Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 11
Một đồng minh miễn cưỡng

CUỘC XUNG ĐỘT ÂU – Á
Khi nh́n lại, một điều nổi bật lên trên tất cả là cái ǵ đang tiếp diễn ở châu Á: quan điểm về châu Á sau chiến tranh rất khác nhau trong các nước Đồng minh, tùy theo quyền lợi của mỗi nước. Mục tiêu của Mỹ chỉ đơn giản là đánh bại Nhật Bản và, với một sự dè dặt, phục hồi những quy chế “quo ante”(1) ở Viễn Đông. Nước Đồng minh đáng tin cậy nhất của chúng ta, nước Anh, lại quan tâm chủ yếu đến việc giữ ǵn sự nguyên vẹn của đế quốc Anh. Tham vọng của Pháp là giành lại địa vị “chính đáng” của nó trong các cường quốc lớn bằng cách đ̣i lại các thuộc địa đă mất. Trung Quốc của Tưởng đứng trước một nhiệm vụ hai mặt là giải quyết cuộc xung đột của nó với bọn xâm lược Nhật Bản và giữ vững chế độ Quốc dân đảng của ḿnh chống lại mối đe dọa Cộng sản của Mao.
Vào giũa cuộc xung đột Âu - Á ấy, lợi ích của thế giới thứ ba nổi lên làm mất thằng bằng “status quo”(2). Người Việt Nam, được kích thích bởi những lời tuyên bố cao quư của Hiến chương Đại Tây Dương hứa hẹn các nước Đồng minh sẽ “tôn trọng quyền của các dân tộc lựa chọn h́nh thức Chính phủ của ḿnh mà họ sẽ sống dưới đó”, đă cảm thấy kỷ nguyên mới đang tới đối với họ và đă bước vào cuộc xung đột.
T́nh trạng có nhiều mục tiêu ấy làm cho việc phối hợp kế hoạch của các nước Đồng minh trở nên cực kỳ khó khăn và đôi khi bị rối loạn - nhóm nước này hoài nghi các nhóm nước khác, và mỗi nhóm trong nước cũng ganh đua nhau với đảng phái đối lập của ḿnh như với kẻ thù. Những thủ đoạn đấu tranh dường như vô tận.
Người Mỹ ở Trung Quốc, mặc dù ít về số lượng, là những người duy nhất thật sự quan tâm đến việc kết thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Các cố vấn quân sự của chúng ta ở các đội quân Trung Quốc phải dùng hết sức mạnh lănh đạo của ḿnh để thuyết phục các chỉ huy Trung Quốc bám giữ và chiến đấu. Chennault dựa nhiều vào những máy bay Mỹ để chặn các lực lượng bộ binh Nhật lại. C̣n những hàng tiếp tế Vay - Mượn to lớn của Mỹ th́ được chuyên chở qua những vùng đồi núi và bằng những tầu chở hàng theo con đường Miến Điện để giữ cho Trung Quốc khỏi sụp đổ dưới sức mạnh của Nhật. Người Anh cũng như người Pháp không hề đóng góp ǵ về vật chất cho cố gắng chiến tranh ở Trung Quốc.
Trong lĩnh vực hoạt động bí mật và chiến tranh không chính quy, chỉ có OSS của Mỹ có một chương tŕnh tích cực và có hiệu quả. Trong bối cảnh hoạt động của tôi ở Đông Dương, trong thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945, chúng tôi đă tổ chức được 5 mạng lưới chính và 12 mạng lưới phụ, tất cả đều bí mật, từ đó chúng tôi thu lượm t́nh báo, tiến hành những cuộc đột kích vào các cứ điểm then chốt của địch, và tiến hành nhiều hoạt động phá hoại ở các đường giao thông của Nhật.
Vào lúc chót, những hoạt động đó được thực hiện với một sự giúp đỡ rất nhỏ bé của các Đồng minh Pháp, Anh và Trung Quốc. Bất chấp những ư đồ phá hoại, những cố gắng của Mỹ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đặc biệt người Pháp, với ḷng mong muốn cao nhất là nhanh chóng chiếm lại thuộc địa cũ của họ nên đă theo đuổi một hoạt động t́nh báo về chính trị và quân sự rất quyết liệt. Họ chiếm đoạt những vũ khí và đồ tiếp tế được dành cho những cuộc hành quân của Đồng minh và họ cố ngăn cản những ư định hoạt động của Mỹ bất cứ ở đâu trong xứ Đông Dương.
Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho đến lúc này, một số người Pháp cố hết sức ngăn cản cố gắng chiến tranh chống Nhật. Họ lớn tiếng tuyên bố rằng họ đă bị ngược đăi, bị lạm dụng và bị coi thường, và cho ḿnh là nạn nhân của một “âm mưu” - hoàn toàn ăn khớp với đường lối chính trị có chủ tâm của họ cho rằng quyền lợi chính đáng của họ bị xâm phạm.
MỘT SỰ DÀN XẾP CÓ ĐI CÓ LẠI

Chỉ thị ngày 10-5 yêu cầu OSS thực hiện nhiệm vụ chặt đứt đường hành lang của Nhật Bản từ Hà Nội đến Nam Ninh để chuẩn bi cho Carbonado. Nó đ̣i hỏi phải sử dụng các đội phá hoại và các đơn vị du kích đă quen thuộc ít nhiều với khu vực này và đă hiểu biết khá rơ về người Pháp hay người Việt Nam. Wampler đă có một số người mới từ châu Âu đến đă được huấn luyện cho những hoạt động SO và OG, nhưng chỉ có một số ít nói được tiếng Pháp. Trong khi Heppner và Whitaker gặp các tướng Sabattier và Pechkov ở Trùng Khánh, th́ tôi tiếp xúc với nhóm M.5 ở Côn Minh.
Sau khi tôi ghé lại lần đầu vào cuối tháng 4, tôi mắc bận nhiều vấn đề cấp bách nên không có ư định tiếp xúc cá nhân hay trở lại thăm nơi đó. Tuy nhiên, Bernique và Ettinger đă thiết lập được những mối liên hệ không chính thức, nhưng thân mật, với nhóm này và được biết rằng trung úy Flichy(3) đă bị thay thế bởi thiếu tá Jean Sainteny trong chức vụ chỉ huy nhóm M.5(4).
Tôi ghé thăm M.5 ngày 18-5 và được Sainteny và những người trong ban tham mưu của ông ta tiếp đón. Thiếu tá là một người dễ chịu, hơn 30 tuổi, rất đúng đắn, đă tỏ ra dè dặt và không thoải mải lắm. Ông phân trần về những thiếu sót của ḿnh v́ bị những nhiệm vụ mới thúc bách nên chưa gặp được tôi sớm hơn. Từ khi ông ta đến đây, cách đây một tháng, ông ta phải cải tổ lại “Phái đoàn” và, theo ông ta nói, mong đợi được làm việc với OSS. Ông ta yêu cầu Flichy mô tả cho tôi nghe vai tṛ của M.5, và lần đầu tiên ông ta được biết những người tiền nhiệm của ḿnh đă thiết lập đúng một mạng lưới những đơn vị t́nh báo đáng kể dọc theo biên giói Trung Quốc và một đội tuần tiễu đường biển nhỏ ở khu vực phía bắc Vịnh Bắc Bộ. Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp và chúng tôi đồng ư cộng tác với nhau trong tương lai trước mắt.
Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, Sainteny nêu lên rằng ông ta và trung tá Wichtrich thuộc AGAS đang thảo một dự án chung để tiến hành những hoạt động cứu giải ở khu vực Pakhoi(5). Trong vài ngày nữa ông ta sẽ đáp máy bay hạ xuống nơi đó và gợi ư rằng tôi có thể phái một sĩ quan của tôi nói được tiếng Pháp đến xem xét khu vực này cho những hoạt động hỗn hợp sau này. Tôi cảm ơn ông ta và đồng ư sẽ báo cho ông ta rơ. Trong thời gian đó, chúng tôi chỉ định các sĩ quan liên lạc cho những hoạt động hàng ngày.
Tôi báo cho Whitaker rằng M.5 vui ḷng hoạt động chung với OSS trên có sở có đi có lại, nhưng nghi ngại rằng họ đ̣i hỏi nhiều hơn. Về bề ngoài, Sainteny tỏ ra thẳng thắn khi yêu cầu vũ khí, trang bị và vận chuyển của Mỹ để đánh đổi nhân lực Pháp - Annam, nhưng bên trong tôi phát hiện ra rằng ông ta hy vọng giành được một sự thừa nhận đặc biệt cho cơ quan người Pháp duy nhất đảm nhận những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc. Điều đó bao hàm một sự độc lập của M.5 đối với Sabattier và Pechkov, và để cho SLFEO/Calcutta chỉ huy và kiểm soát M.5. Tôi nhấn mạnh rằng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi và chúng ta cần thăm ḍ ư đồ của Sainteny hơn nữa. Tuy nhiên, nếu những nghi ngại của tôi là đúng, th́ chúng tôi có thể nh́n thấy trước các vấn đề.

MỘT CUỘC CHẠY THỬ

Trong khi chờ đợi ư kiến từ Trùng Khánh về việc tiếp tục quan hệ với M.5, tôi đơn phương khởi sự 2 hoạt động do Chiến trường chỉ huy. Một hoạt động nhằm cắt đứt đường sắt và đường bộ từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội, c̣n hoạt động kia là một cuộc tuần tiễu giám sát bờ biển ở các cảng Hải Pḥng và Fort Bayard. Hoạt động thứ nhất phải chờ đến lúc nào lấy được người cho thiếu tá Gerald W. Davis(6) để đi bộ vào Đông Dương và làm nhiệm vụ. C̣n cuộc giám sát bờ biển th́ đ̣i hỏi phải có những thủy thủ được huấn luyện và một đội thuyền buồm nhỏ. Phải có thời gian tôi mới kiếm được những thứ đó nhưng Wedemeyer th́ lại sốt ruột về những kết quả nhanh chóng, và chỉ có một chiếc tàu thích hợp trong khu vực này là của người Pháp, nhưng tôi không có quyền sử dụng. Tôi nghĩ tới dự án AGAS với M.5 và “hạm đội” của nó ở vùng Pakhoi.
Tuân theo các quy tắc phần nào, tôi lập luận rằng một khi AGAS đă được phép cộng tác với người Pháp th́ không có lư do ǵ để tôi không được làm việc với AGAS và cùng nhau sử dụng tàu thủy của Pháp. Khi thảo luận điều đó với Whichtrich, chúng tôi đồng ư với nhau rằng tôi sẽ cung cấp cho AGAS những phương tiện vô tuyến điện của OSS để thực hiện những hoạt động cứu thoát để đánh đổi những tin tức về hạm đội Nhật mà nhân viên OSS - AGAS thu nhận được bằng những phương tiện của các đơn vị hải quân Pháp.
Trong khi tôi thương lượng với AGAS, tôi nhận được tin từ Trùng Khánh cho biết rằng Sabattier và Tưởng đă thỏa thuận với nhau rằng: “Tất cả các đội quân chính quy Pháp đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương thuộc Pháp được đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế”, rằng Sabattier đă được thừa nhận là “Tổng chỉ huy” của những đội quân ấy, và rằng tướng Alessandri đă được bổ nhiệm là “chỉ huy địa phương của Pháp”. Đó là một sự thỏa thuận lạ lùng. Toàn bộ kháng chiến của Pháp ở Đông Dương chống Nhật đă bị xóa bỏ từ lâu, khiến cho Alessandri hiện nay đă trở thành viên chỉ huy tất cả các lực lượng hiện có của Pháp ở Trung Quốc mà thôi. Vậy th́, Sabattier chỉ huy cái ǵ? Phải chăng đó là một cách gạt êm thấm Sabattier ra khỏi dây chuyền chỉ huy và trao cho Alessandri toàn bộ quyền kiểm soát tác chiến chỉ của những đội quân Pháp chưa bị Nhật bắt làm tù b́nh? Chúng tôi cảm thấy một sự bối rối và băn khoăn mới trong những mối liên hệ của ḿnh với Phái đoàn quân sự Pháp, DGER, SLFEO và M.5.
Ngày 24-5, khi chưa nhận được ư kiến của Heppner về việc sử dụng các đội quân Pháp, chúng tôi nhận được một bức điện của thiếu tá Davis nói rằng một đội quân Pháp lớn đă đến Posech mà không báo trước, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Revol; ông này nói rằng họ được trang bị và huấn luyện bởi OSS cho những cuộc hành quân ở Đông Dương.
Cuối cùng, ngày 26, Heppner nói cho chúng tôi rằng ông ta đă kư một thỏa thuận có dụng ư với SLFEO. Tôi lại đến gặp Sainteny để vạch các chi tiết và, một lần nữa, sự đón tiếp của ông ta tỏ ra nồng nhiệt và thân mật. Giọng khó tính đầu tiên mà Sainteny ném ra là khi ông ta bảo đảm với tôi rằng chúng tôi có thể cùng nhau vạch ra một kế hoạch “có lợi cho cả hai bên”. Nhận xét ấy không thích hợp với tôi, và tôi trả lời rành rọt rằng “mối lợi” duy nhất mà người Mỹ nghĩ tới là thu được t́nh báo của Nhật và tiến hành những hoạt động riêng biệt đằng sau các pḥng tuyến của họ. Tất nhiên, Sainteny đồng ư, nhưng nhận xét của ông ta làm tôi phải “qui vive”(7).
Những sự thỏa thuận của tôi với AGAS đă phù hợp với sự tán thành của bản doanh cho phép làm việc với M.5, và tôi được tự do bàn bạc với Sainteny về dự án Pakhoi. Đầu tháng, tôi lại phái Ambelang tới Maoming(8) để tiến hành những hoạt dộng giám sát ven biển phối hợp với cuộc hành quân Ford Bayard. Ngày 27, tôi gửi Ettinger đến Pakhoi để nhập với trung úy James W. Jordan(9). Với Ettinger và Jordan ở Pakhoi và Ambelang ở Maoming, tôi quyết định thiết lập một trạm căn cứ trong vùng và gợi ư với Sainteny rằng dự án OSS - AGAS đang tiến hành và với sự giúp đỡ của ông ta, chúng tôi có thể cùng nhau mở rộng hoạt động để giành những kết quả tối đa trong một thời gian tối thiểu. Ông ta đồng ư và sẵn sàng vạch kế hoạch.
Ngày 30-5, dự án Pakhoi được tiến hành. Đội tàu nhỏ của Pháp gồm hai chiếc tầu tuần tiễu, Crayssac và Frézouls, được nhiều thuyền máy yểm trợ, tất cả đều do thủy thủ Pháp điều hành, bắt đầu chuyển (bằng các đài vô tuyến của OSS) những tin tức có giá trị về hạm đội Nhật và giúp đội tầu ven biển của chúng ta thăm ḍ những độ sâu dọc vịnh Fort Bayard và vịnh Mandarin. Ettinger và Jordan, với sự giúp đỡ của các nhân viên Pháp do M.5 cung cấp đă tiến hành một công việc tuyệt vời, không những chỉ báo cáo về sự bố trí của quân Nhật và các hoạt động của Hạm đội Nhật (đặc biệt từ vùng Fort Bayard - Hải Pḥng), mà c̣n thu được một số tin tức từ bên trong Đông Dương.
NGƯỜI PHÁP TỔ CHỨC MỘT CUỘC BĂI CÔNG NGỒI

Một ngày sau khi Dự án PAKHOI được tung ra, chúng tôi kư kết với người Pháp ở Trùng Khánh một thỏa thuận thứ hai nhằm sử dụng 100 binh sĩ Việt Nam và 10 hay 12 sĩ quan Pháp. Sabattier và Pechkov đồng ư để OSS có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nhóm này và những tin tức t́nh báo thu được sẽ chia nhau. Chúng tôi vạch kế hoạch huấn luyện đơn vị ở Tŕnh Tây. Wampler chọn đại úy (sau đó là thiếu tá) Charles M. Holland và thiếu tá Allison K. Thomas đứng đầu hai đội với mật danh là “Con Mèo” (“Cat”) và “Con Nai” (“Deer”). Chúng tôi báo cho Davis và Poseh biết và yêu cầu họ phái Holland và Thomas đến Tŕnh Tây để đón nhận những người Pháp, đến ngày 12-6 th́ bắt đầu huấn luyện.
Nhóm người Pháp mới(10) đến đúng ngày giờ đă định nhưng lại từ chối huấn luyện như đă thỏa thuận ở Trùng Khánh. Viên sĩ quan cao cấp nhất của Pháp, thiếu tá Courthlac, yêu cầu OSS trả tiền cho nhóm ông ta và cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó không nằm trong sự thỏa thuận. Người Pháp phải lấy khẩu phần của họ từ Cục quân nhu Trung Quốc trước khi đến đây theo thủ tục thông thường và việc trả tiền cho đội quân người Pháp là trách nhiệm của Chính phủ Pháp ở Trùng Khánh. Thiếu tá Thomas không có quỹ để thỏa măn những yêu cầu của người Pháp và báo cho thiếu tá Courthlac biết điều đó; nhân đó người Pháp bèn tổ chức một cuộc băi công ngồi cho đến lúc có chỉ thị của M.5. Do đó, từ ngày 4 đến ngày 17 tháng 6, chương tŕnh huấn luyện ở Tŕnh Tây đă bị hoàn toàn đ́nh chỉ.
Một tia lóe lên sau đó vào sáng 12-6, khi Heppner nhận được một bức thư không đề ngày tháng của Sainteny, do Flichy kư tên, nói rơ ràng Sabattier đă chỉ thị cho M.5 phải chịu trách nhiệm về hoạt động du kích với sự cộng tác của các đơn vị Mỹ. “Do ưu thế của lực lượng Pháp” và sự nguy hiểm sẽ xảy ra, Sainteny yêu cầu được biết về mục đích của hoạt động này, về những mệnh lệnh cho người Mỹ, và những ǵ đă được thực hiện từ đây đến đó. Cho đến khi nhận được trả lời cho những câu hỏi của ông ta, Sainteny đă ra lệnh cho viên chỉ huy phân đội Pháp ngừng các hoạt động. Heppner lập tức không đồng ư với mệnh lệnh của Sainteny, coi đó là một hành động đơn phương và độc đoán và là một sự phá vỡ việc thỏa thuận Sabattier - Heppner ngày 31-5 và báo cáo điều đó cho tướng Wedemeyer. Rơ ràng đă có một sự đứt quăng trong những liên lạc giữa M.5 của phái De Gaulle và “Bộ Tham mưu” ở Trùng Khánh. Vấn đề đối với chúng tôi là phải giao dịch với ai trong những người Pháp?
Giai đoạn thứ ba của t́nh trạng này là sự bắt đầu một cuộc nổi dậy nhỏ của những người Pháp mới đến ngày 14-6, khi toàn bộ những liên lạc của mạng lưới PAKHOI im lặng. Tôi biết khá sớm qua Jordan rằng người Pháp đă ra lệnh đ́nh chỉ cung cấp luồng tin tức t́nh báo cho người Mỹ v́ bị đe dọa của “ṭa án quân sự”.
Khi mọi hành động Pháp - Mỹ ngừng lại và người Mỹ ở trong tâm trạng bực túc, thiếu tướng Douglas L. Weart(11) triệu tập một cuộc gặp mặt ở Côn Minh ngày 15-6 để dàn xếp mọi việc và đặc biệt đ̣i phải rút lại bức thư của Sainteny và các hoạt động phải đặt dưới sự kiểm soát của OSS. Weart mở đầu cuộc gặp mặt bằng việc nhắc lại cho Alessandri rằng giới quân sự Pháp đặt dưới quyền kiểm soát về tác chiến và cung cấp của tướng Hà Ứng Khâm và của OSS, và việc sử dụng các đội quân Pháp phải được cấp Chiến trường cho phép. Weart nói rằng không thể hiểu được M.5 nằm ở vị trí nào trong chuyện này, và nói cho Alessandri biết rằng “Sự kiểm soát tác chiến của tướng Hà không thừa nhận Phái đoàn quân sự Pháp như một nguồn liên lạc; mọi sự tiếp xúc chỉ dược tiến hành trực tiếp với tướng Sabattier...”. Tướng Alessandri biện bạch rằng M.5 đă hành động mà không biết ǵ đến thỏa thuận giữa Wedemeyer và Sabattier, và bức thư của Sainteny sẽ bị rút lại. Phân đội Pháp ở Tŕnh Tây sẽ được lệnh hoạt động dưới sự kiểm soát của OSS. Như vậy, đến ngày 17 mọi việc trở lại b́nh thường, hay ít ra chúng tôi cũng nghĩ như thế.
M.5 CỦA SAINTENY

Tại cuộc gặp mặt Weart - Alessandri, Flichy cố nhấn mạnh vai tṛ của M.5 trong những hoạt động bí mật, nhưng ông ta đă bị bác bỏ và Sainteny không gặp may. Một ngày sau cuộc gặp mặt, Sainteny yêu cầu tôi ghé lại ở một biệt thự Pháp: ông ta cần làm sáng tỏ những sự hiểu lầm. Ông ta cho rằng tôi hẳn đă biết tới việc SLFEO/Calcutta đă giao cho M.5 chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc; và ông ta, với tư cách người cầm đầu M.5, đă được cho phép giao dịch trực tiếp với OSS. C̣n về nhân lực, th́ ông ta đă được Calcutta giao cho sử dụng các đội quân của Sabattier được bổ sung bằng những chuyên viên của DGER lúc đó đang trên đường từ Pháp đến Ấn Độ. Về vấn đề chỉ huy và kiểm soát M.5 ở Côn Minh, Sainteny nhấn mạnh rằng ông ta chỉ nhận những chỉ thị và hướng dẫn của tướng Passy(12) ở Paris và đại tá Roos(13) ở Calcutta, những người này chỉ chịu trách nhiệm trước tướng De Gaulle.
Tôi hỏi Phái đoàn quân sự Pháp trực thuộc vào đâu, và Sainteny nói rất rơ ràng tướng Pechkov không có quan hệ ǵ với DGER cả. Ông ta nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, c̣n DGER th́ hoạt động dưới những chỉ thị trực tiếp của cá nhân De Gaulle.
Hoàn toàn không có dụng ư, Sainteny cho tôi biết rằng SLFEO/Calcutta đă có một số thỏa thuận rơ ràng với SOE của Anh về hoạt động ở Đông Dương. Những thỏa thuận ấy được tiếp tục cả sau khi kư kết thỏa thuận OSS - DGER. Đó là những thỏa thuận riêng rẽ và khác nhau: Pháp - Anh, Pháp - Mỹ. Tôi b́nh luận rằng đối với tôi, sự thỏa thuận ấy có vẻ cơ hội chủ nghĩa và rơ ràng nhằm giành lấy phần tối đa từ hai phía riêng rẽ. Sainteny đáp lại rằng người Anh đă đóng góp nhiều về vũ khí và vận chuyển cho sự nghiệp của Pháp ở Đông Dương, và nói thêm: “Vâng, chúng tôi là những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong trường hợp này - mọi cái đều nhắm tới cùng một mục đích, có phải thế không?”. Tôi trả lời rằng tôi không nghĩ thế, nhưng Sainteny nói tiếp rằng người Anh đă giúp đỡ lâu trước người Mỹ và đă có nhiều đội đang hoạt động tại chỗ, đă đem lại những kết quả tốt đẹp và ông ta không muốn chấm dứt những hoạt động của họ.
Sau đó, tôi đặt câu hỏi về quyền hạn của Chiến trường. Người Pháp ở Trung Quốc dù sao cũng nằm dưới sự chỉ huy của Tưởng và Đông Dương th́ nằm trong Chiến trường tác chiến Trung Quốc. Nhưng Sainteny khoát tay tỏ ra không cần phải băn khoăn ǵ về tất cả những điều đó và nói rằng chúng tôi không thể thông qua sự thỏa thuận Tứ cường ở cấp chúng tôi, khiến cho tôi gợi ư có lẽ ông ta nên nêu vấn đề này với tham mưu trưởng và đại tá Heppner. Chúng tôi không giải quyết được ǵ và đặt những vấn đề quyền hạn cho những cuộc thảo luận sau này.
Những hoạt động của Anh - Pháp từ SEAC khiến cho tôi rất quan tâm. Tôi không biết chắc rằng những hoạt động ấy có thể đưa vào kế hoạch chung của tôi không. Sainteny nói rằng ông ta không biết được nhiều chi tiết và bảo đảm với tôi rằng kết quả hoạt động của các đội ấy sẽ được chia cho M.5, M.5 sẽ chuyển cho Sabattier, và ông ta sẽ chuyển đi “theo những đường liên lạc t́nh báo”. V́ tôi biết sự ngăn cấm bí mật của người Pháp không cho người Anh giao tin tức cho người Mỹ, nên tôi lại càng hoài nghi hơn. Không để lộ việc tôi biết sự ngăn cấm bí mật ấy, tôi lưu ư với Sainteny về thỏa thuận giữa Tưởng và Sabattier nói rằng đường liên lạc duy nhất đối với người Pháp ở Chiến trường Trung Quốc để tuyền đạt tin tức t́nh báo là qua OSS, rồi OSS chuyển tới Sabattier. Sainteny đáp lại điều đó: “Đúng thế! Vậy th́ tôi sẽ chuyển tin tức t́nh báo cho ông, nhưng với điều kiện không để tŕ hoăn bởi nhũng thủ tục quan liêu thường thấy trong trường hợp ở châu Âu”. Chấp nhận câu trả lời dễ dăi của ông ta với một sự miễn cưỡng lớn, tôi bảo đảm với ông ta rằng sẽ không có những sự tŕ hoăn. Và, tất nhiên, những lo lắng của chúng tôi đă được chứng thực: chúng tôi không hề nhận được một tin tức nào cả.
Chúng tôi chuyển qua vấn đề cuối cùng, kế hoạch hoạt động của ông ta. Sainteny nói rằng kế hoạch đó sẽ được ông ta thảo xong ngày 18-6. Khi tôi từ giă, ông ta hỏi liệu có thể được thông báo cho biết về các kế hoạch của Chiến trường cho Đông Dương với những cuộc đổ bộ dự định được đặc biệt ghi rơ hay không. Tôi gợi ư ông ta nên thảo luận điều đó với Heppner.

M.5 GIÀNH ĐƯỢC QUY CHẾ CHÍNH THỨC

Kế hoạch Sainteny thảo xong ngày 18 là một kế hoạch rộng lớn cho những cuộc hành quân trên bộ và trên biển. Nó bao gồm khoảng 1.000 sĩ quan và binh lính Pháp - Việt, tất cả được trang bị bởi OSS. Helliwell và tôi rất ngạc nhiên và đề nghị Heppner chấp nhận kế hoạch ấy với những điều kiện: Các đơn vị này được đặt dưới sự kiểm soát của OSS; mỗi đơn vị có một sĩ quan cao cấp Mỹ chỉ huy; chỉ sử dụng mật mă vô tuyến điện của OSS; mỗi đơn vị chỉ hoạt động dưới sự đỡ đầu của OSS chống lại các mục tiêu của Nhật.
Sainteny và Flichy phản đối tất cả những điều kiện ấy Sainteny nói ông ta cảm thấy trái lương tâm khi yêu cầu các sĩ quan Pháp phục vụ dưới sự chỉ huy của những sĩ quan không phải người Pháp, dù cho đó là những sĩ quan Đồng minh. Heppner nói rằng đó không phải là một thủ tục ǵ khác thường; phải chăng tất cả chúng ta đều không nằm dưới sự chỉ huy của Thống chế (Tưởng) ở Chiến trường Trung Quốc? Chúng tôi đi tới một sự bất đồng.
Để khỏi mất th́ giờ hơn nữa, v́ ngày hạn định cho Carbonado đă gần đến, tôi gợi ư chúng tôi cùng vạch một dự án trước mắt và giải quyết vấn đề chỉ huy trên cơ sở mục tiêu và khả năng hiện có về sĩ quan có năng lực cho mỗi dự án. Sainteny đồng ư một cách miễn cưỡng, nhưng ông ta yêu cầu cung cấp vũ khí và trang bị cho tất cả 1.000 binh sĩ. Heppner nắm chặt lấy điểm đó. Mỗi đơn vị sẽ được cung cấp những ǵ cần thiết khi nó thật sự được giao cho một phái đoàn OSS được phê chuẩn.
Sainteny nêu lên vấn đề những cuộc đổ bộ của Đồng minh được dự tính và hỏi xem liệu ông ta có được thông báo về những ǵ sẽ được hoạch định không. Heppner nói với ông ta rằng Sabattier sẽ được thông báo khi tướng Hà Ứng Khâm thông qua để cho kế hoạch ấy có hiệu lực.
Đó là một cuộc gặp mặt hoàn toàn không thỏa măn. Người Pháp cảm thấy bị khước từ và người Mỹ chúng tôi rời ra với một cảm giác rơ ràng về tính mơ hồ của lập trường người Pháp. Helhwell và tôi, cùng với Heppner, biết rắng Sainteny không phải là một người ngay thẳng. Quá nhiều điều ông ta không nói ra và quá nhiều câu hỏi không được ông ta trả lời.
Trong 4 tuần lễ sau đó, chúng tôi dành nhiều th́ giờ để hội họp, hỏi han, bàn bạc và thảo luận, mà không di tới một sự thỏa thuận nào để có thể thực hiện được. Trong khi đó người Pháp đánh nhau ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc không có mục tiêu rơ ràng. Căn cứ của chúng tôi ở Pakhoi được báo cáo rằng một đơn vị biệt kích Pháp đang được tổ chức và huấn luyện trong vùng cho những hoạt động mà chúng tôi chưa biết. M.5 quấy phá các hệ thống t́nh báo của lực lượng không quân thứ 14, AGAS, Bộ tư lệnh chiến đấu Trung Quốc (CCC) và OSS bằng những loạt báo cáo không được xác nhận về các bố trí và vận động của quân Nhật. Khi ban kế hoạch của Chiến trường hỏi OSS về tính xác thực của những báo cáo ấy, tất nhiên chúng tôi không thể xác minh chúng được, cũng không thể bảo đảm tính chính xác của chúng v́ chúng tôi không được M.5 hỏi ư kiến.
Các báo chí địa phương của Trung Quốc ở Côn Ḿnh công bố một bản báo cáo, nói là của phái đoàn quân sự Pháp, cho biết một đơn vị Pháp ở Trung Quốc đă “xâm nhập và chiếm đóng” đảo Weichow của Trung Quốc(14). Vụ rắc rối ấy không có ǵ đáng nêu lên, ngoại trừ tướng Hà Ứng Khâm và đại bản doanh Chiến trường nổi cáu lên v́ hành động không được phép ấy của người Pháp. Như câu chuyện về sau được làm sáng tỏ ra, trong một kế hoạch rút lui về lục địa Trung Quốc, người Nhật đă bỏ ḥn đảo ấy. Khi biết tin người Nhật đă bỏ đảo Weichow, M.5 ra lệnh cho các tàu tuần tiễu của họ (Frézouls và Crayssac) chiếm lấy đảo này bằng một đơn vị nhỏ của Pháp. Sainteny kiêu hănh gửi một bức điện cho tướng Chennault báo tin đă “phá hủy sân bay Nhật và chiếm đảo này nhân danh Đồng minh”. Mấy ngày sau, Sainteny bị Tổng chỉ huy Trung Quốc ra lệnh rút khỏi ḥn đảo và phải chấm dứ cũng như chưa không được xúc tiến những hoạt động không được cho phép sau này để khỏi gây tổn hại lớn cho các kế hoạch của Chiến trường.
Trong khi gỡ M.5 ra khỏi hành động hoang toàng đáng tức cười ở Weichow, Sainteny nói với trung úy Fauchier - Magnon rằng ông ta đang chuẩn bị một đội để “đánh chiếm” đảo Nightingale(15) với một đơn vị t́nh báo và một máy vô tuyến điện được AGAS cung cấp. Chính tướng Wedemeyer đă ra lệnh đ́nh chỉ các kế hoạch ấy.
Tôi giải thích những tṛ cường điệu trẻ con ấy là một cách mà Sainteny dùng để thu hút sự chú ư, v́ DGER và đặc biệt là M.5 của Sainteny vẫn chưa được thừa nhận ở cấp Chiến trường Trung Quốc.
Hoàn toàn thất vọng v́ hành động của người Pháp, tôi khuyên Heppner chấm dứt sự ủng hộ đáng ngờ của DGER. Toàn bộ vấn đề này đă được đặt ra ở một hội nghị tại Trùng Khánh ngày 29-6, giữa tướng Paul W. Caraway(16) đại tá Joseph Dickey(17), Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi. Tôi phác lên những thỏa thuận OSS - DGER (M.5), những thành tựu và những thất bại của nó. Tôi thừa nhận rằng người Pháp có một tiềm năng to lớn cho những hoạt động bí mật, miễn là chúng ta chấp nhận DGER như một cơ quan b́nh đẳng trong Chiến trường và đưa họ vào các kế hoạch của Chiến trường. Tuy nhiên, tôi cảnh cáo rằng, nếu chúng ta đi theo con đường đó, th́ vai tṛ của tướng Sabattier với tư cách Tổng chỉ huy sẽ bị phụ thuộc vào quyền của DGER và chúng ta sẽ bỏ mất quyền kiểm soát đối với những hành động của Pháp trong Chiến trường.
Dickey và Whitaker đồng ư với sự đánh giá của tôi và nêu rơ rằng tướng Alessandri đă gặp tướng Gross ở Côn Minh ngày 22 và gặp tướng Ray T. Maddocks(18) ngày 27 để đi tới một thỏa thuận đúng về những điểm đó - thừa nhận vai tṛ của DGER và của Sabattier trong những hoạt động bí mật. Tướng Caraway nhận xét rằng: Mặc dù đó là một vấn đề riêng của người Pháp, chúng ta vẫn có trách nhiệm tinh thần và pháp lư đối với sự ủng hộ viên chỉ huy đă được bổ nhiệm một cách hợp thức là Sabattier.
Heppner, trước kia là một nhân viên tham mưu chủ chốt của đại bản doanh của huân tước Mountbatten, đă vạch rơ rằng sự thừa nhận chính thức DGER, bao hàm SLFEO thuộc SEAC cũng sẽ được phép hoạt động ở Chiến trường Trung Quốc; đó là một vấn đề quyền hạn nghiêm trọng, đ̣i hỏi phải được sự đồng ư của Thống chế (Tưởng). Heppner cũng nêu lên rằng người Pháp không phải chỉ là nguồn duy nhất gây hỗn loạn ở chiến trường Trung Quốc. Ông ta có nhiều báo cáo cho biết Nhóm yểm trợ Quân đội Anh (BAAG), dưới quyền chỉ huy của đại tá Ride đang hoạt động ở khu vực Hongkong - Quảng Châu, trang bị vũ khí cho du kích Trung Quốc nhằm sẵn sàng kiểm soát Hongkong trong trường hợp Đồng minh đổ bộ. Những hoạt động của cả Anh và Pháp ở chiến trường Trung Quốc không được Thống chế đồng ư và do đó sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động của OSS. Heppner đă báo cho tướng Wedemeyer biết về những hoạt động của BAAG và ông ta đă lưu ư trung tướng E.C. Hayes, Tổng chỉ huy quân đội Anh ở Trung Quốc về điều này. Hayes hứa sẽ điều tra vấn đề này và sẽ cung cấp một báo cáo đầy đủ. (Bảy tuần lễ sau đó, khi chiến tranh kết thúc, tướng Hayes vẫn chưa làm xong công việc này).
Chúng tôi kết luận rằng cần phải có một lập trường kiên quyết. Tuy nhiên, sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc không thể bị bỏ qua và cần được sử dụng, mặc dù có những vấn đề khó khăn về chính trị và hậu cần. Tướng Caraway báo cho Wedemeyer rằng ông ra đă khuyến cáo với tướng Marshall “ngay khi những lực lượng (của Pháp) ấy đă lại sung sức về thể chất, họ sẽ được sử dụng như những người bảo vệ sân bay, những đội tuần tiễu biên giới, những nhân viên t́nh báo, và những đội SCS(?)”. Như vậy, chúng ta đă cam kết thực hiện một cố gắng phối hợp để sử dụng họ vào những mục đích nào đó. Cho đến nay, họ đă được sử dụng ở tất cả các khu vực đă nói trên, trừ t́nh báo ra. Có lẽ, nếu chúng ta nêu ra một hay hai điểm, th́ M.5 có thể dễ chấp nhận một phần sự giám sát. Tướng Caraway sẽ báo cáo với tướng Maddocks và tôi phải chuẩn bị cho Heppner một giác thư về những sự vi phạm của Pháp đối với thỏa thuận DGER - OSS.
Ngoài những lư do đó, một thỏa thuận cụ thể mới với người Pháp đă được vạch ra ngày 3-7, giữa tướng Weart và tướng Alessandri. Mọi người có mặt đă biểu lộ sự thông hiểu và hài ḷng với những điểm chủ yếu sau đây:
- Hàng tuần phải báo cáo cho tướng Wedemeyer về mọi hoạt động của DGER ở Chiến trường Trung Quốc;
- M.5 phải bảo đảm kiếm được những tin tức t́nh báo do DGER đóng ở Ấn Độ và chuyển giao cho tướng Wedemeyer;
- DGER phải nhận những chỉ thị trực tiếp từ Paris hay từ Bộ thuộc địa, không nhất thiết qua Sabattier;
- DGER được thừa nhận là cơ quan t́nh báo Pháp về Đông Dương, cần biết về tất cả các hoạt động bí mật có liên quan với nhân viên người Pháp được tiến hành như thế nào, ở đâu và tại sao;
- Sabattier không được bác bỏ bất cứ sự phản đối nào do DGER nêu lên về những hoạt động t́nh báo đặc biệt;
- Trong việc vạch kế hoạch và chỉ huy những hoạt động t́nh báo về Đông Dương, OSS phải hành động thông qua những đường liên lạc chỉ huy b́nh thường của Pháp, đặc biệt là đối với những hoạt động t́nh báo thông qua DGER và những hoạt động quân sự thông qua Sabattier.
Chúng ta đă nêu lên một hay hai điểm thừa nhận chính thức DGER như một cánh tay của Chính phủ Paris và đồng ư một mức độ tự trị nào đó của nó, nhưng chúng ta không từ bỏ sự kiểm soát hay chịu để cho Sabattier có quyền cao nhất. Khi chúng tôi hỏi Sainteny ông ta nghĩ như thế nào về thỏa thuận mới này, ông ta nhận xét một cách thô lỗ: “Mới ǵ?
”.

MỘT TRƯỜNG HỢP CHƠI TR̉ ẢO THUẬT

Trong những tuần lễ thỏa thuận và không thỏa thuận của chúng tôi, tôi đă yêu cầu M.5 khẩn cấp lấy bản dự án mang tên COMORE. Đó là một phần của việc chuẩn bị cho Carbonado để tăng thêm những thông tin của chúng tôi về việc người Nhật đă biết đến mức nào về các kế hoạch của Mỹ - Trung Quốc, những lực lượng nào được tập trung ở khu vực Hà Nội - Hải Pḥng và ở hành lang Lạng Sơn - Lào Cai, những sân bay và hải cảng nào có những hoạt động bất thường, và đang có những di chuyển quân đội như thế nào.
Tôi giao nhiệm vụ cho một người Jedburgh cũ, đại úy Lucien E. Conein(20), một chuyên gia về các chiến thuật phá hoại và du kích, nói thạo tiếng Pháp, đáng tin cậy, và không hoàn toàn đồng ư với chính sách của Pháp đối với Đông Dương. Đội này có khoảng 100 binh sĩ Pháp - Việt và 5 sĩ quan và binh sĩ Mỹ. COMORE thực hiện được những cuộc đột kích song song vào các cứ điểm Nhật trong những hoạt động bắt đầu đêm 28 rạng 29 tháng 7 và tiếp tục cho đến 8-8, chỉ có một trường hợp thương vong. Mặc dù người Nhật chống cự mạnh mẽ, nhân viên COMORE đă đốt cháy và phá hoại các kho xăng và đạn dược, một ban chỉ huy tiểu đoàn và một số doanh trại. Họ bắt được hai tù binh Nhật (một là sĩ quan) về để hỏi cung và những tài liệu có thể mang theo được.
Thành công của COMORE là một thước đo của sự yên tâm về triển vọng cộng tác với người Pháp, nếu không có những khó khăn mới đồng thời tăng lên trong cùng thời kỳ đó. Tôi hết sức ngạc nhiên khi Sainteny đang trên đường về Paris th́ tôi nhận được của M.5 ngày 20-7 một kế hoạch hoàn toàn mới mang mật danh MAROC, một cuộc hoạt động Hải quân nhằm thu lượm t́nh báo từ lục địa Trung Quốc và những vùng ven biển. Nó đ̣i hỏi một số đơn vị phụ thuộc, bao gồm một số binh sĩ không hạn định của Pháp - đâu vào khoảng mấy trăm đến mấy ngh́n. Theo người Pháp, MAROC được phục vụ bởi một trạm vô tuyến điện của OSS, mà những đơn vị phụ thuộc ấy sẽ gửi những tin tức của họ đến trạm theo mật mă OSS. “Những đường liên lạc hiện có của Pháp chỉ được dùng cho việc buôn bán công khai”. Kế hoạch có vẻ nghe xuôi tai khi mới đọc qua, ngoại trừ việc OSS cấp vũ khí và trang bị cho binh sĩ Pháp.
Tuy nhiên, một sự xem xét kỹ lưỡng kế hoạch MAROC lại để lộ ra rằng vị trí chỉ huy của nó được đặt ở lănh sự Pháp ở Pakhoi, chỉ do người Pháp đảm nhiệm. Thủy thủ của hai chiếc thuyền (Bluebird và Vieux Charles) được đặt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Ngoài ra, hai đơn vị phụ (Oise và Bạch Long Vĩ) cũng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, có liên lạc với người Trung Quốc và AGAS. Nhân viên OSS sẽ chỉ tham gia với sự đồng ư hoàn toàn của chỉ huy Pháp. Trung úy Jordan, lúc đó ở Pakhoi, được cắt cử vào kế hoạch MAROC để nhận những đồ tiếp tế của Mỹ thả dù xuống, do người Pháp phân phối.
Tôi tức điên lên. Rơ ràng OSS chỉ được trông đợi để cấp tiền và vũ khí cho những hoạt động không hề chịu một yếu tố kiểm soát nào của Mỹ. Về điểm này, tôi đă thật sự mệt mỏi với sự “cộng tác” và những âm mưu của M.5, và ngay lập tức tôi yêu cầu M.5 làm sáng tỏ vấn đề chỉ huy và kiểm soát. Các bản sao bức thư của tôi gửi Heppner và Helliwell có ghi chú: “Nếu có những thay đổi ấy, th́ sự kiểm soát của OSS đối với những hoạt động ở Đông Dương thuộc Pháp sẽ c̣n lại con số không, và chúng tôi sẽ chủ yếu thành một cơ quan tiếp tế cho những hoạt động độc lập của DGER”. Sự kết thúc đột ngột của cuộc chiến tranh đă may mắn cứu tôi khỏi một trong những điều bực ḿnh và tranh chấp mà kế hoạch MAROC rơ ràng đă đẻ ra.
Binh sĩ Pháp tại chỗ đă bị bỏ mặc trong suốt thời kỳ bất đồng và thương lượng kéo dài ấy. Ở K’aiyuan, Posech, Tŕnh Tây và ở những khu vực khác có người Pháp tập trung, họ được cung cấp rất tồi tệ về áo quần, giày, thuốc men và những khoản khác. Vấn đề huấn luyện và sử dụng những binh sĩ ấy vào các hoạt động của OSS c̣n tùy thuộc vào việc họ được trang bị bởi Chiến trường như thế nào. Cứ mỗi lần chúng ta trang bị cho một đơn vị để làm nhiệm vụ đặc biệt, th́ một phần lớn nhân viên của đơn vị ấy lại bị chuyển ra khỏi sự kiểm soát của OSS và một nhóm binh sĩ mới không ai thừa nhận lại thay thế họ. Rơ ràng là sự khôn ngoan tầm thường ấy đă làm cho nhiều người hơn có áo quần mặc, nhưng chương tŕnh huấn luyện tất nhiên phải bị tiến triển chậm lại. Một khía cạnh nghiêm trọng hơn nhiều của cái lối láu cá ấy, không đơn giản lắm, là khi chúng tôi biết được rằng những đồ tiếp tế như vũ khí và đài vô tuyến điện không phải bao giờ cũng được giữ lại ở những đơn vị ấy mà lại bị cất giấu đi cho những hoạt động sau này của Pháp để chiếm lại Đông Dương. Tôi đưa cho Heppner một đanh sách những đồ tiếp tế, tất cả đều được các sĩ quan Pháp nhận một cách hợp lệ, mà không c̣n thấy ở những đơn vị Pháp được chỉ định làm nhiệm vụ của OSS nữa, và Heppner đă báo cáo vấn đề lên tướng Olmsted.
Một lần nữa, Alessandri gặp các tướng Maddocks, Caraway và Olmsted. Tấn công ngay lập tức, Alessandri hỏi chúng tôi đă nhận được chỉ thị từ Washington về việc cung cấp cho người Pháp những thứ hàng theo luật cho Vay - Mượn vũ khí hay không. Olmsted trả lời có, người Pháp có đủ tư cách để nhận sự viện trợ ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bắt đầu lấy được trang bị của Mỹ ngay, mà phải 6 tháng sau mới có thể cung cấp trang bị ấy và chở đến Trung Quốc được. Hơn nữa, Olmsted không thể đồng ư với tiền đề của Alessandri là mọi đồ cung cấp hiện có để trang bị cho quân đội Pháp không phải là để cho họ tách khỏi những hoạt động do Chiến trường chỉ huy: “Chúng tôi không có một sự bố trí riêng nào cho những lực lượng chiến đấu tách biệt của Pháp cả”.
Alessandri tỏ vẻ ngạc nhiên v́ thông tin ấy: ông ta đă được trả lời mọi điều mà ông ta phải hỏi. Olmsted kiên tŕ giải thích rằng chỉ có một số ít hàng ăn mặc đă có sẵn. C̣n trang bị chiến đấu th́ phải đợi gửi từ Mỹ sang và nói chung phải mất 6 tháng. Alessandri trông ỉu x́u. Sáu tháng là quá dài, ông ta nói. Caraway hỏi Alessandri đang chờ có bao nhiêu binh sĩ ở Chiến trường Trung Quốc; ông ta trả lời: “5.000!”. Olmsted cố làm nguôi bớt sự choáng váng của Alessandri, nhưng nói thẳng thắn rằng ông ta không có cách nào để đẩy nhanh hơn quá tŕnh này cả.
Lúc đó, tướng Alessandri đề nghị mua trang bị bất cứ ở đâu và chuyên chở bằng máy bay Pháp. Và ông ta lại được nhắc cho biết rằng các sân bay đều đang hoạt động hết năng lực rồi. Alessandri cố gắng một lần nựa: liệu ông có thể mua trang bị ở Ấn Độ và mua các xe chở hàng để chuyển qua con đường Miến Điện không? Ông ta được nói cho biết rằng xăng dầu cho xe chở hàng bị hạn chế rất ngặt nghèo và nhiều đoàn xe đang chờ đợi có đường để đi và trong trường hợp ông ta không hiểu được điều đó th́ ông ta sẽ yêu cầu tới 2.500 chiếc xe tải để duy tŕ 5.000 binh sĩ bằng những nguồn tiếp tế lấy ở Ấn Độ. Hoàn toàn thất vọng, Alessandri nhắc lại rằng binh sĩ Pháp sẽ không thể tham gia các hoạt động nếu như trang bị cho họ đến quá muộn. Maddocks ghi nhận một cách lịch sự rằng ông ta đă hiểu được những ǵ viên tướng này cần phải làm. Mọi người đều thấy rơ ràng mối lo lắng của Alessandri không phải là để đánh bại Nhật, mà là để sẵn sàng giữ Đông Dương cho nước Pháp. Vấn đề tiếp tế của OSS thậm chí cũng không được nhắc đến tại cuộc gặp gỡ, nhưng điều muốn nói đă toát lên rất rơ - binh sĩ Pháp chỉ được cung cấp vũ khí và trang bị cho những hoạt động do OSS kiểm soát và do Chiến trường chỉ huy.
Alessandri cố cứu văn t́nh h́nh một cách tuyệt vọng bằng cách bày tỏ sự thất vọng của ông ta đối với việc giao cho binh sĩ Pháp giữ các sân bay và tham gia các hoạt động của OSS. Ông ta nói rằng, ông ta muốn thấy họ được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu. Tướng Maddocks đă gợi ư một cách lịch sự là sẽ nêu vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm, và Hà sẽ có những đề nghị thích hợp của ḿnh cho Thống chế. Tất cả chúng tôi đều biết rằng người Pháp đă được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu ở vùng đông bắc Trung Quốc, nhưng họ đă từ chối, bề ngoài nói là do bộ đội của họ chưa thật khỏe mạnh để làm nhiệm vụ chiến đấu. Sự thật là người Pháp thích ở gần biên giới Đông Dương một cách tiện lợi hợn là chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu ở những nơi khác ở Trung Quốc.
Khoảng 10 ngày sau đó, trong khi Sainteny vẫn tiếp tục vắng mặt, Flichy gửi cho tôi những nhận xét và những sửa đổi riêng của ông ta đối với kế hoạch MAROC và dường như chúng tôi có thể đạt tới một bước tiến nào đó về vấn đề này. Nhưng vào lúc đó có cả một ḍng tin tức lại từ Pakhoi đến bất ngờ và chặn đứng bước tiến ấy. Người Pháp giải thích không đâu vào đâu rằng khi chúng tôi bàn bạc về kế hoạch MAROC th́ việc phải có người và trang bị để những công việc trùng lên nhau trong cùng một khu vực là vô nghĩa. Sự giải thích ấy hoàn toàn không thuyết phục. MAROC vẫn chưa tồn tại và OSS hoàn toàn chưa nhận được ǵ hết từ Pakhoi gửi đến. Và thế là sự “cộng tác” OSS - M.5, vốn đă chưa có, lại trở thành phá sản.
Chúng tôi may mắn có được những nguồn t́nh báo khác. Ba hệ thống t́nh báo lớn dă tung được người vào phạm vi hoạt động gồm những người Pháp và Việt đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan chính quy Pháp trung thành với Sabattier. Chúng tôi c̣n có 5 nhóm có những mục tiêu riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người Pháp. Tất cả có chừng 300 đội t́nh báo và đơn vị du kích, với một mạng lưới liên lạc rộng lớn hoạt động không dựa vào DGER chút nào. Chúng tôi cũng nhận được một luồng tin tức t́nh báo đều đặn và đáng tin cậy từ bộ máy Hồ Chí Minh và từ những cá nhân ở những địa phương khác nhau không gắn với bất cứ một mạng lưới t́nh báo nào.
Với sự kết thúc chiến tranh đột ngột chỉ trước có mấy ngày, nhiệm vụ bảo đảm t́nh báo về Đông Dương của tôi để cung cấp cho những hoạt động quân sự của chúng ta cũng đ́nh chỉ đột ngột, nhưng những cuộc xung đột với Nhật vẫn chưa kết thúc hẳn v́ những hoạt động của Sainteny: chiến dịch của ông ta chỉ mới bắt đầu.
Chú thích :

(1) trước đó - tiếng Pháp
(2) nguyên trạng - tiếng Pháp
(3) chỉ huy phó nhóm M.5
(4) Jean Roger Sainteny (1907-1978), chỉ huy nhóm M.5 ở Côn Minh, con rể cựu Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (1872-1962); đến Hà Nội cùng với toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng ḥa Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1945-1947), là người đại diện nước Pháp kư bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Hồ Chí Minh; sau làm tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại VNDCCH (1954-1957)
(5) hay Bắc Hải, một cảng thuộc Quảng Đông cách Móng Cái 60 dặm
(6) trưởng toán OSS/SO, mật danh là “Chow”, đóng ở Posech, bắc Tŕnh Tây 60 dặm
(7) Cảnh giác - tiếng Pháp
(8) thuộc Quảng Đông, bắc Pakhoi 120 dặm
(9) thuộc Hải quân Mỹ, chịu trách nhiệm phối hợp với AGAS để trinh sát bờ biển cho OSS
(10) Nhóm gồm 8 sĩ quan, 40 lính lê dương người Âu và 60 lính người Việt
(11) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
(12) Thủ trưởng DGER ở Paris
(13) Chỉ huy trưởng SLFEO/Cacutta
(14) nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách Pakhoi 25 dặm
(15) nằm trong vịnh Bắc Bộ, các Móng Cái 100 dặm
(16) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
(17) Trợ lư Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa, phụ trách Ban t́nh báo G-2
(18) Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
(19) sau là sĩ quan CIA tại miền Nam Việt Nam, đạo diễn cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đ́nh Diệm 1-11-1963

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: