Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 23
Những cuộc đàm luận


ÔNG HỒ DỰ LIỆU TRƯỚC
Trên tờ danh thiếp cá nhân, ông Hồ ghi nguệch ngoạc mấy chữ ngắn gọn nhưng có vẻ thúc ép: “Nếu có thể được, cần đến gặp chúng tôi trước 12 giờ hôm nay. Hồ”. Tôi không nghĩ ra được ông muốn gặp tôi về vấn đề ǵ.
Từ cuộc viếng thăm đầu tiên của chúng tôi đến ba ngày trước đó, có dư luận rất xôn xao chung quanh việc thành lập Chính phủ mới. Bản công bố chính thức chỉ nói giản đơn là ông Hồ sẽ đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng(1) và Bộ trưởng Ngoại giao. Hồ Chí Minh? Ai vậy? Một số dân kỳ cựu nghi ông là “Nhà Cộng sản lăo thành Nguyễn Ái Quốc” nhưng cũng không chắc chắn. Các nhà báo có trực tiếp hỏi ông, nhưng ông Hồ chỉ làm tăng thêm điều bí ẩn khi ông trả ḷi ông là một “nhà cách mạng” yêu nước và mong muốn cho nước nhà được tự do độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của nước ngoài. Các nhân viên khác trong Chính phủ cũng được công chúng rất chú ư. Một số người đă được nghe nói về Vơ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ và Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Tài chính(2).
Trước khi cử hành lễ thoái vị của nhà vua, dự định vào ngày hôm sau 30-8, đài phát thanh Hà Nội đă đề cao vai tṛ của Bảo Đại là “Cố vấn tối cao” cho Chính phủ mới và tả ông là “người công dân b́nh thường Vĩnh Thuỵ” hoặc là ông Nguyễn Vĩnh Thuỵ. Người dân trung lưu Việt Nam thường có quan niệm Hoàng đế là “biểu tượng siêu phàm của sự hợp pháp” đối với Chính phủ mà họ ủng hộ. Ông Hồ nắm được đặc điểm này và khai thác nó một cách rất khéo. Do đó, ông đă hướng dẫn cho Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu trong công tác chính trị tâm lư phức tạp nhằm đáp ứng những yêu cầu t́nh cảm của mỗi giới xă hội, chính trị và tôn giáo trong xă hội Việt Nam. Điều đó lại càng thể hiện rơ trong việc Chính phủ Lâm thời bao gồm những người Công giáo, Xă hội, ôn hoà, và chỉ có một thiểu số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Rơ ràng là Chính phủ mới đại diện cho một mặt trận dân chúng thực sự và lúc đó họ được nhân dân ủng hộ hoàn toàn. Hơn nữa, sự lănh đạo cũng đă tự khẳng định được qua việc trật tự công cộng và các công cụ đều được duy tŕ tốt. Không có gián đoạn trong các ngành phục vụ công cộng và giao thông vận tải, buôn bán vẫn tiếp tục như thường lệ. Những cuộc biểu t́nh xảy ra gần như hàng ngày, không có bạo lực và cũng không trở ngại cho đời sống thành phố. Mọi người đều tỏ rất sung sướng trước sự chuyển biến của thời cuộc, cả nhiều người Pháp và đặc biệt là các nhà chức trách Nhật cũng thế. Nhưng tin tức lan truyền nói người Trung Quốc vượt qua biên giới đă gây ra lo sợ. Có lẽ chính v́ thế mà ông Hồ có ư định muốn trao đổi với tôi.
Ông Hồ đă cho một xe đón tôi đến ngôi nhà Hàng Ngang vào lúc 10 giờ 30. Trường Chinh dẫn tôi đến chỗ ông Hồ, ở đó thấy có nhiều người ra vào với một vẻ rất hân hoan và bận rộn tấp nập. Ông Hồ vào, vẫn ung dung và mỉm cười, ông giơ bàn tay gầy g̣ ra bắt chặt tay tôi và nói: “Tôi sợ có khi ông không nhận được thư của tôi. Tôi rất muốn trao đổi với ông về một số chủ trương và các kế hoạch tương lai của chúng tôi”. Trường Chinh kéo mấy cái ghế lại gần bàn và chúng tôi ngồi xuống đó. Ngoài cái dáng mảnh khảnh, ông Hồ có vẻ hoàn toàn mạnh khỏe, sôi nổi và thích nói nên đă kể ngay cho tôi nghe những tin tức mới về Huế.
Ông đă nghe Trần Huy Liệu báo cáo về việc ông được Bảo Đại tiếp và đưa ra bản Tuyên bố thoái vị. Ngày hôm sau, Bảo Đại đă dọc bản Tuyên bố trước công chúng và trao ấn kiếm nhà vua cho phái đoàn của Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ rất phấn khởi. Ông coi hành động cuối cùng này của nhà vua cũng là tàn dư cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và sụ mở đầu của một thời đại mới. Nhưng ông nói thêm, như tự nói với ḿnh, có thể cuộc đấu tranh chưa phải đă hoàn toàn kết thúc, người Trung Quốc đang tới và người Pháp đă ở sẵn đây.
Ô, đúng, người Trung Quốc”, ông nhắc lại. Đă có báo cáo nói có xung đột nhỏ giữa người Trung Quốc và dân chúng ở Lào Cai và Hà Giang. Điều đó có thể cho ông biết được con đường mà người Trung Quốc sẽ đi chăng? Ông sẽ phái các đại diện của Chính phủ đến đón trước các đoàn quân Trung Quốc đang tiến để kiềm chế dân chúng địa phương nếu người Trung Quốc “ngỗ ngược” hay “quá hăm hở” để thu vét chiến lợi phẩm. Tôi nói với ông là người Nhật đă được báo tin và tôi đă chất vấn các nhà chức trách Trung Quốc nhưng họ chưa trả lời. Nết tôi nhận được tin ǵ mới, tôi sẽ vui ḷng chuyển cho ông ngay.
“Thế bao giờ th́ Trương Phát Khuê tới?”, ông Hồ hỏi. “Tôi không rơ”, tôi đáp, “Trương đă phái tướng Tiêu Văn đi cùng với quân đội Quốc dân Đảng, nhưng người chỉ huy cao cấp nhất lại là tướng Lư Hán và ông này sẽ tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật”.
Ông Hồ không tỏ vẻ ǵ là ngạc nhiên, và sau một lúc trầm ngâm, ông cười nói, “Đây chỉ là một thủ đoạn của Tưởng Giới Thạch muốn điệu hổ ly sơn thôi. Không có quân đội của Lư Hán ở Vân Nam th́ Long Vân sẽ dễ dàng bị quật đổ”. Với một vẻ suy tư sâu sắc, ông tỏ ra lo lắng về việc quân Vân Nam kéo vào sẽ gây ra nhiều vấn đề không thể khắc phục được. Chúng không phải là một đội quân có kỷ luật như của Trương và ông Hồ phán đoán là sẽ có rối loạn.
Ông Hồ cũng có nói về những Việt kiều sẽ được Quốc dân Đảng kéo theo. Ông cho họ là bọn “quốc gia giả hiệu”, “đầy tớ Quốc dân Đảng”, không mảy may có liên hệ với nhân dân Việt Nam. Bàn về ảnh hưởng của những người này có thể có đối với Chính phủ Lâm thời, ông tả họ như là những người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng quốc gia cũ, không có chương tŕnh hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lănh tụ. Theo ư ông th́ điều nguy hiểm là ở cho họ có thể gây ra một sự hỗn loạn nếu như người Trung Quốc áp đặt họ lên đầu người Việt Nam như là một chính phủ bù nh́n, một khả năng mà ông không thể gạt bỏ một cách nhẹ nhàng.
Ông Hồ nhắc cho tôi hay động cơ của Trung Quốc đối với nền độc lập của Việt Nam chẳng có ǵ thật thà và mang tính chất vị tha. Tuy có lời tuyên bố “cao thượng” của Tưởng(3) “không có yêu sách về đất đai ở Đông Dương”, và sự ủng hộ “rộng răi” của ông ta đối với các phong trào quốc gia Việt Nam ở Trung Quốc; ư đồ của họ rơ ràng không phải là tốt nhất cho người Việt Nam. Theo quan niệm của ông Hồ th́ Quốc dân Đảng muốn làm thất bại ư đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị ở Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên minh của người Việt Nam với các lực lượng Cộng sản Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc. Để nói rơ ư ḿnh, ông Hồ nhận xét Quốc dân Đảng đă chọn Lư Hán và Tiêu Văn thay mặt cho Long Vân và Trương Phát Khuê. Những người này rất có ư nghĩa đối với ông Hồ. Trong 15 năm qua, tuy Thống đốc Long Vân và Lư Hán, cháu ông ta, đă chứa chấp những người Việt Nam Quốc gia thân Nhật và thân Trung Quốc trong tỉnh của họ, nhưng ông Hồ coi cả hai như là những tên tướng cướp, đă bỏ tù và giết hại nhiều người Việt Nam vô tội để che đậy cho việc buôn bán bất chính của họ ở biên giới Đông Dương.
Đối với Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, ông Hồ tỏ ra có độ lượng hơn. Họ không thô bỉ bằng người Vân Nam nhưng cũng rất ích kỷ. Trương tiêu biểu cho tinh thần chống Cộng của Quốc dân Đảng và ông Hồ c̣n nhớ sâu sắc những đau khổ, nhục nhă đă phải chịu đựng suốt 15 tháng trong nhà tù Quảng Tây của Trương. Nhưng ông Hồ cũng nhớ đến thế lực của Tiêu Văn trong việc giải thoát cho ông khỏi tù đày và đă mang lại cho ông một địa vị quan trọng trong mặt trận quốc gia những người Quốc dân Đảng chống Pháp ở Trung Quốc. Sự cộng tác nhất thời này không phải do v́ Trương và Tiêu có cảm t́nh đối với ông Hồ hay phong trào của ông, mà chính là họ hy vọng có thể lợi dụng và kiểm soát được ông và tổ chức của ông. Song lại chính ông Hồ và Việt Minh đă tận dụng được sự cộng tác ngắn ngủi đó.
Nhưng ông Hồ cho biết ông mời tôi đến không phải để bàn luận chuyện người Trung Quốc, ông muốn cho tôi hay về những kế hoạch hoạt động trong những ngày sắp tới của ông. Ông muốn tôi là người đầu tiên được biết. Lúc đầu tôi hơi nghi ngại nên cứ nghe và không b́nh luận. Ông kể nội các của ông đă họp phiên đầu tiên ngày 27-8 ở Bắc Bộ phủ, đă có quyết định chính thức hoá Chính phủ Lâm thời và lấy ngày 2-9 là Ngày Độc lập. Trong dịp này, ông sẽ công bố nền độc lập của dân tộc, sẽ giới thiệu các thành viên trong Chính phủ Lâm thời với nhân dân và sẽ vạch ra chương tŕnh hoạt động của Chính phủ cho mọi người dều biết.
Sự hoàn hảo của ông đă làm tôi phải ngạc nhiên và xúc động. Tôi khen ngợi và chúc ông thành công. Ông khiêm tốn đáp lại là đă phải làm quá nhiều việc trong một thời gian rất ngắn. Đă có một uỷ ban để soạn thảo lời tuyên thệ nhận chức của ông và các bộ trưởng, nhưng bản thảo bản Tuyên ngôn Độc lập c̣n cần phải được làm xong gấp. Theo ông, chính đó là một trong những lư do ông muốn gặp tôi. Ông gọi một người ở buồng bên mang bản thảo tới và đưa cho tôi với một dáng thoả măn. Rơ ràng trong việc khởi thảo bản này đă có bàn tay già dặn của ông.
Bản tài liệu đánh máy bằng tiếng Việt Nam, có nhiều chữ bị xoá đi và được viết đè lên bằng bút mực, với nhiều ghi chú bên lề. Tôi ngay ra, và ông Hồ thấy ngay là tôi không thể đọc được. Ông Hồ cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch và tôi chăm chú nghe. Trong mấy câu đầu, người phiên dịch đă nói lên một số danh từ rất đỗi quen thuộc và giống lạ lùng như bản Tuyên ngôn của chúng ta. Câu tiếp sau là “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ”.
Tôi chặn người phiên dịch lại, kinh ngạc quay sang hỏi ông Hồ có thực ông có ư định sử dụng câu đó trong bản Tuyên ngôn của ông không. Tôi không hiểu sao điều đó lại đập mạnh vào tôi, cứ như là có cảm giác khi quyền sở hữu bị đụng chạm, hay là khi làm một việc ngớ ngẩn nào đó. Tuy vậy tôi cứ hỏi. Ông Hồ ngồi dựa vào ghế, hai tay úp vào nhau, ngón tay sát vào môi một cách nhẹ nhàng và đang như suy tưởng. Với một nụ cười nhă nhặn, ông hỏi lại tôi một cách dịu dàng, “Tôi không thể dùng được câu ấy à?”. Tôi cảm thấy ngượng ngập và lúng túng. “Tất nhiên”, tôi trả lời, “tại sao lại không?”. B́nh tĩnh lại, tôi nói người phiên dịch đọc lại đoạn đó từ đầu một lần nữa. Anh ta đọc, “Tất cả mọi người sinh ra đều b́nh đẳng. Họ đă được Tạo hoá trao cho những quyền không thể chuyển nhượng lại được; trong đó có quyền tự do, quyền sống và được hưởng hạnh phúc”. Cố sức nhớ lại, tôi mới thấy các danh từ đă được chuyển vị và nhận xét là trật tự các chữ “quyền tự do” (Liberty) và “quyền sống” (Life) đă bị thay đổi(4). Ông Hồ nắm ngay lấy và nói: “Đúng! Không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do”. Ông muốn nài tôi phát biểu thêm. Tôi đă phải tŕnh bày là không biết ǵ hơn và đúng là như vậy. Tôi không thể dễ nhớ được lời lẽ trong bản Tuyên ngôn của chúng tôi. Và tôi cũng cảm thấy bất tiện khi nhận thấy ḿnh đă tham gia - dù rằng rất ít - vào việc đưa ra công thúc cho một thực thể chính trị và tôi cũng không muốn tạo ra một cái cảm giác là có ḿnh tham gia vào đó. Khi người phiên dịch tiếp tục, tôi nhận thấy, ông Trường Chinh ra khỏi pḥng và tôi tưởng là lúc đó tôi đă phát hiện được, nhưng có lẽ nhầm, có sự khác biệt ư kiến giữa những người Việt Nam.
Tôi đặc biệt chú ư đến “chương tŕnh quốc hữu hoá” của ông Hồ. Giáp viện vào “t́nh h́nh của đất nước”, nói bắt buộc phải “quốc hữu hoá” một số dịch vụ công cộng và công nghiệp. Với tư cách là “Bộ trưởng Nội vụ mới được đề cử”, Giáp thấy tuyệt đối cần thiết không để công việc gián đoạn trong các lĩnh vực cung cấp điện, nước, lương thực, giao thông, vận tải, đường xá và cảnh sát… Khi nhận chức, ông có ư định đặt tất cả các dịch vụ nói trên thuộc quyền kiểm soát trực tiếp của Chính phủ và phục vụ cho dân chúng với một giá tối thiểu. Tôi nói với Giáp rằng muốn thế th́ phải có kỹ thuật và tiền. Ông đồng ư nhưng cũng không t́m được cách nào để giải quyết vấn đề trong khi các nguồn tài nguyên của Pháp và Nhật đă cạn. Theo ư kiến ông, người Việt Nam sẽ phải tự làm lấy một ḿnh một cách tốt nhất.
Trong khi bàn luận về chương tŕnh với ông Hồ, tôi nêu lại ư đây không phải chỉ đơn thuần là vấn đề nhân công, mà ở đây đă có dồi dào, mà c̣n là việc phải có trong những thứ chủ yếu cho máy phát điện, dây cáp, máy móc, thiết bị nặng, xe cộ, ống thép… Phần lớn những thứ này, trước đây, phải nhập của Pháp và Nhật. Do đó đ̣i hỏi phải có ngoại tệ và ngân sách quốc gia để buôn bán với nhà sản xuất trên thế giới. Ông Hồ đồng ư, đó cũng là điều ông quan tâm lo lắng nhất. Ông tỏ vẻ tiếc và nhận xét là cuộc chiến tranh đă kết thúc quá sớm và cuộc cách mạng đă nổ ra quá nhanh. Nếu như ông đă thực hiện được một điều cơ bản của chủ nghĩa Marxism - nắm được trung tâm thần kinh của chủ nghĩa tư bản, tức là cơ cấu tài chính, và ở đây là Ngân hàng Đông Dương - th́ có lẽ những khó khăn về kinh tế ban đầu đă có thể tránh được. Nhưng nhà Ngân hàng vẫn c̣n thuộc quyền người Pháp, lại có Nhật vũ trang bảo vệ. Ở trong tay Pháp, Nhật, rồi Trung Quốc, Nhà băng nhất định sẽ bị tước đoạt hết mọi tài sản. C̣n như việc đặt ra thuế khoá để tăng thu nhập th́ Chính phủ Lâm thời cũng không có ư định làm và nhân dân cũng không có tiền. Họ cũng không thể rút các tài khoản của họ ở nhà băng. Nhưng, ông Hồ cho rằng lúc này cũng chưa phải là lúc phải chú ư quá đến vấn đề kinh tế. Sau khi Chính phủ được thành lập và hoạt động, ông tin rằng mọi việc sẽ có thể giải quyết được.
Khi tôi sắp rút lui ông Hồ hỏi tôi có muốn mang lại cho ông một cái vinh dự có tôi cùng dự với ông trong buổi lễ ngắn gọn Ngày Độc lập. Tôi ướm nhận lời nhưng ông nói ông hiểu rằng tôi sẽ không đến tham dự. Chúng tôi từ biệt nhau theo cách đó.

PARIS KHÔNG BIẾT ĐẾN SAINTENY
Chiều hôm đó tôi đến gặp Sainteny.
Vượt qua khoảng cách nhỏ giữa ngôi nhà phố Hàng Ngang và dinh Toàn quyền chẳng khác nào như đi từ đầu này đến bên kia quả đất. Cảnh trái ngược ngày hôm đó thực quá rơ rệt. Đi từ những hân hoan của việc khai trương một nước tự do đến những mối lo âu nhằm duy tŕ một đế quốc không ai cần đến và đang hấp hối là cả một chặng đường dài.
Tôi nghe Bernique báo cáo là người Pháp trong Dinh gặp khá nhiều khó khăn. Người Nhật vẫn từ chối, không công nhận một “sự có mặt của Pháp” và giữ Sainteny cùng nhóm ông ta trong cái lồng vàng có lính canh gác. Trong khi đại diện của De Gaulle hội đàm với người Trung Quốc ở Paris và Trùng Khánh th́ trưởng đoàn M.5 ở Hà Nội, không có quy chế chính thúc, đă chẳng có quyền nói chuyện với bất cứ ai. Ngay đến “người An-nam-mít”(ông Hồ) cũng đă cả gan chỉ cho một người dưới quyền đến làm việc với vị “đại diện nước Pháp”, mà cũng chỉ là để vứt bỏ lời mời chào hào hiệp của ông về những “quyền tự do vĩ đại”. Hai ngày trôi qua và tính lạc quan trước đây của Sainteny đă biến dần trước sự yên lặng đáng ngại của Hồ Chí Minh.
Sainteny tiếp tôi một cách niềm nở. Sự tiếp khách cũng như phong thái của ông là một điều khó đoán. Nó tuỳ thuộc vào sự biến chuyển của t́nh h́nh, cũng như sự mong muốn tôi làm một cái ǵ đó cho ông. Chiều hôm đó đă trở thành một cuộc viếng thăm vui vẻ…
Đài phát thanh và báo chí địa phương đă đưa tin về việc thành lập chính phủ mới. Sainteny và ban tham mưu của ông đặc biệt chú ư theo dơi thành phần của Chính phủ. Sainteny chẳng biết ai, ngoài Giáp và Hiền mà ông đă gặp lần đầu tiên hai hôm trước. Vừa rót cà phê từ một cái ấm bạc rất đẹp, ông hỏi xem tôi có biết ai trong số những người đó không. Có, tôi biết ông Hồ mà tôi đă gặp lần đầu tiên vào tháng 4 và từ đó đến nay vẫn giữ liên lạc đều. Chu Văn Tấn đă làm việc với Thomas và toán “Con Nai”. Phạm Văn Đồng th́ đă cộng tác với dân AGAS của chúng tôi. Và, tất nhiên tôi biết Dương Đức Hiền, bạn của Giáp.
Sainteny nhận định một cách bi quan về ảnh hưởng của Chính phủ mới đối với mối quan hệ “Pháp - An Nam” sau này. Theo ư kiến ông, đó là Cộng sản, trong cấu tạo cũng như trong lư thuyết. Sự lănh đạo của họ đặc sệt theo Mátxcơva và sẽ không có khả năng đối phó với nhiệm vụ quản lư đất nước. Hơn nữa, nếu như Pháp rút cơ sở kinh tế của họ đi, th́ ai sẽ đến để thay thế? Dù có muốn Liên Xô trong lúc này cũng không có khả năng cáng đáng được. Cũng như Trung Quốc, họ chỉ sẽ ḅn rút cho khánh kiệt. Ư kiến của Sainteny là sớm hay muộn th́ rồi Pháp cũng phải tiếp quản lại Đông Dương, nếu như Mỹ không có ư định muốn thay thế Pháp. Tôi đă tránh để không bị rơi vào bẫy khiêu khích.
Thẳng thắn một cách khác thường, Sainteny chiều đó công nhận với tôi là ông không nhận được một sự khuyến khích nào từ Paris hoặc Calcutta. Ông cho biết đă gửi một bức điện lời lẽ mạnh mẽ về vho Chính phủ Paris của ông để nói về việc nước Pháp có thể để mất Đông Dương nếu như không chịu xúc tiến những bước vận động ngoại giao tích cực ở cấp quốc tế. Tôi hỏi Paris có thể làm được ǵ. “Phải bắt người Trung Quốc thực hiện lời cam kết của họ và giải toả cho quân đội Pháp ở Vân Nam”. Sainteny đă biết tin Trung Quốc vượt biên giới mà không có người Pháp đi cùng; ông coi đó là một sự “phản bội của Trung Quốc”. Nếu như ông ta có 1.000 lính có đầy dủ vũ khí khi ở Hà Nội th́ t́nh h́nh sẽ khác. Tôi nhận xét là điều đó có thể làm nổ ra một cuộc chiến tranh đẫm máu. Câu trả lời của ông là tôi không biết ǵ về dân “An nam mít”. Họ sẽ không bao giờ tấn công vào một người Pháp mặc quân phục; họ rất kính phục nhà chức trách Pháp. Tôi không b́nh luận ǵ thêm. Tất cả những ǵ tôi có thể nghĩ được lúc đó là quyết tâm cao của Giáp và những người đi theo ông nhằm chống lại mọi tàn tích c̣n lại của nền cai trị Pháp, và lời thách thức luôn luôn được nhắc đi nhắc lại của ông Hồ là ông sẽ chiến đấu đến cùng cho Việt Nam độc lập.
Sainteny thấy khó mà chấp nhận được sự hờ hững bề ngoài của Paris trong việc giúp đỡ ông. Trong điện gửi về Paris, ông yêu cầu phái đoàn của ông phải chính thức được thừa nhận, thông qua con đường ngoại giao ở Tokyo và có như thế ông mới có thể làm việc trực tiếp với Nhật ở Hà Nội. Nhưng ông chờ măi mà vẫn không nhận được tin tức ǵ về bức điện của ông. Giống như hồi tháng 7 ở Paris, khi Sainteny cố gắng làm cho De Gaulle chú ư đến tương lai của Đông Dương mà không có kết quả, th́ nay t́nh h́nh cũng giống như vậy. “Họ vẫn chưa hiểu được t́nh h́nh”. Ông nói riêng với tôi: nếu như Paris muốn cử một người nào đó đến thay th́ ông sẵn sàng nhường bước. Đó cũng là lần đầu tiên tôi nghi hoặc cho rằng có thể Sainteny không được các nhà chức trách Paris tín nhiệm hoàn toàn. Song Sainteny đă không bị thay thế mà cũng chẳng nhận được quy chế chính thức cho tới tháng 10-1945.
Trước khi tôi ra về, Sainteny đề cập đến hai yêu cầu khác. Ông muốn biết, theo tôi th́ Hồ Chí Minh có muốn xúc tiến một cuộc đối thoại với người Pháp không. Tôi suy nghĩ một lát rồi đưa ra ư kiến là, theo tôi, ông Hồ không phải là một nhà cách mạng cuồng nhiệt. Trái lại, tôi thấy ông là một người ôn hoà và là một trong số ít người có đầu óc thực dụng trong các lănh tụ quốc gia. Qua nhiều cuộc nói chuyện với ông, tôi suy ra rằng ông hoàn toàn ư thúc được những điều hạn chế và các khả năng của ông. Tỷ dụ như ông công nhận là sẽ phải tiếp quản một đất nước đang bị phá sản, ông không được đảm bảo có sự hỗ trợ của nước ngoài, nhân dân của ông thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc quản lư đất nước và xây dựng cơ sở nền kinh tế. Về mặt khác, ông Hồ cũng có ư thức về những ưu thế của ông. Những người đi theo ông có kỷ luật; ông có một tổ chức chính trị vững vàng trong giai cấp nông dân, công nhân và trí thức, có động có đấu tranh cho mục đích chung; và phong trào giải phóng bao gồm tới 90% dân chúng mà đa số đều sợ, không muốn có việc quay trở lại nguyên trạng cũ. Sau khi đă giành được một thắng lợi cực kỳ to lớn về tâm lư và chính trị một cách tương đối dễ dàng, mới 10 ngày trước đây và có được một kho vũ khí khá quan trọng, chắc chắn là ông Hồ sẽ ra sức đẩy mạnh phong trào cách mạng tiến lên. Nhưng tôi cũng thấy ở ông Hồ một con người yêu hoà b́nh, sẽ mong muốn thượng lượng hơn là đánh nhau, mặc dù tôi vẫn tin rằng nếu không có lối thoát, ông sẽ chiến đấu.
Sainteny lắng nghe những nhận xét của tôi, và với một vẻ suy nghĩ, ông gợi ư muốn được nói chuyện trực tiếp thẳng với ông Hồ. Có thể một cuộc tiếp xúc cá nhân cũng có khả năng đưa đến một sự đồng ư cụ thể nào đó cho một cuộc ngừng bắn. Tuy vậy, tôi cũng rất hoài nghi về kết quả của một cuộc gặp gỡ giữa hai người, v́ Sainteny không những không có quy chế chính thức mà cũng chẳng có quyền lực ǵ để có thể làm thay đổi được chính sách cứng rắn của Paris về “chủ quyền tuyệt đối của Pháp”. Tôi đồng ư là một cuộc gặp gỡ như thế cũng chẳng có hại ǵ. Sainteny hỏi tôi có muốn giúp thu xếp không. Tôi hứa sẽ cố thử, nhưng nêu lên ư kiến là cuộc gặp của ông ta với Giáp và Hiền trước đây đă chẳng đạt được ǵ. Sainteny ngạc nhiên hỏi tại sao? Tôi nói thẳng là v́ không những ông ta đă có thái độ gia trưởng mà c̣n rất mập mờ trong đề nghị hợp tác của ông. Sainteny không đồng ư nên tôi cũng thôi không tiếp tục vấn đề.
… Đề nghị khác của Sainteny có liên quan đến một số bạn đồng sự của ông thuộc SLFEO ở Calcutta, mà theo ông th́ đă được thả dù ngày 23-8 xuống khu vực phía bắc Hà Nội. Ông báo tin cho tôi và sợ rằng nhiều người trong số đó đă bị giết hoặc bị Nhật hay Việt Minh bắt.
Hai ngày trước đó, ông đă được nhận tin từ Calcutta cho hay P. Messmer và cả toán của ông đă bị Việt Minh bắt giữ. Như vậy ông ta c̣n sống, nhưng ở đâu? Tôi có thể t́m được họ không? Tôi trả lời ông là tất nhiên có thể làm được nhưng phải có thời gian. Ông kể tiếp là SLFEO đă phái nhiều toán sĩ quan chính trị, mà Messmer là một, cũng nhiều t́nh báo viên của DGER đến bắt liên lạc với du kích ở Đông Dương. Nhiều toán đă không tới được mục tiêu. Và chỉ mới biết tin tức của một số ít. Như đối với toán Messmer, Sainteny cho biết Messmer đă được cử làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kỳ, trong toán có một nhân viên y tế và một cơ công điện đài.
Phải mất nhiều ngày sau tôi mới nắm được manh mối của toán Messmer. Trong khi đó th́ Sainteny vẫn c̣n là người cầm đầu M.5 phụ trách việc liên lạc của Pháp cho SLFEO, nhưng h́nh như ông đă bỏ nhiệm vụ chính của ông, công tác t́nh báo, để lao vào những cuộc đấu tranh chính trị mù mờ. Ông không nhận thức được những công tác cần ưu tiên và say sưa với những vụ khiêu khích vô tích sự.
Chú thích
(1) Khi ấy gọi là Chủ tịch Chính phủ
(2) Những thành viên khác trong Chính phủ Lâm thời
- Bộ trưởng Tuyên truyền: Trần Huy Liệu (Cộng sản)
- Bộ trưởng Quân chính: Chu Văn Tấn (Việt Minh)
- Bộ trưởng Thanh niên: Dương Đức Hiền (Dân chủ)
- Bộ trưởng Kinh tế: Nguyễn Mạnh Hà (Dân chủ)
- Bộ trưởng Cứu tế: Nguyễn Văn Tố (nhân sĩ)
- Bộ trưởng Tư pháp: Vũ Trọng Khánh (Dân chủ)
- Bộ trưởng Y tế: Phạm Ngọc Thạch (Việt Minh)
- Bộ trưởng Giao thông: Đào Trọng Kim (nhân sĩ)
- Bộ trưởng Lao động: Lê Văn Hiến (Việt Minh)
- Bộ trưởng Giáo dục: Vũ Đ́nh Ḥe (Dân chủ)
- Bộ trưởng Canh nông: Cù Huy Cận (Dân chủ)
- Bộ trưởng không bộ: Nguyễn Văn Xuân (Việt Minh)
(thiếu Bộ trưởng Quân huấn Trương Trung Phụng)
(3) Ông Hồ trích dẫn diễn văn của Tưởng Giới Thạch ngày 24-8 trước hội nghị liên tịch Hội đồng Quốc pḥng Tối cao và Uỷ ban Thường vụ Quốc dân Đảng.
(4) Nguyên văn của đoạn đó như sau: “All men are created equal that they are endowed by the Creator with certain inalienable Rights, among these are Life, Liberty and the persuit of Happiness” (Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ 1776). Tuy nhiên, sau này, Hồ Chủ tịch đă trích lại nguyên văn này: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
(Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam 1945).

 

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6  - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28  - 29 - 30 - 31 - 32 - 33

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: