Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 9
Một chuyến đi đến biên giới Trung Quốc

T̀NH TRẠNG LỘN XỘN
Chuyến đi ṿng mở đầu của tôi ở miền nam Trung Quốc bắt đầu ở Szemao, ở sân bay bận rộn của ḿnh(1), trung uư William A. Pye, người của trạm chúng tôi ở đây, đă đón tôi với nhiều chuyện phiền muộn về chủ trương phá rối của Trung Quốc, về những lời phàn nàn của người Pháp và về một cuộc tấn công “trước mắt” của Nhật Bản. Anh ta hoàn toàn thất vọng v́ không thấy tiến bộ trong việc xây dựng một mạng lưới t́nh báo và gán vấn đề này cho thái độ không cộng tác của người Trung Quốc dưới sự lănh đạo của Tai Li và cho sự thờ ơ của những người lánh nạn Pháp, họ đang cần giữ một khoảng cách giữa họ với người Nhật ở biên giói Đông Dương, cách đó chừng 40 dặm về phía nam.
Chúng tôi lái xe đến trạm OSS, ở đó một người Pháp là thiếu tá De Monpezat(2) đang đợi chúng tôi. Ông ta mô tả t́nh h́nh ở Szemao như là một sự hỗn loạn cực độ. Những đội quân “Annamite” bỏ ngũ hàng đoàn. Người Trung Quốc không hề có một sự cố gắng nào để quan tâm đến điều đó hay để di tản những người Pháp lánh nạn sang Ấn Độ; nhiều người trong số đó thiếu ăn, rách rưới, mắc bệnh kiết lị, sốt rét và bị kiệt sức và hết sức cần đến một sự chăm sóc y tế. Dân lánh nạn đă đạt tới “con số vô cùng lớn là 3.500 người hay hơn nữa”. De Monpezat muốn biết xem chúng tôi có thể làm được ǵ về vấn đề này. Điều duy nhất mà tôi có thể làm được là xem xét qua và báo cho Trùng Khánh biết, nhưng tôi đă gợi ư cho ông ta cùng với Pye chuẩn bị một bản báo cáo dễ hiểu nêu lên những nhu cầu và nói chi tiết về số người lánh nạn và các loại yêu cầu nổi bật. Thiếu tá có vẻ hài ḷng.
Viên quan ṭa nhăn nheo ở Szemao, Chao Cha Fung, cũng chờ đợi dể gặp tôi. Ông ta biết tin 400 người Pháp lánh nạn khác và nhân viên quân sự sẽ đến trong 4 ngày tới và bày tỏ nỗi lo sợ của ông ta là họ có vũ khí. Ông ta yêu cầu tôi khuyên các nhà chức trách Pháp thu vũ khí của những người lánh nạn ấy trước khi họ tới và đặt họ dưới sự bảo vệ của giới quân sự Trung Quốc. Tôi đă báo tin cho ông ta rằng đó là vấn đề của Pháp và Trung Quốc, không có liên quan ǵ tới người Mỹ. Tuy nhiên tôi nói thêm rằng theo tôi hiểu th́ giới quân sự Pháp không bị giải giáp và đă được người Trung Quốc đưa đến những khu vực tập trung để chờ đợi quyết định của Trùng Khánh. Viên quan toà rơ ràng không thích thú với tin tức ấy và đoán trước về t́nh trạng rắc rối giữa giới quân sự Pháp và Trung Quốc nếu vấn đề không được giải quyết. Ông ta phàn nàn rằng người Pháp kéo đến đông đảo sẽ gây những thiếu thốn về nhà ở và lương thực, t́nh h́nh đă trầm trọng hơn v́ ngôn ngữ bất đồng. Lính tráng đe doạ những người buôn bán địa phương v́ khó mua hàng hóa hơn và giá hàng lên cao. Đối với tất cả những vấn đề ấy, tôi gợi ư ông ta nên hỏi ư kiến Trùng Khánh. Ông ta cảm ơn tôi v́ sự “thông cảm” của tôi và rút lui.
Những vấn đề ở trạm OSS thật hỗn độn. Nhiều sĩ quan OSS đă đến biên giới một tháng, nhưng không ai biết chính xác ḿnh đến đâu. Những yêu cầu cấp bách của các tiền đồn OSS khác nhau đă bị chất đống ở Szemao mà không được giải quyết. Tôi yêu cầu Pye đưa công việc vào trật tự đến mức cao nhất và điện cho Helliwell phái thêm một người nào đó đến để giúp thêm cho Pye để cho anh ta có thể về Côn Minh báo cáo về t́nh h́nh người Pháp và về công việc của trạm.
Sáng hôm sau, tôi lên máy bay đến Tŕnh Tây (Ching Hsi) cách đó 300 dặm. Dọc đường chúng tôi dừng lại ở tiền đồn của chúng tôi tại Mương Sinh, một làng thuộc vùng núi Đông Dương, cách Szemao chừng 125 dặm. Chúng tôi dừng xuống đường băng một lát để xác định nó là một sân bay và đă gặp trung uư Charles D. Ambelang. Ba tuần nay, anh ta đă di chuyển từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác theo một con đường ṃn đầy bụi, đặt các trạm nghe và sẵn sàng tháo gỡ ngay khi thấy quân Nhật di động. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Người Pháp không ở lại và người Việt Nam ở địa phương không thể được huấn luyện nhanh chóng để làm những thao tác vô tuyến điện. Tôi yêu cầu ông ta rời bỏ khu vực này, đến móc nối với nhóm của tướng Sabattier ở Phong Saly, và sau đó cùng với họ về Szemao, ở đó tôi sẽ gặp anh ta.
Chỗ dừng sau đó của tôi là Mông Tự (Meng Tzu), thuộc Trung Quốc, một tiền đồn OSS khác, ở đó công việc kém sôi nổi hơn. Đội này đă thành công trong việc thu lượm một khối lượng khá lớn những thông tin về mệnh lệnh chiến đấu của Nhật và một ít tin tức t́nh báo chính trị về những liên hệ Pháp - Nhật ở Hà Nội và Hải Pḥng.
NGÔI NHÀ AGAS

Cuối cùng, một giờ trước lúc hoàng hôn, tôi hạ xuống Tepao, phía bắc Tŕnh Tây, và đi tới ngôi nhà AGAS. Chúng tôi dự một bữa ăn do một sĩ quan Pháp mời, những người đó đang làm việc với GBT và cộng tác với AGAS. Nóng người lên v́ rượu cognac tuyệt vời của Pháp, câu chuyện của chúng tôi t́nh cờ đụng tới chuyện nghề nghiệp, người Pháp phàn nàn về những điều rủi ro của họ và trách móc “các nhà chính trị”. Là một người khách, tôi tránh tranh căi khi một người nào đó nhắc tới những người “Annamites” như những người “không thể tin cậy” được và nói chung đó là một “vấn đề”. Để giữ câu chuyện dừng lại ở đề tài này, tôi nói với họ là tôi đă gặp một thành viên của Liên minh Độc lập Đông Dương, người đó nói tổ chức này không phải là một tổ chức chống Pháp, mà chỉ chống phát xít. Điều đó gây ra một sự tranh căi, tôi ngồi lùi ra và lắng nghe.
Người Mỹ giữ lập trường cho rằng người Việt Nam có thể cực kỳ có ích. Họ biết rơ địa h́nh, họ kín đáo và họ dễ huấn luyện. Họ tuyệt nhiên không phải là những người chống Pháp, bằng chứng là nhiều người Việt Nam phục vụ trung thành trong hàng ngũ quân đội thuộc địa Pháp. Dù sao, khi c̣n cần thiết, họ không có sự lựa chọn nào ngoài việc tuyển mộ người Việt Nam và điều đó có thể làm được.
Các sĩ quan Pháp chỉ thừa nhận đó là những tay chân riêng biệt, được M.5 của Pháp sàng lọc, có lẽ chỉ một số ít được sử dụng dưới sự giám sát của Pháp nhưng phải theo một sự hoạch định thận trọng và được bảo đảm hết sức an toàn. Họ khuyên tôi nên thận trọng hơn với Liên minh và tổ chức theo xu hướng Matxcơva của nó là Việt Minh. Tôi rất chú ư tới một điều người ta nói là “một số người Lê dương Nga trong sư đoàn Alessandri đă bị kết án v́ những hoạt động nổi loạn trong phong trào độc lập của người An Nam trong nấy năm vừa qua”. Ông nói rằng Việt Minh ở Đông Dương cổ động dân chúng bản xứ đă lâu rồi và đám dân chúng rộng lớn th́ theo “chủ nghĩa chủng tộc và thân Nhật”. Nếu họ giành được chỗ đứng ở Đông Dương, th́ điều đó báo hiệu sự kết thúc ảnh hưởng của người da trắng ở Đông Nam Á. Họ nhắc nhở tôi rằng nếu không có gần 80 năm sống dưới sự “nhân từ” của người Pháp th́ người An Nam đă phải quỳ gối xuống trước người Trung Quốc mà không hưởng dược cái lợi của nền văn hoá phương Tây và Pháp.
Không cần phải làm cho các vị khách người Pháp phải nổi giận, tôi đồng ư là nước Pháp chắc chắn đă góp phần vào việc phương Tây hoá Đông Dương, nhưng vấn đề sắp tới là làm thế nào để khôi phục một cách tốt nhất sự tiếp xúc với bên trong và đưa họ tới chỗ chống lại kẻ thù chung của chúng ta là người Nhật. Một người AGAS trở lại ư kiến lúc đầu của ḿnh là có thể sử dụng người Việt Nam và nước Pháp thừa nhận đó là một biện pháp, nhưng vẫn giữ ư kiến là điều đó có thể gặp nguy hiểm. Sau đó câu chuyện chuyển sang những đề tài khác.
Khi các vị khách đi khỏi, đội AGAS hỏi tôi suy nghĩ như thế nào đối với Việt Minh. Tôi chỉ nói rằng SI và AGAS có thể xem xét một hành động chung với Việt Minh và tôi hy vọng sẽ gặp được một người của Việt Minh không để cho người Pháp biết, và cần AGAS giúp t́m cho một người Trung Quốc. Họ đồng ư.
Hôm sau tôi đi sâu vào xem xét nhóm GBT.
Với sự giúp đỡ của đại tá Emblanc và một số sĩ quan khác thuộc phái đoàn quân sự Côn Minh, Gordon đă lập được một vài đường vô tuyến điện ở biên giới Đông Bắc. Ông ta cũng thành công trong việc tổ chức một số “hệ thống liên lạc” giữa Hải Pḥng và Hà Nội, và thỉnh thoảng đă cung cấp được thông tin OSS - Côn Minh và hạm đội Mỹ ở Trung Quốc.
ÔNG WANG YEH LI

Công việc tiếp đó của tôi là đi t́m Wang Yeh Li. Một người cộng tác với AGAS biết nói tiếng Trung Quốc đă giúp tôi t́m ra cho một quán trà tối tăm mà tôi đang cần t́m. Nó nằm trên một đường phố chật hẹp có những cửa hiệu đang mở của buôn bán và đầy những người có cả những đứa trẻ con ở trần mỉm cười chào thân mật “ting hao”. Bà Wang chào đón chúng tôi; chồng bà, như bà nói, đang đi ra đâu đấy một lát. Chúng tôi chờ đợi và gọi nước chè, thấy có một số người Trung Quốc đi vào. Họ không ăn cũng không uống ǵ mà đi thẳng vào cái pḥng gần đó. Một vài người trở ra sớm và đi khỏi đây; nhưng người khác th́ hoặc là những người trong nhà hoặc là đi ra bằng lối khác. Chúng tôi suy xét điều đó và kết luận rằng quán trà này c̣n là một cái ǵ hơn nữa ngoài một nơi uống trà và ăn bánh bao.
Một người Trung Quốc khá trẻ bước vào, đi thẳng tới bàn chúng tôi và không ngần ngại tự giới thiệu bằng tiếng Anh. Ông ta nói tên của ông ta là Wang và ông ta đang đợi gặp tôi. Tôi giới thiệu người bạn của tôi là trung uư “Karl” (nhân viên AGAS hiếm khi để lộ tên thật của họ). Wang không có cung cách xă giao phương Đông thường thấy và bằng tiếng Anh Hongkong của ḿnh, ông ta hỏi có tính chất thăm ḍ về những cảm tưởng của tôi đối với Trung Quốc và về việc Quốc dân đảng sẽ ra sao khi Mỹ có một Tổng thống mới. Ông ta không tin chắc rằng nước Nhật sẽ bị đánh bại trong mấy năm tới, có thể là chưa phải năm 1947 hay 1948, và lúc đó chắc là nước Nga sẽ tham chiến. Ông ta cho rằng tôi cùng với tướng Chennnault đang tiến hành một công việc t́nh báo nào đó. Ông ta như muốn đánh giá tôi, muốn biết những xu hướng chính trị của tôi và muốn biết xem mục đích của việc tôi đến thăm là ǵ. Chậm răi, tôi giúp ông ta nắm được những thông tin mà tôi thấy rằng cần để ông ta nắm được. Vâng, tôi làm t́nh báo với OSS. Dưới quyền của Wedemeyer, chứ không phải của Chennault. Không, tôi không quan tâm đến chính trị Trung Quốc mà chỉ quan tâm đến hoạt động của Nhật ở Đông Nam Á. Tôi cần tổ chức một mạng lưới những người hoạt động bí mật ở Đông Dương, tốt hơn cả là với sự giúp đơ của người Việt Nam. Cuối cùng, Wang nhận xét rằng chỉ có người Trung Quốc và người Việt Nam mới có thể thành công trong một công việc như vậy và có thể ông ta sẽ nói đúng cái người có thể giúp cho chúng ta. Liệu tôi có muốn gặp người đó không? Có, tôi trả lời, nhưng đó là người nào? Ông ta chỉ nói đó là “một người An Nam có ảnh hưởng và khoáng đạt”. Sau mọi chuyện tôi cảm thấy dường như ông ta nói đến ông Hồ, nhưng không một ai trong chúng tôi nhắc tới cái tên đó, và theo một ư nghĩa nào đó, đó là cách kiểm tra sự bí mật. Tôi muốn tin vào Wang và Wang sẽ có thể giới thiệu cho tôi đúng con người ấy. Tôi muốn liều một chuyến và đồng ư sẽ đến gặp Wang về mục đích này chiều hôm sau. Tôi sẽ tới một ḿnh.
“Karl” không tin đến như vậy. Trở về chiếc xe của chúng tôi, anh ta bày tỏ vẻ khó chịu của ḿnh. Tay chân của Tai Li ở khắp nơi và không ai chắc được về người Trung Quốc như ông ta. Tôi chợt nghĩ phải chăng ông ta đă biết ít nhiều về Wang? Tôi nói cho “Karl” biết ai bố trí cho tôi gặp Wang và tại sao, anh ta cảm thấy yên tâm nhưng vẫn thuyết phục tôi rằng có thể Wang là một người Cộng sản Trung Quốc, phải hết sức thận trọng, và đó là người có thể tin được. Tuy vậy anh ta nói là sẽ xem xét kỹ hơn nhóm của Wang.
Chiều tối hôm ấy tôi nhận được bức điện vô tuyến của Helliwell cho tôi biết đang xảy ra một chuyện cấp bách. G-2(3) hỏi về những hoạt động OSS ở Hà Nội và Sài G̣n. Bộ chỉ huy muốn biết tin tức về những đơn vị chiến đấu Nhật mới tới và xác nhận những sân bay và những căn cứ quân sự mới theo cách nh́n từ trên không. Bộ chỉ huy cũng đ̣i hỏi phải tiến hành cấp tốc một chiến dịch tuyên truyền chống lại quân đội Nhật thuộc sư đoàn 37 để làm giảm tinh thần và gây đào ngũ. Bộ chỉ huy muốn biết mọi điều và tất nhiên là họ có quyền làm như vậy. Rơ ràng là chúng tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai - người Trung Quốc, người Việt Nam hay người Pháp - để bắt đầu tiến hành hoạt động.
Để cho chắc chắ, tôi t́m quán trà nằm giữa những con đường hẻm rối rắm kia, và chúng tôi lại đến đó một lần nữa vào buổi chiều ngày hôm sau lúc c̣n sớm. “Karl” nói cho tôi biết rằng Wang đúng là một người Cộng sản Trung Quốc đă hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội, tổ chức của những người lưu vong ở Liễu Châu và Quế Lâm. Tối hôm trước Wang bị nghi ngờ là có hướng chống Quốc dân đảng v́ sự liên hệ mật thiết của ông ta với Việt Minh, nên ông ta đă bị Đồng minh Hội khai trừ và hiện nay ông đang chờ cơ hội để lên phía bắc với nhóm của Mao ở Diên An.

MỘT QUÁN TRÀ TRONG LÀNG

Mặt trời đă lặn khi tôi và Wang đi vào một cái làng nhỏ gọi là Chiu Chow Chich. Phải mất 45 phút để đi xe qua 6 dặm từ Tŕnh Tây, trên một con đường hẹp (và chỉ có con đường đó). Cuối ngày, tất cả đều đi ngược lại chúng tôi - người, gia súc và xe ḅ - khiến chúng tôi phải dừng lại không biết bao nhiêu lần v́ bị trâu ḅ và xe chở lặc lè ngăn cản. Làng này chỉ là một cụm nhỏ 15 hay 20 ngôi nhà nhỏ bé có tường thấp và vôi gạch đổ nát bao quanh. Wang chỉ một ngôi nhà thấp nằm ở giữa.
Khi chúng tôi vừa đỗ xe gần đó, hai người ra gặp chúng tôi(4). Họ không phải là người Trung Quốc. Wang đi lên trước và nói mấy câu mà tôi tin đó là tiếng Trung Quốc. Người lớn tuổi hơn trong hai người đó là một người mảnh khảnh, thâm thấp, 50 hay 60 tuổi ǵ đó; ông ta đến gặp tôi với nụ cười niềm nở và ch́a tay ra. Ông ta nói tiếng Anh rất thành thạo. “ Xin chào! Người bạn tốt của tôi”. Tôi nắm lấy bàn tay gần như mỏng mảnh của ông Hồ và bày tỏ sự vui sướng của tôi v́ gặp được một người có nhiều người bạn Mỹ ở Côn Minh. Sau đó, ông Hồ giới thiệu người Việt Nam khác, ông Lê Tùng Sơn, như là một người cộng tác gần gũi của ḿnh trong Liên minh.
Wang dẫn mọi người vào một căn pḥng sáng lờ mờ, dường như có một cái bệ nhỏ. Ông Sơn vào sau cùng và cài cửa ra vào cũng như cửa sổ thật cẩn thận. Ông Hồ bước tới chiếc bàn duy nhất và mời chúng tôi ngồi. Vừa rót nước chè cho chúng tôi, ông Hồ vừa giải thích rằng ông Sơn không nói được tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng hiểu được tiếng Pháp đôi chút. Ông Hồ nói ḿnh thích dùng tiếng Anh v́ cần phải luyện tập.
Wang đi thẳng vào vấn để. Chi nhánh Côn Minh của Việt Minh hy vọng cộng tác với Đồng minh và chúng ta đến đây để thu xếp công việc. Không do dự, ông Hồ đáp lại rằng có thể cộng tác được, rằng ông Phạm Viết Tự đă tiếp xúc với Lănh sự quán Mỹ từ tháng 8 trước và ông Langdon đă có thái độ tốt đối với người Việt Nam (đó là một lời cường điệu về lập trường của Tổng lănh sự, như tôi đă biết). Thật ra, ông Hồ nói tiếp, AGAS và Việt Minh đang tổ chức một hoạt động bí mật ở trong nước để giúp những phi công bị rơi, nhưng ông coi điều đó có một ư nghĩa khác.
Ông Hồ nói ông cần nói trước hết tới những người bạn thân của chúng tôi. Ông rất muốn biết làm thế nào tôi biết đến Việt Minh và hơn nữa, tới ông. Tôi nói thẳng thắn nhưng chỉ nêu bật lên những điểm chính rằng, ở Washington tôi đă nghe nói ông bị Quốc dân đảng “bắt giam”, rằng ông làm việc trong Đồng minh Hội, rằng ông cộng tác với Đồng minh để cứu những phi công bị rơi, và tất nhiên nói đến cả cuộc chuyện tṛ của tôi với Phương. Tôi thấy ông Hồ rất quan tâm đến những điều tôi để lộ ra, và trong một thoáng, thấy ở ông một ánh mắt ngạc nhiên và hài ḷng khi biết rằng cái tên Hồ Chí Minh không phải không được giới chính thức ở Washington biết tới, nhưng ông trở lại b́nh thường rất nhanh. Ông hỏi tôi có biết thiếu tá Glass không; tôi nói với ông, Glass đă gợi ư cho tôi đi t́m một người “An Nam thân thiết” ở Bắc Kỳ và tôi ngạc nhiên thấy rơ ông có thể là người đó.
Con người mảnh khảnh, nhỏ bé và kỳ lạ ấy cười rộng miệng và dành mấy phút để ca ngợi Austin Glass, “người Mỹ Việt Nam”. Ông Hồ nhắc lại với một cảm t́nh rơ ràng là thật sự rằng người Việt Nam ở Hải Phong đă quư trọng Glass như thế nào, ông ta đă lấy một phụ nữ Việt Nam và đă sống ở Đông Dương hơn 30 năm. Theo ông Hồ, Glass biết tiếng Việt rất thạo, hiểu những vấn đ xă hội, kinh tế và chính trị của Việt Nam vớ một thái độ thân thiết và có thiện cảm. Ông nhắc lại trong khi người Nhật chiếm Bắc Kỳ năm 1940, Glass là một trong những người phương Tây đầu tiên bị Kempeitai(5) giám sát một cách khó chịu, không phải v́ ông ta thân Pháp mà v́ ông ta tán thành mạnh mẽ tinh thần độc lập và chống phát xít của người Việt Nam. Ông Hồ nhắc lại một cách sinh động những lời kể của nhiều người bạn Việt Nam của Glass ở Hải Pḥng đă từng lên tiếng chào Glass khi ông ta rời khỏi Hải Pḥng trong một cuộc trao đổi nhũng người dân sự Mỹ - Nhật. V́ chưa bao giờ gặp Glass cả, ông Hồ đă kể lại ở cương vị một người thứ ba.
Ông Hồ hút thuốc lá liên tục, ông hút thứ thuốc lá địa phương rất mạnh và hăng. Khi ông cuốn thứ thuốc lá ấy và hỏi ḿnh cuốn đă khá hơn chưa, tôi bèn mời ông một điếu Chesterfield. Mắt ông ánh lên thích thú khi ông đưa những ngón tay nhỏ nhắn và dài ra cầm lấy một điếu và nói thêm với một vẻ tự bào chữa rằng hút thuốc là một tật xấu khá nặng của ông. Về sau tôi thấy điều đó là sự thật. Khi sức khoẻ ông gặp gay go trong những ngày căng thẳng tháng 8 và tháng 9, ông rất thích hút thuốc Chesterfield của tôi. Ngay cả khi ông ho rung cả người lên, ông cũng hút. Dường như đó là một niềm vui thích của ông và tôi chưa bao giờ thấy thích thú nhưu khi thấy ông ưa những điếu thuốc lá của tôi.
Nhưng để trở lại với câu chuyện của chúng tôi, tôi cảm thấy một vài sự dè dặt của ông Hồ đối với tôi đă được xua tan, nhưng ông là một nhà cách mạng lăo thành, một bậc thầy về những âm mưu và bí mật, nên ông vẫn tiếp tục đi sâu vào câu chuyện với một vẻ thăm ḍ dễ mến và tế nhị. Tôi hiểu ông muốn biết những động cơ của tôi và cố khám phá thái độ của tôi đối với nhân dân Việt Nam và nói riêng để xem tôi là người đại biểu cho những quyền lợi thực dân hay đại biểu cho thái độ chống thực dân của Roosevelt. Tôi cần phải giành lấy sự tin cậy của ông và sẵn sàng tham gia cuộc đấu trí biện chứng của ông.
Ông Hồ cũng mô tả khá dài về đời sống khó khăn mà người Việt Nam phải chịu trong mùa đông trước ở Bắc Việt Nam. Vụ lúa tháng 10 bị băo tàn phá, đê bị vỡ, nước lụt tràn ngập. Những thiếu thốn về thuốc men, lương thực, áo quần và vận tải hồi mùa đông lại cộng thêm với việc không có những biện pháp đặc biệt nên đă đưa đến kết quả cuối cùng là nạn đói kinh khủng nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc đă xảy ra.
Những thiếu hụt về lương thực, cộng thêm nạn đầu cơ tích trữ tha hồ về thóc gạo, đă trở nên hết sức gay go hồi tháng Giêng khi sức khoẻ của người Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ xấu đi nhanh chóng. Nhiều người ốm đau hay quá yếu nên không thể làm việc được. Gia súc chết trên nhũng cánh đồng v́ không được chăm sóc và thiếu ăn. Hệ thống đê điều phức tạp do người Pháp phát triển và duy tŕ đă bắt đầu rơi vào t́nh trạng không được sửa sang trong suốt mùa đông v́ ngân sách công ích bị cắt đi. Nhân viên người Pháp ngừng làm việc và những người Việt Nam không được huấn luyện không thể thay thế họ. Những đường sá lớn ở đồng ruộng cuối cùng bị ngập lụt.
Khi tôi hỏi chính quyền Pháp đă làm ǵ dể giảm bớt t́nh h́nh ấy, ông Hồ xua rộng hai tay và thở dài. “Những ǵ họ làm bao giờ cũng là theo đuổi quyền lợi riêng của họ”. Ông coi chế độ Decoux là chế dộ của những quyền lợi tham lam, bám lấy những quyền lợi bất di bất dịch và hờ hững với cảnh ngộ của dân chúng Việt Nam. Đáng lẽ phải vạch ra một kế hoạch phân phát những kho lương thực lớn ở phía nam, Chính phủ Decoux lại áp đặt những h́nh phạt nặng nề, kể cả cái chết, cho những người đang cố sống sót.
Việt Minh đă nắm lấy vai tṛ lănh đạo trong cuộc khủng hoảng ấy. Các đơn vị du kích Việt Minh đă đánh vào những kho tàng ở nông thôn Trung Kỳ và Bắc Kỳ(6), chiếm lấy lương thực, đặc biệt là thóc gạo, để phân phát cho những người đang thiếu. Nhiều người đă được cứu giúp, những nạn đói vẫn tăng lên. Chỉ trong mấy tháng, từ 1,5 đến 2 triệu người Việt Nam đă chết đói. Không một người Pháp hay người Nhật nào bị chết đói cả, chỉ có người Việt Nam mà thôi. Các thành phố của người Pháp vẫn sống sót; chỉ có những làng xóm đầy rẫy những xác chết trên các ngả đường, các kênh mương, các cánh đồng, c̣n những người sống th́ rất yếu và hốc hác, vẫn cứ phải đi nhặt nhạnh và chôn cất người chết. Nhiều làng mất từ một phần ba tới một nửa số dân.
Ông Hồ mô tả tai họa của dân ḿnh bằng một giọng đầy xúc động và khi gần kết thúc, trông ông buồn rầu và mệt mỏi. Ông Hồ hứa sẽ gửi cho tôi một “tập ảnh bằng chứng” và một sự tường thuật chi tiết nhan đề “Sách trắng”, do một vài người của ông soạn ra. Tôi nói với ông là tôi muốn có một bản sao và tin chắc rằ nó sẽ được Bộ chỉ huy của tôi quan tâm đặc biệt.
Ông Hồ bày tỏ ư kiến là mọi việc sẽ khác đi sau chiến tranh. “Chúng tôi đang chuẩn bị cho một Chính phủ dân chủ độc lập, do người Việt Nam điều hành v́ người Việt Nam”. Với một vẻ trầm ngâm, ông Hồ thừa nhận rằng đó là một nhiệm vụ to lớn. Người Pháp chắc chắn sẽ chống lại một hoạt động như vậy. Người Trung Quốc có những lư do của họ để ủng hộ người Pháp, nhưng cũng có thể đứng về phía người Việt Nam. C̣n người Anh th́ chắc chắn không để cho cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á bị sụp đổ; và sẽ là một vấn đề nghiêm trọng nếu họ giúp sức cho người Pháp.
Mặc dù tôi đă tỏ ra khách quan và thận trọng một cách cố ư, không để ḿnh dính líu vào những khía cạnh chính trị của vấn đề Đông Dương, nhưng sự chân thành, thái độ thực dụng và sự hùng biện của ông Hồ đă gây cho tôi một ấn tượng khó phai mờ được. Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to những đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước ḿnh, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin cậy ông như một bạn Đồng minh chống Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương.
Đă gần nửa đêm, Wang nhắc tôi trở về Tŕnh Tây, nhưng ông Hồ khẩn khoản mời chúng tôi ở lại để tiếp tục câu chuyện, ông nói thêm- nếu như tôi không cảm thấy mệt hay phải trở về ngay. Chúng tôi ở lại.
Tôi hỏi về những nơi đóng của Bộ chỉ huy Việt Minh và những chi tiết về bộ máy của nó. Wang cắt ngay, theo kiểu Trung Quốc, và ra lệnh cho ông Hồ phải thận trọng. Nhưng ông Hồ giơ tay lên tỏ ư không tán thành những chỉ thị của Wang và trả lời những câu hỏi của tôi.
Bộ chỉ huy đóng ở một số hang tự nhiên phía ngoài gần Cao Bằng. Việt Minh không phải là một đơn vị đặc biệt có thể di chuyển đây đó, mà là một bộ phận rất rộng của người Việt Nam. Nó có mặt khắp nơi, trong công nhân công nghiệp và trong nông dân ở nông thôn. Những đơn vị công nhân và nông dân được tổ chúc thành những nhóm cơ động nhỏ dưới sự chỉ huy của một cán bộ được huấn luyện; mỗi đơn vị có thể hoạt động độc lập hay tập thể tuỳ theo nhu cầu. Chẳng hạn, nếu cần có tin tức về quân Nhật đóng ở Biên Hoà (gần Sài G̣n), th́ các đơn vị ở khu vực này sẽ được yêu cầu cung cấp tin tức, tin tức này sẽ được chuyển qua Đà Nẵng (Tourane) và cuối cùng đến Cao Bằng. Phải nhận rằng đó là quá tŕnh chậm chạp và những tin tức đến Côn Minh th́ đă cũ rồi. Cũng thế, nếu có lệnh tấn công theo lối biệt kích một đơn vị Nhật ở Sơn Tây (tây bắc Hà Nội), th́ tổ chức bán quân sự của Việt Minh ở vùng có thể thực hiện cuộc hành quân ấy.
Ông Hồ cho rằng đó là vấn đề thời gian và khoảng cách. Người của ông được trang bị nghèo nàn, gồm đủ thứ súng ống của Pháp, Bỉ, Anh và Nhật, với ít đạn dược, không có xe cộ và chỉ có rất ít máy vô tuyến điện. Họ bị phụ thuộc vào những vũ khí lấy được, đó là điều chủ yếu nhưng lại đ̣i hỏi một sự huấn luyện đặc biệt và những người huấn luyện. Nếu thu xếp được với Đồng minh để có những thiết bị liên lạc và một số hạn chế những vũ khí nhỏ để trang bị cho một số đơn vị nhỏ, và sử dụng được những huấn luyện viên Mỹ th́ t́nh h́nh sẽ thay đổi hẳn đi.
Trong sự tŕnh bày rất ngắn ấy, ông Hồ nói với tôi những ǵ ông có thể làm đuợc với những ǵ ông có và những ǵ ông đang cần có thêm. Bằng những lời lẽ thận trọng, ông nhắc đi nhắc lại đề nghị hấp dẫn của ḿnh mà ông cảm thấy chắc chắn sẽ được chúng ta chú ư một cách nghiêm túc. Với sự khôn khéo của ḿnh, ông không yêu cầu ǵ cả; ông chỉ tŕnh bày cho tôi nghe giá trị tiềm tàng của tổ chức quân sự - chính trị của ḿnh. Và ông muốn đợi thời cơ nên không yêu cầu một lời hứa nào cả.
Tuy nhiên khi chúng tôi đi vào những chi tiết ấy, tôi thấy ḿnh bắt buộc phải nói rằng tôi không chuẩn bị để cam kết một điều ǵ. “Ông già” kín đáo, giả vờ ngạc nhiên trước nỗi lo lắng của tôi, mỉm cười một cách ranh mănh và nói rằng ông không yêu cầu ǵ hết, ông chỉ trả lời những câu hỏi của tôi về Việt Minh mà thôi. Ông nói là ông hoàn toàn thông cảm, không sao hết. Ông sẵn sàng đi với người Mỹ khi nào người Mỹ thấy sẵn sàng. Tất cả nhũng ǵ tôi phải làm là làm thế nào để cho người của ông ở Côn Minh biết đang cần những ǵ và ông mong muốn những thứ đó sẽ được cung cấp.
Đă quá khuya khi Wang và tôi trở về, nhưng đường về vắng vẻ nên đi rất nhanh. Khi đi đường, Wang nói với tôi những lời bông đùa, nhưng tôi có cảm giác ông vẫn c̣n nh́n tôi với thái độ nghi ngại.
Về tới chỗ trú, tôi thấy rơ sự tương phản giữa cuộc gặp gỡ ấy và cung cách tiến hành những cuộc họp như vậy trong chiến tranh ở châu Âu và châu Phi. Ở đó, những đại diện bí mật thường đưa ra những lời xác nhận to lớn về những ǵ họ có thể thực hiện (thường là thổi phồng), chỉ cần họ được cung cấp vũ khí và tiền (những khoản tiền lớn). Ông Hồ thậm chí không nhắc ǵ đến chuyện tiền cả. Và ông đă thẳng thắn cho biết là người của ông đă lấy được vũ khí. Ở Nam Tư, các sĩ quan OSS biết rằng những người hoạt động bí mật đă chôn đi nhiều vũ khí lấy được của Đức và kêu ca thiếu vũ khí. Đó là một phương châm để khi kết thúc chiến tranh, họ muốn giải quyết những sự tranh chấp nội bộ của họ vơớ những kho vũ khí càng nhiều càng tốt. Về chuyện này, những điều như vậy cũng xảy ra ở Trung Quốc, khiến cho những viên chỉ huy Mỹ rối trí lên. C̣n ông Hồ th́ lại cho biết những vũ khí của ḿnh như hiện có và không yêu cầu ǵ về tiền nong cả. OSS thường quen trả tiền cho t́nh báo. Kết luận của tôi là cuộc gặp gỡ đêm nay sẽ mang lại nhiều điều tốt lành.

QUÂN ĐỘI CỦA SABATTIER

Sáng hôm sau, tôi đáp máy bay đi Poseh, cách Tŕnh Tây về phía bắc chừng 30 phút bay. Một người tiền trạm của chúng tôi đang làm việc với những nhân viên của GBT và của Hạm đội Mỹ và làm việc tốt. Poseh là một điểm tập trung khác của những lực lượng Pháp vừa rút lui nhưng v́ không cần nấn ná ǵ ở đây nên tôi lại bay trở về Szemao vào ngay chiều hôm ấy.
Khi tôi xuống khỏi máy bay, tôi được biết một trong hai đội SO của chúng tôi được gửi tới cho các lực lượng của tướng Sabattier ở Đông Dương đă bị một đơn vị tiền duyên Nhật phục kích, do lỗi của t́nh báo Pháp. Dưới lửa đạn nặng nề của người Nhật ở Don Chai (gần Mong Ou Tay), đội của thiếu tá Summers giữ được vị trí của họ nhưng những máy vô tuyến điện, mật mă và những thiết bị đặc biệt đă bị phá huỷ và sau đó đă chạy về phía bắc. Helliwell và Davis yêu cầu tôi theo dơi họ. Tôi t́m thấy họ ngày 2-5, sau nhiều lần bắn pháo sáng trên các đường núi và rừng rậm. Họ đă ở biên giới Cheng Tung (hay Keng Tung) bên phía Trung Quốc và c̣n nguyên vẹn sau những thử thách ngặt nghèo khi lang thang xuyên rừng rậm. Tôi đă thu xếp cho họ chuyển tới Côn Minh.
Tướng Sabattier, đang trên đường đến Szemao, đă phái De Monpezat tới trước báo cho tôi biết ông ta cần thảo luận với tôi về cuộc kháng chiến của người Pháp. Tôi báo cho Helliwell và được chỉ thị là “không cam kết ǵ cho đến lúc nào việc giải quyết mối quan hệ của Pháp với chiến trường được sáng tỏ”. Tuy nhiên, nếu các kế hoạch xem ra là tốt, Helliwell nói, th́ ông ta sẽ “thúc giục để có hành động ngay 1ập tức”.
Chúng tôi gặp nhau ngày 2-5 ở Szemao, và tướng Sabattier bày tỏ ḷng biết ơn về việc ủng hộ mà người Pháp đă nhận đuợc của OSS và của Đội không quân thứ 14 trong “giờ phút bi thảm” của họ và tỏ ư hy vọng người Mỹ tiếp tục sự giúp đỡ “hào hiệp và có thiện cảm” ấy. Ông ta cho tôi biết để khỏi bị hiểu sai rằng ông ta là “chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Pháp ở Viễn Đông” và ông ta hành động theo những chỉ thị trực tiếp của chính phủ lâm thời Pháp. Ông ta định đóng sở chỉ huy của ḿnh ở Côn Minh, ở đó ông ta sẽ chỉ huy tất cả những hoạt động sau này của Pháp “trong sự hợp tác” với Đồng minh. Kế hoạch của ông ta là cải tổ những lực lượng của ông ta ở Trung Quốc dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri và đại tá Seguin(7) và đặt họ dưới quyền điều khiển của tướng Wedemeyer.
Về những hoạt động bí mật, ông ta c̣n nắm trong tay vài trăm sĩ quan và binh lính đă được huấn luyện đặc biệt; những người này muốn và sẵn sàng trở lại Đông Dương và thiết lập lại những mối liên lạc với những nhân viên Pháp đă rời khỏi đó. Tôi hỏi những nhân viên ấy có phải là một bộ phận của mạng lưới của tướng Mordant không, và viên tướng này bày tỏ ngạc nhiên v́ tôi biết tổ chức bí mật của họ. Phần nào bối rối, ông ta nói rằng đúng như thế và nói thêm rằng ông ta c̣n có một mạng lưới riêng trong người Mán(8) , những người này “tuyệt đối trung thành” với ông ta. Sau đó chúng tôi thảo luận về những chi tiết trong kế hoạch của ông ta mà ông ta đă phác vẽ lên trên nhiều bản đồ và đồng ư tiếp tục những cuộc thảo luận ở Côn Minh. Viên tướng này mong muốn được dựa vào người Mỹ để được ủng hộ về hậu cần và huấn luyện, và muốn việc huấn luyện ấy sẽ được tiến hành ở Szemao để khỏi lộ những cán bộ Pháp - An Nam cho người Trung Quốc biết.
Thời tiết ở Szemao đă thay đổi. Mây đen phủ kín bầu trời và những trận mưa liên tiếp đổ xuống làm cho việc bay không thể thực hiện được và việc vận chuyển bằng đường bộ trở nên nguy hiểm và chậm chạp. Điều đó làm tăng thêm sự nguy khốn của những người lánh nạn. Ḍng người Pháp vào Trung Quốc ở trong t́nh trạng thê thảm. Mệt mỏi, đói khát, ốm đau, không giày dép, họ đă thiếu kiên nhẫn với bất cứ người chức trách nào. Họ yêu cầu những khu đóng quân thậm chí cũng không thể kiếm được cho quân đội Trung Quốc. Họ cố tịch thu xe cộ và các kho thực phẩm riêng mà không qua các nhà chức trách, kết quả là đă xảy ra những cuộc va chạm gay gắt. Khi họ biết là có người Mỹ đang ở trong khu vực này, th́ cơ quan của chúng ta bị bao vây với những yêu cầu của các sĩ quan trẻ tuổi để chúng tôi “ra lệnh” cho người Trung Quốc giải quyết những yêu cầu của họ. Chúng tôi giải thích rằng chúng tôi không có quyền hành ǵ cả, và đại sứ Pháp có thể cung cấp cho họ. Họ cho rằng đó là một sự trả ḷi rất không thoả măn.
Tôi xúc động sâu sắc trước t́nh cảnh khốn khổ của một đội quân phương Tây bại trận, bị người Nhật sỉ nhục và đang rời rạc đi vào cửa Trung Quốc để được bảo vệ và lánh nạn. Tôi đă từng trông thấy những đám lớn người Đức và Ư, tù binh chiến tranh cũng như dân sựu, rút về phía sau những chiến tuyến của chúng ta ở châu Phi và châu Âu; nhưng đó là những người phương Tây ở thế giới phương Tây. C̣n ở châu Á, t́nh h́nh lại mang những kích thước khác, không diễn tả được nhưng lại là có thật. Những sự khác nhau về chủng tộc và văn hoá hàng chục năm nay bị che đậy dưới những sự tế nhị ngoại giao và xă hội bỗng nhiên nổi rơ bề mặt. Người Pháp, tượng trưng cho văn hoá và sức mạnh quân sự châu Âu ở châu Á đă bị đập tan bởi một cường quốc phương Đông và đang chịu sự ơn huệ đầy khó chịu của một dân chúng phương Đông khác. Bề ngoài người Trung Quốc tỏ ra có thiện cảm, muốn giúp đỡ và nhân từ; ở phía trong họ lại theo đ̣i một thói quen đáng kinh tởm là chần chừ một cách lễ độ, rạch ṛi về chính trị và tôn trọng chặt chẽ những tập quán địa phương có thật hay tưởng tượng cũng như những hiệp nghị quốc tế. Đây là tinh thần “ngược đời của người châu Á, mà chúng ta phải gánh chịu”.
Về phía người Pháp, cũng có những vấn đề có liên quan với chủng tộc: những khó khăn về ngôn ngữ, những nhu cầu cá nhân và t́nh trạng mất mặt, tất cả đều góp phần tăng thêm nỗi thất vọng của người Pháp, thể hiện ra ở những yêu cần không hợp lư và tâm trạng kiêu ngạo quá mức của họ đối với tất cả nhũng người châu Á. Kết quả là những cuộc va chạm thường xuyên với những ngụ ư chủng tộc âm ỉ.

MỘT CHÂN DUNG THỰC DÂN

Trong 8 ngày từ khi tôi đặt chân lần đầu đến Szemao, nơi đây trở thành trại tập trung người Pháp. Tôi có một cơ hội tốt để thu lượm tin tức từ những người lánh nạn và tuyển mộ người Pháp cho những hoạt động bí mật, do đó tôi yêu cầu Helliwell cử đến một sĩ quan nói tiếng Pháp giỏi với một bộ phận giúp việc. Ông ta gửi trung uư John P. Spaulding và một số nhân viên mới tuyển, và tôi quyết định lưu lại ở đó một thời gian nữa. Suốt trong 10 ngày, tôi phỏng vấn có lẽ tới hơn một chục sĩ quan và gấp đôi số ngưuời ấy gồm có hạ sĩ quan và những nhân viên cấp thấp hơn, cả người Pháp lẫn người Việt Nam, cộng với những viên chức dân sự và những nhà kinh doanh. Nhưng cuộc nói chuyện ấy cho thấy một bức tranh không có ǵ hấp dẫn của thái độ hững hờ, tinh thần trả thù và quyền lợi ích kỷ.
Những thái độ của những người lánh nạn về căn bản phản ánh chính sách quốc gia của Pháp cũng như những kinh nghiệm của họ về tổ chức dân sự hay quân sự dưới chính phủ Decoux từ năm 1940. Họ cảm thấy cảnh ngộ hiện nay của họ sẽ sớm kết thúc và họ trở về Đông Dương để lấy lại những ǵ mà họ đă để lại. Sẽ không có ǵ thay đổi.
Tôi cảm thấy hầu hết những người lánh nạn đă sống những năm tháng của ḿnh ở Đông Dương mà không hề rời khỏi môi trường Pháp của ḿnh. Sự hiểu biết của họ về dân bản xứ, về những đặc trưng dân tộc và những nguyện vọng chính trị giống như sự hiểu biết của một người đi qua ngẫu nhiên. Họ coi những nhân viên Việt Nam trong quân đội của họ như “những binh lính và cu-li tầm thường” mặc dù nhiều người Pháp đă nhận được một sự ủng hộ trung thành của những đội quân và những người dân thường “bản xứ” trong những cuộc xung đột với người Nhật. Điều đó được coi là “b́nh thường và là bổn phận của họ”. Đối với những người đó, “cuộc kháng chiến bản xứ” không phải là một phong trào có xung lượng riêng mà là một bằng chứng thành công của chủ nghĩa tự do và của sự lănh đạo của Pháp.
Gần như nhất trí, những người Pháp mà tôi phỏng vấn đều cho rằng người Việt Nam không đủ sức gánh trách nhiệm chính trị. Họ thừa nhận những kẻ theo chủ nghĩa quốc gia đang tồn tại, nhưng “đă tỏ ra hèn kém khi đụng phải Sureté(9) hay Quân đội”. Thái độ của người Pháp tốt lắm cũng chỉ là thái độ cha chú. C̣n thái độ tệ hại nhất thấy có ở một số ít người là thuần tuư khinh miệt, được cô đọng lại trong thái độ của một sĩ quan cho rằng “không có một người An Nam chân thành nào”.
Đối với những Đồng minh phương Tây, tôi thấy có những thái độ rất khác nhau, nhưng số đông nhất có thái độ nghi ngờ những ư định của Đồng minh. Cá nhân tôi đă thấy những thành viên trong Phái đoàn quân sự Pháp ở Szemao tự ḿnh truyền cho những người mới tới sự nghi ngờ ấy, trước khi họ tiếp xúc với bộ phận của tôi. Sự bảo vệ quyền lợi người Pháp chống lại ḷng thèm khát đượcc gán cho người Anh và người Mỹ rơ ràng là cái cớ để biện hộ cho sự hợp tác vừa qua của họ với người Nhật.
Rất ít sĩ quan Pháp tỏ ra thẳng thắn như người cuối cùng đă hỏi tôi “có phải người Mỹ định sẽ sử dụng những con đường sắt Đông Dương sau chiến tranh không?”. Sau khi lẩn tránh những câu hỏi của tôi về vận tải Đông Dương, một số ít người bào chữa cho chủ trương gây trở ngại của giói cầm quyền và tỏ ra sẵn sàng cộng tác về những vấn đề t́nh báo nếu sự cộng tác của họ không bị những nhà chức trách Pháp biết. Một nhà kinh doanh bày tỏ ư muốn được thấy xứ này(10) phát triển lên bằng tư bản và tính năng nổ của nước ngoài nếu những nguồn tư bản của Pháp không thể đáp ứng với nhu cầu. Nhưng ông ta là người duy nhất nói ra điều đó với tôi.
Mặc dù thái độ của người Pháp đối với những Đồng minh phương Tây có vẻ lạ lùng đối với nhiều người Mỹ ở Trung Quốc, nhưng tôi không thấy thế. Trái lại, tôi hiểu đó là sự mở rộng tự nhiên của lập trường chính thức ở Paris, dưới chính quyền mới của De Gaulle. Người phát ngôn của Chính phủ Pháp đă công nhiên khiển trách những sự hoang tưởng nặng nề về chính trị của người Pháp ở Syria và Lebanon trước những hoạt động của người Anh và cũng lên án người Anh mưu toan thay thế người Pháp ở những thuộc địa ở Trung Đông của họ. Các Bộ trưởng Pháp khi tŕnh bày với Hội đồng tư vấn đă lên án Mỹ âm mưu chiếm Nouvelle Calédonie và những căn cứ ở Đông Dương. Sự phê phán của báo chí Mỹ về chính sách thuộc địa của Pháp đă bị Bộ trưởng Ngoại giao Bidault gạt bỏ một cách khinh bỉ với sự nhấn mạnh rằng “nước Pháp không cần phải học ai về những vấn đề này”. Thái độ xấu đối với Mỹ do chính sách chống thực dân của chúng ta có thể hiểu được, nhưng công kích người Anh, bạn Đồng minh mạnh mẽ duy nhất trong việc chống đỡ cho lư tưởng “đế quốc” bị nghiêng ngả, là một thái độ thiển cận và u uất.
Dù sao, tôi vẫn báo cáo cho cơ quan Chiến trường và Đại sứ về việc tôi từ Côn Minh trở về với thái độ nghi ngại và bực bội của Chính phủ Paris và của các nhà chức trách thuộc địa. Cả hai đều nhằm phục vụ mục tiêu của các giới cầm quyền Pháp là khôi phục vị trí của Pháp trước chiến tranh mà không chịu chấp nhận một sự thoả hiệp nào. Họ có thể dùng đến những phương pháp chắc chắn sẽ gây ra sự phê phán và làm suy yếu việc phối hợp nỗ lực chiến tranh của Đồng minh. Sự chống đối của Đồng minh tỏ ra không hiệu lực v́ Đồng minh đă có thái độ thiếu ngay thẳng và một quyết định giải quyết các vấn đề một cách quá nhanh và trọn vẹn bằng việc sử dụng những đội quân của Pháp ngay trước khi các vấn đề được hỏi đến. Như các sự kiện về sau này chứng tỏ, việc giao phó cho các nhà chức trách Pháp thực hiện chính sách đó nôn nóng đă bị hạn chế, và mức độ ủng hộ cần phải có của những người dân trong nước họ cũng đáng ngờ. Nhưng họ lại cần phải đặt nước Pháp và phần c̣n lại của thế giới trước một việc đă rồi - đó là một nhiệm vụ không thể làm được.
Những cuộc thảo luận của tôi trong những ngày ban đầu ấy với tướng Sabattier, tướng Alessandri, đại tá Emblanc và thiếu tá De Monpezat cũng cho thấy một vấn đề ít lộ ra công khai trong nội bộ Đồng minh mà chỉ có một số ít người Pháp hiểu được. Điều đó có liên quan đến nhiều cuộc tiếp xúc công khai và bí mật giữa Trung Quốc và Đông Dương.
Hoa Kiều ở Đông Dương nói chung đối địch với người Nhật. Sự hợp tác công khai của họ với với giới quân sự Nhật hồi đó không được người Pháp coi là không trung thành - đó chỉ là một yêu cầu của chiến tranh, một sự thu xếp thực dụng. Nhưng người Pháp mà tôi đă nói chuyện với họ, cho rằng cộng đồng người Trung Quốc ở Đông Dương sẽ chào đón sự cai trị của người Pháp quay trở lại, không phải v́ lư do nào khác ngoài lư do ổn định kinh tế.
Tuy nhiên các nhà chức trách Pháp lại rất quan tâm đến thái độ của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ lo ngại về những bài phát ra trên báo chí Trung Quốc, đă thông qua sự kiểm duyệt của Trùng Khánh, đang kêu gọi nhập lại Đông Dương vào Trung Quốc, trong khi những tờ báo bán chính thức của Trung Quốc th́ lại khuyến khích các nhóm cách mạng Việt Nam khác nhau. Những người cách mạng đă ủng hộ một cách khác nhau mọi chủ trương đoàn kết với Trung Quốc để hoàn thành nền độc lập của Việt Nam. Dù con số những người cách mạng ấy c̣n ít, nhưng họ họp thành những trung tâm tuyên truyền chống Pháp, điều duy nhất mà những người cách mạng đồng ư với nhau, và đó là nguồn rối loạn ở “thuộc địa”. Chính phủ Trung Quốc ít phân biệt những nhóm cách mạng ấy, dung nạp tất cả, nhưng cộng tác chặt chẽ nhất với chi nhánh An Nam của Quốc dân đảng. Hơn nũa, các nhà chức trách Pháp c̣n biết rằng Tai Li đang nắm giữ một mạng lưới tay chân khắp Đông Dương và mạng lưới này đang tránh né cả “Sureté” cũng như “Kempeitai”.
Các thủ lĩnh quân sự Pháp sẵn sàng thừa nhận rằng Decoux cũng giống như những người tiền nhiệm của ông ta, đă không thể đè bẹp được những đảng bí mật khác nhau ở Đông Dương hay ngăn ngừa được sự thâm nhập bí mật của Trung Quốc, cả hai đều được chỉ đạo từ Trung Quốc. Hơn nữa, sau cuộc đảo chính, người Nhật lại ban hành quy chế chính thức cho một nhóm quốc gia ở Đông Dương. Nhưng các thủ lĩnh quân sự Pháp vẫn thấy Việt Minh là mối đe doạ lớn nhất đối với chủ quyền của Pháp. Việt Minh đang tiếp tục những hoạt động ngấm ngầm chống lại người Nhật và người Pháp trong suốt cuộc chiến tranh, nhưng bị tất cả các phần tử chống Cộng ở Việt Nam khinh rẻ.
Chính quyền Decoux không có mấy cố gắng để tranh thủ sự ủng hộ của những người dân thường, do đó không có ǵ ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam ít tôn trọng nó. Tuyên truyền của Pháp vẫn hoàn toàn giữ lối nói rằng nền văn minh Pháp đă ban cho Đông Dương những điều may mắn về văn hoá. Những quy định cải cách thuộc địa khác nhau do chính phủ De Gaulle đưa ra trong những cuộc thương lượng Pháp - Anh - Mỹ được công bố rất ít. Khá lạ lùng là chính người Nhật đă dùng những quyết định ấy để đối chiếu với những cải cách ít ỏi được hứa hẹn và với mối đe doạ được giả định về sự bóc lột của Anh - Mỹ sau chiến tranh, với những mối lợi phi thường mà người Việt Nam có thể t́m thấy ở chương tŕnh của Nhật Bản về khối thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Sau đảo chính, đường lối tuyên truyền của Pháp, trước kia cũng tỏ ra vô hiệu, bây giờ chỉ tập trung vào quyết định của Pháp giải phóng Đông Dương khỏi ách áp bức Nhật Bản. Sự tan ră của bộ máy tuyên truyền Pháp và sự kiểm soát của người Nhật đă làm cho người Pháp không đến được Việt Narn, là những người bất kể thế nào cũng không tin vào họ nữa. Tuy nhiên, vào tháng 4, người Pháp lại đặt hy vọng của ḿnh vào sự phản ứng thù địch của Việt Nam đối với sự chiếm đóng của Nhật, trái với điều mà họ từng thấy khi c̣n sự cai trị rộng lượng của họ. Họ tin chắc là người Nhật rốt cuộc sẽ đưa người Việt Nam trở lại những cánh tay của người Pháp. Hy vọng ấy được duy tŕ bằng một ảo tưởng về thiện chí bẩm sinh của các nhà vua ở An Nam, Cambốt và Lào. Đó là một sự tin tưởng sai lạc v́ không tính đến những người Việt Nam b́nh thường và nguyện vọng độc lập hoàn toàn của họ.
Trong khi tất cả những người Pháp hân hoan với sự chào đón mà người Việt Nam sẽ dành cho sự cai trị trở lại của người Pháp, vẫn có một số sĩ quan Pháp quyết định phải khôi phục sự cai trị của người Pháp, bằng cách sử dụng những đội quân Pháp ở châu Âu. Không một người Việt Nam nào được đại diện trong các hội đồng của những thủ lĩnh thuộc địa lưu vong. Những hạn chế có chủ tâm được áp đặt cho việc tham gia của những đội quân “bản xứ” vào việc giải phóng nước ḿnh. Người Việt Nam vẫn bị đặt ra ngoài ŕa những hoạt động bí mật của Langlade - Mordant - Sabattier, và các thủ lĩnh quân sự Pháp đă phản đối việc phát vũ khí cho cái họ gọi là “du kích bản xứ”. Họ vẫn thi hành chính sách tôn trọng những đội quân “bản xứ” đang chiến đấu trong quân đội Pháp với những cam kết mới đây mà ḷng trung thành tiếp tục của họ không có ǵ đáng nghi ngờ cả.
Chính sách khai trừ ấy rơ ràng không phải do yêu cầu chiến thắng nước Nhật mà được vạch ra v́ quyền lợi phiến diện của Pháp. Nó phải đảm bảo cho các lực lượng Pháp những cánh tay hoàn toàn rảnh rang để đối phó với hậu quả nổi lên sau khi đuổi được người Nhật. Nó phải đảm bảo chỉ có những đội quân người Âu dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp giữ được quyền kiểm soát về tiếp tế và vũ khí để người Pháp sử đụng khi họ trở lại “thuộc địa” bằng sức mạnh vũ khí.
Tôi đưa tất cả những điều đó vào bản báo cáo về người Pháp ở nam Trung Quốc, nói chung chúng được tiếp nhận tốt, nhưng có ai đó trong Đại sứ quán chúng ta cho rằng tôi đă giải thích quá nghiêm khắc về những động cơ của Pháp. Điều đó làm cho Côn Minh và Trùng Khánh tưởng rằng tôi là một người chống Pháp. Tuy nhiên sự cộng tác sau này của tôi với các nhà chức trách Pháp ở Trung Quốc đă chứng tỏ tôi không chống Pháp mà chỉ tán thành Đồng minh mà thôi.
Chúng tôi, những người Mỹ ở châu Á - Thái B́nh Dương, có một mục tiêu vượt lên tất cả - đánh bại nước Nhật ngay cả khi phải làm điều đó một ḿnh, biết rằng trong những Đồng minh của chúng tôi có những kẻ sẵn ḷng để cho người khác giành thắng lợi trong chiến tranh trong khi họ chuẩn bị để hái những trái quả chiến thắng.

“NƯỚC PHÁP TỰ DO” THỌC SÂU VÀO

Tôi gửi kế hoạch của tướng Sabattier cho Côn Minh ngày 2-5. Helliwell đă giành được một sự tán thành hạn chế của chiến trường nhằm tiến hành những hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ và ngày 6-5 đă điện vô tuyến rằng “O.K! Hăy thử thách Sabattier trước tiên ở Szemao”. Nhưng ông ta cũng cẩn thận dặn tôi nhớ tới “những giới hạn của chúng ta về trang bị và nhân sự” và hăy “tỏ ra kiên quyết để người Pháp bảo đảm rằng trong mọi trường hợp không được để chúng ta dính líu tới bất cứ chuyện ǵ có tính chất chính trị”. Ông ta c̣n nhắc nhở nghiêm khắc rằng “không được cung cấp vũ khí và đạn dược” cho người Pháp, ngoại trừ để tự vệ một cách có hạn chế và chỉ trong trường hợp “OSS nắm đầy đủ quyền kiểm soát hành động”.
Cho rằng sự cộng tác chặt chẽ của các tướng Sabattier và Alessandri là điều dĩ nhiên, tôi không ngạc nhiên khi Alessandri mời tôi đến vào chiều ngày 6-5 để hỏi về các kế hoạch của OSS cho những người Pháp hoạt động bí mật. Tôi nhiệt thành nói với ông ta rằng tôi vừa nhận được những tín hiệu từ Côn Minh về kế hoạch của Sabattier. Đứng phắt lên và với thái độ bực bội không cần che đậy, ông ta nói rằng “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương là một việc không dính ǵ đến Bộ chỉ huy tối cao cả”. Tôi hiểu sai ư của ông ta, tưởng là ông ta nói đến Bộ chỉ huy tối cao của Mỹ, nên sau đó tôi có nói rơ những mệnh lệnh của tôi đều từ đại bản doanh chiến trường đến. Alessandri lập tức lấy lại thăng bằng và nói: “Naturellement!”(11). Tất nhiên ông ta muốn ám chỉ tới Sabattier và sự thu xếp chỉ huy “tạm thời” của Pháp, và đây là sự ám chỉ đầu tiên khiến cho tôi hiểu là về mặt này mọi cái chưa phải là tốt đẹp.
Alessandri đột nhiên bỏ qua vấn đề những hoạt động bí mật, quay sang nói về vấn đề cấp bách hơn là vấn đề tiếp tế cho những đội quân của ḿnh. Ông ta chuyển sang một chuyện dàn hoà khi bày tỏ mối lo ngại của ḿnh về việc tập trung các đội quân đó lại, hiện đang đóng rải rác ở nam Trung Quốc, từ Szemao đến Fanch'eng. Ông ta tỏ ư hy vọng người Mỹ cung cấp cho những khu vực tập tnmg, những phương tiện vận chuyển và những đồ tiếp tế để phục hồi lại những đội quân của ông ta. Tôi bày tỏ sự thông cảm hoàn toàn của tôi đối với những vấn đề của ông ta nhưng buộc phải nói với vị tướng này rằng OSS không có thẩm quyền giúp đỡ và vấn đề này phải được giải quyết ở Trùng Khánh giữa Đại sứ Pháp và Tưởng Giới Thạch. Ông ta kiên nhẫn nhắc lại cho tôi rằng ông ta biết rất rơ những thủ tục thông thường, nhưng đây chỉ là những cố gắng để làm dễ dàng hơn cho một chức năng chỉ huy cấp bách của Đồng minh - những yêu cầu khẩn cấp của các đội quân của ông ta, “một thành phần các lực lượng Đồng minh ở Trung Quốc. Hy vọng làm cho ông ta yên tâm, tôi gợi ư rằng tôi sẽ lấy làm sung sướng hơn nếu thu xếp được cho ông ta hay cho đại diện ông ta gặp ông Snyder thuộc UNRRA, hiện đang ở Szemao; ông này đă được Mỹ uỷ quyền giúp đỡ người Pháp.
Nhưng Alessandri lại hết sức cáu tiết v́ tôi nhấn đi nhấn lại rằng ông ta phải giải quyết các vấn đề này ở những nơi khác và rơ ràng không bao giờ quên được cuộc gặp gỡ này. Về sau ông ta bị bắt buộc phải ngồi ở các cuộc hội nghị cấp chiến trường mà tôi cũng thỉnh thoảng tham gia với tư cách đại diện cho những quyền lợi của OSS ở Đông Dương, nhưng ông ta không bao giờ trực tiếp nói chuyện với tôi trong những cuộc gặp ấy. Tháng 9, ở Hà Nội, ông ta bày tỏ sự giận dữ của ḿnh đến mức từ chối tham dự một cuộc họp mặt với tướng Lư Hán(12) mà bản thân ông ta được mời đến, nhưng tướng Gallagher(13) cũng lại mời tôi đến cuộc gặp mặt ấy với tư cách đứng đầu Phái đoàn quân sự Mỹ; với lư do, theo lời ông ta, “thiếu tá Patti không thân thiện với người Pháp”.
Tướng Sabattier đă lên Côn Minh, đoán trước sẽ được một cuộc tiếp đón nồng nhiệt với tư cách là viên chỉ huy cao cấp của các lực lượng Pháp ở Trung Quốc và Tổng đại diện ở Đông Dương. Ông ta đă thất vọng khi không thấy người nào ngang hàng ra đón ḿnh. Côn Minh chỉ là bản doanh của cấp gần nhất. Nơi chỉ huy này cách Trùng Khánh 400 dặm; ở Trùng Khánh, ông ta sẽ có thể gặp Tưởng Giới Thạch và những cố vấn gần gũi của Tưởng, Phái đoàn quân sự Pháp, tướng Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông, và Đại sứ Mỹ. Cái gọi là phái đoàn quân sự Pháp ở Côn Minh thật ra là M.5 và đă bị SLFEO của “những bàn tay Trung Quốc cũ”(14) thanh trừng và trở thành trung tâm của phái De Gaulle ở Trung Quốc. Sabattier ở đây không có bạn bè.
Những người theo De Gaulle ở Côn Minh hy vọng sẽ có một nhân vật xuất sắc đại diện cho “nước Pháp mới” - một người nào đó có bóng dáng cao lớn như Leclec, Catroux hay thậm chí Blaizot. Sabattier chỉ là một người giúp việc khốn khổ. Chính trị của ông ta là chính trị của một sĩ quan điển h́nh của quân đội chính quy Pháp, trung thành với nước Pháp, ủng hộ chế độ đang cầm quyền và nghiêm ngặt tuân theo luật lệ truyền thống về danh dự nhà binh. Với việc Aymé bị bắt, Sabauier trở nên người có cấp cao nhất trên sân khấu nắm giữ chức Tổng chỉ huy tất cả các lực lượng Pháp ở Đông Dương. Sau đó, với sự “biến mất” của Mordant, Sabattier đă được chỉ định thay mặt cho ông ta.
Những người của SLFEO ở Côn Minh, rơ ràng chịu sự chỉ huy từ Calcutta, đă tung ra một chiến dịch làm mất uy tín của Sabattier trong con mắt của quân đội Pháp và của Phái đoàn quân sự Pháp ở Trùng Khánh, bằng cách để hở ra một phần bức điện ngày 10-4 của De Gaulle gửi Sabattier, trong đó nói: “Rơ ràng ông sẽ tiếp tục kháng chiến trên đất Đông Dương, bất chấp mọi khó khăn. Một điều cũng cần thiết như vậy là cá nhân ông phải ở lại Đông Dương cho đến giới hạn cùng tột...”(15). Cũng như những người ấy lúc đó đă cho lưu hành những lời lên án Sabattier rằng ông ta bao giờ cũng là người đầu tiên rời bỏ khu vực của người Nhật đe doạ - là người đầu tiên chạy khỏi Điện Biên Phủ 4 ngày trước khi quân của ông ta di chuyển, khỏi Phong Saly 3 ngày trước khi người Pháp tản cư khỏi khu vực và khỏi Muong Ou Tay 3 ngày trước khi rút lui.
Những sự việc đi trước ấy là những biện pháp bảo đảm an toàn b́nh thường đối với một vị Tổng chỉ huy, nhưng những việc đó đă bị đẩy đi quá mức và do đó đă đẻ ra một hiệu quả tự hạ thấp ḿnh xuống. Những người theo De Gaulle coi Sabattier là một “sự ngẫu nhiên trống rỗng của số phận”, nghi ngờ năng lực của ông ta trong việc mang croix de Lorraine(16) một cách lịch sự tới vũ đài chính trị ở Trùng Khánh.
Mặc dù có sự chống đối do M.5 để lộ ra, Sabattier vẫn quyết định thiết lập một sở chỉ huy ở Côn Minh cho các lực lượng Pháp và đă ra lệnh cho Alessandri tiếp tục tổ chức và huấn luyện trong khi ông ta đến Trùng Khánh để thảo luận về việc sử dụng các đội quân của Pháp với Wedemeyer và Hà Ứng Khâm. Sabattier có vẻ tự tin và tỏ ra rất ủng hộ những mục tiêu của Đồng minh, nhưng phái De Gaulle chỉ nh́n thấy có Đông Dương, và những ngày của Sabattier ở Trung Quốc không được bao nhiêu.
Chú thích :

(1) thuộc tổ liên lạc 19, đội không quân thứ 14
(2) chỉ huy chiến dịch Poitou để thu thập t́nh báo ở vùng biên giới Cao Bằng
(3) Ban t́nh báo
(4) Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra ngày 27-4-1945
(5) Hiến binh Nhật
(6) Các kho dự trữ của quân Pháp và Nhật
(7) chỉ huy trung đoàn 9RIC
(8) chỉ người dân tộc thiểu số ở miền núi cực bắc Việt Nam
(9) Sở mật thám Pháp
(10) tức Đông Dương
(11) Tất nhiên!
(12) khi đó là Tổng chỉ huy lực lượng chiếm đóng Đông Dương phía bắc vĩ tuyến 16
(13) trưởng đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ cho quân đội Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam
(14) từ ngữ mà De Gaulle dùng để nói  về việc bắt cầm tù Mordant tiếp sau cú 9-3
(15) G. Sabattier, “Số phận của Đông Dương”
(16) huân chương Loraine

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: