MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

֎֎֎֎֎֎֎

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Secret Army Secret War

֎ CIA Giải mật

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học  

 

 

♣♣♣♣♣♣

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008

֎ 10-2008 ֎ 11.2008 ֎ 11-2008

֎ 12-2008 ֎ 01-2009 ֎ 02-2009

֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009

֎ 09-2009 ֎ 10-2009 ֎ 11-2009

֎ 12-2009 ֎ 01-2010 ֎ 03-2010

֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010

֎ 10-2010 ֎ 11-2010 ֎ 12-2010

֎ 01-2011 ֎ 02-2011 ֎ 03-2011

֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011

֎ 10-2011 ֎ 11-2011 ֎ 12-2011

֎ 01-2012 ֎ 06-2012 ֎ 12-2012

֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015

֎ 12-2015 ֎ 01-2016 ֎ 02-2016

֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Vở Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Diễn Đàn ֎ Learning ֎ Sports ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Đà Lạt ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government

v Associated Press v Congressional Record

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v Gateway

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

 

 

Phía Nam Hoành Sơn

 

 

 

 

 

Mở đầu...

Phía Nam Hoành Sơn, tập truyện khởi từ giai đoạn lịch sử rối ren nhất của dân tộc. Gịng họ Lê đất Lam Sơn sau gần trăm năm trị v́ bắt đầu suy vong khi vận nước lại trao vào tay hôn quân bạo ngược như Uy Mục, Tương Dực. Mạc Đăng Dung đang nắm quyền bính, đảo chính lật đổ nhà Lê (Đinh Hợi 1527). Trung thần nhà Lê, An Thành Hầu Nguyễn Kim cùng đám thủ hạ thân tín chạy sang Ai Lao, lập căn cứ tại Sầm Châu mưu việc trung hưng gây cuộc nội chiến Lê Mạc. Sau khi Nguyễn Kim chết, mâu thuẫn quyền lực phát sinh giữa hai họ Trịnh Nguyễn thúc đẩy Nguyễn Hoàng, con thứ Nguyễn Kim vào trấn thủ Thuận Hóa, âm mưu xưng hùng một cơi gây cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn. Sau 45 năm tranh hùng, hai bên ngưng chiến, đất nước phân ly. Gịng họ Nguyễn làm chủ phương nam tiếp tục cuộc hành tŕnh lao nhọc đầy trí tuệ, diệt Chiêm Thành, chiếm Thủy Chân Lạp mở rộng cơi bờ. Đến đời thứ chín, triều đ́nh chúa Nguyễn gặp nạn quyền thần thao túng. Nhân dân phẫn uất, đói khổ lầm than. Nguyễn Nhạc, hào kiệt ấp Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Quân Tây Sơn chiếm Qui Nhơn, tràn ra phía bắc đánh phá vùng Quảng Ngăi, Quảng Nam. Không bỏ lỡ cơ hội, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm tổ chức hành quân nam tiến. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần thất trận chạy trốn vào Gia Định ( Ất Mùi 1775)...

Tập truyện xếp theo thứ tự thời gian, được tham khảo và đối chiếu từ các tài liệu: Đại Việt Sử Kư Toàn Thư bản Chính Ḥa (hoàn thành năm 1697 thời Tây Vương Trịnh Tạc). Các tài liệu của Quốc Sử Quán triều Nguyễn: Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Nhất Thống Chí, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên... Các tài liệu khác : Vũ Biên Tạp Lục (Lê Quư Đôn), Xứ Đàng Trong năm 1621 (Giáo sĩ Cristophoro Borri), Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim), Việt Sử Tân Biên (Phạm Văn Sơn), Việt Sử Xứ Đàng Trong (Phan Khoang), Việt Nam Giáo Sử (Phan Phát Huồn)... và một số những tài liệu mới đọc được ở trong, ngoài nước sau năm 1975.

Tuy diễn tiến theo gịng chính sử, Phía Nam Hoành Sơn h́nh thức vẫn là truyện. Vận dụng sáng tạo của người viết tiểu thuyết hóa các nhân vật lịch sử, hư cấu thêm nhân vật, gửi gắm đôi chút suy tư..... Cũng như nhà văn Alexandre Dumas từng nói:“ Lịch sử đối với tôi là ǵ? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức họa của tôi thôi”. (Qu'est ce que l'histoire? C'est un clou auquel j'accroche mes tableaux).

 

Trung thu Quư Mùi 2003 

 

 

 

 

Trên Đường Tây Tiến. 

 

 

 

 

 

Suốt trăm năm dưới triều đại nhà Hậu Lê. Gịng họ Nguyễn làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn Thanh Hóa nổi tiếng danh gia vọng tộc, bao đời phát công hầu khanh tướng. Họ Nguyễn không những là niềm kiêu hănh của làng, mà của cả huyện, cả trấn Thanh Hóa. Nhất là sau này, con cháu họ Nguyễn trở thành chúa tể xứ Đàng trong trên hai trăm năm. Lúc sự nghiệp suy tàn tưởng đă bị diệt vong, gịng họ Nguyễn lại vươn ḿnh đứng dậy. Sau cuộc nội chiến đẫm máu gần ba mươi năm với anh em Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh thống nhất sơn hà mở đầu triều đại nhà Nguyễn.

Kể từ khi vua Thái Tổ Lê Lợi xuất thân áo vải, ba thước gươm b́nh định sơn hà đuổi giặc Minh khỏi bờ cơi dựng nghiệp nhà Hậu Lê. Nghe lời kêu gọi của Thái Tổ, tiên tổ họ Nguyễn làng Gia Miêu Nguyễn Công Duẫn cầm đầu đám dũng sĩ Tống Sơn, đầu trần chân đất tụ về đất Lam Sơn theo vua dựng cờ đại nghĩa diệt quân xâm lược. Trải bao phen nếm mật nằm gai, vào sinh ra tử. Công Duẫn được phong hầu tước. Lúc tuổi xế chiều trở về vui thú điền viên, Công Duẫn được vua phong tặng Thái Bảo Quốc Công, thật hiển vinh danh giá khó ai sánh kịp. Đến đời con, xứng câu “hổ phụ sinh hổ tử”, Nguyễn Đức Trung nối chí phụ thân trở thành tôi lương đống. Đức Trung nhiều phen xông pha trận mạc, từng kéo quân chinh nam thảo phạt Chiêm Thành, được phong chức Đô Đốc Trinh Quốc Công. Đức Trung có con gái tiến cung, sau thành Thái Hậu, là mẹ vua Hiến Tôn. Họ Nguyễn thời ấy nắm hết mối giềng xă tắc, gịng họ có đến gần hai trăm người làm quan tại triều. Con trai Đức Trung là Văn Lăng sở học uyên bác, vơ nghệ cao cường. Văn Lăng tính hào hiệp, nhập tâm câu “kiến nghĩa bất vi...”, thích làm việc nghĩa, thương giúp kẻ khốn khó.

Người gia làng Gia Miêu thường kể con cháu nghe chuyện hổ thần núi Thiên Tôn, ngọn núi hùng vĩ nằm phía bắc huyện Tống Sơn. Mạch núi như chuỗi ngọc gồm mười hai ngọn liền nhau đẹp như tranh vẽ. Trong núi có hổ thần to như ḅ mộng, ban đêm tia mắt tỏa như hai làn sáng xanh biếc. Ác thú khát máu chẳng đụng đến gia súc mà chỉ thích thịt người. Đêm đêm hổ về làng, biến hiện như ma gieo kinh hoàng khắp xóm thôn... Đêm Gia Miêu hăi hùng u uất, đêm thẳm sâu nhà chẳng dám lên đèn. Đêm trăng sáng, lũ trẻ thèm dỡn trăng bị trói chân trong nhà. Người người kinh hăi khi nghe tiếng chiêng trống, tiếng mơ, tiếng phèng la đập liên hồi báo động hổ về. Giữa rừng âm thanh hỗn loạn, chợt nghe tiếng thét hăi hùng thất thanh cùng với tiếng khóc. Đó là lúc đă có nạn nhân làm mồi cho ác thú.

Làng họp khẩn t́m cách đối phó. Đám tráng đinh trang bị cung tên tẩm thuốc độc, gậy gộc giáo mác tuần pḥng hàng đêm nhưng số đinh ít ỏi không đủ bảo vệ cả làng. Trấn đầu làng th́ hổ vào cuối thôn, trấn cuối thôn hổ lại đến đầu làng. Ác thú tinh quái, trong tuần trăng bảy lần về làng là bảy người vong mạng. Cụ tiên chỉ bàn với chức việc nên lập miễu thờ “ngài”, hứa bốn mùa cúng tế xin “ngài” động ḷng thương xót. Đúng lúc ấy, công tử Văn Lăng, con trai Quốc Công Đức Trung từ Đông Đô về thăm quê. Nghe chuyện hổ thần tác quái, Văn Lăng tức giận quyết ra tay trừ khử, bác bỏ việc lập miễu cúng tế. Suốt mấy ngày, Văn Lăng suy nghĩ lung, tự ḿnh nghiên cứu kỹ đường đi nước bước ác thú.

Một đêm trăng mờ lung linh, Lăng đeo báu kiếm, khoác nỏ, dẫn mười tráng đinh đến khe núi, ven con suối nhỏ lặng lẽ mai phục. Mọi người nín thở hồi hộp dưới sương đêm buốt giá. Đêm tàn dần, bóng hổ biệt tăm... Đoàn người lục tục về thôn khi nghe tiếng gà xao xác vọng lại. Qua đêm thứ hai, thứ ba... Có kẻ ngă ḷng muốn bỏ cuộc. Văn Lăng giận, lặng yên rút báu kiếm tung tuyệt chiêu chém đứt cay soan già ven đường. Tra kiếm vào vỏ trước vẻ thán phục của đám tráng đinh, Lăng nói”Các người nhắm cốt hổ có cứng hơn cây kia chăng”. Nói xong giương nỏ lắp tên bắn trúng chạc ba cách hàng trăm bộ. Mọi người cảm phục yên tâm theo Lăng vào núi mai phục đêm thứ tư. Đêm rừng khuya âm u tĩnh lặng đe dọa, trăng non cao tỏa mờ. Quá nửa đêm trời nổi gió. Gió lên, hây hây rồi mạnh dần mang mùi hôi nồng nặc. Hổ đến, giờ quyết định là đây. Mọi người hồi hộp, mắt dồn về phía khe núi theo dơi bóng hổ chậm bước. Hổ từ từ đến ven suối, ngừng lại nh́n gịng nước rồi ngước nh́n trời. Không lỡ cơ hội, Văn Lăng bật dây nỏ. Mũi tên xé gió cắp ngập mắt phải hổ. Hổ gầm, quay ngược định phóng vào núi, bị mũi tên thứ hai bắn trúng hạ bộ. Hổ lăn ḿnh lại nhận mũi tên thứ ba vào bụng... Hổ đau gầm vang cố chạy đă bị Văn Lăng phi thân đón trước, chém sả lưỡi kiếm ngang đầu... Tiếng soạt khô khan, ác thú bị chém vỡ sọ ngă bật ngửa, vật vă vài lần rồi bất động.

Đám tráng đinh như qua cơn mê, reo ḥ mừng rỡ mang xác hổ về làng. Thôn xóm reo vui trống chiêng ầm ĩ chào mừng người hùng đả hổ. Sau Văn Lăng là đệ nhất công thần dưới thời vua Tương Dực. Lúc mất được phong tặng vương tước, tạc tượng thờ ở miếu công thần. Đời cháu Văn Lăng là An Thành Hầu Nguyễn Kim, cơ nghiệp nhà Lê đứng trước nguy cơ diệt vong do các vua cuối bất xứng, thất đức bất tài... An Hưng Vương Mạc Đăng Dung thao túng triều đ́nh chuẩn bị đoạt ngôi báu.

Năm Đinh Hợi 1527, thời tiết thật lạ. Cuối hạ trời vẫn nắng gắt, cái nóng như đổ lửa nhất là buổi trưa khi mặt trời đứng bóng, cơn gió tây khô khốc từ xứ Lào âm u ào ào tràn về. Gió nồng nực, nóng khô giường cong chiếu, nóng chó le lưỡi chảy dăi phát điên.

Tại cổng tả thành Tây Giai, ngôi thành kiên cố do vua nhà Hồ là Quư Ly xây dựng tại huyện Vĩnh Lộc đă trên trăm năm. Dưới trời gắt nắng, hàng ngàn dân quân nhễ nhại mồ hôi, những khuôn mặt xạm nắng lờ đờ mệt nhọc im lặng chịu đựng vẫn g̣ lưng đẩy những xe đất đá. Trăm năm qua, chiến tranh rồi băo lụt cộng với thời gian, ngôi thành kiên cố không chịu đựng nổi sức tàn phá của trời và người, nhiều chỗ bị sụt lở dù nền đá tường xây gạch. Hơn một tháng xây lại thành đă có hai người chết v́ say nắng, một người bị đá đè do tường lở. Nguyên một tảng đá lớn đè trên người nạn nhân. Rồi đất lở ào ào vùi lấp thi thể. Nạn nhân chết không kịp kêu. Tường thành làm mộ chí. Người ta bó tay không thể bới lấy xác, đành thắp một nén hương, tất cả đứng lặng yên cúi đầu như lời chào vĩnh biệt. Nén hương tàn, mọi người lại tiếp tục công việc. Có cụ già chứng kiến cái chết thương tâm nói: “ Ông nội tôi thuở trước cũng từng làm phu xây thành kể lại. Có tay cống sinh người huyện Vĩnh Lộc chống việc xây thành bị Hồ Quư Ly chôn sống ngay chỗ tường này. Người vợ uất ức kêu oan đập đầu vào đá tự tử, tảng đá nứt một mảnh tạo thành vết lơm oan nghiệp đến giờ vẫn c̣n dấu tích. Những đêm thanh vắng, dân quanh vùng nghe văng vẳng tiếng khóc năo nùng ai oán. Có người bảo chính mắt thấy bóng người đàn bà áo trắng xơa tóc lượn lờ trên thành. Măi đến khi Hồ Quư Ly bị giặc Minh bắt về Tàu tiếng khóc mới dứt.”

Đầu tháng bảy công việc hoàn tất. Đứng trên vọng lâu, An Thành Hầu Nguyễn Kim nở nụ cười bằng ḷng. Nụ cười hiếm có trên khuôn mặt cương nghị phong sương dạn dầy chiến trận. Nguyễn Kim hiện lĩnh chức Hữu vệ Điện tiền Tướng quân trấn thủ vùng bắc Thanh Hóa. Cạnh ông, Quản Lĩnh Trịnh Duy Liêu trông dáng thư sinh. Duy Liêu ngoài tài văn chương lỗi lạc lại là người đa mưu túc kế, trên thông thiên văn dưới đạt địa lư, thiên hạ khó ai b́. Với Nguyễn Kim, cái đáng trọng nhất ở con người này là sĩ khí nho gia, chẳng mê giầu sang, chẳng khuất phục uy vũ. Với tài năng ấy th́ cái bảng nhăn thám hoa chẳng khó, nhưng Liêu thấy thời buổi nhiễu nhương chưa muốn dấn thân. Nể t́nh bạn, Liêu ra giúp Nguyễn Kim, giữ vai tṛ quân sư. Liêu chơi với bạn một mực thủy chung, trước sau như nhất.

Nguyễn Kim và Duy Liêu cùng là người Thanh Hóa nhưng khác huyện. Người ở Tống Sơn, kẻ ở Lôi Dương. T́nh đồng hương và ḷng cảm mến gắn bó hai người thành đôi bạn tâm giao, bên nhau như h́nh với bóng. Nh́n một ṿng quanh thành, Nguyễn Kim nói:

-Tôi thấy thành này xây trên thế đất phẳng, quanh có hào sâu, bốn phía lũy tre bao bọc chó chui không lọt. Cảnh quan nhiều núi lắm sông là thế pḥng thủ vững chắc. Hồ Quư Ly là kẻ tinh đời từng trải chọn đây làm kinh đô. Từ đây tiến ra bắc hoặc lùi về nam đều thuận tiện, hợp cả thời loạn lẫn thời b́nh. Ư ông thế nào?

Duy Liêu trầm ngâm giây lát, chậm răi nói:

-Tôi nghĩ hơi khác. Thành cao hào sâu kiên cố nhưng chẳng đạt ḷng dân tất cũng bại vong. Hồ Quư Ly cuối cùng thất bại. Thời nay tuy b́nh nhưng mầm loạn vẫn nhen nhúm. Triều đ́nh không ḥa hợp chia phe này phái nọ. Vua Chiêu Tôn vụng về nông nổi nên Mạc Đăng Dung có cớ bành trướng thế lực nắm trọn uy quyền. Nay đến vua Cung Hoàng thực sự chỉ là bù nh́n. Mầm loạn ngay ở chỗ ấy. Nghĩ như thế, ta trấn thành này là hợp. Thế đất huyện Vĩnh Lộc theo tôi chỉ hợp với thời loạn, chẳng nên với thời b́nh v́ nằm hẻo lánh, người thưa đất cằn.

-Thế nước biến, quyền thần gây loạn, bề tôi trung chẳng lẽ khoanh tay ngồi nh́n nhà vua bị hà hiếp? Tôi muốn ra tay chấn chỉnh mối giềng xă tắc, phục hồi vương quyền. Vậy phải hành động ra sao?

-Phục ông trung nghĩa nhưng muốn thành công phải biết sức ḿnh sức người. So sức ta kém xa họ Mạc. Ta có hai ngàn binh, Mạc có hàng chục vạn. Các xứ quanh Thăng Long đều do người của Mạc Đăng Dung trấn giữ. Thăng Long được bảo vệ rất vững. Tại triều đ́nh, người ta thường phù thịnh, mấy kẻ phù suy. Một số văn quan trung với nhà vua lại lặng lẽ cúi đầu, rụt rè sĩ khí. Ta thế yếu lại ở xa. Nước xa không cứu được lửa gần.

-Vậy ta đành khoanh tay thúc thủ? Nguyễn Kim nói giọng buồn. Duy Liêu trấn an:

-Ta không thúc thủ mà ẩn nhẫn chờ thời. Quan trọng là nhà vua phải khôn khéo t́m cách đứng vững, tự bảo vệ ḿnh. Tôi nghĩ vận số nhà Lê chưa tận, thế nào cũng vượt cơn quốc biến.

Duy Liêu bước xuống vọng lâu. C̣n một ḿnh, Nguyễn Kim ngó mông lung. Phía bắc thành Tây Giai, Đốn Sơn nổi lên hai ngọn cao vút hùng vĩ. Mờ xa là núi Hí Mă trông như trường đua ngựa. Chếch về phía tây là núi Mông Cù, đứng trên núi có thể nh́n thấy biển đông, vùng thượng lưu sông Mă. Sừng sững phía đông là Côn Sơn có khối đá lớn tựa h́nh sư tử hư châu, lại có Kim Sơn, mạch núi từ phía đông núi Hùng Lĩnh nổi lên 29 ngọn như chuỗi ngọc. Từ xa trông thế núi hùng vĩ hiện nhiều h́nh dáng như lâu đài, cờ xí, tàn lọng... Có núi trông như muông thú, cảnh sắc linh hoạt thay đổi. Trong núi có động lớn có thể chứa vài trăm người gọi là Trú Quân Sơn. Trên trăm năm trước, thời bị giặc Minh đô hộ, dân thường trốn vào động tránh phu dịch. Bên trên có cầu thiên nhiên gọi là cầu Tiên. Tương truyền những đêm trăng sáng, các tiên nữ thường hiện ra đùa vui trên cầu. Phía tây, sông Mă uốn lượn như con rồng xanh.

Trời ngả nắng. Nguyễn Kim bước xuống. Ông nghĩ phải đặt thêm đài quan sát trên mấy ngọn núi cao, đêm dùng lửa, ngày dùng cờ đỏ báo hiệu khi nguy cấp...

Sáng hôm sau Nguyễn Kim nhận tin khẩn do viên đội trưởng toán thám sát vừa từ Thăng Long trở về: Ngày rằm tháng sáu, An Hưng Vương Mạc Đăng Dung buộc vua Lê Cung Hoàng hạ chiếu nhường ngôi báu cho ḿnh. Tân Vương đặt niên hiệu Minh Đức. Cơ nghiệp nhà Lê kể từ khi Thái Tổ dựng nghiệp ởợ đất Lam Sơn Thanh Hóa chấm dứt sau đúng trăm năm.

Là người trầm tĩnh nhưng Nguyễn Kim vẫn choáng váng. Viên đội trưởng kể: Mấy ngày trước, dân kinh đô nghe đồn An Hưng Vương sẽ tổ chức diễn binh thường niên vào rằm tháng sáu. Ngày mười bốn, đoàn quân áo đen của họ Mạc từ Hải Dương tiến về kinh, dân chẳng ai ngờ vực. Trưa hôm sau, tất cả ngỡ ngàng khi đọc bảng bố cáo.

Lát sau ông hỏi đội trưởng:

-Ngươi thấy t́nh h́nh chung ra sao?

-Thưa tướng công, t́nh thế rối ren, ḷng người hoang mang lo sợ. Giới quan lại đa phần giữ yên lặng nghe ngóng t́nh h́nh. Có kẻ từ quan mai danh ẩn tích. Lại có kẻ tuẫn tiết chết theo cơ nghiệp nhà Lê cho trọn nghĩa trung quân. Mạc Đăng Dung ban chiếu phủ dụ thần dân, vỗ yên trăm họ, kêu gọi các cựu thần nhà Lê hăy hợp tác với triều đại mới, chức vị bổng lộc giữ nguyên. Họ Mạc không bắt tội, lại truy phong cho đám bầy tôi tiết nghĩa nhà Lê. Ngay cả đền miếu của tiên triều cũng vẫn được trùng tu, bốn mùa cúng tế.

Nguyễn Kim cho viên đội trưởng lui, cùng Duy Liêu bàn luận. Ông nói:

-Ông liệu việc như thần. Chúng ta đều là tôi nhà Lê, bấy lâu hưởng lộc nước không lẽ khoanh tay ngồi nh́n bọn phản nghịch lộng hành. Hơn nữa, ta lại là người đất thang mộc, cùng quê hương với đức Thái Tổ. Đă từ lâu ta biết Đăng Dung là đứa thâm độc, từ lâu nuôi mộng vương bá. Chỉ tiếc quần thần khoanh tay rũ áo, ngậm miệng cầu an để nó thao túng mới nên cớ sự. Cổ nhân từng dậy: Tôi trung không thờ hai chúa, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng. Kẻ sĩ quyết không cam tâm làm thân trâu chó, thề một ḷng trung quân ái quốc dù thịt nát xương tan. Ta có nên hưng binh sống chết một trận với bọn phản nghịch?

Duy Liêu đáp không suy nghĩ:

-Ông một ḷng với nhà Lê. Nếu hưng binh phải trung hưng lại được cơ nghiệp nhà Lê, thế mới nên trang hào kiệt, rạng danh thiên cổ. C̣n hưng binh liều chết tỏ ḷng trung, lấy trứng chọi đá theo tôi không phải là hành động của bậc tài trí. Đăng Dung là người cẩn trọng, việc soán nghịch chắc chuẩn bị từ lâu. Tôi nghĩ hắn chưa dám làm mạnh nhất là tại xứ Thanh. Tốt nhất ta lặng yên nghe ngóng tránh ba quân giao động, tuyệt không lộ ư định, từ từ sẽ liệu sau.

Tối hôm ấy, hai người ngồi đối ẩm trước hiên nhà. Nguyễn Kim uống liền mấy chung rượu, ḷng dạ rối bời. Duy Liêu cũng trầm ngâm yên lặng. Măn canh hai, cơn gió nhẹ hây hây. Trời tối mù mây đen giăng kín. Lát sau trời đổ mưa. Mưa ào ào thác lũ. Nguyễn Kim trằn trọc giữa cơn cuồng nộ đất trời. Trời giận họ Mạc hay khóc nhà Lê? Quá canh ba mưa ngớt hột rồi tạnh. Tiếng ểnh ương cóc nhái rền rĩ dần dần rời rạc buồn thảm. Những ngày tiếp, Nguyễn Kim biết tâm trạng quân sĩ hoang mang. Lính gặp ông cúi chào không dấu cái liếc trộm ḍ xét nhưng tuyệt không ai dám bàn tán ǵ. Duy Liêu bàn:

-Vùng núi Tam Điệp là nơi trọng yếu, là cuống họng của con đường thông thương nam bắc. Dựa vào thế hiểm núi rừng trùng điệp, ta có thể lấy một chọi mười. Ông nên tăng thêm quân, cử người thân tín trấn giữ. Động tịnh ǵ chỉ nên chống cự cầm chân địch và phi báo. Cẩn thận không để nước đến chân mới nhẩy.

Nguyễn Kim cho là phải. Ông nói:

-Mươi tháng nữa là vụ gặt, ta nên trữ nhiều lương pḥng khi nguy cấp.

Ngày qua ngày, hàng năm sau t́nh h́nh vẫn êm ả chưa thấy có biến động nào lớn chống lại họ Mạc. Nguyễn Kim nôn nóng bàn với Duy Liêu:

-Cứ thế này mộng trung hưng rồi sẽ tàn theo thời gian. Ta phải ra tay hành động. Xưa Đức Thái Tổ từ đất này khởi nghĩa dựng nghiệp. Nay ta cũng từ đây xuất phát diệt lũ nghịch thần, đại nghĩa phải thắng hung tàn. Ông nghĩ sao?

-Xưa khác nay. Giặc Minh bạo ngược, ḷng dân phẫn uất, thấm thía cái nhục mất nước nên khi Thái Tổ khởi nghĩa người người hưởng ứng. Có đủ yếu tố thiên địa nhân thế mà mười năm gian lao mới thắng trận. Nay trải qua nhiều năm loạn lạc, loạn từ triều đ́nh loạn ra do thượng bất chính. Ḷng dân ngao ngán chỉ mong sống yên lành. Nay kẻ hoài Lê cũng nhiều nhưng kẻ phù Mạc cũng lắm. Ta cần kiên gan, chiến thắng không thể đến ngày một ngày hai. Ông quen với vua Ai Lao, ta nên ngoại giao với y nhượng cho đất Sầm Châu làm cứ điểm, khai khẩn đất hoang, trữ lương mộ binh. Chọn Sầm Châu v́ là đất xa hiểm trở, địch không để ư cũng như không nắm rơ t́nh thế quân ta. Sau đó t́m con cháu nhà Lê tôn làm vua dành chính nghĩa. Có hậu cứ, có lực lượng từ đó xuất binh diệt phản nghịch. Ấy là thượng sách.

Nguyễn Kim khen kế sách hay. Vài ngày sau, Nguyễn Kim cử Trịnh Duy Liêu làm sứ giả lên đường sang gặp Quốc vương Ai Lao. Đội trưởng Lê Toàn chỉ huy hai trăm binh hộ tống lên đường.

Đoàn quân băng rừng vượt suối. Tháng bảy nhiều mưa. Những cơn mưa buồn lây lất. Người ta bảo vợ chồng Ngâu đang nhỏ những giọt lệ mừng nh́n chim ô thước bắc cầu xum họp mỗi năm vào ngày song thất. Đêm rừng thẳm thâm u, thác suối ào ào nghe như trời mưa to. Lê Toàn nằm trong lều nghe tiếng chim ăn đêm kêu vọng từ cơi xa xăm mơ hồ. Toàn buồn, con người như con sâu cái kiến, nhỏ nhoi giữa núi rừng u tịch. Nỗi nhớ quê âm ỉ.

Quê Toàn ở huyện Nga Sơn, ngôi nhà tranh nghèo ngay chân núi Thần Phù. Mẹ chết cũng vào một ngày mưa buồn tháng bảy, thoắt đă sáu năm nhưng Toàn vẫn nhớ h́nh ảnh lúc mẹ lâm chung. Cha ngồi bên giường lặng lẽ dằn nỗi đau nh́n người vợ sắp ĺa cơi thế. Cha nghẹn ngào:“Bà có điều chi trăn trối?” Mẹ mệt nhọc thở hắt những hơi cuối cùng. Toàn đứng lặng dưới chân giường nh́n thi thể mẹ teo tóp chỉ c̣n da bọc xương sau nhiều tháng nằm liệt. Ngoài bốn mươi tóc mẹ đă bạc nhiều. Biết bao buổi trưa Toàn ngồi nhổ cho mẹ từng cọng tóc sâu. Mẹ ốm, cha phải bán cả thóc gạo, vay mượn thêm láng giềng cố chạy chữa thuốc thang. Đă nghèo càng nghèo. Lúc sau cha lấy manh chiếu trải xuống đất. Hai cha con khiêng mẹ đặt trên manh chiếu. Cha mong hơi đất lạnh làm mẹ hồi sinh. Cha nói một ḿnh:“May ra bà thương cha con côi cút chẳng nỡ bỏ đi.” Cha ngồi cạnh mẹ rất lâu rồi như thất vọng, ra hiệu Toàn phụ khiêng mẹ đặt lại trên giường. Cha bảo:“Con bước ra cửa chiêu hồn mẹ. Gọi ba hồn chín vía, mẹ ơi về với con.” Toàn bước ra cửa gọi hồn ba lần. Tiếng hú hồn vang trong đêm khuya rờn rợn ma quái. Mẹ chẳng động ḷng. Mẹ nhất quyết ra đi. Vĩnh viễn. Hôm chôn mẹ, Toàn bật khóc nghe người đọc văn tế:“Than ôi! Thân mẫu vội đi, bỏ cửa bỏ nhà, cây buồn đứng lặng, tên c̣n người mất, xót xa đôi ngả phân ly..”

Từ đấy cha sống đơn độc, thường ngồi một ḿnh đăm chiêu. Toàn biết cảnh nhà túng quẩn, cha phải nài nỉ khất nợ nhiều người nhưng chưa ai nỡ nặng lời trách mắng. Dân làng vốn trọng người văn học. Cha đỗ tam trường nhưng không chịu thi tiếp làm quan. Cha bảo “chốn quan trường rẫy đầy phường trộm cắp”. Toàn thương cha ngày ngày vào rừng đốn củi, bó củi mỗi ngày to hơn, nặng hơn.

Ngày nọ, cha chất đầy tay nải sắn khô, chuẩn bị búa ŕu, cuốc mai. Toàn không hiểu ư cha. Cha bảo:

-Cha con ḿnh đi t́m trầm. Cha biết vùng rừng núi Tam Điệp có cây dó trăm năm, ruột biến thành kỳ nam tỏa hương ngào ngạt khắp vùng. Kiếm được nó sẽ khá to. Có gan làm giầu con ạ.

Hai cha con ngày đêm bương chải. Giấc mơ kỳ nam đẩy bước chân qua bao khu rừng chằng chịt âm u, đèo cao lũng sâu. Qua những ngày nắng, những trận mưa rừng dây dưa trắc ẩn. Đă ba chuyến đi, kỳ nam đâu chẳng thấy. Cũng may cha c̣n kiếm được vài loại trầm thường, bán đi có đồng tiêu vặt vănh, trả vài món nợ vặt.

Chuyến đi thứ tư, cha quyết định đổi hướng, vào ngay khu rừng già ít người dám lai văng v́ nghe rừng có con hổ ba móng thành tinh. Bao kẻ mạo hiểm vào rừng đă không trở về. Toàn e dè, cha hối thúc:“Làm thằng đàn ông phải can đảm bản lĩnh”. Toàn lầm lũi theo cha. Qua ngày thứ hai sau khi vượt qua ngọn thác cao, dù mệt tả tơi nhưng cả hai cha con nghe thoang thoảng mùi hương trầm. Mắt cha rực sáng. Cha bảo Toàn cố lên, ḿnh quyết tâm nên trời thương ngó lại. Hương trầm lúc thoảng lúc đậm, chập chờn quyến rũ như ma lực hút cha con vào sâu trong rừng thẳm. Tối mịt cha mới chịu dừng chân nghỉ trong hang đá lạnh âm u. Mờ sáng cha dục lên đường, băng băng đi t́m cây dó phát mùi hương kỳ ảo. Toàn dừng rửa mặt bên con suối, hốt hoảng nhận ra bộ xương người nằm kẹt giữa hai tảng đá lớn. Phải chăng đó là kẻ đă mê mẩn đi t́m kỳ nam như cha con Toàn. Toàn chỉ cho cha, ư muốn cha lùi bước trở về. Cha điềm nhiên bảo “có chí th́ nên”. Cha quyết không bỏ cuộc. Đến ngày thứ mười, hai cha con vẫn đi trong vùng hương trầm. Toàn chỉ mong cái mùi hương quái ác kia tan biến. Toàn chán ngán vô vọng nhưng không có cách ǵ thuyết phục ư chí sắt đá của cha. Chiều hôm ấy sau khi dừng nghỉ ăn cơm, cha kêu mệt nằm nghỉ. Buổi tối cha lên cơn sốt, trán nóng nhưng người lạnh run. Toàn đốt lửa, trùm kín chăn, cha vẫn lạnh rên hừ hừ, môi khô kêu khát nước. Toàn nói với cha:“ Ta nên về, sức thầy kiệt không thể đi nổi, ngộ có bề ǵ th́ khốn. Cái số ḿnh nghèo đành chịu. Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Cha thều thào:“Thà ăn của rừng c̣n hơn ăn của dân đen. Nhưng thôi, con đưa thầy về”.”

Sáng hôm sau Toàn cơng cha trở về. Cũng may có lúc cha tỉnh tự đi được nên đỡ vất vả. Về đến nhà, Toàn mừng c̣n hơn bắt được vàng. Lại cậy ông thầy thuốc người Mường chữa trị cho cha cả tháng mới hồi phục nhưng sức cha yếu hẳn không c̣n được như xưa. Từ đấy, cha con an phận thủ thường sống với ruộng nương. Ngày lại ngày, bốn năm trôi qua thầm lặng. Toàn ngoài hai mươi gặp cô Nụ cùng thôn trong lễ hội ngày xuân. Chỉ có lễ hội giúp trai gái gần gũi trao nhau câu ḥ điệu hát, cuộc sống phóng túng bay bổng vượt qua khuôn mẫu ngày thường. Nụ xinh gái, phúc hậu hồn nhiên. Toàn ngây ngất nếm hương vị ngọt ngào t́nh yêu ban đầu, đôi trai gái phải ḷng nhau từ buổi ấy. Buổi sáng xuân nắng vàng rực rỡ phơi phới cởi mở đôi ḷng. Lúc chia tay Toàn nhắn Nụ” nhớ chờ trầu cau chạm ngơ”.

Toàn lấy vợ, cha mừng nhà có đàn bà, bếp núc lại lửa khói đỡ cảnh lạnh tanh. Cô con dâu dễ bảo chăm làm. Nhưng niềm vui chỉ được vài tháng Toàn phải đăng lính, xót xa giă cha già vợ trẻ. Hai năm chưa một lần về thăm, nỗi nhớ khắc khoải ăn nằm trong ḷng người lính trẻ. Toàn nghĩ nay thời b́nh sao chủ tướng Nguyễn Kim vẫn chưa cho phép lính thăm nhà. Chủ tướng muốn chuyển quân đi Ai Lao? Muốn chống lại vua Mạc? Bao câu hỏi quẩn quanh... Rồi Toàn c̣n xa nhà đến bao lâu mới có ngày vui đoàn tụ? Thôi đành phận lính, chủ tướng ra lệnh phải nghe, biết làm sao... Chuyến đi này hẳn quan trọng lắm. Toàn nghĩ lan man ch́m dần vào giấc ngủ chập chờn...

Đoàn quân tiếp tục lên đường đi vào xứ Ai Lao thâm u huyền bí rừng núi chập chùng đất rộng người thưa. Ngày trở lại quê hương thấy Quản Lĩnh Duy Liêu vui vẻ tươi cười. Toàn đoán Quản Lĩnh hoàn thành sứ mệnh.

Hai tháng sau, Quản Lĩnh lại lên đường sang Sầm Châu với quân số gấp ba lần trước. Lê Toàn dẫn quân đi tiên phong. Đến Sầm Châu, Quản Lĩnh ra lệnh dừng chân tại vùng đất tương đối bằng phẳng. Quân chia nhiều toán, có toán làm trại binh, toán phát nương rẫy trồng lúa, sắn khoai. Toàn hiểu ra chủ tướng Nguyễn Kim sẽ dùng Sầm Châu làm căn cứ kháng vua Mạc. Những chiều sau công việc, Toàn nh́n bốn phía núi rừng trùng điệp, thương ḿnh luân lạc, thương cha nhớ vợ quê nhà côi cút. Thời gian sau, vùng rừng núi Sầm Châu trở nên gần gũi với con người. Muông thú lùi vào rừng sâu nhường chỗ cho những mái tranh san sát, mầu xanh mơn mởn của nương lúa đồi sắn bạt ngàn. Toàn mừng phát điên nhận lệnh dẫn vài chục quân sĩ trở về Thanh Hóa trao thư Quản Lĩnh gửi chủ tướng. Có xa quê mới hiểu thế nào là nỗi nhớ, mới nghe, mới cảm được tiếng gọi tha thiết quê nhà, mới yêu cái hương vị tuyệt vời của quả cà dầm tương, của bát canh rau muống c̣n nghi ngút khói...

Cuối năm, Toàn được lệnh đến huyện Nga Sơn vận lương. Toàn mừng có dịp về gần nhà, định tâm dành vài ngày thăm cha già vợ trẻ. Đợi chờ nôn nao măi rồi cũng tới ngày lên đường. Toàn cỡi ngựa dục quân đi mau, viên đội phó chỉ huy hậu quân đi sau cùng. Đoàn quân đến núi Tam Điệp, nh́n ngọn núi hùng vĩ nhấp nhô một dải xanh biếc, Toàn nh́n về phía hữu núi nhận ra động Bích Đào, tương truyền đời nhà Trần có người Từ Thức gặp tiên nữ Giáng Hương ở đấy nên dân gian nhiều người thường gọi động Từ Thức. Từ Thức khát vọng yêu đương, chẳng màng danh lợi ra đi t́m Giáng Hương rồi lạc vào cơi tiên. Ḱa là biển Thần Phù. Quê nhà, nơi chôn nhau cắt rún. Toàn nghẹn ngào, ra lệnh đoàn quân tạm dừng chân nghỉ. Viên đội phó với Toàn cũng là chỗ thân thiết. Y nói:

-Ông xem chốn đây phong cảnh hữu t́nh, núi non mây trời hùng vĩ.. Ḱa là biển đông xanh biếc thấp thoáng mấy cánh buồm lẻ loi căng gió, vài cánh hải âu lượn lờ...

Toàn lặng yên nh́n xuống chân núi:

-Sau khu rừng cây um tùm là nhà tôi. Trên hai năm tôi chưa một lần trở về.

-Ông c̣n cha mẹ vợ con anh em?

-Tôi chỉ c̣n cha già. Vợ cưới mới vài tháng là bị đăng lính, chưa con cái ǵ.

-Kể cũng lạ, thời b́nh mà hơn năm nay chủ tướng chớ hề cho quân nghỉ phép. Tôi xa nhà cũng lâu. Hay ông cứ tạt qua nhà chơi dăm bữa. Tôi lo sổ bộ thu thóc xong sẽ hẹn ông cùng về. Tôi cũng có vợ ở tận xứ Nghệ. Vợ chồng trẻ xa nhau thật tội, chăn đơn gối lẻ, sớm hôm côi cút. Chỗ anh em ông chớ ngại ngần.

Nghe bạn nói Toàn như mở cờ trong bụng nhưng làm vẻ ngần ngừ. Viên đội phó thúc dục. Toàn giă ơn bạn lên ngựa từ từ xuống núi. Được một quăng thấy viên đội phó chạy tới quàng túi gạo trên yên:“Ông mang về ít gạo có cái mà dùng”.

Trời ngả nắng, cái nắng mùa đông vàng nhẹ như tơ. Người cha đang ngồi chẻ lạt ở đầu hè thấy con về buông dao cười rạng rỡ, hàm răng lưa thưa. Toàn nao nao:

-Lạy thầy con mới về. Thầy vẫn mạnh khỏe?

-Nhờ trời thầy cứ làng nhàng. Anh đi đă hơn hai năm, kể cũng lâu. Ra sau vườn gặp vợ cho chị ấy mừng.

Toàn bước vào căn nhà lạnh tanh, đặt tay nải lên chơng rồi bước ra khu vườn nhỏ sau nhà. Toàn gọi “Ḿnh ơi”. Nụ thấy chồng mừng vui ngỡ ngàng, họ nh́n nhau ánh mắt xót thương. Nụ nói:“Bố mới về, bố vẫn khỏe? Vào nhà nghỉ tôi đang bận tay hái nắm lang luộc ăn bữa chiều”. Toàn đứng lặng, lưỡi tê cứng. Nụ hơi gầy, sạm nắng nhưng vẫn nụ cười phúc hậu trên khuôn mặt đầy, vẫn cái áo cánh nâu sồi, cái váy thâm bạc điểm vài chỗ vá. Toàn ṿng ra hiên ngồi cạnh cha. Cha hỏi:

-Chuyến này anh về được lâu?

-Chắc chỉ độ dăm ngày thôi thầy ạ. Rồi Toàn kể cha nghe chuyến đi Ai Lao, những suy nghĩ của ḿnh về An Thành Hầu Nguyễn Kim. Toàn đoán chủ tướng đang chuẩn bị kháng vua Mạc. Toàn linh cảm ra đi chuyến này không biết bao lâu nữa mới quay về. Cha lặng yên xa vắng:“ Thầy sẽ bàn chuyện với anh. Có dăm con cá rô, anh bảo chị ấy rán lên, kiếm tí rượu cha con đánh chén mừng xum họp”.

Nụ trải manh chiếu ngay giữa nhà dọn bữa. Hai cha con ngồi nhâm nhi đối ẩm. Có tiếng muỗi vo ve. Cha nói:

-Anh vắng nhà nhưng nhờ chị ấy chăm làm nên không đến nỗi túng bấn. Năm nay được mùa, đức vua tha thuế, thầy mua trữ thêm ít thóc pḥng khi mưa băo thất vụ.

Cha uống hết bát rượu, rót đầy bát mới. Toàn nh́n khuôn mặt cha nhăn nhúm chịu đựng. Cha chưa đến sáu mươi mà tóc bạc trắng đầu, bao cay đắng mùi đời từng trải. Cha uống rượu, như nhờ men rượu nóng chống tuổi già đơn lạnh, cái lạnh chui rúc tận xương tủy. Toàn chậm răi:

- Con nghĩ ḿnh đang sức trai mà hóa vô dụng, biền biệt tha phương. Chỉ mong sớm hôm được gần gũi săn sóc thầy, đỡ đần nhà con lúc vất vả.

Cha nh́n thẳng vào mắt Toàn. Cái nh́n thấu hiểu sâu thẳm. Toàn cúi xuống tránh tia nh́n. Cha nói:

- Thầy nghe anh nói chuyến này đi không biết bao giờ mới trở về. Thầy hiểu ư anh. Tương lai của thầy chỉ là vuông đất ngoài băi. Đời anh c̣n dài. Sao không tự chủ, hoặc sống v́ ḿnh, v́ hạnh phúc của những người thân, hoặc làm con cừu nhắm mắt bước theo con đầu đàn. Không dám quyết định than thở mà chi?

-Con chưa hiểu ư thầy?

-Lúc năy anh nói chuyện An Thành Hầu lập căn cứ Sầm Châu chống lại nhà Mạc trung hưng cơ nghiệp nhà Lê. Chuyện đúng sai, nên hay không thầy chẳng dám bàn. Thầy đọc kinh sử, cũng đôi lần nói cho anh nghe, nay thầy nhắc lại. Nước nam ta tự thuở lập quốc trải qua biết bao đổi dời,bao triều đại. Ấy là lẽ hưng phế thường t́nh, nào có triều đại nào tồn tại măi. Cứ kể tự thời tự chủ, Ngô Vương mất đi, cơ nghiệp lọt vào tay Dương Tam Kha. Anh em họ Ngô dành lại quyền bính lại để xẩy ra loạn thập nhị sứ quân do không tập trung được sức mạnh. Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên tất cả, cơ nghiệp nhà Đinh tưởng đâu bền vững, nào ngờ Đinh Tiên Hoàng Đế lại chết v́ Đỗ Thích. Đến đời con thơ dại không giữ nổi cơ nghiệp, ngôi vua về tay Lê Đại Hành. Họ Lê chết, các con tranh cướp ngôi vua. Long Đĩnh giết anh Long Việt. Long Đĩnh hoang dâm bạo ngược mở đường cho Lư Công Uẩn lên ngôi báu lập nhà Lư... Anh xem, ba triều đại đầu tiên tồn tại không quá hai đời do ngôi vương bá không ngừng bị tranh cướp. Lê dân khổ lây v́ loạn lạc chiến tranh...

Cha ngừng mân mê bát rượu. Toàn lặng yên chờ. Cha tiếp:

-Đời thầy cũng từng chứng kiến bao cuộc dâu bể. Vua Uy Mục tàn ác sa đọa, vua Tương Dực hoang dâm xa xỉ. Dân è cổ nộp sưu thuế. Quyền thần làm loạn giết vua này lập vua khác. Chiêu Tôn bất lực nh́n cảnh hỗn loạn. Vua là chúa tể trên cả thần linh, nay đâm ra sợ các quyền thần. Mối loạn từ trên loạn xuống, từ trong loạn ra. Các vị trung quân ái quốc, khi vận nước nguy ngập sao không cứu nguy, bao kẻ mũ cao áo dài, bằng nọ cấp kia ngậm miệng im hơi hưởng bổng lộc khác nào kẻ sĩ thời Chiến Quốc, đến nỗi dân thời ấy phê câu “Chiến Quốc chi sĩ tiện”, có nghĩa kẻ sĩ thời Chiến Quốc hèn hạ! Những kẻ xác c̣n mà ḷng đă chết. Thậm chí các vơ tướng mưu bá đồ vương kéo quân đánh lẫn nhau gây cảnh điêu tàn tang tóc. Quân của Vĩnh Hưng Hầu Trịnh Tuy giao tranh với An Ḥa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ ngay tại kinh đô. Vua can cũng mặc, chẳng coi đấng chí tôn ra ǵ. An Ḥa Hầu nào ai xa, ngài chính là thân phụ chủ tướng của anh. Thầy như bao người chỉ là dân đen thấp cổ bé miệng. Ai làm vua cũng mặc, ai làm tướng cũng thế. Chỉ mong có đấng minh quân, đất nước thái ḥa, không có cảnh núi xương sông máu, người người yên ổn làm ăn cơm no áo ấm... Thầy chẳng mong ǵ lại có các vua như Uy Mục Tương Dực.

Đêm khuya trăng mờ, có cánh dơi lẻ loi vờn quanh ngọn xoan trước nhà. Cha bảo Toàn đi nghỉ sáng dậy sớm. Toàn vào nằm bên Nụ, ngửi lại hương tóc mùi bồ kết nồng nồng ngây ngất. T́nh yêu rồi cũng như hương một thoáng bay xa? Nụ c̣n thức nhưng làm như đă ngủ. Toàn lay lay th́ thầm:“Ḿnh ơi, ta nên có mụn con nối dơi tông đường”.

Vài hôm sau, Toàn giă cha lên đường. Cha dặn Toàn cẩn trọng, chín chắn nghĩ suy. Nụ gói cho chồng dăm nắm cơm, ít muối vừng, bước vội ra sau nhà như sợ cảnh ly biệt. Toàn đứng lặng, chút hạnh phúc nhỏ nhoi chừng sắp tan biến. Lúc Toàn lên ngựa, chợt nhận ra cha cúi mặt khóc. Toàn quay vội. Ôi những giọt nước mắt hiếm hoi trên khuôn mặt cha già. Bao lâu cha mới một lần khóc. Một đời trải qua sướng khổ buồn vui. Những sum họp biệt ly, nụ cười nào cũng có nước mắt. Nh́n cây chuối lăo trước ngơ gầy c̣m xác xơ đeo buồng quả trĩu nặng, h́nh ảnh cha già c̣ng lưng đeo sầu năm tháng. Toàn nghẹn ngào...

Mùa xuân năm Kỷ Sửu 1529, Toàn lại thêm cái tết xa nhà. Ra giêng, chủ tướng Nguyễn Kim bí mật xúc tiến kế hoạch chuyển quân sang Sầm Châu. Ông tin tưởng hầu hết lính của ông là dân Thanh Nghệ rất mực trung thành với nhà Lê, sẵn sàng theo chủ tướng đi bất cứ nơi đâu.

Một đêm hè tĩnh lặng lác đác sao mờ. Tiếng trống điểm canh ba vừa dứt. Chủ tướng Nguyễn Kim ra lệnh cuốn cờ dẹp trống. Quân sĩ đội ngũ chỉnh tề lặng lẽ rút khỏi thành đi về hướng tây.

Sau vài ngày hành quân trong núi thẳm rừng sâu. Buổi sáng sớm, sau đêm di chuyển mệt nhọc, chủ tướng ra lệnh dừng chân nghỉ điểm binh bên gịng suối. Độầi trưởng Lê Toàn và viên đội phó vắng mặt. Hỏi không ai biết đi đâu, từ bao giờ. Chủ tướng thương hai người lính trẻ, sợ đă gặp bất trắc khi di chuyển trong rừng đêm, ra lệnh mấy mươi lính tỏa nhiều hướng đi t́m.

Buổi chiều, mặt trời thoi thóp trên sườn non, các toán quân lục tục kéo về báo cáo. Tất cả ra sức t́m kiếm không thấy vết tích đội trưởng đội phó, chỉ thấy rừng núi tiếp nối chập chùng...

 

Thủ Lĩnh Sầm Châu

 

 

Động Lam Sơn thuộc huyện Thụy Nguyên xứ Thanh Hóa vốn là đất tổ nhà Lê. Chuyện xưa kể: Tổ ba đời Thái Tổ Lê Lợi là Lê Hối vốn người hào hiệp phóng túng, giầu của giầu ḷng. Tuổi ngoài năm mươi, ngài trút bỏ thế sự, phân chia gia sản cho các con, một ḿnh một ngựa ra đi ngao du sơn thủy. Mải mê cảnh mây trời non nước, vó ngựa một chiều dừng chân trên ngọn đồi nhỏ bên gịng sông Lam xứ Nghệ. Gịng nước trong xanh lững lờ như rồng xanh uốn lượn giữa đôi bờ cỏ cây xanh biếc. Mờ xa, vài cánh buồm lẻ loi căng gió mờ ảo khói sương. Ḱa là vùng núi non chập chùng kỳ vĩ mang dáng tứ linh long ly quy phụng. Lê Hối vào tận huyện Nghi Xuân nh́n Hồng Lĩnh Sơn, mạch núi từ Trà Sơn kéo đến uy nghi hùng vĩ ngất trời với 99 ngọn cao thấp trùng điệp. Có ngọn tựa h́nh sư tử, ngọn dáng như voi nằm, ngọn như phụng hoàng cất cánh, ngọn như cá lượn lờ... Lê Hối dừng chân tại núi Hương Tích, thế núi ngất trời, đỉnh cao mây phủ. Từng nghe danh chùa Hương, ngài quyết lên non. Đến lưng chừng núi gặp trung niên áo nâu đeo sọt trên lưng. Lê Hối nh́n đoán là tay học thức, hỏi:

-Ta là khách viễn phương đến văn cảnh chùa. Người ở đây tỏ tường mọi nẻo, có hảo tâm cho nghe qua chút lai lịch chùa Hương?

Thấy khách dung mạo uy nghi, lời lẽ ôn tồn, trung niên kính cẩn:

-Tôi đoán ngài người phương xa. Tôi quê ở đây làm thầy lang, cách vài ngày lại đăng sơn hái thuốc. Nội tổ kể: Một thuở nào đó xa xưa, khi rừng mây âm u, khi sông núi thần linh ngự trị. Núi này mang tên Đông Dương, vẫn là nơi chư thần gặp gỡ. Bấy giờ bên Tàu, vua Trang Vương nước Sở có công chúa út xinh đẹp tên Diệu Thiện. Diệu Thiện mộ Phật từ nhỏ, hằng tâm phát nguyện quy y. Năm nàng độ tuổi trăng tṛn, phụ vương chọn mặt gửi vàng, t́m trang tuấn kiệt xứng ngôi pḥ mă. Vua tưởng con măn nguyện, nào ngờ Diệu Thiện nài nỉ khóc than, xin phụ vương ban ân được nương tựa cửa thiền thỏa tâm nguyện tự thuở ấu thơ. Vua quyết không thuận, bảo con căi cha mang tội bất hiếu. Hôn lễ cứ thế tiến hành. Biết không chuyển ḷng phụ vương sắt đá, Diệu Thiện một đêm trốn khỏi hoàng cung, ẩn thân trong ngôi chùa ở ngoại thành. Vua t́m ra tung tích con gái, nổi giận truyền phóng hỏa đốt chùa. Lửa cháy ngập trời bỗng có rồng xuất hiện phun nước dập tắt. Thấy dáng con trong chùa, vua cả giận sai vũ sĩ gươm giáo tuốt trần quyết sát. Bỗng trời mây u ám, gió nổi đùng đùng. Một mănh hổ phóng ra cơng Diệu Thiện trên lưng lướt gió bay vút trời cao. Vua nguyền rủa không ngớt, đành lui binh mă. Mănh hổ là đệ tử Phật Tổ Như Lai, nhận lệnh Phật đưa Diệu Thiện về phương nam, đặt trên núi Đông Dương thuộc đất Việt Thường.

Tỉnh dậy, Diệu Thiện thấy đang nằm trong động, trước có đá che tựa mái hiên. Nơi đây thanh vắng thâm u, núi cao lớp lớp trùng trùng mây trôi lờ lững. Diệu Thiện đang ngơ ngác, bỗng thấy cánh hạc đáp xuống hiến dâng quả ngọt, bầy nai vàng ngậm hoa chào đón. Diệu Thiện tạ ân Phật cứu khổ. Từ đấy an tâm tu đạo, một ḷng cầu kinh niệm Phật thoát cơi u minh nghiệp chướng luân hồi.

Ngày lại ngày, nào ngờ chốn thâm sơn cùng cốc có người lai văng. Danh tiếng sư nữ dần lan khắp cơi Việt Thường. Thiện nam tín nữ nơi nơi nô nức đến nghe sư nữ Diệu Thiện giảng kinh. Người ta bảo nàng là hiện thân Phật Quan Âm Nam Hải ... Trung niên kể đến đây bỗng ngập ngừng:

-Đoạn này tôi quên bẵng. Chỉ biết sau này Sở Trang Vương lâm trọng bệnh, các danh y bó tay. Nhà vua hứa trao giang sơn cho kẻ nào cứu mạng. Diệu Thiện nhận lệnh Phật Tổ biến thành lương y chữa lành bệnh hiểm nghèo cho phụ vương. Sau khi hồi phục, Sở Trang Vương giữ lời hứa nhường ngôi cho vị lương y cứu mệnh, nhưng lương y bỏ đi biệt tích. Trang Vương lập đàn tạ ân trời đất. Đêm ấy thần nhân báo mộng cho vua và ḥang hậu biết, lương y chính là công chúa Diệu Thiện. Nàng nay tu hành trên ngọn Đông Dương xứ Việt Thường. Vua cả mừng cùng hoàng hậu và vài mươi tùy tùng lên đường xuống phương nam t́m con. Chuyện sau thế nào chẳng rơ, chỉ biết sau khi gặp Diệu Thiện, Sở Trang Vương và hoàng hậu phát nguyện quy y... Sau Quan Âm Nam Hải về cơi Phật, cảnh chùa vắng lặng, chẳng c̣n ai lên ngọn Đông Dương. Qua bao tháng năm, đến thời nhà Trần, có người nhớ tích xưa t́m ra động cũ. Nhà vua cho xây cảnh chùa đặt tên Hương Tích, có nghĩa dấu tích muôn đời lưu tiếng thơm. Chùa xây xong, do thần nhân chỉ lối, vua t́m được vị sư áo trắng. Không biết sư đến tự phương nào, lai lịch ra sao. Sư thường ngồi trong động trên núi Thiên Tượng giảng kinh. Người ta đồn sư thông kim bác cổ, biết việc quá khứ vị lai. Vua mừng rỡ, truyền sư về trụ tŕ chùa Hương Tích. Thiện nam tín nữ lại nô nức đến nghe giảng kinh, tôn sư là Bạch Y Thần Tăng. Sư cho dựng 99 đài bằng đá gọi Trang Vương Đài. Sau người Chiêm Thành xâm lấn đốt chùa. Bạch Y Thần Tăng cỡi mây bay về phương bắc. Từ đấy chùa tan hoang, khói lạnh hương tàn. Cảnh trí tiêu điều c̣n chi thuở son vàng cũ?

-Ta cất công đường xa lặn lội, dù chẳng vàng son cũng muốn nh́n lại cảnh hoang phế, xin cứ vui ḷng chỉ lối.

Thấy khách quyết tâm, trung niên nói:

-Ngài ṿng phía tả, chừng nửa dậm đường thấy con suối lẫn trong vùng thông trúc um tùm. Chùa ngay phía hậu.

Lê Hối tạ từ ra đi. Qua khu rừng trúc, Trang Vương Đài bị tàn phá tan hoang, những pho tượng đá sứt cổ gẫy gọng đổ nhào chắn lối. Những đống gạch vụn đă phủ rêu xanh. Ngọn thác sau chùa ào ào trắng xóa như vành tang nhớ thuở xa xưa dập d́u khách xá. Lê Hối trầm ngâm ngồi trên tảng đá, xót cảnh bể dâu vật đổi sao dời.

Trời ngả nắng, đang định xuống núi bỗng mây ùn ùn lớp lớp kéo tới giăng kín trời. Biết sắp mưa, Lê Hối vào ẩn trong động đá sau chùa. Rồi mưa, mưa lúc nhặt lúc thưa lê thê không dứt. Lê Hối lạnh lẽo cô đơn dựa vách đá ngủ chập chờn. Màn đêm buông. Đêm đen sâu thẳm. Rất khuya, Lê Hối bừng tỉnh bởi mùi hương ngào ngạt lạ kỳ. Bóng người áo trắng đứng ngay cửa động. Một lăo ông mặt sáng như trăng, tiên phong đạo cốt. Lê Hối đoán là Bạch Y Thần Tăng, bật dậy ṿng tay thi lễ:

-Khách phương xa đến văn cảnh chùa. Gặp gió mưa kềm tỏa đành tá túc qua đêm. Xin thần nhân thứ lỗi.

Lê Hối nghe giọng nói thoảng như từ cơi xa:

-Ta từ thượng giới, cảm tấm ḷng người chẳng ngại mưa gió ngàn dậm quan san nên lộ thiên cơ. Hăy xuôi hướng bắc t́m gịng sông hiền, ở đấy chim muông tụ hội, thế đất xoáy trôn ốc gồm đủ long sơn long thủy. Sau này nên v́ nghĩa cả, thế thiên hành đạo cứu người Việt lầm than, dựng nghiệp trăm năm lưu danh thiên cổ.

Thế rồi gió nổi ào ào, lá rừng lả tả. Thần nhân nương gió mà đi. Lê Hối qú sụp lạy tạ.

Trời sáng mưa ngưng, mặt trời rực rỡ. Lê Hối xuống núi, theo hướng chỉ thần nhân t́m đến sông Lương huyện Thụy Nguyên. Gịng sông xanh trong hiền ḥa chảy vào Tây Hồ ngay động Lam Sơn. Bên tả có núi Chí Linh, hữu là ngọn Chiêu Sơn, kiểu đất quanh co trôn ốc có hồ nước lớn bao bọc như cánh tay ôm của mẹ, mẹ cao lớn hóa thân thành núi. Một vùng cây cỏ xanh tươi núi non hùng vĩ, chim muông tụ líu lo cất tiếng, đúng nơi đất lành chim đậu. Lê Hối mừng rỡ trở về, truyền con cái, hàng trăm gia nhân đem hết tài sản đến đất Lam Sơn lập nghiệp.

Từ đấy Lam Sơn trở ḿnh biến thành vùng trù phú. Ba đời sau, Lê Lợi quản lư cơ ngơi tổ tiên. Sau này giặc Minh xâm lấn, dân ta bị lệ thuộc cực khổ trăm chiều. Cuộc sống thua thú vật, giặc Minh độc ác tàn phá di tích văn hóa, thiêu hủy bao công tŕnh trí tuệ dân ta. Lê Lợi nhớ di chúc ông cha đứng lên phất cờ khởi nghĩa, thế thiên hành đạo, mười năm gian lao đuổi lũ sài lang độc ác lập triều đại nhà Lê.

Lê Lợi lên ngôi vua năm Mậu Thân 1428 tức Lê Thái Tổ. Trăm năm sau, con cháu nhàợ Lê bất xứng bị Mạc Đăng Dung đoạt mất ngôi cao. Bấy giờ ḷng người hoang mang, dân Lam Sơn nhiều kẻ trốn vào rừng sâu núi thẳm sợ bị họ Mạc sát hại. C̣n lại chỉ ông già bà lăo cùng lũ trẻ thơ, ruộng đồng hoang phế, đất thiếu người chăm dần dần cằn cỗi. Tân vương hạ chiếu không làm tội ai, tôn miếu nhà Lê được bảo vệ, con cháu tự do tế tự tiên tổ nhưng ḷng người vẫn nghi ngại ngờ vực. Khi An Thành Hầu Nguyễn Kim lập căn cứ kháng Mạc, con cháu nhà Lê nhiều người băng rừng vượt suối sang Ai Lao gia nhập đoàn quân trung hưng, mong ngày dựng lại nghiệp tổ.

Mùa xuân năm Quư Tỵ 1533. Tin đồn bắt đầu từ Lam Sơn dần lan sang các huyện Tống Sơn, Nga Sơn, Vĩnh Lộc... rồi khắp xứ Thanh. Đồn rằng: An Thành Hầu Nguyễn Kim đă t́m được con cháu nhà Lê lập lên ngôi báu, vua Lê và triều đ́nh hiện ở Sầm Châu thuộc nước Ai Lao. Rằng danh tướng của Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm, tay hào kiệt người huyện Vĩnh Lộc đang chuẩn bị hưng binh phạt Mạc. Có bà cụ tuổi ngoại thất tuần kể chuyện rành rẽ:“ Có trời làm chứng, chính sư cụ chùa Từ Vân kể ta nghe rơ ngọn nguồn. Nhà vua tên Duy Ninh, hoàng tử út vua Chiêu Tôn. Mẫu thân là Ngọc Quỳnh, bà họ Nguyễn vốn người sách Cao Trĩ. Khi nghịch Mạc tiếm ngôi, bà mang con lẩn trốn trên vùng sơn cước, sau nghèo khó đành gửi hoàng tử nương náu cửa Phật. Sư cụ bảo, ngài quả chân mạng đế vương, lên chùa lạy Phật th́ Phật ngoảnh mặt không dám nhận lễ, ra khỏi cổng chùa trên đầu có mây ngũ sắc che chở, đêm ngủ có rồng cuộn canh giấc. An Thành Hầu ba lần được thần nhân báo mộng, thế mà ḍ la măi mới t́m ra tung tích ngài.” Cụ tiên chỉ móm mém, tóc trắng như vôi cười hể hả:“ Hoàng thiên hữu nhăn, công lao đức Thái Tổ ta trời nào nỡ phụ. Chẳng qua mệnh nước đảo điên nên bọn phản nghịch có cơ tác quái. Rồi bay cũng tận số. Ta hằng đêm xem thiên trượng thấy ngôi đế tinh đă hiện mờ mờ ở phương tây. Điềm trời đă báo buổi b́nh minh ắt chẳng sai lạc.”

Một đêm, có người đến gơ cửa nhà cụ tiên chỉ. Kẻ lạ bước vào nhà khoanh tay cúi chào:

-Bẩm cụ, cụ có nhận ra con?

Chăm chú nh́n, cụ tiên chỉ vui mừng nhận ra Trần Đạt. Đạt có thời làm tá điền nhà cụ, sau nhờ giỏi vơ được Nguyễn Kim tuyển làm vệ sĩ. Cụ đoán y trở về gặp ắt có việc hệ trọng.

Trần Đạt cho cụ biết một ngày không xa, vua Mạc sẽ từ từ phân tán dân Thanh Nghệ v́ sợ dân hai xứ liên kết nổi lên chống. Đạt xác nhận Hoàng tử Duy Ninh lên ngôi tức vua Trang Tôn. Vua phong Nguyễn Kim làm Thái Sư Hưng Quốc Công, triều đ́nh gồm đủ bá quan văn vơ. Binh lực hàng ngàn, tập luyện tinh thông. Cụ tiên chỉ có vẻ lo:

-Nghịch Mạc muốn xua dân đi, ta có cách chi đối phó? Không lẽ cúi đầu bỏ quê cha đất tổ.

-Thưa thật cụ, con về gặp cụ do lệnh Thái Sư. Ngài đề nghị cụ bí mật loan truyền tin tức, khuyên dân tạm lánh sang Sầm Châu. Xứ ấy nay trù phú, ngút ngàn đồi nương tha hồ canh tác. Ai làm nấy hưởng, không sưu cao thuế nặng, lại tránh được cảnh chinh chiến mai sau. Dẹp xong phản nghịch yên lành ta lại về.

Cụ tiên chỉ muốn lưu khách nhưng Trần Đạt tạ từ . Đêm ấy cụ trằn trọc. Tuổi đời đă nặng, ra đi biết bao giờ trở lại, có khi lại bỏ nắm xương tàn nơi quê người đất khách. Lại nghĩ đến câu quốc gia hưng vong... không lẽ làm ngơ trước vận mệnh nước non, mối nhục để đời nếu b́nh yên tọa thị. Cụ cảm thấy hănh diện được Thái Sư Nguyễn Kim tín cẩn, thân già có dịp nghiêng vai gánh vác việc nước việc dân. Đêm dần tàn...

Ngay hôm sau, cụ tiên chỉ họp các bô lăo bày tỏ ư định. Ai nấy hăng hái đồng t́nh. Riêng cụ đồ Nguyễn lặng thinh. Cụ tiên chỉ hỏi, cụ đồ chỉ ậm ừ bảo ai sao tôi vậy. Thực tâm cụ đă chán cảnh binh đao. Cụ nghĩ khí số nhà Lê đă tận, lịch sử dân tộc phải xoay chuyển sang vận hội mới, cần đấng minh quân thay trời trị dân. Vua Lê hay vua Mạc cũng vậy, miễn ai đem lại an vui, thái b́nh thịnh trị là cụ mừng. Vua Thái Tôn nhà Mạc (Mạc Đăng Doanh) từ ngày nhận ngôi báu sống giản dị khiêm tốn, hết ḷng lo cho dân cho nước, giảm sưu thuế, nhà nhà sống yên vui khác hẳn với thời các vua Lê Uy Mục, Tương Dực. Vậy tại sao lại muốn thay đổi vương triều. Những xác chết bạo quyền chỉ nên vùi chôn, khơi dậy chi thêm nặng mùi. Dân làng lũ lượt bỏ quê sang Sầm Châu. Ai hỏi cụ đồ bao giờ lên đường, cụ nói cứ thư thả.

Mùa hè năm ấy, căn cứ Sầm Châu thay hẳn bộ mặt. Căn nhà sàn năm gian mái ngói vừa làm xong. Căn nhà mái ngói duy nhất dùng làm hoàng cung cho vua Lê Trang Tôn, vị vua trẻ tuổi tṛn mười tám. Cạnh đấy là căn nhà năm gian khác dùng làm chỗ quần thần nghị hội. Cuộc đời chàng trai nghèo huyện Thụy Nguyên như trong cổ tích. Đang sống lẩn lút ở vùng thượng du bỗng dưng được mời làm vua, được người người kính trọng muôn tâu quỳ lạy... Vua lúng túng ngỡ ngàng trước hoàn cảnh đổi thay đột ngột. Bộ lễ phục càng làm vua vụng về hơn. Dù chẳng cung vàng điện ngọc, vua sung sướng với vai tṛ mới. Vua hiểu người đặt vua trên ngôi cao là Thái Sư Nguyễn Kim nên đối với Thái Sư, vua cung kính gọi Thượng Phụ, xem ông như cha. Quản Lĩnh Trịnh Duy Liêu nay thành Quốc Sư, trách nhiệm dậy vua học lễ nghi kinh sử. Vua thông minh hiếu học. Quốc Sư thường khen đầu vua như giếng, đổ bao nhiêu chẳng vừa. Chỉ vài tháng sau, vua tỏ ra khôn ngoan ứng xử, nói năng từ tốn đường hoàng. Vua đă quen xưng là trẫm, quen nghe quần thần gọi bằng bệ hạ. Thái Sư mừng, cho rằng nghiệp Lê chẳng tận, ngày trung hưng cơ nghiệp chắc không lâu.

Sầm Châu ngày càng đông vui. Dân xứ Thanh Nghệ đồn nhau đổ về lập nghiệp trên quê hương mới. Trời cho mưa thuận gió ḥa, nhà nhà gạo thóc có dư thoát cảnh chạy ăn từng bữa. Trưa chiều, khói tơ quẩn quanh trên những mái nhà sàn. Bao đám cưới, bao trẻ thơ chào đời. Tinh thần quân sĩ cao độ, như lúc nào cũng sẵn sàng xuất quân chinh phạt phản nghịch.

Một chiều tàn thu, Thái Sư và Quốc Sư ngồi đối ẩm. Bên ngoài nắng nhạt, trời xanh bát ngát, cơn gió nhẹ đong đưa mấy đóa tiểu muội trước hiên. Xong vài chung rượu, Thái Sư giọng trầm buồn:

-Chỉ mấy năm ta tạo được cảnh này, dân sống thái ḥa, quân đông tướng giỏi nhưng ư ông vẫn khuyên chưa nên động binh. Do vậy ḷng này vui chưa trọn. Tuổi đời ngày một cao, ông với tôi ai cũng ngót bảy mươi, biết ngày nào công thành danh toại, khỏi thẹn chí trai đội trời đạp đất?

Quốc Sư lặng yên giây lâu, chậm răi:

-Ông nôn nóng lẽ nào tôi điềm nhiên. Thuật dụng binh quư nhất phải có thiên thời địa lợi nhân ḥa. Cứ xem như ta có thiên thời, nhưng c̣n địa lợi? Ta động binh phải giao tranh trên đất địch. Quân ta chưa đến một vạn, không lẽ kéo hết đi tử chiến để hậu cứ trống không. Trong khi địch quân dễ dàng điều vài vạn quân bao vây tiêu diệt quân ta. Hơn nữa, em vua Mạc là Hoằng Vương Mạc Chính Trung thường đích thân tuần tra Thanh Hóa. Y là tay danh tướng, hành binh cẩn trọng, mưu lược ít ai b́. Tôi biết rơ về y thời c̣n ở Thăng Long. C̣n nhân ḥa, chỉ có dân Thanh Nghệ và một số ít trung thành với nhà Lê. Do v́ từ khi lên ngôi, Mạc Đăng Doanh chú tâm ổn định đời sống nhân dân. Quân do thám của ta từng báo cáo t́nh h́nh: Hiện nay dân sống thái b́nh no đủ chẳng lo trộm cướp, đêm ngủ không đóng cửa, trâu ḅ không cần lùa về chuồng... Dân chỉ thích sống ấm no nên ḷng dân thiên về Mạc hẳn không phải ít. Tôi khuyên ông chớ nôn nóng mà phải kiên nhẫn chờ thời là vậy.

-Cứ măi chờ e ḷng quân chán nản. Không khéo chúng ta theo nhau xuống lỗ cả thôi...

Biết ư Thái Sư chưa vừa ư, Quốc Sư cười nói:

-Nếu ư trời chưa muốn dứt nhà Lê th́ mộng trung hưng trước sau ǵ cũng thành. Ông nên vững tin.

Trăng lên vằng vặc tỏa sáng mênh mông. Thái Sư bỗng cao hứng đứng dậy tuốt gươm, bước di chuyển nhịp nhàng, ánh thép loang loáng phủ quanh ḿnh. Quốc Sư vỗ tay reo:

-Sức ông c̣n mạnh, trai trẻ khó sánh, lo ǵ mộng lớn không thành.

Thái Sư dừng tay kiếm, hơi thở vẫn đều mặt không biến sắc. Hai người bạn tâm giao vui vẻ yến ẩm đến gần nửa đêm...

Tuần trăng sau, nhà vua bất ngờ nhận biểu văn của viên trấn thủ Đại Đồng Tuyên Quang, vùng rừng núi phía bắc sát biên thùy Trung Hoa. Trấn thủ Vũ Văn Uyên thần phục nhà vua, xin được tùy nghi phong chức cho các bộ tướng. Văn Uyên hứa đảm đương việc trung nghĩa, quét sạch cung ấp nhà Mạc, rước xa giá vua Lê về lại Thăng Long. Vua cả mừng hỏi ư Thái Sư. Thái Sư nói: Đó là ư trời muốn giúp nhà Lê khôi phục thiên hạ. Thái Sư hỏi viên bộ tướng:

-Chủ tướng ngươi lai lịch thế nào?

-Bẩm Thái Sư, trước kia chủ tôi vốn người châu thổ sông Hồng chạy trốn họ Mạc trôi giạt lên phía bắc. Lúc ấy viên Thổ Tù Đại Đồng hà khắc bạo ngược, nhân dân oán hận. Chủ tôi chiêu mộ quân dân nổi lên giết đi, sau được dân tôn làm chủ đất đó, người người quy phục.

-Số quân chủ ngươi cai quản bao nhiêu? Có từng giao tranh với quân Mạc?

-Quân số dưới tay chủ tôi trên nửa vạn. Quân Mạc nhiều phen tấn công nhưng không làm ǵ nổi. Ư chủ tôi muốn khống chế vùng thượng du, không cho quân Mạc rảnh tay dốc toàn lực tấn công lực lượng đức vua ở phương nam.

Thái Sư đẹp dạ trọng thưởng viên bộ tướng, lại đề nghị vua phong Văn Uyên chức B́nh Đông Tướng Quân. Vài ngày sau, Thái Sư nói với Quốc Sư:

-Tôi nghĩ ra kế sách mới nhất quyết phải làm. Nay ta đă có quân ở phía bắc nhưng chưa hoàn toàn đáng tin, vậy phải dựa vào lực của người Tàu. Ư tôi muốn có sứ giả chính thức sang gặp vua Minh Gia Tĩnh, kể tội Mạc Đăng Dung soán nghịch, nài nỉ vua Minh xuất quân trừng phạt. Khi ấy ta sẽ thừa cơ tấn công Thanh Nghệ, cầm chắc thế thắng. Việc này phi ông không ai làm được. Vậy ông sẽ làm sứ giả sang Tàu lo quốc sự, ông chuẩn bị mươi ngày nữa lên đường, cần ǵ thêm cho tôi biết.

Biết ư Thái Sư cương quyết, có nói cũng bằng thừa. Quốc Sư ra vẻ bằng ḷng nhưng thực sự ê chề đau đớn. Cái gương trăm năm trước, con cháu nhà Trần cầu cứu nhà Minh đem quân diệt Hồ Quư Ly. Nhà Hồ diệt vong nhưng đất nước rơi vào ṿng nô lệ, nhân dân khốn khổ lầm than hơn bao giờ hết. Người Tàu muốn đồng hóa người Việt, ra sức tiêu diệt văn hóa nước nam, sách sử bị đốt, đến lăng mộ cũng bị đập phá... Th́ thôi cũng đành cất bước khỏi phụ ḷng bạn rồi tùy cơ ứng biến. Nào ai thương dân tộc ḿnh bằng chính ḿnh.

Tháng sau, sứ bộ khoảng mười người lên đường sang Trung Hoa. Thái Sư Nguyễn Kim ngậm ngùi tiễn bạn lên đường. Hai người bạn già xiết chặt tay nhau, nước mắt ngắn dài... Ông đứng nh́n theo đến khi đoàn người khuất sau khe núi mới trở gót.

Từ đấy, thời gian với Thái Sư trôi quá chậm. Thế rồi sáu tháng, một năm, năm rưỡi, rồi gần hai năm... Sầm Châu vẫn chưa nhận được tin tức về sứ bộ. Thái Sư lo buồn đoán sứ bộ đă gặp bất trắc bèn phái viên tùy tướng Trịnh Viên và vài người khỏe mạnh hộ tống đem theo nhiều vàng bạc lộ phí lên đường sang Trung Hoa ḍ t́nh h́nh. Năm sau, Trịnh Viên trở về báo cáo, sứ bộ đến Vân Nam lại gặp đám quan lại nhà Minh do vua Gia Tĩnh cử đến biên giới dọ xét t́nh h́nh nước nam. Trịnh Viên tường tŕnh tội ác họ Mạc soán ngôi, lừa dối thiên triều, khẩn thiết xin thiên triều trừng phạt Mạc Đăng Dung cho con cháu nhà Lê phục hồi ngôi cũ. Theo Viên, trước sau ǵ nhà Minh cũng sẽ động binh.

Phần Quốc Sư, Trịnh Viên được biết Quốc Sư đă bái yết vua Minh kể tội họ Mạc, lại viết tâm thư vài ngàn chữ, lời văn trác tuyệt tỏ rơ ḷng thành làm mọi người thán phục. Trịnh Viên đoán vua Minh vốn trọng nhân tài, có ư lưu Quốc Sư lại không cho về nước nhưng nói thác giữ phái bộ ở lại chờ điều tra cho rơ thực hư v́ phái bộ nhà Mạc đă tâu vua Minh con cháu nhà Lê nay chẳng c̣n ai nối nghiệp. Thái Sư nghe xong than vắn thở dài. Mối sầu lạc đệ khắc khoải, Thái Sư t́m quên trong men rượu. Khi say nh́n về phương bắc mà khóc. Dực Nghĩa Hầu Trịnh Kiểm, con rể Thái Sư t́m lời khuyên can nhạc gia. Kiểm đề nghị:

-Thưa nhạc gia, Quốc Sư đi sứ chưa về không hẳn là đă mất, sau có cơ hội ta lại xin vua Minh cho ngài hồi hương. Nay dù vắng Quốc Sư nhưng tinh thần quân dân khí thế chẳng nao, nhất là sau khi viên tướng nhà Mạc trấn thủ bảy huyện Thanh Hóa về hàng phục triều đ́nh. Con t́nh nguyện dẫn bộ quân về đánh Lôi Dương phô trương thanh thế, trận đầu quyết thắng. Nhạc gia không tin, con xin viết quân lệnh trạng, không thắng sẽ treo đầu trên ngọn giáo chịu tội.

Năm Kỷ Hợi 1539 đại quân Lê do Trịnh Kiểm chỉ huy vượt biên tấn công huyện Lôi Dương. Quân Lê đại thắng, tướng sĩ Mạc lũ lượt hàng phục. Sầm Châu treo đèn kết hoa chào đoàn quân chiến thắng trở về. Vua Lê cả mừng phong Trịnh Kiểm làm Dực Quận Công.

Năm sau, đích thân Thái Sư hưng binh phạt Mạc. Vua Lê can:

-Thượng Phụ một ḷng v́ nước, công lao như Thái Sơn. Nay tuổi ngoài bảy mươi c̣n lo việc binh, ḷng trẫm áy náy. Chi bằng ta để Dực Quận Công (Trịnh Kiểm) và các tướng trẻ ra quân, Thượng Phụ ở lại đất này gánh vác triều chính. Trẫm v́ ḷng kính trọng nói thế, Thượng Phụ tính sao?

Thái Sư khẳng khái:

-Thần tuy ngoài bảy mươi nhưng trời c̣n cho sức mạnh. Trai trẻ làm được thần cũng dư sức. Vả lại, thần muốn tận mắt nh́n thực lực địch quân. Nay Mạc Đăng Doanh mới chết, nhà Minh dàn quân sát biên giới phía bắc. Quân Mạc sức mạnh ly tán, ta không động binh c̣n đợi chừng nào?

Thái Sư lệnh xuất binh tiến đánh Nghệ An. Quân địch tản mác không kịp đề pḥng chỉ rút chạy. Quân Lê toàn thắng lại rút về căn cứ.

Đầu xuân Quư Măo 1543, Dực Quận Công Trịnh Kiểm dâng vua bản Sách Lược B́nh Nam. Vua xem xong đẹp dạ hết lời ngợi khen, lại ban thưởng mỹ tửu. Vua vẫn trọng nể Trịnh Kiểm, thường khen Kiểm chí hiếu tài năng. Vua hỏi:

-Theo sách của Quận Công, khởi đầu ta nên chiếm Tây Đô làm nền dựng nghiệp. Vậy chừng nào có thể khởi sự mưu đại cuộc?

-Thần thiển nghĩ thời cơ đă đến. Nay Đăng Dung măn phần. Cháu y là Mạc Phúc Hải lên ngôi tài trí non kém, lại thích xướng ca, ham chọi gà hơn lo việc nước. Quân Mạc vẫn phải dàn quân pḥng thủ phía bắc dù đă hàng phục nhà Minh nên phía nam quân mỏng. Tây Đô do Dương Chấp Nhất trấn giữ. Hắn là kẻ tài hèn sức mọn không phải đối thủ của ta. Thần sẽ hội ư Thái Sư định ngày xuất binh.

Vua hăng hái: Chuyến này, trẫm sẽ ngự giá thân chinh cùng chư tướng đánh giặc.

Quân Lê dụng nghi binh đồng loạt tấn công nhiều nơi. Đại quân do Trịnh Kiểm chỉ huy bất ngờ bao vây Tây Đô. Vua Lê đích thân trợ chiến. Quân sĩ hăng hái ngày đêm công thành chẳng quản hiểm nguy mệt nhọc. Thấy thế nguy, Hoằng Vương Mạc Chính Trung bàn với Dương Chấp Nhất:

-T́nh h́nh nguy ngập. Thành sẽ mất nay mai do quyết tâm của quân Lê, ta không thể cố thủ chờ viện binh như ư ông. Chi bằng tương kế tựu kế, ông nên trá hàng. Thà như vậy c̣n hơn bị quân Lê tàn sát. Phần ta sẽ có cách thoát thân v́ Trịnh Kiểm chỉ biết ông, không biết ta hiện ở trong thành. Sau này ông tùy cơ ứng biến, ngầm liên lạc cho ta biết địch t́nh. Ấy là thượng sách, ông chớ chần chừ hỏng việc.

Chấp Nhất vốn là hoạn quan, hàm ân nhà Mạc do được vua Mạc tín cẩn phong tước Trung Hậu Hầu. Nghe Chính Trung nói thế, Chấp Nhất khóc lạy nói:

-Tôi sống làm tôi nhà Mạc th́ chết cũng làm tôi nhà Mạc, thề chẳng hai ḷng. Tôn vương là người quyền biến đă dậy tôi xin vâng...

Y kế Chính Trung, ngay sáng hôm sau Chấp Nhất bắc loa xin hàng phục. Quân Lê thấy trên thành kéo cờ trắng mừng rỡ reo ḥ. CửƯa thành mở rộng, Chấp Nhất đội tang đi đầu cùng các bộ tướng đầu trần chân đất hàng ngũ kéo ra. Thấy kiệu vua phía xa, Chấp Nhất quỳ mọp giữa đường. Đám bộ tướng vội quỳ theo chủ.

Vua Lê ân cần phủ dụ, lại thấy Chấp Nhất nói năng lễ phép cung kính, vua truyền cho phục chức cũ để tỏ lượng cả. Đám hàng quân đồng loạt tung hô vạn tuế, xin được chiến đấu dưới cờ đại nghĩa. Vua mừng thuận cho. Vài hôm sau, Thái Sư từ Sầm Châu sang. Vua tổ chức khao quân, tôn phong Thái Sư làm Thái Tể, con trai trưởng Thái Sư là Nguyễn Uông được phong Lăng Quận Công, người con thứ là Nguyễn Hoàng mới mười tám tuổi cũng được phong chức Hạ Khê Hầu. Vua phấn chấn tưởng ngày khôi phục Thăng Long gần kề. Có đêm vua nằm mơ thấy cảnh kinh đô cung vàng điện ngọc dù vua chưa hề được tới. Từ ngày sang Sầm Châu, tuy mang tiếng đế vương nhưng chưa bao giờ vua được hưởng cảnh phú quư vinh hoa, vẫn sống cuộc đời đạm bạc giản dị. Từ đấy, quân Lê tỏa đi chiếm nhiều nơi, từ từ làm chủ hai xứ Thanh Nghệ. Định mệnh dân tộc bước vào con đường chia cắt, thành h́nh hai triều đ́nh Lê Mạc hùng cứ hai phương bắc nam ngăn cách bởi rặng Tam Điệp.

Qua mấy năm b́nh định, đầu mùa hạ năm Ất Tỵ 1545, Thái Sư tuổi đă bảy mươi tám vẫn quyết định xua quân bắc tiến. Vua Lê không ngăn nổi ư chí sắt thép của Thái Sư, cũng thân chinh theo quân. Quân Lê vượt núi Tam Điệp tiến vào huyện Yên Mô. Tướng tiên phong Dương Chấp Nhất tiến quân chiếm huyện dễ dàng. Chấp Nhất lập bản doanh khẩn khoản mời Thái Sư đến quan sát địch t́nh.

Bấy giờ trời nắng gắt, Thái Sư lên đài cao quan sát xong bước xuống, lưng áo nhễ nhại mồ hôi vui vẻ hài ḷng cách dàn quân của viên tướng tiên phong. Chấp Nhất mời Thái Sư vào quân doanh, lệnh lính bổ dưa mời Thái Sư giải khát.

Thái Sư trở về hành dinh thấy người nôn nao mỏi mệt, bụng quặn đau, muốn ói mửa, vă mồ hôi nhưng cố chịu không rên la, người cứ lịm dần. Quan Thái Y chẩn đoán bị ngộ độc nặng khó qua khỏi. Trịnh Kiểm gọi Nguyễn Hoàng ra ngoài nói nhỏ:“Thầy chắc chắn bị Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc. Từ lâu tôi vẫn ngờ tên này gian dối nhưng thầy cả tin giao quân cho hắn. Cậu dẫn ngàn quân kéo đi bắt giữ hắn ngay. Mọi việc ở đây có tôi liệu.”

Nguyễn Hoàng đi ngay trong đêm. Đến Yên Mô, quân sĩ cho biết tướng tiên phong đă rời trại từ xế trưa, chưa thấy trở về. Nguyễn Hoàng trở về ngay hành dinh. Thái Sư Nguyễn Kim đă từ trần khoảng nửa đêm. Nguyễn Uông giận dữ nghiến răng trợn mắt, thề bắt bằng được Dương Chấp Nhất chặt đầu moi gan tế phụ thân. Trịnh Kiểm khuyên Uông b́nh tĩnh, bàn với vua Lê giữ kín tin Thái Sư mất e ḷng quân rúng động, tổ chức pḥng thủ sợ quân Mạc lợi dụng tấn công. Kiểm bàn với Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng bí mật khẩn đưa thi hài phụ thân về quê nhà, làng Gia Miêu huyện Tống Sơn, chờ đại quân rút về rồi mới phát tang. Uông và Hoàng lên đường ngay. Vài hôm sau, quân Lê rút lui lập pḥng tuyến tại núi Tam Điệp. Vua Lê và Trịnh Kiểm yên tâm trở về Tống Sơn lo tang lễ.

Vua Lê bàn với Trịnh Kiểm Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Ư vua muốn tổ chức tang lễ Thái Sư long trọng theo nghi thức đế vương. Vua nói:

-Đối với nhà Lê, Thượng Phụ công lao trời biển thế gian khó sánh. Ḷng trẫm tôn kính xem người như cha, nay táng người theo nghi thức dành cho bậc đế vương tưởng không có ǵ quá, mà triều thần trên dưới vui ḷng, cũng là dịp cuối trẫm tỏ tấm ḷng kính trọng báo đáp.

Nguyễn Uông phân vân chưa có ư kiến ǵ. Nguyễn Hoàng nói:

-Tạ ơn bệ hạ chiếu cố. Thân phụ thần lúc sinh tiền vốn tính giản dị. Có lần người chỉ cuộc đất trên núi Thiên Tôn nói:“Con nh́n rặng núi kia, mạch núi như chuỗi ngọc nổi đúng mười hai ngọn từ huyện Thạch Thành kéo xuống. Tả hữu núi non bao bọc, lại có suối như rồng lượn đổ xuống Tống Giang. Mai sau thầy mệnh một, các con táng thầy ngay chỗ ấy. Đây mới đúng huyệt trường, có tiền án hậu trầm, tả long hữu hổ. Tang lễ cần đơn sơ, chớ quá rườm rà tốn phí, nhọc công sức quần thần văn vơ bá quan cũng như quân sĩ ”. Nay ta bày vẽ trái ư người, e vong hồn người nơi suối vàng chẳng được b́nh yên.

Vua muốn phản bác. Trịnh Kiểm nói:

-Thần học lễ nghi, sách dậy mỗi khi hoàng đế băng hà, từ trên xuống dưới, từ quan lại đến quân sĩ, kể cả hàng thứ dân cũng phải thụ tang. Nước chỉ có một vua, nay ta làm vậy là trái phép nước, chẳng khỏi tiếng đời dị nghị. Bệ hạ nên châm chước sao cho hợp lẽ.

Bàn bạc măi, cuối cùng vua chỉ xin được đội tang, đích thân dâng tên hiệu và tên thụy cho Thái Sư. Mọi người bằng ḷng.

Ngày lễ thành phục, con cháu tụ tập trước linh cữu, khăn lượt đổi khăn sô, áo thâm thay áo trắng phủ phục khóc lóc. Vua Lê cũng mặc tang phục, bá quan văn vơ không ai bảo ai đồng loạt đội khăn tang, ngay dân huyện Tống Sơn nhiều kẻ cũng mặc tang phục. Toàn huyện một mầu trắng lẫn tiếng than khóc thảm thương. Người ta buộc khăn tang cả trên rặng soan, khóm trúc trước nhà Thái Sư.

Vua Lê phong tặng Thái Sư là Chiêu Huân Tĩnh Công, tôn thụy Trung Hiến. Đích thân vua đọc lời xưng tụng công đức...” Thượng Phụ khuất núi, ḷng trẫm xót xa, bách quan đau buồn, thần dân nhỏ lệ, vật ḿnh than khóc. Công đức Thượng Phụ như biển trời không tả hết bằng lời. Nay trẫm tặng phong tôn thụy, kính mong anh hồn nhận mỹ hiệu. Cầu cho non sông măi măi sáng soi nhật nguyệt, muôn đời bền vững.”

Đám tang đến núi Thiên Tôn lúc quá ngọ. Trời mờ ảm đạm, gió hiu hiu, mây ch́ vần vũ càng lúc càng thấp... Lễ hạ huyệt vừa xong, trời bỗng sấm chớp, gió giật đùng đùng bụi đất mù mịt. Mọi người kinh hăi chạy băng xuống núi. Mưa bắt đầu nhẹ hạt rồi nặng dần, những gịng nước đổ như thác phũ phàng giăng kín trời, người không nh́n rơ mặt nhau. Bỗng có tiếng nổ ầm ầm vang tự trong núi như động đất, những tảng đá lớn tự đỉnh ào ào lăn xuống xô cây cối bật gốc ngă rạp. Có người thấy ngôi mộ Thái Sư như chẻ hai, trong phút chốc bị hàng ngàn tảng đá lấp kín. Núi Thiên Tôn đổi dáng, từ h́nh hổ ngồi nay trông như rồng cuộn, rồng như muốn vươn ḿnh bay về phương nam. Con cháu Thái Sư sau này đến viếng mộ phần tổ phụ, chỉ quỳ hướng về núi dâng hương, không biết ngôi mộ thật sự đă táng nơi nào...

Tṛn năm sau, dân làng Gia Miêu x́ xào bàn tán chuyện anh nông dân nghèo khổ ở cuối thôn bỗng dưng khá giả. Từ một người không có đất cắm dùi bỗng có nhà ba gian, tậu vài sào ruộng lẫn trâu cày. Có người ṭ ṃ hỏi, nông dân thực thà kể:“Một hôm vào rừng đẵn củi tôi bỗng gặp khách lạ. Khách cưỡi ngựa trắng, phi chầm chầm quanh ngọn Thiên Tôn như có ư t́m kiếm cái ǵ.

Hai ngày tôi ở nhà, đến ngày thứ ba vào rừng lại gặp khách. Thấy tôi, khách tần ngần một lúc, tiến về phía tôi hỏi han. Tôi nhận ra khách nói tiếng nước ta không rành rẽ. Sau khi hỏi dăm câu chuyện nắng mưa vớ vẩn, khách vào đề hỏi bấy lâu có ai táng ngôi mộ trên núi. Tôi kể khách nghe ngôi mộ Thái Sư Nguyễn, chuyện giông băo vùi lấp mộ huyệt. Nghe xong mặt khách biến sắc, té nhào xuống ngựa. Thương khách một ḿnh, tôi đỡ khách lên ngựa, buộc cẩn thận đưa về nhà. Nửa đêm khách tỉnh, khóc nói: Ta với ngươi cơ duyên gặp gỡ nên tỏ thật. Ta từ phương bắc xuống, được thần nhân chỉ ngôi đại huyệt tại núi Thiên Tôn, hàm rồng cứ năm trăm năm mới mở một lần. Không ngờ họ Nguyễn tốt phúc được trời dành chỗ. Ta tính sai hẳn một năm đành ôm hận, dứt kiếp ở đây...

Khách nghẹn ngào khóc ngất. Lát sau tiếp: Ta mang theo cái tráp, trong có liễn sành niêm kín, ngươi chớ mở ra. Sau khi ta chết, nhớ chôn ta cùng với liễn ngay chân núi, cách gốc đa phía tây khoảng ba mươi trượng... Ta cúi lạy cảm ơn người trước. C̣n tài sản của ta, xin tặng người đền đáp một tấm ḷng.

Khách nói xong thở hắt rồi chết. Tôi làm theo ư khách, mở tráp thấy có liễn sành niêm kín, dưới có bản đồ vẽ núi non chi chít. Lần xuống đáy tráp thấy gói giấy bạc. Mở ra đếm được mười lạng vàng ṛng...”

 

(tiếp theo Phía Nam Hoành Sơn 1)

 

 

 

 

 

 


 

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 



 

 

Your name:


Your email:


Your comments: