MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News

v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 13

Toán “Con Nai” đến Kim Lũng

Sau những tháng kiên tŕ điều đ́nh với người Pháp mà không mang lại kết quả ǵ, Hồ Chí Minh vẫn bền bỉ cung cấp cho OSS nhiều tin tức và sự giúp đỡ rất có giá trị đối với các kế hoạch hoạt động bí mật của chúng tôi. Tôi vẫn giữ được liên lạc với ông qua các nhân viên ở Côn minh, Posech và Tŕnh Tây.
Ông Hồ đă trở về bản doanh của ḿnh ở Đông Dương, đi qua Pắc Bó, trạm trú chân đầu tiên, rồi đến Tân Trào, nơi ông đặt căn cứ chính trị và quân sự để lănh đạo các hoạt động của Việt Minh cho đến khi ông chuyển về Hà Nội vào 4 tháng sau.
Vào giữa tháng 6, tôi phát triển thêm một số quan hệ với những người được lựa chọn trong cộng đồng Việt kiều ở Côn Minh. Tôi đă để nhiều th́ giờ nghe tin tức và điều thích thú đối với tôi nhất là nghe kể về những thành tích của Việt Minh ở Đông Dương và về “tài khôn khéo” của Hồ Chí Minh, lănh tụ của họ. Câu chuyện về việc tôi gặp gỡ với ông Hồ đă gây nhiều lời bàn tán chung quanh sự hợp tác của chúng tôi và vai tṛ của OSS đối với phong trào Việt Minh ở Côn Minh. Những dư luận này, một thứ tự đề cao “tâng bốc” ḿnh bắt nguồn ngay từ các tổ chúc Việt Minh ở Côn Minh. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng việc đặt được những quan hệ công tác tốt đối với các hội viên của Việt Minh quả thực là điều bổ ích.
Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, nhưng thỉnh thoảng họ lại sa vào một vài “thổ ngữ địa phương”, làm cho tôi chẳng hiểu ǵ. Họ nói cả đến những nhân vật, chắc là quan trọng, nhưng rất xa lạ đối với tôi. Họ kể về những địa danh ở Đông Dương mà tôi chưa hề nghe thấy bao giờ, nhưng sau tôi cũng phải cố gắng xác định lại trên bản đồ. Tuy vậy tôi cũng đă biết được khá nhiều về phong trào độc lập của người Việt Nam và đă báo cáo một cách trung thực với Trùng Khánh và Washington về các sự kiện và những phán đoán của tôi.
Những báo cáo về thực chất và ư nghĩa của Việt Minh của tôi nói trên cũng không gây được ảnh hưởng ǵ đối với Bộ chỉ huy Chiến trường và Đại sứ quán. Whitaker đă chất vấn cả về nguồn tin cũng như những kết luận của tôi. Ông đă được nhân viên Đại sứ quán khuyên bảo là tôi đă phí phạm thời gian để cho một số ít cộng sản cuồng tín đánh lừa. Nhưng Whitaker, Helliwell và Heppner cũng không thể không biết đến giá trị những tin t́nh báo do Việt Minh cung cấp hoặc hiệu lực của nhiều nhân viên Việt Nam mà tôi đă sử dụng trong các chiến dịch phá hoại các mục tiêu Nhật Bản. Tất nhiên là người Trung Quốc ở Bộ tham mưu Chiến trường và các sĩ quan phái đoàn quân sự Pháp có quan hệ với Đại sứ quán Mỹ đă không thích sự cộng tác của người Việt Nam, nhưng chúng tôi ở OSS th́ lại vui ḷng tiếp tục sự hợp tác không chính thức của chúng tôi.
CHỈ CÓ MỘT SỰ LỰA CHỌN - VIỆT MINH

Đứng trước âm mưu của Pháp và Trung Quốc nhằm làm trở ngại cho các cố gắng của OSS và cũng biết rơ xu hướng của người Mỹ thích những ǵ thiết thực cụ thể, tôi đă chỉ thị cho một nhân viên tham mưu chuẩn bị cho tôi một hồ sơ đầy đủ về những thành tựu của Việt Minh đă đạt được tử cuộc đảo chính mồng 9-3. Hai ngày sau tôi đưa ra cho Heppner một lô t́nh h́nh khá quan trọng: 6 tỉnh ở phía Bắc Kỳ thuộc quyền kiểm soát về quân sự và hành chính của Việt Minh, một đội quân Giải phóng đă được thành lập gồm các đơn vị tự vệ và du kích, một tổ chức tuyên truyền có hiệu lực với một số phương tiện báo chí và điện đài hạn chế, một chương tŕnh chính trị xă hội - quân sự và cái cực kỳ quan trọng này, đó là sự ủng hộ của quần chúng nhân dân Việt Nam, một yếu tố mà khốn khổ cho chúng ta là đă không biết đến trong những năm 1960, 1970.
Heppner thấy không có lợi trong việc thúc bách giải quyết vấn đề này với Đại sứ quán, ông liền thảo luận riêng với tướng Wedemeyer và Goss, đồng thời cho gửi bản tài liệu của tôi về Washington cho cá nhân tướng Donovan. Sau đó, suốt trong thời gian tôi làm nhiệm vụ ở Chiến trường Trung Hoa, các hoạt động và quan hệ của tôi với người Việt Nam đă không c̣n thành vấn đề nữa.
Trong tuần lễ đầu tháng 6, Hồ Chí Minh đă cho tôi biết tin ông đă chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích “được huấn luyện tốt” để phục vụ cho bất kỳ kế hoạch nào của tôi chống lại Nhật. Số du kích này đă được tập trung ở một địa điểm trong khu vực chợ Chu, Định Hóa, và tôi đă báo tin cho ông Hồ biết là tôi cám ơn ông về đề nghị nói trên và sẽ chú ư xem xét vấn đề này một cách nghiêm chỉnh. Đề nghị của ông Hồ đă đến đúng vào một lúc thuận lợi, khi mà đội quân Pháp dưới quyền của Courthelac (được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc Trấn Nam Quan - Hà Nội) đă từ chối không chịu tham gia huấn luyện và không nhận nhiệm vụ đă được đề ra. Helliwell, Wampler và tôi đă bắt buộc phải đi đến kết luận là người Pháp tham gia vào các hoạt động của OSS một cách rất chậm chạp và mang theo đầy những chủ trương phá rối. Wampler và tôi tán thành thay thế người Pháp bởi người Việt trong hoạt động phá hoại này nhưng Helliwell vẫn c̣n ngần ngại. Kế hoạch đầu tiên cho nhiệm vụ này đă định để cho toán “Con Mèo” do Holland chỉ huy và toán “Con Nai” do Thomas chỉ huy, mỗi toán được tiếp nhận và huấn luyện 50 binh sĩ Pháp ở Tŕnh Tây.
Helliwell lo ngại về những ảnh hưởng chính trị nếu chúng tôi sử dụng du kích Việt Nam để thay thế cho Pháp và ông cũng không muốn phải thu lại những vũ khí và trang bị đă sẵn sàng cung cấp cho đội quân Pháp để chuyển cho người Việt Nam. Tôi đưa ra lư do là nếu chúng ta sử dụng đơn vị của ông Hồ ở chợ Chu th́ sẽ loại bỏ được việc phải cho đi bộ hoặc chuyên chở người Pháp một quăng đường 25 dặm đến biên giới, cộng thêm 150 dặm nữa để đi tới Hà Nội. Với những đường ṃn trong rừng hiện nay th́ cự ly đó sẽ là gần 250 dặm, nghĩa là 10 đến 15 ngày đi đường. Ngoài ra c̣n phải kể đến những điều thuận lợi quan trọng khác trong việc sử dụng căn cứ và người của Việt Minh cho hoạt động này, như chúng ta sẽ được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và có địa h́nh che chở cực kỳ thuận lợi. Những lợi ích thực tiễn này đă có sức nặng và cuối cùng Helliwell đă đồng ư. Đội quân Pháp của Courthelac đă không bao gị được sử dụng nữa.
Trong lúc này, nhóm GBT cũng có một nhân vật chủ chốt của họ Frankie Tan, ở tại bản doanh của ông Hồ, làm nhiệm vụ thu thập t́nh báo về Nhật và đồng thời cùng với AGAS triển khai mạng lưới giúp giải thoát người của chúng ta. Frankie Tan cũng đang t́m kiếm những người Mỹ bị bắt đă chạy thoát trong khu tam giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn, nơi trung tâm các hoạt động chống Nhật của ông Hồ. AGAS đă lập được một mạng luới vô tuyến trên suốt đất nước, từ Hà Nội đến Sài G̣n, thống nhất theo kế hoạch của OSS. Chúng tôi đề nghị với Wichtrich của AGAS cùng nhau hợp tác với Hồ Chí Minh và tiến hành những hoạt động độc lập đối với người Pháp. Wichtrich đồng ư và chỉ định một trung úy trẻ tuổi tên là Phelan gánh vác nhiệm vụ của AGAS và làm liên lạc giữa OSS và Việt Minh cho đến khi toán “Con Mèo” và toán “Con Nai” của chúng tôi đến căn cứ của ông Hồ.
Sau khi Sainteny đă ra lệnh đ́nh chỉ hoàn toàn cộng tác của người Pháp với OSS và sau khi điện đài ở Pakhoi im tiếng, tôi mới yêu cầu Trương Quốc Anh, một trong số các đầu mối tiếp xúc với Việt Minh của tôi, báo cho ông Hồ biết rằng tôi rất quan tâm đến đề nghị của ông và đồng ư là sẽ có một toán người Mỹ, do một sĩ quan cao cấp đứng đầu, sẽ được thả dù xuống vùng Tuyên Quang.
Trong khi nói chuyện, ông báo cho tôi biết là thiếu tá Sainteny đă kết giao với Nguyễn Tường Tam. Tôi thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lănh tụ của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đă được một nhân viên Pháp Việt trong toán “Con Nai” xác định là đúng.
Ngày 30-6, tôi nhận được trả lời của ông Hồ đồng ư tiếp nhận toán của chúng tôi và yêu cầu được biết khi nào th́ người Mỹ có thể đến. Trong tḥi gian đó Phelan đă được thả xuống khu vực Tuyên Quang và đă gặp được Frankie Tan.
Chúng tôi báo cho thiếu tá Davis ở Posech biết về sự thay đổi trong kế hoạch và gợi ư Davis cho máy bay đưa các cán bộ của toán “Con Nai” và “Con Mèo” đến vùng Tuyên Quang, ở đó AGAS và GBT đă cho chuẩn bị sẵn những địa điểm thả dù. Tôi yêu cầu Davis nhắc nhở Thomas và Rolland phải sửa lại kế hoạch đầu tiên định thu nạp binh lính Pháp vào trong nhiệm vụ của họ và cũng báo cho Davis biết là chúng tôi đă có tin tức xác thực của Việt Minh nói rằng một đội quân du kích cỡ lớn đă sẵn sàng ở địa điểm thả dù, mặc dù họ có xu hướng chính trị mác xít, nhiệm vụ trước mắt của họ là chiến đấu chống Nhật và đó cũng là điều quan tâm chủ yếu đối với hoạt động của chúng ta. Nhưng cũng phải sau ít nhiều nhầm lẫn và cả một mớ điện tín qua lại giữa Posech và Côn Minh, Thomas mới rút ra được kết luận là một hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ có thể không được người Việt Nam hoan nghênh.

CĂN CỨ TRONG RỪNG CỦA ÔNG HỒ

Thomas đă quyết định tự ḿnh đi trinh sát t́nh h́nh trước khi cam kết cho người Pháp hay người Việt tham gia toán của ḿnh. Ông tổ chức một tổ phái đi trước gồm có bản thân Thomas, trung úy Montfort thuộc quân đội Pháp, hai binh nh́ người Mỹ và hai người Việt Nam được giới thiệu nguyên là đội(1) trong quân đội Pháp. Cuối buổi chiều ngày 16-7, nhóm này được thả dù xuống vùng lân cận làng Kim Lũng, cách Tuyên Quang khoảng 20 dặm về phía đông. Cuộc thả dù được tiến hành một cách trôi chảy, trừ việc Thomas, Montfort và một lính Mỹ đă bị rơi một cách không hay vào những ngọn cây và phải nhờ người ta gỡ xuống đất. Theo Thomas th́ lúc đó ông ta được nghênh tiếp bởi khoảng 200 người trang bị bằng “súng trường Pháp, mấy khẩu Bren, carbin, tiểu liên và mấy khẩu Sten”. Thomas đă tả lại và coi điều đó như là “một ủy ban đón tiếp gây xúc động rất sâu sắc”.
Báo cáo đầu tiên của Thomas đă được thêm thắt vào: “Khi đó tôi được đưa đến gặp ông Ḥe, một trong những người lănh đạo lớn của Việt Minh. Ông Ḥe nói tiếng Anh rất tuyệt nhưng người ốm yếu v́ mới cuốc bộ từ Tŕnh Tây về. Ông tiếp đón chúng tôi hết sức thân thiết. Rồi chúng tôi được chỉ đến khu vực dành riêng cho chúng tôi, một cái cḥi tre đặc biệt gồm một cái sàn bằng nứa làm cách mặt đất vài feet, mái lợp bằng lá gồi. Bữa ăn chiều hôm đó có bia (mới thu nhặt được), măng tre, thịt ḅ thui. Họ vừa mới giết một con ḅ để dành chiêu đăi chúng tôi”.
Từ sớm tinh mơ ngày hôm sau, một sĩ quan M.5 đă đến t́m tôi báo tin thiếu tá Thomas và trung úy Montfort đă bị du kích Việt Minh bắt giữ. Tôi nói cho ông ta yên trí là không phải như vậy và tôi đă được Thomas báo cáo là việc thả dù đă được thực hiện đúng như kế hoạch đă định. Người sĩ quan có thể vẫn chưa yên tâm và đă tiết lộ với tôi là Montfort và hai người Việt Nam tên là Logos và Phác đều là nhân viên của M.5 phái đi làm “nhiệm vụ đặc biệt”. Ông rất lo lắng cho an ninh của họ và phát biểu mong được OSS bảo đảm cho họ được trở lại một cách an toàn thuộc quyền chỉ huy của người Pháp trong một thời gian tốt nhất có thể được.
Trong những ngày đó, tôi đă được biết là M.5 chú ư t́m cách tiếp xúc với Hồ Chí Minh và đă yêu cầu Gordon thuộc nhóm GBT thu xếp cho một cuộc gặp gỡ. M.5 đă chỉ thị cho thiếu tá Rivol, nhân viên M.5 ở Tŕnh Tây theo dơi cuộc thu xếp của nhóm GBT, và đă cử Montfort đi cùng Thomas đến bản doanh của ông Hồ. Thực không may cho M.5, vốn có xu hướng thích chạy theo các hoạt động bằng cửa sau, khi Montfort đến Kim Lũng được ngụy trang như một sĩ quan Mỹ th́ cái tṛ giả dối này đă bị thất bại, v́ Montfort gần như ngay tức khắc, đă bị nhận mặt bởi một du kích Việt Minh trước đây không lâu đă phục vụ dưới quyền ông trong đội quân thuộc địa Pháp.
Thomas đă viết trong bản báo cáo đầu tiên: “Đă có một cuộc họp dài với ông Hồ…, về vấn đề người Pháp”. Ông Hồ đă nói với Thomas bằng một giọng quả quyết rằng “sẽ không thể để cho trung úy Montfort, một sĩ quan Pháp ở lại, cũng như bất cứ người Pháp nào đến nữa cũng sẽ không được hoan nghênh”. C̣n đối với binh lính Việt nam (đi cùng người Pháp), ông Hồ đồng ư cho họ ở lại nhưng ông không tin là người Pháp sẽ buông tha họ. Điều đó lại trở thành vấn đề.
Trong khi chờ để được đưa về Posech, viên “đội” Pháp mấy ngày sau đó lại bị một du kích Việt Minh phát hiện ra là một đảng viên Việt Narn Quốc dân đảng, một đảng quốc gia thân Trung Quốc. Trong khi bị hỏi, Phác đă thú nhận là người trung gian đứng thu xếp cuộc gặp gỡ ở Côn Minh (đă nêu ở phần trên) giữa thủ lĩnh của M.5 và Nguyễn Tường Tam. Để biện bạch trong t́nh trạng khó khăn nguy hiểm lúc đó, Phác đă nói với những người Việt Nam tra hỏi hắn rằng hắn đă đi theo Montfort với hy vọng là Việt Minh sẽ để hắn ở lại và đánh Nhật. Tất nhiên những người Việt Minh đă có những nhận xét khác về vấn đề này, và viên “đội” hay “thiếu úy” Phác đă bị giam giữ chặt chẽ cho đến khi được dời khỏi nói đây.
Ngày 31-7, Montfort và hai người Việt Nam đă được dời đi cùng với 20 người Pháp lánh nạn t́m thấy ở một làng gần khu vực AGAS hoạt động. Số người Pháp này đă được du kích Việt Minh giải thoát ngày mùng 4-7 tại một trại tập trung thường dân của Nhật ở Tam Đảo. Montfort đă dẫn những người đi bộ theo đường ṃn cho tới biên giới, c̣n đàn bà và trẻ con th́ được chở bằng máy bay sang Trung Quốc.
Ngay trong ngày Thomas tới, ông Hồ thường xuyên t́m bắt “cơ hội thuận lợi” đă nắm lấy dịp có mặt người Mỹ để bắt liên lạc với người Pháp ở Trung Quốc. Ông đă yêu cầu Thomas báo cho nhà chức trách Mỹ biết rằng “Mặt trận Việt Minh vui ḷng muốn nói chuyện với một sĩ quan cao cấp Pháp nào đó, như tướng Sabattier chẳng hạn (sic), để biết những ǵ mà người Pháp muốn đề xuất ra”. Mấy ngày sau, AGAS ở Côn Minh báo cho tôi biết đă nhận được một điện tín của ông Hồ nhằm gửi cho các nhà chức trách Pháp và nói rằng ông Hồ sẽ hoan nghênh một cuộc nói chuyện với một quan chức cao cấp Pháp, đặc biệt là về vấn đề tuyên bố của De Gaulle liên quan đến Đông Dương mà ông Hồ cho rằng c̣n có một số điểm không rơ ràng. Tôi gọi ư cho AGAS chuyển bức diện cho M.5, nhưng sau đó tôi nhận biết ở đây người ta đă tiếp nhận nó một cách khá lạnh nhạt.
Ngày 25-7 Thomas lại báo cáo, cho rằng một lần nữa ông Hồ đă tỏ ư muốn nói chuyện với người Pháp, hoặc ở Côn Minh hoặc ở Bắc Kỳ, về một yêu cầu cải cách năm điểm gửi cho Chính phủ Pháp. Đó là:
“Chúng tôi, Mặt trận Việt Minh, yêu cầu người Pháp cho công bố và ghi vào trong chính sách tương lai của Pháp ở Đông Dương các điểm sau đây:
1. Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu ra một nghị viện để quản lư đất nước, có một viên Toàn quyền người Pháp làm chủ tịch cho đến khi chúng tôi hoàn toàn đuợc độc lập. Viên Toàn quyền sẽ lập ra nội các hay đoàn cố vấn được nghị viện chấp nhận. Quyền hành chính xác của các quan chức nói trên sẽ được thảo luận sau.
2. Độc lập phải được ban bố cho đất nước, trong ṿng ít nhất là 5 năm, nhưng không quá 10 năm.
3. Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại cho nhân dân trong nước thông qua một sự đền bù thỏa đáng.
4. Mọi quyền tự do do Liên Hợp Quốc đề xuất ra được đảm bảo thi hành cho người Đông Dương.
5. Cấm chỉ việc bán thuốc phiện.
Chúng tôi hy vọng rằng các điều khoản trên sẽ được Chính phủ Pháp chấp nhận”.
Thomas đă gửi bức điện trên của ông Hồ cho Davis ở Posech để chuyển cho AGAS Côn Minh tiếp theo với bản thứ nhất. Ở đó họ đă chuyển ngay bức điện thứ hai này cho phái đoàn quân sự Pháp.
Dù cho các điện tín của ông Hồ đă không được đáp lại và không được công nhận, đến một chừng mực nào đi nữa th́ vai tṛ chúng tôi cũng chỉ là thực hiện một dịch vụ, tránh không để cho bị lôi kéo vào việc ủng hộ thiên vị cho bên này hay bên kia. Nhưng cũng thật là thú vị mà phản ảnh rằng các yêu cầu nhũn nhặn của Việt Minh, mặc dù là người Pháp không thể chấp nhận được, cũng đă có thể sử dụng được để làm cơ sở thích hợp cho một cuộc thương lượng. Thực vậy, cả hai bản đề nghị gặp gỡ trên những cơ sở nghiêm chỉnh nói trên cũng chỉ là những dự định đầu tiên trong nhiều lần của người Việt Nam để thương thuyết với người Pháp với tư cách là người đại diện cho tương lai đất nước họ. Thật quá rơ ràng là sự không khoan nhượng của Pháp đă làm cho mọi dự định muốn thương lượng trở thành không có kết quả.
Từ đó về sau, việc người Pháp tham gia nhiệm vụ toán “Con Nai” được chấm dứt và toán của thiếu tá Thomas ở lại với những người du kích Việt Minh cho đến tận khi họ về tới Hà Nội ngày 9-9-1945. Trong 7 tuần lễ ở đây, Thomas và các chuyên viên người Mỹ đă để ra 4 tuần để huấn luyện cho khoảng 200 người được lựa chọn kỹ lưỡng để làm cán bộ lănh đạo tương lai cho quân đội của các tướng Chu Văn Tấn và Vơ Nguyên Giáp về việc sử dụng những vũ khí Mỹ mới nhất và chiến thuật đánh du kích. Một số chúng tôi cũng đă có nghĩ tới việc trong tương lai những vũ khí và sự huấn luyện đó có thể sẽ được sử dụng để chống lại người Pháp, nhưng không một ai lại tưởng tượng được rằng chúng sẽ có bao giờ có thể được dùng để chống lại người Mỹ.
Chú thích :

(1) cấp bậc tương đương Thượng sĩ nhất

 

 

Chương 14

Những quyết định lịch sử

Vào ngày Hồ Chí Minh và thiếu tá Thomas gặp nhau trong rừng sâu Bắc Kỳ, tôi ở Côn Minh được biết tướng Alessandri đă nhận được những tin khá đau khổ là chương tŕnh viện trợ Vay - Mượn của Mỹ đă không được dành cho ông để trang bị quân đội Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương.
Thiếu tá Sainteny th́ ở đâu bên kia quả đất tại Paris, cũng chẳng đạt được kết quả ǵ trong việc vận động cho Chính phủ của ông ta quan tâm đến t́nh trạng khó xử của Đông Dương. Sainteny đến thủ đô Pháp vào cuối ngày kỷ niệm hạ thành Bastille (14-7) và hy vọng báo động cho “Thủ tướng Chính phủ Cộng ḥa Pháp” (De Gaulle) và các quan chức khác trong chính phủ biết phương hướng nguy hại cho các quyền lợi Pháp ở Đông Dương mà Đồng minh đang theo đuổi ở Viễn Đông. Nhưng tướng De Gaulle lúc đó “très pris”(1) nên không gặp ông được, c̣n giới quan chức Pháp cũng đang bị lôi cuốn vào các vấn đề quốc gia cấp bách hơn là lo toan đến các công việc thuộc địa ở Viễn Đông. Sainteny đă trở lại Trung Quốc với hai bàn tay trắng.
QUYẾT ĐỊNH Ở POTSDAM - VĨ TUYẾN 16

Cách đó không lâu, ở một ngoại ô thành phố Berlin, một lớp đủ mặt các nhà lănh đạo chính trị, quân sự Mỹ, Anh và Liên Xô đă gặp nhau ở Hội nghị Berlin (Potsdam). Các vị đă xúc tiến nhiều cuộc thảo luận quan trọng và kết thúc hội nghị với nhiều quyết định có ư nghĩa sâu xa, lâu dài nhưng không có một quyết định nào có liên quan đến Đông Dương cả. Trong khi đó, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ cũng đă bàn nhiều vấn đề, và trong đó có nhiều điều chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy nhằm mục đích làm giảm bớt cho các cấp chỉ huy và các lực lượng Mỹ trách nhiệm ngặn chặn và càn quét quân Nhật trên các khu vực thuộc phạm vi quyền lợi thực dân của Anh, Hà Lan và Pháp, để cho các chỉ huy Mỹ được rảnh tay tập trung lực lượng vào cố gắng chủ yếu là các chiến dịch đánh vào chính đất Nhật.
Một trong nhiều đường giới tuyến được đưa ra thảo luận có đụng chạm đến Đông Dương. Lúc đầu, tham mưu trưởng Liên quân (Mỹ) đă chọn một đường ranh giói chạy qua 150 vĩ tuyến Bắc, nhưng sau khi trao đổi với Tham mưu trưởng Liên quân Anh và Mountbatten, con đường đă được điều chỉnh lại ở vĩ tuyến 16. Điều đó có nghĩa là để cho Mountbatten có phạm vi hoạt động bí mật rộng răi hơn ở miền nam Đông Dương. Toàn bộ vùng phía bắc con đường nói trên vẫn thuộc Chiến trường Trung Hoa dưới sự chỉ huy tác chiến của Tưởng và Wedemeyer.
Một tuần sau, vào ngày 24-7, đề nghị phân chia ranh giới nói trên được đệ tŕnh cho Truman và Churchill, và được thông qua kèm theo chỉ thị là hai Chính phủ Mỹ và Anh sẽ cùng tiến hành một cuộc vận động để Tưởng đồng ư chấp nhận. Ngày 1-8, Hurley gửi công hàm của Tổng thống báo cho Thống chế biết điều quyết định ở Potsdam và mong rằng sẽ được ông tán thành. Thông điệp của Truman được chuẩn bị một cách chu đáo và nói rộng ra rằng việc phân chia ranh giới chỉ “nhằm cho các inmục đích tác chiến” và không bao hàm một nghĩa rộng nào khác. Mười ngày sau Tưởng phúc đáp lại với một sự đồng ư có điều kiện.
MỘT LỰC LƯỢNG THỨ BA Ở BẮC KỲ

Ông Hồ đă không được các cường quốc ở Potsdam, Paris và Trùng Khánh biết đến, nhưng trong khu căn cứ hẻo lánh của ḿnh ở Bắc Kỳ, ông ráo riết xúc tiến tuyên tuyền, tổ chức, huấn luyện và chỉ đạo các lănh tụ chính trị, quân sự hoạt động cho việc xây dựng một quốc gia mới.
Sau cuộc gặp gỡ với ông Hồ vào tháng 4, tôi nghiên cứu kỹ lưỡng phong trào Việt Minh và vào khoảng trung tuần tháng 6, tôi đă tin chắc rằng đây là một phong trào thực tế, năng động và nhất định sẽ giành được thắng lợi. Dựa trên cơ sở vững vàng, tôi xác định phong trào đă được tổ chức tốt, có mục tiêu chiến đấu rơ rệt và được ủng hộ của dân chúng. Trong các báo cáo gửi cho Heppner, Wedemeyer và Hurley, tôi đă bác bỏ một cách mạnh mẽ những luận điệu của người Pháp cho rằng không có phong trào độc lập thực sự ở Đông Dương, cho đây chỉ là một số ít khiêu khích gây rối loạn và đều là những “tên Cộng sản vô tổ chức” được Matxcơva, Diên An và Trùng Khánh giúp đỡ, xúi giục, hoặc cho rằng “người bản xứ” vẫn trung thành và dân chúng lệ thuộc đang nóng ḷng chờ người Pháp quay trở lại để bênh vực và che chỏ họ chống người Trung Hoa và Thái Lan. Trái lại, tôi đă kết luận là phong trào độc lập chỉ là một bước quá độ để đi đến lư tưởng tối cao là bản năng sinh tồn. Nếu độc lập dân tộc có khả năng bảo đảm sự sống c̣n cho người Việt Nam th́ họ sẽ coi Việt Minh là một sự giải đáp cho họ. Đối với họ th́ dù cho bước quá độ có mang tính chất dân chủ, xă hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa th́ đều chẳng có ư nghĩa quan trọng ǵ. Vấn đề và ở chỗ thoát được cảnh túng thiếu, được hưởng thành quả lao động của chính ḿnh và được sống yên ổn không bị quấy nhiễu.
Trong bản báo cáo của tôi, tôi khẳng định chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương là một trong những điển h́nh xấu xa nhất về chế độ bóc lột công nhân công nhật, coi thường nhân quyền và về sự tham nhũng của người Pháp và trong hơn 3/4 thế kỷ vừa qua, người Việt đă bị bóc lột tàn tệ, bị đối xử một cách dă man, và nói chung, bị sử dụng như là những vật sở hữu của người Pháp. Họ đă chống đối, đánh lại và nổi dậy, nhưng đội quân thuộc địa và sở mật thám Pháp bao giờ cũng thắng thế. Những người bản xứ tích cực nhất, hoặc đă bị giết chết, hoặc đă bị đưa đi đầy khổ sai. Chính t́nh h́nh kinh tế xă hội đó, chế độ thuộc địa đó tạo nên ở đây, đă nuôi dưỡng cho sự bất măn và nổi loạn, và đă sản sinh ra nhiều phong trào quốc gia và các lănh tụ yêu nước, mà trong số này th́ Hồ Chí Minh là một trong những người có ảnh hưởng và hoạt động có hiệu lực hơn hết.
Qua những người Việt Nam ở Côn Minh, tôi được biết rằng khi đă bôn ba 25 năm ở nước ngoài, đă tiếp thụ được ở đó lư thuyết và sách lược Marxism - Léninism, ông Hồ đă trở về nước vào năm 1940 và đă tự đặt cho ḿnh nhiệm vụ tập hợp các nhóm quốc gia khác nhau vào trong tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh. Thấy rơ sự nghèo nàn lạc hậu về kinh tế xă hội của Việt Nam, vốn hoàn toàn chỉ là một xă hội nông nghiệp; đầu tiên ông Hồ đề nghị hăy gạt các quyền lợi địa phương và giai cấp sang một bên để phục vụ cho độc lập dân tộc và tự do đối với chủ nghĩa thực dân. Ông kêu gọi những người đi theo ông chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành lấy chính quyền cho nhân dân Việt Nam.
Trong suốt những năm chiến tranh, Việt Minh đă theo đuổi thực hiện một chương tŕnh huấn luyện, tổ chức và đánh phá các cứ điểm của Pháp - Nhật ở Bắc Kỳ. Sau mỗi chiến thắng, dân chúng địa phương lại tập hợp đi theo Việt Minh và số lượng những người tham gia tăng lên theo cấp số. Hoảng sợ trước phong trào cách mạng, người Pháp đă cho thi hành một chiến dịch khủng bố vào những năm 1943-1944. Đổi lại, Việt Minh đă cho tăng cường công tác giáo dục ở cả hai vùng thành thị và nông thôn, kích động công nhân cũng như nông dân chống lại những sách nhiễu của Pháp và Nhật.
Lúc đó, vào cuối năm 1944 đầu 1945, một nạn đói chưa từng có đă xảy ra ở Bắc Kỳ, làm cho một số rất lớn người chết. Giá gạo tăng vọt lên từ 150 đồng một tấn (tháng 10-1944) tới 500 đồng (tháng 12) rồi 800 đồng (tháng 2-1945). Mặc dù sự thiếu hụt về lương thực ở Bắc Kỳ lúc đó là do mùa màng bị thất bát, nhưng nguyên nhân chính của nạn đói này là do Pháp, Nhật đă cho thi hành một chính sách thu mua lương thực quá tàn bạo. Cộng thêm với việc cướp đoạt gạo trong bữa ăn của ngườ́ Việt Nam bằng cách xuất cảng gạo ra thị trường nước ngoài và cho cất trữ để phục vụ lợi ích buôn bán của người Pháp; chế độ thu mua lương thực đă làm cho nông dân cùng quẫn. Chi phí sản xuất thông thường cho một tấn thóc là khoảng 80 đồng, giá thị trường khoảng 200, nhưng người nông dân khi nộp thóc th́ chỉ được trả chừng 25 đồng. Mặc dù bị mất mùa năm 1944, nông dân vẫn buộc phải nộp đủ xuất gạo của ḿnh, do đó họ phải t́m mua số c̣n thiếu bằng giá cao ở thị trường để nộp cho Pháp, Nhật với giá thu mua hết sức thấp hơn nhiều. Họ đă bị bỏ chết đói và không c̣n nguồn sống. Tất cả những điều kể trên là do Hồ Chí Minh thuật lại cho tôi nghe vào tháng 4-1945.
Khi ông Hồ nói với tôi về nạn đói, tôi đă không nắm chắc được ư nghĩa quan trọng này và những ảnh hưởng lâu dài của nó. Măi nhiều tháng sau tôi mới thông cảm được sâu sắc hơn với mối quan tâm và sự đau khổ của ông Hồ. Ngoài việc gần 2 triệu người bị chết đói, trong đó phần lớn là trẻ em, nạn đói kém đă tàn phá một cách nghiêm trọng sức khỏe của những người Bắc Kỳ c̣n sống sót. Điều đó đă hun đúc ḷng căm thù của họ đối với những kẻ áp bức Pháp - Nhật, và tăng cường quyết tâm chiến đấu và giành lại cuộc sống.
Quyền sống - sự sống c̣n - đó là lư tưởng cao cả nhất của cuộc cách mạng. Phù hợp với điều đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đă đưa ra khẩu hiệu “chiếm kho thóc để cứu đói nhân dân”. Họ đă coi đó là một nhiệm vụ trung tâm để động viên quảng đại quần chúng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Các cuộc chiếm kho thóc đă mang lại những kết quả không lường hết được: cứu đói nhờ có giá gạo hạ, vạch mặt kẻ thù chung là Pháp và Nhật, hướng các mối bất b́nh của nhân dân vào một mục tiêu rơ rệt, khuyến khích nhân dân tổ chức tự vệ cũng như để nắm lấy chính quyền, đề cao sự quan trọng của tổ chức kháng chiến và sự thống nhất hành động, lôi cuốn hàng trăm ngàn người tham gia phong trào cách mạng, tức là Việt Minh.
Khi tôi gặp ông Hồ ở Chiu Chow Chieh, tôi đă không nhận thức được rằng ông đang trên đường trở về Đông Dương để trực tiếp đảm nhận việc lănh đạo một phong trào năng động đang tiến sát đến ngày bùng nổ. Sau đó tôi mới biết ông đă đi thẳng ngay về Tân Trào, và ở đó, ông dựng lên một quốc gia nhỏ bé gồm sáu tỉnh và một phần đất của ba tỉnh khác, cái mà ông gọi là “khu giải phóng Việt Bắc”. Ông cũng đă củng cố lại các đội vũ trang của Chu Văn Tấn và Vơ Nguyên Giáp để thành lập một Quân đội giải phóng thống nhất. Sau đó, ông đă đưa ra một chương tŕnh thời điểm cho khu giải phóng:
- Đánh đuổi Nhật
- Tịch thu tài sản của bọn xâm lược và phản bội để phân phát cho dân nghèo.
- Công bố quyền phổ thông đầu phiếu và các quyền tự do dân chủ.
- Vũ trang nhân dân và kêu gọi họ ủng hộ du kích, tham gia quân Giải phóng.
- Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc trong Khu Giải phóng.
- Thực hiện cứu tế xă hội và cứu trợ các nạn nhân.
- Chia lại công điền, giảm tô và tức, hoăn việc trả nợ.
- Huỷ bỏ thuế và các h́nh thức làm xâu.
- Đấu tranh chống nạn mù chữ, huấn luyện chính trị và quân sự cho nhân dân.
- Bảo đảm b́nh đẳng giữa các dân tộc khác nhau, giữa nam và nữ.
Mặc dù đối với ông Hồ, mọi mục tiêu đều quan trọng, nhưng như tôi sau này đă được biết, ở Hà Nội, số người Việt Nam mù chữ khá cao cũng như tồn tại của các h́nh thức làm xâu, đều là những nguồn gây đau khổ đặc biệt đối với ông.
Các điểm trong chương tŕnh nói trên, trong quan điểm của ông Hồ, đă thể hiện như là một cơ sở cách mạng cho toàn đất nước Việt Nam trong tương lai, và chính các điểm đó đă khích lệ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc. Vào giữa tháng 7 năm đó, ông đă có cơ hội đầu tiên bộc lộ điều mơ ước của ḿnh cho một số ít người Mỹ. Thomas, Phelan, Defourneaux, Hoaglund, Squires và các nhân viên khác của toán “Con Nai” đều hết sức xúc động đến mức đă chấp nhận điều quyết đoán của ông Hồ rằng phong trào đó không phải là Cộng sản.

HỘI NGHỊ CỦA ĐẢNG Ở TÂN TRÀO

Vào ngày 6-8, sự kiện “Hiroshima” đă báo trước kết thúc của cuộc chiến tranh. Trước t́nh h́nh đó, ông Hồ chưa thực sẵn sằng; nhưng khi ông được Thomas cho biết sự sụp đổ của Nhật, ông đă hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng v́ ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở nơi ông muốn như Hà Nội, Huế và Sài G̣n. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rơ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai tṛ lănh đạo và đà phát triển của phong trào. Mặc dù c̣n rất yếu sau một cơn sốt rét và nhiều bệnh tật khác, ông cũng cho triệu tập một cuộc hội nghị các đại biểu Đảng và các lănh tụ chính trị Việt Minh.
Ngày 13-8, các đại biểu bắt đầu tới Tân Trào. Tất cả không phải đều đă có thiện ư đối với ông. Nhiều người thắc mắc về địa vị đứng đầu mặc nhiên của ông trong phong trào quốc gia. Một số lại hơi ngại về những tin đồn ông được Đồng minh ủng hộ. Một số khác khao khát địa vị lănh đạo cho bản thân ḿnh. Mặc dù sức khỏe rất kém, ông Hồ vẫn tỏ ra tự tin, tươi vui, phấn khởi, tự thân đón chào một cách nồng nhiệt từng người mới đến. Ông đi lại giữa mọi người, trao đổi tin tức, quan điểm và ôn lại các câu chuyện cũ. Trong cái “cơ quan và hành dinh” hỗn hợp của ông Hồ trưng bày nhiều tranh ảnh trong đó có Lênin, Mao và tướng Chennault với đủ các giải băng, sao, phù hiệu cấp bậc. Nhiều người tham dự hội nghị đă hỏi xem người sĩ quan ngoại quốc này là ai vậy và ông Hồ đă vui vẻ giải thích cho họ.
Đến chiều th́ một số lớn đại biểu đă đến hội nghị. Họ đại diện cho các cơ quan của Đảng từ ba vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, và cũng có một số đại biểu từ ngoài nước trở về. Mưa to và đường sá đi lại khó khăn đă làm cho một số đại biểu phải vắng mặt, một số th́ chắc không nhận được giấy triệu tập.
Công việc đầu tiên phải làm là quyết định về vấn đề khởi nghĩa. Vào buổi tối ngày 13-8, một Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Ủy ban nhận định là thời điểm cho một cuộc tổng nổi dậy và toàn dân đứng lên cầm vũ khí đă đến. Chính trong đêm đó, Ủy ban đă phát bản Quân lệnh số 1, ra lệnh phát động cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày hôm sau, Tổng bộ Việt Minh ra một bản kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Cũng trong ngày hôm đó, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc thảo ra bản Kế hoạch hành động dựa trên 4 phương châm cơ bản: kết hợp mọi hành động quân sự và chính trị, tập trung toàn bộ lực lượng dưới quyền một chỉ huy thống nhất, củng cố hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự và giữ vững liên lạc với lănh đạo. Bản kế hoạch hành động đă hướng dẫn tỉ mỉ việc vận dụng vào thực tế các phương châm công tác nói trên.
QUỐC DÂN ĐẠI HỘI
Liền ngay sau cuộc hội nghị của Đảng, Quốc dân đại hội đầu tiên đă được triệu tập họp vào ngày 16-8.
Dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, Đại hội gồm hơn 60 đại biểu đại diện cho nhiều đảng phái chính trị trong Mặt trận Việt Minh, các tổ chức quần chúng, các dân tộc (thiểu số), các cộng đồng tôn giáo ở Đông Dương và hải ngoại.
V́ Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp. Người ta đă nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân. Trang bị và vũ khí Mỹ của họ c̣n mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất. Ông Hồ vẫn yên lặng một cách khiên tốn nhưng hài ḷng về sự ṭ ṃ và quan tâm của các đại biểu. Với bức ảnh có kèm theo chữ kư của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là Việt Minh và đặc biệt là “Cụ Hồ” đă được Đồng Minh “bí mật ủng hộ”. Trong thâm tâm, chắc ông Hồ đă vui miệng khi thấy toán “Con Nai” đă đến thực đúng lúc, và bằng cách trải loăng nó ra th́ lại thấy h́nh như nhiều hơn lên so với t́nh h́nh thực trạng của nó.
Đại hội đă tán thành nghị quyết về một Cuộc tổng khỏi nghĩa và thông qua Quân lệnh số 1. Trong một phiên họp 2 ngày, Đại hội đă chấp nhận một chương tŕnh 10 điểm, một quốc kỳ có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa một nền đỏ và một bài quốc ca, bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, hoạt động như một chính phủ lâm thời trong quá tŕnh thưa có Tổng tuyển cử toàn quốc.
Ông Hồ, luôn luôn thực dụng, đă lái Đại hội đi tới chỗ tán thành một chính sách thực tế “giành lấy chính quyền từ tay người Nhật và Chính phủ bù nh́n trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và như thế với danh nghĩa là những người chủ của đất nước, chúng ta hoan nghênh đón quân đội đó đến để giải giáp quân Nhật”. Nghị quyết này của Đại hội đă thể hiện sự lo lắng của ông Hồ trước mưu toan t́m kiếm lợi ích của Pháp và Trung Quốc, mối đe doạ mà mọi người đều biết, đối với sự nghiệp của ông do việc khối Pháp, Anh, Hà Lan muốn thu hồi trọn vẹn các thuộc địa cũ của họ. Ông Hồ đă nhận thức được Đồng minh không phải là đồng minh trong thực tế, mà đó chỉ là một sự liên kết với nhau nhằm mở rộng việc bảo vệ các quyền lợi thực dân ở Đông Nam Á. Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, ông Hồ đă thấy trước một cách rất sáng suốt là Trung Quốc sẽ không dễ dàng bỏ qua một cơ hội tốt nào để bóc lột Việt Nam.
Khi kết thúc Đại hội đáng ghi nhớ này, ông Hồ đă đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn với toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn ghi:
“Giờ quyết định số phận đất nước chúnlg ta đă điểm. Toàn dân trong nước hăy nổi dậy, dùng sức mạnh của bản thân chúng ta đế giải phóng cho chúng ta. Các dân tộc trên thế giới đang nô nức thi đua để tiến lên giành lấy độc lập. Chúng ta không cam chịu ở lại đàng sau...
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, nhân dân ta hăy anh dũng tiến lên phía trước”.
Ông Hồ đă kư vào bản kêu gọi với cái tên mà trước đây ông đă dùng khi bắt đầu cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông - Nguyễn Ái Quốc. Lời kêu gọi đánh vào tinh thần yêu nước của người Việt Nam và ông muốn cho họ biết ông vốn là “Nguyễn, ngườ coi t́nh yêu Tổ quốc là đạo đức tối cao”.
Ngày thứ nhất của Đại hội cũng là ngày xuất phát của toán “Con Nai”. Theo chỉ thị của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, một đơn vị dưới quyền chỉ huy của Vơ Nguyên Giáp (được toán “Con Nai” huấn luyện trước) đă rời Tân Trào tiến đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội ở phía Nam. Khi mọi việc chuẩn bị đă sẵn sàng, ông Hồ, vị Chủ tịch mới, đă mời tất cả đại biểu các đảng phái và quan khách đến để quan sát đơn vị Việt Nam hành quân tiến ra ngoài doanh trại, có toán “Con Nai” đi cùng.
Thiếu tá Thomas là một sĩ quan trẻ tuổi, giỏi, nhưng chất phác một cách dễ hiểu trong lĩnh vực đấu tranh giữa các cường quốc thế giới. Thomas và toán của ông cùng với những người Mỹ được rải ra trên khắp Trung Quốc và Đông Dương đă chán ngán và không hài ḷng khi họ thấy bị chính sách của Bộ chỉ huy Chiến trường cấm không được đ̣i hỏi quân Nhật ở địa phương ḿnh hoạt động đầu hàng, hoặc nếu có việc họ muốn xin hàng th́ cũng không được tiếp nhận. Như Thomas đă nêu: “điều đó đă làm cho tôi chán ngán đến cực độ khi tất cả chúng tôi cảm thấy chúng tôi đă phải liều cả tính mạng ḿnh để đến đây nhưng đến nay, khi công việc đă chạy tốt rồi th́ chẳng c̣n ai đếm xỉa đến chúng tôi nữa...” vân vân và vân vân. Một số toán t́nh báo này, hoạt động ở cách xa mọi sự chỉ huy của cơ quan quân sự đến hàng trăm dặm, đă làm ầm ĩ lên hơn thế nữa và đă không tuân theo mệnh lệnh của Chiến trường.
Trong trường hợp của toán “Con Nai”, họ đă làm dịu bớt sự bất măn của ḿnh bằng cách đi theo cùng với bộ đội Việt Minh suốt trên đường về Hà Nội, nhưng chỉ với tư cách là những quan sát viên. Có thể họ đă hoàn toàn lăng quên mất cái ấn tượng họ đă tạo ra được cho ông Hồ một cách chắc chắn là ông đă có được sự ủng hộ “bí mật” của Đồng minh. Nhưng c̣n các đại biểu th́ sau khi Đại hội kết thúc, họ phân tán trở về địa phương, họ lại mang theo cái ấn tượng nói trên cùng với họ đi khắp đất nước.
Chú thích :

(1) rất bận - tiếng Pháp

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

Chương 15

Một cuộc hoà b́nh đến không đúng thời hạn

MỘT CÁI HỘP ĐÀN BẠN ĐƯA TRỐNG RỖNG

Cuộc chiến tranh kết thúc đột ngột làm cho ai nấy đều bị bất ngờ. Khi công tác chuẩn bị cuối cùng để đánh chiếm Fort Bayard, một hoạt động bí mật của chúng ta hoàn toàn không dựa vào Pháp, đang tiến triển tốt và thiếu tá Sainteny đă từ Pháp trở về được gần một tuần th́ chúngg ta nhận được những tin tức choáng váng về quả bom Hiroshima. Ba ngày sau, ngày 9-8, Nga tuyên chiến với Nhật và quả nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki. Tất cả mọi công tác chuẩn bị cho hoạt động Carbonado phải dừng lại, bộ đội đứng yên tại chỗ và tàu bè dàn ra gần Fort Bayard vẫn giữ nguyên vị trí ở ngoài khơi - mọi người chờ đợi sự phát triển của t́nh h́nh sắp tới. Ngày 10-8 (lịch Trung Quốc), chúng tôi nhận được tin không chính thức báo Nhật đă chấp nhận các điều kiện đầu hàng Potsdam.
Vào đầu tháng 8, không ở đâu đă có dấu hiệu là chiến tranh ở châu Á sắp kết thúc. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng c̣n phải đánh nhiều trận nữa mới tới được ngày Chiến thắng, v́ thế mà chúng tôi cảm thấy lúng túng trong một loạt sự việc diễn ra sau đó. Sau khi dư luận của các vụ nổ nguyên tử đă tiêu tan, không một ai ở châu Á lại có thể nghĩ được rằng đây lại là bước đầu của một cuộc đấu tranh mới. Tưởng và Chiến trường Trung Hoa của ông đă được mang một tầm cỡ mới. Thống chế, với tư cách là Tổng tư lệnh Tối cao, muốn được giao hoàn toàn trách nhiệm tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên Chiến trường Trung Hoa - một vấn đề có liên quan trước hết đến người Anh, Nga và cả người Pháp nữa.
Người Anh đă hối tiếc ngay lập tức việc họ đă đồng ư về vấn đề điều chỉnh lại ranh giới các chiến trường. Liên Xô đă không để phí mất thời gian bằng cách điều động quân đội sang bảo vệ các quyền lợi của họ ở Măn Châu Lư. C̣n người Pháp, không được hỏi ư kiến Potsdam, đă hoàn toàn mất tinh thần bởi sự bất lực của bản thân họ.
Ngay trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Jean Daridan, đại biện lâm thời sứ quán Pháp, đă gặp Wedemeyer để yêu cầu cho người Pháp tham gia vào việc chiếm đóng lại Đông Dương và việc chuyên chở bằng đường không cho quân đội Alessandri. Đó là một vấn đề quân sự. Wedemeyer đă thảo luận với tướng Alessandri nhưng đă báo cho ông ta biết là máy bay và xăng dầu không c̣n đủ để chi viện. Ông nói điều tốt nhất ông có thể làm được chỉ là cho phép một phi cơ của Pháp hoạt động giữa sân bay Mông Tự - Côn Minh và Hà Nội để chở những nhân vật quan trọng của Pháp và ông đồng ư là sẽ hỏi ư kiến Thống chế (Tưởng) về các vấn đề khác. Đó là một cử chỉ vô dụng v́ Tưởng đă có quyết định cho phép quân đội Pháp được đi xuyên qua đất liền từ Mông Tự đến biên giới của tỉnh Lào Cai, vượt một cự ly 75 dặm và rồi từ đó đi về Hà Nội thêm 1.000 dặm nữa. Wedemeyer không ở trong tư thế có thể bác bỏ mệnh lệnh của Tưởng. Đối với người Pháp, điều này cũng tương đương như đă bị làm tê liệt ở Trung Quốc, trong khi Trung Hoa một ḿnh chiếm đóng Đông Dương.
Thấy bị thất thế với giới quân sự, Darian liền t́m đến Fllis O. Briggs, cố vấn Đại sứ quán của chúng ta. Darian nói với Briggs rằng ông đă thảo luận về vấn đề địa vị của Pháp với bác sĩ KC. Wu, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và nhận mạnh tới việc t́nh h́nh có thể sẽ có một “hiệu quả hết sức xấu” và gây thiệt hại nghiêm trọng cho mối quan hệ Pháp - Hoa nếu như quân đội Pháp không được phép tiến vào Đông Dương. Đồng thời ông cũng báo trước là sẽ có “rối loạn nghiêm trọng” nếu như chỉ có quân đội Trung Quốc tiến vào đó một ḿnh.
Để tăng thêm sức nặng cho lập luận của Pháp, Darian đă nhắc cho Brigss nhớ là c̣n có chừng 1 vạn tù binh chiến tranh người Pháp ở Đông Dương và quân đội của Alessandri có thể sẽ là những người giúp việc chăm lo đến các nhu cầu của số này. Trả lời của Briggs là chiếu theo các điều kiện đầu hàng th́ người Nhật phải chịu trách nhiệm chuyên chở một cách an toàn các tù binh chiến tranh tới các địa điểm do Bộ chỉ huy Đồng minh quy định. Darian đă rút lui, mất tinh thần và thất vọng. Trong lúc đó, đă có hai sư đoàn Trung Quốc ở gần Nam Ninh được dự kiến chuyển vận vào Đông Dương để thực hiện việc giải giáp, hồi hương và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Đại sứ Hurley, lường trước một cuộc xung đột tiềm tàng trong t́nh h́nh đó, đă khuyến cáo với Bộ Ngoại giao (Mỹ) như sau:
“…Pháp mong muốn gấp rút khôi phục chủ quyền trọn vẹn của ḿnh ở Đông Dương vào một thời điểm sớm nhất có thể được và nh́n một cách không có thiện cảm bất kỳ đội quân Trung Quốc nào tiến vào Đông Dương.
…Người Pháp muốn gỡ thể diện bằng việc chính họ phải được tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật (ở Đông Dương)”.
Đó là một điều không thể được v́ đă có chỉ thị và vấn đề này đang được thi hành, và như Hurley nhận xét, ông cũng như Wedemeyer chẳng ai có quyền ǵ để thay đổi các điều khoản về đầu hàng đă được qui định. Nếu không có Bộ ngoại giao hướng dẫn th́ Hurley đă gợi ư cho Thống chế nên có những cuộc thương lượng trực tiếp giữa hai Chính phủ Trung Quốc và Pháp để cho phép đại diện của Pháp tham gia vào việc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương.
Vấn đề ai là người tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương cũng đă khơi dậy một sự quan tâm to lớn ở các nơi khác. Bộ trưởng Byrnes đă chỉ thị cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho Bidault biết rằng người Nhật sẽ chỉ đầu hàng với Tưởng ở phía Bắc và với Mountbatten ở phía Nam. Điều đó đă bao hàm một ư là việc “phân chia” ở vĩ tuyến 16 bắc là một vấn đề “đơn thuần tác chiến”… và không có một ư nghĩa chính trị nào khác. Ông lại nói thêm rằng chúng ta đă gợi ư cho Chính phủ Anh và Trung Hoa để họ mời đại diện của Pháp tham dự vào buổi lễ tiếp nhận đầu hàng và người Pháp phải giải quyết vấn đề này trực tiếp với các Chính phủ nói trên.
Sự sụp đổ đột ngột của Nhật đă làm bung ra công khai những bất đồng sâu sắc về các vấn đề đất đai thuộc địa mà suốt trong thời kỳ chiến tranh người ta đă phải ḱm chế không nói đến. Anh đă thông báo cho Chính phủ Trung Hoa là Vương quốc Anh đang chuyển quân chiếm và khôi phục lại nền cai trị ở Hongkong, đồng thời cũng đă phái một lực lượng đến Sài G̣n để giữ việc kiểm soát các hành dinh quân Nhật ở đây. Cũng với một thái độ coi thường mà họ vẫn hay dùng để đối xử với người Trung Quốc, người Anh đă thông báo một cách giản đơn cho họ biết rằng các sự kiện xảy ra đă rất ăn khớp với sự điều đ́nh về các đường ranh giới chỉ huy ở Đông Dương và cũng không c̣n việc ǵ phải bàn về vấn đề này nữa. V́ vậy, người Anh cho rằng Chính phủ Trung Hoa sẽ đồng ư về mục tiêu chung của Anh và Trung Quốc ở Đông Dương là sẽ phục hồi lại nền cai trị của Pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Pháp và các quan chức hành chính v́ mục đích trên càng sớm càng tốt.
Người Trung Quốc rất căm phẫn và đă chống lại sự độc đoán của Anh. Tưởng đă thẳng thừng báo cho Anh biết họ chống lại thể thức tiếp thu đầu hàng đă được chấp nhận và ghi trong bản mệnh lệnh chung số 1, và người Trung Quốc không tán thành đề nghị của Anh. Bác sĩ Wu đă gặp Hurley vào ngày 18-8 và trao cho ông một bản sao lời phúc đáp của Trung Quốc ra lệnh cấm người Anh cho quân đội đổ bộ vào bật cứ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa mà không được phép tướng Mac Arthur và Tưởng, nhưng lại bảo đảm là Chính phủ Trung Hoa sẽ tôn trọng tất cả các quyền lợi hợp pháp của Anh và sẽ bảo vệ cho các quyền lợi đó.
Cùng ngày, Tưởng điện cho Tổng thống Truman nhắc lại đề nghị của Anh và lập trường của bản thân ông. Tưởng đă kết luận bằng lời tuyên bố rằng nếu Anh cứ tiến hành các bước đi đă được dự định th́ sẽ là một điều “bất hạnh” lớn cho Đồng minh và gợi ư với Tổng thống thúc ép người Anh phải “kiềm chế đừng để có bất cứ hành động không thể bảo đảm được nào”.
Yêu cầu của Darian với người Tnlng Quốc cho chuyển quân đội Pháp từ Trung Quốc vào Đông Dương đă làm nổ ra một cuộc khủng hoảng khác, nhưng Tưởng cũng đă có thể giải quyết được theo kiểu cách riêng của ḿnh. Tưởng đă đồng ư với Darian sẽ để cho người Pháp quay trở lại phía nam biên giới. Ông ta cho biết lúc đó người Pháp không có phương tiện vận tải dư thừa nên người Pháp muốn th́ họ phải đi bộ, tay cầm tay như trước đây, cùng với lực lượng chiếm đóng của Trung Quốc và dưới sự “điều khiển” của người chỉ huy họ. Sau đó, cứ như là một việc được nhớ tới một cách muộn mằn, Darian lại đươc báo cho biết thêm là ngay sau khi ấn định được thời gian và địa điểm để tổ chức việc tiếp nhận đầu hàng và sau khi đă chỉ định xong viên tư lệnh người Trung Hoa được uỷ nhiệm làm việc đó th́ tướng Alessandri sẽ được mời đi cùng với viên tư lệnh ấy. Điều đó đă thực sự trở thành một cân chuyện rùm beng rỗng tuếch như những tiếng đàn banđua om ṣm.
Đề nghị của Anh và sự bác bỏ đề nghị đó của Trung Quốc đă đặt Tổng thống Truman vào một thế khó xử giữa hai đồng minh. Thủ tướng Atllee đă điện cho Tổng thống, yêu cầu sửa lại chỉ thị trước đây của Tổng thống cho Mac Arthur để cho phép người Nhật giao nộp Hongkong cho người Anh. Ông ta lấy cớ là thuộc địa Anh không thể được giải thích là “thuộc Trung Quốc” v́ đó rơ ràng là vùng đất đai thuộc chủ quyền Anh, không có liên quan ǵ đến vấn đề ranh giới, quân sự của chiến trường. Nhưng người Anh cũng báo cho Tưởng biết rằng sự có mặt của một đại diện Trung Quốc trong việc tiếp nhận đầu hàng cũng vẫn sẽ được “hoan nghênh”.
Dù sao đi nữa th́ Hurley cũng vẫn cứ bực tức. Ông đă nhận được một bản sao lời phúc đáp của Anh cho người Trung Quốc, trong đó có nói trong khi Đại sứ quán Anh gửi bản đề nghị đầu tiên cho Trung Quốc th́ họ chưa được xem bản Mệnh lệnh chung số 1 nhưng v́ thiện chí họ đă báo cho Trung Quốc biết những ư định của họ. Vào cuối giờ buổi sáng hôm đó(1), Đại sứ quán chúng ta được thông báo cho biết là Chính phủ London khăng khăng đ̣i quân Nhật ở Hongkong phải đầu hàng người Anh nhưng lại chịu nhượng bộ ở Đông Dương và sẽ tuân theo những quyết định trong Bản Mệnh lệnh chung số 1 với điều kiện là người chỉ huy cao cấp nhất của Nhật ở Sài G̣n phải đầu hàng người Anh c̣n người Trung Quốc sẽ tiếp thu ở Hà Nội việc đầu hàng của các chỉ huy Nhật cấp dưới phụ trách vùng phía bắc thuộc chiến trường Trung Hoa. Để xoa dịu, người Anh sẽ mời một đại diện Trung Quốc đến dự buổi lễ tổ chức tại Sài G̣n.
Điều tôi được nghe sau hết về cuộc căi lộn này trước khi tôi đi Hà Nội là Tổng thống đă làm áp lực đối với Tưởng, bắt phải chấp nhận yêu cầu của người Anh. Ngày 21-8, ông đă điện cho Tưởng biết rắng vấn đề Hongkong “trước hết là một vấn đề mang tính chất tác chiến quân sự” và đó không phải là vấn đề chủ quyền của người Anh như người Trung Hoa đă nêu lên. Sau khi chuyển tới Tưởng một ít lời hoan nghênh về sự thông cảm và hợp tác của Tưởng, Tổng thống đă kết luận rằng phương thức mới được sửa lại “đă đưa ra một cách giải quyết hợp lư”.
Hai ngày sau, Tưởng đáp lại là ông “đồng ư uỷ quyền” của ông cho một chỉ huy người Anh và kết luận: “Ngài Tổng thống, tôi đă làm như vậy là xuất phát từ ḷng mong muốn lớn được cộng tác với ngài về mọi mặt mà tôi có khả năng. Tưởng Giới Thạch.”
Truman đă công nhận sự khuất phục của Tưởng trước thực tế của t́nh h́nh: “Xin nhận lấy sự đánh giá cao của tôi về hành động chung của ngài đối với việc Nhật đầu hàng một chỉ huy người Anh ở Hongkong. Hành động đó của ngài đă giúp gỡ được một t́nh huống khó khăn”.

CÁC TOÁN “MERCY” NHÂN ÁI

Khi chiến tranh kết thúc có độ 2 vạn tù binh chiến tranh người Mỹ và Đồng minh, và khoảng 1,5 vạn thường dân bị cầm tù trong tay người Nhật. OSS đă xác định được chỗ của họ bị giam ở các vị trí tại Mân Châu Lư và Nam Triều Tiên đến Đông Dương. Các nhà chức trách Đồng minh rất lo lắng về việc quân đội bại trận Nhật có thể trả thù đối với những người họ đă bắt giữ hoặc có thể ngưng tiếp và cung cấp thuốc men để cho họ chết khi người Nhật rút lui. OSS đă nhận được chỉ thị phải chuẩn bị kế hoạch cho một chiến dịch cứu trợ và đến cuối tháng Bảy, chúng tôi đă tổ chức ra một số toán kiểu biệt kích được gọi chung là các toán “Mercy”. Nhiệm vụ của các toán này là nhảy dù xuống các trại tù binh chiến tranh trước khi cuộc xung đột kết thúc, đảm bảo an ninh cho tù binh, ngăn chặn mọi sự hành hạ và thu dọn các sân bay ở gần đó để nhanh chóng chuyên chở tù binh đi bằng đường không. Đối với OSS th́ các toán này cũng sẽ tạo cơ hội thuận tiện để theo dơi các mục tiêu t́nh báo và hoạt động chiến tranh chính trị sau khi địch đầu hàng. Chưa ai có thể đoán trước được phản ứng của Nhật ra sao, nên hoạt động cứu trợ này đă được ấn định tiến hành theo 5 bước: trước hết là bắt liên lạc với các trại đă được lựa chọn để xác định số lượng và t́nh h́nh thể lực của tù binh, bước thứ hai là đơn vị Mountbatten cho in những truyền đơn để thả xuống báo cho Nhật biết là một toán OSS sẽ tới v́ mục đích nhân đạo, sau đó các toán sẽ được thả dù xuống các nơi có trại giam, kèm theo việc thả dù các đồ tiếp tế, cuối cùng là tù binh hoặc các người bị giam sẽ nhanh chóng được sơ tán đi.
Khi có tin Nhật đầu hàng th́ OSS cũng đă sẵn sàng. Đội Không quân thứ 14 đă cung cấp máy bay và mọi thứ cần thiết cho 4 đợt xuất kích từ Hsian (San) vào Bắc Kinh, Weihsien, Harbin và Mukden. Ngày 15-8, 3 trong số 4 toán Mercy đă được tung đi, nhưng chuyến bay về Harbin phải huỷ bỏ v́ chúng ta không giải thích nổi điều đó cho người Nga rơ. Toán hạ xuống Mukden đă được người Nhật báo cho biết là những cuộc đổ bộ sau này phải đuợc thu xếp trước với họ. Suốt trong 7 ngày sau, lại có thêm 3 toán bổ sung nữa được gửi đến Thương Hải, đảo Hải Nam và Hà Nội. Tôi cầm đầu toán bay đi Hà Nội.
Khi chúng tôi chuẩn bị được nửa chừng, chúng tôi dồn dập nhận được rất nhiều điện tín của các đơn vị OSS phân tán ở các nơi, yêu cầu cho phép họ được giữ một cách đầy đủ vai tṛ của những người chiến thắng. Vấn đề đầu hàng của người Nhật ở bất kỳ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa đều là việc dễ gây rắc rối cho Bộ chỉ huy Mỹ. Trong bất kỳ trường hợp nào chúng tôi cũng không được cho phép quân đội Mỹ chấp nhận, dù chỉ là một sự đầu hàng của một đơn vị, mà không có sự đồng ư của Trung Quốc. Và thực tế chúng tôi đă làm như vậy. Đối với quân đội Mỹ mà cũng bị kích động và phản ứng với các điều khoản đầu hàng như thế th́ người ta cũng có thể tưởng tượng được là các điều khoản đó đă xúc phạm đối với những người Pháp kháng chiến theo De Gaulle ở Trung Quốc như thế nào, và những cố gắng của họ nhằm phá bỏ các mệnh lệnh hiện hành cũng có thể trở thành dữ dội ra sao.
MỘT PHÁI ĐOÀN TỰ PHONG

Sau cuộc ném bom Nagasaki mấy ngày, Sainteny đă yêu cầu gặp tôi v́ có việc khẩn cấp. Tôi không được nghe nói tới ông ta kể tới khi ông ta ở Paris trở về, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên mà cũng chẳng hào hứng ǵ đối với yêu cầu của ông. Chúng tôi đă gặp nhau tại trụ sở của tôi vào ngày 12-8. Lúc đó ông ta có Flichy đi cùng và đă thể hiện có một thái độ không cứng nhắc như trước.
Với một phong cách ít nhiều nhún nhường, ông đi thẳng vào vấn đề. Ông thừa nhận một cách buồn bă là chiến tranh đang đi đến chỗ kết thúc, vượt lên trên dự kiến của người Pháp, do đó, cần thiết phải sửa đổi lại các kế hoạch của Pháp để đối phó với t́nh h́nh đang thay đổi. Theo Sainteny, chính phủ Pháp đă không chuẩn bị thành lập một chính phủ quân sự mà cũng chẳng đặt ra bộ máy cai trị lâm thời của người Việt Nam, do người Pháp đỡ đầu, chủ yếu chỉ v́ Pháp “đă không được phép” tập trung lực lượng quân đội của Pháp sang Viễn Đông.
Tôi đă hỏi ông về những chỉ thị ông đă nhận được từ Paris về việc Pháp trở lại Đông Dương. Ông ta buột miệng trả ḷi “không có ǵ”, nhưng sau đă giải thích thay vào đó là ông đă nhận được chỉ thị của đại tá Rose ở Ấn Độ và ông này có liên lạc trực tiếp với Paris. Chính sách của Pháp, theo ông nói, là giữ một thái độ bị động trước việc chiếm đóng lại Đông Dương v́ người Pháp không có khả năng thực hiện việc trở lại với một cuộc biểu dương “lực lượng vơ trang hùng mạnh”.
Kế hoạch trước mắt của ông là “thăm ḍ các lực lượng khác nhau ở Đông Dương” trước khi toan tính cho người Pháp quay trở lại. Để làm việc đó, Chính phủ Pháp đă chỉ định một “Ủy ban” ba người: Sainteny, với tư cách là thủ trưởng DGER/Côn Minh; Tổng thanh tra các thuộc địa (không nêu tên); giám đốc công dân vụ Pierre Mesmer, lúc đó ở Calcutta, đang chờ được đưa tới Trung Quốc. Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp xúc với các lănh tụ Việt Nam ở địa phương và điều đ́nh với họ theo những “điều khoản có lợi cho người Đông Dương”. Theo Sainteny th́ “Ủy ban” được trao quyền thương lượng và cam kết thay cho Chính phủ Pháp. Những điều đạt được và những điều khuyến cáo của Ủy ban sẽ được chuyển tới De Gaulle, các Bộ trưởng ngoại giao và thuộc địa và cho Chính phủ Pháp. Ông đă được “bảo đảm” là các điều cam kết của Ủy ban sẽ được chính phủ Pháp tôn trọng, hoặc nếu cần th́ có sửa đổi chút ít.
Trong lúc ấy, Sainteny nhắc lại, Chính sách của chính phủ Pháp là nhằm “làm dịu bớt” việc quay trở lại của người Pháp cho thích hợp với t́nh h́nh. Ông nói với tôi, ông muốn làm một chuyến bay mở đầu đến Hà Nội, cùng với 4 hay 5 nhân viên trong Bộ tham mưu của ông. Ông cũng muốn bắt liên lạc với nhân viên của ông, thiếu tá Blanchard, đă được phái đến vùng Hà Nội ngày 8-8, và qua người này, Sainteny sẽ bắt mối với các lănh tụ địa phương. Ông dự định sẽ ở lại Hà Nội 48 tiếng, sau đó trở về Côn Minh báo cáo những điều ông đă thấy cho hai ủy viên khác của Ủy ban, cũng như với Tổng đại diện quân sự, tướng Alessandri. Rồi Ủy ban sẽ báo cáo tổng hợp các điều phát hiện được cùng với các lời khuyến cáo cho Chính phủ Paris; và trên cơ sở đó, cả ba người sẽ đến Hà Nội để thành lập một bộ máy cai trị lâm thời của người Pháp “với sự tán thành của người Đông Dương”.
Sainteny đă nói rộng ra ít nhiều về lập trường của Pháp. Nếu như những cuộc thương lượng dự định bị thất bại hoàn toàn, Chính phủ Pháp sẽ không có hành động ǵ và để hoàn toàn cho Mỹ và Anh lập lại trật tự ở Đông Dương. Ông bảo, “Ủy ban” cảm thấy chắc chắn rằng, người Mỹ cũng như người Anh đều không chuẩn bị hoặc muốn duy tŕ những lực lượng chiếm đóng ở Đông Dương, mà sẽ chỉ để cho người Trung Quốc và người Pháp làm việc đó.
Theo Sainteny, nếu người Trung Quốc được lựa chọn, th́ người Pháp tin chắc rằng Thống chế sẽ cử tướng Trương Phát Khuê làm đại diện của ḿnh để tiếp nhận việc đầu hàng của người Nhật ở Hà Nội. Ông nghĩ rằng Trương sẽ được hâm mộ hơn các tướng của Thống đốc Long Vân, nhưng người Pháp vẫn c̣n sợ xảy ra những vụ cướp bóc, tàn phá quy mô lớn và cũng có thể nổ ra xung đột với người Việt Nam.
Như vậy, lại có khả năng người Nhật lúc đó sẽ xin hàng theo người Việt. Đó cũng sẽ vừa là một điều tai hoạ và cũng là một điều may mắn. Sainteny tin chắc rằng trong trường hợp đó, người “Annam” sẽ không có khả năng để đối phó với t́nh h́nh, sẽ xảy ra rối loạn và từ đó sẽ mong muốn mạnh mẽ cho người Pháp quay trở lại, ít nhất cũng trong một thời gian.
Sainteny cũng kể lể dài ḍng đến lời tuyên bố về Đông Dương của Bộ trưởng thuộc địa ngày 24-4, hứa điều mà Sainteny coi như là “các quyền tự do dân chủ”, một sự độc lập hoàn toàn về kinh tế đối với những quyền lợi và sự kiểm soát của Pháp. Ông đă nhắc đi nhắc lại là Chính sách của Pháp là một “nền cai trị tự do” nhất, vượt xa những mơ ước ngông cuồng nhất của ngay cả “những người Annam cấp tiến nhất”. Sainteny đă kết luận với một câu hỏi: “OSS có thể giúp cấp cho tôi một máy bay để đi làm nhiệm vụ ở Hà Nội được không?”. Và, ông nói tiếp “Ồ, đúng như vậy! Người Pháp sẽ mặc quân phục Mỹ hoặc thường phục”.
Rơ ràng là người Pháp đă bị mắc kẹt. Họ đă không được trang bị mà cũng chẳng được chuẩn bị ǵ cho một cuộc tiếp quản bằng quân sự thuộc địa cũ của ḿnh. Tất cả điều ǵ mà Sainteny có thể làm được trong hoàn cảnh đó, sẽ chỉ là nhanh chóng thiết lập được một kiểu có mặt nào đó của người Pháp trong khi chờ đợi sự ủng hộ và chỉ thị của Paris. Hy vọng của ông trong việc dựng lên một chính quyền Việt Nam lâm thời thân Pháp với sự giúp đỡ hữu nghị của những người Quốc dân đảng quốc gia (thân Trung Quốc) sẽ chỉ là một hành động chống đỡ mạnh mẽ; nhưng h́nh như ông lại không biết được rằng tinh thần chống Pháp của người Việt Nam đă được kết hợp lại trong một mặt trận chính trị vững mạnh, Mặt trận Việt Minh.
C̣n về yêu cầu OSS chuyên chở và người Mỹ che dấu th́ tôi nói với Sainteny là tôi hiểu vấn đề của ông, và gặp trường hợp tương tự, tôi sẽ phải dùng thử những biện pháp như thế; nhưng việc nhờ người Mỹ che dấu là hoàn toàn không thể đặt thành vấn đề, v́ nó sẽ đem lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về ngoại giao. Ư kiến của Sainteny về việc người Nhật đầu hàng người Đông Dương là không có căn cứ. Người Nhật đă được lệnh chỉ đầu hàng những chỉ huy Đồng minh được chỉ định về việc này, và người Việt Nam không thuộc vào hàng các người đó. Tôi nói với Sainteny rằng tôi không tin là Chiến trường lại muốn chuyển một máy bay dùng vào các kế hoạch của các toán Mercy sang làm một việc khác, nhưng tôi cũng sẽ chuyển lời yêu cầu của ông cho Chiến trường. Trước khi ra về, Sainteny cám ơn tôi đă nghe ông ta một cách có thiện cảm và gợi ư là ông và người của ông có thể được ghép vào toán Mercy đi Hà Nội. Tôi hứa là sẽ khêu gợi vấn đề đó với Bộ chỉ huy và cũng ngay chiều hôm đó, tôi chuyển yêu cầu của Sainteny đến OSS/Trùng Khánh. Hai ngày sau, tổng hành dinh của Wedemeyer đáp lại rằng việc cho người Pháp tới Hà Nội trong chuyến bay của toán Mercy là không mang lại lợi ích ǵ và sự có mặt của người Pháp ở Hà Nội đang được thu xếp “trong một thời gian thích hợp”.

MỘT TRỞ NGẠI KHÔNG ĐÁNG KỂ DO TRỜI MƯA

Thực tế chỉ trong ngày một ngày hai mà khu cư trú của chúng tôi ở Côn Minh đă thay đổi từ một trung tâm chỉ huy quân sự thành một tiền đồn cho việc chỉ đạo chính trị. Những phần tử ngoại quốc - Pháp, Hà Lan, Anh và Trung Quốc - trước đây được nguỵ trang cẩn thận, nay lộ mặt xuất hiện tại hành dinh của OSS để chuẩn bị cho các công tác sau chiến tranh, hoặc phải đặc biệt xử lư việc này hay việc khác. Nhân viên OSS chúng tôi bận rộn chẳng kém ǵ những ngày c̣n chiến tranh.
Lúc đó trời mưa. Trong những ngày đầu tháng 8 mưa c̣n nhỏ, nhưng càng ngày càng trở nên dữ dội. Giữa tháng 8, mưa to đă gây thành một trận lụt tệ hại nhất. Côn Minh biến thành một cái hồ lớn.
Nhưng trận lụt cũng không ngăn cản được sự chuẩn bị sôi nổi của toán Mercy, mà cũng chẳng làm nhụt chí được những người Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam trong việc vật lộn một cách vất vả với bản báo cáo “bí mật”, các sơ đồ và đề nghị về các sự nghiệp khác nhau của họ. Nổi bật nhất là những người Việt Nam, họ yêu cầu được đối xử một cách đặc biệt và yêu cầu được sự ủng hộ của Đồng minh, đặc biệt là của Mỹ.
Người phát ngôn của Việt Minh nghiêm chỉnh đề nghị biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và thúc ép Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt cả người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng lại Đông Dương của Đồng minh. Đại diện của Hồ Chí Minh rất lo lắng về kế hoạch chiếm đóng của Trung Quốc. Họ sợ rằng những người láng giềng phương Bắc sẽ trở thành những kẻ đi chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng sự cướp bóc, tước đoạt. Người Pháp đồng ư với những mối lo lắng nói trên, nhưng thêm vào đó lại muốn giữ độc quyền về cai trị cho bản thân ḿnh.
Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội đă gửi đến một công hàm để giải thích rơ lập trường của họ, trong đó có đoạn viết:
“Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để ḥng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức; th́ nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng,, chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị, th́ họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác.
Tổng bộ mong muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết là nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ, người bảo vệ chế độ dân chủ, sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng cách sau đây:
1. Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở lại Đông Dương bằng vơ lực.
2. Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt.
3. Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông Dương khai thác nguồn tài nguyên đất đai.
4. Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả năng cung ứng.
Nói tóm lại, người Đông Dương muốn sẽ được đặt ở một địa vị ngang hàng như Philippin trong một thời gian không hạn định”.
Đây là bản thông cáo bán chính thức đầu tiên gửi cho nước Mỹ và tôi cũng cảm thấy nó có đầy đủ mức quan trọng để được chuyển về cho tướng Donovan và đă được Helliwell điện đi vào ngày 18-8.
Trong khi đó, mùa trở nên tồi tệ hơn, và cũng chẳng có việc ǵ khác phải làm, Sainteny và tôi gặp nhau lần thứ hai (vào sáng ngày 16-8) để trao đổi về vấn đề Trùng Khánh bác bỏ chuyến đi của ông đến Hà Nội. Sainteny rất nôn nóng khó chịu và kết tội OSS là đă ăn cánh với người Trung Quốc để phá hoại kế hoạch quay trở lại của người Pháp. Ông ta cáu giận đến trở thành mất trí và vô chính trị, doạ không công nhận chính sách của Chiến trường, tiếp tục làm theo ư ḿnh, được ǵ th́ được. Tôi khuyên giải ông và hứa thử hỏi một lần nữa Trùng Khánh cho ông tham gia giúp đỡ việc quản lư các tù binh Pháp ở Hà Nội, nếu như ông cam đoan tự hạn chế ḿnh không làm những hành động vô chính trị. Với một thái độ miễn cưỡng, ông chấp nhận cho ông và 4 nhân viên trong Bộ Tham mưu của ông mang quân phục Pháp được đến Hà Nội với danh nghĩa tham gia phái đoàn của tôi.
Cùng ngày hôm đó, tôi nhận được một bản giải thích thêm của Chiến trường: phải nói thêm cho Sainteny và 4 nhân viên của ông một cách rơ ràng là họ phải hạn chế hoạt động trong các nhiệm vụ có tính chất nhân đạo trong cộng đồng người Pháp. Nhưng trời mưa đă làm trở ngại cho việc xuất phát của chúng tôi lúc đó.
Nôn nóng muốn đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ “bí mật” của ḿnh, Sainteny đă kiếm được một máy bay Pháp, một chiếc C.47 vừa mới ở Calcutta tới. Chiếc máy bay này do một phi công dân sự tên là Fulachier lái cho hăng Air France đưa đến để nhằm khôi phục lại các chuyến bay giữa Ấn Độ và Trung Quốc, sau khi được Đại sứ quán và Chính phủ Trung Hoa bàn xong các vấn đề chi tiết. Cuối buổi chiều hôm đó, Helliwell báo cho tôi biết là Sainteny đang chuẩn bị dùng một máy bay Pháp để nhảy dù xuống Hà Nội. Alessandri cũng yêu cầu tướng Hà Ứng Khâm cho phép máy bay Pháp bay tới Hà Nội. Yêu cầu trên đă bị bác bỏ và người Trung Hoa đă cho binh lính tới canh giữ chiếc phi cơ của Pháp với mệnh lệnh là không cho người nào lên máy bay đi Hà Nội. Mệnh lệnh đă nói gộp cả lại: “Tất cả các máy bay, không kể từ đâu đến và thuộc quốc tịch nào, đều không được cất cánh để bay đi Đông Dương thuộc Pháp cho đến khi có lệnh mới”.
Ngày hôm sau lại xảy ra một chuyện khác với Sainteny. Ông đă tấn công tôi dồn dập với những lời buộc tội, nào là người Mỹ phản bội người Pháp, cá nhân tướng Wedemeyer đă gây trở ngại cho người Pháp ở Chiến trường, người Mỹ ở Trung Quốc tuy không cố t́nh nhưng lúc nào cũng hùa theo với mưu đồ của người Trung Quốc. Ông nói ư nghĩ riêng của ḿnh,, cho là Wedemeyer đă không trung thực với người Pháp ngay từ những lúc đầu. Khi tôi hỏi ông điều ông dự tính làm trong những ngày sắp tới, ông gượng gạo nói rằng ông chẳng làm ǵ cả ngoài việc ngồi chờ chỉ thị của Trùng Khánh.
Sau đó, tôi t́nh cờ được biết là Sainteny đă cho một toán 10 người do Blanchard phụ trách, xâm nhập vào Hải Pḥng để bắt liên lạc với người Nhật ở Hà Nội và xúc tiến công tác với trung tá Kamiya, một cựu sĩ quan liên lạc Tổng hành dinh quân Nhật ở Hà Nội với chính quyền Decoux. Nhưng Kamiya đă giữ toán người Pháp lại ở Hải Pḥng và đă hạn chế hoạt động của họ vào việc chuyển những tin tức thời tiết cho người Pháp ở Côn Minh.
Đúng như điều chúng tôi lo ngại, người Nhật đă tiếp đón máy bay Đồng minh của các phái đoàn Mercy khác một cách rất lộn xộn. Hơn nữa, một phi cơ Đồng minh khi bay qua Hà Nội ngày 19-8 đă bị hoả lực pḥng không bắn, nên Bộ chỉ huy Chiến trường quyết định hoăn chuyến đi Hà Nội của chúng tôi cho đến khi nào cơ quan chỉ huy Nhật ở Hà Nội nhận được thông báo là chúng tôi tới đó. Bấy giờ trời mưa lại ngăn trở không cho máy bay cất cánh.
Những khó khăn phiền toái với người Pháp ở Trung Quốc đă là đầu đề cho vô khối thư từ công văn giữa Trùng Khánh và Washington. Và tướng Donovan đă phải chỉ thị cho Heppner phối hợp chặt chẽ mọi kế hoạch của OSS có liên quan đến người Pháp trở lại Đông Dương với Bộ chỉ huy chiến trường và Đại sứ quán Mỹ. Trong lời giải đáp cuối cùng đối với chỉ thị của Donovan, Helliwell đă điện báo:
“Phúc đáp diện 642, chúng tôi đă tiến hành công việc theo như đă được hướng dẫn. Sainteny đi cùng với Patti hôm thứ bảy. Điều đó có nghĩa rơ ràng là người Pháp hoàn toàn thuộc quyền chỉ huy của Mỹ và cũng chỉ có những người Pháp hoạt động với OSS. Cờ Pháp sẽ không được dùng đến”.
Trước khi bức điện được gửi đi, tôi đă trao đổi với Heppner về ư nghĩa của nó và yêu cầu phải ghi rơ sự đồng ư lên bản sao tài liệu. Nói tóm lại, không có trường hợp nào chúng tôi đă giúp đỡ cho người Pháp trong việc tiếp quản Đông Dương bằng vũ lực hoặc ngay cả tới việc tỏ ra có sự đồng t́nh tham gia vào các kế hoạch của họ.
Trong khi gặp trở ngại về thời tiết, chiều ngày 19-8, tôi có gặp nhiều nhân viên thuộc chi nhánh Côn Minh của Mặt trận Việt Minh tại nhà của Phạm Viết Tự. Họ cũng vừa mới nhận được những tin tức rất phấn khởi từ Hà Nội, và khi tôi tới, tôi thấy họ đang rộn lên v́ vui mừng. Tống Minh Phương đă được một người bạn của Thái Hà ấp ngoại ô Hà Nội, báo cho biết là Hà Nội đă nổi dậy. Họ kể lại một cách sơ sài là vào ngày 17-8, chính quyền địa phương Việt Nam của chế độ Bảo Đại đă tổ chức một cuộc biểu t́nh để ủng hộ Chính phủ trung ương của Trần Trọng Kim. Tổng hội viên chức(2) là người đứng ra tổ chức cuộc biểu t́nh ở địa phương và một đám quần chúng tới 2,5 vạn người đă tập hợp ở trước cửa Nhà hát lớn thành phố. Không rơ t́nh h́nh đă xảy ra như thế nào, chỉ biết là các đội viên đội vơ trang tuyên truyền đă chiếm lấy các cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng lật đổ Chính phủ “bù nh́n”, đi theo Việt Minh và giành chính quyền về cho nhân dân. Theo những tin tức nhận được th́ người Nhật đă không can thiệp và Ủy ban thành Hà Nội đă nắm lấy cơ hội thuận lợi có cuộc mít tinh lớn lao đó để thúc đẩy t́nh h́nh tiến tới một cuộc khởi nghĩa qui mô rộng toàn thành phố.
Sau những gị phút bị kích động cao độ lúc đầu, nhóm Côn Minh cũng tỏ ra thấy rơ được t́nh h́nh hơn, một số nghĩ rằng hành động của Ủy ban Thành Hà Nội là quá sớm. Nếu người Nhật quyết định đàn áp cuộc nổi dậy th́ sao. Chuyện ǵ sẽ sẩy ra nếu Đồng minh, và đặc biệt là Trung Quốc cho chuyển người Pháp vào Đông Dương với bọn bù nh́n Quốc dân đảng? Không rơ Giải phóng quân có sẵn sàng đối phó với t́nh h́nh không? Đây là điều lo lắng đă xen vào niềm vui hân hoan của họ, tuy chẳng ǵ có thể che giấu được ḷng tự hào và những cao vọng của họ. Tự và các người cộng sự với ông hướng về phía tôi, nhưng tôi cũng chẳng làm ǵ được để họ yên tâm. Tôi chỉ có thể gợi ư được rằng phải thận trọng, đừng để cho t́nh h́nh tuột khỏi tay và dẫn đến những sự đổ máu không cần thiết, dù là người Việt hay người Pháp cũng vậy.
Cũng ngay chiều hôm đó, tôi đă nói lại với Helhwell và Heppner về những ǵ tôi đă nghe được và gợi ư là phải báo cáo với tướng Wedemeyer. Helliwell đă mạnh dạn phát biểu ư kiến, cho rằng Tưởng sẽ chẳng vui vẻ ǵ nếu như quân đội của ông ta ở Việt Nam lại bị dồn đến chỗ phải giữ một nền trật tự lâu dài ở Đông Dương. Heppner th́ lo lắng đến việc sơ tán các tù nhân Đồng minh và làm thế nào để cho quân Nhật đầu hàng mà không xảy ra chuyện rắc rối ǵ. Mối quan tâm chủ yếu của tôi lại là chung quanh vấn đề người Pháp. Nếu họ được phép vào Đông Dương với người Trung Hoa th́ chắc chắn là sẽ xảy ra xung đột với người Việt Nam, và người Trung Hoa sẽ không tránh khỏi lôi cuốn vào chuyện này. Chúng tôi cũng không nghĩ tới việc t́nh h́nh mới này đúng ra là phải được cấp Chiến trường xem xét và quyết định. Nhưng sáng hôm sau,, khi Heppner thảo luận t́nh h́nh Hà Nội với tướng Gross th́ không có ǵ có thể quan trọng hơn nữa và toán Mercy được lệnh phải tiến vào Hà Nội ngay khi thời tiết cho phép.
Mưa vẫn tiếp tục như trút nước. Đường băng bị hỏng và bị ngập sâu, xăng dầu cũng bị tràn bởi nước , độ cao thấp và tầm nh́n xa hạn chế nên không máy bay nào có thể cất cánh được. Nhưng Sainteny vẫn c̣n lồng lộn lên và chưa mất hết cái thói quen thích hoạt động theo lối cửa sau. Ông không c̣n phải giữ ǵn ǵ nữa và đă tiết lộ cho tôi biết (điều mà tôi đă nghe từ một nơi khác) là Blanchard đă vào Hải Pḥng, đă bắt liên lạc với người Nhật và cũng đă báo cho người Nhật biết là người Pháp sẽ đến trên một chiếc phi cơ của Mỹ và không được bắn vào họ. Theo Sainteny, nói th́ như vậy sẽ bảo đảm hoàn toàn an ninh cho chúng tôi khi tới Đông Dương. Nhưng chỉ riêng cái ư muốn giầy xéo lên các mệnh lệnh của Chiến trường của ông ta cũng đă quá lố bịch và không cần phải được thảo luận tới. Đấy là chưa kể đến sự việc Nhật đă không chấp nhận “proposition”(3) của Blanchard.
Chúng tôi vẫn phải đợi ở Côn Minh. Cho đến ngày 21, một số chuyến bay ưu tiên bậc nhất mới được phép cất cánh. Lúc đó người Trung Quốc đă thu xếp với cơ quan liên lạc của Nhật ở Trung Quốc để cho toán của chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai gần Hà Nội, và chúng tôi đă được báo để xuất phát vào sáng ngày 22. Lần này th́ không có ǵ ngăn cản được nữa.
Chú thich :

(1)  ngày 19-8
(2) Ủy ban trung ương các công chức
(3) Đề nghị - tiếng Pháp

 

PHẦN III
HÀ NỘI
Chương 16
Những người khách không mời

BAY TỚI HÀ NỘI
Phi cảng chính ở Côn Minh vẫn c̣n bị ngập nước, do đó máy bay phải cất cánh từ Chanyi(1), một sân bay trên nền đất cao hơn. Đoàn xe của chúng tôi chậm chạp đi theo những con đường ngập nước lầy lội...
…Khi chúng tôi tới, cả sân bay như c̣n đang ngủ. Người gác Trung Quốc vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đến cḥi kiểm soát, nơi duy nhất có ánh sáng. Tôi được báo cho biết là máy bay đă ở sẵn trên sân, nhưng toán lái phi cơ th́ phải nhiều giờ nữa mới từ Côn Minh tới được. Khoảng 8 giờ sáng, sân bay bắt đầu hoạt động nhộn nhịp nhưng máy bay của chúng tôi vẫn nằm chết ở một góc xa. Đó là một chiếc vận tải C.47 của quân đội và chúng tôi cũng c̣n đủ th́ giờ rỗi răi để ngắm đường nét và số hiệu của nó - 5908. Đến khoảng 9 giờ, người lái tới. Chúng tôi đóng bộ vào với đầy đủ vũ khí, dù và chụp ảnh. Sau đó máy nổ và máy bay rời đường băng. Trong phi cơ, toán 12 người của chúng tôi và 4 người Pháp của Sainteny lặng lẽ ngồi đối diện nhau.
Chúng tôi cất cánh vào 11 giờ 35 ngày 22-8 và lao vào mây mù. Bất chợt trên mây, có ánh mặt trời tỏa sáng, như một điềm báo hiệu tốt làm phấn chấn tinh thần, hết căng thẳng. Người lái thông báo phải bay cao trên 8.000 bộ và tḥi tiết c̣n xấu. Dự tính là 1 giờ 30 sẽ tới nơi. Người Pháp và người Mỹ chuyện tṛ với nhau, mời nhau thuốc lá, kẹo và thỉnh thoảng lại cất tiếng hát.
Nhóm người Pháp bên ngoài tỏ ra tự tin. Sainteny cho rằng chúng tôi sẽ không gặp khó khăn ǵ và sẽ được người Pháp và người Việt vui mừng nghênh đón như những người đến giải phóng. Điều lo ngại của tôi dựa trên một sự nhận định thực tế đúng mức là mặc dù Bộ chỉ huy tối cao Tokyo đă chấp nhận đầu hàng hoàn toàn,, nhưng các tư lệnh dă chiến Nhật ở khắp châu Á vẫn có thể ngoan cường từ chối, không chịu nhận thất bại. Tôi cũng chẳng nghĩ trước được rằng sự có mặt của người Pháp mặc quân phục sẽ tăng thêm an ninh cho chúng tôi. Đă được tính toán trước là nếu người Việt Nam phản đối th́ người Pháp sẽ được ghép vào trong phái đoàn của tôi.
Đúng 1 giờ 30, phi công gọi tôi ra phía trước. Đă trông thấy sân bay Bạch Mai và ngay từ 8.000 bộ, tôi cũng có thể nh́n thấy các hồ lớn và các chướng ngại trên đường băng. Máy bay hạ xuống ở độ 2.000 bộ, cửa được mở ra để nh́n cho rơ và chuẩn bị hạ cánh. Chúng tôi lượn nhiều ṿng, chụp ảnh các đường bay bị chặn và ngạc nhiên tự hỏi không hiểu sao cơ quan liên lạc của Nhật ở Trung Quốc lại chỉ cho chúng tôi xuống một sân bay không sử dụng.
Cũng may mà chúng tôi có nhiều phương án thay thế để vào Hà Nội. A: xuống nơi đă định ở Bạch Mai, ở đó tôi sẽ được một phân đội nhỏ Giải phóng quân Việt Nam đón và đưa về Hà Nội, cách đó khoảng 1 dặm. Hai là phương án dự bị B: xuống Gia Lâm, sân bay chính của Hà Nội, ở phía đông thành phố, trên bờ sông Hồng và cạnh một trại tù binh chiến tranh. Phương án B đă được phối hợp với AGAS/Côn Minh, đề pḥng khả năng Nhật chống đối lại và trong trường hợp đó chúng tôi sẽ phải chiếm lấy trại tù binh, cấp vũ khí cho các tù binh và cầm cự cho đến khi bộ phận chủ yếu của toán chúng tôi tới, có thể trong vài giờ sau.
Chuyển sang phương án B, chúng tôi bay trên sông Hồng và cánh đồng lúa bị ngập, dọc theo cầu Doumer, đường thuộc địa số 1 và đă thấy Gia Lâm. Sân bay h́nh như đang được sử dụng, nhưng ở đó lại có một số xe tăng cỡ nhỏ và súng cao xạ đặt trên xe. Tôi yêu cầu trung úy Grelecki, tổ trưởng biệt động, cho thả dù một tổ trinh sát. Đến 2 giờ có ánh xanh phát ra ở phía cửa mở và Grelecki cùng 3 người nữa lao vào không trung. Chúng tôi lo lắng quan sát họ xuống đất một cách khá đẹp. Không có hỏa lực của Nhật bắn chống lại. Vào 2 giờ 06, người cuối cùng đă tới đất và chúng tôi trông rơ họ đi về phía một số xe gần đấy. Gần như liền sau đó, Grelecki điện báo cho biết mọi việc thông suốt, và 4 phút sau phi cơ chúng tôi đặt bánh xuống đường băng.
KẾT THÚC MỘT CUỘC HÀNH TR̀NH GAI GÓC
Máy bay dừng lại và một đơn vị độ 50 hay 60 người Nhật, súng ống đầy đủ bao vây lấy phi cơ. Mọi người nắm lấy súng và chúng tôi chuẩn bị bên trong khi người lái vẫn cho phi cơ chạy và quay đầu về ngược hướng gió, sẵn sàng cất cánh. Tôi đứng ở phía cửa máy bay, Sainteny ở đằng sau. Tôi thấy Grelecki cùng với cả tổ tiến lại gần, theo sau có nhiều sĩ quan Nhật. Tôi ra lệnh cho người của chúng tôi hạ súng, nhanh chóng ra khỏi máy bay và tiến lại chỗ các sĩ quan, trong số đó có một trung úy biết nói tiếng Anh.
Cách xa đó có một chút, có một nhóm khá đông người đang vẫy cờ Anh và Mỹ. Họ là các tù binh Anh, phần lớn là binh lính Ấn Độ bị bắt ở Singapore mà tôi đă được AGAS báo cho biết, và họ cũng đă có liên lạc bằng điện đài với tôi khi tôi chuyển sang phương án B. Họ đă cùng nhau vượt ra ngoài trại để nghênh đón chúng tôi nhưng khi họ đến cách máy bay vài trăm thước th́ một đơn vị Nhật dùng lưỡi lê chặn họ lại. Theo đúng truyền thống Anh, các tù binh liền dừng lại thành hàng, hoan hô ba lần và giương cao các cờ được làm từ trong trại. T́nh h́nh căng thẳng, chúng tôi và người Nhật mỗi bên nh́n cái cảnh tượng đó với những cảm xúc khác nhau và trong khoảnh khắc tôi thấy có vấn đề... Nhưng t́nh h́nh đă tự giải quyết được. Một đội nhỏ tù binh do một sĩ quan Nhật dẫn đầu, lặng lẽ đi về phía chúng tôi. Trung úy “Simpson Jones”(2), đại đội trưởng của nhóm tù binh Ấn Độ ở Gia Lâm đă đến đến “báo cáo” rằng các tù binh đă sẵn sàng ở bên cạnh quân Đồng minh và về t́nh h́nh trong trại... Tôi cảm ơn Simpson về “bản báo cáo” và yêu cầu ông ta cung cấp cho sĩ quan AGAS những tài liệu về nhu cầu trước mắt và việc nhanh chóng sơ tán tù binh.
Sau ít phút gay go đầu tiên, tôi quay về phía các vị khách Nhật. Họ tỏ ra đang kiên nhẫn chờ đợi được nghe những yêu cầu khác của tôi. Tôi nói rằng chúng tôi đến đây để trông coi vấn đề tù binh chiến tranh và chuẩn bị sơ bộ việc tiếp nhận đầu hàng của Nhật cho Tưởng Thống chế. Hiển nhiên là các sĩ quan Nhật ở sân bay đă không nhận được chỉ thị ǵ và đă tỏ ra hoàn toàn bị bất ngờ. Nhưng họ cũng không có hành động ǵ chống đối và ra lệnh cho người của họ giăn ra. Tuy vậy phi công của chúng tôi vẫn tiếp tục duy tŕ liên lạc điện đài với Côn Minh, c̣n tôi cùng với Sainteny, Grelecki và hai người trong tổ biệt kích đi với các sĩ quan Nhật tới một ngôi nhà nhỏ cạnh đường băng. Số c̣n lại trong toán chúng tôi ở lại với trung úy R.A. Feeback gác máy bay.
Trong căn nhà, chúng tôi gặp một thiếu tá Nhật, có thể là người sĩ quan cao cấp nhất ở đây, cùng với một số tùy tùng. Hai nhân viên của chúng tôi đứng canh ngoài cửa, bên cạnh hai người gác Nhật. Gần như là một điều phi lư, nhưng chúng tôi đă được mời dùng bia lạnh, kem. Một chút ít lịch sự đă thành tập quán sinh hoạt trong bầu không khí nóng nực của mùa thu Hà Nội... Người Nhật th́ đúng mức trong cách cư xử của họ và rất tháo vát. Tôi yêu cầu nhanh chóng được gặp Tổng tư lệnh của họ nhưng được trả lời là tướng Yuitsu Tsuchihashi(3) đang ở Huế và chỉ trở về vào khuya tối hôm đó. Viên thiếu tá gợi ư là chúng tôi được sống thoải mái trong thành phố và được phép đi lại tự do. Nhưng ông ta lại ngần ngại về việc các sĩ quan Pháp ở lại đó và nêu ư kiến là tốt hơn hết họ nên quay về Trung Quốc. Sainteny bị xúc động mạnh và tôi đă nghĩ ngay rằng ch́ v́ Saiilteny và người của ông ta không có quy chế chính thức ở đây nên có nguy cơ bị giữ lại. Với ư nghĩ đó, tôi thông báo cho người Nhật biết là người Pháp thuộc quyền kiểm soát của tôi, nhiệm vụ của họ là điều tra t́nh h́nh các tù binh Pháp và họ ở lại trong nhóm của tôi. Thiếu tá báo cho tôi biết về tinh thần chống Pháp ở Hà Nội, và nói rằng h́nh ảnh các bộ quân phục Pháp trong đoàn chúng tôi sẽ chỉ gây rối loạn. Tôi phản công lại và nhắc ông ta rằng Đồng minh trao cho các nhà chức trách Nhật nhiệm vụ duy tŕ trật tự công cộng và an ninh của nhóm chúng tôi bao gồm cả người Pháp, thuộc trách nhiệm cá nhân của tư lệnh Nhật tại địa phương. Người sĩ quan Nhật vội gạt bỏ lập trường của ḿnh và thu xếp chuyển chúng tôi vào thành phố. Trong khi chờ đợi phương tiện chuyên chở, tôi ngẫm nghĩ về sự may mắn của chúng tôi là mọi việc đều tốt đẹp, mặc dù cuộc đổ bộ thật bất ngờ… Phản ứng của viên thiếu tá Nhật đối với người Pháp trong nhóm nhắc chúng tôi nghĩ tớ nguy cơ của một cuộc đụng độ chẳng thích thú ǵ với người Việt Nam một khi người Pháp bị họ phát hiện. Và ư nghĩ tới 35.000 người Nhật thù địch có vũ trang, chưa thông suốt là họ đă thất bại trong cuộc chiến tranh, thực sự làm cho tôi không thoải mái.
Cứ như là để nhấn mạnh vào những điều tôi c̣n đang c̣n nghi ngại, mọi việc rắc rối lại xảy đến ngay trước khi chúng tôi chưa rời sân bay được bao xa. Một nhân viên dân sự Pháp, Pétris, định lẩn qua sự kiểm soát của Nhật, vượt trước về Hà Nội để báo tin người Pháp đến. Đó là một ư đồ liều lĩnh không chính đáng, sau khi tôi đă xác định một cách đúng đắn phái đoàn Pháp thuộc quyền của tôi. Pétris đă bị giữ lại và bị tống vào phía sau một xe tải.
Nhiều sĩ quan và binh lính Nhật đến cùng với nhiều xe có mui kín và chúng tôi lập thành một đoàn có 1 xe tăng nhỏ đi trước. Tôi ở xe đầu với Sainteny và sĩ quan tùy tùng Nhật. Grelecki, Feeback và các sĩ quan Pháp ngồi trong hai xe có mui kín. C̣n những người lính biệt kích th́ đi trên xe riêng. Nhiều xe tải chở binh lính Nhật đi sau cùng... Đoàn xe qua cầu, đi về phía Tây, qua trước Thành(4), đến dinh Toàn quyền(5), một dinh thự đẹp, chung quanh có nhiều băi cỏ và vườn hoa. Ở đây, tôi gặp một sĩ quan Nhật và ông ta cũng hỏi về mục đích của nhóm người Pháp ở Hà Nội. Tôi để cho Sainteny trả lời, hy vọng ông sẽ theo phương hướng mà tôi đă chỉ ra ở sân bay.
Nhưng sự thật lại khác. Sainteny bắt đầu nói về cạnh khía nhân đạo trong nhiệm vụ của ông ta và người sĩ quan Nhật tỏ ra chịu nghe trước khi Sainteny đ̣i người Nhật cung cấp cho ông ta những thuận lợi ở Đài phát thanh Bạch Mai để phát đi một “chương tŕnh tin tức địa phương” cho người Pháp ở Đông Dương và thông tin với bản doanh của ông ta ở Trung Quốc và Ấn Độ. Người Nhật không phản đối nhưng thoáng thấy biến đổi sắc mặt và báo cho chúng tôi biết là nhà ở đă được chuẩn bị sẵn sàng ở khách sạn Métropole thuộc khu buôn bán của Hà Nội và chúng tôi nên đi đến thẳng nơi đó.
Một lần nữa chúng tôi lại lên xe. Chúng tôi đi quanh khu vực phía Bắc thành phố qua những nơi dân cũ thưa thớt, ở đó rơ ràng không có người Pháp, chỉ thấy những tốp nhỏ người Việt chuyện tṛ sôi nổi. Họ có chú ư đến đoàn xe nhưng lại tỏ ra không phấn khởi ǵ về sự có mặt của chúng tôi. Dinh thự và nhà cửa dọc theo con đường đều phất phới đầy rẫy những cờ Việt Minh. Các phố tiếp theo, Puginier và Borgnis Desborder, có bộ mặt hoàn toàn khác hẳn. Công chúng tập trung dày đặc và có nhiều biểu ngữ tiếng Anh, Pháp, Việt chăng qua đường từ bao lơn này qua bao lơn khác, hoan hô Việt Nam độc lập, người Pháp phải chết, hoan nghênh Đồng minh. Chẳng thấy một bóng cờ Pháp. Chỉ độc có cờ đỏ với ngôi sao vàng năm cánh.
Chúng tôi yên lặng đi một lúc và Sainteny rơ ràng đang lo âu. Ông ta nh́n cḥng chọc, mất tin tưởng. Tôi cũng ngạc nhiên khi thấy phố xá tràn đầy cờ Việt Minh phất phới cùng với những biểu ngữ thù địch và đă nghĩ rằng có thể có Hồ Chí Minh đă về thành phố (nhưng đúng là chưa về) và rất bực với cái tṛ chơi kiểu này của Nhật. Sainteny quay sang phía tôi và hỏi xem có biết ǵ về kế hoạch của ông Hồ không. Tôi nhắc lại là tôi đă phát biểu ở Côn Minh là ông Hồ đă có một “Chính phủ” đang tồn tại và chỉ có vấn đề thời gian và hoàn cảnh do Chính phủ đó của ông cầm quyền. Lúc đó tôi đă không đoán ra được những sự tiến bộ của Việt Minh trong việc giành chính quyền. Sainteny yên lặng một cách chán nản.
Đám quần chúng trở nên huyên náo và thù địch hơn khi thấy đoàn chúng tôi ghé vào khách sạn Métropole. Họ đă biết là “người Pháp đă đến” bằng một máy bay Mỹ và được người Mỹ che chở. Lính Nhật súng cắm lê, dọc theo con đường từ hồ Hoàn Kiếm đến khách sạn, phải khó khăn lắm mới ngăn chặn được số quần chúng đang ào ào tới.

KHÁCH SẠN MÉTROPOLE:

Từ khách sạn, một nhóm đông người Âu, phần lớn là Pháp, ùa ra chào đón chúng tôi. Một số bắt đầu xô đẩy với những người Việt đă vượt qua hàng rào bảo vệ nhưng đă bị lính Nhật và Bảo an đẩy lùi về phía hành lang. Thật là hỗn loạn. Người ta mừng chảy nước mắt mà ôm hôn nhau không dứt giữa những tiếng kêu la của người Việt chống lại sự đối xử tàn tệ của Nhật. Người Pháp ở trong t́nh trạng bị kích động gây gổ cao độ c̣n Nhật th́ duy tŕ trật tự một cách khá lạnh lùng...
Nhiều pḥng trên tầng hai khách sạn đă để trống dành cho chúng tôi. Tôi được chỉ tới một pḥng lớn có góc nhà nh́n thẳng ra một vườn hoa nhỏ và “Résidence Supérieure”(6) với một lá cờ Việt Minh lớn đang phấp phới bay. Được khoảng 5 phút th́ Grélecki và một nữ nhân viên trong khách sạn đưa tới một người Việt Nam trông cứng cỏi nhưng dễ thương, một Lê Trung Nghĩa nào đó, đại diện cho Thành ủy Hà Nội. Nghĩa không nói tiếng Pháp và dùng người phục vụ gái làm thông ngôn. Theo Nghĩa th́ ủy ban đă được ủy ban Trung ương Côn Minh báo cho biết là chúng tôi sẽ tới nên đă cử một phái đoàn đến Bạch Mai để đón và đưa chúng tôi về thành phố, nhưng khi máy bay không đỗ xuống Bạch Mai th́ họ đă trở về Hà Nội. Ngay sau khi biết tin chúng tôi hạ cánh xuống Gia Lâm, Nghĩa được Thành ủy Hà Nội cử tới để nghênh đón người Mỹ tới Việt Nam, bày tỏ sự quư khách của thành phố và đảm bảo về an ninh của Chính phủ Lâm thời Việt Nam. Tôi cảm ơn và mời Nghĩa uống một chút mà nhà hàng đang mang tới.
Tôi hỏi thẳng Nghĩa về việc quần chúng tập trung bên ngoài với thái độ rơ ràng đối địch là thế nào. Nghĩa trả lời là quần chúng không chống đối với Đồng minh mà chống lại người Pháp quay trở lại. Nhưng Nghĩa cũng mau mắn đảm bảo với tôi rằng sẽ không có ǵ làm nguy hại cho họ nếu như họ không đưa quân đội đến hoặc cố t́nh can thiệp vào công việc điều hành của Chính phủ lâm thời. Tôi báo cho Nghĩa biết nhiệm vụ của tôi là trông coi số tù binh Đông minh và sơ bộ chuẩn bị việc tiếp nhận đầu hàng của người Nhật, và cũng chỉ có 5 người Pháp đi cùng tôi để làm công tác nhân đạo là coi sóc số tù binh ở trong Thành. Đáp lại câu hỏi của Nghĩa, tôi đảm bảo với Nghĩa là tôi không làm ǵ để chuẩn bị cho quân đội Pháp tới và đúng là sẽ chỉ có thêm một số ít người Mỹ sắp đến, là tôi đă gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và không có vấn đề nước Mỹ ủng hộ chủ nghĩa thực dân.
Có tiếng gơ cửa và người ta báo có trung úy Nhật Ogoshi muốn được gặp tôi. Nghĩa xin rút lui và nói thêm là Thành ủy sẵn sàng để làm việc cùng tôi và người liên lạc với họ trong lúc này là cô nhân viên phiên dịch.
Trung úy Ogoshi quân phục chỉnh tề, mang gươm vơ sĩ đạo, báo cho tôi biết rằng những người Pháp trong đoàn của tôi đă gây là một vấn đề nghiêm trọng và sự có mặt của họ tại khách sạn sẽ dễ dàng đẩy tới một cuộc xung đột. Bộ Tổng tham mưu Nhật cảm thấy có thể không có đủ sức đảm nhiệm trách nhiệm bảo vệ an toàn cho phái đoàn chúng tôi nếu như người Pháp cứ cố nài cho họ ở lại khách sạn. Vậy ư kiến tôi về việc này phải làm ǵ?
Trước hết tôi đáp lại rằng tôi không thể chấp nhận lập trường của các nhà chức trách Nhật là không thể duy tŕ được trật tự công cộng hoặc đảm bảo an ninh cho phái đoàn Đồng minh, trong đó có người Pháp tham dự. Thứ là tôi hành động theo chủ trương đề ra trong mệnh lệnh chung số 1 của Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh, mà người đại diện là Thống chế Tưởng Giới Thạch, yêu cầu các nhà chức trách quân sự Nhật ở Đông Dương chấp nhận thỏa thuận đă đạt được ở Trung Quốc với đại diện Hoàng gia Nhật. H́nh như trung úy Ogashi đă tỏ vẻ xúc động khi nghe nói đến “đại diện Hoàng gia”, ông liền đề nghị cho chuyển những người Pháp đến đóng ở Phủ Toàn quyền, v́ ở đó họ có thể được bảo vệ chu đáo và ngăn chặn được sự xô xát với quần chúng. Tôi nói sẽ cho ông biết ư kiến sau. Ogoshi chào và ra đi với một vẻ ít quan trọng hơn khi tới.
Ở hành lang, cảnh tượng vô chung náo nhiệt, ồn ào. Tin quân Pháp đă đến và c̣n sẽ đến nhiều nữa loang ra nhanh chóng. Phải khó khăn lắm Saiteny mới gỡ ḿnh ra được để đến gặp tôi và được báo cho biết là sẽ tốt cho mọi người nếu họ ở riêng ra một nơi. Sainteny chớp ngay là ư đó và đề nghị được sử dụng dinh Toàn quyền. Chúng tôi liền hỏi ư kiến viên sĩ quan cao cấp Nhật có mặt tại chỗ. Sau khi xin chỉ thị cấp trên, ông mỉm cười lễ phép báo cho biết cấp trên ông ta đă đồng ư, sẽ cấp một toán bảo vệ riêng và đảm bảo an ninh 48 giờ cho người Pháp ở dinh Toàn quyền. Sainteny vui vẻ ra mặt và tôi cũng rất bằng ḷng...
Khi ra đi, người Nhật lại phản đối v́ người Pháp muốn kéo một số dân thường đi cùng.
Người Nhật nói thêm rằng, cho đến khi tôi gặp Bộ Tổng tư lệnh và quy chế của chúng tôi được chính thúc hóa th́ toán Mercy của Đồng minh phải tự coi như “đặt dưới sự bảo vệ và quản lư” của Nhật. Tôi phản đối, có Sainteny ủng hộ, nhưng người Nhật vẫn kiên quyết bác bỏ, nên tôi cũng chẳng làm ǵ được khác hơn là phải nhă nhặn ưng thuận. Nhưng cũng chẳng ai ngăn trở không cho chúng tôi giữ vũ khí và phương tiện thông tin để giữ liên lạc với hành dinh ở Trung Quốc, và chúng tôi được tự do tiếp khách. Măi đến tận khuya, Sainteny cùng với 4 người bạn của ông mới rời khách sạn với toán lính gác Nhật.
Quyết định của Sainteny tới đóng tại dinh Toàn quyền cũ là một sai lầm nghiêm trọng. Việc biến ḿnh thành một quan chức thực dân chỉ làm cho Sainteny bị tách rời khỏi ḍng các sự kiện đang sôi sục diễn ra ở Hà Nội. Tính kiêu căng và sự tham lam cao độ của người Pháp đang chờ đợi ở Sainteny đến giải thoát cho họ đă thể hiện quá rơ người Pháp là một nguồn khiêu khích đối với Nhật và nhà chức trách Việt Nam. Do đó đoàn Sainteny đă bị quản thúc một cách chặt chẽ hơn... Sainteny đă không kiềm chế được thói huênh hoang của đám dân Pháp nhưng nếu khôn ngoan ra th́ Sainteny đă cứ tự hạn chế ḿnh trong quy chế của phái đoàn chúng tôi hơn là đă vượt ra ngoài. Sainteny đă yêu cầu tôi giúp sửa lại t́nh h́nh khó xử của ông ta, nhưng đâu có phải tôi đến đây để sửa sai cho người Pháp cũng như người Việt.
Tôi trở lại trụ sở trong khi các nhân viên trong đoàn xúc xạo và đám dân Pháp đă nghe ngóng tin tức. Hiệu thính viên Eide Và Rodzvvicz lên lầu để đặt trạm thông tin. Phi công đă trở về Trung Quốc ngay sau khi chúng tôi rời sân bay và chắc đă báo cho Helliwell biết chúng tôi đến nơi an toàn. C̣n Grelecki và Feebach nhanh chóng tổ chức các tổ chức bảo vệ, tổ t́nh báo và thông tin liên lạc... Ai cũng làm việc cật lực để chuẩn bị cho các hoạt động ngày mai. Vào khoảng nửa đêm, một sĩ quan Bộ Tổng Tham mưu Nhật đến báo cho tôi biết là tướng Tsuchihashi đă về và mong gặp tôi, nhưng để tùy tôi quyết định. Chúng tôi thu xếp để cuộc gặp vào 8 giờ sáng hôm sau.
TƯỚNG YUITSU TSUCHIHASHI

Đúng 8 giờ, một đại úy Nhật nói tiếng Anh đến gặp và cũng trở thành một cận vệ phiên dịch cho tôi. Ông cho biết tiếng Tsuchihashi đă để một xe con cùng với người lái cho tôi sử dụng và ông được chỉ định làm sĩ quan liên lạc của Bộ Tổng tham mưu về mọi việc có liên quan giữa chúng tôi và người Nhật. Chúng tôi chỉ đi một quăng ngắn để đến Tổng Hành dinh quân Nhật, ở bên bờ sông và gần bảo tàng Louis Fiinot. Viên đại úy dẫn tôi vào dinh qua hai người lính gác và có một người ra mở hai lần cửa lớn. Tôi không hồi tưởng lại kỹ được gian pḥng. Sau một bàn ở cuối buồng, thấy một người nhỏ nhắn ngồi, tường đằng sau có treo ảnh Nhật hoàng Hirohito và cờ mặt trời mọc. Bên phải có một dăy độ 10 hay 12 sĩ quan cao cấp đứng nghiêm. Giữa pḥng có một bàn họp lớn, có sẵn mỗi bên một ghế và một chiếc thứ ba đặt ở đằng sau gần cửa ra vào.
Khi tôi tới, viên tướng đứng dậy và hơi nghiêng đầu. Các sĩ quan cũng làm theo, cúi đầu sâu hơn. Tôi chào lại theo kiểu quân sự và người đại úy giới thiệu tôi với viên tướng, rồi đến các sĩ quan tham mưu. Trung tướng Yuitsu Tsuchihashi tuổi hạ ngũ tuần, thấp (khoảng 5 bộ 5 hoặc 6), mặt trong vẻ nghiêm nghị, rắn rỏi. Đầu trọc hoàn toàn. Theo lời mời, tôi ngồi xuống một ghế, viên tướng cũng ngồi xuống ghế đối diện, c̣n người đại diện phiên dịch ở ghế thứ ba phía trong. Các sĩ quan khác vẫn đứng cạnh viên tướng, vẻ mặt kín đáo, rất khó đoán định nhưng rơ ràng là không thân thiện.
Tôi chủ động nói trước là Chính phủ Nhật đă đầu hàng Đồng minh không điều kiện ngày 10-8 và tôi được Thống chế Tưởng Giới Thạch ủy quyền cho đến xem xét t́nh h́nh và điều kiện các tù binh chiến tranh Đồng minh ở bắc Đông Dương, và quyết định cho họ hồi hương càng sớm càng tốt. Tất nhiên tôi cũng báo tôi là người trung gian đầu tiên để tổ chức việc tiếp thu đầu hàng của quân đội Nhật cho Đồng minh ở Đông Dương. Viên tướng không công nhận việc đầu hàng của Nhật mà chỉ nói là ngày 17-8 ông đă nhận được lệnh của Cụm Tập đoàn quân Nam ra lệnh ngừng chiến trong ṿng 5 ngày. Ngày 18-8, ông đă ra lệnh cho Tập đoàn quân 38 ngừng bắn vào 8 giờ sáng ngày 21-8. Nhưng c̣n về “nhiệm vụ” của tôi, ông sẽ xin chỉ thị của Tokyo. Trong khi chờ đợi, người Mỹ được tự do đi lại trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Tôi nêu vấn đề đến thăm các tù binh Đồng minh. Về nguyên tắc, ông đồng ư, nhưng nói phải chờ chỉ thị của Tokyo mà theo ông th́ sẽ nhận được trong ṿng 48 giờ.
Tôi nêu việc tiếp theo là vấn dề trật tự và an ninh công cộng. Tsuchihashi đáp lại ngay rằng “trong điều kiện hiện tại” và theo chỉ thị của Tokyo, ông đă trao dần quyền lực và nhiệm vụ cai trị cho nhà cầm quyền “Việt Nam địa phương”. Mặc dù không được sự hướng dẫn về điểm này, tôi báo cho Tsuchihashi biết là vấn đề trật tự và an ninh công cộng thuộc trách nhiệm của nhà chức trách Nhật cho đến khi Đồng minh đến trực tiếp tiếp nhận. Điều đó đă không được từ viên tướng cho đến các sĩ quan ở đó tiếp thu, lần đầu tiên họ phá vỡ sự im lặng và x́ xào với nhau.
Cho rằng đă khẳng định được quy chế chính thức của tôi đă xác định được, sự gánh vác tránh nhiệm về trật tự công cộng, tôi cho là đă đến lúc kết thúc cuộc gặp gỡ. Tôi đứng dậy và nói sẽ báo cáo với Trùng Khánh về cuộc gặp sáng nay và sẽ thông báo cho viên tướng sau. Tsuchihashi cũng đứng lên và nghiêng ḿnh. Tôi chào và lui ra cùng với người đại úy theo sau như một cái bóng.
Chú thích :

(1) cách Côn Minh 75 dặm về phía đông bắc
(2) bí danh của người chỉ huy nhóm tù binh Gia Lâm
(3) Tư lệnh Tập đoàn quân Hoàng gia Nhật thứ 38
(4) Trại lính của Pháp cũ, sau Nhật sửa lại thành nơi giam tù binh và tù chính trị
(5) Nguyên văn: Palais Du Gouvernement
(6) Dinh Thống sứ

 

Chương 17
Ngày thứ hai của chúng tôi ở Hà Nội

CẢM TƯỞNG ĐẦU TIÊN
Sau cuộc gặp gỡ với Tsuchihashi, tôi đi quanh thành phố một ṿng để nắm t́nh h́nh địa phương.
Ngày hôm trước tôi đă không thấy ǵ nhiều là cuộc bạo động ở khách sạn Métropole nên tưởng sẽ thấy phố xá đóng cửa và dân chúng trong t́nh trạng căng thẳng. Ngược lại, các cửa hàng vẫn mở, chợ vẫn đông người, các công sở làm việc tấp nập... Và tất cả đều phất phới cờ Việt Minh. Thực tế là một biển cờ đỏ và biểu ngữ tràn ngập. Người Đông Dương đi bộ, đi xe đạp, nhộn nhịp với một dáng tự hào và tin tưởng nhưng vẫn trật tự theo sự điều khiển của người cảnh sát giao thông Việt Nam.
Nhưng càng vào sâu trong thành phố, tôi mới thấy người Âu vắng bóng hoàn toàn. Không kể các đội tuần tiễu Nhật và lác đác một số người Trung Quốc, th́ h́nh như chỉ c̣n toàn là người Việt Nam. Ngoài những lá cờ đỏ biểu trưng của chính quyền Việt Minh chỉ c̣n có những thanh niên nam nữ mang vũ khí đi tuần ở phố và canh gác công sở. Họ không mặc đồng phục nhưng có băng tay của Đội quân giải phóng Nhân dân. Song nếu quan sát kỹ, th́ cũng thấy được ở chỗ này chỗ kia có những xe đầy lính có vũ khí đứng bên đường. Thoạt đầu tôi cho đó là những biện pháp nhằm để chống lại các cuộc rối loạn có thể xảy ra. Nhưng khi đến gần Cung Thiếu nhi, tôi thấy có một dinh thự lớn có lính Nhật gác với súng máy, dây kẽm gai và vật chướng ngại. Tôi ngạc nhiên, v́ ở ngay Tổng hành dinh Nhật cũng không có sự cẩn mật đến như vậy. Tôi hỏi và viên đại úy cảnh vệ nói ngay: “Nhà băng Đông Dương”. Việc bảo vệ đặc biệt đó là cần thiết v́ “đó là điểm duy nhất có giá trị c̣n lại trong thành phố”.
Về tới Métropole, tôi thấy khu vực đă bị bao vây bởi một vành đai những người Việt vũ trang và một phân đội lính Nhật đứng gác. C̣n trên vườn hoa và các phố chung quanh th́ chen chúc đầy những người Việt vừa hô khẩu hiệu, vừa hát và thỉnh thoảng lại xô ra định phá vỡ hàng rào bảo vệ, nhưng hành động của họ lại tỏ ra có ít nhiều thiện ư.
Viên đại úy Nhật của tôi liền chạy về phía người sĩ quan chỉ huy phân đội, c̣n thượng sĩ F. Altman trong toán cũng tới báo cáo cho tôi biết t́nh h́nh.
Có hai người Pháp đă đến báo tin là Sainteny và các sĩ quan đi cùng định vào Thành để thả số tù binh Pháp trong đó ra nhưng đă bị bắt giữ. Dân ở Métropole bị kích động đă rối lên. Có người Pháp đă dọa nạt những người “bồi” Việt và yêu cầu người Mỹ tổ chức một “đội trừng phạt” gồm những người t́nh nguyện Pháp để cứu Sainteny và các tù binh Pháp. Chủ khách sạn báo cho Nhật và họ đă nhanh chóng lập lại trật tự. Khi cảnh sát Việt Nam tới, người Pháp trong khách sạn đă la ó, chửi bới, và quần chúng xúm đông lại.
Cảnh binh đă bắt giữ hai người Pháp và Hiến binh Nhật đă xác định là hai tên khiêu khích. Theo yêu cầu của tôi,, viên đại úy Nhật đă gọi dây nói đến dinh Toàn quyền và được trả lời là Sainteny vẫn c̣n ở đó và không hề bị bắt. Vụ kích động tan đi, nhưng tôi hiểu hơn tại sao người Nhật lại phải bố trí các xe đầy lính ở các phố bên cạnh. Cái thành phố trông như b́nh thường và hiền lành này chỉ là trên bề mặt, một việc chút xíu cũng đủ làm nó bùng nổ.
Toán OSS của chúng tôi đă trở thành một trung tâm quyền lực của Đồng minh. Ai cũng có một lư do hay một mong muốn được tiếp xúc với nó. Người Pháp đến để kêu ca yêu cầu và mưu tính. Người Việt đến để xem như là những người bên trong của Phái đoàn Mỹ. Người các nước khác cũng đến với những lư do riêng của ḿnh.
Trong số những người đến đầu tiên, có viên lănh sự Thụy Sĩ, Robert Blattner. Sau khi nêu chức vụ được ủy nhiệm, ông báo cho tôi biết là ông cũng đại diện cho quyền lợi của Đức, Ư và một số các nước khác. Tôi cảm ơn ông đă đến thăm nhưng nói là không muốn dính líu đến các công tác lănh sự và báo cho ông biết, cũng có thể sau này Bộ Ngoại giao sẽ phái đến một người đại diện chính thức.
Một người khác cũng đến sớm là ông giám đốc Ngân hàng Đông Dương. Ông lo lắng ra mặt và “hỏi xem” tôi có thay người kiểm soát và lính gác Nhật bằng người của Đồng minh hoặc Pháp được không. Ông bối rối v́ trong tuần trước người Nhật đă rút ở Ngân hàng ra những món tiền lớn và họ c̣n đang đ̣i hỏi nhiều hơn nữa “để trả cho việc chi tiêu nhằm duy tŕ pháp luật và trật tư cũng như việc bảo trợ cho người Pháp”. Tôi phát biểu lấy làm tiếc rằng ông đă gặp những khó khăn với những khách hàng cũ của ngân hàng, nhưng việc đó lại không trực tiếp thuộc quyền giải quyết của tôi.
Ông ta bỏ về với một bộ mặt giận dỗi.

HÀ NỘI LĂNH ĐẠO CUỘC KHỞI NGHĨA NHƯ THẾ NÀO?

Hai đại diện của Thành ủy Hà Nội, Vũ Văn Minh và Khuất Duy Tiến, đă đến ngay để đặt “quan hệ thân thiện với Đồng minh”. Tôi rất muốn được nghe Việt Minh đă nắm chính quyền ở Hà Nội như thế nào và ông Tiến đă vui ḷng kể lại.
Điểm đầu tiên mà ông nói là “nhân dân đă chiếm quyền mà không có đổ máu”. Và ông tự hào cho biết “tất cả các ngành phục vụ và dịch vụ công cộng tiếp tục làm việc không gián đoạn” dưới sự điều hành của người Việt Nam địa phương. Những điều tôi chứng kiến đă xác định lời ông nói. Nước vẫn chảy trong ống dẫn, điện bật công tắc lên là có, nước trong buồng tắm khách sạn vẫn chảy xiết, điện thoại vẫn kêu. Các cửa hàng và chợ trưng bày đầy hàng, chứng tỏ luồng tiếp tế ở các địa phương chuyển về mạnh và tôi c̣n trông thấy cả một số xe tải và xe buưt chạy trên đường phố, điều đó có nghĩa là vẫn có ít nhiều xăng dầu và giao thông công cộng.
Tiến nói tiếp, sau vụ Nagasaki th́ ở Hà Nội mọi người đă tin chắc rằng “Mặt trời đang lên đă đến lúc phải lặn”, nhưng tại Hà Nội, Việt Minh vẫn không nhận được một chỉ đạo đặc biệt nào. Trong nhiều ngày, hội viên các Đoàn thể Cứu Quốc đă thảo luận xem sẽ phải hành động như thế nào khi Nhật đầu hàng. Vào ngày 11-8, họ nhận được tin ủy ban Trung ương Đảng triệu tập Quốc dân Đại hội, nhưng giao thông liên lạc giữa Hà Nội và Tân Trào rất chậm và không an toàn, và nhiều hội viên Việt Minh Hà Nội vẫn phải sống trong một ṿng bí mật.
Ngày 13 (ngày Hội nghị Đảng khai mạc ở Tân Trào), Xứ ủy Bắc Kỳ họp ở ngoại ô Hà Nội để ấn định phương hướng hoạt động. Một ủy viên nêu vấn đề viên Phó vương Bắc Kỳ (Khâm sai) Phan Kế Toại đă nhiều lần tỏ ư mong được gặp đại diện của Việt Minh. Ông này được mọi người biết là ủng hộ độc lập dân tộc nhưng dưới một triều vua Việt Nam và do Nhật đỡ đầu. Xứ ủy liền cử Nguyễn Khang(1) đi gặp viên Khâm sai để t́m hiểu xem ông có ư ǵ. Đúng như đă được dự kiến, viên Khâm sai đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Bảo Đại(2) và ngừng các hoạt động chống Nhật. Khang đă bác bỏ lời đề nghị.
Hai ngày sau, khi Nhật tuyên bố đầu hàng, những người cách mạng ở Hà Nội vẫn không nhận được mệnh lệnh ở Tân Trào. Họ lại họp(3) và quyết định hành động trên cơ sở chỉ thị ngày 12-3 của Thường vụ ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương “cho phát động tổng khởi nghĩa khi có hoàn cảnh thuận lợi”. Họ cho đó là một sự phê chuẩn đầy đủ để hành dộng và Nguyễn Khang trong đêm ấy đă phổ biến quyết định cho những người cách mạng ở Hà Nội.
Để đối phó với một cuộc chiếm đóng của Trung Quốc, hoặc cũng có thể của cả Pháp, các nhà chức trách Nhật ở Bắc Kỳ đă bày ra cách bàn giao cho viên Khâm sai bộ máy hành chính địa phương, sở Bảo an binh, sở Mật thám trung ương, sở Kiểm duyệt và một số công sở ít quan trọng khác. Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ, trong một cố gắng cuối cùng nhằm duy tŕ quyền lực cho Chính phủ Kim đă chết, đă bí mật họp ngày 16-8 ở Phủ Thống sứ và bằng một cử chỉ oanh liệt, tuyên bố tập họp quần chúng đi theo Bảo Đại, né tránh những người Cộng sản quốc gia, và hoăn không thời hạn rồi giải tán.
Cuối cùng, những người cách mạng Hà Nội cũng đă nhận được lệnh của Tân Trào cho phép phát động tổng khởi nghĩa, nhưng bản thảo luận họ lại thấy chưa được chuẩn bị sẵn sàng. Họ thấy cần phải phát động được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân và tiến hành một cuộc biểu dương lực lượng, nhưng cũng chưa biết phải làm thế nào. Gặp vận may hiếm có, chính đối phương của họ đă tạo nên một cơ hội tuyệt vời. Các phần tử dao động trong chính quyền Trần Trọng Kim, trong một cố gắng vô vọng nhằm để cứu văn địa vị đang sụp đổ của ḿnh, đă triệu tập một cuộc mít tinh quần chúng của Tổng bộ Viên chức vào ngày 17-8. Nắm ngay lấy cơ hội trời cho này, Thành ủy Hà Nội quyết định một cách táo bạo: bung phong trào Việt Minh ra công khai bằng cách phá vỡ cuộc mít tinh và chuyển nó thành một cuộc biểu dương lực lượng của Việt Minh. Trong khoảng thời gian c̣n lại quá ngắn ngủi, họ sôi sục chuẩn bị sắp đặt những thanh niên nam nữ đă được huấn luyện đặc biệt của Đội tuyên truyền vũ trang vào các vị trí chiến lược trong đám quần chúng để sẵn sàng đạo diễn cho tấn kịch.
Quần chúng tập trung trước cửa Nhà hát lớn để nghe các diễn giả chống Cộng kêu gọi ủng hộ độc lập dân tộc dưới quyền bảo trợ của Nhật. Khi người phát ngôn chính thức đầu tiên bắt đầu lên tiếng th́ các đội viên Đội tuyên truyền cũng trương các cờ đỏ sao vàng ra và hô to “ủng hộ Việt Minh”. Mọi người hô theo và một sự hỗn loạn cực độ đă phá vỡ hoàn toàn chương tŕnh tổ chức. Đâu cũng có cờ đỏ, nhấp nhô tung bay phất phới trên đầu quần chúng, ḥa theo với những bài ca “Độc lập hay là chết”, “Đả đảo thực dân Pháp”, “Đế quốc Nhật cút đi” v.v... Ban tổ chức gắng lập lại trật tự nhưng đă quá muộn, họ không c̣n kiểm soát được t́nh h́nh nữa. Lúc đó, theo một tín hiệu đă định trước, nhiều đội viên đội danh dự, súng ngắn trong tay, nhảy lên bục và dồn các viên chức của Bảo Đại vào một góc, hạ cờ nhà vua xuống và trương cờ Việt Minh lên.
Các cán bộ tuyên truyền chuyển sang vừa kêu gọi quần chúng, vừa hô khẩu hiệu nhưng không có kết quả; quần chúng không tha thiết nữa và sự náo động bắt đầu nổi dậy. Cuối cùng, Nguyễn Khang, bằng những lời kêu gọi đầy xúc động, đă kéo quần chúng trở lại với việc ủng hộ Việt Minh. Lập luận của ông là Việt Nam đă giành lại được độc lập từ tay người Nhật, chứ không phải từ người Pháp, v́ Pháp đă dâng Đông Dương cho Nhật từ năm 1940. Nay Nhật bị Đồng minh đánh bại và Việt Nam đă được tự do. Khang đă nói về độc lập đối với tất cả các nước ngoài - Nhật, Pháp và Trung Quốc, đă kết tội chính quyền Kim phục vụ quyền lợi cho ngoại quốc và kêu gọi quần chúng nổi dậy đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc cùng với Mặt trận Việt Minh và các nước Đồng minh chiến thắng.
Được quần chúng vững vàng ủng hộ, Khang yêu cầu họ sắp thành hàng và diễu hành tới dinh Toàn quyền để biểu thị t́nh đoàn kết và sức mạnh của ḿnh. Lúc đó là một thời điểm khá gay cấn v́ không một ai biết được Nhật và lính Bảo an sẽ làm ǵ. Nhưng họ đă không hành động để can thiệp. Khi cuộc diễu hành bắt đầu, binh lính Bảo an bồng súng và đi vào hàng cùng với những người biểu t́nh - một thắng lợi cực kỳ to lớn cho Việt Minh. Dọc đường, một số lớn những người ngoài cuộc cũng ùa đi theo cho nên một trận mưa trút nước lúc đó cũng chẳng làm dịu bớt tinh thần quần chúng. Cuộc biểu t́nh là một thắng lợi hết sức to lớn. Ngoài một sự xô đẩy nhỏ trên bục diễn giả, th́ ở đây không có bạo lực và đổ máu.
Cuộc mít tinh quần chúng đă thể hiện như là một sự xuất hiện công khai và không có đối lập đầu tiên của Việt Minh coi như là một lực lượng chính trị, và điều đó đă phát động được sự phấn khởi của quần chúng tiến hành nhiều cuộc diễu hành và diễn thuyết đầy những lời ca tụng suốt trong ba hôm.
Ngay tối hôm đó, Thành ủy họp một phiên chiến lược và kết luận đúng là đă đến thời điểm phải tiến lên. Họ lư luận rằng chính quyền Kim đă không dám đương đầu với họ, trong khi đó th́ lực lượng an ninh và cảnh sát sẽ đi theo họ cùng với vũ khí và tất cả. Họ thấy không có dấu hiệu là quân bại trận Nhật sẽ có hành động chống lại. Ngay cả đến đám thị dân vô chính trị cũng tỏ ra có cảm t́nh với chính nghĩa của họ. Một sự tŕ hoăn có thể trở nên nguy hiểm. Người Nhật cũng có thể thay đổi ư định của họ. Đám Quốc dân đảng thù địch như Đại Việt(4) và Phục Quốc(5) đă có những đơn vị vũ trang cũng có thể tổ chức chống đối. C̣n quần chúng cũng có thể trở thành thờ ơ. Do đó Thành ủy đă có quyết định lịch sử ra lệnh khởi nghĩa vào ngày 19-8.
Lại bắt đầu một cuộc chuẩn bị sôi sục. Một ủy ban Quân sự cách mạng vạch kế hoạch tiến hành trong ngày, bắt đầu là một cuộc tập hợp quần chúng to lớn, sau chuyển thành một cuộc diễu hành khổng lồ tiến về dinh Toàn quyền, dinh Thống sứ, sở Mật thám, trại Bảo an binh, chợ và các mục tiêu khác gặp trên đường đi.
Sáng tinh mơ 19-8, một ngày chủ nhật, các đội viên Đội vơ trang tuyên truyền tản ra các vùng ngoại ô và làng xóm chung quanh kêu gọi dân chúng đến tham gia vào cuộc tập trung ở trước cửa Nhà hát lớn. Đến 9 giờ, nhiều ḍng người đi bộ hoặc xe đạp, theo từng nhóm gia đ́nh hoặc láng giềng, lũ lượt phấn khởi kéo vào thành phố. Một số mặc lễ phục hoặc y phục địa phương. Họ được phát cờ Việt Minh hoặc các biểu ngữ mới được làm từ hôm trước và được tập dượt một cách vội vàng hoan hô hoặc hát mỗi khi có lệnh. Hầu hết mọi người đều gấp rút học lời và điệu bài quốc ca tương lai “Tiến quân ca”.
Họ từ mọi phía kéo về quảng trường trước cửa Nhà hát lớn, tràn vào các đường phố trong khu vực, h́nh thành một cảnh tượng đáng kinh sợ, một biển người đội trên đầu hàng ngàn cờ đỏ. Không có ǵ quá đáng trong sự diễn tả và các ảnh chụp lúc đó của những người Pháp được chung kiến. Dẫn đầu các ḍng người là những đơn vị tự vệ được trang bị bằng tất cả mọi thứ vũ khí, từ khẩu súng tối tân Nhật cho đến khẩu mousqueton(6) của Pháp, súng kíp cổ lỗ và súng săn.
Đến giữa trưa, lực lượng của cuộc mít tinh lớn này được tổ chức lại thành các đội xung kích và tiến về hai hướng khác nhau. Một cánh tiến thẳng về phía dinh Thống sứ, chung quanh có hàng rào sắt cao che, có lính Nhật và lính Bảo an cùng gác. Những người biểu t́nh lao về phía hàng rào và kêu gọi binh lính hạ súng đầu hàng. Lính gác ngập ngừng, trong khi đó th́ nhiều tự vệ đă leo vọt qua được hàng rào. Thấy thế, binh lính chỉ c̣n cách vứt súng xuống đất trước mắt họ và lặng lẽ rút lui. Những người biểu t́nh đă lọt vào trong và mở cổng. Dinh Thống sứ đă “bị chiếm”. Người ta phát hiện ra ngay viên Khâm sai và đám tùy tùng đă trốn đi từ trước. Đội tự vệ chiếm lĩnh ṭa nhà, trương cờ Việt Minh lên thay vào chỗ cờ của nhà vua và đặt canh gác.
Đó là một thắng lợi cụ thể đầu tiên của Việt Minh và nó đă có tác dụng tượng trưng vô cùng to lớn. Chỉ trong một đ̣n và không phải bắn một phát súng, khái niệm về chế độ thực dân bị tan vỡ và toàn bộ chính quyền bù nh́n Bảo Đại công khai bị lật đổ.
Đội tự vệ Việt Minh đă t́m được một chỗ cất giấu lớn đầy vũ khí mới và đạn dược trong kho dinh Thống sứ. Có vũ khí mới, lại được một số Bảo an đào ngũ tăng cường thêm, đội tự vệ tiến về các công sở khác và đă chiếm được một cách dễ dàng.
Cánh thứ hai ào tới trại Bảo an binh. Viên chỉ huy trại, vốn là một người cảm t́nh bí mật của Việt Minh, đă nhanh nhẹn mở cổng vào trao nộp ch́a khóa kho vũ khí. Việt Minh chiếm được nhiều vũ khí hiện đại, nhưng chỉ sau đó vài phút, họ đă phải đương đầu ngay với nhiều xe tăng cùng với nhiều xe vận tải đầy bộ binh Nhật được điều tới. Đây là một khó khăn. Những vũ khí mới cũng không giúp ǵ cho những người nổi loạn v́ họ không biết sử dụng và Nhật cũng hay được điều đó. Dù sao th́ khi nh́n thấy những vũ khí của Việt Minh, người Nhật cũng phải suy nghĩ. Trong lúc đó họ c̣n đang do dự th́ Lê Trung Nghĩa(7) đă lên tiếng một vài lời và tác động mạnh đến họ bằng cách khéo léo chỉ ra cho họ biết là người Nhật đă bị bại trận và sắp tới họ sẽ được hồi hương. Người Việt Nam, Nghĩa nói, không c̣n coi họ là kẻ thù của ḿnh nữa và nếu như họ không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, Nghĩa sẽ bảo đảm an ninh cho họ. Đến đó viên chỉ huy Nhật liền rút lui, để lại khu vực cho Việt Minh.
Đến chiều th́ toàn bộ thành phố, trừ nhà Ngân hàng Đông Dương, Phủ Toàn quyền và các doanh trại Nhật, đă thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh hay chính xác hơn, của Thành ủy Hà Nội.
Trong nhiều năm, nhiều câu chuyện huyền thoại đă lan truyền chung quanh việc “chiếm” Hà Nội. Đây không phải là một cuộc đảo chính, không có đổ máu, không có khủng bố trả thù, không có chống cự của người Pháp, không có âm mưu bí mật hoặc điều đ́nh thông đồng với Nhật và ngay cả đến một sự giúp đỡ to lớn của người Việt Nam ở bên ngoài Hà Nội cũng không có. Ngay sau khi ông Tiến kể lại các sự việc này với tôi, bốn ngày sau khi xảy ra sự kiện, tướng Giáp và đơn vị bộ đội thiện chiến của ông, cùng với thiếu tá Thomas và toán “Con Nai” vẫn c̣n đang đánh nhau với Nhật ở Thái Nguyên, cách xa Hà Nội khoảng 40 dặm. Hà Nội, thủ phủ của Bắc Kỳ, trung tâm quyền lực thực dân Pháp ở bắc Đông Dương, đă tự giải phóng lấy ḿnh và đặt ra một khuôn mẫu cho việc giải phóng phần lớn khu vực c̣n lại của đất nước.
Câu chuyện t́m hiểu về Hà Nội đă phải ngừng lại v́ trung úy Ogoshi tới, mang theo một công văn riêng của tướng Tsuchihashi. “Bộ chỉ huy tối cao”(8) lấy làm lo ngại về việc quân đội Trung Quốc tiến vào bắc Đông Dương. Các tiền đồn ở biên giới của Nhật báo cáo có 3 cánh quân Trung Quốc đă vượt qua biên giới ở Lào Cai, Hà Giang và Cao Bằng, và đang tiến về phía nam. V́ chưa tiến hành việc kư kết đầu hàng và người Nhật ở đây chỉ nhận được chỉ thị của Tokyo là “ngừng bắn”, nên việc vượt qua biên giới là không có lư do chính đáng và quá sớm. Do đó cũng có thể hiểu được rằng t́nh h́nh đă bắt buộc Nhật phải tự vệ để chống lại các cuộc tiến công của Đồng minh có thể xảy ra.
Nói thêm về bản công hàm của Sài G̣n, Ogoshi cho biết quan điểm của Tsuchihashi là việc vượt qua biên giới Đông Dương trước khi có sự kư kết đầu hàng cuối cùng sẽ gây ra tai họa cho t́nh h́nh chính trị tại Hà Nội, có thể gây nhiễu loạn và náo động trong dân chúng người Việt và người Pháp.
Tôi đă không chấp nhận bản công hàm và cho rằng nó có giọng kiêu căng và dọa nạt. Tôi lên tiếng báo cho biết rằng nếu các nhà đương cục Nhật ở Đông Dương muốn làm trái với lời công bố của Hoàng đế họ th́ điều đó không có liên can ǵ đến người Mỹ cả.
Viên trung úy Nhật thấy tôi từ chối dứt khoát, có thể sẽ phải báo cáo lên cấp trên là đă không thực hiện được việc chuyển bức công hàm của Thống chế(9) cho Đồng minh. Tôi hiểu rơ và thông cảm với t́nh cảnh khó khăn của anh ta nên gợi ư là trong khi cuộc thương lượng ở cấp chúng ta chưa được xúc tiến th́ có lẽ Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam nên đề xuất vấn đề này với cấp chính phủ ở Tokyo. Viên trung úy liền tươi tỉnh hẳn lên và xin rút lui.
Tôi báo ngay cho Côn Minh biết về bản công hàm và sự từ chối của tôi. Một giờ sau, tôi nhận được điện của Heppner: “Khá lắm!”

NHỮNG TIN ĐỒN ĐẠI VỀ MỘT CUỘC THOÁI VỊ

Đang lúc bận rộn công việc th́ một phóng viên UPI gọi điện báo muốn gặp tôi để kể về câu chuyện chúng tôi đến. Tôi hỏi ông ta về t́nh h́nh Huế và Sài G̣n. “Ồ, ở Huế có lắm chuyện lắm!”, ông nói, và tôi mời ông tối đến chỗ tôi, sau bữa cơm chiều. Ông ta là một nhà báo Việt Nam có nguồn tin khắp Đông Dương và đă làm việc cho UPI từ nhiều năm.
Vừa dùng cà phê và rượu mạnh, ông vừa cho biết tin về cuộc chiếm Hà Nội thành công đă lan đi rất nhanh, theo ông th́ hăy c̣n quá sớm để có thể kết luận là Việt Nam đă được tự do và độc lập, nhưng quá rơ ràng là phong trào đă thổi bùng được sức tưởng tượng của quần chúng và không có ǵ ngoài một lực lượng vũ trang có thể khôi phục lại nguyên t́nh trạng cũ. Đă khẳng định được là khởi nghĩa đă thắng lợi ở ít nhất 7 tỉnh lỵ ở Bắc Kỳ và 5 ở Trung Kỳ như Việt Minh đă công bố. Cũng như ở Hà Nội, Việt Minh đă kiểm soát hoàn toàn các bộ máy hành chính ở địa phương. Các “Ủy ban nhân dân” của dân địa phương đă được thành lập ở các thành phố, làng xóm để điều khiển các ngành phục vụ công cộng và ṭa án, duy tŕ trật tự v.v...
Thế c̣n Chính phủ Trần Trọng Kim?”. “Nó đă hoàn toàn bị tan ră”. “Thế c̣n người Nhật? Tại sao họ lại không can thiệp?”.
Ư kiến của ông ta phù hợp với ư kiến ông Tiến, cho rằng sau các vụ nổ bom hạt nhân, Bộ chỉ huy tối cao Nhật ở Đông Nam Á đă tiến hành những biện pháp chuẩn bị cho việc đầu hàng không thể tránh khỏi. Theo ông, Nhật quyết định bàn giao chính quyền lại cho người Việt là do một động cơ phân biệt chủng tộc sai lầm. Từ đầu 1930, người Nhật đă đề xướng ra một chương tŕnh đoàn kết chủng tộc để chống lại người da trắng ở châu Á, chủ yếu dựa vào bọn Sô-vanh hiếu chiến trong quân đội và những phần tử phân biệt chủng tộc trong Hiến binh. Chương tŕnh Liên Á đó chỉ thu được kết quả ít ỏi trong người Việt Nam, nhưng sau thất bại trong chiến tranh, những phần tử cực đoan trong bộ chỉ huy của Thống chế Terauchi lại lặp lại chương tŕnh đó với ư đồ đặt các nước Đồng minh phương Tây trước một vấn đề chủng tộc để nhằm làm phức tạp các vấn đề khác trong việc chiếm đóng sau chiến tranh.
Chính v́ mục đích đó mà người Nhật ở Đông Dương đă chuyển giao phần lớn trách nhiệm chính quyền cho Chính phủ Bảo Đại đang chao đảo ngay sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng. Trần Trọng Kim, Thủ tướng của Bảo Đại, đă đưa đơn xin từ chức và lúc đó đang ở Huế chờ được chấp nhận. Viên phó vương Bắc Kỳ, Phan Kế Toại, cũng đă có ư muốn gắn bó với chính quyền lúc đó, nhưng sau cuộc họp cuối cùng của Hội đồng Tư vấn ngày 16-8 (buổi họp mật mà Tiến đă kể), viên Phó vương và hầu hết các phụ tá của ông đă cùng với các quan chức cao cấp chạy trốn vào kinh đô Huế.
Người của UPI cho rằng cái kế hoạch tai quái đó của Nhật đă bị thất bại, ít nhất cũng một phần, v́ Nhật đă không 1ường trước được phải đối phó với một lực lượng thứ ba là Việt Minh. Tuy là người Châu Á, nhưng Việt Minh cũng c̣n là Cộng sản, chống Nhật kiên quyết, và là những người quốc gia vững vàng, và cũng chính vậy mà bọn phân biệt chủng tộc đă thất bại. Theo ông, trong t́nh h́nh đó, người Nhật đă chọn con đường để mặc sự đời, lo giữ an toàn cho bản thân ḿnh và không làm ǵ để chống lại với lực lượng mới.
“Thế c̣n Bảo Đại?, chúng tôi hỏi tiếp, “Có một sự chống đối có tổ chức chống lại Mặt trận Việt Minh không?”.
Nhà báo, ra ngoài đề một chút, đă nhắc lại câu chuyện sau ngày 9-3 người Nhật đă phải t́m những nhân vật khác để quản lư đất nước phục vụ cho bộ máy chiến tranh của Nhật. Họ không muốn bị lên án là tiếp tục duy tŕ chủ nghĩa thực dân Pháp, do đó đă tuyên bố cho Đông Dương độc lập và yêu cầu Bảo Đại hợp tác trong khối thịnh vượng chung Đại Đông Á và pḥng thủ đất nước chống lại Đồng minh.
Theo ông nghĩ, Bảo Đại cũng không mơ tưởng ǵ đối với người Nhật nhưng cũng phải ưng thuận và thành lập một Chính phủ mới mà Tokyo có thể chấp nhận, chỉ định Kim, một trí thức có tuổi, làm Thủ tướng. Chính phủ gồm phần lớn các giáo sư, luật gia và một số quan lại cũ. Một chính phủ ốm yếu và tất phải sụp đổ ngay từ bước đầu. Bốn tháng hoạt động không có kết quả đă đưa Kim đến chỗ phải xin từ chức đúng giữa lúc Việt Minh đă sẵn sàng phải tiến lên.
“Thế Bảo Đại làm thế nào?”, chúng tôi lại hỏi. Ông đáp, Bảo Đại đă yêu cầu Kim ở lại và cuối cùng Kim đă cho ra một thông cáo báo chí nói rơ ư định của ông ta nhằm bảo vệ độc lập của Đông Dương giành lại được từ tay người Nhật ngày 9-3 và nhấn mạnh rằng người Việt Nam không khi nào chịu để cho Pháp nô dịch một lần nữa.
Hai ngày sau, Kim xúc tiến việc thống nhất các nhóm chính trị và tư tưởng khác nhau trong việc ủng hộ cố gắng của Bảo Đại nhằm cứu văn “Vương quốc” bằng cách thành lập ra một “Ủy ban cứu quốc”. Ngày hôm sau Việt Minh chiếm Hà Nội.
Chúng tôi nói chuyện cho đến tận khuya và lúc đó nhiều tin đồn đại về việc Bảo Đại sắp thoái vị và lan tràn ra khắp phía. Triển vọng thành h́nh làm cho người khác chán nản, theo quan điểm của họ th́ một sự kiện như thế có thể sẽ chấm dứt các yêu sách đối với thuộc địa cũ của Pháp. Cảm tưởng của người Việt th́ lẫn lộn. Một số, chấp nhận xu hướng thân Nhật của chính quyền Bảo Đại, lại lập luận rằng ít nhất đó cũng là một chính quyền Việt Nam và không thân Pháp.
Căn cứ vào các nguồn tin tôi có lúc đó, th́ chính quyền Bảo Đại thực sự đă chấm dứt và Việt Minh đă nắm được chính quyền khắp nơi, mặc dù tôi không đánh giá hết được quy mô thắng lợi của họ. Tin tức của chúng tôi từ Sài G̣n gửi đến th́ quá vụn vặt. C̣n các phần tử thân Trung Quốc, đối lập với Việt Minh lúc đó mới bắt đầu ló ra, có thể v́ họ biết tin quân đội chiếm đóng Trung Quốc đă sẵn sàng vượt qua biên giới. Toán của chúng tôi cũng thu lượm được một ít báo cáo về sự khiêu khích của Pháp và hoạt động của đội quân thứ 5 của Nhật.
Về vấn đề t́nh h́nh tù binh chiến tranh và việc đầu hàng của lực lượng Nhật, tôi cũng gặp khó khăn. Một ngày, một đêm rồi mà vẫn không nhận được tin ǵ của tướng Tsuchihashi. Phiền hơn nữa là tôi đă lường trước việc Trùng Khánh sẽ đưa ra các điều kiện và ư kiến của họ về cuộc đầu hàng, ấy thế mà các điện báo của họ vẫn hoàn toàn im lặng về vấn đề này. Thật là một điều lạ lùng đối với tôi, đại diện cho những nước lớn thắng trận mà vẫn bị bất lực chỉ ngay trong việc gặp gỡ với các tù binh chiến tranh.
Chú thích :

(1) lúc đó là Chủ tịch Ủy ban quân sự Cách mạng Hà Nội
(2) tức chính phủ Trần Trọng Kim
(3) Cuộc họp diễn ra ngày 15-8-1945, tại làng Vạn Phúc, ngoại ô Hà Nội
(4) tức Đại Việt Quốc dân đảng
(5) tức Việt Nam Phục quốc Đồng minh hội
(6) súng trường
(7) Ủy viên Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội
(8) Cụm Tập đoàn quân Nam của Nhật
(9) tức Bá tước Hisaichi Terauchi, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Nam của Nhật

 

Chương 18
Những lời kêu gọi và những người kêu gọi

SAINTENY TRONG “LỒNG VÀNG”
Tôi chú ư đến Sainteny và nhóm của ông ta sau khi có một báo cáo giả mạo về việc họ bị bắt.
Chúng tôi thăm nhóm này tại dinh Toàn quyền, không những thấy họ “khỏe và vui vẻ”, mà c̣n thấy đẻ thêm ra: nhóm có 5 người nay, tăng lên thành 11. Số mới là từ toán của Blanchard tới, trước họ ở Hải Pḥng nhưng nhờ sự giúp đỡ của Nhật nên đă nhập vào với Sainteny.
Sáng hôm sau, tôi tới thăm Sainteny một ḿnh. Ông ta phàn nàn một cách bi thảm rằng thực tế ông ta là một người tù trong dinh và tôi không làm ǵ để giúp ông ta cả. Đoạn ông ta nói đến chuyện đang làm ông ta giận sôi lên. Một tờ báo địa phương của Đông Dương đă viết: “Việt Minh đă chiến đấu cùng với quân Mỹ ở Bắc Kỳ, sẽ nhanh chóng kéo về để đánh đuổi nhũng kẻ áp bức ngươi Pháp là thủ phạm đă làm cho 2 triệu người chết đói năm ngoái”. Bài báo c̣n làm Sainteny choáng váng v́ đă nêu đích danh thiếu tá Thomas trong khi Sainteny vẫn c̣n cay cú về vụ Montfort... Nhưng chúng tôi đă gác chuyện đó lại để nhận định t́nh h́nh Pháp ở Hà Nội.
Trước hết, vẫn c̣n tù binh Pháp ở trong Thành. Tôi hỏi có trường hợp quan trọng đặc biệt nào cần phóng thích mà ông ta muốn tôi gây sức ép để thả ra không? Sainteny vội nói: Có, tất cả những người Pháp đang bị giam giữ. Tôi không tin là chúng ta có thể làm cho người Nhật thả ra tất cả, nhưng cũng đồng ư đặt thành một vấn đề thảo luận với Nhật. Sainteny cho biết ông ta không thể làm được ǵ cả trong t́nh trạng bị giữ như một người tù trong dinh, sau này được nói đến như là một một thứ “lồng vàng”.
Vấn đề thứ hai Sainteny nói tới là t́nh thế của người Pháp ở Hà Nội. Có thể làm được ǵ cho họ? Tôi khuyên rằng cách tốt nhất cho họ vào thời điểm này là nên lắng lặng để tránh bất cứ sự cố ǵ có thể dẫn đến việc trả thù phía người Nhật cũng như người Việt Nam. Theo đánh giá của tôi th́ t́nh h́nh không ổn định trên tất cả các thành phố Bắc Kỳ sẽ đặt người Pháp vào t́nh trạng tự sát, nếu họ co ư muốn đối đầu với Việt Minh. Nhưng Sainteny lại tỏ ra không b́nh tĩnh trước việc tôi không tán thành một cuộc biểu dương lực lượng của Pháp.
Tôi cũng mô tả cho Sainteny thấy đang có một xu hướng thân Trung Quốc nổi lên mạnh mẽ trong một số giới dân chúng, và toàn thành phố tràn đầy cờ Trung Quốc và những áp phích ủng hộ Quốc dân đảng. Ông ta lại cho rằng như vậy là có lợi cho người Pháp v́ nó cho thấy là Việt Minh không kiểm soát được toàn bộ dân bản xứ. Tôi phải đồng ư, nhưng vẫn cho rằng không có dấu hiệu ǵ tỏ ra họ ủng hộ người Pháp. Sainteny quả quyết nói chúng ta không thể cho phép người “Annam” tự do cầm cương nẩy mực trên đất nước này được.
Chúng tôi lại bị kéo lại một vấn đề cũ, nhưng tôi không có ư định để cho phái đoàn của chúng tôi bị lôi cuốn vào kế hoạch của Sainteny. Chẳng một ai tin được rằng một cuộc đấu sức liều lĩnh của tất cả người Pháp ở Bắc Kỳ lại có phép thần diệu lật đổ được Việt Minh trong lúc này. Ngược lại, việc đó sẽ chống lại họ một cách không thể cưỡng lại được. Cũng có điều thật đáng ghi nhận là dân chúng Pháp tại Hà Nội, trong khi tha thiết mong nhóm nhỏ người Mỹ chúng tôi lao vào tấn công Thành Hà Nội th́ chưa có một lúc họ dám khởi sự mở một trận đánh của người Pháp vào đó, cả trước và sau khi Sainteny tới. Trong bất cứ t́nh huống nào, toán của chúng tôi đến đây không phải là để tiến hành đánh hộ cho người Pháp.
Sainteny thường xuyên bất đồng với tôi về vấn đề này, nhưng tôi cũng sẵn sàng để ông giang rộng hai tay ra và nói: “Thôi được, cả hai chúng ta hăy cố gắng làm lấy phần việc của ḿnh. Tôi hiểu lập trường của ông. Ông làm ơn gửi bức điện này đến tướng Alessandri hộ tôi có được không? . Tôi nhận lời. Và đây là bức điện:
“Tất cả quân nhân Pháp dưới quyền thiếu tá Sainteny đang bị giam giữ tại tầng một dinh Toàn quyền. Họ không được phép đi quá đường biên quy định và cũng không được phép gặp người đến thăm, trừ Patti”.
Khả năng có thể xảy ra cuộc đụng đầu nguy hiểm là việc cần phải ngăn chặn trước hết. Báo chí đă đăng tin Thomas đến đây và lại được gán cho việc dẫn đầu đạo quân của ông Hồ, điều đó báo hiệu là sẽ có một cuộc biểu t́nh lớn chống Pháp. Cho rằng những cuộc biểu t́nh này đôi khi có thể trở thành những cuộc tàn sát, nên khi trở về khách sạn, tôi điện cho Côn Minh về bài báo, nhấn mạnh tầm quan trọng phải thuyết phục toán “Con Nai” của chúng ta tách khỏi lực lượng Việt Minh và rời Hà Nội trở về Côn Minh bằng đường hàng không. Tôi cũng báo trước là rối loạn thật sự có thể nổ ra nếu một quân nhân Pháp quất hiện trên đường phố của bất cứ thành phố nào ở Bắc Kỳ và yêu cầu bằng những lời lẽ kiên quyết nhất cho rút 3 toán biệt kích (SO) của chúng tôi đang hoạt động dọc biên giới phía Bắc, trở lại Côn Minh, trước khi cho họ đáp máy bay đi Hà Nội, nhưng không được để những đồng nghiệp người Pháp của họ đi cùng. Tôi hy vọng bằng cách này sẽ tách được tất cả người Mỹ chúng tôi ra khỏi hoạt động của Việt Minh cũng như của người Pháp. Nhưng các toán biệt kích của chúng tôi rất ngang bướng. Mệnh lệnh cho họ đến Côn Minh không có hiệu lực ǵ mấy, v́ họ đang hăng say và muốn tiếp tục theo đuổi con đường riêng của ḿnh cho tới khi đạt thắng lợi.
Trong khi tôi làm ít nhiều những điều vô bổ này th́ thượng sĩ Altman phải đi đón chiếc máy bay chở đợt thú hai của toán chúng tôi đến cùng với mấy tạ đồ tiếp tế khẩn cấp của AGAS gửi cho các tù binh... Đồng thời đoàn của chúng tôi, để có chỗ rộng răi và an toàn hơn, cũng chuyển đến nơi ở mới. Grelecki đă chọn trong số nhà trước đây do người Nhật ở, lấy nhà Gauthier rộng răi và thanh lịch với vườn hoa và khu đất đầy quyến rũ cạnh hồ Gươm.
Một việc trọng đại hơn nữa là tôi đuợc báo cho biết tướng Tsuchihashi đă đồng ư cho tôi đến thăm tù binh chiến tranh, mặc dù ông ta vẫn từ chối phóng thích các tù binh đó cho đến khi các lực lượng chiếm đóng tới.
Tôi chuẩn bị ngay với người Nhật để đến xem xét Thành Hà Nội và trại tù binh Gia Lâm.

TÙ BINH CHIẾN TRANH

“Thành” là một doanh trại quân đội cũ của người Pháp ở khu vục bắc Hà Nội, gồm gần 100 nhà lầu đủ các loại… Trước đây là nhà tù quân sự có tiếng của Pháp, bây giờ đang giam giữ những người mà người Nhật coi là những tù nhân phiền nhiễu nhất của họ, trong đó có cả những “chiến sĩ kháng chiến” của De Langlade - Mordant.... Ở cổng Thành, chúng tôi(1) được một thiếu tá Nhật đón... và dẫn chúng tôi tới ban quản lư trại gặp trung tá Kamiya(2), một sĩ quan Nhật khá lịch sự...
Tôi đề nghị bắt đầu được xem bản danh sách tù binh... Kamiya nh́n tôi sửng sốt rồi giải thích là có đến hơn 4.000 tù binh và việc làm hồ về tất cả số đó là một điều cực kỳ khó khăn... Tôi nói Bộ chỉ huy Đồng minh khẳng định một cách dứt khoát rằng họ cần phải có bản danh sách trong ṿng 72 giờ đồng hồ. Kamiya hứa sẽ cố gắng hết sức ḿnh.
Chúng tôi bắt đầu đi một ṿng quanh khu vực bệnh viện... Khi chúng tôi vào pḥng đầu, những người gần cửa nhất ḍ xét những bộ quân phục của chúng tôi rồi ngồi dậy ngay trên giường của họ, im lặng và hốt hoảng: tất cả cử động trong pḥng ngừng bặt...
Tôi dừng lại ở một trong những giường đầu, một thân h́nh nhợt nhạt cố ngồi dậy chào nhưng chỉ đặt được một chân xuống mép giường. Tôi nắm tay anh ta và nói chiến tranh đă kết thúc. Đôi mắt anh vụt sáng lên và hỏi với giọng yếu ớt: “Người Mỹ phải không?”. “Phải”, tôi trả lời. Tất cả những ǵ anh ta có thể nói được là “cảm ơn”…
Nơi chúng tôi đến thăm tiếp theo là một số buồng giam của tù binh, ở đó chúng tôi được thận trọng giữ một khoảng cách với những người tù. Họ đứng xếp hàng theo kiểu nhà binh phía ngoài trại khi chúng tôi đi vào bên trong. Rơ ràng nhà đương cục Nhật không muốn cho chúng tôi xem nhiều. Họ cẩn thận chọn những khu vực cho xem và giữ an ninh chặt chẽ. Cho dù ở trong điều kiện nghiêm ngặt, tôi vẫn có thể nghe vọng lại tiếng hô từ xa “Nước Pháp muôn năm!”, “De Gaulle muôn năm!”.
Cuộc viếng thăm mở đầu của chúng tôi trong Thành kéo dài khoảng hai giờ rưỡi. Tôi biết được nhiều điều, nhưng vẫn chưa đủ.
…Chúng tôi đến trại tù binh Gia Lâm vào giữa cơn mưa bất chợt...
Trại Gia Lâm tương phản với “Thành” v́ có những tháp canh, hàng rào kẽm gai cao, đường xá lầy lội, pháo pḥng không và xe bọc thép, tạo nên vẻ ngoài của một đơn vị đang hoạt động.
Trên đường đến sở chỉ huy trại, tôi nh́n thấy những hàng dài tù binh Ấn Độ cầm dụng cụ đựng thức ăn tập thể, đang chờ được phát cơm. Khi chúng tôi đến nơi, tôi vẫy họ và trả lời bằng những tiếng ḥ reo hào hứng, dùng đồ đựng cơm khua ầm ĩ, nhưng chúng tôi đă vội ngăn họ lại...
Thiếu tá Oshima(3) đứng đón chúng tôi ở cửa, chỉnh tề trong quân phục với mũ lưỡi trai, đeo kiếm, giải thắt... Tôi đoán Oshima khoảng 35 tuổi, có vẻ nghiêm nghị và xuất hiện với một tư thế đầy tự chủ...
Tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy, theo yêu cầu của tôi, Oshima đă trao cho tôi mấy tập giấy ghi danh sách tên, chức vụ và số phân loại tù binh. Bản đó do “đại úy phụ trách tù binh chiến tranh Ấn Độ tại Gia Lâm - Simpson Johnes” chuẩn bị và kư tên, có 287 tù binh, tất cả đều là người Anh. Oshima hỏi tôi bao lâu nữa th́ Đồng minh tiếp quản trại? Tôi trả lời trong ṿng một tuần hoặc 10 ngày. Anh ta không vui và nói rằng có một số ít tù binh gặp khó khăn v́ đă gây ra những chuyện rắc rối từ giữa tháng 8, ảnh hưởng đến an ninh và an toàn của trại, của các tù binh khác…
Chiều hôm đó, tôi dă nói chuyện riêng với Simpson Johnes và nhấn mạnh tầm quan trọng phải tránh đừng để xảy ra những chuyện rắc rối và tránh gây bạo lực.
Sau bữa cơm trưa, tù binh xếp hàng trước các trại của họ. Oshima gợi ư tôi có thể kiểm tra họ. Tôi đă làm, tranh thủ cơ hội quan sát họ trực tiếp và nói chuyện với một số người...
Trong văn pḥng của Oshima, tôi nhận xét điều kiện sinh hoạt vật chất của tù binh thật tồi tệ… Tuy vậy, những tù binh Ấn Độ này có khá hơn những người trong Thành. Tổ chức và quy mô của trại tù đă mang lại được một trạng thái tinh thần tốt và những người tù có thể giúp đỡ lẫn nhau được.
Tôi không thể làm điều ǵ có giá trị thực tiễn tức thời để cải thiện điều kiện sinh hoạt của các tù binh, ngoài việc phản kháng với tướng Tsuchihashi, và ông ta đă hứa sẽ xem xét vấn đề đó. Tôi cũng thông báo cho Côn Minh và được nhắc nhở rằng không nên hành động ǵ cho đến khi nào người Trung Quốc nắm quyền kiểm soát sau khi làm xong thủ tục giải giáp ở Hà Nội. Câu trả lời đó cũng cho thấy sẽ không thể làm được điều ǵ nếu không có sự tán thành và hợp tác của người Nhật.
Trở lại nhà Gauthier, thủ trưởng AGAS muốn gặp riêng tôi. Chúng tôi đi bách bộ trong vườn và anh ta cho tôi xem một bản ghi bằng tiếng Pháp tên, cấp bậc và số phân loại của một người Mỹ trong Thành. Bản đó đă được một người Pháp chuyển cho AGAS. Chúng tôi ở trong t́nh thế lúng túng và không thể hỏi người Nhật v́ họ không thể biết được người của chúng tôi.... Tôi cho tổ X2(4) biết họ phải làm ǵ. Ngày hôm sau, một cộng tác viên của AGAS trước đây ở bệnh xá trong Thành, ông M. Orthet, đă phát hiện được một người Mỹ tự nhận là công dân Hungari trong đội lính lê dương Pháp. Anh ta thuộc đội bay bị hạ năm 1943. Ngày 28-8, người Nhật trao anh ta cho tôi và mấy ngày sau anh ta đă được bay về nước.
Grelecki có những người khách trong khi tôi đi vắng, trong đó có Lê Xuân, một người Việt trẻ tuổi, người của Mặt trận Việt Minh. Anh ta khẩn khoản đề nghị được nói chuyện trực tiếp với tôi. Hồ Chủ tịch, anh ta nói, đang trên đường về Hà Nội và muốn gặp tôi. Grelecki bảo anh ta nên trở lại vào ngày hôm sau. Đây là lần đầu tiên, từ khi toán “Con Nai” rời Tân Trào, chúng tôi mới lại có dịp để tiếp xúc với nhau, kể cả gián tiếp.
T́nh h́nh của ông Hồ hiển nhiên là đă thực hiện được một bước nhảy vọt kỳ diệu, và tôi mong đợi Lê Xuân trở lại với một sự quan tâm đầy hứng thú.

NGƯỜI ĐẠI DIỆN XÔ VIẾT

Tối hôm đó, Stéphane Solosieff, người đại tiện Xô Viết tại Đông Dương đến thăm tôi. Ông ta gặp tôi trong những giờ đầu tiên tôi đến Hà Nội, và lần này tôi đă mời ông đến dùng rượu. Một con người vui vẻ, ở độ tuổi cuối 40, với nụ cười cởi mở và trung thực, Solosieff là một người khách không b́nh thường. Không giống người Pháp bị tổn thương đang đi t́m kiếm sự đền bù, hoặc người Nhật bại trận với sự ḱm chế những suy nghĩ thầm kín của họ đằng sau những bộ mặt nghiêm nghị, hay người Việt Nam đang ra sức tranh thủ để được thừa nhận; Solosieff đến như một người chiến thắng, một đồng minh, một người bạn. Ông ta tự giới thiệu là người liên lạc của Xô Viết với các cơ quan chính trị của Nhật ở Hà Nội, Huế, Sài G̣n; có trách nhiệm chăm lo đến các quyền lợi của các công dân Xô Viết ở Đông Dương mà theo ông th́ có tới 5 hay 6 ngàn người. Vài trăm trong số này nằm trong đội lính lê dương của Pháp, c̣n một số lớn khác thuộc dân thường. Chắc chắn là nhiều người đă được đưa vào tổ hợp thương mại lớn của Nhật đang hoạt động ở Đông Dương.
Ngay buổi đầu nói chuyện tôi nhận thấy Solosieff là một người thông minh, thức thời và thông thạo nhiều thứ tiếng, cả Anh và Pháp và nhất định cũng giỏi tiếng Nhật nữa. Tôi đă gặp vài người Nga cỡ như ông ta ở châu Âu và đảm bảo rằng anh ta cũng là một cán bộ chính trị của Matxcơva. Buổi tối trôi qua, trực giác của tôi đă chứng minh là đúng và tôi lấy làm vui v́ anh ta không có ư định che giấu vai tṛ của ḿnh. C̣n tôi, mọi người đều biết tôi là một sĩ quan OSS.
Chúng tôi đă t́m thấy quan điểm chung khi b́nh luận về việc Việt Minh giành chính quyền và suy đoán về những thành tựu mới của họ một khi người Pháp quay trở lại. Solosieff cho rằng người Pháp sẽ phải đi theo một đường lối rút lui dần mà không thể chủ trương quay trở lại nguyên trạng như trước. Anh ta nghĩ rằng người Việt Nam chưa hoàn toàn sẵn sàng cho một nền độc lập hoàn toàn và đang c̣n cần phải có một sự bảo trợ của một nước lớn để ngăn cản những tham vọng về lănh thổ của người Trung Quốc và Thái Lan. Tôi lưu ư rằng Tưởng đă đi trước một bước, khi ông tuyên bố không đ̣i hỏi quyền lợi ǵ ở Đông Dương, ngoài những phạm vi mà người Pháp có dính líu vào. Nhưng Solosieff không tin sẽ lại có thể như vậy. Solosieff nghĩ rằng Pháp vẫn là nước được trang bị tốt nhất trong các nước lớn phương Tây để tái thiết đất nước và đưa nhân dân Việt Nam đến một chính phủ tự quản.
Solosieff dă được nghe người Pháp nói là Hồ Chí Minh và Việt Minh được sự “bảo trợ” của người Mỹ và hỏi xem có đúng như vậy không. Tôi thẳng thắn nói với ông ta rằng chúng tôi đă chấp nhận sự cộng tác với Việt Minh trong các hoạt động bí mật chống Nhật, nhưng Mỹ không có cam kết ǵ trong việc can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Đông Dương.
Tôi hỏi Solosieff về lập trường của người Xô Viết trong vấn đề Đông Dương, và nhắc đến việc ông Hồ do Liên Xô đào tạo, đă là một phái viên của Quốc tế Cộng sản trong nhiều năm và gần đây lại là một đại biểu Cộng sản do Matxcơva chỉ đạo.
Câu trả lời của Solosieff nghe giống một cách lạ lùng như tiếng vọng của ảo tưởng Roosevelt: thời đại của chủ nghĩa thực dân Pháp đă qua, người Đông Dương phải gánh lấy trách nhiệm dân tộc của ḿnh, cho dù họ có thể chưa đủ sức nắm quyền cai trị một ḿnh. Có thể với sự giúp đỡ sáng suốt của người Pháp và sự viện trợ kỹ thuật của người Mỹ, họ có khả năng thực hiện được nền độc lập dân tộc trong ṿng ít năm. Ông ta không nói thẳng ra, nhưng lời b́nh luận của ông ta đă làm tôi nhớ đến khái niệm quyền ủy trị mà Roosevelt đă nêu ra và ít nhiều cũng đă được Xtalin tán thành tại Yalta.
“C̣n Liên Xô th́ sao?”, tôi hỏi. Ông ta không tin rằng Liên Xô sẽ giữ địa vị của một nước trung gian can thiệp vào Đông Nam Á. Ông ta nói theo đường lối lúc bấy giờ rằng “Nước mẹ Nga”, sau cuộc đánh phá ác liệt của bọn Quốc xă, cần phải có thời gian để xây dựng lại. Đó cũng là quan điểm của ông Hồ đă từng bày tỏ với tôi. Những người Cộng sản trên toàn thế giới phải giữ vững đường lối theo xu hướng này và bảo tồn lấy lực lượng của họ, trong khi “Nước mẹ Nga” đang hồi phục. Solosieff c̣n nghĩ xa hơn nữa, rằng sự can thiệp của người Liên Xô vào Đông Dương sẽ gây ra xung đột với những quyền lợi truyền thống của Anh và Pháp, mà điều đó lại không đáp ứng được những quyền lợi tối cao của Liên Xô trong lúc này.
Chúng tôi nói về các sự kiện ở Sài G̣n mà tôi không biết ǵ mấy. Theo anh ta, người Nhật đă chuyển quyền kiểm soát Chính phủ cho một nhóm nhỏ Cộng sản dưới sự lănh đạo của “bác sĩ” Trần Văn Giàu và Việt Minh ở Sài G̣n tiến triển rất nhanh; người Anh sẽ gặp khó khăn ở đó. Solosieff có nhă ư muốn tạo điều kiện cho tôi tiếp cận với những người am hiển t́nh h́nh hơn, nhưng tôi đă phanh lại và chỉ giới hạn vào những ǵ đang quan tâm. Sự thật là tôi cũng rất thích thú nhưng không muốn tự xác định ḿnh trước sự nhạy cảm của Solosieff.
Vừa uống vodka, chúng tôi vừa nói chuyện trong không khí thoải mái của một cuộc viếng thăm mà tôi tin rằng cả hai chúng tôi đều thú vị. Khi ra về, Solosieff nhờ tôi chuyển một bức điện cho sứ quán Liên Xô ở Trùng Khánh. Bức điện bằng tiếng Pháp, đề nghị sứ quán Liên Xô gửi sang Hà Nội một người đại diện để giải quyết vấn đề phóng thích “một số người t́nh nguyện Nga” trong đội Lê dương bị giam giữ như tù binh chiến tranh và “nhiều việc khác”.
Cuối cùng, Solosieff hỏi tôi có nghe nói về một người Nga tên Andrei Voskressensky không? Tôi không nghe nói. Gia đ́nh anh ta ở Nga không nhận được tin ǵ của anh ta từ cú 9-3. Khoảng 10 ngày sau, toán X2 của chúng tôi t́nh cờ đă gặp tên anh này trong khi sưu tầm chứng cứ về các tội phạm chiến tranh sở Hiến binh Nhật. Hồ sơ của Hiến binh tiết lộ Voskressensky sống ở Hà Nội và được Hiến binh Nhật sử dụng từ 9-3. Bố anh ta là người Nga, mẹ là người Nhật, nhưng sau đó bà đă chuyển thành công dân Pháp. Người cha đă từng có thời kỳ làm tùy viên hải quân Liên Xô ở Tokyo, c̣n người con làm thư kư cho tùy viên Đại sứ quán Pháp tại Tokyo. Tháng 9-1942, Decoux đă yêu cầu cho chuyển người con sang Hà Nội và làm việc cho cảnh sát Pháp cho đến cuộc đảo chính, sau đó anh ta chuyển sang làm cho Hiến binh Nhật. Tôi đoán được tại sao Solosieff lại muốn t́m Voskressensky, rơ ràng không phải v́ lư do nhân đạo, và chúng tôi cũng không để lộ ra câu chuyện của anh này cho Solosieff rơ.
Tôi đặc biệt chú ư đến lời ám chỉ của Solosieff tới những “người t́nh nguyện Nga” trong đội Lê dương. Trước đây, một sĩ quan Pháp ở Tŕnh Tây đă nói rằng Alessandri có một bản danh sách về những người lính Lê dương đă bị ṭa án binh xử v́ hoạt động theo Cộng sản năm 1944, nhưng tôi coi đó là chuyện tầm phào. Sự thừa nhận của Solosieff đă đặt lại vấn đề và tôi đă cử toán X2 tiến hành điều tra hoạt động của những người Xô Viết trong đội Lê dương. Họ đă phát hiện ra được ngay một chi bộ Cộng sản được tổ chức chặt chẽ trong đám lính Lê dương bị giam trong Thành. Không phải chỉ có người Nga, mà họ gồm cả những người Cộng sản Đức, Bỉ, Hungari, những người xă hội Úc và những người cấp tiến Pháp. Trước 9-3, chi bộ trà trộn vào phong trào Langlade – Mordant, và có hợp tác với Việt Minh. Trong thời kỳ người Pháp rút sang Trung Quốc, một số đă đào ngũ và gia nhập hàng ngũ của ông Hồ làm nhân viên t́nh báo và huấn luyện viên về chiến thuật và sử dụng vũ khí.
Qua việc phỏng vấn những người Việt trong đội Tuyên truyền Giải phóng quân ở Hà Nội và những đảng viên người Âu trong chi bộ, chúng tôi cũng đă điều tra được lịch sử của chi bộ. Cuối năm 1944, để che giấu hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đă cho thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương. Với bề ngoài là chống Nhật và chống phát xít, người của Mặt trận khó có thể bị phát hiện là Cộng sản và có nhiều cơ hội để làm việc ngay trong chính quyền của Decoux. Một trong những mục tiêu chủ yếu của Mặt trận nhằm phát triển vào các phần tử ngoại quốc có xu hướng chống phát xít. Nó đă đặt được liên lạc với đội Lê dương và tổ chức ở đó một nhóm “Xă hội - Cộng sản”. Tháng 11-1944, nhóm này đă được mời tham gia hành động chung chống phát xít Nhật và Pháp ở Bắc Kỳ. Người ta đă nhất trí để số Lê dương này cộng tác với những người thuộc phái De Gaulle và sẽ dùng ảnh hưởng của họ đối với chính quyền Decoux để ngăn chặn hoặc giảm bớt việc trưng thu thóc gạo, giúp giải thoát tù chính trị và tiếp tế vũ khí cho Việt Minh. C̣n những người Trung Quốc có cảm t́nh với Mặt trận th́ làm việc trong quân đội Quốc dân đảng để giúp Việt Minh ở ngoài lănh thổ Đông Dương. Những người theo De Gaulle nhút nhát, đă không làm được ǵ, nhưng các “đồng chí” Trung Quốc, đă hoạt động có hiệu quả hơn. Nhưng sau cuộc đảo chính 9-3 th́ chỉ c̣n những hạt nhân cứng rắn trong đội Lê dương vẫn c̣n trung thành với Việt Minh và gia nhập hàng ngũ của họ.
Solosieff rơ ràng đang cố gắng để kéo khỏi Thành, và có thể ra khỏi Đông Dương những nhân viên Xô Viết đă dính líu vào Mặt trận nói trên, trước khi các lực lượng của Trung Quốc và Pháp đến. Nhưng chúng tôi cũng được biết rằng, trong cuộc chiến tranh Pháp - Việt, trong hàng ngũ quân đội của Giáp, có nhiều người trước đây là lính Lê dương cũ, đă giữ những vai tṛ như cố vấn và chính ủy.
Trong những ngày cuối tuần ở Hà Nội, tôi có hỏi Hồ Chủ tịch về ư nghĩa việc chuẩn bị tổ chức các “Đơn vị chiến đấu ngoại quốc” như đă định trong kế hoạch tháng 4-1945 của Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ. Nửa đùa, nửa thật, ông nói: “để chăm lo cho những người bạn Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập của chúng tôi”. Với một thái độ b́nh thản hơn ông giải thích rằng các đơn vị đó được lập ra từ những người lính Pháp, chủ yếu là lính Lê dương, những người đă chán ngấy chủ nghĩa thực dân Pháp”.
Trong những tuần tôi ở Hà Nội, tôi lấy làm thích thú được quan sát Solosieff vài lần đánh bạn với các chính khách Nhật, những người Pháp có thế lực, các nhà lănh đạo Việt Minh và những người Trung Quốc có tiếng. Ông ta là người Xô Viết duy nhất có mặt có thể thấy được lúc đó và ông ta đă đóng vai tṛ của ḿnh một cách khá kín đáo.
Chú thích :

(1) cùng với tôi có nhân viên của AGAS và viên sĩ quan liên lạc người Nhật
(2) sau này được xác định là thủ trưởng Ban liên lạc quân đội Nhật ở Hà Nội.
(3) nguyên thủ trưởng sở Hiến binh Nhật tại Hà Nội
(4) tổ phản gián

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: