Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 14

Những quyết định lịch sử

Vào ngày Hồ Chí Minh và thiếu tá Thomas gặp nhau trong rừng sâu Bắc Kỳ, tôi ở Côn Minh được biết tướng Alessandri đă nhận được những tin khá đau khổ là chương tŕnh viện trợ Vay - Mượn của Mỹ đă không được dành cho ông để trang bị quân đội Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương.
Thiếu tá Sainteny th́ ở đâu bên kia quả đất tại Paris, cũng chẳng đạt được kết quả ǵ trong việc vận động cho Chính phủ của ông ta quan tâm đến t́nh trạng khó xử của Đông Dương. Sainteny đến thủ đô Pháp vào cuối ngày kỷ niệm hạ thành Bastille (14-7) và hy vọng báo động cho “Thủ tướng Chính phủ Cộng ḥa Pháp” (De Gaulle) và các quan chức khác trong chính phủ biết phương hướng nguy hại cho các quyền lợi Pháp ở Đông Dương mà Đồng minh đang theo đuổi ở Viễn Đông. Nhưng tướng De Gaulle lúc đó “très pris”(1) nên không gặp ông được, c̣n giới quan chức Pháp cũng đang bị lôi cuốn vào các vấn đề quốc gia cấp bách hơn là lo toan đến các công việc thuộc địa ở Viễn Đông. Sainteny đă trở lại Trung Quốc với hai bàn tay trắng.
QUYẾT ĐỊNH Ở POTSDAM - VĨ TUYẾN 16

Cách đó không lâu, ở một ngoại ô thành phố Berlin, một lớp đủ mặt các nhà lănh đạo chính trị, quân sự Mỹ, Anh và Liên Xô đă gặp nhau ở Hội nghị Berlin (Potsdam). Các vị đă xúc tiến nhiều cuộc thảo luận quan trọng và kết thúc hội nghị với nhiều quyết định có ư nghĩa sâu xa, lâu dài nhưng không có một quyết định nào có liên quan đến Đông Dương cả. Trong khi đó, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ cũng đă bàn nhiều vấn đề, và trong đó có nhiều điều chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy nhằm mục đích làm giảm bớt cho các cấp chỉ huy và các lực lượng Mỹ trách nhiệm ngặn chặn và càn quét quân Nhật trên các khu vực thuộc phạm vi quyền lợi thực dân của Anh, Hà Lan và Pháp, để cho các chỉ huy Mỹ được rảnh tay tập trung lực lượng vào cố gắng chủ yếu là các chiến dịch đánh vào chính đất Nhật.
Một trong nhiều đường giới tuyến được đưa ra thảo luận có đụng chạm đến Đông Dương. Lúc đầu, tham mưu trưởng Liên quân (Mỹ) đă chọn một đường ranh giói chạy qua 150 vĩ tuyến Bắc, nhưng sau khi trao đổi với Tham mưu trưởng Liên quân Anh và Mountbatten, con đường đă được điều chỉnh lại ở vĩ tuyến 16. Điều đó có nghĩa là để cho Mountbatten có phạm vi hoạt động bí mật rộng răi hơn ở miền nam Đông Dương. Toàn bộ vùng phía bắc con đường nói trên vẫn thuộc Chiến trường Trung Hoa dưới sự chỉ huy tác chiến của Tưởng và Wedemeyer.
Một tuần sau, vào ngày 24-7, đề nghị phân chia ranh giới nói trên được đệ tŕnh cho Truman và Churchill, và được thông qua kèm theo chỉ thị là hai Chính phủ Mỹ và Anh sẽ cùng tiến hành một cuộc vận động để Tưởng đồng ư chấp nhận. Ngày 1-8, Hurley gửi công hàm của Tổng thống báo cho Thống chế biết điều quyết định ở Potsdam và mong rằng sẽ được ông tán thành. Thông điệp của Truman được chuẩn bị một cách chu đáo và nói rộng ra rằng việc phân chia ranh giới chỉ “nhằm cho các inmục đích tác chiến” và không bao hàm một nghĩa rộng nào khác. Mười ngày sau Tưởng phúc đáp lại với một sự đồng ư có điều kiện.
MỘT LỰC LƯỢNG THỨ BA Ở BẮC KỲ

Ông Hồ đă không được các cường quốc ở Potsdam, Paris và Trùng Khánh biết đến, nhưng trong khu căn cứ hẻo lánh của ḿnh ở Bắc Kỳ, ông ráo riết xúc tiến tuyên tuyền, tổ chức, huấn luyện và chỉ đạo các lănh tụ chính trị, quân sự hoạt động cho việc xây dựng một quốc gia mới.
Sau cuộc gặp gỡ với ông Hồ vào tháng 4, tôi nghiên cứu kỹ lưỡng phong trào Việt Minh và vào khoảng trung tuần tháng 6, tôi đă tin chắc rằng đây là một phong trào thực tế, năng động và nhất định sẽ giành được thắng lợi. Dựa trên cơ sở vững vàng, tôi xác định phong trào đă được tổ chức tốt, có mục tiêu chiến đấu rơ rệt và được ủng hộ của dân chúng. Trong các báo cáo gửi cho Heppner, Wedemeyer và Hurley, tôi đă bác bỏ một cách mạnh mẽ những luận điệu của người Pháp cho rằng không có phong trào độc lập thực sự ở Đông Dương, cho đây chỉ là một số ít khiêu khích gây rối loạn và đều là những “tên Cộng sản vô tổ chức” được Matxcơva, Diên An và Trùng Khánh giúp đỡ, xúi giục, hoặc cho rằng “người bản xứ” vẫn trung thành và dân chúng lệ thuộc đang nóng ḷng chờ người Pháp quay trở lại để bênh vực và che chỏ họ chống người Trung Hoa và Thái Lan. Trái lại, tôi đă kết luận là phong trào độc lập chỉ là một bước quá độ để đi đến lư tưởng tối cao là bản năng sinh tồn. Nếu độc lập dân tộc có khả năng bảo đảm sự sống c̣n cho người Việt Nam th́ họ sẽ coi Việt Minh là một sự giải đáp cho họ. Đối với họ th́ dù cho bước quá độ có mang tính chất dân chủ, xă hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa th́ đều chẳng có ư nghĩa quan trọng ǵ. Vấn đề và ở chỗ thoát được cảnh túng thiếu, được hưởng thành quả lao động của chính ḿnh và được sống yên ổn không bị quấy nhiễu.
Trong bản báo cáo của tôi, tôi khẳng định chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương là một trong những điển h́nh xấu xa nhất về chế độ bóc lột công nhân công nhật, coi thường nhân quyền và về sự tham nhũng của người Pháp và trong hơn 3/4 thế kỷ vừa qua, người Việt đă bị bóc lột tàn tệ, bị đối xử một cách dă man, và nói chung, bị sử dụng như là những vật sở hữu của người Pháp. Họ đă chống đối, đánh lại và nổi dậy, nhưng đội quân thuộc địa và sở mật thám Pháp bao giờ cũng thắng thế. Những người bản xứ tích cực nhất, hoặc đă bị giết chết, hoặc đă bị đưa đi đầy khổ sai. Chính t́nh h́nh kinh tế xă hội đó, chế độ thuộc địa đó tạo nên ở đây, đă nuôi dưỡng cho sự bất măn và nổi loạn, và đă sản sinh ra nhiều phong trào quốc gia và các lănh tụ yêu nước, mà trong số này th́ Hồ Chí Minh là một trong những người có ảnh hưởng và hoạt động có hiệu lực hơn hết.
Qua những người Việt Nam ở Côn Minh, tôi được biết rằng khi đă bôn ba 25 năm ở nước ngoài, đă tiếp thụ được ở đó lư thuyết và sách lược Marxism - Léninism, ông Hồ đă trở về nước vào năm 1940 và đă tự đặt cho ḿnh nhiệm vụ tập hợp các nhóm quốc gia khác nhau vào trong tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh. Thấy rơ sự nghèo nàn lạc hậu về kinh tế xă hội của Việt Nam, vốn hoàn toàn chỉ là một xă hội nông nghiệp; đầu tiên ông Hồ đề nghị hăy gạt các quyền lợi địa phương và giai cấp sang một bên để phục vụ cho độc lập dân tộc và tự do đối với chủ nghĩa thực dân. Ông kêu gọi những người đi theo ông chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành lấy chính quyền cho nhân dân Việt Nam.
Trong suốt những năm chiến tranh, Việt Minh đă theo đuổi thực hiện một chương tŕnh huấn luyện, tổ chức và đánh phá các cứ điểm của Pháp - Nhật ở Bắc Kỳ. Sau mỗi chiến thắng, dân chúng địa phương lại tập hợp đi theo Việt Minh và số lượng những người tham gia tăng lên theo cấp số. Hoảng sợ trước phong trào cách mạng, người Pháp đă cho thi hành một chiến dịch khủng bố vào những năm 1943-1944. Đổi lại, Việt Minh đă cho tăng cường công tác giáo dục ở cả hai vùng thành thị và nông thôn, kích động công nhân cũng như nông dân chống lại những sách nhiễu của Pháp và Nhật.
Lúc đó, vào cuối năm 1944 đầu 1945, một nạn đói chưa từng có đă xảy ra ở Bắc Kỳ, làm cho một số rất lớn người chết. Giá gạo tăng vọt lên từ 150 đồng một tấn (tháng 10-1944) tới 500 đồng (tháng 12) rồi 800 đồng (tháng 2-1945). Mặc dù sự thiếu hụt về lương thực ở Bắc Kỳ lúc đó là do mùa màng bị thất bát, nhưng nguyên nhân chính của nạn đói này là do Pháp, Nhật đă cho thi hành một chính sách thu mua lương thực quá tàn bạo. Cộng thêm với việc cướp đoạt gạo trong bữa ăn của ngườ́ Việt Nam bằng cách xuất cảng gạo ra thị trường nước ngoài và cho cất trữ để phục vụ lợi ích buôn bán của người Pháp; chế độ thu mua lương thực đă làm cho nông dân cùng quẫn. Chi phí sản xuất thông thường cho một tấn thóc là khoảng 80 đồng, giá thị trường khoảng 200, nhưng người nông dân khi nộp thóc th́ chỉ được trả chừng 25 đồng. Mặc dù bị mất mùa năm 1944, nông dân vẫn buộc phải nộp đủ xuất gạo của ḿnh, do đó họ phải t́m mua số c̣n thiếu bằng giá cao ở thị trường để nộp cho Pháp, Nhật với giá thu mua hết sức thấp hơn nhiều. Họ đă bị bỏ chết đói và không c̣n nguồn sống. Tất cả những điều kể trên là do Hồ Chí Minh thuật lại cho tôi nghe vào tháng 4-1945.
Khi ông Hồ nói với tôi về nạn đói, tôi đă không nắm chắc được ư nghĩa quan trọng này và những ảnh hưởng lâu dài của nó. Măi nhiều tháng sau tôi mới thông cảm được sâu sắc hơn với mối quan tâm và sự đau khổ của ông Hồ. Ngoài việc gần 2 triệu người bị chết đói, trong đó phần lớn là trẻ em, nạn đói kém đă tàn phá một cách nghiêm trọng sức khỏe của những người Bắc Kỳ c̣n sống sót. Điều đó đă hun đúc ḷng căm thù của họ đối với những kẻ áp bức Pháp - Nhật, và tăng cường quyết tâm chiến đấu và giành lại cuộc sống.
Quyền sống - sự sống c̣n - đó là lư tưởng cao cả nhất của cuộc cách mạng. Phù hợp với điều đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đă đưa ra khẩu hiệu “chiếm kho thóc để cứu đói nhân dân”. Họ đă coi đó là một nhiệm vụ trung tâm để động viên quảng đại quần chúng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Các cuộc chiếm kho thóc đă mang lại những kết quả không lường hết được: cứu đói nhờ có giá gạo hạ, vạch mặt kẻ thù chung là Pháp và Nhật, hướng các mối bất b́nh của nhân dân vào một mục tiêu rơ rệt, khuyến khích nhân dân tổ chức tự vệ cũng như để nắm lấy chính quyền, đề cao sự quan trọng của tổ chức kháng chiến và sự thống nhất hành động, lôi cuốn hàng trăm ngàn người tham gia phong trào cách mạng, tức là Việt Minh.
Khi tôi gặp ông Hồ ở Chiu Chow Chieh, tôi đă không nhận thức được rằng ông đang trên đường trở về Đông Dương để trực tiếp đảm nhận việc lănh đạo một phong trào năng động đang tiến sát đến ngày bùng nổ. Sau đó tôi mới biết ông đă đi thẳng ngay về Tân Trào, và ở đó, ông dựng lên một quốc gia nhỏ bé gồm sáu tỉnh và một phần đất của ba tỉnh khác, cái mà ông gọi là “khu giải phóng Việt Bắc”. Ông cũng đă củng cố lại các đội vũ trang của Chu Văn Tấn và Vơ Nguyên Giáp để thành lập một Quân đội giải phóng thống nhất. Sau đó, ông đă đưa ra một chương tŕnh thời điểm cho khu giải phóng:
- Đánh đuổi Nhật
- Tịch thu tài sản của bọn xâm lược và phản bội để phân phát cho dân nghèo.
- Công bố quyền phổ thông đầu phiếu và các quyền tự do dân chủ.
- Vũ trang nhân dân và kêu gọi họ ủng hộ du kích, tham gia quân Giải phóng.
- Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc trong Khu Giải phóng.
- Thực hiện cứu tế xă hội và cứu trợ các nạn nhân.
- Chia lại công điền, giảm tô và tức, hoăn việc trả nợ.
- Huỷ bỏ thuế và các h́nh thức làm xâu.
- Đấu tranh chống nạn mù chữ, huấn luyện chính trị và quân sự cho nhân dân.
- Bảo đảm b́nh đẳng giữa các dân tộc khác nhau, giữa nam và nữ.
Mặc dù đối với ông Hồ, mọi mục tiêu đều quan trọng, nhưng như tôi sau này đă được biết, ở Hà Nội, số người Việt Nam mù chữ khá cao cũng như tồn tại của các h́nh thức làm xâu, đều là những nguồn gây đau khổ đặc biệt đối với ông.
Các điểm trong chương tŕnh nói trên, trong quan điểm của ông Hồ, đă thể hiện như là một cơ sở cách mạng cho toàn đất nước Việt Nam trong tương lai, và chính các điểm đó đă khích lệ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc. Vào giữa tháng 7 năm đó, ông đă có cơ hội đầu tiên bộc lộ điều mơ ước của ḿnh cho một số ít người Mỹ. Thomas, Phelan, Defourneaux, Hoaglund, Squires và các nhân viên khác của toán “Con Nai” đều hết sức xúc động đến mức đă chấp nhận điều quyết đoán của ông Hồ rằng phong trào đó không phải là Cộng sản.

HỘI NGHỊ CỦA ĐẢNG Ở TÂN TRÀO

Vào ngày 6-8, sự kiện “Hiroshima” đă báo trước kết thúc của cuộc chiến tranh. Trước t́nh h́nh đó, ông Hồ chưa thực sẵn sằng; nhưng khi ông được Thomas cho biết sự sụp đổ của Nhật, ông đă hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng v́ ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở nơi ông muốn như Hà Nội, Huế và Sài G̣n. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rơ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai tṛ lănh đạo và đà phát triển của phong trào. Mặc dù c̣n rất yếu sau một cơn sốt rét và nhiều bệnh tật khác, ông cũng cho triệu tập một cuộc hội nghị các đại biểu Đảng và các lănh tụ chính trị Việt Minh.
Ngày 13-8, các đại biểu bắt đầu tới Tân Trào. Tất cả không phải đều đă có thiện ư đối với ông. Nhiều người thắc mắc về địa vị đứng đầu mặc nhiên của ông trong phong trào quốc gia. Một số lại hơi ngại về những tin đồn ông được Đồng minh ủng hộ. Một số khác khao khát địa vị lănh đạo cho bản thân ḿnh. Mặc dù sức khỏe rất kém, ông Hồ vẫn tỏ ra tự tin, tươi vui, phấn khởi, tự thân đón chào một cách nồng nhiệt từng người mới đến. Ông đi lại giữa mọi người, trao đổi tin tức, quan điểm và ôn lại các câu chuyện cũ. Trong cái “cơ quan và hành dinh” hỗn hợp của ông Hồ trưng bày nhiều tranh ảnh trong đó có Lênin, Mao và tướng Chennault với đủ các giải băng, sao, phù hiệu cấp bậc. Nhiều người tham dự hội nghị đă hỏi xem người sĩ quan ngoại quốc này là ai vậy và ông Hồ đă vui vẻ giải thích cho họ.
Đến chiều th́ một số lớn đại biểu đă đến hội nghị. Họ đại diện cho các cơ quan của Đảng từ ba vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, và cũng có một số đại biểu từ ngoài nước trở về. Mưa to và đường sá đi lại khó khăn đă làm cho một số đại biểu phải vắng mặt, một số th́ chắc không nhận được giấy triệu tập.
Công việc đầu tiên phải làm là quyết định về vấn đề khởi nghĩa. Vào buổi tối ngày 13-8, một Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Ủy ban nhận định là thời điểm cho một cuộc tổng nổi dậy và toàn dân đứng lên cầm vũ khí đă đến. Chính trong đêm đó, Ủy ban đă phát bản Quân lệnh số 1, ra lệnh phát động cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày hôm sau, Tổng bộ Việt Minh ra một bản kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Cũng trong ngày hôm đó, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc thảo ra bản Kế hoạch hành động dựa trên 4 phương châm cơ bản: kết hợp mọi hành động quân sự và chính trị, tập trung toàn bộ lực lượng dưới quyền một chỉ huy thống nhất, củng cố hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự và giữ vững liên lạc với lănh đạo. Bản kế hoạch hành động đă hướng dẫn tỉ mỉ việc vận dụng vào thực tế các phương châm công tác nói trên.
QUỐC DÂN ĐẠI HỘI
Liền ngay sau cuộc hội nghị của Đảng, Quốc dân đại hội đầu tiên đă được triệu tập họp vào ngày 16-8.
Dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, Đại hội gồm hơn 60 đại biểu đại diện cho nhiều đảng phái chính trị trong Mặt trận Việt Minh, các tổ chức quần chúng, các dân tộc (thiểu số), các cộng đồng tôn giáo ở Đông Dương và hải ngoại.
V́ Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp. Người ta đă nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân. Trang bị và vũ khí Mỹ của họ c̣n mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất. Ông Hồ vẫn yên lặng một cách khiên tốn nhưng hài ḷng về sự ṭ ṃ và quan tâm của các đại biểu. Với bức ảnh có kèm theo chữ kư của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là Việt Minh và đặc biệt là “Cụ Hồ” đă được Đồng Minh “bí mật ủng hộ”. Trong thâm tâm, chắc ông Hồ đă vui miệng khi thấy toán “Con Nai” đă đến thực đúng lúc, và bằng cách trải loăng nó ra th́ lại thấy h́nh như nhiều hơn lên so với t́nh h́nh thực trạng của nó.
Đại hội đă tán thành nghị quyết về một Cuộc tổng khỏi nghĩa và thông qua Quân lệnh số 1. Trong một phiên họp 2 ngày, Đại hội đă chấp nhận một chương tŕnh 10 điểm, một quốc kỳ có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa một nền đỏ và một bài quốc ca, bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, hoạt động như một chính phủ lâm thời trong quá tŕnh thưa có Tổng tuyển cử toàn quốc.
Ông Hồ, luôn luôn thực dụng, đă lái Đại hội đi tới chỗ tán thành một chính sách thực tế “giành lấy chính quyền từ tay người Nhật và Chính phủ bù nh́n trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và như thế với danh nghĩa là những người chủ của đất nước, chúng ta hoan nghênh đón quân đội đó đến để giải giáp quân Nhật”. Nghị quyết này của Đại hội đă thể hiện sự lo lắng của ông Hồ trước mưu toan t́m kiếm lợi ích của Pháp và Trung Quốc, mối đe doạ mà mọi người đều biết, đối với sự nghiệp của ông do việc khối Pháp, Anh, Hà Lan muốn thu hồi trọn vẹn các thuộc địa cũ của họ. Ông Hồ đă nhận thức được Đồng minh không phải là đồng minh trong thực tế, mà đó chỉ là một sự liên kết với nhau nhằm mở rộng việc bảo vệ các quyền lợi thực dân ở Đông Nam Á. Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, ông Hồ đă thấy trước một cách rất sáng suốt là Trung Quốc sẽ không dễ dàng bỏ qua một cơ hội tốt nào để bóc lột Việt Nam.
Khi kết thúc Đại hội đáng ghi nhớ này, ông Hồ đă đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn với toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn ghi:
“Giờ quyết định số phận đất nước chúnlg ta đă điểm. Toàn dân trong nước hăy nổi dậy, dùng sức mạnh của bản thân chúng ta đế giải phóng cho chúng ta. Các dân tộc trên thế giới đang nô nức thi đua để tiến lên giành lấy độc lập. Chúng ta không cam chịu ở lại đàng sau...
Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của Việt Minh, nhân dân ta hăy anh dũng tiến lên phía trước”.
Ông Hồ đă kư vào bản kêu gọi với cái tên mà trước đây ông đă dùng khi bắt đầu cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông - Nguyễn Ái Quốc. Lời kêu gọi đánh vào tinh thần yêu nước của người Việt Nam và ông muốn cho họ biết ông vốn là “Nguyễn, ngườ coi t́nh yêu Tổ quốc là đạo đức tối cao”.
Ngày thứ nhất của Đại hội cũng là ngày xuất phát của toán “Con Nai”. Theo chỉ thị của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, một đơn vị dưới quyền chỉ huy của Vơ Nguyên Giáp (được toán “Con Nai” huấn luyện trước) đă rời Tân Trào tiến đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội ở phía Nam. Khi mọi việc chuẩn bị đă sẵn sàng, ông Hồ, vị Chủ tịch mới, đă mời tất cả đại biểu các đảng phái và quan khách đến để quan sát đơn vị Việt Nam hành quân tiến ra ngoài doanh trại, có toán “Con Nai” đi cùng.
Thiếu tá Thomas là một sĩ quan trẻ tuổi, giỏi, nhưng chất phác một cách dễ hiểu trong lĩnh vực đấu tranh giữa các cường quốc thế giới. Thomas và toán của ông cùng với những người Mỹ được rải ra trên khắp Trung Quốc và Đông Dương đă chán ngán và không hài ḷng khi họ thấy bị chính sách của Bộ chỉ huy Chiến trường cấm không được đ̣i hỏi quân Nhật ở địa phương ḿnh hoạt động đầu hàng, hoặc nếu có việc họ muốn xin hàng th́ cũng không được tiếp nhận. Như Thomas đă nêu: “điều đó đă làm cho tôi chán ngán đến cực độ khi tất cả chúng tôi cảm thấy chúng tôi đă phải liều cả tính mạng ḿnh để đến đây nhưng đến nay, khi công việc đă chạy tốt rồi th́ chẳng c̣n ai đếm xỉa đến chúng tôi nữa...” vân vân và vân vân. Một số toán t́nh báo này, hoạt động ở cách xa mọi sự chỉ huy của cơ quan quân sự đến hàng trăm dặm, đă làm ầm ĩ lên hơn thế nữa và đă không tuân theo mệnh lệnh của Chiến trường.
Trong trường hợp của toán “Con Nai”, họ đă làm dịu bớt sự bất măn của ḿnh bằng cách đi theo cùng với bộ đội Việt Minh suốt trên đường về Hà Nội, nhưng chỉ với tư cách là những quan sát viên. Có thể họ đă hoàn toàn lăng quên mất cái ấn tượng họ đă tạo ra được cho ông Hồ một cách chắc chắn là ông đă có được sự ủng hộ “bí mật” của Đồng minh. Nhưng c̣n các đại biểu th́ sau khi Đại hội kết thúc, họ phân tán trở về địa phương, họ lại mang theo cái ấn tượng nói trên cùng với họ đi khắp đất nước.
Chú thích :

(1) rất bận - tiếng Pháp

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: