Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 31
Những vấn đề của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau khi ra đời


ÔNG HỒ TIẾN LÊN PHÍA TRƯỚC
Tuy đă có cuộc ngừng bắn nhưng Sài G̣n và toàn bộ Nam Kỳ, sau ngày “Chủ nhật đen tối” vẫn ở trong t́nh trạng náo động. Bửu và Liệu đều cho nguyên nhân cơ bản gây ra t́nh h́nh đó là do sự cạnh tranh chính trị và xung đột kinh tế xă hội. Họ nhấn mạnh vào việc thiếu thông tin liên lạc và phối hợp giữa miền Nam và miền Bắc. Nhưng Bửu đă giúp tôi hiểu biết rơ về vấn đề miền Nam hơn. Sài G̣n và Hà Nội; theo ông nói, cách xa nhau gần 800 dặm về mặt địa lư, v́ thế mà họ cũng khác biệt nhau trong các sách lược và kỹ thuật hành chính.
Mặc dù có sự non kém của miền Nam và nguy cơ đe doạ của những người Quốc gia thân Trung Quốc ở Bắc, ông Hồ vẫn quyết định cho xúc tiến chương tŕnh cải cách của ḿnh. Ông nói với tôi là đă đến lúc phải thực hiện lời hứa của ông với người Việt Nam về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn nữa, việc quân đội chiếm đóng Anh và Trung Quốc tới lại càng thúc ép ông một cách khẩn cấp phải tiến lên một bước nữa để tiếp đón Đồng minh với một chế độ thực sự “dân chủ”. Tuy vậy, ông cũng hết sức thận trọng để tránh không làm cho quần chúng Việt Nam và các nước Đồng minh xa ĺa v́ đă đi theo chủ nghĩa Cộng sản một cách quá lộ liễu…
Những tin tức về những người Quốc gia thân Trung Quốc được quân Tưởng cho đi cùng về Việt Nam làm cho việc cải cách trở nên hết sức cấp bách trước khi Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt cùng các đảng phái lưu vong khác tới. Ông Hồ không muốn để cho “bọn tay sai của Trung Quốc”, như ông thường gọi, có cớ để lên án ông là đă không làm ǵ cả, mà trái lại, họ phải chấp nhận ông dă cho xúc tiến một chương tŕnh hành động thích đáng của Mặt trận Việt Minh và được nhân dân cũng như các nước Đồng minh công nhận.
Khi tôi ở Trung Quốc về, ông Hồ và Chính phủ Lâm thời của ông đă cho xúc tiến một số cải tổ và thăm ḍ những đường lối mới. Ông Hồ đă để Giàu mở rộng cơ sở Lâm uỷ Nam Bộ bằng cách thu nạp thêm những nhân viên thuộc phe đối lập và tiếp tục các cuộc điều đ́nh với Cédile, hy vọng rằng người Anh và người Pháp sẽ công nhận Việt Minh trên thực tế như là một bộ máy chính trị có đầy đủ khả năng lănh đạo quốc gia và như thế sẽ có thể tránh được các cuộc đụng độ bằng vũ lực.
Đối với toàn quốc, Chính phủ ông Hồ xúc tiến và công bố các cải cách ở cấp cao. Ngày 5-9, ông Hồ giải thể các Hội đồng Nhân sĩ nổi tiếng và thay bằng các Uỷ ban Nhân dân do nhân dân địa phương bầu cử. Chế độ quan lại cũ đă bị thủ tiêu.
Cuộc cải cách mong chờ từ lâu cũng được khởi đầu nhưng rất thận trọng để không gây thù hằn giữa giai cấp trung lưu và các đại địa chủ. Việc chia lại ruộng đất chỉ hạn chế trong các công điền, đất bỏ hoang, đất tịch thu của Pháp và “bọn hợp tác với phát xít”, để chia cho các nông dân không có ruộng.
Thực tế từ 22-9, các chủ ruộng đất nhỏ, từ 5 mẫu trở xuống, đều được miễn thuế ruộng đất. Việc hạn chế buôn bán thóc gạo và ngũ cốc của Nhật, Pháp trước đây đă được huỷ bỏ. Thuế công thương nghiệp và môn bài cũng chấm dứt từ 14-9. Việc độc quyền bán thuốc phiện, rượu và muối cũng bị cấm. Cuộc cải cách cấm cả đánh bạc và măi dâm, cùng với các h́nh thức lao động khổ sai khác. Công nhân được phép lập nghiệp đoàn và được khuyến khích điều đ́nh với giới chủ. Tất cả các công nhân đều được hưởng chế độ ngày làm 8 giờ.
Theo luật bầu cử mới, các xă và tỉnh sẽ bầu ra Uỷ ban Nhân dân xă và tỉnh, và đến cuối năm sẽ bầu Quốc dân Đại hội (Quốc hội Lập hiến). Luật mới bảo đảm quyền phổ thông đầu phiến cho mọi công dân nam nữ trên 18 tuổi.
Một trong những điều cải cách có thể nói là cơ bản nhất, mà ông Hồ rất tha thiết, là công cuộc xoá nạn mù chữ, nhằm làm cho mọi người đi học để biết đọc và biết viết. Ông Hồ muốn có một xă hội có văn hoá, có khả năng quản lư được nền “độc lập” mới, tiếp thu được các lợi ích của nhà trường mà nhà nước sẽ mở, và có đầy đủ điều kiện để đạt tới một nền kỹ thuật hiện đại.
Liệu sẽ sử dụng mọi phương tiện và biện pháp để tuyên tuyền rộng răi trong quần chúng các điều cải cách nói trên. Quảng đại quần chúng, nông dân cũng như công nhân đă phấn khởi hưởng ứng sự cố gắng của Chính phủ trong công cuộc cải thiện đời sống của họ. Việt Minh được nhiệt liệt hoan nghênh và được tích cực ủng hộ. Chỉ có một số nhỏ bị bỏ rơi, nhưng không đáng kể. Vấn đề là ở chỗ phúc lợi của nhân dân, thắng lợi của cuộc cách mạng và sự đảm bảo cho nền độc lập của đất nước. Đây là lần đầu tiên cả nước đoàn kết thống nhất trong một mục đích chung và đồng thời cũng là lúc mà các tranh chấp về chính trị đă bị nhấn ch́m đi - ít nhất tại miền Bắc.
CHỦ TRƯƠNG ĐỀ KHÁNG THỤ ĐỘNG
Tuy vẫn thể hiện một tinh thần lạc quan và phấn khởi cao độ, nhưng Chính phủ Hà Nội vẫn phải lo lắng đối phó với những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng. Các lực lượng ngoại quốc đang từ hai phía Bắc và Nam tiến vào Việt Nam, với danh nghĩa thực hiện nhiệm vụ của Đồng minh nhưng thực ra họ đều mang theo những động cơ khác. Trong hai tuần, người Trung Quốc đă tỏ ra quan tâm đến tước đoạt, cướp bóc nhiều hơn là chú ư đến quân Nhật mà họ có nhiệm vụ phải giải giáp. C̣n người Anh ở miền Nam th́ chỉ lo làm sao đập tan được Chính phủ Việt Minh, dọn đường cho người Pháp chiếm lại thuộc dịa cũ hơn là thực hiện nhiệm vụ đă được công bố của họ. Thực sự họ cũng không biết ǵ về vấn đề lực lượng quân Nhật vẫn c̣n đầy đủ vũ khí trong tay.
Ư thức được địa vị gây cấn của ḿnh, cả về phương diện quân sự và chính trị, nên ông Hồ đă quyết định theo đuổi một chính sách đề kháng thụ dộng đối với các thế lực chiếm đóng. Chính phủ của ông công khai ủng hộ nhiệm vụ của họ trong việc giải giáp quân Nhật và sẵn sàng giúp đỡ mọi mặt để hoàn thành được nhiệm vụ trên. Đă nhiều lần, ông đă phải để thời giờ để giải thích cho tôi về chính sách đó. Đối với người Trung Quốc, phải tránh không để nổ ra các cuộc xung đột bằng bất cứ giá nào. Nếu như chủ quyền Việt Nam có bị thử thách th́ cũng không để xảy ra xung đột vũ trang; nhân dân sẽ đoàn kết trong một mặt trận thống nhất và nếu cần sẽ không cộng tác với các nhà chức trách quân sự Trung Quốc, sẽ có băi công, băi thị, và nhân dân sẽ được phân tán dần về các vùng nông thôn. Đó sẽ là chiến thuật của ông ta.
Ở miền Nam th́ không được để cho bất cứ một sự lộn xộn nào tạo cho người Anh cái cớ để can thiệp và phá hoại công tác cách mạng của Việt Minh. Ông Hồ đă ra lệnh cho Giàu là trong bất cứ trường hợp nào cũng không được xâm phạm đến thân thể và tài sản người Pháp, không dùng bạo lực và cũng không để xảy ra cướp đoạt. Khi người Anh chưa đi khỏi th́ cuộc cách mạng chỉ là “dân chủ”, không phải là “xă hội chủ nghĩa”, không để xảy ra xung đột với quân đội Pháp và phải tránh các thường dân Pháp. Đối với quân Anh, chính sách của Giàu là phải cộng tác trong việc duy tŕ trật tự công cộng và các sự vụ hành chính, nếu như họ không can thiệp vào việc điều hành công tác của Lâm uỷ.
Dewey cho biết, ngày 4-9, Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) đă nghiêm khắc phê phán viên chỉ huy Nhật, Thống chế Terauchi, về sự lơ là trước cuộc rối loạn ở Sài G̣n và một lần nữa nhắc lại trách nhiệm duy tŕ trật tự của ông ta cho đến khi được các nước Đồng minh thay thế. San đó, Terauchi đă ra lệnh điều nhiều tiểu đoàn Nhật vào Sài G̣n để tước vũ khí của người Việt Nam. Điều này nói lên một cách rơ ràng ư nghĩa bức công điện của Mountbatten gửi Wedemeyer bảo phải sẵn sàng “nắm lấy t́nh h́nh trong Chiến trường Trung Quốc”. Điều đó giải thích tại sao Giàu báo động và kêu gọi dân chúng phải b́nh tĩnh.
Khi đại tá Cass đến Sài G̣n, ngày 6-9, theo yêu cầu của SEAC, Nhật đă tăng cường lực lượng vùng Sài G̣n - Chợ Lớn lên tới khoảng 7 tiểu đoàn và đ̣i Lâm uỷ phải tước vũ khí và giải tán các chiến sĩ Việt Nam. Trong thực tế, chỉ có Hoà Hảo, Cao Đài và B́nh Xuyên mới có lực lượng vũ trang có tổ chức. C̣n Troskism và Việt Minh chỉ có một số lực lượng tượng trưng. Do đó, lệnh tược vũ khí chỉ được áp dụng chủ yếu đối với các nhóm chống Việt Minh.
Theo chính sách đề kháng thụ động và bất bạo động của ông Hồ, ngày 8-9, Giàu ra lời kêu gọi nhân dân cộng tác, như đă nói ở trên, những phe đối lập liền kết tội Việt Ḿnh là phản bội. Những người chống Cộng được nhóm Troskism khuyến khích, cũng từ chối không nộp vũ khí và đ̣i Giàu phải từ chức.
Ngày hôm sau, Việt Minh cho cải tổ và mở rộng cơ sở Lâm uỷ, Giàu rút lui nhường chỗ cho một người Quốc gia độc lập là Phạm Văn Bạch. Trong uỷ ban mới, số Cộng sản rút từ 6 (trong số 9 người) xuống c̣n 4 (trong số 13 người) và có 1 Cao Đài, 1 Troskism, 1 Hoà Hảo, 3 độc lập, 2 Quốc gia và nhà sư Huỳnh Phú Sổ, thủ lĩnh tinh thần của Hoà Hảo. Qua việc nghiên cừu danh sách các uỷ viên, tôi không tin là Việt Minh đă buông tay.
Tôi biết Phạm Văn Bạch, tuy được kêu là độc lập, nhưng là một kẻ thù công khai của lực lượng phản cách mạng và là một người bí mật sùng bái ông Hồ. Do đó, nếu như người Việt Nam phải đương đầu với cuộc chiếm đóng và đàn áp dân tộc của Pháp th́ những người Troskism và có thể nhiều người độc lập chắc chắn sẽ đứng về Việt Minh. Những cuộc cải tổ đă không mang lại được sự ổn định cần thiết cho Chính phủ ở miền Nam. Các cuộc đấu tranh đảng phái, luận điệu phân biệt chủng tộc, tinh thần chống Pháp, nỗi lo sợ các “đội danh dự” Việt Minh(1), tất cả đă đưa đến sự sụp đổ của Uỷ ban mới chỉ sau chưa đầy 2 tuần lễ.
Ngày 12-9, một đơn vị Gurkhas(2) của tướng Gracey cùng với một phân đội thuộc trung đoàn 5 RIC(3) Pháp từ Rangoon đến sân bay Tân Sơn Nhất thực hiện cuộc hành quân “thắng lợi” của Anh - Pháp vào “Đông Dương thuộc Pháp”. Thành phố sôi lên với những tin đồn đại quá mức là quân Pháp “đă đổ bộ'”. Người Việt Nam th́ náo động, c̣n người Pháp th́ phấn chấn. Phản ứng của Dewey là sự có mặt của người Pháp nhờ vào sự che chở của Anh là một “điều xấu trong lúc này và đă được khuyên bảo một cách sai lầm”.
Các nhân viên SLFEO (của Pháp) đến đây từ trước với lực lượng 136 của Cass, đă đón đơn vị 5 RIC và dẫn họ thẳng tới các kho đạn dược, bến cảng và các kho tàng nhà binh. Pháp đă nhanh chóng thay thế người Nhật và nắm quyền kiểm soát. Trùm DGER (Pháp) ở Sài G̣n, đại uư hải quân De Riencourt đă đến hành dinh của Cass và thuyết phục Cédile ra lệnh cho viên cai ngục Nhật thả một số nhân viên chủ yếu trong tổ chức “kháng chiến Pháp” và hàng trăm sĩ quan và hạ sĩ quan lê dương(4). Số lính này được phiên thành đơn vị, đưa về các trại lính, nhận vũ khí và được lệnh toả ra khắp thành phố bắt liên lạc với các thường dân Pháp và tổ chức họ để chuẩn bị chiếm lại Sài G̣n.
Cả người Pháp và Việt Nam, nh́n thấy bọn lê dương vơ trang kiêu căng đi khệnh khạng trên đường phố Sài G̣n đều có phản ứng một cách mạnh mẽ. Thích thú trong niềm vui thắng lợi đầu tiên, người Pháp muốn nhằm vào lúc này để dạy cho dân “An nam mít” bội bạc “một bài học”.
Cờ tam tài Pháp đă được trương lên trên nhiều công sở nhưng không được lâu. Người Anh đă ra lệnh hạ xuống ngay trong ngày hôm đó để tránh kích động t́nh cảm dân địa phương.
Nhưng đă quá muộn.

CUỘC CHỐNG ĐỐI Ở MIỀN NAM
Tôi không phải là người duy nhất ở Hà Nội được biết những ǵ đă xảy ra ở Sài G̣n.
Ông Hồ cũng có đường dây liên lạc thẳng với Sài G̣n và tỏ ra rất lo phiền. Các nhóm Quốc gia thân Trung Quốc cũng nắm được tin tức và đă lợi dụng câu chuyện “Pháp đổ bộ” làm một vũ khí tuyên truyền tuyệt vời để phá hoại uy tín của ông Hồ và Việt Minh trước công chúng. Họ lớn tiếng ca tụng lập trường của Tưởng tuân theo các nguyên tắc Hiến chương Đại Tây Dương và giúp đỡ cho sự nghiệp độc lập dân tộc của Việt Nam. Trong khi đó th́ Việt Minh ở miền Nam lại thương lượng với Pháp và ông Hồ ở Hà Nội cũng tỏ ra thái độ thiện chí đối với Pháp.
Việc đả kích về ông Hồ xuất phát từ các bài báo của hai nhà báo phương Tây đầu tiên mới tới Hà Nội: Serge de Gunzburg, hăng AFP (Pháp) và Phale Thorpe của AP (Mỹ) ở Trùng Khánh. Họ đă phỏng vấn Chủ tịch Hồ và đưa ra một tin được coi là “giật gân” nói rằng ông Hồ đă tuyên bố “Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng chấp nhận cả các cố vấn người Pháp nếu họ tới Việt Nam với tư cách là những người bạn chứ không phải là kẻ xâm lược”.
Tôi cho không có ǵ giật gân trong lời tuyên bố đó cả; ông Hồ đă nhiều lần nhắc tối điều đó với tôi cũng như với người Pháp ở Hà Nội… Ở đây, qua nhà báo Pháp, chắc ông Hồ muốn nói với công chúng Pháp biết rằng ông đă coi họ như là những người bạn b́nh đẳng. Nhưng lời tuyên bố với nhà báo ngoại quốc đó đă được đăng lên các báo Việt Nam và đă được phe thân Trung Quốc đối lập với ông Hồ chộp ngay lấy. Mặc dù một số người Trung Quốc cho đó chỉ là một xu hướng đi tới thoả hiệp với Pháp nhằm cứu văn t́nh h́nh, một đề nghị mà nếu có chăng nữa cũng chẳng làm thay đổi ǵ lập trường chính thức của Trung Quốc đối với Pháp và đối với Chính phủ của ông Hồ. Nhưng những người Quốc gia thân Trung Quốc lại hoảng sợ trước “đề nghị thương lượng” đó của ông Hồ, v́ rằng một thoả thuận giữa chế độ của ông Hồ với Pháp sẽ gạt họ ra khỏi mọi sự dàn xếp sau này.
Tôi có nói chuyện với hai nhà báo. Họ cho biết đă có cảm tưởng khá sâu sắc đối với “nhà cách mạng lăo thành” mà họ cho là một “con người rất trung thực và có khả năng”. De Gunzburg nghĩ răng Chính phủ Hồ không thể đạt được cao vọng của ḿnh nếu “không có sự giúp đỡ”. Tôi hỏi có phải ông định nói tới nước Pháp không, nhưng được trả lời, “Hay là nước Mỹ?”.
Chiều hôm đó tôi đến gặp ông Hồ ở nhà riêng gần Bắc Bộ Phủ. Ông trông rất mệt nhọc và sa sút. Trời nóng nhưng ông quàng khăn cổ mỏng và h́nh như thấy lạnh. Có thể ông đă lại lên cơn sốt nhưng nói không hề ǵ, chỉ bị mệt và mời tôi ngồi lại. Ông hút một điếu Chesterfield, hít sâu và thả khói qua cửa sổ.
Ông nói chung chung là hoà b́nh rất mong manh, rồi đi về phía bàn làm việc mà trên vẫn thường để cái máy chữ ọp ẹp của ông. Ông t́m được một tờ thông cáo mà ông nói là nhà chức trách quân sự Trung Quốc đă cho rải khắp Hà Nội ngày hôm trước. Tờ thông cáo được in một mặt bằng tiếng Trung Quốc, một mặt tiếng quốc ngữ. Ông Hồ trực tiếp dịch cho tôi nghe. Nó ca tụng sự hy sinh t́nh cảm của các Việt kiều quốc gia hải ngoại cho sự nghiệp độc lập dân tộc, cảm ơn Tưởng thống chế về sự ủng hộ và biểu dương t́nh hữu nghị bất diệt của Việt Nam và Trung Quốc. Sau đó nó kết thúc bằng lời kết tội Việt Minh cấu kết với Pháp và kêu gọi những người Việt Nam yêu nước trung thành, nếu thực sự muốn độc lập và tự do, phải từ bỏ “ông Hồ và bè lũ giết người của ông Hồ”. Kư tên dưới tờ thông cáo là Nguyễn Hải Thần, thay mặt cho Đồng minh Hội.
Ông Hồ quay về phía tôi và nói “bây giờ bắt đầu đấy”. Với một thái độ khinh miệt, điều mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây ở ông Hồ, ông ném mạnh tờ giấy xuống bàn. Một lúc sau ông nói “Việt Minh sẽ c̣n phải đấu tranh lâu dài cả với người Trung Quốc và người Việt Nam”.
Sau đó ông Hồ hỏi tôi về tin tức Sài G̣n. Tôi kể lại cho ông những điều ít ỏi mà tôi biết và chúng tôi đă thẳng thắn trao đổi về những sự phức tạp gây ra do việc người Pháp có mặt ở đây. Ông Hồ hết sức lo lắng và nhận định nếu như các sự kiện xảy ra trong tuần trước được coi như là một dấu hiệu nào đó th́ chắc rằng Uỷ ban mới đây của Phạm Văn Bạch sẽ không tồn tại được lâu. Đó là một nhận xét sau này đă được chúng minh là đúng đắn. Ông Hồ chán ngán v́ việc Anh công khai ủng hộ Pháp và các nước Đồng minh th́ rơ ràng không quan tâm đối với sự nghiệp của ông. Tôi cảm thấy ông thực sự mất tinh thần.
Tôi cố khuyến khích ông bằng cách ca tụng những cải cách ông đă cho công bố. Ông mỉm cười nhưng trở lại nghiêm nghị ngay. Ông Hồ công nhận việc thực hiện công cuộc cải cách sẽ rất khó khăn nếu không có sự viện trợ từ bên ngoài, nhưng cho đến nay th́ chưa có ai công nhận Việt Nam là một nước độc lập, “ngay cả đến Liên Xô cũng vậy”.
Cải cách ruộng đất, giảm thuế, kế hoạch nông nghiệp, phát triển công nghiệp - tất cả những cái đó đ̣i hỏi không phải chỉ những ư định hay và nhân công mà ông có rất dồi dào. Chúng đ̣i hỏi phải có tiền, nhưng kho bạc của Chính phủ th́ bị phá sản(5). Điều kiện kinh tế của đất nước thực sự đang trong t́nh trạng nguy ngập. T́nh h́nh lương thực đang bị đàn “châu chấu Trung Quốc” làm kiệt đi từng giờ. Thóc gạo vụ mùa cũng không đủ để nuôi dân Bắc Kỳ quá được 30 ngày. Và các cán bộ của Lư Hán đ̣i phải nộp lương thực và dịch vụ tại chỗ để chi cho việc chiếm đóng.
Đó là một bức tranh ảm đạm. Tôi cũng cảm thấy buồn phiền nhưng không thể làm ǵ hơn là giúp thông báo t́nh h́nh Côn Minh như thường lệ. Nghĩ đến t́nh trạng khó khăn của ông Hồ, tôi thông cảm với giọng hoà giải trong lời tuyên bố của ông với các kư giả ngoại quốc. Ông đă phải hành động từ một thế yếu và thực tế đă đưa ra một đề nghị thương lượng dứt khoát với Pháp với hy vọng sẽ tránh được một cuộc xung đột vơ trang và tranh thủ thời gian cho Chính phủ của ông.
Sự xuất hiện của người Anh và người Pháp ở Sài G̣n đă tác động mạnh đến t́nh h́nh ở Thành (Hà Nội). Người của Sainteny đă không mất thời gian để báo những tin tức trên cho nhóm Mordant trong Thành, đồng thời cũng chuyển cho họ lệnh của tướng Alessanđri từ Trung Quốc chỉ thị cho các tù binh Pháp ở đây phải “tổ chức thành các đơn vị bộ đội” và “cấp vũ khí cho một đại đội lê dương để bảo vệ trật tự” khi người Trung Quốc đến nhận nhiệm vụ chỉ huy Thành. Cùng lúc đó, người Nhật chỉ huy trại cũng tuyên bố nhận được chỉ thị của bản doanh ra lệnh phải theo gương Sài G̣n và thả tất cả các tù binh. Đại tá Norlinger phụ trách công tác tù binh lúc đó đă hỏi ư kiến tôi. Tôi đă khuyên ông phải bác bỏ lệnh của Alessandri và ra lệnh cho Nhật tăng cường canh gác, cấm không được thả tù binh nào cho đến khi nhận được lệnh của Bộ chỉ huy tối cao Trung Quốc. Norlinger tiếp thu ư kiến của tôi và báo cáo với Côn Minh. Ngày hôm sau chúng tôi nhận được sự đồng ư của cấp trên kèm theo ghi chú Alessandri ở Trùng Khánh cải chính không gửi bất kỳ lệnh nào cho người Pháp ở Hà Nội.
Miền Bắc Đông Dương quả thực là một nhà thương điên. Những người Pháp xấu số, liên tục phải chống lại các “Đồng minh” “vô tâm” và người Việt “bội bạc”; những người Quốc gia thân Trung Quốc tích cực hoạt động nhằm lật đổ chính phủ Việt Minh; quân Quốc dân Đảng háu ăn đang ra sức tàn phá đất nước; các gián điệp Nhật đang lén lút tổ chức mạng lưới ngầm sau chiến tranh của họ. Trung tâm hoạt động của tất cả các nhóm này vẫn là Hà Nội.
BỘ MÁY BÍ MẬT CỦA NHẬT
Ngoài những hoạt động công khai của Nhật đă được mô tả ở trên, tổ phản gián chúng tôi đă khám phá ra một mạng lưới hoạt động bí mật hết sức phức tạp được cài một cách chặt chẽ vào các tổ hợp kinh tế và văn hoá ở Đông Dương và c̣n đang hoạt dộng. Trung tâm hệ thống t́nh báo và chiến tranh chính trị Nhật đă được xác định là hai tố chức hết sức kín đáo: Công ty Thương mại và Kỹ nghệ Đông Dương có tên là CICEI và Trung tâm Văn hoá (Bunka Kaikan).
CICEI được h́nh thành từ một hăng xuất cảng Nhật nhỏ Taikatu, đặt tại Hà Nội từ trước 1937. Taikatu có 15 chi nhánh ở khắp Đông Dương với trụ sở đàng hoàng và nhân viên đầy đủ. Tháng 9-1937, Doichi Yamane, cựu đại diện Nhật tại Hội Quốc Liên, mở thêm một hăng xuất cảng thứ hai bên cạnh Lănh sự Pháp tại phố Carnot. Sáu tháng sau, Bunishi Onishi từ Tokyo đến và lập ra CICEI. Onishi có quyền gắn bó với Ngân hàng Đài Loan, Ngân hàng Yokohama và Ngân hàng Đông Dương mà ở đó ông có một số quyền lợi quan trọng và qua một số biện pháp tài chính ông đă thống nhất các hăng xuất cảng nhỏ vào CICEI. CICEI trở thành một phường hội khép kín, không chịu sự kiểm soát của bên ngoài(6).
Ban đầu CICEI tập trung vào việc thăm ḍ đất đai, khai thác mỏ và quặng sắt. Nhân viên của họ đi khắp nơi để nghiên cứu, chụp ảnh và vẽ bản đồ. Họ có thể hỏi thẳng các nhà chức trách quân sự, dân sự Pháp để lấy các tài liệu về địa chất, địa lư, bến cảng, đường giao thông, kho tàng, bờ biển, tàu bè…
Mùa thu 1938, CICEI mở rộng kinh doanh khai thác quặng sắt cho Nhật ở Thái Nguyên. Đến 1941, CICEI tiếp quản các mỏ ở Lào Cai để cung cấp nguyên liệu cần thiết cho nền kinh tế chiến tranh Nhật. Họ thu lợi lớn nhưng đồng thời cũng lượm được những tin t́nh báo quư giá về Pháp và Trung Quốc.
Nhật rất thiếu crôm và kẽm, CICEI qua Ngân hàng Đông Dương năm 1 942 tham gia vào một công ty crôm và kẽm của Pháp và lập ra một liên hợp gọi là CROMIC. Trong 1 942 - 1943, CICEI phát triển vào Sài G̣n, Hải Pḥng, Cao Bằng, Hà Giang, Thái Nguyên và Thai Niên (?). Một nhân vật cao cấp ở Tokyo đă chỉ đạo về tài chính cho CICEI chứng tỏ quy mô hoạt động lớn lúc đó. Sau những cuộc ném bom đánh phá bằng tàu ngầm của Đồng minh 1944, hoạt động của CICEI có giảm sút. Nhưng CICEI vẫn duy tŕ khối lượng nhân viên như cũ để tung ra hoạt động suốt khắp Đông Dương dọc bờ biển nam Trung Quốc, giữa Ấn Độ và Miến Điện. Đồng thời qua các luồng ngân hàng, nhất là Ngân hàng Đông Dương, cơ quan CICEI vẫn liên lạc với Tokyo, Berlin, Rome, Bern, Paris và cả Washington để trao đổi tin t́nh báo và gián điệp.
Quân Nhật ở Đông Dương cũng có tổ chức bí mật riêng của ḿnh gọi là Dainan Koosi, chuyên hoạt động thu thập tin tức Quân đội và Hải quân Nhật. Dainan Koosi được đặt dưới sự lănh đạo của một gián điệp nổi tiếng tên là Matsushita(7).
Cơ quan của Dainan Koosi phù trợ cho Hải quân là Manwa (hay là Van Woo), sưu tầm quặng kim loại đặc biệt và cung cấp t́nh báo có liên quan đến công nghiệp luyện kim. Một khía cạnh hoạt động khác của nó là trao đổi vật tư và hàng lậu để lấy tiền quan kim và kim loại để chi phí cho các hoạt động t́nh báo ở Trung Quốc.
Syotu đóng ở Hà Nội là cơ quan phù trợ cho Quân đội Nhật. Nó chuyển mua hoặc kiểm soát các ṣng bạc ở duyên hải Trung Quốc nhằm để chuẩn bị cho việc đưa đón các gián điệp Nhật có nhiệm vụ thu thập tiền bạc và t́nh báo ở Trung Quốc. Syotu ở Hà Nội cho thấy hàng tháng đă thu được độ 100 tấn đồng Trung Quốc.
Trong 1944, Dainan Koosi đă thu thập được gần 4.000 tấn đồng pha thiếc, được lọc lại tại Đông Dương và do CICEI, CATEL chở về Nhật. Qua chợ đen, Manwa và Syotu c̣n kiếm được một số khá lớn antimon, ch́, mangan, amiang, mica và da( 8 )
Bộ máy hoàn bị này chắc là đă bóp nghẹt nền kinh tế Đông Dương và đă cung cấp cho Nhật ngoại tệ, tin t́nh báo về Đồng minh và các vật liệu chiến lược. Nhưng điều quan trọng trước mắt đối với chúng tôi là ở chỗ nó làm vỏ bọc cho kế hoạch hoạt động hậu chiến của Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Thua trận trước các nước Đồng minh hoàn toàn không có nghĩa là Nhật đă thôi không theo đuổi các kế hoạch trước chiến tranh “Á châu cho người châu Á” của họ.

Chúng tôi cũng phát hiện được một cách rơ ràng là Hiến binh Nhật hoạt động từ các Trung tâm Văn hoá(9) ở Hà Nội, Huế và Sài G̣n. Số lớn các nhân viên của họ đă vứt bỏ quân phục và phân tán vào dân chúng Việt Nam. Chúng tôi cũng xác định được một số Hiến binh lẩn trong các nhân viên các hăng buôn Nhật cũ… Những người Nhật “đào ngũ” này được lệnh phải “biến đi” để tổ chức thành con buôn, cướp… để sau này hoạt động bí mật, đặc biệt là trong các công tác quấy rối và tuyên tuyền trong các phần tử chống Pháp và chống Việt Minh.
Một trong những điều quan tâm của tôi là t́m bắt cho được đại sứ Jean Marie Yokoyama(10), người đứng đầu Trung tâm Văn hoá, cùng với nhiều cộng tác viên thân cận của ông ta(11). Ngay từ buổi đầu chiến tranh, Yokoyama đă là một đối tượng của OSS v́ ông là người lănh đạo lưới t́nh báo gián điệp ở Đông Nam Á có nhiều đầu mối rộng khắp thế giới. Vào năm 1943, chúng tôi đă phát hiện được Yokoyama ở Huế, hoạt động dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Đông Dương. Yokoyama là nhân vật số 2 trong danh sách phải “ưu tiên t́m kiếm” của tôi, sau Subhas Chandra Bose(12).
Chúng tôi đă chẳng phải lâu la ǵ t́m ra được các nhân vật này nhưng chúng tôi không thể bắt giữ họ nếu như không có sự cộng tác của người Trung Quốc. Nhưng cơ quan an ninh của Lư Hán và bản thân ông ta tỏ ra không phấn khởi trong việc phải gặp lại những người cộng tác cũ. Yokoyama và Long Vân trước đây đă không xa lạ nhau. Trong lời cung khai của các viên chỉ huy Nhật ở nam Trung Quốc, họ xác nhận một cách dễ dàng đă có những tiếp xúc từ lâu giữa họ và các “quân phiệt và sĩ quan cao cấp Trung Quốc” trước giữa những năm 1930. Những cuộc tiếp xúc đă được tổ chức thông qua Yoshio Minoda, Tổng lănh sự Nhật tại Hà Nội, cho đến 1939 và sau th́ Yokoyama đảm nhận nhiệm vụ này.
Trước khi người Nhật vào nắm quyền ở Đông Dương, hoạt động t́nh báo và chính trị của Nhật nhiều lúc đă lộ liễu đến mức bắt buộc người Pháp trong nhiều trường hợp phải trục xuất các nhà ngoại giao và kỹ nghệ Nhật như Matsushita. Song chính những người này năm 1940 đă quay trở lại những nơi họ đă phải bỏ ra đi, nhưng với nhiều quyền hành và năng nổ hơn trước v́ Nhật đă chiếm được một vai tṛ trội hơn ở châu Á.
Vào năm 1940, khi Nhật chuẩn bị bước vào một cuộc chiến tranh Thái B́nh Dương và Đức đă chiếm Pháp,các nhà vạch kế hoạch ở Tokyo đă nhằm tiến lên xa hơn. Để thực hiện mục tiêu lâu dài của họ trong việc kết thúc nền đô hộ của người da trắng, họ trông mong vào việc đuổi người Anh ra khỏi Miến Điện và Mă Lai, người Hà Lan ra khỏi Indonesia và người Pháp khỏi Đông Dương và họ ra sức thuyết phục Tnmg Quốc tốt hơn hết là phải cộng tác với Nhật. Đồng thời, thuộc địa Anh, Hà Lan, Trung Quốc lại gần sát với Nhật nên Đông Dương sẽ phải là một bàn đạp thích hợp cho các cuộc hành quân của họ tiến vào Đông Nam Á.
Ngay trước khi có thoả hiệp quân sự tháng 8-1940 với chính phủ Vichy về quyền được ưu đăi ở Đông Dương, Nhật đă cử đại sứ Yokohama lănh đạo Trung tâm Văn hoá Hà Nội dưới vỏ bọc là viên lănh sự, có người phó giúp việc là Komaki Omiya(13) và Komatsu phụ trách về tuyên truyền(14).
Mục tiêu lâu dài của Nhật đ̣i hỏi phải từng bước gạt bỏ ảnh hưởng và chủ quyền Pháp ra khỏi Đông Dương. Đó là những điều Matsushita đă làm từ những năm 1930. Và sau khi bị Pháp trục xuất vào 1938, Matsushita đă trở lại Đông Dương làm giám đốc Dainan Koosi. Yokoyama và Matsushita trở thành những người cộng tác với nhau từ 1941.
Ban đầu, chương tŕnh của Yokoyama hướng vào việc tuyên truyền cho nền văn hoá Nhật, nhưng sau đó đă chuyển sang công khai cổ vũ cho thuyết phân biệt chủng tộc trong cái gọi là triết lư của Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Điều đó cũng đă được một bộ phận rộng răi quần chúng Việt Nam tiếp thu, đặc biệt trong các giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo. Nhưng sau cú 9-3 và các trận thất bại ở Thái B́nh Dương, Tokyo mất hào hứng trong chính sách phân biệt chủng tộc, lệnh cho Yokoyama tập trung vào công tác tuyên truyền trực tiếp và làm t́nh báo. Matsushita và một số thuộc cánh “Châu Á cho người châu Á” liền cho đó là một sự phản bội của các phần tử thân châu Âu ở Tokyo và cũng nghi ngờ đối với Yokoyama mà mẹ và vợ đều là người Pháp và theo đạo Thiên Chúa.
Trong khi điều tra về tổ hợp thương mại, chính trị và t́nh báo Nhật ở Đông Dương, người ta thấy tay chân Matsushita trong Phục Quốc và Đại Việt dă tiến hành tuyên truyền thân Nhật với sự bảo trợ và giúp đỡ của Hiến binh ở những cấp cao trong quân đội Nhật. Và hoạt động của họ c̣n tiếp tục cho đến tận 1946. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hiến b́nh Nhật đảm nhận việc lănh đạo phong trào chống người Âu và cũng dă gộp Cộng sản Việt Minh vào bản danh sách căm thù của họ.
Trong t́nh h́nh đó, tôi t́m sự giúp đỡ của Trung Quốc, gặp tướng Mă, tham mưu trưởng của Lư Hán và đề nghị Trung Quốc cho cơ quan an ninh bắt giữ bọn gián điệp Nhật đă được phát hiện và thu thập nhiều tài liệu có giá trị c̣n trong Lănh sự quán Nhật, các Hành dinh quân đội và tại các Trung tâm t́nh báo. Mă tỏ ra không chú ư, đặc biệt khi tôi nói tới Yokoyama và Matsushita. Ông lịch sự đáp lại là Lư Hán đă “không nhận được chỉ thị của Trùng Khánh về vấn đề công tác phản gián” và nhân viên của ông ta không thông thạo trong loại công việc này. Kết quả không thể tránh khỏi là người Nhật vẫn được thoải mái đi theo con đường của họ.
Mấy tháng sau, tôi đă báo cáo về Bộ Chiến tranh và Bộ Ngoại giao về những sự cấu kết của Nhật trong quan hệ trong thời kỳ chiến tranh của họ với các phần tử Pháp, Trung Quốc và Việt Nam… cùng những mưu toan hợp tác của các phần tử địa phương trong việc nhằm thực hiện các nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của Nhật.
Một h́nh ảnh nổi bật của các thủ đoạn tài nghệ này thể hiện trong vai tṛ của Ngân hàng Đông Dương Pháp trong các vụ đầu cơ về t́nh báo và thương mại của Nhật. Thành công của các vụ này gắn liền một cách không thể chối căi được với sự cộng tác có ư thức của nhiều quan chức cao cấp Pháp trên lĩnh vực tài chính và chính trị, ở Đông Dương và ở chính quốc Pháp. Trong 6 năm tṛn, những người theo Pétain và De Gaulle đều cùng với các nhà chức trách Nhật hoạt động một cách không thân thiện đối với Đồng minh và làm thiệt hại đến những lợi ích tối cao của Đông Dương.
Trong những năm chiến tranh, nhiều người Tnmg Quốc cũng buôn bán lương thực và đồ quân dụng với Nhật để kiếm lời. Cũng như người Nhật, họ phải lợi dụng Ngân hàng Đông Dương và yêu cầu Nhật tiếp tục kiểm soát các tài sản của ngân hàng trong khi Quốc dân Đảng thương lượng với Pháp về vấn đề đặc quyền ngoại giao ở Trung Quốc và quyền lợi đặc biệt ở Đông Dương.
Một cái vốn có ích khác là những người Việt Nam thân Nhật. Họ đă được khuyến khích chống lại thực dân Pháp và ủng hộ Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật. Nhưng trong năm 1940 và sau đó là 1945, khi họ mất hết khả năng và miếng mồi đă mất, họ đă bị Nhật bỏ rơi để cho Pháp khủng bố và Việt Minh trừng trị.
Qua công tác điều tra của cơ quan phản gián, bấy giờ tôi mới rơ tại sao chỉ có ngôi nhà Ngân hàng Đông Dương mới được gác cẩn thận như thế ở Hà Nội; tại sao nó lại là một phương tiện duy nhất mà Nhật c̣n kiểm soát một cách chặt chẽ cho tới giữa tháng 10 và tại sao người Nhật đă vội vàng rút những khoản tiền lớn trước khi người Trung Quốc tới, để cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của ông Hồ một tài khoản phá sản. Vai tṛ ghê tởm của số người nhúng tay vào các hoạt động phá hoại này trong Thế chiến thứ hai đă rất ít trong số họ đă bị trừng trị.
Chú thích
(1) các đội ám sát
(2) Một tiểu đoàn của trung đoàn kỵ binh 16, sư đoàn 20 Ấn Độ (Gurkhas)
(3) Một đại đội của trung đoàn thuộc địa số 5 (5 RIC). Đây là một đơn vị được phục hồi lại từ các lực lượng cũ của Pháp được tập hợp lại và huấn luyện ở Bắc Phi trong đội quân ứng chiến để chiếm lại Đông Dương của tướng Blaizot.
(4) các tù b́nh Hà Lan, Úc và Anh đang chờ được hồi hương. Tù binh Mỹ đă được toán Dewey chuyển đi từ trước.
(5) Phạm Văn Đồng nói với tôi ngày 3-9-1945 là Chính phủ mới chỉ thấy trong ngân khố lúc đó không quá 1,5 triệu đồng
(6) Masumi Yaghiou là con của Giám đốc ngân hàng Đài Loan, được chính phủ Nhật giao cho nhiệm vụ kiểm soát tất cả các hoạt động tài chính của tổ hợp công thương nghiệp có liên qan đến các hoạt động bí mật ở Đông Dương. Ông là nhà chức trách duy nhất giữ liên lạc giữa các tổ chức dân sự và quân sự, và là một công chức cao cấp của Nhật ở mọi nơi.
(7) C̣n gọi là Matusita
( 8 ) Năm 1944, chính phủ Trung Quốc đă ra sắc lệnh xử tử tất cả người nào có “những số lớn tiền bạc hoặc vải vóc không sản xuất tại Trung Quốc”. Nhưng qua sự chất vấn các quan chức Dainan Koosi sau chiến tranh đă cho thấy một sự buôn bán rất lớn tiền tệ và vải vóc đă được xúc tiến bởi “một số quân phiệt” ở Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông.
(9) J.M. Yokohama đă tổ chức được một trung tâm chiến tranh chính trị có quy mộ toàn quốc ở Hà Nội. Trung tâm này phụ trách một hệ thống các trường học Nhật cho các gia đ́nh người Nhật ở Đông Dương và tổ chức các buổi thuyết tŕnh lư luận chính trị và văn hoá Nhật cho các thanh niên Việt Nam. Nhưng đó cũng là một trung tâm tuyển mộ những người Quốc gia chống Pháp và chống Việt Minh. Trung tâm hoạt động phối hợp với CICEI.
(10) Yokohama là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, từng là Bộ trưởng ở Tây Ban Nha cho đến khi được chuyển về Đông Dương 1939. Nhiệm vụ của ông là tổ chức, điều khiển hoạt động t́nh báo và chính trị, đồng thời là cố vấn cho triều đ́nh Huế. Mẹ và vợ đều là người Pháp Công giáo đă giúp nhiều cho ông quan hệ với các giới Pháp ở Sài G̣n, Huế, Hà Nội. Ông cộng tác với người bạn đồng nghiệp trong giới kỹ nghệ là Matsushita. Ngày 10-3-1945, chính Yokohama đă vào điện Kiến Trung để khuuyên Bảo Đại hợp tác với Nhật trong Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á và đă thuyết phục được Bảo Đại chấp nhận kế hoạch phân biệt chủng tộc bằng cách tuyên bố để “giữ thể diện” là Việt Nam “không lệ thuộc vào nước ngoài” và sẵn sàng hợp tác với Nhật để củng cố nển “độc lập” của Việt Nam.
(11) Komaki Omiya, Doichi Yamane, Komatsu và Matsushita
(12) Lănh tụ phe Quốc gia Ấn Độ
(13) Đến Đông Dương năm 1939 nhờ sự bảo trợ của Doichi Yamane, cựu đại diện Nhật ở Hội Quốc Liên và là một nhân viên cơ quan t́nh báo Nhật. Komaki Omiya được cử vào ban quản trị CIDIM, một chi nhánh của CICEI. Omiya đă có một thời gian ngắn (1942-1943) cộng tác với Việt Minh(?) để nhằm lôi kéo người Việt chống lại người da trắng nhưng đạt ít kết quả v́ Việt Minh có tinh thần chống Nhật.
(14) Một cựu thông tín viên của tờ báo quân đội Nhật Yomiwu, phụ trách công tác văn hoá quân chúng trong trung tâm văn hoá

 

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6  - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28  - 29 - 30 - 31 - 32 - 33

34 - 35 - 36

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: