Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 30
Quân phiệt và bọn đầu cơ chính trị


NHỮNG CON TẮC KÈ TRUNG QUỐC
C̣n 15 phút bay nữa th́ tới Hà Nội, khi phi cơ bay dọc theo đường thuộc địa số 2, phi công gọi chúng tôi phải chú ư đến một ḍng người rất dài đang hỗn độn kéo về phía Nam. Máy bay hạ xuống thấp hơn và ḍng người đi hiện rơ ra trước mắt. Đó là một mớ lẫn lộn nào xe quân sự, xe đạp, xe ḅ kéo xen lẫn vào những đám đông người đi bộ chập chờn, khó tả. Nhiều người gánh gồng hoặc đeo những bó tướng trên lưng, lùa đi hoặc dắt theo súc vật chăn nuôi. Chúng tôi c̣n thấy cả lồng gà, ngỗng, các đàn lợn, trâu và nhiều con vật khác được kéo theo đi trên đường… Đó chính là đội quân chiếm đóng của Tưởng Giới Thạch…
Máy bay chúng tôi hạ xuống Gia Lâm vào sáng chủ nhật 9-9. Hôm đó cũng là ngày đánh dấu buổi đầu của một chương mới trong lịch sử Cách mạng tháng Tám, ngày mà đám quân của Lư Hán đến Hà Nội, không bị chống đối nhưng cũng chẳng được hoan nghênh. Đó là những người Trung Quốc đại diện cho các nước Đồng minh châu Âu chiến thắng, tuy chưa phải thật sự là những nước lớn. Nhưng trước mắt người Việt, họ chỉ là những tên đầy tớ của thế giới phương Tây được phái đến để ḱm giữ Việt Nam trong ṿng nô lệ phục dịch cho quyền lợi của ngoại quốc. Ba mươi năm sau, trong hồi kư “Những năm tháng không bao giờ quên”, Vơ Nguyên Giáp vẫn c̣n nhắc đến mối ác cảm của nhân dân Việt Nam đối với quân đội Lư Hán lúc đó…
Ở sân bay, tôi không thấy người Trung Quốc mà chỉ thấy nhân viên phục vụ người Nhật. Khi qua cầu Doumer (Long Biên), xe tôi bắt gặp một đơn vị hậu tập của Sư đoàn 93 Vân Nam Trung Quốc. Một sĩ quan, nhận ra lá cờ Mỹ nhỏ ở đầu xe, đă ra lệnh cho lính dạt vào bên phải, nhanh nhẹn chào và vẫy tay. Ở đầu hàng quân, một số phân đội rất có kỷ luật đă chuyển từ đi thường sang đi nghiêm theo nhịp của đội quân nhạc. V́ đă quá quen với các đơn vị quân đội vô kỷ luật ở Trung Quốc, tôi khá xúc động trước sự xuất hiện của các đơn vị đặc biệt này. Họ mang quân phục màu xanh chững chạc và vác các vũ khí Mỹ của họ một cách hănh diện.
Suốt ngày hôm đó, quân đội Trung Quốc tiếp tục đến. Và đến chiều tối, đoàn xe tải và xe Jeep của sĩ quan và nhân viên tham mưu làm một cuộc diễu binh lớn để vào thành phố. Lính Nhật đứng ở trong các ô cửa và cố gắng không để mọi người dễ thấy trong khi người Việt Nam nh́n một cách thèm muốn những vũ khí và xe cộ Mỹ ở trong tay của người Trung Hoa. Người Việt Nam như những người ṭ ṃ đứng ngoài xem, dáng tự hào mà không kiêu căng, tỏ ra quan tâm và chưa có ǵ chống đối hoặc dễ bảo. C̣n người Âu th́ vắng bóng.
MỘT SỐ NGƯỜI PHÁP TỰ DO
Khuya hôm đó, có nhiều người Pháp “tự do” không ở trong số thân cận Sainteny đă tới nhà Gauthier, mang đến cho tôi những tin tức từ Sài G̣n và về t́nh h́nh trong “Thành Mordant”, tên họ gọi một cách châm biếm phong trào kháng chiến của Pháp ở Hà Nội. Hai người trong số họ thuộc Đảng Xă hội Pháp, một người là hội viên tích cực của phong trào Cộng hoà B́nh dân Thiên Chúa giáo. Họ từ Alger đến từ tháng 1-1945 để công tác cho trường đại học Hà Nội, sau khi đă tham dự vào cuộc khởi nghĩa Paris (8-1944) trong lực lượng kháng chiến nội địa Pháp. Hoạt động chống Nhật cùng với số sinh viên ở Việt Nam Học xá nhưng họ kín đáo nên đă thoát chết sau cú 9-3 và đă cộng tác với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và Tạ Quang Bửu trong việc tổ chức sinh viên Hà Nội thời kỳ Cách mạng tháng Tám. Tôi và họ vẫn thường gặp nhau để trao đổi tin tức và nhận xét t́nh h́nh.
Chiều hôm đó, họ tỏ rất quan tâm đến sự có mặt “kinh khủng” của người Trung Quốc trong thành phố. Họ sợ rất có thể nổ ra cuộc xung đột tai hại giữa người Trung Quốc và Việt Nam cường các lực lượng của Pháp là c̣n cần thiết và nên làm, ngay cả khi xảy ra rối loạn. sẽ là một cái cớ cho những người theo De Gaulle vin vào đó để dùng quân đội của Leclerc can thiệp. Tôi phát biểu là sau khi đă được thấy những đơn vị rất có kỷ luật của Trung Quốc, tôi không tin là việc tăng
Ông Gouin(1), đảng viên Xă hội chuyển câu chuyện sang nói về De Gaulle và nước Pháp, cho rằng trong lúc này, mặc dầu đă mất Syrie(2) nhưng Đế quốc Pháp vẫn c̣n nguyên vẹn. Ở Pháp, có thể trừ De Gaulle ra th́ chẳng ai quan tâm nhiều đến những ǵ đang xảy ra ở Đông Dương. Theo Gouin, đó cũng là một điều dễ hiểu. Mùa đông 1944-1945, đời sống ở Pháp đă trở nên cực kỳ khó khăn… Nội chính hoàn toàn hỗn loạn và De Gaulle, một lănh tụ tầm cỡ quốc tế đă phải chịu một đ̣n tai hại không thể tưởng được v́ đă bị gạt ra ngoài cuộc hội nghị nguyên thủ các nước ở Yalta và Potsdam. Điều đó là một thử thách nghiêm trọng đối với toàn bộ “chính sách cao siêu” của De Gaulle và ông đă không chấp nhận điều sỉ nhục đó. Người ta cũng đă phải làm một ít ǵ đó để phục hồi lại cho nước Pháp vị trí xứng đáng trong hàng ngũ các cường quốc lớn thế giới.
Những người khác gật đầu tán thành và ông bạn Lebrun(3), phái Cộng hoà B́nh dân của chúng ta đă nêu lên vai tṛ cứu thế mà “Charles vĩ đại” (De Gaulle) đă tự gán cho ḿnh. Lebrun nhắc lại việc De Gaulle đă rất đau ḷng khi người Mỹ v́ lư do này khác đă khước từ đề nghị của ông được tham gia vào chiến tranh Thái B́nh Dương. Ông cảm thấy sâu sắc rằng đó là một điểm danh dự của nước Pháp v́ đă tỏ ra có đủ tư cách để yêu cầu được dự phần trong hoạt động ở Viễn Đông. Theo Lebrun, De Gaulle quan niệm cú 9-3 của Nhật ở Đông Dương lại là một điều may mắn hơn là tai hoạ cho Pháp.
Vài năm sau, khi đọc hồi kư của De Gaulle(4), tôi đă nhớ lại những lời b́nh luận này của Lebrun…
Các vị khách Pháp đă chất vấn tại sao người Mỹ chúng tôi đă rộng tay để cho Tưởng chiếm đóng bắc Đông Dương? Tại sao chúng tôi lại chia cắt nước này ra làm hai? Phải chăng Mỹ và Anh đă có mưu đồ chính trị, kinh tế ở Đông Nam Á và muốn gạt nước Pháp ra khỏi kế hoạch của họ? Họ có cảm t́nh với các hoài băo của người Việt Nam nhưng họ cũng c̣n là người Pháp và tin rằng Pháp có đủ khả năng thực hiện một nền công bằng xă hội. Một khi mà khối liên minh Xă hội - Thiên Chúa giáo - Cộng sản lên cầm quyền ở Pháp th́ Việt Nam sẽ được công nhận như là một nước chị em trong cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp.
Tôi tự nhiên cảm thấy họ có cái ǵ dó rất giống với Sainteny và các bạn theo De Gaulle của ông ta. Họ tỏ ra rất phẫn nộ và nói là chắc tôi đă biết rơ hơn. Tôi trả lời là đă nghe quá nhiều những lời xuyên tạc cho rằng Mỹ có trách nhiệm trong việc chia cắt Đông Dương và nói rộng ra, với hàm ư là Mỹ có những động cơ đen tối về kinh tế. Gouin đồng ư với tôi và hỏi cho biết sự thật là như thế nào? Ông thấy khó mà bảo vệ được lập trường của Đồng minh nếu như không nắm được thực chất của vấn đề.
Tôi đă tŕnh bày một cách tỉ mỉ quyết định, trước khi có hội nghị Potsdam, của tham mưu trưởng Liên quân Mỹ nhằm điều chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái B́nh Dương và giải thích sự cần thiết phải tập trung lực lượng Mỹ vào cuộc tấn công chủ yếu vào chính nước Nhật. Chính v́ thế Mỹ không cần thiết và không có lợi lộc ǵ trong việc tiếp tục ngăn chặn hoặc đánh đuổi Nhật trong các vùng đất đai c̣n lại của thuộc địa Anh, Hà Lan, Pháp ở Đông Nam Á. Và sau các cuộc thảo luận trong giới lănh đạo quân sự Đồng minh, th́ chỉ đi đến một quyết định hoàn toàn quân sự; không có một cái ǵ khác. Sau này, người ta cũng có thể nói rằng trong khi người Mỹ chỉ chú tâm đến vấn đề quân sự th́ người Anh lại lo lắng nhiều hơn đến việc bảo vệ quyền lợi thực dân của ḿnh và họ vui mừng trước thái độ “chống thực dân” của người Mỹ.
Việc lên án Mỹ lợi dụng vấn đề điều chỉnh giới tuyến cho những mục đích kinh tế đă được bộ máy tuyên truyền của Sainteny thổi phồng lên bằng cách tung tin có một sự thoả luận “bí mật” ở Yalta nhằm “cướp đoạt” địa vị chính đáng của Pháp ở châu Á và quyết định ở Potsdam chỉ là một trong những quyết định cốt để xoa dịu Tưởng, đền bù cho việc bị mất cho người Nga những đất đai ở Trung Quốc. Mặc dù tôi đă làm hết sức ḿnh để giải thích chống lại những điều xuyên tạc nói trên nhưng những điều đó vẫn được các cây bút Pháp, Anh và Mỹ(5) liên tục nhắc đi nhắc lại đến mức một độc giả không chuyên về lịch sử vẫn có thể chấp nhận đó là nhũng sự thật. Nhưng thực ra chúng không đúng.
MỘT ĐỘI QUÂN XÂM LƯỢC
Suốt đêm hôm đó, quân Lư Hán tràn vào thành phố, ầm ầm tiếng xe cộ đi lại, tiếng máy nổ, tiếng hô các hiệu lệnh… Nhưng chỉ sáng hôm sau, chúng tôi đă chứng kiến một cảnh tượng trái ngược hẳn. “Quân đội” Trung Quốc đă biến chất đi một cách ghê gớm!
Đội quân tinh nhuệ hôm qua đă trở thành đội quân đi cướp chiếm đất. Ra phố, tôi chỉ thấy một cảnh tượng lộn xộn không thể tả được cùng với những người Trung Quốc lang thang không mục đích…
… Không c̣n thấy bóng các đơn vị có kỷ luật mang quân phục màu xanh, tiến bước theo tiếng quân nhạc đâu nữa. Họ đă được phân tán vào trong góc Thành trên băi cỏ trước dinh Toàn quyền, trong các trại cũ của Pháp và Việt. Chỉ c̣n thấy các đơn vị dân binh Trung Quốc quần áo rách rưới lộn xộn, đi dép cao su làm từ các lốp xe Jeep Mỹ và mang đủ các loại vũ khí linh tinh Mỹ, Pháp, Anh và Nhật.
Cái đống nhân mạng vô thừa nhận này chính là đội quân Vân Nam của Lư Hán; nó giống như một đám quân tụt hậu hỗn độn đang rút lui chứ không phải là một đội quân chiến thắng đến để giải giáp và tiếp nhận sự đầu hàng của quân thù.
Người Việt Nam, trong đó có Vơ Nguyên Giáp, vẫn nghe ngóng, đón chờ và sẵn sàng trước đoàn người di trú kỳ dị này…(6).
Những ngày tiếp theo là những ngày tôi hiểu sâu thêm về phong cách cư xử phương Đông. Những người Trung Quốc mới tới, lác đác có một số cố vấn Mỹ đi cùng, đă tạo ra bầu không khí vừa có sự tha thiết vô tư, vừa gợi sự ṭ ṃ cá nhân lẫn với một sự sợ sệt cho mọi người. Sự thân thiện giữa người Việt Nam và những người mới tới chỉ ở mức tối thiểu. Chỉ có sự giao tiếp theo phép xă giao cần thiết và nhất thời và ngôn ngữ khác nhau đă làm trở ngại cho mọi sự tiếp xúc rộng răi giữa hai nhóm người. Nhưng những đồ Mỹ sản xuất, xe cộ, điện đài và vũ khí súng ống ở trong tay người Trung Quốc chỉ làm tăng thêm sự ṭ ṃ của những người Việt Nam táo bạo. Các nhà buôn đă thay đổi mặt hàng ngay từ ban đêm. Chỉ những ǵ ế ẩm mới được trưng ra và với giá đă được tăng lên rất cao. Các cửa và cửa sổ hướng ra thành phố đều bị đóng khoá chặt. Ngay giữa ban ngày, không có người phụ nữ Việt Nam và Âu nào dám đi ra phố mà không có nam giới đi cùng…
Nhưng cộng đồng người Hoa ở Hà Nội là một ngoại lệ. Ban đầu họ xô ra đường để đón chào các đồng hương của họ. Nhưng sau khi đoàn hậu quân đă tới th́ sự phấn khởi của dân địa phương cũng tan biến đi. Hơn nữa, v́ lo cho tương lai, các nhà lănh đạo cộng đồng người Hoa ở đây muốn được có an ninh nên đă yêu cầu phái đoàn chúng tôi chuyển cho Lư Hán bức điện sau đây:
“Hoa kiều ở Hà Nội xin gửi đến ngài những lời chào mừng nhiệt liệt và sự kính trọng sâu sắc nhất trước sự nghiệp sáng láng của ngài trong cuộc chiến thắng cuối cùng và chuẩn bị đón mừng một cách nồng nhiệt nhất ngày ngài tới Đông Dương”.
Vào thời kỳ đó, dân chúng Hoa kiều ở toàn Đông Dương có khoảng 50 vạn người. Tuyệt đại bộ phận họ tập trung tại Chợ Lớn, thành phố toàn người Hoa sát với Sài G̣n và tại Pnom Penh, thủ đô Kampuchia. Một số đáng kể sống ở Sài G̣n, Hải Pḥng và Hà Nội. Họ giữ một vai tṛ có ưu thế trong đời sống kinh tế của đất nước, kiểm soát rộng răi về tài chính các ngành thương mại và buôn bán. Những người Hoa ở Việt Nam hợp thành một tập đoàn dân tộc cần cù có những mối quan hệ gia đ́nh và chính trị khá chặt chẽ với Trung Quốc, nơi mà họ bày tỏ ḷng trung thành duy nhất với đất nước của họ…
Hoa kiều ở đây không sống riêng biệt mà quây quần với nhau trong những khu vực của lớp người trung gian được gọi là các “bang”. Hiệp ước Nam Kinh 1935 đă coi những Hoa kiều này như là những “người ngoại quốc có quy chế ưu đăi”, phải tuân theo pháp luật của Pháp và đóng thuế cho người đại diện cho mỗi “bang”. Theo quy định đó th́ họ chẳng có ǵ phải ngại đối với người Việt cũng như người Âu hay Nhật.
Những người Hoa kiều này hy vọng Lư Hán, với toàn quyền cai trị nhân danh Tưởng, sẽ giải thoát họ khỏi sự thống trị của người Pháp, khỏi cái mà họ coi như một quy chế tốn kém và phụ thuộc. Và họ đă được tưởng lệ thích đáng: Chỉ hai ngày sau khi tới Hà Nội, Lư Hán đă chỉ thị cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam băi bỏ “chế độ các bang” trong việc đối xử với cộng đồng người Hoa ở Đông Dương. Đó cũng là một trong nhiều đ̣n đánh vào uy tín của Pháp trong quá tŕnh Trung Quốc chiếm đóng và cũng là một bước mới trong việc làm suy yếu cái trật tự cũ đă già nua.
Hai ngày sau khi trở lại Hà Nội, tôi được ông A. Evard(7) cho biết thêm một đ̣n mới giáng vào uy tín của Pháp. Người Trung Quốc đă không kèn không trống tống Sainteny và nhóm thân cận ông ta ra khỏi nơi độc nhất c̣n lại của sự đại của nước Pháp, để chiếm dinh Toàn quyền dành cho Lư Hán sắp tới. Trong chiến tranh, thường kẻ chiến thắng bao giờ cũng có quyền đóng tại các toà nhà nguy nga và có ư nghĩa chính trị nhất trong vùng đất đai bị chiếm. Nhưng ở đây người Trung Quốc chỉ muốn phô trương thế trội của ḿnh, chứ không phải là chủ quyền, được tính toán để gây xúc động cho người Pháp cũng như người Việt Nam.
Nhưng đó cũng là một cách để làm nhục người Pháp, hạ thấp địa vị quan trọng của họ và ác nghiệt đặt họ trong vai tṛ của nhũng người ngoài cuộc được phép đứng xem hơn là những kẻ chiến thắng.

Ngày 11-9, Sainteny đă được chuyển đến đóng ở một biệt thự nhỏ sát nách với Nhà Ngân hàng Đông Dương. Theo Evard, công việc đó đă nhờ được một nhân viên của SLFEO, đại tá Cavalin( 8 ), và người bạn J. Laurent(9) thu xếp. Tôi cho rằng Sainteny cũng c̣n muốn đề xuất ra yêu sách về Nhà Ngân hàng cho người Pháp. Như nhiều người địa phương đă nói một cách dí dỏm rằng nếu Sainteny không thể bảo vệ được danh dự của nước Pháp tại dinh Toàn quyền th́ chí ít ông ta cũng làm một cái ǵ đó để giữ được ngân khố cho nước Pháp chứ.
Nhà Ngân hàng Đông Dương đă giữ một vai tṛ khá quan trọng suốt thời kỳ cộng tác trong chiến tranh của Pháp và Nhật. Người Nhật đă trao trả toàn bộ đất nước này cho Chính phủ ông Hồ, trừ Nhà Ngân hàng mà họ vẫn c̣n ngoan cố giữ chặt lấy toà nhà cũng như các tài sản bên trong. Người Pháp cho Ngân hàng là một vật sở hữu độc quyền của họ và khi thấy người Nhật vào Việt Nam không đề ra yêu sách ǵ đối với Nhà Ngân hàng th́ họ chỉ có thể coi đó như là đă thuộc về họ. Nhưng bất kỳ một yêu sách nào hay một sự tịch thu tài sản nào của Ngân hàng bởi người Trung Quốc th́ nhất định cũng sẽ bị cả người Pháp lẫn người Việt phản đối. Tôi không rơ người Việt Nam đă có cách nào để mong nắm lấy quyền kiểm soát Ngân hàng Đông Dương không, nhưng rơ ràng lúc đó, họ đang có lợi thế để mà đưa ra một yêu sách ít nhất cũng để giữ được bản thân ngôi nhà đó. Sự việc đă tới. Sau ngày Sainteny dọn đến trụ sở mới của họ, ông Saurent đă gửi cho tôi một bản công bố chính thức của Ngân hàng, ngắn gọn và gay gắt, do giám đốc Ngân hàng kư: “Kể từ ngày 12-9-1945, Chính phủ Lâm thời vỡ nợ”. Tôi đă hỏi xem Ngân hàng có c̣n tài sản nào không và được trả lời là c̣n, nhưng không thuộc tài khoản của Chính phủ.
TIÊU VĂN: NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC DÂN ĐẢNG
Ngay sau khi bộ phận tiền trạm của Trung Quốc đến Hà Nội th́ tướng Tiêu Văn, một bộ hạ tin cậy của Trương Phát Khuê cũng tới. Tiêu mang ba chức vụ: phó tư lệnh của Lư Hán, Tư lệnh tập đoàn quân 62 Quảng Tây và Thủ trưởng Pḥng chính trị Ban Công tác hải ngoại(10). Nhưng lúc đó ông ta c̣n có một nhiệm vụ khác nữa, nhiệm vụ bí mật bảo vệ các quyền lợi của Trương ở phía Nam biên giới Trung Quốc.
Cuối tháng 9, tôi được Tiêu Văn trực tiếp cho biết nếu không có sự chỉ đạo tích cực của Trương th́ Trung Quốc không thể hy vọng thiết lập được những quan hệ thân thiện với Việt Nam sau thời kỳ chiến tranh. Theo ư Tiêu Văn và ông ta vẫn giữ ư kiến này cho đến cuối 1947, việc chọn Lư Hán để chỉ huy cuộc chiếm đóng là một việc tồi tệ nhất. Tiêu cho Lư Hán không biết ǵ về “vấn đề” ở Việt Nam, có nhăn quan rất hạn chế, hẹp ḥi và chỉ huy những đội quân hoàn toàn không thích đáng với nhiệm vụ chiếm đóng. Trái lại, Trương, theo quan điểm của Tiêu, đă từ lâu có công xây dựng nền móng cho một sự thân thiện Việt - Hoa có hiệu lực mà trong đó Tiêu đă giúp “đạt được ít nhiều thắng lợi”. Việc thay đổi đột ngột nhằm phái Trương và đội quân tinh nhuệ nhất của ông ta tới Quảng Đông thay v́ cho Hà Nội có nguy cơ làm mất Đông Dương vào tay người Pháp và theo ư Tiêu, đó là một quyết định tai hại.
Tiêu Văn đến Hà Nội trong thời gian tôi đi Côn Minh và đă có nhiều lần gặp gỡ không chính thức với ông Hồ. Ông Hồ đă cung cấp cho người cai ngục và che chở cũ của ḿnh một biệt thự đẹp không xa phái đoàn OSS Mỹ, cùng nhiều tiện nghi khác và chắc chắn rằng họ đă nối lại nhũng quan hệ cũ.
Sáng ngày 10-9, tôi được Chu Văn Tấn, lúc đó là Bộ trưởng Quốc pḥng, mời tới dự một buổi gặp gơ do ông Hồ tổ chức để chào mừng tướng Tiêu Văn. Sau bữa tiệc, ông Hồ mở đầu bằng một lời phát biểu hoan nghênh ngắn bằng tiếng Trung Quốc, rồi giới thiệu Tấn.
Hướng về phía Tiêu Văn, Bộ trưởng Tấn nói tiếng Việt ca ngợi sự hợp tác và giúp đỡ của các lực lượng Đồng minh trong việc giải giáp quân Nhật và duy tŕ trật tự công cộng. Tấn đề nghị cho đặt liên lạc ngay giữa Bộ chỉ huy Trung Quốc và “Lực lượng vơ trang Việt Nam”(11) để cho vai tṛ mỗi nhóc được phục vụ một cách có hiệu quả hơn. (Tôi chỉ biết ngạc nhiên không hiểu Tấn đào đâu ra được “Lực lượng vơ trang Việt Nam”). Tấn tỏ biểu hiện hào phóng trong việc “phân phối” lương thực và đồ tiếp tế mà họ có, nhưng lại chua xót nhận xét là các lănh đạo Việt Nam chẳng c̣n ǵ trong tay. Sau ít lời nhận xét chung, Tấn mời Tiêu Văn phát biểu.
Tiêu chậm răi đứng lên, tay đặt vào đốc gươm chỉ huy bên sườn, một cử chỉ của người chúa tể mà người Việt không bỏ qua, và mỉm cười một cách hạ cố.
Bằng tiếng Trung Quốc, Tiêu cám ơn ông Hồ về sự hiếu khách và thông hiểu lẫn nhau và cảm tạ đối với đề nghị giúp đỡ của Tấn. Tiêu nói rơ một cách thẳng thừng rằng người Trung Quốc đă được trang bị rất tốt để hoàn thành nhiệm vụ của họ trong việc đối xử với người Nhật. Về vấn đề an ninh công cộng, ông nói, trong lúc này người Trung Quốc dựa vào “cảnh sát địa phương”; rồi sau đó sẽ tuỳ tướng Lư Hán quyết định. Đối với vấn đề lương thực và nói đóng quân cho “Quân đội Đồng minh”, ông tuyên bố Bộ chỉ huy Trung Quốc sẽ tiếp tế những thứ cần thiết từ nền kinh tế địa phương theo một chế độ trưng thu lương thực và dịch vụ, và tất nhiên là các chủ nhân và người bán hàng được chính phủ Trung Quốc trả tiền theo giá thị trường thoả thuận và hợp lư(12).
Tiêu cũng gợi ư trực tiếp với ông Hồ một cách rất ngoại giao là trong buổi đầu này nếu ở mỗi Bộ trong Chính phủ của ông Hồ mà đặt một sĩ quan chuyên môn người Trung Quốc để làm liên lạc th́ thật là thích đáng; v́ như thế người Việt thông hiểu hơn những nhu cầu và cách làm của người Trung Quốc. Khi những nhận xét của Tiêu được dịch sang tiếng Việt th́ những nụ cười thân thiện tắt ngấm ở ông Hồ và các cộng sự của ông, nhưng họ chẳng bộc lộ ra có ǵ là bị bất ngờ và thất vọng. Mặt họ trở nên lạnh lùng và không khí im lặng chống đối bao trùm. Giọng của Tiêu gay gắt và rất đáng ngại. Nghe những lời tuyên bố chính thức của Trung Quốc âm vang trong gian pḥng lớn Bắc Bộ phủ, ai cũng phải kinh ngạc.
Bất chợt, Tiêu làm như một diễn viên và nhà ngoại giao bậc thầy, đă xua tan bầu không khí căng thẳng bằng một câu nói đùa ǵ đó mà tôi không hiểu nhưng rơ ràng là được mọi người tán thưởng. Ông ta lớn tiếng cười khi đánh giá cao sự đón tiếp “nồng nhiệt” của người Việt NamNam chống phát xít. đối với người Trung Quốc mới tới. Ông ta hứa hẹn một cách hùng hồn rằng chính phủ Trung Quốc sẽ không quên sự đối xử thân mật của người Việt Nam đối với những người đồng bào ở nước ngoài của ông trong 6 tháng bị Nhật hành hạ vừa qua. Tôi thực sự không hiểu nổi lời hứa đó như thế nào, theo tôi th́ chẳng có sự ưu ái nào đă bị mất đi giữa những người Trung Quốc “thoả hiệp” (với Nhật) và những người Việt
Viên tướng đă kết thúc lời phát biểu bằng việc ca tụng “t́nh hữu nghị bất diệt”…, “cùng chung một mục đích…và kiên tŕ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc bên ngoài” và vân vân… Tôi có cảm giác mạnh mẽ rằng Tiêu đă cố gắng để có một giọng nói nhân đức mặc dù vẫn rất quan cách, ít ra th́ cũng cho đến khi người Trung Quốc đă sẵn sàng để điều đ́nh những vấn đề quan trọng hơn.
Ông Hồ hướng cho những người tham gia cuộc họp hoan hô và sau đó đă mời Tiêu sang pḥng bên cạnh để nói chuyện riêng. Liệu, Giám, Tấn và Giáp ở lại uống nước và chuyện tṛ, qua phiên dịch, với các sĩ quan đă cùng tới với Tiêu cho đến khi Tiêu và ông Hồ trở lại, miệng mỉm cười. Mấy phút sau, người Trung Quốc cáo lui sau khi đă chào theo kiểu quân sự, ôm, bắt tay thân mật… Một công tác ngoại giao theo kiểu Á Đông tuyệt vời.
Tôi cũng đă định xin rút lui, nhưng ông Hồ nói tôi ở lại uống trà với ông nên chúng tôi đă ngồi lại trên các ghế bành thoải mái ngay trong pḥng mà ông Hồ và Tiêu đă nói chuyện. Ông Hồ hỏi tôi có biết rơ Tiêu Văn không. Tôi nói đây là lần đầu tôi gặp Tiêu nhưng đă được nghe nói về vai tṛ của ông ta trong các công tác giữa người Hoa và Việt ở Trung Quốc. Ông cười và trách tôi một cách rất tự nhiên, “ông có thể nói cho tôi biết; nhưng thực tế, tôi cũng đă rơ ông ta mới được cử làm Trưởng Ban Mật vụ Chính trị ở Hà Nội đấy”. Tôi không biết và cũng đă không nghĩ tới điều đó. Tôi có biết vai tṛ của Tiêu là một sĩ quan chính trị, nhưng tôi không mong muốn cho ông ta dính líu vào các mưu đồ của người Trung Quốc. Tôi cũng chẳng muốn tiết lộ cho ông Hồ hay về việc OSS đă làm ǵ để giúp ông thoát khỏi sự cầm tù của Trương Phát Khuê năm 1944 và việc Tiêu có liên quan đến vấn đề này. Nhưng về phía ông Hồ, ông cũng không đặc biệt muốn ám chỉ đến sự hợp tác trước đây của ông với Tiêu, tuy ông đă kể lại những cố gắng của ông nhằm hoà hợp các người quốc gia Việt Nam hải ngoại ở Liễu Châu năm 1943 và sự ủng hộ của Tiêu đối với ông lúc đó.
Ông Hồ nói riêng với tôi là ông vừa mới yêu cầu Tiêu đứng làm trung gian môi giới giữa Quốc dân Đảng (Trung Quốc) và Việt Nam. Nghĩ cho kỹ, theo ông nói, th́ đó cũng không phải là một hành động khôn ngoan. Ông đă hy vọng rằng Tưởng, đi theo chính sách đă được công bố “không có tham vọng đất đai ở Việt Nam” sẽ sử dụng ảnh hưởng của ḿnh đối với các cường quốc Đồng minh để ngăn chặn các nhà quân sự Pháp không cho lật đổ Chính phủ Lâm thời. Tiêu dă gợi ư ngay là Quốc dân đảng và các nước Đồng minh sẽ có thái độ thân thiện hơn đối với chế độ của ông Hồ nếu ông chịu mở rộng cơ sở chính trị của Chính phủ bằng cách chẳng hạn như để Đồng minh Hội tham gia. Đi nước cờ cuối cùng, ông Hồ đă nói cho Tiêu biết là ông đă có ư định “dân chủ hoá” Chính phủ, nhưng cũng cần có thời gian, có thể phải sau cuộc bầu cử tháng Chạp(13).
Ngoài mặt, Tiêu tỏ ra thoả măn với câu trả lời của ông Hồ; ông ta khẳng định lại chính sách láng giềng tốt của Tưởng và hân hoan mong muốn sẽ có những cuộc thương lượng hai bên cùng có lợi, trong đó Trung Quốc sẽ coi Việt Nam là một nước được hưởng chế độ ưu đăi về thương mại và sử dụng các bến cảng ở Đông Nam Á.
Mặc dù sau buổi họp riêng, họ đều cười, nhưng tôi cho là ông Hồ đă không đạt được điểm nào đối với Tiêu Văn. Trước khi chúng tôi ra về, ông Hồ phàn nàn là t́nh h́nh sẽ rất khó khăn và có chiều hướng hoàn toàn xấu. Nhưng ông Hồ nói cuối cùng th́ Việt Nam cũng sẽ được giải phóng khỏi người Pháp, Trung Quốc hay bất kỳ nước ngoài nào khác. Ông nói tiếp: “Tôi biết Tiêu Văn đă cho đưa hai tên Việt Nam bù nh́n về cùng để tổ chức một chính phủ do Quốc dân đảng đỡ đầu vào lúc thuận tiện - nhưng Tiêu đă không nói trắng điều đó ra với tôi. Những tên này cũng không có đến cả lương tri là phải ẩn đi cho khuất mắt. Nếu họ bị một số thanh niên chúng tôi nhận được mặt, th́ tôi cũng biết sẽ xảy ra chuyện ǵ đây”.
Trong một phút linh cảm trước, ông Hồ đă nhận xét là sẽ có đổ máu trong tương lai. Nếu người Trung Quốc thực sự chống đối lại nền độc lập của Việt Nam, nhân dân ông nhất định sẽ kháng cự lại bằng vũ khí. Nếu bọn bù nh́n của Trung Quốc đánh vào Việt Minh, nhất định sẽ có nội chiến. Và nếu sự đe doạ của Pháp trở thành hiện thực th́ sẽ có cuộc chiến tranh toàn diện. Bất kỳ t́nh huống nào đă nói trên xảy ra th́ cũng đều sẽ được “phán quyết bằng máu”.
Ông Hồ trông già đi. Sau khi đă nói lên được t́nh trạng căng thẳng trong cuộc đấu với Tiêu Văn, ông Hồ xin lỗi về tâm trạng bi quan của ḿnh và ở đầu cầu thang, ông cho biết là sự có mặt của quân đội Trung Quốc trên đất đai Tổ quốc ông đă làm ông phiền muộn.
LƯ HÁN VÀ BỌN PHÁ HOẠI
Lư Hán đến sân bay Gia Lâm chiều ngày 14-9(14) mà không hề có báo trước. Sau khi được cơ quan Tiêu Văn điện thoại cho biết, tôi đến thẳng ngay dinh Toàn quyền để dón ông ta. Khoảng 4 giờ 30, tướng Lư Hán đến trong một đoàn xe nhỏ và tôi là một trong những người được gặp chào ông đầu tiên. Tướng Tiêu Văn giới thiệu tôi là trưởng phái đoàn OSS và đă nhă nhặn nói thêm là đơn vị chúng tôi đă giúp đỡ ông ta nhiều trong việc giao dịch với người Nhật và Chính phủ Việt Nam. Lư Hán cảm ơn tôi và hỏi tôi nếu cần ông ta có thể làm việc ǵ th́ cứ nói và ông mong rằng sẽ tiếp tục công tác chặt chẽ với phái đoàn chúng tôi v.v…
Trái với dự đoán chung của mọi người cho rằng Lư Hán tới sẽ được đón tiếp một cách long trọng ầm ĩ, ông ta và Bộ tham mưu của ông vẫn đóng kín đáo trong dinh Toàn quyền. Do đó đă lan tràn nhiều tin đồn đại về việc sắp sửa thi hành thiết quân luật, thực hiện chế độ quân quản, các đội hành quyết, lệnh giới nghiêm v.v… Nhưng chẳng có ǵ như thế đă xảy ra trong thời kỳ Trung Quốc chiếm đóng. Tuy vậy, cuộc chiếm đóng vẫn là một thời kỳ tai hại, gây chấn thương cho nhân dân Việt Nam trong lịch sử hiện đại của họ.
Tác động của sự chiếm đóng của độ 5 vạn quân(15) đối với một nền kinh tế đă lung lay đă đe doạ ngay cuộc sống của mỗi người Việt Nam, khi họ vẫn chưa được hồi phục sau trận đói ghê gớm mùa đông trước. Nhưng sự cướp đoạt một cách có tổ chức và gần như là công khai các tài nguyên đất nước bởi bọn quân phiệt vô lương tâm và bộ hạ của họ, lại c̣n nguy hại hơn nhiều.
C̣n các đề nghị liên tiếp của tôi với các nhà chức trách Đồng minh nhắc họ đảm nhận cung cấp lương thực và tiếp tế cho quân chiếm đóng th́ chẳng được ai chú ư đến. Và số này đă đến, chân đất, bụng đói và quyết tâm sống nhờ vào của cải ở địa phương. Họ lấy ngay thứ ǵ họ cần hay họ muốn, bất kể thứ đó là của người Pháp, người Việt hay của người Hoa địa phương, không kể giàu nay nghèo. Các chỉ huy của họ hiện đại hơn nhưng cũng tham tàn và ăn sống nuốt tươi mạnh hơn. Đồng quan kim, giấy bạc đă bị lạm phát một cách hết sức bừa băi và ở Côn Minh người ta đă phải tiêu hàng bó để mua một phẩm vật thường ngày, nay đă trở thành một công cụ để họ bóc lột người Việt về phương diện tài chính.
Ngay trong buổi thảo luận về việc quân đội Tưởng tiến xuống phía nam, Giáp đă cho biết ở Hải Pḥng, quân Trung Quốc đă cưỡng ép các nhà buôn địa phương khi họ từ chối không nhận tiền quan kim v́ đă được định theo một giá hối đoái không thực tế. Ở Tuyên Quang, các nhà chức trách quân sự Trung Quốc đă quy định (ít ra cũng là tạm thời) giá 1 quan kim ăn 20 đồng bạc Đông Dương. Tại Hà Nội, các nhà buôn Hoa kiều lại đổi 1 quan kim ăn 1 đồng bạc. Giáp rất bực bội và nói cho tôi biết lập trường của Chính phủ ông là không chấp nhận bất kỳ đề nghị về giá cả hối đoái nào cho đến khi có một “phái đoàn Mỹ tới”, và lúc đó có thể lấy đồng dollar làm trung gian để điều chỉnh các sự chênh lệch trong giá hối đoái các loại tiền tệ.

Kết quả cuộc gặp đầu tiên của ông Hồ với Lư Hán ở Hà Nội ngày 16-9 đă loại trừ hẳn hy vọng của ông Hồ muốn đặt giá hối đoái tiền tệ đối với đồng dollara Mỹ. Khi Lư Hán “gợi ư” với ông Hồ là giá hối đoái được ổn định ở mức 14 quan kim ăn 1 đồng bạc, ông Hồ liền yêu cầu nên để vấn đề này lại cho tới khi thành lập một uỷ ban tài chính. Nhưng chỉ mấy ngày sau, không có thảo luận ǵ thêm, Lư Hán ấn định một cách chính thức và một chiều giá hối đoái là 14 ăn 1. Tỷ lệ này đối với đồng quan kim mất giá, cùng với các thủ đoạn tài chính khác, đă đặt khuôn khổ cho một hoạt động chợ đen đồ sộ thực sự đă tàn phá nền kinh tế Việt Nam.
Với những đồng quan kim mà ở Trung Quốc phải có hàng tấn mới có giá trị, các sĩ quan Trung Quốc ở Việt Nam có những quan hệ kinh doanh riêng, đă kết hợp chặt chẽ với con buôn, chủ nhà băng, và thầu khoán để mua bằng một giá rẻ mạt mọi công cuộc kinh doanh có lợi mà họ thấy ở Việt Nam. Số này hoạt động không chỉ trong cơ cấu tổ chức quân sự Trung Quốc mà c̣n qua hệ thống của Đoàn Cố vấn Việt Nam(16) do Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh đỡ đầu. Các công ty và trust(17) nhanh chóng được thành lập để nắm quyền làm chủ hoặc kiểm soát các lợi ích ở Việt Nam hoặc các đồn điền của chủ Pháp, các trang trại, dinh thự, nhà máy, hầm mỏ, bến cảng và phương tiện giao thông vận tải… Nhà ở tư nhân, nhà hát, tiệm nhảy, khách sạn, cửa hàng và các nhân viên phục vụ đều được các ông chủ trả theo một giá rất thấp. Nếu họ phản đối hoặc dám bác bỏ đề nghị của các hiệp hội th́ giới quân sự đă có cách để cưỡng ép họ…
Trở lại cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ông Hồ và Lư Hán, nhiều vấn đề cực kỳ khó khăn khác đă được nêu lên. Vấn đề tu sửa các đường giao thông từ biên giới tới Hà Nội đă được đặt ra. Trong những ngày Trung Quốc chiếm đóng đầu tiên ở các tỉnh biên giới, Việt Minh đă đáp lại sự hống hách và coi thường Chính phủ Lâm thời Việt Nam của họ bằng cách cắt một số đường liên lạc điện tín điện thoại và phá hoại các đoạn đường dẫn tới Hà Nội, Hải Pḥng. Lư Hán không rơ nguyên nhân t́nh trạng phá hoại đó và “gợi ư” người Việt Nam phải tiến hành sửa chữa ngay để quân đội của ông ta kịp thời chuyển tới. Ông Hồ nói lại là cần phải có thời gian nếu như quân đội Trung Quốc không đảm nhận lấy việc này, nhưng Lư Hán kiên quyết không chịu nên ông Hồ phải đồng ư nhận cung cấp nhân công nếu như được Trung Quốc giúp đỡ về vật liệu. Lư Hán chỉ đáp là ông ta sẽ xem xét.
V́ không biết rơ thực lực của Việt Minh và chưa tin chắc ở khả năng của quân đội trong việc đụng đầu với ông Hồ, nên Lư Hán lúc đầu c̣n điều tra, sau đó yêu cầu ông Hồ cho biết rơ lực lượng và tổ chức quân đội Việt Nam lúc đó. Một lần nữa ông Hồ lại bác bỏ, cho rằng vấn đề đặt ra không thích đáng v́ Việt Nam không phải bị chiếm đóng mà “trong thực tế là một bộ phận của lực lượng Đồng minh”. Lư Hán cứ khăng khăng đ̣i và cuối cùng ông Hồ đă phải chấp nhận, nhưng ông đă nghĩ ra được một cuộc rút lui khá hay… Về sau ông đă giải thích cho tôi biết ông đă phải đi theo một đường lối tránh mọi khiêu khích và đối đầu có thể dẫn đến xung đột với quân Trung Quốc suốt trong thời gian Tưởng c̣n đại diện cho Đồng minh.
Để thực hiện chính sách hy sinh đó, ông Hồ đă lẩn tránh một cách tài t́nh bằng cách đổi tên Giải phóng Quân của ông thành Vệ quốc Đoàn và phân tán nó vào các vùng hẻo lánh xa xôi, cho nó bớt vẻ quan trọng và tránh được xung đột với quân đội Lư Hán.
Sau đó, ông Hồ đă đề cập với Lư Hán vấn đề cung cấp lương thực cho quân chiếm đóng, đồng thời tiếp tế cho dân chúng. Lư Hán tỏ ra quan tâm và đồng ư về nguyên tắc với đề nghị của ông Hồ cho quân Trung Quốc t́m biện pháp tiếp tế gạo từ Nam Kỳ ra. Nhưng miền Nam lại thuộc quyền kiểm soát của người Anh nên Lư Hán không tin là có thể thu xếp được vấn đề này nếu không có su giúp đỡ của Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ đáp lại là khả năng của ông rất hạn chế v́ hiển nhiên ông không có quyền lực, tài chính cũng như phương tiện vận tải. Đó là một cuộc đối thoại vô hiệu quả giữa sự không khoan nhượng của Trung Quốc và sự bất lực của Việt Nam.
Một vấn đề khác gây cho ông Hồ nhiều điều lo lắng là khả năng xảy ra các vụ xô xát, giết người Việt Nam và Trung Quốc. Lư Hán đảm bảo với ông Hồ rằng đă ra những mệnh lệnh nghiêm ngặt nhất cho toàn thể đội quân của ông phải cư xử đúng mức và tránh mọi va chạm, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Với thái độ chủ động và cốt để ông Hồ cảm nhận được quyền lực của Trung Quốc, Lư Hán nhắc nhở ông Hồ là sự hoà hợp phải có đi có lại và ông Hồ phải thực hiện sự hợp tác và giúp đỡ quân chiếm đóng trong việc duy tŕ trật tự và đặc biệt là làm cho dân chúng trấn tĩnh lại.
Khi cuộc gặp gỡ kết thúc, như chợt nhớ ra, Lư Hán báo cho ông Hồ biết là phải cho lùi giờ Hà Nội lại một tiếng đồng hồ ngay theo như giờ Trung Quốc để tránh mọi sự lộn xộn và rắc rối về quản lư hành chính không cần thiết. Yêu sách tai hại cuối cùng này đă gây ra bất măn cao độ v́ đối với ông Hồ, điều đó thể hiện sự kiêu căng trịch thượng và sự can thiệp vào công việc nội bộ của người Trung Quốc, nhưng tất nhiên, ông cũng đă phải đồng ư.
Xong các vấn đề cụ thể, Lư Hán lấy một giọng điệu hoà giải hơn và tuyên bố rằng sự có mặt của Trung Quốc ở Đông Dương là vấn đề “thuần tuư quân sự và nhằm đáp ứng lại yêu cầu của các cường quốc Đồng minh để giải giáp và hồi hương quân Nhật”. Thực hiện xong điều đó, nhiệm vụ của Trung Quốc ở Việt Nam sẽ kết thúc.
Mặc dù Lư Hán đă có một thái độ quân phiệt sống sượng trong khi đề ra các yêu sách trong cuộc gặp gỡ, nhưng rơ ràng ông Hồ lại coi đó là một dấu hiệu tốt. Ông xác định nó cũng mang lại được kết quả là “đă xây dựng được một sự quan hệ thân thiện”. Tôi thực khó mà hiểu được cách nói và lập luận kiểu phương Đông này, nhưng ông Hồ đă kiên tŕ giải thích đây không phải là những cái đă được nói ra mà là những điều bao hàm ở trong đó. Tỉ dụ như việc Lư Hán thể hiện đă ngầm cam kết không giải tán hoặc gây trở ngại cho Chính phủ Lâm thời mà lại cũng làm việc với Chính phủ khi mà Chính phủ vẫn nắm được quyền quản lư nội bộ đất nước. Ông Hồ cũng cho rằng điều cam kết đó c̣n có nghĩa là Lư Hán sẽ không ủng hộ và giúp đỡ những người Quốc gia thân Trung Quốc thuộc bè lũ Trương Phát Khuê, “nhóm Lưỡng Quảng” (Quảng Đông và Quảng Tây) thuộc quyền của những lănh tụ như Nguyễn Hải Thần và Trương Bội Công(18). Lần đầu tiên, ở đây tôi khám phá ra vết rạn nứt chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn, cố vấn chính trị của ông ta. Và tôi cũng rất kinh ngạc trước diễn biến của t́nh h́nh sắp tới, khi biết tin Đồng minh Hội, một con bài quan trọng trong kế hoạch chính trị tương lai của Tiêu Văn, đă sẵn sàng ở Hà Nội và đang lo toan việc thách thức với Việt Minh.
Chú thích
(1) Marcel Gouin, giáo sư kiến trúc trường Đại học Hà Nội
(2) Pháp đă bị thất bại trong mưu đồ lập lại chế độ thuộc địa trước chiến tranh ở Syrie (trái với lời cam kết của Đồng minh đă hứa với chính phủ Syrie) v́ Churchill đă ép De Gaulle phải ra lệnh rút quân Pháp ra khỏi Trung Đông để đưa đi chiến đấu cùng với quân Đồng minh ở Ư và Bắc Phi
(3) André Lebrun, hoạt động trong phong tráo kháng chiến Pháp cho đến khi được chuyển sang Sài G̣n tháng 1-1945. Ông đă t́m đường ra Hà Nội vào tháng 2 để hoạt động cùng với số bạn bè cấp tiến trong phong trào thanh niên giành độc lập, nguỵ trang làm cha đạo trong Thành để giúp người Việt Nam trong lúc khởi nghĩa.
(4) Charles De Gaulle, “Hồi kư chiến tranh
(5) Sainteny, “Lịch sử”; B. Fall, “Hai Việt Nam”
(5) Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không bao giờ quên”
(7) André Evard, mật thám của OSS tại Hà Nội, đáng nghi ngờ nhưng đă có lúc làm thông tín viên chó hăng UP, đồng thời là trợ lư giám đốc hăng Air France ở Hà Nội.
( 8 ) Viên đại tá này đă thoát được cú vét lưới 9-3 của Nhật và tiếp tục liên lạc với những người Pháp hoạt động bí mật. Bà Calavin, vợ ông ta, cũng cộng tác với phong trào của Mordant cưới quyền của bà Sarraut (chị dâu Sainteny) nhưng đă không xâm nhập được vào phái đoàn OSS ở Hà Nội trong tháng 8-1945.
(9) Jean Laurent, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Dương
(10) trước là Ban công tác đối ngoại Đệ tứ chiến khu
(11) Nguyên văn: Vietnamese Armed Forces, cũng có thể đọc là “Quân đội Việt Nam”, hoặc “Quân đội Quốc gia Việt Nam”
(12) Chi phí chiếm đóng do chính phủ Trung Quốc bắt Pháp phải chịu bằng cách hàng tháng Trung Quốc rút ra một khoản tiền (40 triệu đồng) của Ngân hàng Đông Dương để chi cho “các nhu cầu cấp bách về quân sự”. Khoản tiền này đă được thanh toán teo “Hiệp ước Pháp - Hoa” sau này.
(12) Cuối cùng, cuộc bầu cử đă được tiến hành ngày 6-1-1946. Đồng minh Hội được 20/300 ghế trong chính phủ mới. Nguyễn Hải Thần được “bầu” là Phó Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp
(14) Có tin Lư Hán tới Hà Nội vào khoảng từ 9 đến 18-9. Nhưng ngày chính xác th́ như đă nói ở trên và đă được báo cáo cho OSS đện số 119 ngày 14-9 của Patti gửi Indiv.
(15) Nhiều nhà báo đă ấn định số quân chiếm đóng của Lư Hán là 18 vạn. Con số này ch́ là áng chừng tổng số quân đă qua lại ở đây trong thời gian chiếm đóng (9-1945 - 10-1946). Chính phủ Trung Quốc đă nêu con số 15 vạn quân để tính chi phí chiếm đóng cho người Pháp gánh chịu. Có thể trong mỗi lúc nhất định th́ không quá 5 vạn quân đồn trú tại chỗ.
(16) gồm Shao Pai - Chi’ang (Quân quản), Ling Chi - han (Ngoại giao), Chu Hseich (Tài chính), Chuang Chih - Huan (Kinh tế), Cheng Fang - Heng (Giao trông), Ma Ts’an - Yung (Lương thực) và Hsing Shen - Chow (Quốc dân Đảng)
(17) công ty uỷ thác
(18) Trương Bội Công tới Trung Quốc sau cuộc đàn áp Yên Bái 1930 và đi theo phái Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kinh

 

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6  - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28  - 29 - 30 - 31 - 32 - 33

34 - 35 - 36

 

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: