Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 12

“Quyền ủy trị” được xác định lại

Chỉ thị gián tiếp của Roosevelt về Đông Dương là nhằm để giải quyết vấn đề đó vào thời kỳ sau chiến tranh chứ không phải vào giũa năm 1945, khi Mỹ đang phải đương đầu với t́nh h́nh thay đổi nhanh chóng ở Đông Nam Á, hoặc đang ở trong một t́nh trạng cấp bách của chiến tranh. Những chỉ thị của Washington lúc đó chỉ gây thêm phức tạp và rối rắm cho các quyết định cấp bách về chỉ huy và làm gây cấn thêm t́nh trạng tranh chấp giữa Pháp, Trung Quốc và Mỹ.
Những điều bí mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng 2, cuộc đảo chính tháng 3 của Nhật và cái chết của Roosevelt trong tháng 4 ngay trước khi bước vào Hội nghị San Francisco đă làm cho vai tṛ của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm vóc của nó. Trong những kế hoạch tiến hành chiến tranh của chung ở Trung Quốc dự kiến cho đến năm 1946, chúng tôi không đặt vấn đề có sự tham gia của Pháp. Tuy vậy đến đầu năm 1945 th́ Pháp đă được coi như là thành viên của Chiến trường Đồng minh. Do đó, Đại sứ Hurley, tướng Wedemeyer và đại tá Heppner đă phải thường xuyên chất vấn Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và OSS ở Washington xem có phải là đă có một sự thay đổi chính sách hoặc ít ra th́ cũng phải có một sự giải thích để làm sáng tỏ t́nh h́nh.
DE GAULLE ÉP TRUMAN

Trong ṿng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle đă tiến hành một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận thế giới sang phía có lợi cho việc giữ nguyên t́nh trạng của Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi ư một cách không có cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương đă thay đổi dưới chính quyền Truman. Đợt tuyên truyền đó đă được triển khai đồng thời ở Trung Quốc và ở nước Mỹ vào ngày 25-4 khi tướng (đại sứ) Pechkov đọc một bài diễn văn tại cuộc họp báo cùng lúc với việc mở đầu Hội nghị San Francisco. Ông nói:
“Pháp đang chiến đấu ở Thái B́nh Dương, nơi có chiến hạm Richelieu, một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới đang tuần tiễu và ở Đông Dương, nơi những du kích Pháp đang quấy rối người Nhật và ngăn chặn không cho họ tiến đánh Vân Nam và Quảng Tây...
Trong cuộc xung đột này, người Đông Dương tỏ ra trung thành với sự nghiệp của Pháp. “Quyền ủy trị” thực sự đă nằm trong trái tim chúng ta…”.
Ở đây, có vấn đề được đặt ra là trên thực tế tàu Richeheu phải chăng có mặt ở Thái B́nh Dương vào thời điểm đó? Tôi chỉ có thể trả lời rằng, theo Hải quân Mỹ cho biết th́ trong khoảng từ 15 đến 30 tháng 4 năm 1945, tàu đó đang có mặt ở Ấn Độ Dương. Nhưng luận điệu nói là “du kích người Pháp” quấy rối Nhật ở Đông Dương và ngăn chặn những cuộc tấn công vào phía nam Trung Quốc đă được xác định rơ là cường điệu hoàn toàn. Người Việt Nam đă sớm nói lên tiếng nói của họ.
Sau khi Roosevelt mất, người phát ngôn của Pháp ở San Francisco đă t́m được những vũ khí tuyên truyền tốt nhất của họ trong lời tuyên bố năm 1942 của Sumner Welles và trong chương tŕnh về các dân tộc phụ thuộc của Mỹ đưa ra tại Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944. Ngày 2-5, G. Bidault, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San Francisco, đă tuyên bố một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng quyết định về tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào nước Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đă đề cập đến quyền ủy trị như đă được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố rằng nguyên tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào đó chứ không phải cho Đông Dương.
Sau này Bonnet phàn nàn với Ngoại trưởng Stettinius rằng “mặc dù Chính phủ Pháp hiểu lời tuyên bố của Welles năm 1942 có liên quan đến việc khôi phục lại chủ quyền của Pháp đối với đế quốc Pháp trước đây là có bao gồm Đông Dương ở trong đó, nhưng báo chí Mỹ vẫn cứ tiếp tục nói rằng một qui chế đặc biệt vẫn dược dành cho khu vực thuộc địa này”. Để tránh có sự bất đồng trong hội nghị, Stettinius khẳng định với Bidault rằng “bất cứ lời tuyên bố chính thức nào của Chính phủ nói đến chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, thậm chí… nhưng trong dư luận công chúng Mỹ cũng có những ư kiến nào đó lên án những chính sách và những điều thực hành của Pháp ở Đông Dương”.
Sau bước thăm ḍ kết quả, De Gaulle tăng sức ép đối với chính quyền mới ở Washington từ một hướng khác. Trong một bức công hàm riêng, De Gaulle yêu cầu Tổng thống Truman tiếp Bộ trưởng Ngoại giao của ông ta để ông này thảo luận về sự tham gia của các lực lượng Pháp “bên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến dịch quyết định chống Nhật”.
Bidault thăm Nhà Trắng ngày 17-5. Sau khi bày tỏ ḷng cảm kích đối với đề nghị được tham gia chiến đấu của De Gaulle, Tổng thống nói với Bidault rằng chính sách của ông ta là để cho Tổng tư lệnh Chiến trường (Mac Arthur) quyết định nếu như có thể được và có cần thiết phải để các lực lượng Pháp tham gia vào các cuộc hành quân chống Nhật hay không. Bản thân Tổng thống cho rằng việc này c̣n tùy thuộc khá nhiều vào điều kiện chuyên chở vận tải, một vấn đề đ̣i hỏi phải có một lực lượng lớn gấp 3 lần trong chiến tranh ở Đại Tây Dương.
Ngày hôm sau, Grew và Bidault cũng thống nhất với nhau sau khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề nói trên. Nhưng Bidault lại cho biết thêm là đă có hai sư đoàn của Pháp sẵn sàng để đưa ngay sang Viễn Đông. Có thể là nhằm cho Grew yên tâm về những động cơ của Pháp, Bidault nói ngay rằng các sư đoàn đó có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào tại Viễn Đông và Pháp không có ư định hạn chế sự đóng góp của họ chỉ ở trong việc chống lại kẻ thù ở Đông Dương. Grew đáp lại là sẽ nêu ngay vấn đề này với các nhà chức trách quân sự của chúng ta.
Trong khi bộ máy ngoại giao khuấy động th́ cơ quan đấu tranh chính trị của DGER ở Calcutta và Trùng Khánh cũng cho tung ra tin đồn là do “các nhân vật cao cấp” cho biết Washington đă bỏ rơi quan niệm về quyền ủy trị và cũng không c̣n phản đối việc Pháp quay trở lại Đông Dương nữa.
ĐIỀU G̀ ĐĂ XẢY RA Ở YALTA

Chiến trường Trung Quốc là “điểm chót tận cùng” trong Thế chiến. V́ vậy tin tức về những sự kiện ở Washington, London và Paris đến đó được, chủ yếu là do con đường trao đổi thư từ cá nhân giữa những người bạn quen thuộc với nhau. Những đường thông tin liên lạc chính thức giữa những người vạch ra quyết định ở các thủ đô thế giới với các nhà lănh đạo ngoại giao và quân sự ở Trung Quốc thường bị hạn chế trong những chỉ thị từng phần nhằm ngăn ngừa việc giải thích theo ư cá nhân hoặc các hành động có tính chất độc lập. Những chính sách cơ bản giao cho tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley từ khi họ mới được chỉ định sang Trung Quốc đă thay đổi liên tục ở Washington, nhưng những thay đổi đó lại chỉ được nêu lên một cách rơ ràng sau khi sự việc thực tế có liên quan đến sự thay đổi đó đă xuất hiện. Cũng may mà t́nh trạng đó không phải chỉ riêng những người Mỹ ở Trung Quốc mới có; trong những chừng mực nhất định, nó c̣n tồn tại ở người Anh, người Pháp. Và ngay cả trong các chính sách của người Trung Quốc cũng có t́nh trạng tương tự.
Để đối phó với những yêu sách quá mức của người Pháp và đấu tranh với các tin đồn đại về việc Mỹ thay đổi chính sách, chúng tôi phải dựa vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Đại sứ quán Mỹ. Đại sứ Hurley cũng khá thông thạo về vấn đề quyền ủy trị của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944 và cũng biết rằng vấn đề đó đang được “ba nước lớn” thảo luận tại Yalta. Tuy vậy, ông cũng không được thông báo là vấn đề đó đă được phê chuẩn hay đă bị sửa đổi. T́nh huống nào cũng đều tác động đến mối giao dịch của ông ta cũng như của giới quân sự đối với người Pháp ở Trung Quốc. V́ vậy, Hurley muốn biết quyết định cuối cùng của Washington và ngày 10-5, ông đă điện về Mỹ, nhắc đến lời tuyên bố báo chí của Pechkov, như sau:
“V́ một thực tế là qui chế tương lai của khu vực đó chắc chắn sẽ làm cho người ta ở đây quan tâm và thảo luận ngày càng nhiều nên thật là bổ ích cho tôi nếu như Bộ ngoại giao bí mật thông báo riêng cho tôi biết nội dung các quyết định ở Yalta (hoặc bất cứ một quyết định nào khác về chính sách) xung quanh vấn đề ấy. (Tôi biết rơ chính sách của Roosevelt đối với Đông Dương nhưng muốn xác định xem chính sách đó có ǵ thay đổi không)”.
Tám ngày sau, Hurley nhận được một trả lời ngắn gọn: “Không có quyết định nào của Yalta (SFAMB) liên quan đến Đông Dương mà Bộ Ngoại giao được biết (URTEL 750, ngày 10-5). Các tài liệu về chính sách quân sự và chính trị hiện đang nghiên cứu sẽ được chuyển đến để làm thông báo một khi đă được phép. Grew (điện).
Câu trả lời kín đáo của Grew làm tăng thêm sự lẫn lộn. Nếu không có quyết định nào đạt được ở Yalta, tại sao Bộ Ngoại giao lại không muốn tiết lộ ra. Thư tín trao đổi giữa các nhân viên tham mưu dự họp ở Yalta với Trùng Khánh nói rằng vấn đề Đông Dương đă được thảo luận chí ít là giữa Roosevelt và tướng Marshall, và có thể dưới một h́nh thức nào đó với cả Churchill và Xtalin.
Vài ngày sau, Hurley gửi một bức điện cá nhân dài đến Tổng thống Truman, đề cập đến quyền lợi và các cuộc vận động của Anh ở châu Á. Với một ngôn ngũ rơ ràng, Hurley bày tỏ mối lo ngại về việc Mountbatten đă sử dụng viện trợ Vay - Mượn và các nguồn tài nguyên khác của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương, nhằm làm thất bại cái mà Hurley cho là chính sách của Mỹ và để thiết lập lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ta muốn tổng thống hiểu rằng hiện nay ở châu Á có dư luận ngày càng tăng, cho là ở đây Mỹ đang nghiêng về xu hướng đế quốc hơn là dân chủ. Theo Hurley th́ đó là một điều phi lư và cần uốn nắn. Từ vị trí xa xôi cách biệt của ḿnh, ông có ấn tượng rằng đoàn đại biểu Mỹ ở San Francisco h́nh như ủng hộ thuyết đặt các thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc dưới sự kiểm soát đế quốc với h́nh thức các nước đế quốc riêng rẽ hoặc liên kết với nhau chứ không phải đặt dưới sự ủy trị của Liên Hợp Quốc.

TRUMAN NÓI: KHÔNG THAY ĐỔI

Bức điện của Hurley được Nhà Trắng chuyển cho Bộ Ngoại giao ngày 29-5 để phúc đáp lại một cách thích đáng vào 8 ngày sau, đồng thời cũng nêu hai vấn đề là sự kiểm soát của Pháp ở Đông Dương và nguyện vọng chiếm lại Hongkong của Anh.
“…Tổng thống yêu cầu tôi nói rằng không có thay đổi cơ bản nào trong chính sách... Và lập trường hiện nay là như sau:
Tổng thống cho rằng ông thông hiểu lời phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao ngày 3-4-1945, trong đó được sự đồng ư của Tổng thống Roosevelt, Stettinius đă tuyên bố rằng kết quả các cuộc thảo luận ở Yalta cho thấy, cơ cấu về quyền ủy trị phải được xác định thế nào để cho phép đặt dưới nó những lănh thổ nhất định chiếm được từ kẻ thù trong cuộc chiến tranh này (như đă được thông qua vào một ngày sau đó) và cả những lănh thổ khác nếu họ tự nguyện chấp nhận sự ủy trị. T́nh h́nh vừa được công bố liền được khẳng định bằng những cuộc trao đổi ư kiến hiện nay đang diễn ra ở San Francisco bàn về các quyền ủy trị. Suốt trong các cuộc thảo luận này, đoàn đại biểu Mỹ nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc một h́nh thức tiến bộ về Chính phủ tự quản để họ đi đến một kiểu liên bang nào đó phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của các dân tộc có thể loại trừ việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông Dương, trừ khi Chính phủ Pháp đồng ư. Mà điều đó th́ h́nh như không thể được. Tuy nhiên đó chỉ là ư định của Tổng thống vào những thời điểm thích hợp nhằm đ̣i hỏi Chính phủ Pháp có những biểu hiện tích cực tỏ rơ ư định muốn thiết lập các quyền tự do công dân và nới rộng các biện pháp về Chính phủ tự quản ở Đông Dương trước khi hoàn thiện hơn nữa tuyên ngôn về chính sách trong lĩnh vực này”.
Sau đó, bức điện kể lại cuộc nói chuyện của Tổng thống với Bidault và vạch ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng các tiêu chuẩn về khả năng sử dụng các lực lượng Pháp:
“a/ Trong khi tránh để không đi tới phải làm một điều ǵ không thiết thực, hay một cam kết dài hạn về khối lượng và tính chất của viện trợ mà Mỹ có thể cung cấp cho lực lượng kháng chiến của Pháp ở Đông Dương th́ Chính phủ (Mỹ) vẫn tiếp tục giúp đỡ trong chừng mực không ảnh hưởng đến những yêu cầu của các chiến dịch đă được hoạch định. V́ phải đáp ứng nhu cầu tập trung mọi tiềm lực của chúng ta ở Thái B́nh Dương cho các chiến dịch đă được vạch ra, do đó trong lúc này không dự liệu những chiến dịch qui mô lớn nhằm trực tiếp giải phóng Đông Dương. Quân đội Mỹ sẽ không được sử dụng ở Đông Dương ngoài các chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại Nhật.
b/ Lời đề nghị giúp đỡ được đánh giá về mặt quân sự như là một hành động nhằm mục đích đánh bại Nhật Bản cũng giống như trường hợp của Anh và Hà Lan.
V́ vậy không có ǵ ngăn trở việc cung cấp viện trợ cho các lực lượg quân đội và Hải quân Pháp theo như quan niệm đă được nêu ở trên, nhưng phải tính đến việc đừng để gây ra cho Chiến trường, nơi phải cung cấp sự viện trợ đó, một sự phân tán tiềm lực quân sự, kinh tế mà đáng lẽ Hội đồng tham mưu trưởng phải tập trung cho các nơi khác”.
Vào quăng giữa thánh 6, Heppner đă có dịp được đọc toàn văn bức điện nói trên và được phép phổ biến một số đoạn cần thiết cho một số ít nhân viên trong cơ quan, trong đó có tôi.
Cả Heppner và tôi đều cho là chính quyền Truman đă đầu hàng trước yêu sách của De Gaulle, chấp nhận chỉ chịu để cho Đông Dương thuộc quyền ủy trị nếu có sự đồng ư của Pháp. Nhưng đối với giới quân sự, th́ Đông Dương có được đặt thuộc quyền ủy trị hay không lại là một việc không quan trọng. Điều đáng quan tâm là vấn đề cung cấp cho Pháp những sự hỗ trợ và tiếp tế hậu cần, và nhằm vào mục đích ǵ. Chúng tôi hy vọng sẽ có những lời tuyên bố dứt khoát hơn, một lời tuyên bố có thể làm tiêu tan những mập mờ mà chúng tôi đang phải cố gắng khắc phục. Điều cơ bản mà chúng tôi cần là những tiêu chuẩn chính trị cho phép OSS có thể cộng tác với người Pháp, Anh và Việt Nam; các giới hạn địa lư của khu vực hoạt động và việc mở rộng các hoạt động phi quân sự của OSS.
Heppner đă triệu tập một hội nghị để hy vọng làm sáng tỏ những điểm này. Hội nghị gồm các đại diện Đại sứ quán, các nhà làm kế hoạch của Chiến trường và các trưởng ngành của OSS.
BỐN CƯỜNG CUỐC TRỞ THÀNH NĂM

Theo báo cáo viên Đại sứ quán, mục tiêu chủ yếu của Roosevelt là nhằm bảo đảm và duy tŕ ḥa b́nh bằng một cơ chế tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc). Ông đă phác họa ra cơ chế lănh đạo là một nền chuyên chính tay tư, gồm những cường quốc tham gia chủ yếu vào cuộc chiến tranh: Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng sau các hội nghị Dumbarton Oaks và Yalta, rơ ràng là Anh cần có sự cộng tác của Pháp ở châu Âu và Roosevelt đă chấp nhận khái niệm “năm cường quốc”.
Cũng có thể là cuộc viếng thăm Mỹ vào tháng 7-1944 của De Gaulle đă ảnh hưởng đến Roosevelt. De Gaulle đă hứa là Pháp sẽ để cho Đông Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh. Roosevelt không nài ép ông về vấn đề ủy trị. Roosevelt cũng rất biết sự thù ghét của Churchill đối với việc xáo trộn cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á, mặc dù Xtalin và Tưởng đều tán thành thủ tiêu nó. (Quentin Roosevelt đă tiết lộ cho tôi biết là vào giữa tháng 3-1945, Tổng thống có thể đă có một lập trường ôn ḥa hơn nhưng không phải là đă hoàn toàn từ bỏ lư tưởng về quyền ủy trị. Theo “Q” th́ Roosevelt đă nói rằng, nếu nước Pháp cam kết nhận cho ḿnh vai tṛ của người được ủy nhiệm th́ ông sẽ không phản đối việc Pháp giữ lại các thuộc địa của ḿnh với ư nghĩa là một sự độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa đó sẽ được đảm bảo thực hiện).
Theo báo cáo viên Đại sứ quán, lần đầu Đông Dương đă trở thành một vấn đề nói trong các công hàm của Tổng thống vào tháng 11-1944. Khi Wedemeyer báo cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp đang hoạt động mạnh mẽ nhằm khôi phục lại địa vị chính trị và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á; Wedemeyer nói về phái đoàn quân sự của Blaizot ở Ấn Độ đang chuẩn bị xâm nhập vào Đông Dương và yêu cầu phải có chỉ thị chính trị v́ theo Wedemeyer th́ Đông Dương thuộc Chiến trường Trung Quốc. Ngày 16-11-1944, Tổng thống đă chỉ thị cho Hurley thông báo cho Wedemeyer biết rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương không thể được xác định trước khi có sự tham khảo với các đồng minh trong hội nghị Tham mưu hỗn hợp sắp tới và Tổng thống yêu cầu Hurley cung cấp đầy đủ cho ông các tin tức về hoạt động của Anh, Pháp và Hà Lan ở Đông Nam Á. Nhưng Hurley đă chẳng có ǵ để báo cáo thêm với Tổng thống và Tham mưu Trưởng Liên quân cũng chẳng rơ đồng minh của chúng ta mưu toan làm ǵ, ở đâu.
Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng 3-1945, Tổng thống đă nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và Pháp trong khu vực này, và chỉ được giúp đỡ họ những ǵ mà các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đ̣i hỏi.
Người ta đă kể lại chuyện Churchill đă điện cho Tổng thống rằng ông biết đang có những khó khăn nhất thời giữa Wedemeyer và Mountbatten chung quanh các hoạt động ở Đông Dương, và đề nghị có chỉ thị cho Hội đồng Tham mưu trưởng Hỗn hợp Anh - Mỹ (CCS) tổ chức một cuộc trao đổi sâu sắc và thẳng thắn về các ư đồ, kế hoạch và t́nh báo giữa hai tư lệnh chiến trường. Ngày 22-3, Roosevelt đă phúc đáp là ông và Churchill nên thống nhất với nhau để quyền cho Wedemeyer được phối hợp mọi chiến dịch của Anh, Mỹ và Trung Quốc.
Churchill đă không trả lời cho đến ngày 14-4, khi Wedemeyer trên đường từ Washington về Trung Quốc và đă dừng lại để gặp Mountbatten ở Bộ Tổng hành dinh SEAC. Lúc đó, giữa hai vị tư lệnh đă đạt được một sự “thống nhất hiểu lầm”. Wedemeyer ra về và cứ tưởng rằng SEAC sẽ không cho tiến hành các chiến dịch ở Đông Dương trước khi chưa được ông ta thông qua với tư cách là Tổng tham mưu trưởng của Tưởng. Mountbatten lại hiểu rằng tất cả những ǵ mà ông phải làm theo như sự thỏa thuận đă đạt được chỉ là thông báo cho Wedemeyer biết về những chiến dịch được dự kiến ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu trong công hàm của Churchill gửi cho Tổng thống sau đó đă phản ánh cách nh́n của Mountbatten. Ngày 14-4, Tổng thống Truman phúc đáp lại, đă chẳng có ǵ thống nhất với Churchill, mà lại nêu lên một cách đầy đủ hơn quan điểm của Wedemeyer về vấn đề thống nhất ư kiến.
Vào giữa tháng 5, sự bất đồng giữa hai vị tư lệnh trở thành công khai. Mountbatten thông báo cho Wedemeyer biết ông dự định cho 26 chuyến bay của không quân vào Đông Dương để tiếp tế cho các toán “du kích người Pháp”. Cho rằng Chính phủ Pháp đă đặt tất cả các đơn vị nói trên dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của Tưởng, Wedemeyer đ̣i Mountbatten phải bố trí để đảm bảo là tất cả đồ thiết bị tiếp tế phải được sử dụng vào việc chống Nhật. Mountbatten đă không đáp lại về vấn đề đó. Sau một đợt trao đổi tin tức chớp nhoáng mà Momlbatten cũng chẳng cho biết số lượng và địa điểm các đơn vị dự kiến được tiếp tế của Pháp, Mountbatten đă bất chợt ra lệnh cho phi cơ bay mà không chờ phải có sự đồng ư của Wedemeyer và Tưởng. Ngày 25-5, Wedemeyer đă kịch liệt phản đối Mountbatten và báo cáo với Hội đồng Tham mưu trưởng của chúng ta. Quan hệ chỉ huy giữa hai tư lệnh trở nên căng thẳng.
Trở lại hội nghị, Heppner yêu cầu chúng tôi đánh giá t́nh h́nh dưới ánh sáng của chỉ thị hiện hành, nhưng phải hết sức thận trọng đừng để vi phạm chính sách đă được công khai tuyên bố của Mỹ.
Helliwell mở đầu cuộc thảo luận bằng cách xem xét lại những mối quan hệ của chúng ta với Anh, Pháp và Việt Nam. Chúng tôi thống nhất ư kiến là OSS không cần quan tâm nhiều đến những hành động phối hợp Mỹ - Anh, ngoại trừ trường hợp có liên quan trực tiếp đến Đông Dương, và khi đó có thể phải chờ có quyết định của cấp trên. Đối với người Pháp và người Việt th́ vấn đề lại hoàn toàn khác. Trong một công hàm dài của Bộ Ngoại giao, Grew đă tuyên bố rơ ràng là ở đây không có ǵ thay đổi về cơ bản trong chính sách. Do đó chúng ta cần phải duy tŕ một cách hợp lư một nguyên trạng như trước đây. OSS chỉ việc không cần biết tới những cố gắng của Pháp để chiếm lại Đông Dương, và sẽ không làm ǵ để hỗ trợ hoặc ngăn chặn các cố gắng đó nhưng nếu có thể được th́ sẽ dùng các đội quân Pháp vào các cuộc hành quân bí mật. Những điều đó bao giờ cũng phải là một bộ phận hoặc phải được gắn chặt với các kế hoạch phối hợp của Chiến trường. C̣n đối với người Việt, th́ có nhiều sự hạn chế không cho chúng ta đóng góp vào việc thực hiện nguyện vọng chính trị của họ.
Một người trong hội nghị đă đặt câu hỏi xem phải làm thế nào khi đă rơ ra là tổ chức của người Việt Nam thực chất là chính trị, chống Pháp và chiến đấu giành độc lập dân tộc. Có ư kiến nêu lên là việc sử dụng các cá nhân người Việt cho các hoạt động bí mật do Chiến trường phối hợp không được coi như là một sự ủng hộ về chính trị hay quân sự đối với họ. Điều này đă gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối cùng, một trong những người thảo kế hoạch của Chiến trường đă kết luận là trong chừng mực mà người Việt có đóng góp vào nỗ lực của Đồng minh chống lại Nhật th́ chúng ta cũng không cung cấp cho họ một số khí giới nhiều hơn số họ cần để tự vệ cho cá nhân ḿnh. Như vậy, không ai có thể phê phán chúng ta là đă hoạt động một cách thiên vị.
Điểm phải bàn tiếp theo là vấn đề SEAC thâm nhập vào Đông Dương. Đă được khẳng định là Đông Dương tức là Việt Nam, Lào và Kampuchia là một bộ phận của Chiến trường Trung Quốc và thuộc quyền chỉ huy kiểm soát của Tưởng. Một người nào đó đă nêu lên tính chất hợp pháp của các khu vực hoạt động v́ ở đây thực ra chỉ có một thỏa thuận “lịch sử” giữa Mountbatten và Tưởng. Những thỏa thuận không chính thức như vậy rất không đáng tin cậy. Heppner ủng hộ ư kiến này và đưa ra những công văn của OSS gửi SEAC nói về các hoạt động của lực lượng 123 ở Lào và nam Đông Dương để làm chứng cứ. Tất nhiên, đó là sự thiếu phối hợp trong các kế hoạch hoạt động bí mật giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc.
Lúc đó, một người thảo kế hoạch của Chiến trường báo cáo là Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp có ư kiến như một phương án chia Đông Dương làm hai phần, một phần sẽ do SEAC có toàn quyền kiểm soát, bao gồm vùng phía nam của vĩ tuyến 15 hoặc 16 bắc. Theo ông, đây mới chỉ là đang giai đoạn chuẩn bị, và c̣n phải chờ có sự chấp nhận của OSS và sự đồng ư của Tưởng. Nhưng ông gợi ư OSS cần phải lưu ư đến vấn đề này để làm kế hoạch hoạt động tương lai ở Đông Dương. Heppner đă đồng ư. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe nói đến ư định cắt Việt Nam làm đôi và chúng tôi đă coi vấn đề đó là một vấn đề quy định pháp lư giữa các Chiến trường.
Hội nghị đă rất bổ ích cho những ai trong chúng tôi đang chuẩn bị hoạt động. Trong khi không có những chỉ thị hướng dẫn chi tiết của Washington, chúng tôi cũng đă có thể dựa vào một số điểm nói về cách giải quyết cấn đề ở cấp cao để vận dụng ở cấp chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi chưa nhận thức được đề án của Washington cắt Đông Dương làm hai phần đă có một ư nghĩa xa đến thế, nhưng đó cũng là một nhân tố quyết định t́nh h́nh của năm đang đi tới.

 

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6  - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: