại chiến lược của ḿnh và quyết định cho lui về “giai đoạn hai” theo lư luận về chiến tranh cách mạng, áp dụng trở lại các chiến thuật du kích, quấy rối, tiêu hao và làm suy yếu các cơ cấu pḥng thủ cố định của Pháp. Trong khi De Lattre trở về Pháp (1-12-1951), phó của ông ta, tướng Raoul Salan, đă nắm quyền chỉ huy, quyết đưa quân đi đánh Việt Minh. Nhưng Giáp đă không tiếp chiến, trừ khi ông thấy có thể đánh theo kiểu của ḿnh. Quân Pháp đă đánh vào những chỗ trống không và thường xuyên bị tổn thất nặng nề. Các chiến sĩ Việt Nam đă làm cho quân Pháp phải bộc lộ, đánh rồi biến mất vào trong rừng. Hoặc họ có thể tiềm nhập vào một vị trí của Pháp, đánh phá rồi rút, gây thiệt hại, làm gián đoạn giao thông liên lạc, gây thương vong nghiêm trọng mà họ chẳng phải chịu tổn thất nào.
Mùa thu năm 1951, các chính trị gia Pháp cần một cách khốn khổ phải có được một trận thắng ở Đông Dương. Quốc hội Pháp chuẩn bị thảo luận ngân sách Đông Dương tài khoá 1952-1953 và các nhà ngoại giao Pháp ở Washington đang cố gắng thuyết phục nhân dân chúng ta tăng thêm phần Mỹ gánh vác các chi phí của cuộc chiến tranh. Do đó, một “chiến thắng vang dội ở Đông Dương, ngược lại với sự bế tắc ở Triều Tiên, sẽ có một tác động mạnh đến phái bồ câu ở Paris và gây xúc động cho Quốc hội Mỹ ở Washington”.
De Lattre, trong khi chỉ c̣n ở lại Đông Dương ít tuần lễ nữa, đă chọn giành một thắng lợi dễ dàng bằng cách cho chiếm thủ đô yên tĩnh của dân tộc Mường, Hoà B́nh (khoảng 40 dặm tây nam Hà Nội).
Quân Pháp chiếm đô thị này chiều ngày 14-11-1951 mà không gặp một sự đề kháng nào. Cho rằng Việt Minh sẽ không thể phản kích, trong những lần tiếp sau, Pháp đă đưa thêm một số lớn thiết giáp, pháo binh và binh lính vào thung lũng sông Đà bên cạnh, dự định tiến vào trung tâm căn cứ của Giáp ở vùng đông bắc (?). Đó là một quyết định tồi! Giáp đă không chịu tiếp chiến vào lúc đó, theo cách đánh của Pháp, nhưng ông đă không bỏ lỡ khả năng đánh tiêu hao quân Pháp trong lúc họ nghỉ ngơi.
Pḥng ngự của Pháp dựa vào một loạt các đồn bốt ngoại vi dọc sông Đà và đường 6, bắc và đông Hoà B́nh. Giáp đă tấn công vào đồn chính ở Tu Vũ (độ 20 dặm bắc Hoà B́nh) ngày 9-12 và chưa đến 24 giờ sau, đă đuổi được quân Pháp chạy qua sông Đà.
Trận Tu Vũ chỉ là một điềm dữ. Các cuộc chiến đấu giằng co để giành kiểm soát sông Đà đă diễn ra suốt trong tháng 12, trong khi người Pháp ngoan cố tăng cường người và trang bị cho các vị trí của họ. Và Giáp đă đánh theo luật lệ của ông ta. Việt Minh ẩn nấp trong vùng núi đá vôi gần đó, lại xuất hiện vào tháng 1-1952 để dùng chiến thuật của Giáp đánh tiêu hao quân Pháp. Đến cuối tháng, thấy rằng nỗ lực cũng không mang lại kết quả ǵ, Salan cho rút toàn bộ mũi tấn công Hoà B́nh, cứu thoát binh lực và trang bị để chuẩn bị cho các trận đánh sau này ở đồng bằng và vào vùng cao nguyên người Thái (bắc Bắc Kỳ từ phía tây sông Hồng tới biên giới Lào).
Trận “chiến thắng vang dội” đă không h́nh thành được mà quân đội và trang bị của Pháp lại bị hao tổn thảm hại. T́nh trạng suy sụp của quân Pháp đă trở thành mối lo ngại chủ yếu cho chính phủ Pháp, cũng như cho những người hoạch định chính sách Mỹ. Khả năng có thể xảy ra một cuộc xâm lăng của Trung Quốc đè nặng lên sự suy nghĩ của Bộ tham mưu Liên quân và các nhà ngoại giao chúng ta.
Đầu năm 1952, Hội đồng An ninh Quốc gia đă kết luận là sự can thiệp của Mỹ sẽ được hạn chế trong việc đối phó với một cuộc xâm lăng trực tiếp của Trung Quốc. Trong khi không xảy ra t́nh huống đó, nhưng lại phải đương đầu với t́nh h́nh đang diễn ra, Hội đồng An ninh Quốc gia đă khuyến cáo chúng ta phải gia tăng mức viện trợ cho quân đội Liên hiệp Pháp nhưng “không được làm giảm nhẹ trách nhiệm cơ bản về quân sự của các nhà chức trách Pháp trong công cuộc pḥng thủ Quốc gia Liên hiệp”.
Tổng thống Truman đă thông qua một bản Tuyên bố chính sách về “các mục tiêu và phương hướng hoạt động của Mỹ đối với Đông Nam Á”, do Hội đồng An ninh Quốc gia đệ tŕnh ngày 25-6-1952, trong đó có đoạn viết
“Cho thực hiện các phương hướng tối thiểu sau đây về hành động quân sự, hoặc dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc hoặc là cùng với Pháp và Anh, và chính phủ bạn nào khác:
1) Một sự pḥng thủ kiên quyết bản thân Đông Dương, trong đó Mỹ sẽ cung cấp sự hỗ trợ về đường không và đường biển ở mức độ có thể thực hiện được.
2)Cắt đứt các đường giao thông của Trung Cộng, bao gồm cả các tuyến trong đất Trung Quốc.
3) Mỹ hy vong sẽ cung cấp được các lực lượng chủ yếu để thực hiện công tác trên mục 4)…
Thất bại của Pháp đầu năm 1952 này đă làm đảo lộn quyết định của các nhà hoạch định chính sách của chúng ta; họ sợ sự bành trướng của Cộng sản đến mức đă cam kết đưa quân đội của chúng ta tham gia vào một cuộc chiến tranh thực dân của Pháp. Chim Hải âu, điềm lành trời mang lại cho nước Mỹ, đă vỗ cánh lên đường bay qua biển cả.
***
Vào lúc này, Đông Dương đă có một vị Cao uỷ mới, Jean Letourneau. Ông là một người Công giáo cánh hữu, đảng viên phong trào Cộng hoà B́nh dân có đường lối thực dân, trước là Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại rồi trở thành Bộ trưởng các Quốc gia Liên hiệp. Tháng 4-1952, khi ông thay De Lattre làm Cao uỷ th́ ông vẫn giữ chức Bộ trưởng. Sự kiêm nhiệm đó đă mang lại cho ông những quyền hành lớn lao ở Việt Nam “độc lập” hơn bất kỳ một viên cựu toàn quyền nào trong thời buổi chế độ thực dân. Đ̣n chính trị của Letourneau được sử dụng để ḱm hăm chế độ Bảo Đại vào tháng 6-1952 là thủ tướng Trần Văn Hữu đă phải trao quyền cho thủ trưởng cơ quan mật thám chính trị của ông ta là Nguyễn Văn Tâm, tuy cả hai đều là công dân Pháp.
Một Phái đoàn điều tra của Quốc hội Pháp sau này (tháng 5-1953) đă lên án Letourneau thực hiện “một chế độ độc tài thực sự, không bị hạn chế hoặc kiểm soát”. Phái đoàn gồm có một đảng viên Xă hội, một Độc lập, một Cộng hoà B́nh dân, và một Xă hội cấp tiến, đă phát biểu:
“Bè lũ trong dinh Norodom” tự cho ḿnh cái hào nhoáng là cai trị theo kiểu cách Pháp và trị v́ trên một đất nước mà phong trào cách mạng đang âm ỉ… Sài G̣n mà nạn cờ bạc, truỵ lạc, say mê tiền tài và quyền thế, cuối cùng dẫn đến thoái hoá về tinh thần và huỷ hoại ư chí…, và chính quyền Bảo Đại, là nơi mà các Bộ trưởng… hiện ra dưới con mắt đồng bào của họ chỉ là những công chức Pháp…”

Báo cáo của Phái đoàn đă chỉ trích Pháp về sự suy đồi của Việt Nam:
“Thực là nghiêm trọng v́ sau 8 năm để buông trôi và vô chính phủ, sự có mặt ở Đông Dương của một Bộ trưởng tại chỗ vẫn không có khả năng chấm dứt những vụ bê bối hàng ngày trong đời sống của xứ thuộc địa như việc ban cấp các giấy phép, chuyển tiền, đền bù thiệt hại chiến tranh, và trao đổi buôn bán. Dù cho chính quyền của chúng ta không hoàn toàn chịu trách nhiệm về những tệ đoan này đi nữa, th́ cũng thật đáng chê trách là chính quyền đă được khẳng định là đă không biết tới hoặc đă dung túng những cái đó”.
Một chủ bút có thế lực người Pháp, b́nh luận về báo cáo của Phái đoàn đă phê phán “khuynh hướng tự nhiên của vị thống đốc quân sự là muốn ḿnh tồn tại măi măi” và “một số các nhóm chính trị Pháp đă sống nhờ vào nguồn thu nhập chính của họ trong chiến tranh… qua các vụ trao đổi hối đoái, tiếp tế cho quân đội viễn chinh và việc đền bù chiến tranh”. Ông kết luận:
“Sự thật là các việc này đă được biết, càng giúp thêm cho thấy đă có một kế hoạch rơ ràng được xây dựng từng bước nhằm loại trừ mọi khả năng thương lượng ở Đông Dương đế đảm bảo kéo dài không thời hạn cuộc xung đột và việc chiếm đóng về quân sự”.
Trong khi mà cả t́nh h́nh quân sự và chính trị ở Đông Dương chuyển biến một cách khốn khổ trong nửa cuối năm 1952; th́ ở Mỹ, cuộc vận động bầu cử Tổng thống đang tiến triển và chính quyền Eisenhower sắp nhận chức nên càng làm cho sự cam kết của chúng ta ở Đông Dương sâu sắc thêm. Trong một thời gian dài, phe đối lập đă không ngừng lên án chính quyền Truman phải chịu trách nhiệm đă để “mất” Tmng Quốc cho Cộng sản. Phát biểu của John Foster Dulles trong cuộc vận động tuyển cử đă không nghi ngờ cho thấy ông coi Đông Nam Á là một vùng then chốt trong cuộc xung đột với “đế quốc” Cộng sản, và điều quan trọng là phải kéo tuyến ngăn chặn lên phía bắc Bát Gạo của châu Á - tức là bán đảo Đông Dương.
Tổng thống Eisenhower trong bản Thông điệp gửi quốc dân đầu tiên của ông (ngày 3-2-1953) đă hứa sẽ có “một chính sách đối ngoại tích cực và mới” và đă đi tới gắn liền cuộc xâm lăng của Cộng sản ở Triều Tiên và Malaysia với Đông Dương. Dulles, Bộ trưởng Ngoại giao mới, đă tuyên bố Triều Tiên và Đông Dương là hai cạnh sườn của kẻ thù chủ yếu là Trung Cộng ở giữa. Chính quyền của đảng Cộng hoà đă rơ ư đồ muốn ngăn ngừa không để mất Đông Dương bằng cách có một thái độ chống Cộng thẳng thừng hơn.
Cuộc thương lượng kéo dài ở Triều Tiên đă gây ra sự lo ngại là Trung Cộng có thể chuyển sự chú ư của họ sang phía Đông Dương và Tổng thống Eisenhower ngày 16-4-1953 đă cảnh cáo rằng nếu cuộc đ́nh chiến ở Triều Tiên chỉ đơn thuần giải phóng cho các đội quân để họ tiến hành một cuộc tấn công vào một nơi nào khác th́ đó sẽ chỉ là một sự bịp bợm. Và sau cuộc đ́nh chiến ở Triều Tiên được kư kết, Dulles tiếp tục luận điểm nói trên đă có nhận xét (trong diễn văn ngày 2-9-1953) “một mặt trận duy nhất của Cộng sản xâm lược kéo dài từ Triều Tiên đến bắc Đông Dương ở phía Nam”. Ông nói tiếp:
“Trung Cộng đă và hiện c̣n đang huấn huyện, trang bị và tiếp tế cho lực lượng Cộng sản Đông Dương. Ở đây cũng có nguy cơ, giống như ở Triều Tiên, Trung Quốc sẽ có thể đưa quân đội của họ vào Đông Dương. Trung Cộng sẽ thấy rằng một cuộc xâm lược thứ hai như vậy sẽ không thể xảy ra mà không mang lại những hậu quả nghiêm trọng, không phải chỉ hạn chế vào cho Đông Dương. Tôi nói điều đó một cách không màu mè… với hy vọng ngăn ngừa sự tính toán sai lầm mới của kẻ xâm lược”.
Những lời cảnh cáo với Trung Quốc này có bao hàm một ư muốn phân biệt giữa sự thành công và thất bại trong việc ngăn chặn Hồ Chí Minh giành được một thắng lợi hoàn toàn dựa trên khả năng Trung Quốc tăng cường sự viện trợ hoặc trực tiếp can thiệp. Cảnh cáo Trung Quốc chắc chắn c̣n là nhằm mục đích răn đe thêm đối với sự can thiệp của người Trung Quốc và ngầm mang theo một sự đe doạ là nếu Trung Quốc nhảy vào cuộc chiến tranh Đông Dương th́ Mỹ bắt buộc phải có hành động tiếp theo thích đáng, tốt nhất là cùng với các nước đồng minh, nhưng cũng có thể chỉ một ḿnh nếu cần. Ngoài ra, chính quyền Eisenhower c̣n có ư cho rằng, áp dụng chính sách đánh trả hàng loạt, Mỹ sẽ đánh một đ̣n nguyên tử trừng phạt đối với Trung Quốc mà không nhất thiết phải đưa lục quân của chúng ta tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu Á.
*
Giáp, trong thời gian bầu cử chính quyền mới của chúng ta, đă t́m ra được gót chân Achille(9) của Pháp: thiếu cơ động và hậu cần nặng nề cồng kềnh; và ông đă cho thực hiện cách đánh “vận động chiến” của ông để chuẩn bị chiến tranh với những cuộc hành quân quy mô lớn, một bước để đi tới “trận địa chiến” và giành thắng lợi. Mục tiêu đầu tiên ông chọn là đánh chiếm cao nguyên Thái và chiếm đóng Lào. Ngày 11-10-1952, Giáp cho 3 đại đoàn vượt sông Hồng trên một tuyến 40 dặm, lướt quét các tiền đồn Pháp trên đường tiến về sông Đà. Ngày 30-11, các đơn vị đi đầu của Việt Minh đă tới biên giới Lào. Trong quyển “Hai Việt Nam”, Bernard Fall đă viết về t́nh h́nh đó như sau: “các sư đoàn Cộng sản, ngay trước mắt người Pháp đang làm chủ trên không, đă vượt qua 180 dặm trong 6 tuần chiến đấu mà chẳng phải dùng đến một con đường bay, một xe cơ giới nào”. Đến ngày 1-12, người Pháp đă rút lui tương đối an toàn về sau pḥng tuyến De Lattre ở phía bắc Hà Nội, nhưng cũng không phải không thiệt hại nặng về người và trang bị.
Trong đầu xuân 1953, Giáp đưa cuộc “vận động chiến” của ông từ đất Thái sang Lào. Rồi Giáp tiến về phía nam cho đến khi Pháp quyết định né tránh bằng cách chuyển sang phía đông về Cánh đồng Chum, nhưng Giáp vẫn đuổi theo và bao vây họ ở đó. Đến ngày 7-5, quân đội của Giáp rút về Việt Bắc, để lại phía sau một lực lượng nhỏ để cầm giữ người Pháp, đồng thời tăng cườg nhiều cố vấn chính trị cho Pathet Lào dưới quyền của Hoàng thân Souphanouvong.
Tháng 5-1953 cũng là tháng đă nổ ra cuộc khủng hoảng mới trong nội các Pháp và J. Laniel, một đảng viên Độc lập được đưa vào ghế thủ tướng. Laniel thay Letourneau bằng M. Dejean và cử làm Công sứ Tổng uỷ viên, một chức vụ có nhiều quyền hạn khác trước. Việc chấn chỉnh bộ máy Cao uỷ cũ cũng giúp loại trừ được một số lộng hành này nhưng lại đẻ ra một số mới khác. Các chức năng dân sự của Cao uỷ cũ được chia ra cho Công sứ Tổng uỷ viên và ba Cao uỷ Pháp ở Việt Nam, Lào và Cambodia. Các quyền hành quân sự trước đây nằm trong tay Cao uỷ Pháp nay được chuyển cho Công sứ Tổng uỷ viên là sĩ quan duy nhất chịu trách nhiệm về pḥng thủ và an ninh ở Đông Dương. Như thế là Công sứ Tổng uỷ viên đă nắm được toàn bộ quyền phân phối viện trợ cho các quốc gia Liên hiệp. Cách tổ chức mới này đă làm cho người thủ trưởng dân sự trở thành một người trọng tài thực sự về các vấn đề quân sự. Đó cũng là một điều nổi bật c̣n giữ lại từ thời của các viên Toàn quyền; quân đội chỉ có một nhiệm vụ nhỏ là duy tŕ trật tự.
Tướng Henri-Eugène Navarre là người chỉ huy đầu tiên và cũng là người cuối cùng đă cảm thấy sự kiểm soát mới của bên dân sự ràng buộc đối với các hoạt động quân sự. Ông ta đă đưa ra một kế hoạch nhằm đánh bại Việt Minh một cách quyết định vào năm 1955 và đă được Mỹ, đặc biệt là tướng O’Daniel và Bộ trưởng ngại giao Dulles ủng hộ.
Kế hoạch Navarre đó, c̣n được gọi là “Quan niệm của Navarre về các cuộc hành quân ở Đông Dương” đă đưa ra một công thức giành thắng trận có thể thành công mà không phải đưa quân Mỹ vào tham gia trực tiếp và chỉ cần dựa vào một sự viện trợ đại quy mô của Mỹ về quân sự.
Từ tháng 5-1953, Mỹ đă tuôn hàng tiếp tế vào Lào và Thái Lan và cung cấp cho Lào 6 máy bay C-119 cùng với các tổ lái dân sự. Quốc hội đă đồng ư cho cấp 400 triệu dollar viện trợ cho Pháp trong tài khoá 1954, nhưng sau khi Pháp đưa ra kế hoạch Navarre, Quốc hội đă chuẩn cho thêm một khoản phụ 385 triệu. Tuy đă có đủ viện trợ, nhưng tướng Navarre vẫn thấy ḿnh bị hạn chế trong việc mở rộng các cuộc hành quân chống lại Việt Nam v́ quyền quyết định cung cấp các nguồn tài nguyên nói trên của Công sứ Tổng uỷ viên. V́ tất nhiên là Dejean phải theo chính sách Pháp - không được tung ra thêm nhiều lực lượng hơn nữa mà phải chuẩn bị cho cuộc điều đ́nh - và Navarre đă bị chỉ trích là kế hoạch của ông có thể thất bại.
Những thắng lợi của Việt Minh trong thời kỳ này đă cho thấy rơ thêm t́nh trạng nguy ngập của Pháp; các chiến dịch mới nhất của Giáp chứng tỏ lực lượng Việt Minh đang lên, một phần do tác động của việc Nga và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự. Lực lượng chiến đấu Pháp đă tụt xuống thấp một cách nguy hiểm, và không hy vọng có sự bổ sung nhanh từ Pháp. Đó là một bức tranh ảm đạm. Trong một số giới chính trị ở Paris lại xôn xao về “một giải pháp danh dự”, trước sự bực bội của các quan chức Washington.
Bộ Tổng chỉ huy Pháp và cánh hữu thực dân quan niệm “giải pháp danh dự” phải là một chiến thắng quân sự, và về điểm này họ được sự ủng hộ của chính phủ Mỹ, mặc dù với những động cơ khác nhau. Để tạo được một t́nh h́nh quân sự cho phép đạt được “giải pháp danh dự” th́ nhất thiết cần phải xây dựng một lực lượng chiến đấu mạnh hơn Việt Minh, và nhất định phải cơ động hơn. Đó cũng là bài học tướng Salan đă tiếp thu được trong một năm đối đầu với Giáp. Và việc t́m kiếm “một giải pháp danh dự” vẫn cứ được tiếp tục.
Ở Washington, thượng nghị sĩ J.F. Kennedy đă thấy giải pháp Bảo Đại không đi tới đâu và Pháp th́ ngoan cố đối với việc trao trả độc lập cho Việt Nam, đă viết:
“Độc lập chân chính… chưa có được ở Đông Dương, chức năng cua chính phủ bản xứ bị bó hẹp…; Chính phủ nước Việt Nam, một quốc gia quan trọng bậc nhất trong vùng, thiếu sự ủng hộ của quần chúng…, chúng ta sẽ nhấn mạnh tới vấn đề độc lập chân chính… Tôi tin tưởng mạnh mă rằng người Pháp không thể thành công ở Đông Dương nếu không có những nhân nhượng cần thiết để làm cho quân đội bản xứ trớ thành một quân đội đáng tin cậy và đánh lớn được”.
Sau đó Kennedy phê phán người Pháp:
“Năm nào chúng ta cũng nhận được 3 điều bảo đảm. Thứ nhất là nền độc lập của các quốc gia Liên hiệp hiện nay đă được thực hiện; thứ hai, nền độc lập đó sẽ sớm được hoàn thiện trên cơ sở những bước “nay” đă đạt được; và ba, quân đội Liên hiệp Pháp đảm bảo sẽ giành được chiến thắng quân sự, hoặc đúng là cơ bản giành được chiến thắng đó”.
Suốt trong thời kỳ chúng ta giúp đỡ cho người Pháp, các nhà lănh đạo Mỹ vẫn có ư kiến thấy cần thiết phải khuyến khích Pháp trao trả cho người Việt quyền tự trị rộng răi hơn. Áp lực của Mỹ đă thể hiện rơ trong bản tuyên bố công khai của thủ tướng Laniel (ngày 3-7-1953) nói rằng chủ quyền của các quốc gia Liên hiệp sẽ “được hoàn thiện” qua việc chuyển giao cho các nước này các chức năng hiện vẫn c̣n nằm trong tay người Pháp, nhưng lại không đưa ra được thời hạn cuối cùng cho việc hoàn thành độc lập. F. Mitterand(10) (thuộc cánh tả trung tâm) đă b́nh luận như sau:
“Từ năm 1949 đến nay, chúng ta đă 18 lần trao trả “độc lập hoàn toàn” cho Việt Nam. Nhưng đă có lần nào chúng ta làm thực đúng được điều đó đâu?”(11)
Trong câu chuyện riêng, Bảo Đại cũng nêu:
“Hoàn thiện” là cái ǵ? Đối với người Pháp, bao giờ cũmg chỉ có vấn đề họ phải trả chúng tôi độc lập. Tại sao họ lại không thể trao trả một lúc và tất cả?”(12)
Ngày 6-8, chính quyền mới của Eisenhower đă đưa ra những điều kiện đặc biệt để đảm bảo có viện trợ tiếp tục của Mỹ cho Pháp; một trong các điều kiện đó là Pháp công khai cam kết có “một kế hoạch nhằm gây được sự ủng hộ và hợp tác của người bản xứ Đông Dương”. Điều gay go đối với Pháp là khoản 385 triệu dollar chúng ta đă hứa để giúp thực hiện kế hoạch Navarre và Eisenhower cũng nắm chắc vấn đề này. Ông đă chỉ thị cho Đại sứ Douglas Dillon của chúng ta ở Paris báo cho Thủ tướng Laniel và Bộ trưởng Ngoại giao Bidault là chúng ta mong rằng Pháp “tiếp tục theo đuổi một chính sách nhằm hoàn thiện nền độc lập các quốc gia Liên hiệp theo đúng như bản tuyên bố ngày 3-7”.
Mỹ lo ngại nếu không có một sự ràng buộc nào của chính phủ Pháp với một nước Việt Nam không Cộng sản th́ áp lực chính trị trong nội bộ nước Pháp có thể đẩy chính phủ họ t́m kiếm một giải pháp thương lượng thay v́ cho giải pháp quân sự. Người ta cho rằng (trước trận Điện Biên Phủ) nếu kế hoạch Navarre thất bại hoặc tỏ ra phá sản, người Pháp có thể điều đ́nh ngay với những điều kiện tốt nhất có thể được, mà không cần tính toán xem những điều kiện đó có đảm bảo ngăn ngừa được cho một Đông Dương không Cộng sản hay không. Đó là một điều các nhà chiến lược và làm chính sách của chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Mong muốn của họ là nước Pháp chống dỡ được và phá tan dược mọi mưu đồ của Việt Minh muốn chiếm chính quyền bằng bất cứ cách nào. Theo chiều hướng đó, chính quyền Eisenhower đă sớm cho triển khai chính sách của chúng ta nhằm tác động đến người Pháp chống lại việc kết thúc cuộc chiến tranh trong những điều kiện “không thoả đáng” đối với các mục tiêu cơ bản của chúng ta. Theo đường lối Hội đồng An ninh Quốc gia vạch ra ngày 16-1-1954, Tổng thống đă chỉ thị cho các nhà ngoại giao chúng ta báo cho Pháp biết:
“1- Trong khi t́nh h́nh quân sự chưa có một sự cải tiến rơ rệt, th́ không có cơ sở cho một cuộc thương lượng với những điều kiện có thể chấp nhận được.
2- Chúng tôi (Mỹ) dứt khoát phản đối mọi ư kiến về một cuộc ngừng bắn, coi đó là một bước đầu để đưa tới thương lượng; v́ một cuộc ngừng bắn (như thế) sẽ dẫn đến một sự suy sụp không thể nào cứu văn được về vị trí quân sự (của Pháp - Việt ở Đông Dương); một chính quyền được gọi là Liên hiệp không Cộng sản sẽ có thể trao đất nước vào tay Hồ Chí Minh trong t́nh h́nh không thuận lợi cho việc thay thế Pháp bởi Mỹ hoặc Anh.

Chỉ lệnh nói trên cho thấy một cách chắc chắn là các nhà hoạch định chính sách của chúng ta đă sẵn sàng ngả theo việc Mỹ tiếp quản Đông Dương nếu người Pháp bị sa lầy ở đó.
Thập kỷ đầu cuộc chiến tranh lạnh đă dần từng tí một đẩy chúng ta vào vũng lầy Đông Nam Á. Quan niệm cứng nhắc chẳng hay ho ǵ của chúng ta về một khối Cộng sản xâm lược thuần nhất cũng như nhận thức theo cảm tính của chúng ta về việc “mất” Trung Quốc đều là những con đường dẫn chúng ta tới chỗ bị trơn tuột. Thuyết “domino” lại đẩy chúng ta lao vào con đường đó nhanh hơn một chút nữa. Rồi việc thiếu hiểu biết một cách sâu sắc về các đặc tính riêng của các nước Đông Nam Á và sự khác biệt giữa các xă hội các nước này đă che mắt không cho chúng ta thấy được những nỗi hiểm nghèo dọc trên đường chúng ta đi. Sau hết, mọi người đều cho rằng chúng ta đă được giao cho giữ một địa vị lănh đạo trong những vùng xa xăm hẻo lánh này. Rất ít người có thể nhận thức được sự dính líu dă càng ngày càng sâu thêm.
Nhưng vào đầu năm 1954, với trận Điện Biên Phủ và các cuộc hội nghị quốc tế ở Genève đă hiện ra ở chân trời, th́ chúng ta đă bị ngập quá sâu trong vũng lầy và trong một cuộc xung đột vừa với các mục tiêu của Pháp, vừa với của Việt Nam. Đó cũng là một năm của những quyết định đầy hiểm nghèo, và chim hải âu đă bay lượn quanh trên con tàu quốc gia chúng ta.
***
Cuối mùa xuân 1953, bộ đội của Giáp đă hành quân ṿng qua đồng bằng sông Hồng, Bắc Bộ, sang phía Tây vào cao nguyên Thái, vượt biên giới Lào rồi chuyển về hướng Nam đến đóng trong vùng rộng lớn từ Cánh đồng Chum, Trung Bộ; ở đó họ đă đánh phá tiêu hao quân của Salan một cách thắng lợi. Trong cuộc hành quân, Giáp đă tránh các cứ điểm pḥng ngự mạnh, tràn qua hoặc chiếm các tiền đồn ít quan trọng của Pháp. Một trong số đó là vị trí sân bay nhỏ Điện Biên Phủ gần biên giới Lào, bị Pháp chiếm từ ngày 30-11-1952.
Để ngăn chặn áp lực ngày càng tăng của Việt Nam và mở ra một cục diện quân sự thuận lợi cho Paris giành “giải pháp danh dự”, Salan cho rằng ông ta cần phải có thêm binh lực. Kế hoạch của ông nhằm tăng cường sức chiến đấu của quân đội bằng cách rút họ ra khỏi các chốt pḥng ngự cố định để làm cho họ cơ động thêm lên. Ông ta biết rằng không có hy vọng chờ đợi sự giúp đỡ của chính quốc Pháp, nhưng các quốc gia Liên hiệp có thể cung cấp cho ông ta số binh lực cần thiết để thay vào số quân rút khỏi các đồn trại pḥng ngự cố định nếu như Paris chấp nhận lời đề nghị của ông. Tất nhiên, ông cũng cần được tăng cường một số lượng lớn về vũ khí và trang bị, nhưng có thể do Mỹ sẽ đảm nhiệm cung cấp.
Chính phủ Pháp chấp nhận kế hoạch của Salan và đề nghị với Mỹ tăng thêm viện trợ. Yêu cầu của Pháp thật đúng lúc. Việc Giáp tiến quân vào Lào trong tháng 4, đi đôi với việc suy giảm trong nỗ lực chiến tranh của Pháp được tuyên truyền khá rộng răi, đă gây nhiều lo ngại cho chính quyền Washington, làm họ sợ một sự sụp đổ hoàn toàn của Pháp, nên đă cho tuôn mạnh đồ viện trợ tiếp tế vào Lào và Thái Lan từ tháng 5-1953. Nhưng viện trợ chỉ được cung cấp với điều kiện kế hoạch mới của Salan phải mang lại được những thắng lợi về quân sự; và vũ khí trang bị phải chủ yếu được dùng cho quân đội do các quốc gia Liên hiệp tuyển mộ.
Viện trợ mới và kế hoạch sửa đổi đặt ra cho chính phủ Pháp vấn đề phải có một ê kíp lănh đạo quân sự mới, và đến lúc đó th́ Salan được thay thế bởi nhà chiến lược cừ khôi, tướng Henri Eugène Navarre, nắm quyền chỉ huy từ 20-5-1953. Như đă nói ở trên, Hội đồng Quốc pḥng Pháp đă chỉ thị cho Navarre phải hạ thấp yêu cầu pḥng thủ Lào và trước hết “phải đảm bảo an toàn cho đội quân viễn chinh Pháp”. Nhưng sau khi nhậm chức, Navarre đi kiểm tra t́nh h́nh tại chỗ và đă định ra một chiến lược riêng của ông ta. Ông chấp nhận một phần các khái niệm của De Lattre và Salan để sử dụng và đưa ra một kế hoạch cừ khôi nhưng tai hại, mang tên ông. Nó đă được Washington đề cao nhưng lại bị Paris kết tội. Kế hoạch đ̣i hỏi phải có một lực lượng tấn công cơ động mạnh dể giành lại thế chủ động vào mùa thu năm 1954. Trong thời gian quá độ, Navarre cho thực hiện một chiến lược pḥng ngự (như Paris đă chỉ thị) ở bắc vĩ tuyến 18, nhưng sẽ tích cực tiêu diệt đối phương ở miền trung Trung Bộ và Nam Bộ (trái với các chỉ thị của Paris) trong nửa đầu năm 1954. Rồi đến mùa thu 1954, ông sẽ tung ra cuộc tổng tiến công (như đă thoả thuận với O’Daniel và Dulles) ở bắc vĩ tuyến 19 với mục đích tạo ra một điều kiện thuận lợi mong muốn cho một sự dàn xếp về chính trị của cuộc chiến tranh.
Trong khi đó th́ cuộc đ́nh chiến ở Triều Tiên rốt cục đă được kư kết ngày 26-7. Sau những buổi hội đàm dài nhất trong lịch sử - 2 năm và 17 ngày, bao gồm 575 cuộc gặp gỡ riêng. Một cuộc hội nghị đă được xúc tiến 90 ngày sau khi hoàn thành việc trao đổi tù binh, để thảo luận “tương lai của Triều Tiên và các vấn đề có liên quan”. Việc trao đổi tù binh kết thúc ngày 6-9. Cuộc đ́nh chiến đă được Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và số lớn các nước “khối” châu Âu hoan nghênh, nhưng không được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chào mừng như là một báo hiệu của hoà b́nh thế giới.
Hồ Chí Minh trong một bức điện gửi cho Mao Trạch Đông (ngày 4-8) chỉ bày tỏ một sự phấn khởi to lớn của nhân dân Việt Nam về việc cuộc chiến tranh Triều Tiên đă kết thúc. Phải chăng người Việt Nam đă phấn khởi v́ họ thấy trước là Trung Quốc sẽ chú ư nhiều hơn đến những nhu cầu của Việt Minh? Hay là họ phấn khởi v́ cuộc thương lượng hoà b́nh ở Triều Tiên đă đặt ra khuôn mẫu của một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương?
Có thể có cả hai vấn đề. Chắc chắn rằng Trung Quốc có xu hướng thiên về chiến tranh, chỉ cần cố gắng ít nhiều để phân tán bộ máy quân sự của họ không c̣n cần thiết ở Triều Tiên nữa để đáp ứng nhu cầu của ông Hồ, cũng đủ làm cho ông đối phó được với Pháp - thậm chí cả với Mỹ - từ một thế mạnh. Các nhà hoạch định chính sách ở Washington và Paris nh́n một cách lo lắng và chờ đợi hành dộng sắp tới của Bắc Kinh, và Dulles đă báo cho Trung Quốc biết qua bài phát biểu ở Saint Louis (2-9-1953), về “những hậu quả nghiêm trọng của một cuộc xâm lược sai lầm khác”. Trong cuộc họp báo ngày hôm sau, người ta đă hỏi Dulles xem có phải bài diễn văn của ông có bao hàm ư Mỹ muốn đưa vấn đề khôi phục hoà b́nh ở Đông Dương ra bàn ở Hội nghị chính trị của Triều Tiên đă được dự kiến không. Dulles đă đáp lại:
“Chúng tôi đă nói là cuộc hội nghị như dự kiến đă định lúc ban đầu… sẽ chỉ hạn chế vào vấn đề Triều Tiên. Nhưng… (nếu) Trunng Cộng tỏ ra có ư muốn giải quyết một cách hợp lư vấn đề Đông Dương, th́ về phương diện kỹ thuật, chúng tôi không thể trả lời “Không”, chúng tôi cũng không muốn nói đến vấn đề đó”.
Mùa thu, được tướng O'Daniel và Bộ trưởng Dulles khuyến khích, Navarre cho thực hiện kế hoạch của ông ta. Trong thời gian ngắn, ban đầu h́nh như mọi việc đều tốt, nhưng chỉ đến cuối năm, mặt trận trở thành tai hoạ. Rơ ràng là người Pháp cũng như người Mỹ đă không thể không công nhận là quân Pháp dă đánh vào những khoảng trống ở Đông Dương. Chỉ mới tiếp xúc là quân đối phương đă tan biến vào trong rừng để rồi lại xuất hiện ở nơi khác.
Buộc phải rút lui khỏi miền Nam xứ Thái cuối tháng 9, Navarre liền quay trở về vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với một lực lượng 20 tiểu đoàn, ông ta định tiêu diệt một trung đoàn quân chính quy Việt Minh trong tỉnh Thái B́nh (khoảng 40 dặm đông nam Hà Nội). Như đă đoán trước, lực lượng của Giáp lại biến đi; song cuối tháng 10, Pháp hănh diện báo cho tướng O’Daniel về một “chiến thắng mới” làm ông này xúc động báo cáo ngay về Tham mưu trưởng Liên quân ở Washington. Với hy vọng kéo Giáp vào bẫy, Navarre cho 3 tiểu đoàn dù chiếm lại Điện Biên Phủ ngày 20-11. Giáp đă không cắn mồi; trái lại ông đă để cho Pháp tăng cường pḥng thủ đồn ngoại vi đó và xúc tiến chuẩn bị bao vây cứ điểm của Navarre.
***
Những lời phát biểu của Dulles với báo chí ngày 3-9 về khả năng thương lượng với Trung Cộng chung quanh vấn đề Đông Dương, đă gợi cho Laniel con đường phải giải quyết vấn đề với Hồ Chí Minh. Ngày 19-9, Chủ tịch Hồi đồng Bộ trưởng Liên Xô Georgi Malenkov, một người chủ trương mạnh mẽ hoà dịu, nhấn mạnh vào đ̣i hỏi của “nhân dân yêu chuộng hoà b́nh thế giới” phải làm cho cuộc đ́nh chiến Triều Tiên thành một khởi điểm để “làm giảm nhẹ căng thẳng quốc tế ở khắp mọi nơi, bao gồm cả Viễn Đông”. Ngày 21, Andrei Vishinsky, đại diện Liên Xô tại Liên hợp quốc, đề nghị tiếp “một cuộc giảm binh bị và tuyên truyền nhằm đẩy lùi nguy cơ một cuộc chiến tranh mới”. Chu Ân Lai liền ủng hộ đề nghị của Liên Xô (ngày 8-10) và nêu lên vấn đề ghế của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc; ông nhắc lại lập luận của Malenkov về việc làm giảm t́nh h́nh căng thẳng quốc tế nhằm củng cố hoà b́nh ở Viễn Đông. Những người Cộng sản trong quốc hội Pháp nắm lấy đường lối của Mátxcơva, Bắc Kinh, liền tiếng yêu cầu thương lượng hoà b́nh với Hồ Chí Minh, giống như Mỹ đă làm với Kim Nhật Thành ở Triều Tiên.
Sau thất bại tháng 9 của Navarre, tâm trạng ở Pháp trở nên u ám. Dân chúng ngoài đường và một số các nhà làm chính trị trong quốc hội đă cho rằng Pháp đưa binh lính ra trận để phục vụ cho cuộc Thập tự chinh chống Cộng của Mỹ. Họ đă đi đến một nhận thức ác nghiệt về cuộc chiến tranh Đông Dương, nói đó chỉ là một cái địa ngục không có ǵ khác hơn là để Pháp chôn vùi thuộc địa, và đối với Pháp đấy là một cuộc chiến tranh không thắng.
Đáp lại những yêu cầu đó, ngày 27-10, Laniel công bố ư định của ông muốn thương lượng. Nhưng với ai? Không với Hồ Chí Minh mà cũng không phải v́ “Bộ tham mưu” của ông ta tỏ ra muốn có một cuộc đối thoại nào đó. Ngày 12-11, trước quốc hội, Laniel nhắc lại quan điểm của ông ta, tuyên bố chính phủ ông không cứ nhất định giành đạt cho được một “giải pháp quân sự”, mà sẽ thu xếp để có một “giải pháp ngoại giao”; mang theo ngụ ư “giải pháp quân sự” là của Mỹ, c̣n Pháp không phải thế. Cuộc tranh căi tại quốc hội Pháp đă chia đất nước ra thành hai phái: phái muốn thương lượng và phái muốn kéo dài công cuộc béo bở này của họ. Phái sau này, thường là thuộc giới tư bản kinh tế tài chính, chịu ảnh hưởng của phong trào Cộng hoà B́nh dân, kiêu hănh bám lấy “danh dự” của nước Pháp và cho rằng không thể chấp nhận việc quan hệ với Hồ Chí Minh Cộng sản - ít ra th́ cũng cho đến khi ưu thế quân sụ của Pháp đặt người Pháp trong một thế lợi để ra các điều kiện.
Trong khi ưu thế quân sự trên chiến trường chưa thấy đâu và ở Pháp tranh căi nhau, th́ Navarre, vào giữa tháng 11, vẫn lên tiếng biện minh cho những thất bại của ông ta bằng những lời ca cẩm cũ - v́ không có đủ quân. Yêu cầu tăng viện của ông ta bị Uỷ ban Quốc pḥng dứt khoát gạt bỏ; ông ta phải bằng ḷng với những cái đă có. Cũng trong thời gian đó, Laniel lo xúc tiến các cuộc điều đ́nh hoà giải, nên đă đưa một phái đoàn bí mật do Phó đô dốc Cabanier cầm đầu đến Sài G̣n để hỏi ư kiến Navarre xem đă đến lúc thuận lợi để mở các cuộc diều đ́nh ngừng bắn chưa. Navarre phát biểu (ngày 20-11) là hăy c̣n sớm quá, và t́nh h́nh quân sự Pháp sẽ thuận lợi hơn vào mùa hè tới (1954).
Trong thời gian Navarre chiếm Điện Biên Phú, tờ nhật báo Thuỵ Điển Expressen, đă cho đăng (ngày 29-11) những câu trả lời của Hồ Chí Minh cho một loạt các câu hỏi do Sven Lôfgren, phóng viên của báo ở Paris đặt ra. Trả lời của ông Hồ đề ngày 26-11 và cho biết ư định của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn điều đ́nh một cuộc ngừng bắn với điều kiện chính phủ Pháp công nhận và tôn trọng nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam vào năm 1955.
Chính phủ Pháp đă phản ứng một cách tiêu cực. Laniel quan tâm theo dơi “ư định muốn thương lượng” của ông Hồ, nhưng đa số ngoan cố phản động trong chính phủ quyết định coi như không biết đến lời đề nghị đó. Lập trường của chính phủ Pháp là ông Hồ phải đưa ra đề nghị bằng những đường chính thức, chứ không phải qua các “lời rao mật trên báo chí”. Ngày 12-12, thông tấn xă của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại nhắc lại lời đề nghị thương lượng của ông Hồ trên cơ sở như đă nêu. Rồi, lần nữa, ngày 19, ngày kỷ niệm 7 năm cuộc chiến tranh, trong thông điệp gửi Quân dội Nhân dân Việt Nam, ông Hồ cho phát thanh lời tuyên bố cho thả hàng trăm tù binh Pháp và thêm một lần nữa đề nghị thương lượng.
Tuy những cuộc thăm ḍ hoà b́nh này chẳng trực tiếp mang lại được điều ǵ nhưng gián tiếp đă làm tăng thêm t́nh cảm chính trị công chúng ngày càng mạnh ở Pháp đ̣i chấm dứt cuộc chiến tranh dường như vô tận và rất tốn kém. Trong khi đó, các báo cáo lạc quan của Navarre vẫn đưa ra hy vọng là chiến thắng đang ở trong tầm tay. Laniel và các quan chức Pháp khác đă nói với Đại sứ quán chúng ta là họ coi đề nghị của ông Hồ chỉ là tuyên tuyền, nhưng cũng phải thừa nhận là nó đă tác động sâu sắc đến công chúng và các giới quân sự ở Pháp và ở Đông Dương. Laniel c̣n cho biết tổng thống Auriol đă bị kích động đến mức ông đă nói với Laniel phải hỏi ư kiến các đại diện ba quốc gia Liên hiệp ngay tức khắc để nắm lấy khả năng sớm nhất nhằm mở các cuộc điều đ́nh với đại diện của Hồ Chí Minh. Nhưng Laniel đă dứt khoát từ chối. Các quan chức Mỹ th́ hoài nghi; báo cáo của Đại sứ quán cho thấy trong diễn văn ngày 24-11 của Laniel c̣n có khoảng rộng răi dành cho cuộc điều đ́nh, và các đề nghị của ông Hồ đă tăng thêm áp lực cho việc hoà giải.
Chính sách kiên định của Mỹ là lái cho Pháp tránh xa khỏi bàn hội nghị trong khi chưa giành dược những thắng lợi quân sự quan trọng trên chiến trường. Dulles đă nhiều dịp nói với Bidault rằng Mỹ thấy kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương trong điều kiện thuận lợi cho Cộng sản là một điều không nên. Ông muốn người Pháp tiếp tục cuộc chiến v́ ông tin tưởng một cách sâu sắc rằng Đông Dương là một mắt xích chủ yếu trong pḥng tuyến ngăn chặn Cộng sản, nhưng cũng v́ chúng ta đă bị các báo cáo của Pháp về sự tiến bộ của chiến tranh làm mờ mắt. Từ Sài G̣n, O’Daniel đă báo về là chiến thắng của Pháp có thể chắc chắn nếu được chúng ta giúp đỡ về vật chất, và chính quyền Washington đă vui vẻ đổ vào đó càng nhiều đồ viện trợ.

Trong cuộc hội nghị tại Bermuda (tháng 12-1953), Tổng thống Eisenhower, thủ tướng Laniel đă bị t́nh h́nh mặt trận Đông Dương làm cho bối rối. Các vị đă kín đáo biểu thị mối lo lắng của họ trong bản thông cáo ngày 7-12, nói rằng họ đă xem xét t́nh h́nh Viễn Đông và có kế hoạch triệu tập một cuộc hội nghị chính trị để đi tới được “một cuộc hoà giải về vấn đề Triều Tiên” và khôi phục lại “các điều kiện b́nh thường hơn ở Viễn Đông và Đông Nam Á”.
Trong khi Pháp c̣n đang bận rộn t́m một cách điều đ́nh có thể chấp nhận được và Navarre cố gắng làm chuyển biến t́nh thế quân sự của ông ta, th́ Giáp đă sẵn sàng thận trọng cho bật cái bẫy ở Điện Biên Phủ. Ngày 22-12, ông mở cuộc tấn công 5 ngày, cắt đứt Đông Dương ở chỗ hẹp nhất và xuyên qua cả Việt Nam và Lào. Cuộc tiến công chấm dứt khi Giáp tới sông Mékong trên biên giới Thái Lan.
Kế hoạch Navarre rơ ràng là không thực hiện được. Các quan chức cao cấp ở Washington do Phó Tổng thống Nixon cầm đầu, “nhóm ủng hộ Trung Quốc” ở Quốc hội, và toàn thể cánh cực hữu bảo thủ đảng Cộng hoà đă lên tiếng cảnh cáo quốc dân về mối đe doạ của Trung Cộng ở Đông Dương. Trong bài phát biểu trên đài phát thanh và truyền h́nh ngày 23-12, Nixon đă thẳng tay gạt bỏ nguyên nhân thực sự của cuộc chiến Đông Dương và nhận xét “Nếu Trung Quốc không phải là Cộng sản, th́ có thể đă không có cuộc chiến Đông Dương…”. Song ư kiến của Nixon cũng có thể là một phản ảnh xác đáng trong dư luận công chúng lúc đó cũng như sau này. Quan điểm của họ vẫn là nếu như thủ tiêu được nhân tố Cộng sản th́ mọi cái ở Việt Nam sẽ tốt đẹp. Giới quan chức của Mỹ đă được thông báo kém đến mức càng làm cho sự rối rắm kéo dài thêm.
Bộ trưởng Dulles, trong cuộc họp báo 6 ngày sau, nói đến sự thất bại ở Đông Dương. Ông đă cho biết là ư nghĩa quân sự trong hoạt động của Cộng sản đă được “thổi phồng lên một cách quá đáng”, và “chẳng có lư do ǵ… để mọi người phải hoảng sợ”. Ông nói thêm, ông “chẳng khi nào nghĩ rằng có nhiều sự chân thật” trong các hoạt động thăm ḍ hoà b́nh của Hồ Chí Minh. Và Dulles đă cảnh cáo là một sự can thiệp của Trung Cộng vào Đông Dương có thể gây ra một phản ứng của Mỹ “không nhất thiết hạn chế vào khu vực đặc biệt mà Cộng sản đă chọn làm chiến trường xâm lược mới của họ”.
Vào mùa thu 1953, giữa Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô có nhiều vấn đề nghiêm trọng phải giải quyết, trong đó Đông Dương chỉ là một, v́ c̣n có vấn đề tương lai của nước Đức và Áo. Mỹ lo đối phó với sự bành trướng của Cộng sản, đă sáng chế ra kế hoạch Cộng đồng Pḥng thủ châu Âu (EDC) mà nội dung chủ yếu chỉ là nhằm tái vũ trang nước Đức. Pháp kịch liệt chống lại một nước Đức mới được phục hồi về kinh tế và quân sự, nhưng Pháp lại cần tới những lợi ích thu lượm được từ EDC do Mỹ đỡ đầu, để xây dựng địa vị của ḿnh ở châu Âu. V́ những lư do nhất định, Liên Xô cũng chống lại EDC và ủng hộ những sự dè dặt của Pháp trong việc tham gia Cộng đồng. Mỹ mong muốn giải quyết được vấn đề, đă đưa ra đề nghị họp hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao nhưng Liên Xô thoái thác. Phản đề nghị của Liên Xô nêu ra yêu cầu trước hết Phương Tây phải từ bỏ EDC và tiến hành triệu tập một cuộc hội nghị 5 nước lớn, tức là có bao gồm cả Trung Cộng. Cuối cùng, những người Xô viết cũng thoả thuận một cuộc hội nghị chỉ có 4 nước lớn ở Berlin vào tháng 1-1954.
Hội nghị khai mạc ngày 25-1 trong khu vực Mỹ ở Berlin. Dẫn đầu các đoàn đại biểu là Dulles (Mỹ), Eden (Anh), V. Molotov (Liên Xô), và Bidault (Pháp). Vấn đề đầu tiên trong chương tŕnh nhằm giải quyết việc thống nhất nước Đức và các đồng minh nhưng rồi các vấn đề khác xen vào. Thậm chí, trước khi hội nghị họp, Malotov đă đề nghị với Bidault là người Nga sẵn sàng giúp đỡ thu xếp một cuộc đ́nh chiến ở Đông Dương để đánh đổi lấy việc Pháp rút khỏi EDC. Nhưng Bidault, với tư cách đại diện của Pháp, tỏ ra kiên quyết ủng hộ Cộng đồng và lập trường của ông ta không lay chuyển. Tuy vậy đối với ông, Đông Dương cũng thành một vấn đề; xu hướng chính trị và cá nhân ông thiên về một “giải pháp quân sự”, nhưng ông ta lại được chỉ thị phải t́m kiếm một sự “giàn xếp về ngoại giao” đủ cho điều đó, có nghĩa là phải giao dịch với Việt Minh. Do đó, Bidault cần và tích cực sự tranh thủ giúp đỡ của Liên Xô. Trong những ngày tiếp theo, Bidault đă gặp riêng Molotov, Eden và Dulles để mong đưa được vấn đề Đông Dương vào chương tŕnh nghị sự Hội nghị Genève sắp họp. Nhưng Dulles vẫn cứng rắn dù cho lúc đó ông cũng đồng ư. Nói cho cùng th́ đây là một cuộc chiến tranh của Pháp và chính phủ Laniel không thể nào hoàn toàn tránh không chịu thương lượng mà không bị dư luận dân chúng ghét bỏ và làm cho bản thân chính phủ sụp đổ trước các đảng phái đối lập chống chiến tranh.
Hội nghị đă kết thúc ngày 18-2 mà chẳng đi tới được một sự thoả hiệp nào về việc thống nhất nước Đức hay một hiệp định về Áo. Nhưng trước khi kết thúc, những người tham dự hội nghị đă đồng ư chấp nhận đề nghị của Molotov, mở cuộc đàm phán hoà b́nh ở Viễn Đông của 5 nước lớn tại Geneve vào ngày 26-4 để thảo luận về cách thức và biện pháp đi tới một cuộc hoà giải về vấn đề Triều Tiên và bàn việc văn hồi hoà b́nh ở Đông Dương.
Dulles đă thành công trong việc chống lại những cố gắng của Liên Xô muốn dành cho Trung Cộng quy chế của một cường quốc đỡ đầu hội nghị và đă đ̣i phải ghi trong thông cáo Berlin lời tuyên bố là việc mời hoặc tham dự Hội nghị Genève không bao hàm một sự công nhận về ngoại giao. Tuy vậy, khi Dulles trở về Washington ngày hôm sau, ông đă gặp không ít khó khăn trong việc thuyết phục các lănh tụ Quốc hội là việc Trung Cộng ngồi với đại diện của Mỹ tại bàn hội nghị sẽ không có nghĩa là Mỹ công nhận chế độ Bắc Kinh.
***
Cũng vào thời gian đó (tháng 12-1953 - tháng 1-1954), lực lượng của Giáp bắt đầu chiếm lĩnh trận địa chung quanh Điện Biên Phủ, đồng thời tiếp tục xâm nhập vào Lào. Các cố gắng của Navarre nhằm chặn đứng làn sóng đỏ đă không dạt kết quả, quân đội lại bị tổn thất nặng, bị phân tán nhất là không quân. Ngày 6-2, Lầu Năm góc công bố tin gửi 40 máy bay B.26 và 200 nhân viên kỹ thuật dân sự Mỹ sang Đông Dương. Đô đốc A.W. Radford, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, khi điều trần về việc này trước Uỷ ban Đối ngoại Hạ nghị viện một tháng trước khi Điện Biên Phủ bị bao vây, đă nói rằng kế hoạch Navarre là “một khái niệm chiến lược quy mô lớn, chỉ trong một vài tháng sẽ tạo ra một sự chuyển biến thuận lợi cho tiến tŕnh phát triển cuộc chiến tranh”.
Báo chí Mỹ b́nh luận nhiều về lời công bố 6-2 cho rằng việc phái các chuyên viên có thể chỉ là một tiền đề cho việc gửi quân chiến đấu sang Đông Dương để bảo lănh cho người Pháp đang bị lung lay. Hai ngày sau khi có công bố, thượng nghị sĩ M. Mansfield đă chất vấn ở Thượng viện có phải v́ người Pháp không thể chống đỡ được nữa nên chúng ta bắt buộc phải đưa Không quân và Hải quân sang chi viện giúp họ? Phải chăng điều đó có nghĩa là nếu t́nh h́nh đ̣i hỏi th́ quân chiến đấu Mỹ cũng sẽ được phái sang đó? Để làm giảm nhẹ những sự lo ngại này và cũng là để hỗ trợ cho lập trường của Radford, 3 ngày sau, Bộ trưởng Quốc pḥng C.E. Wilson tuyên bố sẽ không có phi công và bộ binh chiến đấu Mỹ ở Đông Dương, và c̣n nói thêm là không hề có kế hoạch chi viện nào đă được vạch ra “ở mức cao hơn như hiện nay”. Wilson bác bỏ ư kiến cho rằng Đông Dương có thể trở thành một Triều Tiên khác đối với Mỹ. Ông nói theo quan điểm chúng ta và của người Pháp “cuộc chiến tranh đang có khả năng và có thể đưa đến một thắng lợi quân sự đúng như chúng ta dự kiến trong giai đoạn này”.
Yêu cầu tăng viện của Pháp và lời trấn an của các quan chức Mỹ nói rằng “mọi việc tiến triển tốt” đă không có nghĩa ǵ đối với người dân b́nh thường. Tại cuộc họp báo của Tổng thống ngày 10-2, Marvin Arrowsmith, thuộc hăng thông tấn A.P đă hỏi Eisenhower có phải “việc gửi các chuyên gia sang Đông Dương sẽ có thể dẫn đến việc chúng ta tham gia vào một cuộc chiến tranh nóng ở đó không?”. Tổng thống chỉ trả lời: “… Không ai có thể chống đối gay gắt hơn tôi trong việc để cho Mỹ dính líu vào một cuộc chiến tranh nóng trong vùng này; v́ vậy mọi hành động tôi cho phép đều được tính toán… để không thể xảy ra chuyện đó”. Daniel Schorr của đài CBS nắm ngay lấy điều đó và chất vấn có phải nhận xét của Tổng thống có nghĩa là “ngài quyết tâm không để cho bị lôi cuốn vào chiến tranh hay có lẽ là vào sâu hơn trong chiến tranh Đông Dương, bất kể cuộc chiến tranh sẽ diễn biến ra sao?”. Tổng thống đă đáp lại, “Tôi không muốn tiên đoán xu hướng phát triển t́nh h́nh thế mới trong lúc này… Tôi nói là tôi không thể tạo ra một thảm kịch lớn hơn nữa cho nước Mỹ để bị lôi kéo sâu hơn nữa với những đơn vị lớn vào một cuộc chiến tranh toàn diện, trong bất kỳ nơi nào trong vùng này”.
Tổng thống kết thúc nhận xét với Schorr bằng cách biện minh cho sự can thiệp của Mỹ cho “v́ đây là trường hợp của các nước độc lập và tự do chống lại sự lấn chiếm của Cộng sản”. Nhưng Tổng thống đă bỏ qua một quan điểm quan trọng: chỉ có nước Pháp mới “độc lập và tự do”, c̣n Việt Nam là một xứ bán thực dân thuộc địa, đang nửa chừng tham gia vào một cuộc chiến tranh giành độc lập, chẳng phải là một nước “độc lập và tự do” cho tới khi có Hội nghị Genève, nghĩa là c̣n hơn 5 tháng nữa.
Trong khi ở Mỹ c̣n đang sôi nổi tranh căi về sự tham gia của quân đội Mỹ, dư luận công chúng Pháp lại mong muốn có một sự “rút ra” nhanh chóng khỏi cuộc chiến tranh vô tận này. Lào đang bị đe doạ nên Bộ trưởng Quốc pḥng Pleven nóng ḷng muốn biết ở đó có được pḥng vệ không. Hội đồng Quốc pḥng Pháp đă báo cho ông biết phải chỉ thị cho Navarre rút lui khỏi Thượng Lào nếu cần, nhưng phải nhớ là việc bảo đảm an toàn cho quân viễn chinh Pháp vẫn là vấn đề ưu tiên số một. Pléven sang Đông Dương tháng 2-1954 để trực tiếp thanh tra t́nh h́nh tại chỗ. Đi cùng c̣n có tướng Paul Ély, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng, tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân và tướng C. Blanc Tham mưu trưởng lục quân. Đoàn thanh tra đă gặp tướng Navarre và tướng Ély đă tỏ ra lo ngại cho chiến lược “cứ điểm con nhím” sẽ chỉ là “một thứ bày cỗ sẵn cho Việt Minh xơi”. Navarre biện bạch cho chiến lược hoàn chỉnh của ông ta, vừa cách ly được Việt Minh, lại vừa nắm được lực lượng cơ động trong tay. Ngay như đối với Điện Biên Phủ, một trong các “cứ điểm” ngoại vi, Navarre nói chưa chắc đối phương đă chịu dành lực lượng bao vây cứ điểm đó. Ông ta cho rằng mặc dù Việt Minh có ư định tấn công cứ điểm nhưng đă phải bỏ chỉ v́ cứ điểm đă được bố pḥng khá mạnh. Lúc đó, tướng Fay có hỏi về việc sử dụng sân bay Điện Biên Phủ sau các trận mưa lũ. Navarre đáp lại là không ai báo cáo cho ông biết có nhược điểm ǵ đặc biệt ở đây nhưng ông cũng sẽ xem xét vấn đề này.
Đoàn thanh tra trở về Pháp ngày 1-3. Báo cáo quân sự và chính trị đă vẽ ra một h́nh ảnh bi đát. Các tướng kết luận “Không giải pháp quân sự nào có thể thực hiện được”; dù cho có tăng viện mạnh mẽ đến đâu chăng nữa và bằng bất kỳ cách nào cũng không thể tác động giúp cho có lối thoát. Pléven cho t́nh h́nh chính trị hoàn toàn không thuận lợi cho người Pháp. Ông nhận định Việt Minh có thể không được người ta ưa chuộng nhưng lại được người ta sợ và tôn trọng. Số các làng xă trước đây do chính phủ Bảo Đại kiểm soát nay giảm sút dần theo chiều thuận với sự mở rộng vùng của Việt Minh. Pléven đề nghị phải hết sức cố gắng ở Genève để tranh thủ được một giải pháp có thể chấp nhận được. Nhưng ông cũng khuyên phải chống lại sự giao thiệp trực tiếp với ông Hồ v́ như thế sẽ bị phe Bảo Đại coi như là một sự phản bội. Do đó lời giải đáp duy nhất là phải lợi dụng Hội nghị Genève làm con đường danh dự để kết thúc chiến tranh.
Chính phủ Paris hoảng sợ. Người ta cảm thấy không c̣n thời gian nữa và phải làm ngay một cái ǵ thật dữ dội để cứu văn lấy cái thuộc địa cũ kia. Sau các cuộc vận động thường diễn ra giữa phái diều hâu và phái bồ câu, ngày 5-3 Lamel đưa tŕnh trước Quốc hội các điều khoản cho một cuộc ngừng bắn:
1- Tất cả quân đội Việt Minh rút khỏi Lào.
2- Vạch “một tuyến không người” chung quanh đồng bằng sông Hồng và tất cả lực lượng Việt Minh, dưới sự kiểm soát, phải rút ra ngoài.
3- Ở Trung Bộ, tập trung các lực lượng Việt Minh vào một khu vực sẽ được ấn định sau.
4- Tước vũ khí hoặc cho rút lui tất cả quân đội Việt Minh ở Cambodia và Nam Bộ.
Người kém thông thạo nhất cũng thấy ngay được các điều kiện của Laniel đ̣i hỏi một sự đầu hàng của Việt Minh và thể hiện chỉ là một hy vọng ngây ngô qua một hành động tuyệt vọng trong giờ chót để kết thúc cuộc chiến tranh mà 7 năm chiến đấu ṛng ră cũng đă không đạt được.
Rơ ràng là họ không chịu điều đ́nh với những người “bồi” của thời đại thực dân cũ. Ông Hồ và các cố vấn của ông cũng không non dại ǵ trong các cuộc vận động chính trị quốc tế, nhưng dù sao th́ ngày 10-3, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng cho biết là sẵn sàng xem xét đề nghị của Pháp. Thực ra, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng đă nghiên cứu đề nghị đó một cách nghiêm chỉnh, không phải là trong khuôn khổ các mục tiêu của Pháp, mà dưới ánh sáng của tất cả những ảnh hưởng của Hội nghị Genève sắp diễn ra.

Trong 6 tháng, ông Hồ và các cố vấn của ông đă theo dơi một cách chặt chẽ sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến tranh. Các tin tức từ Mátxcơva, Delhi và Bắc Kinh đă chỉ ra mối đe doạ là Mỹ càng ngày càng tích cực đứng vào bên cạnh Pháp. Lời tuyên bố mới nhất của Eisenhower trong cuộc họp báo ngày 10-3 làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lo ngại v́ nó đă gợi ra vấn đề Mỹ có kế hoạch trực tiếp tham gia vào Việt Nam, sẵn sàng đến mức có thể thực hiện điều đó bất cứ lúc nào. Trước ngày Eisenhower gặp nhà báo, thượng nghị sĩ J.C. Stennis trong Uỷ ban Quân vụ đă yêu cầu chúng ta cho rút các chuyên gia không quân ra khỏi Đông Dương. Ông nói “chúng ta đang từng bước đưa một cách trực tiếp người của chúng ta tham gia vào cuộc chiến đấu. Sớm muộn rồi chúng ta cũng phải hoặc chiến đấu hoặc tháo lui”. J.J. Patterson, báo New York News, đă chộp lấy điều đó và hỏi Tổng thống cho biết “chúng ta sẽ làm ǵ nếu như một trong số người của chúng ta ở đó bị bắt hoặc bị giết?”. Tổng thống đáp lại “Tôi muốn nói điều này “sẽ không có sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến tranh, nếu đó không phải là kết quả của một hành động hợp hiến được Quốc hội chấp thuận và cho tuyên bố”. Thực rơ như ban ngày, và do đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể nhận thức được dễ dàng là chiều hướng đang đi tới một sự tham gia tích cực, và Eisenhower đă lựa chọn một sự can thiệp trực tiếp công khai của Mỹ.
Rơ ràng là đối với vấn đề Mỹ nhúng tay vào Việt Nam cuối năm 1953 chẳng một ai lại đồng t́nh cho chúng ta đi sâu vào cuộc xung đột Pháp - Việt đến mức như thế. Bộ Lục quân đă tỏ ư nghi ngờ đối vối ư kiến của một số người hoạch định chính sách cho rằng chúng ta cần phải tiếp tục viện trỡ quân sự và giúp đỡ cho Pháp để cuối cùng sẽ không phải đưa bộ binh chiến dấu vào. Họ đă lập luận là nếu như vùng này thực sự quan trọng đối với lợi ích an ninh của Mỹ như Hội đồng An ninh Quốc gia đă xác nhận th́ vấn đề cần phải được giải quyết một cách dứt khoát hơn bằng cách đi tới một sự hoà giải đặc biệt. Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu Lục quân đă đề ra một cách ít kiên quyết hơn là Lục quân không có khả năng đưa quân lính tham gia chiến đấu trên đất liền ở Đông Dương trong khi Mỹ phải xúc tiến đồng thời các chương tŕnh quân sự ở châu Âu và Viễn Đông. Họ gợi ư đánh giá lại sự quan trọng của Đông Dương và Đông Nam Á so với cái giá phải trả để cứu văn các khu vực này.
Nhưng do t́nh h́nh Pháp suy sụp nhanh chóng vào tháng 12 và tháng 1, Bộ Quốc pḥng đă phải xét đến vấn đề can thiệp vào Đông Dương để đảm bảo đất nước này không bị rơi vào tay Cộng sản. Lần này, chẳng ai có ư kiến ǵ khác. Trưởng pḥng tác chiến Hải quân, đô đốc R. Anderson đề nghị với Bộ trưởng Wilson (ngày 6-1-1954) cho chúng ta đưa các đơn vị chiến đấu ngay tới Đông Dương chỉ dựa trên “sự đảm bảo ủng hộ mạnh mẽ, hợp lư của dân bản xứ đối với quân đội của chúng ta “dù có được chính phủ Pháp đồng ư hai không đồng ư”. Phó đô đốc A.C. Davis, Giám dốc Nha quân vụ đối ngoại Bộ Quốc pḥng lại nhận xét vấn đề với những lập luận vững chắc hơn:
'Việc quân Mỹ tham chiến ở Đông Dương phải được tránh bằng mọi giá. C̣n nếu như lúc đó, chính sách quốc gia quyết định không thể có biện pháp thay thế nào khác th́ Mỹ không nên tự dối ḿnh, cho rằng có khả năng chỉ cần tham gia một phần thôi, như “chỉ sử dụng đơn vi không và hải quân”. Chẳng ai có thể vượt được thác Niagara chỉ bằng một cái thuyền con”.
Và Davis nói tiếp:
“Chú ư: Nếu việc đưa các lực lượng không quân và hải quân vào tham chiến ở Đông Dương được xác định là thuận lợi th́ khó có thể mà nghĩ rằng có thể làm thế nào để tránh không phải đưa lục quân vào v́ nhất định là phải có căn cứ, mà việc bảo vệ các căn cứ và bến cảng này tất nhiên sẽ đ̣i hỏi phải có lực lượng mặt đất của Mỹ và… cũng cần phải có đơn vị chiến đấu mặt đất để hỗ trợ cho việc di tán khi bị uy hiếp. Điều đó bắt chúng ta phải hiểu rằng một khi đă lao vào th́ không có biện pháp rẻ tiền nào để tiến hành một cuộc chiến tranh”.
Sự khác biệt quá rơ ràng giữa một bên là sự đánh giá cao về quan trọng chiến lược của chúng ta đối với Đông Dương và một bên là sự bất lực của chúng ta để đi đến một quyết định dứt khoát về việc sử dụng quân đội ở Đông Dương cần cho việc bảo vệ vùng đất này, đă đ̣i hỏi Hội đồng An ninh Quốc gia phải họp bàn (ngày 8-1-1954). Đại diện Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc pḥng đă có nhiều ư kiến về việc khi một trong hai t́nh huống sau đây sẽ xảy ra: một, người Pháp bỏ cuộc; và hai, Pháp yêu cầu phải có số lớn quân đội Mỹ. Bộ Ngoại giao cho rằng t́nh h́nh Pháp đă quá nguy hiểm đến mức “bắt buộc Mỹ phải quyết định ngay việc sử dụng quân đội Mỹ trong cuộc chiến đấu ở Đông Nam Á”. Nhưng đại diện Bộ Quốc pḥng đă từ chối không dám đảm bảo cho việc Mỹ can thiệp.
Cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia đă để trống vấn đề hành động của Mỹ trong trường họp cần thiết không thể chối căi được phải có quân đội để ngăn ngừa không để “mất” Đông Dương. Nhưng vấn đề này, các tham mưu trưởng Liên quân đă có thái dộ thẳng thắn. Các Tham mưu trưởng liên quân cho rằng kế hoạch Navarre cơ bản là tốt, nhưng dứt khoát đă bị thất bại v́ hố ngăn cách chia rẽ giữa người Pháp và người Việt, v́ Navarre thiếu sót không chịu thực hiện những lời khuyên bảo của chúng ta, và v́ Paris chần chừ trong việc cần thiết phải có nhân nhượng chính trị đối với chính phủ Bảo Đại. Do đó các Tham mưu trưởng Liên quân đă từ chối cả việc dùng quân chiến đấu Mỹ cũng như sự ủng hộ việc sử dụng đó một cách dứt khoát.
V́ không giải quyết được một cách rơ ràng vấn đề cơ bản của sự can thiệp Mỹ, Bộ Quốc pḥng và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đă đi đến một “giải pháp” liên tịch - chỉnh đốn lại những chỗ suy yếu của Pháp. Họ giữ lập trường là sẽ có biện pháp quân sự thay thế ở mức vừa đủ để Pháp không đ̣i hỏi phải có sự can thiệp trực tiếp của Mỹ. Đại diện Bộ Quốc pḥng nêu ra ba lư do đă làm t́nh h́nh Pháp xấu đi: thiếu tinh thần quyết thắng, sự ngoan cố không chịu giải quyết yêu cầu độc lập thực sự của người Đông Dương, và việc họ từ chối không chịu đào tạo các sĩ quan chỉ huy người bản xứ. Bộ Quốc pḥng cho rằng trước khi Mỹ can thiệp th́ vấn đề cơ bản phải được giải quyết là Mỹ có sẵn sàng làm áp lực một cách mạnh mẽ trước hết là trong khuôn khổ Cộng đồng pḥng thủ châu Âu (EDC) bắt Pháp ở Paris cũng như ở Đông Dương phải có những biện pháp thích đáng để sửa lại các thiếu sót của họ. Theo Bộ Quốc pḥng, chỉ khi nào các biện pháp đó được xúc tiến th́ Mỹ mới chịu xem xét một cách nghiêm chỉnh việc đưa lục quân chiến đấu vào bảo vệ quyền lợi của Pháp và các quốc gia Liên hiệp. Tác dụng thực sự của lập trường Bộ Quốc pḥng và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân là nhằm đối phó với ư kiến cho rằng một hành động quân sự nhanh chóng của Mỹ ở Đông Dương là vừa có thể làm được lại vừa cần thiết.
Nhận thức rơ t́nh h́nh hết sức bấp bênh của Pháp ở Đông Dương, điều mà Mỹ chỉ phỏng đoán mà không biết đích xác, Pléven đă đề nghị (ngày 11-3) với Hội đồng Bộ trưởng để tướng Ély nhận lời mời của đô đốc Radford sang tham Washington. Ông ta có nhiệm vụ trao đổi với các nhà lănh đạo Mỹ sự thật về t́nh h́nh quân sự để Mỹ sẽ không đến Genève với tư tưởng là sắp giành được chiến thắng quân sự. Điều lo lắng trước hết của Pháp cũng như Mỹ là mối đe doạ Trung Cộng can thiệp. Không ai lạ ǵ việc Việt Nam nhận được những phi cơ MiG-15 của Liên Xô sản xuất và do phi công Trung Quốc lái sẽ có thể gây tai hoạ cho đội không quân bé nhỏ và yếu ớt của Pháp ở Đông Dương. Pleven cũng không hài ḷng là đă không có một hiệp định được kư kết với Mỹ về hành động của chúng ta phải làm ǵ trong những trường hợp tương tự. Bidault cho biết chỉ có một sự thoả thuận miệng của chúng ta và chỉ nói là sẽ xem xét lại vấn đề khi t́nh h́nh có ǵ xảy ra. Bidault đă đảm bảo với các Bộ trưởng rằng, theo ư riêng ông ta, Mỹ sẽ trân trọng thực hiện điều đă nói. Nhưng Pleven không thoả măn: ông ta muốn có sự cam kết cụ thể hơn và Ély đă nhận được chỉ thị phải làm mọi cách để đạt được điều đó.
***
Ngày 13-3, Quân đội Nhân dân Việt Nam, dưới quyền chỉ huy trục tiếp của tướng Giáp, khởi đầu cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ. Cái pháo đài mới được tăng cường này đă có tầm quan trọng về một chính trị và tâm lư hơn hẳn giá trị chiến lược thực tế của nó v́ Hội nghị Genève sắp khai mạc. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đă thấy được một cách đúng đắn đây là một trận đánh có tính chất quyết định, không phải chỉ nhằm giành dược một chiến thắng vang dội, mà sẽ làm cho họ mạnh hẳn lên, họ đă chuẩn bị bao vây cứ điểm này.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng c̣n nhằm đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp một đ̣n chí tử để gây tác động tâm lư đối với nước Pháp, làm nhân dân Pháp và những người Việt chống Cộng mất ư chí tiếp tục cuộc đấu tranh.
Trong khi Laniel đưa ra với Việt Minh những điều kiện phi lư về một cuộc ngừng bắn, th́ người Việt Nam cũng đă chuẩn bị xong cho trận Điện Biên Phủ. Sự chuẩn bị đă được bắt đầu từ cuối tháng 11-1953, khi Navarre quyết định đánh chiếm lại cái tiền đồn nhỏ này mà Việt Minh th́ lại quyết tâm “giải phóng” nó.
Việt Minh đă cho xúc tiến những cố gắng ghê gớm về công tác hậu cần và tác chiến, có phần nào giống như những biện pháp của thế kỷ XVIII, nhưng đến thế kỷ XX này vẫn c̣n phát huy tác dụng rất lớn. Trung Cộng đă viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về mặt vật chất và sau đ́nh chiến Triều Tiên đă gửi thêm tới nhiều cố vấn quân sự. Một viên tướng cao cấp Trung Quốc đă được phái tới hành dinh của Giáp(13 ); nhiều sĩ quan khác được đưa vào công tác ở các cấp khác nhau của quân Việt Minh. Trung Cộng cũng đă cung cấp cho Việt Nam khoảng 60 súng cao xạ 35 ly do Nga chế tạo, các thiết bị ra đa và nhiều khẩu đội Kachiusa (súng phóng rocket nhiều ṇng) do người Trung Quốc điều khiển để bảo vệ cho 100 pháo 105 ly (của Mỹ sản xuất) bố trí ở các sườn núi bao quanh Điện Biên Phủ. Người Trung Quốc c̣n góp thêm 1.000 xe vận tải Môlôtôva đưa qua đường bí mật từ Mông Tự, Trung Quốc, tới Điện Biên Phủ. Nhưng kỳ công chủ yếu trong công tác hậu cần quy mô khổng lồ của Việt Minh chính là sự vận chuyển do họ tổ chức từ các nguồn cung cấp địa phương. Nó đă đảm bảo duy tŕ được một luồng tiếp tế và nhân lực đầy đủ, vững chắc cho các đại đoàn của Giáp đang bao vây quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Rơ ràng là cuộc tấn công đă làm cho người Pháp hoàn toàn bị bất ngờ. Khởi đầu là một trận pháo kích bất ngờ dữ đội, chứng minh cụ thể hoả lực phản pháo và các cuộc đánh phá bằng đường không của Pháp là không có hiệu quả. Người Pháp đă mất ưu thế về binh lực (mặc dù họ có 12 tiểu đoàn trong căn cứ) và mất cả ưu thế về hoả lực. Trận đánh ác liệt kéo dài bắt đầu từ ngày 13, đến ngày 18 th́ cứ điểm cuối cùng trong 3 cứ điểm trên núi bảo vệ phía bắc Điện Biên Phủ bị mất. Cứ điểm đầu tiên, Béatrice, bị chiếm trong đêm 13 - 14 tháng 3; cứ điểm thứ hai, Gabrielle mất ngày 15; và 3 ngày sau là Anne Marie, cứ điểm thứ ba phải bỏ. Chi tiết trận đánh đă được mô tả đầy đủ trong nhiều sách, đại loại như cuốn “Con đường không vui” của Fall. Nếu Giáp cứ tiếp tục phát triển tháng lợi như những ngày đầu này th́ chắc chắn rằng căn cứ chính cũng sẽ bị mất trong ṿng 2 tuần lễ. Nhưng thực tế là cuộc tấn công cuối cùng chỉ được phát động vào ngày 7-5-1954.
Trong quá tŕnh diễn biến trận đánh, những lời tuyên bố, riêng cũng như trước công chúng, đầy lạc quan của Mỹ đă được thay thế bằng luận điệu cho rằng nếu không có những bước đi mới để đối phó với sự viện trợ của Trung Quốc th́ Pháp sẽ bị suy sụp. Tướng Ély đă đến Washington ngày 20-3. Dulles và Radford tỏ ra hết sức lo ngại về sự biến chuyển đột ngột của t́nh h́nh. Họ muốn được nghe Ély nói cho biết việc ǵ đă xảy ra với kế hoạch Navarre và t́nh h́nh nghiêm trọng đến mức nào. Ély đưa ra một nhận định lạc quan và đảm bảo với người của chúng ta là Điện Biên Phủ có thể chống trả được khi đă được Mỹ cung cấp các máy bay ném bom B.26. Tiếp đó Ély bàn đến vấn đề can thiệp của Mỹ nếu như Tnmg Quốc tham chiến, nhưng Dullẹs đă nói là ông không thể trả lời về việc này. Ély xem câu trả lời của Dulles là một sự thay đổi lập trường của Mỹ, nhưng ông không thất vọng v́ Eisenhower đă đồng ư sẽ trực tiếp gặp ông ta.
Eisenhower đă tiếp Ély ở Nhà Trắng vào sáng ngày 22-3. Đô đốc Radford cũng có mặt trong buổi tiếp. Tổng thống cho biết chúng ta sẽ thoả măn các yêu cầu xin tăng thêm viện trợ của Pháp và nói riêng, chúng ta sẽ tiếp tế với mọi khả năng của chúng ta để cứu Điện Biên Phủ. Tướng Ély được yêu cầu nán ở lại, để bàn với Radford về các việc phải làm. Trong cuộc họp ngày hôm sau, Radford đă đề nghị dùng máy bay của Không quân và Hải quân Mỹ tiến hành các cuộc tập kích lớn ban đêm vào quân Việt Minh ở Điện Biên Phủ và gọi đó là “Operation Vulture”(14 ), sử dụng khoảng 60 máy bay ném bom B.29 cất cánh từ căn cứ Clark Field ở Phillippin và được 150 máy bay chiến đấu của Hạm đội 7 Mỹ yểm hộ.
Trong khi Radford và Ély thảo luận về Cuộc hành quân Chim Ó, Dulles họp báo vào ngày 23 và tuyên bố một cách lạc quan: “Tôi không cho rằng sắp tới Cộng sản sẽ thắng trận ở Đông Dương”. Ông bỏ qua các câu hỏi về vấn đề tăng thêm viện trợ cho Pháp và nói không hay biết ǵ về việc các yêu cầu đó có được đặt ra hay không, nhưng ông lại thêm “nếu họ có yêu cầu viện trợ vật chất và thực sự điều đó là cần th́ chúng ta sẽ đáp ứng theo khả năng nhanh chóng nhất của chúng ta”.

Trước khi Ély rời Mỹ, ông ta đă nói chuyện một cách hoàn toàn thẳng thắn với các quan chức của chúng ta ở Lầu Năm góc và Bộ Ngoại giao. Thay v́ cho mối lạc quan ngoài mặt đêm trước là một sự nghi hoặc nghiêm trọng. Ít nhiều Ély đă hở cho biết là Pháp sắp điều đ́nh một cuộc ngừng bắn dù với những điều kiện không thuận lợi nhất.
Cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền (Mỹ) vào cuối tháng 3 đă đưa đến chỗ cho người ta thấy:
1. Sự can thiệp một chiếu của Mỹ sẽ không có hiệu quả nếu như không có lục quân tham gia,
2. Việc sử dụng lục quân Mỹ là điều không thể chấp nhận được xét trên phương diện tiếp tế hậu cầu và chính trị,
3. Sự can thiệp để cứu nguy vùng này tốt hơn hết là nên tiến hành dưới h́nh thức một hành động tập thể của các quân đội đồng minh.
Đó là ư nghĩa cuộc thảo luận của Hội đồng An ninh Quốc gia, ư tổng quát các báo cáo đặc biệt của tnmg tướng M.B. Ridgway và Thứ trưởng Ngoại giao W.B. Smith và của Tổng thống Eisenhower. Theo đó, trong cuộc thảo luận với tướng Ély, Dulles đă đi xa hơn vấn đề viện trợ trước mắt ngay cho quân đội đóng ở Điện Biên Phủ và vạch ra việc có thể thành lập một tổ chức pḥng thủ khu vực cho Đông Nam Á.
Đó chính là lúc mà chính quyền Eisenhower bắt đầu xem xét lại lập trường của ḿnh và từ bỏ việc đơn phương can thiệp. Bất kỳ một sự can thiệp nào của chúng ta sẽ chỉ là một bộ phận trong hành động tập thể với các đồng minh châu Âu và châu Á của chúng ta. Trong bài diễn văn đọc tại Câu lạc bộ Báo chí nước ngoài, ngày 29-3, Dulles đă báo động cho công chúng biết t́nh h́nh nguy ngập của Đông Dương và kêu gọi “hành động thống nhất” - nhưng cũng không giải thích thêm ư ông muốn nói ǵ. Khái niệm không được xác định đó đă làm cho người Anh và người Pháp và cả đến người Trung Quốc phải kinh hoàng - Để làm giảm bớt nguy cơ gây ra một sự phản ứng quá mức hay một sự tính toán sai lầm, trong t́nh trạng lộn xộn đó, Bộ Ngoại giao đưa ra một lời giải thích mật là “hành động thống nhất” can thiệp sẽ không nhằm mục đích lật đổ hoặc tiêu diệt chế độ Bắc Kinh. Thế rồi trong nội bộ chính quyền, Bộ ngoại giao đề nghị:
1- Không có can thiệp quân sự Mỹ trong lúc này, và không hứa hẹn ǵ điều đó với người Pháp
2- Tiếp tục làm kế hoạch can thiệp bằng quân sự,
3- Và thảo luận với các đồng minh có tiềm năng về khả năng thành lập một khối địa phương trong trường hợp xảy ra một sự hoà giải không thể chấp nhận được ở Genève.
Tất nhiên là t́nh h́nh của đồn quân bị bao vây không cải tiến được. Giáp mở một cuộc tấn công lớn ngày 30-3 làm cho sân bay thường xuyên bị khống chế bằng hoả lực và trở nên vô dụng cho người Pháp. Ba ngày sau, quân đội Việt Minh tiến vào chỉ c̣n cách trung tâm Điện Biên Phủ một dặm trước khi dồn quân địch rút lui để tập hợp lại.
Ngày 3-4, Tổng thống quyết định Mỹ sẽ không can thiệp đơn phương. Bất kỳ sự can thiệp nào của Mỹ cũng phải dựa trên cơ sở của việc thành lập một lực lượng liên minh với các đồng minh của Mỹ để tiến hành “hành động thống nhất”, việc Pháp công khai tuyên bố nhanh chóng thực hiện độc lập cho các quốc gia Liên hiệp, và phải được Quốc hội thông qua (mà điều này sẽ phụ thuộc vào hai điều kiện ở trên).
Tuy đă có những phương châm đường lối chính trị như vậy nhưng Hội đồng An ninh Quốc gia trong phiên họp ngày 6-4 lại đưa ra một cách khá kỳ quặc những mục tiêu trái ngược là Mỹ “nếu cần sẽ can thiệp để tránh việc mất Đông Dương, và chủ trương không từ một biện pháp nào để làm cho người Pháp kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh của chính họ”, và cũng ủng hộ, coi như là phương thúc tốt nhất thay thế cho việc Mỹ can thiệp, một tổ chức địa phương trong đó người châu Á sẽ tham gia ở mức tối đa.
Eisenhower đă chấp nhận ư kiến đề bạt của Hội đồng nhưng dựa vào đó lại xác định nỗ lực đầu tiên của chính quyền sẽ hướng vào việc thành lập một tổ chức pḥng thủ tập thể địa phương chống lại sự bành trướng của Cộng sản, tranh thủ sự ủng hộ của Anh đối với các mục tiêu của Mỹ ở Đông Nam Á và làm áp lực với Pháp để họ nhanh chóng thực hiện việc cho Đông Dương độc lập.
Trong khi đó, Tổng thống ra sức t́m kiếm ở hậu trường Quốc hội một sự ủng hộ cho việc Mỹ tham gia vào một tổ chức địa phương, và nếu có thể được th́ đồng thời cũng bí mật khởi sự vạch kế hoạch động viên quân đội.
Trong khi Tổng thống đi đến quyết định ngày 3-4 chống lại việc can thiệp đơn phương của Mỹ th́ tướng Ély trở về Paris ngày 27-3, đă báo cáo lại cho Pleven cuộc đối thoại của ông ở Washington, đặc biệt là lời đề nghị phi thường của Radford về việc xúc tiến cuộc hành quân Chim Ó. Laniel cho triệu tập một cuộc họp bí mật bất thường của các quan chức cầm đầu nước Pháp để thảo luận về ư kiến của Radford. Phản ứng của nhũng người tham gia dự hội nghị, trong đó có Pleven, Bidault và các nhà lănh đạo quân sự, cùng nhiều người khác, rất hỗn độn. Họ cảm thấy sự can thiệp của Mỹ lúc đó sẽ gây ra một phản ứng dữ dội của người Trung Quốc và sẽ mở rộng cuộc chiến tranh (điều mà Bidault và nhóm diều hâu không phải là không vừa ḷng) nhưng cũng sẽ quốc tế hoá cuộc xung đột và làm cho Pháp mất quyền chủ động (điều mà Lamel không muốn). Một sĩ quan liên lạc được phái đến Sài G̣n ngay 1 tháng tới để hỏi ư kiến Navarre. Trả lời của ông này là bằng mọi cách, nước Pháp phải chấp nhận sự giúp đỡ để cứu Điện Biên Phủ và “ổn định được t́nh h́nh”. Không hay biết ǵ về quyết định của Eisenhower chống lại việc can thiệp đơn phương, các quan chức cầm đầu nước Pháp trong một phiên họp bí mật khác ngày 4-4, đă đồng ư chấp nhận đề nghị của Radford. Laniel cho mời đại sứ Dillon tới gặp và đưa ra một đề nghị chính thức để Mỹ can thiệp. Dillon thận trọng nói phải chờ và trả lời của Dulles cũng tới ngay lập tức nhưng không làm cho người Pháp phấn khởi: Mỹ không thể làm ǵ được v́ không có sự chấp thuận của Quốc hội và không có sự hợp tác của các nước đồng minh của Mỹ, đặc biệt là Anh, và không có tuyên chiến th́ tất cả mọi sự đều không thể thực hiện được. Như thế là yêu cầu của Pháp đă bị gạt bỏ và Điện Biên Phủ phải tự thu xếp lấy số phận của ḿnh.
Khi những cố gắng của Pháp ở Điện Biên Phủ đă bắt đầu chững lại và vấn đề Mỹ sẽ làm ǵ đă tới một điểm cấp bách th́ chính quyền Eisenhower đă từ bỏ sự can thiệp đơn phương.
Bộ Quốc pḥng vẫn tỏ ra miễn cưỡng trước việc Lục quân nhấn mạnh rằng chỉ riêng có hoạt động của Không quân, Hải quân th́ chẳng làm được chuyện ǵ và nhất định cần phải có quân bộ. Kinh nghiệm Triều Tiên vẫn c̣n sống động và ư nghĩ đến một cuộc chiến tranh trên bộ khác ở châu Á đă làm cho mọi người phải ngập ngừng. Hơn nữa, Eisenhower không muốn lao vào một cuộc phiêu lưu mà không có sự đồng ư của Quốc hội, c̣n thái độ của Quốc hội lại tuỳ thuộc vào sự tham gia của các đồng minh. Do đó, Dulles đă ra sức thuyết phục Anh, Pháp và các đồng minh châu Á tham dự vào một liên minh “thống nhất hành động”.
Thái Lan và Philippin đă đáp ứng một cách thuận lợi đối với lời kêu gọi “hành động thống nhất”, nhưng Anh th́ tỏ ra thận trọng và ngập ngừng. Churchill chấp nhận gợi ư của Eisenhower phái Dulles tới London để hội đàm. Nhưng người Anh cảm thấy nguy hiểm trong việc nóng vội đi đến một liên minh pḥng thủ trước khi có hội nghị Genève, Eden quyết không để cho bị “xô đẩy vội vàng vào những quyết định quân sự ngu dại”.
Dulles bay tới London rồi lại tới Paris (11-14 tháng 4). Tại London, ông đă bị cả Churchill và Eden phản đối kịch liệt. Trong ư nghĩ, Dulles chỉ muốn buộc người Anh vào một liên minh mà sau này đă phát triển thành Tổ chức pḥng thủ Đông Nam Á (SEATO). Ông cho rằng điều đó sẽ răn đe không cho Trung Quốc can thiệp sâu thêm nữa vào Đông Dương và nhờ có đoàn kết mà địa vị các nước phương Tây sẽ được củng cố thêm. Eden không chịu, ông phản đối mọi hành động quân sự hay một sự cảnh cáo nào trước khi có hội nghị Genève. Ngoài ra, Pháp lại không được mời dự vào liên minh đó. Eden tin rằng Pháp muốn đến Genève với một thái độ tự do hành động hoàn toàn và không bị điều ràng buộc ǵ có thể hạn chế họ trong việc thực hiện được hoà b́nh. Dulles nhận định lập trường của Anh là một thứ nhằm đi đến thoả hiệp, sợ sự tham gia của Mỹ sẽ làm tăng thêm nguy cơ Trung Quốc can thiệp và là một sự mở rộng chiến tranh.
Sau những cuộc hội đàm này, mối quan hệ giữa Dulles và Eden đă hoàn toàn trở nên căng thẳng. Dulles tức giận về cách của Eden bỏ rơi Đông Dương; c̣n Eden, ông rất bi quan về ư đồ quân sự của Dulles trong một vùng giá trị không chắc chắn nhưng Mỹ lại có những kế hoạch mập mờ và hết sức phiêu lưu. Hơn thế nữa, người Anh lại nghĩ rằng Đông Dương không thể bị mất hết hoàn toàn ở hội nghị Genève v́ thiếu chưa có “hành động thống nhất”. Họ đă bị người Mỹ làm cho bối rối về câu chuyện “mất” Đông Dương; ở Bộ Ngoại giao Anh, người ta cho rằng Pháp không thể thua trận trong thời gian từ nay (tháng 4-1954) cho đến khi bắt đầu mùa mưa dù cho họ đánh nhau có kém đi chăng nữa. Dulles cũng chẳng thu được ǵ tốt hơn ở Paris. Người Pháp đang t́m kiếm một hành động nhanh chóng để tránh cho Điện Biên Phủ bị thất trận đến nơi. Nhưng Dulles lại không muốn cho ḿnh bị lôi kéo xa rời khỏi phương thức liên minh tập thể để giải quyết cuộc chiến tranh. Pháp cũng sợ rằng một tổ chức liên minh, tất nhiên là quốc tế, sẽ nắm lấy quyền kiểm soát cuộc chiến tranh từ tay họ; nên họ chỉ muốn có một sự giúp đỡ trong khu vực ở Điện Biên Phủ theo kiểu “Hành quân Chim ó”. Người Pháp c̣n phản đối v́ cho không cuộc vận động cho “hành động thống nhất” sẽ chỉ ngăn trở hoặc làm chậm lại các cuộc thương lượng hoà giải mà họ càng ngày càng mong đợi. Mục tiêu của người Mỹ chúng ta lại nhằm làm cho người Pháp giữ vững quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu.
Thủ tướng Laniel khẳng định với Dulles là chính phủ của ông sẽ không làm ǵ để trực tiếp hoặc gián tiếp trao Đông Dương cho Cộng sản. Nhưng ông c̣n nhắc nhở Dulles về ḷng mong muốn mănh liệt của người Pháp để rút khỏi Đông Dương bằng bất cứ giá nào. Laniel nhấn mạnh sự cần thiết phải chờ kết quả của hội nghị Genève và người Pháp không cho thấy trước cảm giác họ cho Genève sẽ không thành công.
Cố gắng đến cùng, Dulles ở Paris và Bedell Smith ở Washington ra sức thuyết phục Pháp là chỉ có kêu gọi Anh can thiệp, như họ đă kêu gọi Mỹ, mới có thể cứu nguy được cho Điện Biên Phủ. Nhưng người Anh vẫn không lay chuyển. Churchill đă bác bỏ đề nghị của đại sứ Pháp René Massighi muốn Anh tuyên bố Anh sẽ liên kết với Mỹ và Pháp trong việc phong thủ Điện Biên Phủ. Ngày 15-4, Dulles đă trở lại Washington chỉ với những lời hứa của Anh và Pháp “sẽ nghiên cứu khả năng pḥng thủ tập thể” cho Đông Nam Á và Tây Thái B́nh Dương, mà chẳng có ǵ đáng phấn khởi cho một hành động phối hợp.
Điện Biên Phủ tất nhiên đă đi đến bước đường cùng vào cuối tháng 4. Giáp đă đào hầm hào bao vây lấy người Pháp và khoá chặt mọi đường rút lui. Ngày 21-4, tướng Christian De Castries, tư lệnh quân Pháp yêu cầu tăng viện người và vũ khí tiếp tế “bằng bất cứ giá nào”. Trong khi đó, đă có thêm 45.000 quân Việt Minh đến bổ sung cho 4 sư đoàn đang bao vây khoảng 16.5 00 người trong cứ điểm Pháp. Đến ngày 23, lực lượng của Giáp đă tiến sâu vào chỉ cách trung tâm Điện Biên Phủ gần 700 thước.
***
Trong khi cuộc đấu tranh vô vọng ở Điện Biên Phủ tiếp tục th́ ngày 26-4, khởi đầu phần một hội nghị Genève. Phần này chỉ hạn chế vào vấn đề Triều Tiên, song Chu Ân Lai, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, lại yêu cầu Mỹ và các cường quốc phương Tây khác không được tham dự vào các vấn đề của Viễn Đông. Dulles đưa lư do là quyền của Mỹ là một điều đă được khẳng định. Nhưng Chu đáp lại Triều Tiên là một vấn đề của châu Á và phải do những người châu Á giải quyết “bằng cách t́m kiếm những biện pháp chung để bảo đảm hoà b́nh và an ninh ở châu Á”. Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Molotov ủng hộ ư kiến của Chu và thêm vào “các dân tộc châu Á có toàn quyền để giải quyết công việc của chính phủ họ”.
Dulles trở về Washington ngày 4-5 và ngày 7 công khai tuyên bố theo kế hoạch đă định trước, ông đă uỷ cho Thứ trưởng Ngoại giao, tướng W. Bedell Smith đại diện cho ông ở Hội nghị Genève. Ông chê trách người Pháp đă không trao trả độc lập cho các quốc gia Liên hiệp mà theo ông cách đó sẽ tước bỏ được lư do đ̣i lănh đạo cuộc đất tranh giành độc lập của nhũng người Cộng sản. Rồi ông tiên đoán về sự thất thủ không thể tránh khỏi của Điện Biên Phủ, nhưng lại trấn an “việc mất Điện Biên Phủ sẽ củng cố, chứ không làm suy yếu đi, mục tiêu của chúng ta là đoàn kết lại với nhau”. Ông đưa ra một câu hỏi hùng hồn: “Chúng ta sẽ làm ǵ chung quanh cuộc xung đột ở Việt Nam?”. Ông cảnh báo về nguy cơ “Cộng sản nắm chính quyền và sẽ cố xâm lược mới thêm”. Ông nói “Nếu việc đó xảy ra, yêu cầu cấp bách hơn hết là phải tạo điều kiện để tiến hành hành động thống nhất để pḥng thủ khu vực”. C̣n về vấn đề trực tiếp can thiệp và tuyên chiến, Dulles nhấn mạnh là Eisenhower sẽ không có hành động ǵ mà không có sự chấp thuận của Quốc hội.

Ở Điện Biên Phủ, tiếng súng cuối cùng im lặng vào khoảng 2 giờ sáng, giờ dịa phương, ngày 8-5-1954. Và đến 4 giờ chiều hôm đó, giai đoạn hai Hội nghị Genève được triệu tập để thảo luận vấn đề Đông Dương. Đó là một cuộc gặp gỡ giữa nhiều thế lực chính trị và kinh tế khác nhau, có Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thủ vai tṛ chính nhưng đồng thời cũng có những mối quan hệ khách và chủ đối với các cường quốc. Cuộc hội nghị mở đầu một cách gay cấn trong một bầu không khí ảm đạm, không chắc chắn và đầy nghi ngờ. Khối Cộng sản nắm toàn bộ các chủ bài.
Tất cả những người tham dự hội nghị đều mang theo những động cơ riêng của ḿnh, không có ai tỏ ra vị tha v́ người khác: Pháp đă mất hết ư chí chiến đấu và mong muốn có một cuộc hoà giải nhanh chóng; Mỹ đă thất bại trong việc cố buộc Pháp vào hoạt dộng quân sự thống nhất nhằm đấu tranh chống lại sự bành trướng của Cộng sản ở Đông Nam Á nhưng vẫn theo đuổi nục đích ngăn chặn Cộng sản; Anh mong thiết lập lại hoà b́nh và làm giảm căng thẳng quốc tế đang tác động tai hại đến quyền lợi Anh trong vùng; Trung Cộng lại muốn nắm lấy thời cơ để đối phó với Mỹ trên một thế b́nh đẳng trong các vấn đề quốc tế; c̣n Việt Nam Dân chủ Cộng hoà th́ mong muốn và hy vọng được công nhận như là một thực thể có chủ quyền để được đối xử một cách tương xứng với các giá họ đáng phải được.
Trong số các bên tham dự hội nghị, chỉ có Mỹ là nước ít bị rắc rối nhất về phương diện lư tưởng. Từ lâu, chúng ta đă lên tiếng về mối quan tâm của chúng ta đối với qui chế tương lai của Đông Dương, mà chúng ta quan niệm như là một quốc gia độc lập dưới những h́nh thức và mức độ khác nhau. Với thời gian, khái niệm tự quyết đối với Đông Dương đă trở nên lẫn lộn và nhất thời đă thoái hoá thành một câu chuyện chỉ ở đầu lưỡi mặc dù vẫn c̣n dược coi là một cao vọng lư tưởng.
Chính sách của chúng ta tại Genève được xác định dựa trên những nhận thức giả tạo. Khi chúng ta cho rằng chúng ta phải giúp cho người Đông Dương chống lại Cộng sản để giành lấy tự do và độc lập th́ những lời tuyên bố chính thức của Mỹ và thực tế lại không chứng minh được điều đó. Trước hết là Acheson rồi sau đến Dulles chỉ một mực nói về việc “ngăn chặn Cộng sản”, chứ không nói ǵ đến tự do khỏi ách thống trị của người Pháp, điều mà Việt Minh đang chiến đấu điên cuồng. Rồi trong các nhà hoạch định chính sách của chúng ta c̣n có nhận định sai trái cho rằng chính phủ Bảo Đại tham nhũng và mất hết uy tín, vẫn được sự ủng hộ mạnh mẽ trong nhân dân. Chúng ta đă không chịu chấp nhận một sự thật là nó đă có một quá tŕnh lịch sử nặng tính chất cơ hội chủ nghĩa và hai mặt, và nó đă được người Pháp dựng lên ở bên ngoài để thủ tiêu các nguyện vọng tự quyết của người Đông Dương và bảo vệ quyền lợi thực dân Pháp.
Các tài liệu chính thúc ghi nhận sự tham gia của chúng ta vào Đông Dương hoàn toàn không có chứng cứ ǵ là chính phủ Mỹ đă xúc tiến một sự cố gắng nào để điều tra về thực chất của Hồ Chí Minh và phong trào giành độc lập của ông ta. Nó đă được bác bỏ một cách chiếu lệ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ v́ coi như là “thiên Cộng sản” và quyết tâm bắt tay với thực dân Pháp để xúc tiến một cuộc chiến tranh ác liệt chống lại Việt Nam. Chưa một lúc nào Mỹ có ư định t́m hiểu và tranh thủ t́nh hữu nghị của nhân dân Việt Nam, mà trái lại vẫn tiếp tục kiên tŕ cung cấp mọi thứ cần thiết cho chính phủ Pháp ở Đông Dương nhằm tiêu diệt những cố gắng đă có cội rễ sâu rộng để hoàn thành độc lập dân tộc.
Sau chót, chính sách của chúng ta đă được xác định dựa trên cơ sở một nhận thúc hoàn toàn không có căn cú - cho là Pháp ủng hộ mục tiêu chống Cộng của Mỹ, địa vị quân sự Pháp vững vàng và ngày càng được cải thiện. Về vấn đề này chúng ta không thể tự trách ḿnh, nhưng cũng phải gánh phần trách nhiệm. Rốt cuộc, trong gần 8 năm, các nhà ngoại giao và lănh đạo quân sự của chúng ta đă tin tưởng một cách mù quáng vào tất cả những cái thất thường và thất vọng của người Pháp đưa ra để giành lấy sự ủng hộ của Mỹ cho sự nghiệp thực dân của họ, mà không bao giờ chúng ta nghi ngờ và chỉ muốn ra ơn. Các quan chức Mỹ đă không chịu nh́n một cách lạnh lùng, khắt khe về vấn đề Đông Dương; lúc nào cũng mang kính hồng trên mắt. Ngay khi kết cuộc vào ngày 8-5, Dulles vẫn c̣n không chịu công nhận phần của chúng ta trong sự sụp đổ mà chỉ muốn gán điều đó một cách không chính đáng cho người Pháp. Đúng là người Pháp cũng rất miễn cưỡng phải thú nhận đă thất bại trước người Mỹ, nhưng chúng ta cũng chẳng phải quá u mê trước một sự thật đă hiển nhiên. Cái hố ngăn cách rộng lớn giữa sự việc người Pháp chuyển dần đến việc điều đ́nh ngừng bắn và sự đ̣i hỏi của đất nước chúng ta muốn tiếp tục cuộc chiến tranh cho đến một “kết thúc thắng lợi” mà không có sự tham gia của Mỹ, đă càng sâu sắc thêm trước khi bắt đầu các cuộc bàn luận.
Khi hội nghị khai mạc, bên cạnh những sai khác biệt nhau về động cơ, và chính sách sai lầm của Mỹ, giữa các nước đồng minh c̣n tồn tại nhiều mâu thuẫn sâu sắc khác. Một trong những mâu thuẫn đó là với người Anh. Người Pháp đă khai thác một cách khá thông minh chương tŕnh viện trợ của Mỹ mà không cần phải kéo toàn bộ lực lượng Mỹ tham gia nhưng cũng bất lực trong việc cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Người Anh lại bị Mỹ cho là trở ngại chủ yếu đầu tiên cho một “hành động thống nhất” và đă bị lên án là để cho những quyền lợi ích kỷ của bản thân Anh trong các vùng khác của Đông Nam Á che mắt nên đă không đánh giá hết tầm quan trọng chiến lược lớn lao đối với thế giới tự do trong việc “cứu thoát” Đông Dương.
Ngược lại, sự đoàn kết của khối Cộng sản về cuối Hội nghị thể hiện không những chỉ ở sự thống nhất Trung - Xô trong việc mong muốn điều đ́nh mà c̣n ở chỗ họ hoàn toàn có sự nhất trí với trong cả ba phía. Sau khi Stalin chết, chính sách của Liên Xô dưới thời Malenkov đă dịu đi rất nhiều. Không c̣n nghi ngờ ǵ là các vấn đề ưu tiên trong nước đă tác động đến chế độ mới phải công bố mong muốn có một sự giảm căng thẳng trong t́nh h́nh quốc tế. Bắc Kinh tham gia một cách sâu hơn vào sự nghiệp của Việt Minh, đă xúc tiến viện trợ cho quân đội của Giáp từ tháng 2 đến tháng 4-1954, nhưng cũng đồng t́nh với Mátxcơva về việc mong muốn triệu tập một cuộc hội nghị quốc tế, mà Trung Quốc sẽ tham gia để kết thúc cuộc chiến tranh. Những tin tức hạn chế có giá trị cho thấy trong ba phía, chỉ riêng có Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi việc thương lượng lúc đó c̣n quá sớm và đă chủ trương, trước khi điều đ́nh, phải gia tăng mạnh mẽ nỗ lực quân sự. Đề nghị đối thoại của ông Hồ với Pháp được công bố rộng răi tháng 11-1953 nhằm tác động đến t́nh h́nh nội bộ và dư luận chính giới nước Pháp và làm mất tinh thần quân đội Việt - Pháp nhiều hơn là thể hiện thực ḷng muốn đi tới một cuộc hoà giải thoả đáng. Những lời tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phát đi trong các tháng sau chứng minh điều quan tâm lớn nhất trước tiên của Việt Nam là thực hiện được một thắng lợi nhanh chóng ở đồng bằng sông Hồng và trên các vùng của Lào hơn là đi vào bàn hội nghị trong khi mà quân Pháp c̣n đang bị phân tán ra khắp Đông Dương.
T́nh h́nh trên, nói một cách khái quát, đă tác động đến Hội nghị Genève. Thế mạnh và thế yếu có thể là đặc điểm riêng của lập trường Cộng sản và lập trường phương Tây. Tuy vậy các nhăn hiệu trên h́nh như cũng chưa phải là hoàn toàn thích đáng trong ảnh hưởng qua lại giữa và trong nội bộ hai bên; điều đó lại càng cho ta thấy rơ Hội nghị Genève trong phải là để đưa đến một thắng lợi của hoà b́nh.
***
Một trong những điều kiện thoả đáng đầu tiên ở Hội nghị Genève đă đạt được trong quá tŕnh cuộc trao đổi giữa Molotov và Eden ngày 5-5 là khi Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô tán thành nhận định của Eden cho đây là một trong những cuộc điều đ́nh khó khăn nhất mà ông đă gặp. Thực tế, mới thoáng nh́n người ta thấy ngay h́nh như có ít nhiều điều ngược đời khi mà giai đoạn bàn về Đông Dương (8-5 - 21-7) trong điều kiện khó khăn đă thấy, chỉ trong 12 tuần lễ đă đi đến được một cuộc hoà giải.
Các vấn đề then chốt đă được hoăn lại cho đến giờ phút cuối cùng trong khi cuộc thảo luận kéo dài liên miên về những việc tương đối ít quan trọng. Sự tiếp xúc giữa các phái đoàn với nhau lại bị hạn chế v́ thành kiến tư tưởng, chính trị đối lập, làm cho một số đoàn viên phải hoạt động như những người trung gian hoà giải trong khi vẫn phải đại diện cho quyền lợi quốc gia ḿnh; và các quyết định chủ yếu cuối cùng đă đạt được nhưng ngoài những khuôn khổ đặc biệt mà những người tham dự hội nghị đă phải mất một tháng để xây dựng nên.
Chester L. Cooper, một nhân viên trong phái đoàn Mỹ, tác giả cuốn sách “Cuộc thập tự chinh thất bại: Mỹ ở Việt Nam”, đă cho thấy mùi vị của những sự phi lư chi phối các quan hệ cá nhân các nhà thương lượng:
“Ư đồ của phái đoàn khá lớn của Mỹ muốn coi phái đoàn Trung Quốc to lớn hơn như là không tồn tại - và ngược lại - đă làm cho t́nh h́nh bốc thêm nhiều hương vị. Nhiều người Trung Quốc và Mỹ đă quen biết nhau từ trước trong những vai tṛ khác… Bản thân tôi cũng đă có lần đứng một ḿnh trong thang máy đối diện với một thanh niên Trung Quốc mà tôi đă biết khi c̣n ở trường trung học… Nhưng chẳng ai trong chúng tôi lên tiếng, mà chỉ nh́n nhau bắt đầu mỉm cười rồi cười. Đến trước pḥng họp chúng tôi càng cười ngất. Nhưng khi cửa pḥng mở, chúng tôi vội vàng nghiêm chỉnh lại và từ lúc đó, tránh không dám nh́n ngó tới nhau nữa”.
Cái chướng ngại quan trọng đầu tiên vấp phải là sự kèo nài của Cộng sản cho các lực lượng Kampuchia tự do (Khmer Issark) và Lào tự do (Pathet Lào), do Việt Minh lănh đạo, được quyền có ghế ngồi bên cạnh các chính phủ Vương quốc Kampuchia và Lào. Phải đến tận ngày 16-6, khi Chu Ân Lai và phái đoàn của ông, báo cho Eden biết quân đội Việt Minh sẽ rút lui khỏi Kampuchia và Lào th́ cuộc tranh luận về việc này mới chấm dứt.
Những sự bàn luận mất thời giờ về quyền hạn chính thức của các “lực lượng kháng chiến” Cộng sản ở Lào và Kampuchia cũng khá hay ho, nhưng c̣n kém việc phải xác định qui chế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tại Hội nghị Berlin, đă thoả thuận với nhau rằng việc mời các chính phủ khác tham gia hội nghị sẽ chỉ do các bên tham dự hội nghị Berlin, có nghĩa là do Tứ cường, mà không có Bắc Kinh. Nhưng, Molotov đă xác nhận ngay từ phiên họp toàn thể đầu tiên (ngày 8-5), Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đă được Bắc Kinh cũng như Mátxcơva mời, đó là một hành động đă bị Pháp và Mỹ đả phá mạnh mẽ. Song cũng chẳng có mưu toan nào được đưa ra để gạt bỏ sự tham dự của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mặc dù có sự chống đối của chính phủ Bảo Đại đ̣i hỏi phải được coi là chính phủ duy nhất hợp pháp ở Việt Nam, nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại được toàn thể nh́n nhận là một trong những người chiến đấu chủ yếu mà sự đồng ư ngừng bắn của họ là không thể thiếu được, do đó đ̣i hỏi phải có họ tham gia. Hơn thế nữa, Liên Xô đă báo cho Pháp biết là sẽ không chấp nhận sự có mặt của các phái đoàn các quốc gia liên kết nếu như Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được chấp nhận dự Hội nghị. Giữa lúc đó, Điện Biên Phủ thất thủ, tất cả các bên đều đồng ư là sẽ có 9 đoàn đại biểu (không phải là quốc gia) thảo luận về vấn đề Đông Dương.
Cả 9 đoàn ngồi chung quanh một cái bàn tṛn để trao đổi ư kiến trong suốt ngày thứ hai, che lấp một thực tế là cuộc điều đ́nh thực sự không phải ở chỗ đó. Tất nhiên là có đề nghị, tranh luận, đệ tŕnh… nhưng việc mặc cả thời sự đă được dành cho cuộc thảo luận riêng, thường vắng mặt các bên Đông Dương thân phương Tây. Tuy vậy, các cuộc đối thoại ở Genève cũng bị chi phối gắt gao bởi các âm mưu, của các cường quốc lớn; những xung đột về chính trị và tư tưởng, đặc biệt giữa Mỹ và Trung Quốc, đă gay gắt đến mức là lối ngoại giao phải được xúc tiến theo một kiểu đi ṿng, do Eden và Molotov thường xuyên hoạt động như người trung gian và chuyển tin giữa các đại biểu các đoàn không muốn cùng ngồi với nhau. Một điển h́nh trong thái độ của Mỹ, như Dulles đă nói với các nhà báo trước khi họp phiên đầu tiên là chỉ có một cách làm ông có thể gặp Chu Ân Lai nếu như hai xe của họ đụng nhau.
Việt Minh đă đưa tới một phái đoàn 4 người và 3 trong số dó không xa lạ ǵ với người Pháp. Họ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, Đồng là người phát ngôn chính của Việt Minh trước đây tại Hội nghị Fontainebleau (tháng 7-1946) và mới được nâng lên làm Phó Thủ tướng kiêm quyền Bộ trưởng Ngoại giao. Người khác là Phan Anh, Bộ trưởng Kinh tế; Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc pḥng; và Hoàng Văn Hoan(15), thân Trung Quốc, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Bắc Kinh. Cả bốn đều là những cái tên quen thuộc trong những ngày đầu tiên của chế độ ông Hồ tại Hà Nội.
Phải đến hạ tuần tháng 6, các đại diện cấp cao của Pháp và Việt Minh mới gặp nhau mặt đối mặt; các nhà lănh đạo quân sự Việt Minh họp với đại diện của Lào và Kampuchia; các người cầm đầu phái đoàn Pháp và Trung Quốc trao đổi ư kiến với nhau trong các cuộc gặp gỡ riêng. Cho đến tháng cuối cùng của hội nghị, những người Cộng sản và chống Cộng Việt Nam vẫn từ chối không chịu nói chuyện với nhau. Điều quan trọng hơn cả là phái đoàn Mỹ theo chỉ thị nghiêm ngặt, phải tránh các cuộc tiếp xúc với người Trung Quốc nên chỉ dùng được những thông tin hạng nh́ do các đại diện Anh, Pháp và Liên Xô cung cấp; đối với Việt Minh, Mỹ cũng phải chịu theo một thể thức như vậy.

Vấn đề tiếp xúc cũng là một vấn đề làm cho đoàn đại biểu Quốc gia Việt Nam cảm thấy nhức nhối. Mặc dù cuối cùng họ cũng đă được Pháp trao trả hoàn toàn độc lập (4-6-1954), nhưng Việt Nam cũng vẫn không có quyền thương lượng về số phận của chính ḿnh. Người Pháp rất sợ các cuộc nói chuyện riêng và tế nhị của họ với Việt Minh bị phá vỡ; họ tránh gặp đại diện của Bảo Đại, t́m cách lợi dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Mỹ và Việt Nam để chỉ báo cho phía Bảo Đại biết sau khi đă đạt được những sự thoả thuận với Việt Minh. Kiểu đối xử cách biệt này của Pháp đối với đoàn Bảo Đại kéo dài đến tận tháng 7. Mặc dù là vấn đề phân chia ranh giới ở Việt Nam đă được đưa ra thảo luận trong các cuộc gặp riêng của người Pháp, Việt Minh, Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ, chỉ đến cuối hội nghị, “Chính phủ” Bảo Đại mới được báo cho biết về khả năng lớn sẽ có vấn đề phân chia trong cuộc hoà giải, về vấn đề này cũng như nhiều chuyện khác, người Việt Nam không được biết ǵ cả, và đó cũng là một điều có thể làm cho sự chống đối của họ cứng rắn thêm và tách họ khỏi các điều khoản kết thúc cuối cùng. Như thế có phải chứng thực sự là “độc lập”?
Đến giữa ngày 18 và 21 tháng 7, những người tham dự hội nghị đă gạt bỏ được các xung đột đến mức có thể đưa ra những điều thoả thuận được gọi chung là “Hiệp định” Genève. Nó bao gồm các Hiệp định quân sự riêng cho Việt Nam, Kampuchia, và Lào để bổ sung cho nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của hội nghị là văn hồi hoà b́nh ở Đông Dương và một Bản tuyên bố cuối cùng nhằm thiết lập các điều kiện để giải quyết tương lai chính trị của toàn Đông Dương. Chỉ riêng có các Hiệp định quân sự được kư kết(16). Bản tuyên bố cuối cùng là những lời phát biểu của những người tham gia hội nghị không có đại diện nước nào kư vào đó mà chỉ được chấp thuận thông qua biểu quyết. Như các nhà văn Pháp La Couture và Devillers đă nói rất đúng: “Hội nghị Genève đă t́m ra được một h́nh thức mới cho chung sống hoà b́nh - đó là kết quả của sự đồng ư ngầm giữa các bên muốn thương lượng và cũng là một h́nh thức cam kết chính thức mới giữa các quốc gia - một hiệp định không có kư kết”(17).
Đại cương, các Hiệp định quân sự quyết định vấn để chấm dứt các cuộc xung đột (một cuộc ngừng bắn) lúc đó đang tiến triển; việc chia cắt Việt Nam dọc theo đường giới tuyến gần vĩ tuyến 17, có một vùng đệm phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên. Việc tập kết quân đội giải phóng Việt Nam và các lực lượng Việt Minh về miền Bắc, và quân đội Liên hiệp Pháp về miền Nam đường giới tuyến; việc cấm tăng cường quân đội, tiếp tế vũ khí và dụng cụ chiến tranh vào các vùng hai bên đường giới quyến; việc cấm không xây dựng căn cứ mới ở Việt Nam, Lào và cấm thiết lập các căn cứ quân sự của nước ngoài ở Việt Nam, Lào, Kampuchia; và việc thiết lập một Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế để theo dơi và đốc thúc thi hành các điều khoản và quyết định của Hiệp định.
Sự “thoả hiệp” chính trị trong Bản tuyên bố cuối cùng không có kư kết chỉ đặt nhiệm vụ với 7 trong 9 nước có liên quan (Anh, Pháp, Kampuchia, Lào, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Nước Mỹ và Quốc gia Việt Nam (chính phủ Bảo Đại) chỉ đơn giản “ghi nhận” Bản Tuyên bố. Thay mặt cho Mỹ, Bedell Smith tuyên bố là chúng ta sẽ “không kiềm chế trước sự đe doạ hoặc việc sử dụng bạo lực để phá rối” các Hiệp định. Đối với các vấn đề “tuyển cử tự do ở Việt Nam”, nhận xét của Smith chỉ giới hạn trong việc nói lên ư nghĩa “Bản Tuyên ngôn Potomac” của Eisenllower và Churchill cùng đưa ra ngày 29-6. Điều đó cũng đă được nói tới trong Bản Tuyên bố cuối cùng như sau:
“Trong trường hợp các nước hiện nay đang c̣n bị chia cắt ngược lại với ư muốn của họ, chúng tôi sẽ tiếp tục t́m cách thực hiện sự thống nhất qua tuyển cử tự do, dưới sự kiểm soát của Liên hợp quốc để đảm bảo các cuộc tuyển cử đó được tiến hành một cách xác đáng”.
Vấn đề chủ chốt trong Bản Tuyên bố cuối cùng là ở chỗ tiến hành cuộc tổng tuyển cử vào tháng 7-1956; việc rút lui quân đội Pháp theo yêu cầu của các chính phủ Việt Nam, Lào và Kampuchia; cấm đàn áp trả thù; bảo vệ nhân quyền và tài sản; tự do lựa chọn vùng ḿnh muốn cư trú; và tôn trọng độc lập của ba quốc gia và giữ không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
***
Cuộc hoà giải không vững chắc ở Genève đă chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương nhưng không loại bỏ được điều ám ảnh của Pháp là phải bám giữ lấy “ḥn ngọc Viễn Đông”. Thất bại quân sự nhục nhă trước Việt Minh và “đám nông dân Anamít đói khổ” là một điều vượt quá sự chịu đựng của ḷng tự hào dân tộc Pháp. Việc mất Bắc Kỳ, đặc biệt là vùng đồng bằng, là cả một sự thất vọng và chán nản sâu sắc của thực dân ở Việt Nam và những người cánh hữu bảo thủ chính quốc Pháp. Bắc Kỳ tượng trưng cho một thế kỷ nỗ lực tốn kém của Pháp để cải hoá và phát triển văn hoá kinh tế đất nước này theo phương Tây. Chính đây là nơi nhà Ngân hàng Đông Dương có cơ sở để bảo vệ các quyền lợi tài chính của Pháp ở phương Đông, nơi mà các khoa trưởng Đại học Hà Nội gieo rắc nền văn hoá và tư tưởng chính trị Pháp, và Thiên chúa giáo nảy nở lan tràn trong quần chúng nông thôn. Bỏ Bắc Kỳ theo hiệp định Genève là một sự mất mát không thể sửa lại được. Nước Pháp bị suy yếu đi.
Pháp c̣n phải chịu đựng một sự nhục nhă lớn hơn nữa khi phải chấp nhận rút lui khỏi Đông Dương v́ Mỹ, theo sự khẩn khoản của Mỹ, mà không có được một biện pháp gỡ sĩ diện bằng cuộc tổng tuyển cử để xúc tiến một cuộc rút lui thứ hai, triệt để hơn. Việc Mỹ thay thế người Pháp ở miền Nam Việt Nam và sự thất bại của thoả hiệp Genève được tiên đoán từ giữa 1956, đă bác bỏ những hy vọng của cánh tả Pháp muốn cộng tác với ông Hồ theo một kinh nghiệm trước về chung sống, và cũng làm cho những người ôn hoà chán nản v́ họ đă hy vọng bảo tồn được nền văn hoá và cứu văn được tư bản Pháp. Điều đó cũng làm các người cánh hữu điên đầu cho chính sách Mỹ ở Việt Nam là khả ố. Không một ai trong các giới này, sẵn sàng bênh vực cho Pháp ở lại mà tất cả đều chỉ cố gắng tranh thủ được sự ủng hộ chính trị cho ḿnh bằng cách có thái độ gay gắt đối với Mỹ.
Trong phạm vi quốc tế, kinh nghiệm bệnh tật của việc Pháp rút lui đă làm cho quan hệ liên minh phương Tây, đă chẳng vững vàng ǵ trong quá tŕnh Hội nghị Genève, nay trở nên hết sức căng thẳng. Việc Mỹ tách ḿnh ra khỏi Bản Tuyên bố cuối cùng và Dulles lao một cách thiếu suy nghĩ vào việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) - gây ra một sự chia rẽ trong khối Liên hiệp Anh, đă làm cho cả Pháp và Anh xúc động và nghi ngờ. Điều tồi tệ nhất làm cho họ lo ngại và chỉ được nói đến một cách dè dặt vào 1944-1946, nay đă thành hiển nhiên: Mỹ đang xâm chiếm Đông Nam Á.
Tuy các điều khoản trong hiệp định là dứt khoát, nhưng tất cả trừ một trong số các bên tham dự hội nghị đều dự đoán là Pháp sẽ tiếp tục có mặt ở Việt Nam. Ngoại lệ duy nhất đó là Quốc gia Việt Nam dưới quyền một Thủ tướng mới, viên quan lại Công giáo thân Pháp Ngô Đ́nh Diệm. Mặc dù đă được Bảo Đại cử ra (15-6-1954) nhưng Diệm muốn Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc Pháp mà cũng không phụ thuộc Bảo Đại. Diệm cho rằng Pháp đă thất bại trong một cuộc chiến tranh kéo dài, tàn phá và làm mất tinh thần chống lại những người Cộng sản cũng như những người Quốc gia Việt Nam, chế độ thuộc địa đă chấm dứt, những lời hứa hẹn độc lập trước đây của Pháp đă bị phá vỡ. Tại sao lại tin tưởng vào những lời phát biểu về thiện chí của Pháp trong năm 1954? Chúng khác ǵ những điều mà Pháp đă nói trước đây? Cộng thêm vào sự ngờ vực đó là mối liên hệ mơ hồ của Pháp đối với Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một số người Nam Việt Nam nh́n trước thấy Pháp sẽ tích cực hoạt động để thoả hiệp với Việt Minh và thực hiện sự thống nhất dưới quyền lănh đạo của Việt Minh. Nhiều người cảm thấy sự tiếp tục có mặt của Pháp chỉ làm hại cho Nam Việt Nam. Diệm đă lập luận như sau: “Muốn thuyết phục được nhân dân Việt Nam là chính quyền này độc lập th́ cần thiết về mặt chính trị phải tỏ ra là chống thực dân và đặc biệt là chống Pháp”.
Địa vị của Pháp ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Và hơn cả Diệm, hơn cả sự tổn thương về tâm lư do những năm tháng của chế độ thực dân gây ra, Mỹ cũng đă làm nảy sinh thêm khó khăn cho Pháp. Trước hết, chính sách Mỹ hướng tới một sự cộng tác chặt chẽ, cùng tham gia với Pháp, thực hiện một sự liên đới bảo lănh cho Diệm được Mỹ hỗ trợ. Chúng ta hết sức mong muốn tăng cường Việt Nam, và yêu cầu, đ̣i hỏi sự hợp tác của Pháp, nhưng chúng ta đă trả giá cho họ rất ít. Chính sách của chúng ta nhấn mạnh vào việc phải cải tạo một cách cấp tốc sự suy nghĩ của Pháp. Nhưng chúng ta không thông cảm được với Pháp ở điểm này, không biết được sẽ gây cho Pháp những ǵ trong chính sách đối nội, đối ngoại, và cũng chẳng rơ những nhân nhượng của Mỹ có thể giúp ích ǵ cho Pháp không.
Mỹ đă bắt đầu xem xét lại chính sách đối với Đông Dương ngay từ khi Hội nghị Genève kết thúc. Công tác này được xúc tiến cấp bách với ư nghĩ cho rằng Hội nghị Genève là một tai hoạ cho thế giới tự do. Các bản Hiệp định đă mang lại cho Trung Cộng và Bắc Việt Nam một căn cứ mới để khai thác trong vùng Đông Nam Á. Nó đă tăng thêm uy tín của Bắc Kinh làm cho Washington tổn thất và kinh hoàng. Nó thu hẹp phạm vi cơ động của thế giới tự do tại Đông Nam Á. Việc đưa lại vùng đất đai Việt Nam trên vĩ tuyến 17 cho Hồ Chí Minh là một sự nhắc nhở đau xót đến sự thua trận đă mang sẹo của Pháp, sự thua trận đầu tiên của một cường quốc châu Âu với người châu Á - mà là những người Cộng sản châu Á - mà cũng là một sự thất trận Mỹ phải góp phần gánh chịu với khoảng hơn 1,5 tỷ dollar về viện trợ kinh tế và quân sự cung cấp cho người Pháp và các nước Liên hiệp.
Bước đầu tiên để chống lại tai hoạ này là việc thành lập khối SEATO. Đó cũng là “một sáng kiến mới ở Đông Nam Á” để bảo vệ quyền lợi Mỹ ở Viễn Đông và ổn định “t́nh trạng hỗn loạn…” để ngăn chặn những sự mất mát thêm cho Cộng sản qua việc lật đổ hoặc trắng trợn xâm lược - Hiệp ước SEATO (kư ngày 8-9-1954) đă thể hiện cũng chẳng phải là một sáng kiến hay là một cái khiên chống Cộng mạnh mẽ như Dulles mong muốn - khuyết điểm phần lớn là do Mỹ tạo ra. Khi Dulles muốn cảnh cáo cho Cộng sản biết là xâm lược sẽ bị chống đối th́ Hội đồng tham mưu liên quân vẫn giữ lập trường chống lại và từ chối không chấp nhận việc Mỹ cam kết tham gia về mặt tài chính, quân sự và kinh tế vào một hoạt động đơn phương ở Viễn Đông.
Và trong những trường hợp khác, để đối phó với “t́nh h́nh cấp bách về quân sự”, Mỹ đă thay đổi thiện chí, chuyển từ vai tṛ cùng hội sang vai tṛ lănh đạo chủ chốt ở Việt Nam. Trong thời gian hội nghị Genève đang họp, đề án về Cộng đồng pḥng thủ châu Âu (EDC) cũng được đưa ra nghiên cứu để xét ở Brussels nhưng cuối cùng đă bị Pháp bác bỏ ngày 30-8-1954; đó là một điều thất vọng lớn cho Mỹ. Một số người có ư cho rằng sở dĩ Pháp có thái độ bỏ rơi có thể là v́ để đền đáp lại sự ủng hộ của Molotov - đối với Mendès France ở Genève. Đến khi SEATO trở thành hiện thực, Dulles trong cái hăng hái “chặn đứng bành trướng Cộng sản” đă đẩy SEATO tới thành lập một tuyến ngăn chặn ở Đông Nam Á và đi tới cải tạo Nam Việt Nam thành một pháo đài chống Cộng chủ yếu.
Muốn thế, nhất thiết phải đảm bảo có được sự ủng hộ trung thành của chính phủ Nam Việt Nam. Cách thức của Mỹ là thuyết phục Pháp đối xử với Nam Việt Nam như một nước độc lập và có chủ quyền, thúc đẩy Diệm tổ chức một chính phủ dân chủ, sau đó, sẽ triệu tập Quốc hội Lập hiến thảo ra Hiến pháp, truất ngôi Bảo Đại, lập nền dân chủ; và yêu cầu Pháp và Mỹ mạnh mẽ ủng hộ Diệm. T́nh h́nh đó, cộng với một nền độc lập hoàn toàn và sự ủng hộ và khuyến khích của Pháp - Mỹ để tiến hành cải cách rộng răi, cuối cùng sẽ dẫn đến một Nam Việt Nam mạnh và chống Cộng. Và, ít ra th́ Mỹ cũng đă tưởng như vậy.
Quyết tâm của Mỹ ủng hộ Diệm đă được thực hiện với sự nhận thức rằng Pháp rất không phấn khởi trong việc hỗ trợ cho Diệm. Lúc đó là lúc nước Pháp đang bị rối rắm về sự chia rẽ chính trị nội bộ, và gặp khó khăn nghiêm trọng về vấn đề Algeria (nổ ra chiến tranh công khai với Pháp tháng 11-1954) nên cũng rất miễn cưỡng trong việc giúp đỡ cho Quốc gia Việt Nam. Sự chống đối Diệm trong những người theo thuyết “chung sống hoà b́nh” của Mendès France cũng rất mạnh. J.R. Leygues, Cố vấn Liên hiệp Pháp, được coi như là một nhân viên trong “nhóm tham mưu” về Đông Dương của Mendès France, đă nói với Đại sứ Dillon là những vụ tiếp xúc của Pháp ở Hà Nội cho Paris thấy Nam Việt Nam đă suy vi và biện pháp duy nhất có thể cứu văn được ǵ đó là phải chịu chơi với Việt Minh và lôi kéo họ khỏi sự ràng buộc của Cộng sản với hy vọng tạo ra được một Việt Minh theo kiểu Tito có thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả năng tham gia Khối Liên hiệp Pháp. R. Leygues cho biết Pháp đă tŕ hoăn không đáp lại những sự mong muốn của Mỹ về việc ủng hộ chính phủ ở Sài G̣n, chẳng qua là chỉ nhằm để moi thêm tiền cho đội quân viễn chinh Pháp và gán cho Mỹ trách nhiệm về việc có thể để mất Nam Việt Nam.
Những ư nghĩa này đă làm náo động các nhà làm chính sách của chúng ta và ngày 23-10-1954, Tổng thống Eisenhower đă gửi cho Diệm một bức thư, báo Mỹ sẽ cung cấp việc trợ kinh tế và quân sự trực tiếp cho ông, chính phủ ông và quân đội của ông.
Việc chuyển nguồn tài chính hỗ trợ to lớn của chúng ta từ hệ thống của Pháp sang cho người Việt Nam đă làm cho Pháp suy vi và ảm đạm, và làm cho người Pháp phải lớn tiếng kêu ca về vai tṛ mở rộng của Mỹ. Nước Pháp đă chẳng chịu chấp nhận bị loại trừ ra ŕa một cách vui vẻ, nên qua mùa thu 1954, quan hệ Mỹ Pháp đă xấu đi thậm tệ. Chúng ta đă bắn rơi Chim hải âu đang lượn ṿng trên đầu.

Đại sứ Bonnet ở Washington đă trách Dulles là bức thư của Tổng thống đă quá nới lỏng cho Diệm mà không bắt như là điều kiện tiên quyết, trước hết phải lập được một chính phủ mạnh và ổn định. Ông nói thêm, bức thư có thể là một sự vi phạm cuộc đ́nh chiến và Việt Minh sẽ lợi dụng điều đó. Đến khi đại sứ Dillon nêu ra vấn đề ở Bộ Ngoại giao Pháp là Pháp đă chẳng có ǵ tạo ra là ủng hộ Diệm như cần thiết phải có, Bộ trưởng các nước Liên hiệp, Guy la Chambre liền nổi nóng. Ông nói, đây không phải chỉ là một sự xuyên tạc, mà là một lời phỉ báng trực tiếp đối với tướng Ély (lúc dó là Cao uỷ Pháp ở Việt Nam), Chính phủ ở Paris, và danh dự của nước Pháp. Ông La Chambre nói, cá nhân ông tin rằng Diệm đang đưa Nam Việt Nam tới thảm hoạ nhưng ông vẫn ủng hộ Diệm:
“Chúng tôi muốn chịu thất bại ở Việt Nam cùng với người Mỹ hơn là thắng ở đó mà không có họ… Chúng tôi sẽ ủng hộ Diệm, dù cho biết rằng Diệm đang đi tới thất bại, và qua đó ǵn giữ sự đoàn kết Pháp - Mỹ hơn là gây chuyện với ai đó có thể giữ Việt Nam lại trong thế giới tự do nếu điều đó có nghĩa là phải phá vỡ mối đoàn kết Pháp - Mỹ”.
Nhưng một lần nữa, các ư kiến về quân sự lại được đề cao. Hội đồng Tham mưu Liên quân Mỹ trước đây phản đối việc chúng ta đảm nhiệm huấn luyện cho Quân đội Quốc gia Việt Nam th́ nay lại bằng ḷng gửi một phái đoàn huấn luyện tới Phái đoàn viện trợ Quân sự Mỹ (MAAG) ở Sài G̣n và nhấn mạnh vào điểm phải bảo vệ chống lại sự can thiệp của Pháp. Khi quân viễn chinh Pháp (khoảng 150.000 người) c̣n ở Đông Dương, th́ việc triển khai các chương tŕnh huấn luyện đ̣i hỏi việc gửi người đến Việt Nam đều phải theo một thể thức ngoại giao. Do dó, tướng J. Lauton Collins đă được lựa chọn và được phong cấp đại sứ.
Có lẽ theo sự gợi ư của Mendès France, Coliins tỏ ra dè dặt trước hết về khả năng của Diệm để ổn định Chính phủ và ông đă đề xuất (16-12-1954) việc gọi Bảo Đại từ nước ngoài trở về. Nếu điều đó không được chấp nhận, ông sẽ đặt vấn đề Mỹ rút lui khỏi Việt Nam. Pháp cho đó là một biện pháp kiên quyết và yêu cầu Collins cùng với Cao uỷ Ély nghiên cứu vấn đề. Dulles giữ một quan điểm ngược lại, cho Diệm là nhà lănh đạo duy nhất thích đáng đă được biết, và nói rơ rằng Quốc hội chắc sẽ không cấp ngân khoản cho Việt Nam nếu không có Diệm. Sự đối đầu Pháp - Mỹ lại sôi lên, nhưng cuối cùng Collins đă đồng ư với Dulles, Mike Mansffled, Kennedy, Hồng y Spellman và các người khác, là không ai có thể thay Diệm. Và, có thể là để làm yên ḷng người Pháp, Collins cho biết Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự cho Pháp. Collins đă thanh minh v́ Việt Nam “có thể bị tràn ngập bởi một cuộc tấn công của quân thù trước khi Hiệp ước Manila (SEATO) có thể hành động”. Và để khuyến khích người Pháp duy tŕ một quân đội có “hiệu lực”, Collins đưa ra một khoản viện trợ tài chính ít nhất là 100 triệu dollar cho tới tháng 12-1955. Tướng Ély đồng ư.
Trong thời gian đó th́ t́nh h́nh Việt Nam tỏ ra ủng hộ những người như Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đă tiếp tục có nhiều dè dặt đối với tương lai của Ngô Đ́nh Diệm và Chính phủ của ông. Diệm đă khéo léo chống đỡ, vượt qua được các mưu toan đảo chính của các nhà lănh đạo quân sự và đă thành công trong việc duy tŕ dược một cuộc hoà b́nh chẳng hay ho ǵ với các phái vơ trang ở Nam Kỳ. Nhưng tương lai của ông vẫn c̣n là điều đáng ngờ nhất. Cùng lúc đó, phái đoàn Pháp ở Hà Nội cũng cố gắng bảo toàn các quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Bắc Việt Nam. Nhưng vang vọng của 1945 lại nổi lên. Các nhà lănh đạo chính trị Pháp ở Paris đă nói một cách hùng hồn về một cuộc hợp tác ngừng bắn với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang trở thành kiểu mẫu cho các mối quan hệ Đông - Tây. Một thông tin gây băn khoăn lo lắng cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ và những ai trong và ngoài chính quyền cùng quan điểm với ông ta. Sau hết, đi đôi với sự phát triển của t́nh h́nh trên, Hoàng đế Bảo Đại, đă tích cực t́m cách thay Diệm để trả đũa những chiến dịch chính trị mạt sát của Diệm chống lại ông ta.
Tất cả những sự căng thẳng này qui tụ vào hai vấn đề trung tâm trong quan hệ giữa Mỹ và Pháp. Vấn đề thứ nhất là việc huấn luyện cho quân đội Việt Nam sẽ do ai đảm nhận và làm như thế nào. Vấn đề thứ hai, gay go hơn, là xem Diệm có c̣n ở lại đứng đầu Chính phủ hay phải thay thế bằng một lănh tụ Quốc gia khác có cảm t́nh với Bảo Đại và Pháp hơn. Vấn đề thứ nhất đă được giải quyết tương đối nhanh chóng. Tướng Collins đă dạt được một sự thoả thuận với tướng Ély, qua đó tuy Paris c̣n có nhiều điều lo ngại, nhưng Pháp đă đồng ư trao việc huấn luyện quân đội Việt Nam cho Mỹ và rút các cán bộ của Pháp về. Ngày 12-2-1955, Mỹ đảm nhiệm việc huấn luyện quân đội Việt Nam và Pháp cũng bắt đầu rút bỏ.
Cuộc tranh luận chính trị về Diệm đă được giải quyết một cách không dễ dàng. Diệm đă làm cho vấn đề gay cấn thêm bằng cách tăng cường chỉ trích thô bạo người Pháp và Bảo Đại. Về phần ḿnh, Mỹ rất nhạy cảm với những tác động trong nước Pháp của chủ nghĩa chống Cộng chiến đấu của Diệm - những tác động thường do cánh tả Pháp điều khiển - và sự thù hằn dấy lên do những lời tuyên bố của Mỹ, miêu tả Mỹ là người bạn duy nhất của chủ nghĩa Quốc gia Việt Nam. Nhưng Mỹ đă không tiếp thu những lời cảnh cáo của Pháp cho Diệm dứt khoát bất lực trong việc thống nhất những người Quốc gia Việt Nam. Lời khuyên của Pháp đối với Mỹ, được Collins ủng hộ, cho rằng v́ thế cần phải thay Diệm. Suốt mùa đông và xuân 1955, Collins, Bộ Ngoại giao nói chung, tỏ ra sẵn sàng xem xét một cách thuận lợi những gợi ư muốn có một lănh đạo thay thế được đặt vào chính quyền. Nhưng đă chẳng có ai có đủ đức tính cần thiết (chống Pháp, chống Bảo Đại) để cạnh tranh được với Diệm.
Nhưng ở đây Mỹ và Pháp đă bị lôi cuốn vào một loạt sự kiện. Tướng Nguyễn Văn Hinh, người của Pháp, Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam, có nguyện vọng lên làm Thủ tướng, đă âm mưu lật đổ Diệm, thân Công giáo. Nhờ vào sự giúp đỡ của các phe phái chống Thiên Chúa giáo (Cao Đài, Hoà Hảo, và B́nh Xuyên), Hinh đă tiến hành nhiều vụ âm mưu chống Diệm, nhưng không thành. Đến tháng 9, Diệm khám phá một vụ mới, cho bắt một số người của Hinh, chuyển viên tướng này khỏi cơ quan chỉ huy và ra lệnh cho ông phải ra nước ngoài. Nhưng Hinh đă không chịu đi và tiếp tục các cuộc vận động chống lại Chính phủ. Kế hoạch cho một cuộc đảo chính vào tháng 10-1954 đă bị huỷ bỏ v́ người ta đă cho Hinh biết rằng nêu có nổi loạn, lập tức viện trợ Mỹ sẽ bị cắt đứt. Một cuộc khác dự định làm vào ngày 26-10 đă bị đại tá E.G. Lansdale (sau là thiếu tướng), người của CIA chúng ta, khôn khéo đánh lạc hướng. Cuối cùng, vào tháng 11-1954, Bảo Đại bị Mỹ và Pháp ép dùng danh nghĩa của Diệm, mời Hinh sang Cannes (Pháp) và ngày 19-11, tướng Hinh đă rời Việt Nam đi Pháp.
Lúc đó các giáo phái hùa nhau trực tiếp đấu lại quyền lực của Diệm nhưng ông ta đă đáp lại mạnh mẽ bằng bạo lực. Khó khăn lắm mới thực hiện được một cuộc ngừng bắn sau vụ xung đột đầu tiên vào tháng 3-1955 và giữa t́nh h́nh đang căng thẳng lên, vào tháng 4, Mỹ, Pháp và Bảo Đại, tất cả đă phải tích cực t́m cách thực hiện một sự thay đổi trong Chính phủ Việt Nam. Ngày 28-4, chống lại lời khuyên nhủ của Mỹ, Pháp và cả của chính nội các của ông ta, Diệm lại cho tấn công các phe phái. Khi B́nh Xuyên chống cự lại ở Sài G̣n, Diệm đă đưa quân đội Việt Nam đến đàn áp. Quân đội của Diệm đă giành thắng lợi và cùng lúc đó, Ngô Đ́nh Nhu, em của Diệm, đă tập hợp một uỷ ban gồm các nhân vật Quốc gia quyết định hạ bệ Bảo Đại và chuyển mọi quyền lực quân sự và dân sự sang tay Diệm.
Được thắng lợi của Diệm khích lệ, Mỹ tuyên bố một cách không mập mờ ủng hộ của ông ta và chống lại Bảo Đại. T́nh h́nh làm cho Pháp hết sức khó khăn. Chính phủ Pháp lại tin rằng “Uỷ ban Cách mạng” của Nhu chịu ảnh hưởng của Việt Minh và cảm thấy một cách mạnh mẽ cuộc vận động của chính phủ Việt Nam chống lại sự có mặt của người Pháp lại tái diễn trở lại.
Tháng 5-1955, Pháp, Mỹ và Anh họp ở Paris để thảo luận vấn đề pḥng thủ châu Âu, nhưng Pháp đă nhanh chóng đưa ra vấn đề Việt Nam thành vấn đề chính trong chương tŕnh nghị sự. Pháp cho rằng bằng cách ủng hộ Diệm, Mỹ đă buộc Pháp phải rút toàn bộ khỏi Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, Edgar Faure nhận định Diệm “không những là bất lực mà c̣n điên dại,… nhưng Pháp sẽ không c̣n phải chia sẻ nguy hiểm với Diệm”. Dulles đáp lại, Mỹ cũng biết rơ những nhược điểm của Diệm nhưng cho rằng những thành công của ông vừa qua chứng tỏ ông ta có những đức tính có thể đền bù lại được. Rồi Dulles thêm “Việt Nam không đáng giá cho một sự tranh chấp với Pháp” và nói Mỹ có thể rút lui c̣n hơn là làm mất đoàn kết với đồng minh.
Nhưng đă chẳng có quyết đinh ǵ ngay được. Trong khi nghỉ họp, Dulles đă được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân khuyến cáo rằng Diệm sẽ là biện pháp có hứa hẹn nhất để giành được các mục tiêu của Mỹ và nếu như việc rút lui quân viễn chinh Pháp là một biện pháp “cuối cùng phải làm”, th́ nên tránh một cuộc rút lui vội vă để “không thể gây ra một t́nh h́nh ngày càng không ổn định và bấp bênh” và có thể làm mất Nam Việt Nam cho Cộng sản. Dulles liền đề nghị với người Pháp để họ tiếp tục ủng hộ Diệm cho đến khi bầu xong được Quốc hội. Anh cũng tỏ ra ủng hộ Diệm và do đó h́nh như đă làm cho Faure lung lay nên ông đă chấp nhận đề nghị của Dulles. Cuộc hội nghị tay ba đă kết thúc trong một bầu không khí thống nhất, nhưng thực chất bên trong rất khác nhau: cộng tác Mỹ - Pháp đă hết thời và từ nay về sau Mỹ sẽ hành động một cách độc lập với Pháp ở Việt Nam.
Được Mỹ nâng đỡ, Diệm đă chối từ việc thảo luận với miền Bắc Việt Nam về vấn đề tổng tuyển cử khi tới thời hạn đă định vào tháng 7-1955. Lợi dụng được sự thắng thế về quân sự chống các phe phái, ông ta đă xúc tiến việc củng cố địa vị chính trị ở Nam Việt Nam. Vào tháng 10, Diệm giành được một thắng lợi nổi tiếng trong cuộc thăm ḍ dân ư; tuy đó chỉ là một thắng lợi nông cạn v́ người đi bỏ phiếu chỉ được chọn một trong hai người: Diệm và Bảo Đại. Thế chính trị của Diệm càng lớn th́ quan hệ giữa ông ta và Pháp càng tồi tệ đi. Tháng 12-1955, Diệm đột nhiên xoá bỏ các thoả hiệp kinh tế và tài chính đang được thi hành với Pháp và yêu cầu Pháp phải bác bỏ Hiệp định Genève và cắt đứt quan hệ với Hà Nội. Sau đó, Diệm cho rút đại diện của Nam Việt Nam khỏi Liên hiệp Pháp. Nhưng cũng phải thấy rằng thế lực chính trị của Diệm không nhất thiết phản ảnh một khối quần chúng cử tri rộng răi. Vẫn c̣n nhiều bất măn trong một số giới và đâu đâu cũng hờ hững thờ ơ.
Ngày 2-1-1956, tổng tuyển cử ở Pháp đă dẫn đến một chính phủ của đảng viên Xă hội Guy Mollet với 1/3 thành viên là Cộng sản hay tự xưng là trung lập. Đầu tháng ba, Bộ trưởng Ngoại giao của Mollet là Pineau, trong bài diễn văn đọc tại Hội Nhà báo Anh-Mỹ ở Paris đă tuyên bố nước Pháp sẽ tích cực đi theo một chính sách đóng vai tṛ bắc cầu giữa Đông và Tây, và như thế là không có sự thống nhất về đường lối chính trị giữa Mỹ, Anh và Pháp nữa. Ông đă đặc biệt chú ư nêu lên trường hợp chính sách Trung Đông của Anh và sự ủng hộ của Mỹ đối với Diệm là trái với quyền lợi Pháp và c̣n lên án hai cường quốc trên là đă kích động thế giới Ả Rập làm thiệt hại cho Pháp ở Bắc Phi. Mấy hôm sau, tại hội nghị khối SEATO họp tại Karachi, Pineau tuyên bố kết thúc “thời đại xâm lược”, và kêu gọi thực hiện một chính sách “chung sống”.
Tiếp theo là hành động, Pháp thoả thuận với Diệm (22-3-1956) cho rút lui toàn bộ quân viễn chinh Pháp và Bộ chỉ huy tối cao Pháp ở Sài G̣n cũng giải thể ngày 26-4. Đến ngày đă được ấn định cho tổng tuyển cử, Pháp không c̣n quân đội ở Việt Nam. Và ngày định cho ciệc thực hiện các điều khoản chính trị của cuộc hoà giải, tháng 7-1956, lại trùng hợp với ngày nổ ra cuộc khủng hoảng Suez.
Như trong bài thơ “Người thuỷ thủ già” của Coleridge, nước Mỹ đă bị bỏ lại một ḿnh trên con tàu Việt Nam chao đảo với Chim hải âu bị thương bay lượn quanh trên mũi.
***

THÁNG TƯ 1980
Ba thập kỷ đă trôi qua kể từ khi các sự kiện Đông Dương khởi động. Trong những năm tháng đó, thế giới đă được chứng kiến một thời kỳ buồn thảm nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bị trừng phạt và làm nhục v́ câu chuyện phiêu lưu sai đường lạc lối này nên h́nh ảnh Chim hải âu vẫn c̣n có mặt măi măi trên sân khấu chính trị của Mỹ - một sân khấu bị bao trùm bởi sự lạc quan ấu trĩ về sự thống trị thế giới của chủ nghĩa tư bản mà không ǵ hơn là sẽ chỉ cô lập nước Mỹ và tồi tệ hơn nữa sẽ đẩy nhân loại nhanh đến một Thế chiến mới. Thật khó mà nghĩ được rằng sau tất cả những ǵ đă xảy ra trước đây, những kỷ niệm đau buồn của chúng ta ở Viễn Đông (Trung Quốc) và Đông Nam Á (Việt Nam, Kampuchia), các nhà lănh đạo đất nước chúng ta vẫn tiếp tục đáp lại những vang vọng của quá khứ mà quên mất những hậu quả không thể tránh khỏi. Và trong buổi ban đầu của thập kỷ mới này, chúng ta lại sắp sửa lao vào cuộc đua giống như trước nhưng c̣n nguy hiểm hơn. Nhiều sự so sánh thực quá rơ ràng. Cuộc khủng hoảng ở Iran mà nhiều người cho là Mỹ đă nhúng tay vào, và việc Liên Xô xâm nhập vào Afghanistan được coi giống như một sản phẩm của cuộc nổi dậy của Iran, làm cho người ta nghĩ tới một sự dập khuôn lại chiến lược dài hạn của chúng ta, một chiến lược trong đó đă một lần nữa mưu toan cung cấp một chiếc dù pḥng thủ cho một vùng mà ở đó sự tranh giành địa phương và xung đột tôn giáo là những trở ngại quan trọng nhất cho bất kỳ ảnh hưởng của phương Tây nào. Thực ra đó chỉ là một sự sắp xếp lại “học thuyết Truman” cũ, cái kế hoạch 1947 nhằm đẩy lùi làn sóng Cộng sản ở Thổ và Hy Lạp.
Cái được gọi là chủ nghĩa Cater, với tham vọng lớn hơn nhiều so với các kiểu cũ, hy vọng đối phó không những đối với “mối de doạ của chủ nghĩa bành trướng Xôviết” cổ điển mà c̣n cả với những vấn đề địa phương phức tạp có liên quan đến việc các tập đoàn Mỹ kiểm soát các vùng sản xuất dầu lửa. Giống như trong thời Truman - Acheson, học thuyết mới cũng vẫn dựa vào sự cần thiết phải “bảo vệ quyền lợi Mỹ”. Duy chỉ có lần này, khu vực đă thay đổi từ Đông Nam sang Tây Nam châu Á, cũng như các vùng Trung Đông, vịnh Pecxic, và Nam Á như bây giờ thường gọi. Cũng giống như các học thuyết cũ trước đây, vấn đề vẫn là một “thống nhất hành động” bây giờ được kêu là “hợp tác địa phương” với những đồng minh bướng bỉnh, thiết lập các căn cứ quân sự trên những vùng không ổn định về mặt chính trị; đưa tới một lực lượng quân sự đầy đủ về người để bảo vệ các căn cứ đó, và khả năng có thể xung đột công khai.
Trong khi trước đây Mỹ phải đương đầu với một vấn đề độc nhất là “ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản” ở Đông Nam Á, th́ ngày nay các vấn đề ở Tây Nam Á lại nhiều hơn và khác nhau hơn, rất khó giải quyết hơn và vô cùng giả dối trong kết cuộc. Bên cạnh mối đe doạ chiến lược của Xôviết, các vấn đề như sự bế tắc A Rập - Israel, cuộc cạnh tranh Ấn Độ - Pakistan, việc lôi kéo các nước sản xuất dầu vào khối thân phương Tây chống lại ảnh hưởng của Xôviết, và nguy cơ tối hậu của một cuộc đụng độ toàn diện với Liên Xô, đều là những trở ngại không thể vượt qua được để giành thắng lợi của chủ nghĩa Cater mới.
Dưới ánh sáng kinh nghiệm mới đây thật đă quá rơ là quyền lợi của Mỹ có thể được phục vụ một cách tốt nhất bằng cách rút lui khỏi sự lănh đạo thế giới và điều chỉnh lại vai tṛ của ḿnh trong công việc quốc tế. Đă lâu Mỹ không c̣n giữ được ưu thế tuyệt đối về quân sự và kinh tế nữa. Tây Âu và Nhật cũng không cần đến sự giúp đỡ của Mỹ nữa và tỏ ra muốn t́m kiếm một sự độc lập thích nghi với các nước khối Hiệp ước Vácsava và Liên Xô. Các quan hệ kinh tế, quân sự cũ không c̣n gắn bó với các mục tiêu thế giới của Mỹ nữa. Bằng cách từ bỏ chủ nghĩa biệt lập, Mỹ có thể sẽ làm tốt hơn việc tập trung sức lực sử dụng các nguồn tài nguyên của đất nước phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và chỉ giao dịch buôn bán với các nước khác trên cơ sở có đi có lại, không nhằm chỉ v́ lợi ích chiến lược. Sau hết, Mỹ sẽ phấn đấu để thực hiện được sự cân bằng chủ yếu về quân sự mà không phải là giành ưu thế hơn Liên Xô. Đó chính là bài học mà chúng ta phải rút ra từ lịch sử quá khứ của chúng ta.

Chú thích
(1) Một quan chức quan liêu lộng quyền ở Nga
(2) Fourth Point

(3) Bản Hiệp định sơ bộ kư ngày 7-12-1947

(4) Cuộc chiến bẩn thỉu - tiếng Pháp
(5) Phái đoàn Viện trợ quân sự Mỹ

(6) Trận đấu không mang lại kết quả
(7) B. Fall, “Con đường không vui”

(8) B. Fall, “Hai Việt Nam”

(9) ư chỉ chỗ yếu nhất - ND
(10) sau này là Tổng thống Pháp
(11) B. Fall, “Hai Việt Nam”
(12) Shaplen, “Cuộc cách mạng thất bại”

(13) tức Vi Quốc Thanh, về sau được Trung Quốc phong hàm Thượng tướng năm 1955
(14) Cuộc hành quân Chim Ó

(15) Đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Trung Quốc (1951-1958). Bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị và các chức vụ khác năm 1978 và đă bỏ trốn sang Bắc Kinh ngày 3-7-1978 trên đường đi Berlin.

(16) Kư tại Genève lúc 4 giờ ngày 20-7-1954, do thiếu tướng Henri Delteil thay mặt Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Quốc pḥng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
(17) La Couture và Devillers, “Kết thúc một cuộc chiến tranh: Đông Dương 1954”

 

 

 

  0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6  - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28  - 29 - 30 - 31 - 32 - 33

34 - 35 - 36

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: