Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

PHẦN II
CÔN MINH
Chương 7

Điều mà Washington đă không biết

 

HỖN LOẠN
Chuyến bay của tôi đến Côn Minh lúc đó mất khoảng độ một tuần, qua chừng 13.000 dặm từ New York. Chiếc phi cơ C.47 lăn bánh vào sân bay Côn Minh chiều tối ngày 13-4-1945, không ai nghênh đón và cũng chẳng ai biết đến. Một lái xe người Hoa đến gặp và đưa tôi về nhà nhân viên OSS. Ở đó người quản ly chia cho tôi một mảnh giấy của trung tá Paul L.E. Helliwell(1) “Hoan nghênh dă đến Trung Quốc, sẽ gặp ở buổi điểm tâm”. Sáng hôm sau, ở Câu lạc bộ sĩ quan, một sĩ quan người cao, dáng dễ coi, đă nhẹ nhàng đi qua pḥng ăn và giơ tay chào đón tôi. Ông tự giới thiệu là “Paul” với một nụ cười gượng trên môi. “Tôi sung sướng được gặp anh”, và ông nói thẳng cho tôi biết rằng mọi việc ở đây đều “rối tung lên” và Washington đă “chẳng được giúp đỡ ǵ cả”. Sau bữa ăn, chúng tôi về khu vực của OSS, một khu có sáu hay bảy nhà cao tầng chung quanh sân và có tường bao quanh. Cơ quan treo cờ rủ - Tổng thống Roosevelt đă mất trước đây hai hôm.
Chúng tôi đến thẳng dăy nhà hai tầng dài và vào nhiệm sở của đại tá Heppner. Thông thường Heppner điều khiển công việc từ cơ quan đóng ở Trùng Khánh, cạnh hành dinh của Wedemeyer, Đại sứ quán Mỹ và chính phủ Trung ương Tưởng Giới Thạch. Nhưng khi tôi tới th́ Heppner cũng đến Côn Minh chủ tŕ một cuộc hội nghị hoạch định kế hoạch cho các hoạt động của OSS ở Đông Dương.
Cuộc đảo chính mới nổ ra của Nhật và các cuộc chuyển quân làm cho người ta phải tính đến khả năng người Nhật tiến về phía Côn Minh và các điểm khác dọc sườn phía nam quân Tưởng, Bộ tư lệnh của Wedemeyer đă chỉ thị cho OSS phải ngăn chặn cuộc tiến quân của Nhật và hội nghị phải làm sáng tỏ các quan hệ Mỹ - Pháp và quyền hạn của OSS được hoạt động ở Đông Dương. Heppner muốn tôi tham dự hội nghị và cuộc gặp mặt đă chuyển thành buổi giới thiệu tôi tham gia vào giới hoạt động ở Trung Quốc, liền ngay sau khi tôi mới chân ướt chân ráo rời khỏi cái bầu không khí đầy cao thượng và thanh khiết của Washington. Cứ như là một cuộc nhảy ào vào nước lạnh. Heppner mở đầu hội nghị và nói rằng t́nh h́nh đ̣i hỏi phải có hành động cấp bách nhưng chính sách Mỹ th́ không rơ ràng. Đặc biệt là OSS không biết phải giúp cho người Pháp đang rút lui ở Bắc Kỳ chống cự lại Nhật hay chạy trốn sang Trung Quốc. Người phát ngôn của Đại sứ quán cũng như của Chiến trường có mặt ở đó đều không ai có thể trả lời được câu hỏi này. Đại diện của tướng Chennault giữ lập trường là cả hai việc đều cần được xúc tiến và đưa ra hai bức công điện để hỗ trợ cho quan điểm của ḿnh.
Bức thứ nhất của tướng Marshall gửi cho Chennanlt đề ngày 19-3, trong đó có một đoạn nói: “thái độ mới của Chính phủ là giúp đỡ cho người Pháp với điều kiện là không được để cho sự viện trợ đó ảnh hưởng đến các chiến dịch đă được hoạch định. Đội không quân thứ 14 có thể tiến hành các trận đánh vào quân Nhật ở Đông Dương để chi viện cho người Pháp trong khuôn khổ đă định của chính sách nói trên”.  
Bức thứ hai, mới hơn, của Tham mưu trưởng Liên quân gửi cho Wedemeyer và đề ngày 9-4, yêu cầu Wedemeyer “nghiên cứu việc thả dù một số hàng tiếp tế nào đó (v́ những mục đích nhân đạo) nhưng việc thi hành th́ vẫn do chiến trường Trung Hoa quyết định”. Rơ ràng là Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân muốn tránh không đi thẳng vào vấn đề và muốn chuồi cho Wedemeyer trách nhiệm quyết định ra lệnh: đó là điều mà Heppner muốn được thấy chiến trường chấp nhận trước khi ông ta quay về Trùng Khánh. Hội nghị ngừng họp vào buổi trưa.
Trong khi tôi vắng mặt, Helliwell đă nắm lấy chồng hồ tài liệu trong cơ quan tôi, và với một niềm thích thú độc ác, đă ghi lại cho tôi mấy chữ: “Để đánh giá tốt hơn nữa đối với tổ Đông Dương sự vụ (FIC Affair) lộn xộn”. Các tập hồ sơ này mang những cái tên cũng nói lên được một cách không úp mở: “Chính sách Mỹ - Đông Dương thuộc Pháp”, “kế hoạch Quail”(2), “người Pháp ở Đông Dương”, “phái đoàn quân sự Pháp - M.5”, “Người An Nam trong các hoạt động của SI – SO” và v.v... Khi xem lại các tài liệu, tôi mới thấy rơ rằng nhiều vấn đề chính sách c̣n rất mù mờ và trong các quan hệ quốc tế về địa phương của chúng tôi th́ đầy rẫy những cuộc đấu tranh chính trị nội bộ tương tàn và xung đột về mục tiêu chiến tranh và các vấn đề về tác chiến đ̣i hỏi phải có sự quyết định của cấp cao nhất. Trước khi khởi sự hoạt động, tôi thấy cần phải có một cuộc thảo luận sâu sắc, đưa ra quyết định cuối cùng về các vấn đề nói trên và nó phải được đưa tới các cấp ở Trùng Khánh và Washington.
Ngày hôm sau, Helliwell triệu tập các sĩ quan tham mưu, chủ yếu để bàn về “kế hoạch Quail”, một hoạt động quan trọng của SI ở Đông Dương mới được trên thông qua. Trong những người có mặt, tôi thấy có đại uư (sau là thiếu tá) Robber E. Wampler, thủ trưởng pḥng SO, ông R. Dulin, đại diện cho pḥng Mountbatten, một đại diện của X2 (phản gián), một báo cáo viên của cơ quan R&A(3), và thiếu tá (sau là đại tá) A.R. Wichtrich thay mặt cho AGAS.
Ngay từ lúc tôi phụ trách kế hoạch “Quail”, Helliwell đă giúp tôi cho kiểm điểm lại t́nh h́nh từ khi ông đến chiến trường (vào ngày 25 tháng Giêng trước) và nghiên cứu các vấn đề phải đối phó, các tiến bộ đă đạt được trước khi đi vào thảo luận các vấn đề mới.
Báo cáo viên của R&A nêu tóm tắt về các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương. Theo ông, từ những ngày Nhật chiếm Đông Dương, các giới liên quan người Pháp, Anh và Trung Hoa thỉnh thoảng cũng đặt được những trạm thu tin, đường giao liên và mạng lưới điện đài để nhằm đáp ứng các yêu cầu riêng của họ, nhưng những hoạt động đó thường không kết hợp với các mục tiêu của Đồng minh và nhiều khi lại cạnh tranh với nhau. Chỉ có nhóm GBT là ngoại lệ và đă cung cấp được nhiều tin tức quân sự cho Bộ chỉ huy Đồng minh. Nhưng cả nhóm này cũng chỉ là một tổ chức không có h́nh thức rơ rệt, theo đuổi những mục đích khả nghi, và chỉ được đặt dưới một sự kiểm tra mơ hồ của Đồng minh. Dẫu sao đi nữa th́ từ khi có cuộc đảo chính của Nhật, mọi nguồn tin t́nh báo từ Đông Dương, bao gồm cả nhóm GBT đều im lặng.
Báo cáo của R&A lại cho biết là ngay từ đầu tháng 11-1944, tướng Wedemeyer đă quyết định cho tiến hành mạnh mẽ một chương tŕnh hoạt động bí mật ở chiến trường Trung Quốc và đă yêu cầu tướng Donovan xúc tiến thực hiện vấn đề này.
Trước sự phản ứng của Nhật đối với thắng lợi của Đồng minh ở Thái B́nh Dương và hoạt động của Pháp ở Đông Dương, Helliwell, ngày 1-3 (trước cú Nhật Bản) đă phải vội vă xin chỉ thị hướng dẫn của Bộ tư lệnh chiến trường. Helliwell đă được trả lời là ông không được làm việc với “người bản xứ hoặc các nhóm cách mạng” và “trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được gửi tiếp tế cho bất kỳ ai ở Đông Dương...(cũng như) không được làm việc với người Pháp nếu không thông qua những tiếp xúc cấp cao ở Trùng Khánh”. Helliwell lại c̣n được Hepper nhắc thêm “theo lệnh trực tiếp của Tổng thống, OSS bị cấm không được ra những quyết định về chính sách đối với Đông Dương thuộc Pháp”.
Cú mồng 9-3 đă gây ra một t́nh trạng cực kỳ hỗn độn ở Trung Quốc. Giữa lúc đó, cả tướng Wedemeyer lẫn đại sứ Hurley đều ở Washington họp với Tổng thống, Tham mưu trưởng liên quân và người cầm đầu Bộ Ngoại giao và Bộ Chiến tranh. Tướng Chennault thay Wedemeyer khi vắng mặt và đại diện lâm thời Atcheson điều khiển đại sứ quán. V́ không có tin tức cụ thể từ Đông Dương nên không thể lường được những ư đồ về chiến lược của Nhật. Tưởng lo sợ một cuộc tiến quân lên phía bắc vào đất Trung Quốc. Người Pháp kêu la xin được tiếp cứu và Chennault th́ không nhận được chỉ thị ǵ. Chennault tuy là người thú hai sau Wedemeyer nhưng thường không biết tới các cuộc thảo luận về đường lối chính sách ở cấp cao. Theo quan điểm của các nhà chính trị th́ vai tṛ sĩ quan không quân cao cấp của ông ở Trung Quốc là chiến thuật hơn là chiến lược. Do đó khi nổ ra cú 9-3, Chennault đă bị đặt vào t́nh thế khá tế nhị.
Chennault đă không được hay biết ǵ về cuộc thảo luận ngày 26-1 giữa Clarac, cố vấn Đại sứ quán Pháp, Wedemeyer và Hurley về vấn đề quan hệ Nhật - Pháp “đang đi đến một cuộc khủng hoảng” và cả vấn đề người Nhật yêu cầu Pháp bố trí một sư đoàn mới ở biên giới Bắc Kỳ và Trung Hoa v.v.... Chennault cũng chẳng được báo cho biết việc Wedemeyer có liên lạc trực tiếp với trung tướng J.F. Hull(4) ở Hội nghị Yalta, cũng như việc Wedemeyer đă được Hull thông báo cho biết là tướng Marshall đă trao đổi với Tổng thống về vấn đề các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương. Đặc biệt là: “Tổng thống đă cho Marshall biết rằng ông không có ǵ phản đối việc (Wedemeyer) cho tiến hành các hoạt động t́nh báo và lật đổ ở Đông Dương. Tổng thống đồng ư với bất cứ điều ǵ làm để chống lại người Nhật nhưng với điều kiện là chúng ta không đuợc sắp cùng hàng với người Pháp. Tổng thống cũng không thay đổi thái độ trong việc đối xử với các nhà chức trách Pháp về vấn đề công nhận chính thức quyền lợi của Pháp ở Viễn Đông”.
Những thông tin cơ bản này đă không có giá trị ǵ đối với Chennault và sau ngày 9-3, khi người Pháp lên tiếng cầu cứu, Chennault đă dùng quyền chỉ huy của ḿnh để đáp lại lời kêu gọi của Pháp. Chennault đă dựa vào một bức điện mơ hồ của Bộ Ngoại giao cho phép Wedemeyer “giúp đỡ người Pháp” trong trường hợp họ phải tới Trung Quốc để “xin viện trợ về thuốc men”, miễn là có thông báo cho người Trung Hoa biết.
Chennault đă gặp Tưởng Giới Thạch vào sáng 10-3 cùng với tướng Hà Ứng Khâm. Chennault hỏi Tưởng xem người Pháp có thể bị tước vũ khí không nếu như họ kéo vào Trung Quốc và không nghiêm chỉnh chống cự lại người Nhật. Tưởng chỉ đáp lại là người Pháp “có thể ở lại Trung Quốc trong một khu vực riêng..”. Đối với câu hỏi phải làm ǵ nếu như người Pháp tiến hành một cuộc chống cự kiên quyết, họ có bị phó mặc cho số phận của họ hay chúng ta sẽ đưa quân sang hỗ trợ cho họ; Tưởng đáp “nếu có chống cự kiên quyết th́ cũng có thể được giúp đỡ”.
Trong khi thiếu một chính sách rành rọt, Chennault đă quan niệm chỉ thị mập mờ của Bộ Ngoại giao và những lời phát ngôn nước đôi của Tưởng là ngọn đèn xanh cho phép ông giúp Pháp. Chennault đă phái các cơ quan t́nh báo của ḿnh (OSS/AGFRTS) đột nhập vào Đông Dương để tiếp xúc với các nhân viên hàng không người Pháp và thu xếp việc thả dù tiếp tế vũ khí, đạn dược, thuốc men và lương thực. Nhưng đến ngày 20-3, Bộ Chiến tranh đă ra lệnh cấm Chennault cung cấp vũ khí và đạn dược, mà chỉ cho phép thả bom và bắn phá quân Nhật ở Đông Dương.
Bốn năm sau tướng Chennault đă đánh giá t́nh h́nh của ông như sau:
“Chính phủ Mỹ rất quan tâm đến việc người Pháp bị đánh bật ra khỏi Đông Dương, v́ việc đó sẽ làm dễ dàng hơn vấn đề tách người Pháp ra ngoài thuộc địa của họ sau chiến tranh. Lúc đó, người Anh lại ra sức phục hồi lại hệ thống các thuộc địa của họ ở Viễn Đông và coi việc thất bại của người Pháp ở Đông Dương là vô cùng tai hại cho uy tín của chính đế quốc ḿnh. Khi các máy bay vận tải Mỹ tránh không đến Đông Dương th́ các phi đội hàng không Anh có nhiệm vụ tiếp tế mọi mặt cho người Pháp từ Calcutta, thả dù cho họ súng tiểu liên, lựu đạn và súng cối.
Tôi đă nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh cấp trên đúng từng chữ, nhưng thực sự tôi đă chẳng thích thú ǵ với cái ư nghĩ phải để mặc cho người Pháp bị tàn sát trong rừng sâu khi mà tôi chính thức bị buộc không được biết đến cảnh ngộ của họ”.(5)
Trở lại cuộc hội nghị, các vấn đề của Helliwell đặt ra rất khác với tướng Chennault. Trong khi Chennault nhận được chỉ thị phải đ́nh chỉ gửi vũ khí đạn dược cho người Pháp ở Đông Dương th́ OSS lại nhận được lệnh phải xây dựng những mạng lưới t́nh báo mới ở đó. OSS đă nhận được hai bản chỉ thị. Cả hai bản đều do tướng Marvin E. Grose, quyền tham mưu trưởng, kư thay cho tướng Chennault, tư lệnh chiến trường Trung Hoa.
Bản chỉ thị thứ nhất cho phép thành lập các lưới t́nh báo ở Đông Dương và cho phép viện trợ bất kỳ “nhóm kháng chiến nào mà việc chống đối tích cực với quân đội Nhật sẽ làm tăng thêm thuận lợi cho các hoạt động của Mỹ và Trung Quốc”. Ở đây có hai điểm quan trọng: sự viện trợ được hạn chế trong những việc không được gây trở ngại cho các cuộc hành quân đă được hoạch định và đang được xúc tiến trên chiến trường Trung Hoa; phải hết sức thận trọng trong khi hoạt động để làm sao cho “tất cả các nhóm đều được phân phối công tác một cách không thiên vị, bất kể họ có nguồn gốc chính trị hay sự liên kết với một Chính phủ riêng biệt nào”. Bản chỉ thị thứ hai đ̣i OSS phải thành lập nhiều trạm vô tuyến điện để phục vụ cho cả OSS và Phái đoàn quân sự Pháp. Các bản chỉ thị nói trên đă thúc đẩy OSS hoạt động nhưng đồng thời cũng đặt OSS vào một t́nh thế khá tế nhị và dễ gây lúng túng cho Pháp. Helliwell giải thích là người Pháp đă nài ép để xin được tiếp viện nhiều vũ khí và trang bị chiến đấu, mà làm như thế th́ chỉ gây trở ngại cho các kế hoạch tác chiến của chiến trường v́ phải giảm bớt đi không ít khả năng của không lực và, “khối lượng hàng tiếp vận của Hump”. Theo các chỉ thị mới th́ cũng trong thời gian này, OSS lại được giúp đỡ người Việt Nam quốc gia. Những người này cũng đ̣i hỏi vũ khí và trang thiết bị chiến đấu nhưng với một khối lượng nhỏ bé, không cần đến một sự bảo đảm hậu cần quan trọng hoặc phải điều chỉnh lại các kế hoạch hoạt động đă được vạch ra.
Tôi nêu vấn đề là trong tháng qua không biết đích xác là Pháp đă có tiến hành một cuộc chống cự có tổ chúc nào không. Helliwell xẵng giọng đáp lại ngay: “Chết tiệt! Không có ǵ hết! Chúng ta đă thả dù hàng tấn vũ khí và đạn dược, nhưng không đâu báo là có cuộc chống cự của Pháp. Thực tế chúng ta nghĩ rằng Nhật đă tóm hết mọi thứ của chúng ta trong khi Pháp rút chạy gấp về phía biên giới”.

Helliwell nói, với hai bản chỉ thị mới, ông ta thấy rằng cần bắt đầu phái các t́nh báo viên xâm nhập vào Đông Dương, mặc dầu ngày hôm sau ông nhận được một bức điện của Bộ Chiến tranh ra lệnh cho OSS “không được làm ǵ cả đối với Đông Dương thuộc Pháp”. Bức điện cấm Chennault không được tiếp tục thả dù vũ khí cho nhân viên hàng không Pháp và hai chỉ thị của chiến trường cho phép triển khai các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương đều được ghi cùng một ngày – 20-3.
Giữa t́nh h́nh lộn xộn gây ra do mớ điện tín nói trên th́ Helliwell nhận được sự đồng ư của chiến trường về “phương án Quail” mà người ta phải nóng ḷng chờ từ nhiều tuần nay. Nhưng ngày hôm sau, Helliwell lại nhận được một bức điện của đại tá Willis S. Bird, phó của Heppner, nói “không được làm ǵ cả trong việc thành lập các đài vô tuyến” định để phục vụ cho cả OSS và Pháp. Lại một chuyện kích động nữa trong quan hệ gay cấn giũa Mỹ và Pháp.
Helliwell tỏ ra rất bực ḿnh v́ không có sự phối hợp giữa các yêu cầu cấp bách về tin tức hoạt động của Nhật ở Đông Dương với mớ lệnh và phản lệnh quá hỗn độn của cấp trên. Ông đă phái nhiều sĩ quan Mỹ và hiệu thính viên người Việt tới biên giới để t́m gặp đội quân đang rút lui của tướng Sabattier(6) và thu lượm tin tức về Nhật. Tất cả điều mà những người này đă có thể báo cáo về được là “người Pháp đang bị Nhật đuổi chạy sát nút”. Và theo Helliwell, người Pháp cũng chẳng có thể cung cấp được tin tức ǵ về các đơn vị Nhật đang săn đuổi họ.
Helliwell cũng rất chán ngán bởi câu chuyện rắc rối mới đây xảy ra giữa Pháp, Anh, Mỹ và Trung Hoa. Câu chuyện đă được nhóm GBT báo cáo cho đại tá Bird ở Trùng Khánh rồi chuyển đến chỗ Helliwell. Theo GBT th́ nhà đương cục ở Đông Hưng(7) ngày 20-3 đă thấy hai phi cơ Đồng minh lượn trên vùng trời Móng Cái và thả dù vũ khí cùng với đạn dược của Anh. Nhưng ở đó không có ai thu nhận nên người Trung Hoa đă ra thu nhặt tất cả. Vài phút sau GBT nhận được tin điện của Pháp nói rằng người Pháp đă rút lui hết sang đất Trung Quốc và Nhật đă chiếm Đông Hưng, Móng Cái và Tiên Yên. Pháp yêu cầu cho ném bom vào cả ba vị trí nói trên.
Rơ ràng là người Pháp không muốn mạo hiểm quay trở lại Móng Cái v́ sợ đụng phải Nhật nhưng cũng không muốn cho người Trung Hoa thu lượm được món hàng thả dù khá quư giá nên đă yêu cầu cho thả bom ngay vào chỗ người Trung Hoa. Thật hiển nhiên là người Pháp đă t́m cách đánh lừa người Mỹ trong việc thả bom xuống các khu vực có quân đội Trung Quốc, và cũng may mắn mà nhóm GBT c̣n có liên lạc bằng điện đài với những nạn nhân mà đă được người ta nhắm sẵn.
Helliwell nói rằng Gordon đă cảm thấy người Pháp “hoàn toàn không đáng tin cậy” và mỗi hành động của Mỹ sau này đối với họ đều được xem xét kỹ lưỡng. Gordon cũng lại cảnh báo rằng theo ư kiến riêng của y th́ “người Anh đă cắn chặt được một miếng và tự ḿnh lao vào Đông Dương mà không có sự phối hợp của chiến trường”.

CÓ TIN G̀ VỀ “ÔNG HỒ” KHÔNG?

T́nh h́nh đă dẫn đến việc phải thảo luận xem sẽ làm ăn ra làm sao đây trong một t́nh huống chắp vá giữa cái được làm và không được làm. Qua các cuộc gặp gỡ và qua những điều mà tôi được biết ở Washington th́ quả nhiên trong lúc này người ta rất ít mong chờ được ǵ ở người Pháp nên tôi đă phải tự hỏi: “Thế c̣n người Việt Nam? Đă có ai đó tiếp xúc với họ chưa?”.
Thiếu tá Wichtrich cho biết AGAS đă có khá nhiều cuộc tiếp xúc với họ và cũng đă đạt được kết quả tốt. Ông Dulin đồng ư với Wichtric và nêu ư kiến là trái với những người Pháp không chịu công nhận giá trị của người Việt Nam và quan điểm của Chiến trường về “những sự rối rắm chính trị”, người Việt Nam có một tổ chức đang hoạt động và nếu được trực tiếp tiếp xúc với họ để làm việc th́ sẽ rất có ích. Nhưng ông nói thêm “cánh ở Đại sứ quán lại không thích làm ăn với họ. V́ người ta cho họ là Cộng sản và chống Pháp”. Helliwell đáp lại: “Bậy! Nếu họ có một tí ǵ là tốt th́ ta cũng t́m cánh dùng họ. Chúng ta đă được sự đồng ư của Washington và Trùng Khánh cho sử dụng tất cả mọi nhóm kháng chiến”.
Đại diện cơ quan R&A chủ động cho biết có nhận được những báo cáo mới về sự chống cự kịch liệt của người Việt Nam với quân Nhật trong vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Cạn và các cuộc chiến đấu của họ mang tính chất bán quân sự. Nhiều báo cáo của người Việt Nam cung cấp cho OSS/AGFRTS và GBT có giá trị làm cơ sở cho mệnh lệnh chiến đấu. Dulin, một chuyên gia về chiến tranh chính trị, nói rằng OWI đă sử dụng nhiều người của Việt Minh do một “ông già” tên là Hồ Chí Minh lănh đạo và trong thực tế th́ ông Hồ cũng đă tiến tŕnh inột số công tác chiến tranh tâm lư cho cơ quan tuyên truyền Trung Quốc, cùng với OWI. Lúc đó Wichtrich mới công nhận là AGAS đă thực hiện một công tác đối với ông Hồ để tổ chức cứu thoát phi công ở Đông Dương. Wichtrich gượng cười nói với Helliwell: “Fenn, người của anh đă làm om ṣm về con người ấy trong nhiều tuần đấy”. Helliwell không chịu kém, đă đáp lại: “Tôi biết! Tôi đă cấp cho ông ta một số vũ khí để tự vệ”.(8)
Tôi kể cho họ là tôi đă bắt gặp tên của “ông Hồ” trong các hồ sơ của Washington đề ngày tháng từ 1942 và cả trong các hồ sơ mới đây của Sprouse và Langdon thuộc Đại sứ quán và của Powell thuộc OWI. Thực tế chỉ trước đó một ngày, tôi cũng đă đọc bản báo cáo của Fenn nói về một cuộc điều đ́nh với ông Hồ để tổ chức một mạng lưới t́nh báo khắp Đông Dương để hỗ trợ cho OSS và AGAS. Ư định của tôi nếu như không ai phản đối, là đi sâu vào tổ chức của người Việt Nam nhằm để họ phục vụ cho “phương án Quail”, nhưng trước hết tôi lại muốn biết ư kiến có cơ sở của mọi người về phản ứng có thể của người Pháp.
Helliwell không nghĩ rằng chúng ta sẽ phải thảo luận với người Pháp và ngay cả với Đại sứ quán của ta, và cũng không hề thấy rằng sự hợp tác của Heppner đối với chúng ta là rất cần. Wichtrich bị bối rối ra mặt và đă trả lời tôi là anh ta không quan tâm ǵ đến người Pháp hay nhân viên ngoại giao nhưng anh ta muốn được có sự đảm bảo rằng SI sẽ không làm ǵ để gây trở ngại cho AGAS. Helliwell đă nói để Wichtrich yên tâm là sự cộng tác của ông Hồ phục vụ cho AGAS sẽ được SI chúng ta hỗ trợ cả về mặt tài chính và phương tiện thông tin liên lạc.
Hội nghị đă kết thúc với ư kiến thống nhất rằng tôi có thể càng sớm càng hay, thực hiện một cuộc thanh tra trên bộ tới Szemao(9) và dọc theo biên giới Đông Dương, cho khởi sự việc khôi phục lại nguồn t́nh báo, xác định t́nh trạng quân sự của Pháp và có khả năng thu xếp để tiếp xúc với các lănh tụ Việt Minh.
Về các mặt khác, trong số ít ngày đầu tiên của tôi ở Côn Minh, đă thể hiện ra một cách không được sáng sủa lắm. Tôi đă chẳng có tin tức ǵ về số nhân viên đă được đặc biệt chọn lọc mà tôi đă tuyển dụng tại Washington.
Cuộc viếng thăm đầu tiên của tôi đến phái đoàn quân sự Pháp (M.5) (10) cũng chỉ mang lại cho tôi một sự thất vọng. Phái đoàn đang thay đổi bộ máy chỉ huy và trong một t́nh trạng hoàn toàn rối loạn. Trưởng phái đoàn mới th́ vắng mặt, c̣n những người có mặt th́ chẳng ai tỏ ra có trách nhiệm ǵ cả. Những ngày tiếp theo, tôi trở lại thăm th́ t́nh h́nh cũng chẳng có ǵ khác hơn trước.
Tại trụ sở BIS của tướng Tai Li ở Côn Minh th́ sự tiếp đón hoàn toàn thân mật nhưng cũng không có ǵ đáng được tưởng lệ. Khá nhiều nước trà, nhiều nụ cười lịch sự và câu chuyện nói bằng tiếng Trung Hoa giữa những người phiên dịch cũng nhiều hơn. Và các vị khách của tôi chỉ nói rằng họ mới ở Tú Xuyên về và không hay biết ǵ về các hoạt động t́nh báo ở Vân Nam và Đông Dương.
Helliwell và Dulin đă cấp cho tôi một bản danh sách các Việt kiều di cư do Cha Jean Tống, một thầy tu Thiên chúa giáo người Hoa d́u dắt. Nhưng sau nhiều cố gắng để t́m kiếm họ mà không có kết quả nên tôi đă bỏ qua.
Suốt trong thời gian đó, Bộ Tư lệnh chiến trường vẫn tiếp tục đ̣i tin tức t́nh báo và nhấn mạnh việc OSS phải tiến hành quấy rối người Nhật dọc theo hành lang Hà Nội, Nam Ninh, Quảng Đông. Trong t́nh huống hỗn loạn lúc đó, nhiều toán OSS ở phía nam Trung Quốc và bắc Đông Dương đang bị mất liên lạc với Côn Minh, và đó cũng là một nguồn đẻ ra nhiều điều lo ngại nghiêm trọng.
PHÁI VIÊN CỦA “TƯỚNG” HỒ

Nhưng cũng đă có một sự kiện có tính chất tích cực đă xảy ra trong ngày đầu tiên tôi ở Côn Minh này. Việc tôi sục t́m các con chiên của Cha Tống chắc đă được bàn tán nhiều trong giới Việt kiều ở Côn Minh và tôi đă được một người là Vương Minh Phương t́m đến thăm. Giữa những lời xin lỗi quá thừa v́ đă quấy quả tôi vào một chiều thứ bảy, Phương tự giới thiệu là hội viên Mặt trận Độc lập Đông Dương. Tên ông ta cũng không phải là mới lạ ǵ đối với tôi. Tôi đă bắt gặp cái tên đó trong bản báo cáo của Langdon nói về cuộc nói chuyện với các hội viên của Mặt trận vào tháng 8-1944.
Phương mới ngoài 30 tuổi và nói tiếng Pháp lưu loát. Theo Phương kể th́ Phương vốn là sinh viên trường Đại học Hà Nội và đă tới Trung Quốc vào mùa thu năm l943, sinh sống cạnh cơ quan OSS, trong khách sạn Quảng Lạc, 39 Tai Ho Gai. Phương có quen ông Glass ở OSS, đă từng cộng tác với Powell thuộc OWI và đă gặp thiếu tá Stevens(11) ở Trùng Khánh và ông Langdon ở Lănh sự quán Côn Minh có biết. Rơ ràng là Phương quen biết toàn là những người đúng đắn nên tôi cũng thích thú chờ biết lí do cuộc viếng thăm.
Phương giải thích là cần phải làm cho tôi biết rơ rằng nhũng người mà tôi đang t́m kiếm không phải là “những người Việt Nam tốt nhất” ở Côn Minh mà họ đều là nhân viên của hai công ty do Pháp đỡ đầu(12) liên kết Hoa Việt Cách mạng Đồng minh Hội. Họ đă được định cư ở Trung Quốc và tự coi ḿnh là người dân Trung Quốc. Phương nói, c̣n những người Việt Nam tha thiết đánh “phát xít Nhật” th́ đều thuộc mặt trận của Phương, được nhiều người biết với cái tên là Việt Minh mà lănh tụ là “tướng” Hồ Chí Minh.
Phương mặc âu phục, tỏ ra là một người có học thức tốt và hoàn toàn thông thạo về vấn đề chiến tranh nói chung, và tất nhiên là giỏi về vấn đề Đông Dương. Phương quen thuộc với OSS và AGAS hơn là tôi đối vối Mặt trận Việt Minh của ông và ông ta cũng biết về tôi nhiều hơn là tôi biết về ông ta. Tôi lắng nghe ông lái một cách tài t́nh câu chuyện sang mục đích thực sự của cuộc viếng thăm.
Với một chút tự hào, Phương đă kể lại về các đồng sự của ông ở Đông Dương và Trung Quốc đă làm việc một cách rất chặt chẽ với một số người Mỹ của tướng Chennault và OSS, đă cung cấp tin tức về đội h́nh chiến đấu của quân Nhật và về các mục tiêu t́nh báo. Phương có nói đến hoạt động t́nh báo của OSS - AGAS mà Việt Minh có góp phần giải thoát “nhiều” phi công của Mỹ qua việc cung cấp chỗ trú ẩn và hướng dẫn họ đến nơi an toàn.
Sau đó Phương trượt nhẹ sang lĩnh vực chính trị, b́nh luận rằng người Việt Nam rất biết ơn người Mỹ về sự thông cảm đối với quyền lợi các dân tộc, sự quan tâm của họ đối với vấn đề thuộc địa và đă ghi nhận rằng cố Tổng thống Roosevelt trong nhiều dịp đă công khai ủng hộ độc lập chính nghĩa của họ. Tôi đă ngắt lời và nhắc với ông là tôi không phải là một nhà ngoại giao, cũng chẳng phải là một nhà chính trị mà chỉ là một quân nhân. Với nụ cười thông cảm, Phương chống chế là đă quá phấn khởi v́ đă có cơ hội để diễn đạt trước một quan chức Mỹ về những t́nh cảm tốt đẹp của nhân dân ông ta đối với nước Mỹ. Rồi sau đó Phương lại nói về các khả năng quân sự của Việt Minh.
Theo Phương, Việt Minh mặc dầu là một mặt trận chính trị nhưng cũng đồng thời là một lực lượng vũ trang, tổ chức thành những đơn vị du kích và đă tích cực tiến hành một cuộc chiến tranh không chính thống chống lại Nhật. Phương nói rộng ra là bên cạnh những trận ném bom của Đội không quân thứ 14 th́ không c̣n có một lực lượng nào khác ngoài Việt Minh đă chống cự lại với “kẻ thù chung”. Người Pháp “chưa bao giờ đánh lại bọn phát xít ở Đông Dương và đă từ lâu họ không c̣n ở đó nữa”. C̣n Việt Minh lại có lực lượng trên đất liền, đă quyết tâm và có khả năng “chiến đấu sát cánh” với Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ.
Trưa đến, tôi mời Phương dùng cơm ở nhà ăn OSS rồi sau đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Phương tỏ ra vui ḷng được nói chuyện thêm nhưng đề nghị đến ăn ở một khách sạn địa phương Trung Quốc cho đỡ lộ liễu. Chúng tôi liền đến một quán cơm b́nh thường ở gần trường Đại học Vân Nam và các toà lănh sự Mỹ, Anh. Trong bữa ăn, tôi khuyến khích Phương nói về Việt Minh, lập trường, mục đích của Mặt trận và theo ư họ th́ làm thế nào để có thể giúp cho Đồng minh đánh Nhật và họ có thể mong đợi ǵ ở các nước Đồng minh. Theo lời phát biểu của Phương (mà tôi đă tóm tắt lại để ghi vào băng ngay hôm đó): Việt Minh là một liên minh các đảng phái của những người quốc gia Việt Nam dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức theo đường lối của Đảng nhằm mục đích trước mắt là đánh đuổi người Nhật và ngăn ngừa Pháp quay trở lại. Cuối cùng, Việt Minh hy vọng thành lập được một “Cộng ḥa Đông Dương độc lập, dân chủ”. Phương tin rằng mặt trận có thể cung cấp cho Đồng minh những tin tức có ích về người Nhật, người Pháp và bọn bù nh́n ở Đông Dương. Họ có thể cộng tác với người Mỹ trong các hoạt động phá hoại, biệt kích và các trận đánh khác chống Nhật; họ sẽ hướng dẫn và giáo dục cho người Việt tiếp tục giúp đỡ cho các nhân viên hàng không Mỹ bị hạ và đưa họ đến những nơi an toàn. Đổi lại, Việt Minh chỉ yêu cầu Mỹ công nhận Liên minh Độc lập Đông Dương là tổ chức duy nhất hợp pháp và được phép đại diện cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống bọn phát xít và yêu cầu Mỹ cung cấp cho họ phương tiện để chiến đấu bên cạnh các nước Đồng minh. Khi tôi hỏi lại họ cần ǵ th́ Phương đáp: “Vũ khí, đạn dược, cố vấn, huấn luyện viên và phương tiện thông tin liên lạc với Bộ Tư lệnh Đồng minh”.
Phương chờ trả lời nhưng tôi đă cảm ơn và nói rằng đề nghị của họ thật phong phú và rất hay nhưng tôi c̣n cần phải bàn với các cộng sự của tôi. Trong khi đó th́ làm thế nào có thể gặp được “tướng” Hồ? Phương nói là trước đây mấy hôm ông có đến Côn Minh, nhưng nay đang trên đường trở về Việt Nam và có thể đang dừng lại ở Tŕnh Tây. Phương có thể báo tin cho ông Hồ và tin chắc rằng ông sẽ vui ḷng gặp tôi. Ông nói với Phương là tôi có thể đến Tŕnh Tây nhưng phải đợi đến sáng hôm sau mới khẳng định chắc chắn được điều đó.
Chúng tôi rời khách sạn khá muộn. Ngay chiều hôm đó, tôi bàn với Helliwell và Wampler về cuộc gặp gơ với Phương. Kế hoạch chung nhằm cộng tác với người Việt Nam mà chúng tôi đồng ư tiến hành mấy hôm trước nay lại có thêm một khía cạnh mới qua lời phát biểu khá đặc biệt của Phương. Sự khẩn khoản của họ đối với vấn đề công nhận chính thức là một vật chướng ngại quan trọng. Helliwell đồng ư với quan điểm được Heppner ủng hộ là không có vũ khí nào do OSS cung cấp lại được sử dụng để chống lại người Pháp. Nhưng Helliwell vẫn giữ quan điểm của ḿnh là trong khi AGAS sử dụng Việt Minh vào các hoạt động của họ th́ chúng ta cũng có thể mở rộng mạng lưới đó ra để bao gồm cả việc thu thập t́nh báo và đánh du kích.
Đêm đó, Heppner đă từ Trùng Khánh đến và chúng tôi đă đề đạt ngay ư kiến với Heppner. Thoạt đầu Heppner đă gạt bỏ và cho rằng ư kiến đó không thể thực hiện được về phương diện chính trị; ông đă gặp rất nhiều khó khăn với tướng Hurley(13) chung quanh việc những người Cộng sản Trung Quốc. Ông nói riêng cho chúng tôi hay rằng người phụ tá của ông, đại tá Bird(14), lúc đó đang công tác ở Diên An với đại tá David D. Barrett(15) để thu xếp một sự liên minh giữa những người Quốc dân đảng của Tưởng với nhũng người Cộng sản của Mao; và Hurley đă rất phẫn nộ với OSS, cho rằng OSS đă chen vào một việc mà ông cho đó là của Bộ Ngoại giao. Heppner tin chắc rằng người Trung Hoa sẽ đưa ra mọi sự phản đối về bất cứ một sự cộng tác nào với những người Cộng sản Việt Nam. Mà cả đến Đại sứ quán của chúng ta nữa cũng vậy. Và chúng ta cũng không được quên Phái đoàn Quân sự Pháp, chắc chắn là họ sẽ không hài ḷng nếu họ thấy được là chúng ta đang điều đ́nh với Việt Minh.
Nhưng khi Heppner đă biết được người Pháp và người Trung Hoa tiếp đón tôi như thế nào th́ ông cũng chấp nhận lập trường của chúng tôi, không có ǵ thay đổi thêm. Ông căn dặn tôi không được làm ǵ chống đối với người Trung Quốc cũng như với người Pháp v́ ông và Whitaken cũng sẽ phải làm việc với họ ở Trùng Khánh, c̣n tướng Donovan th́ đă được Nhà Trắng chỉ thị cho phải hợp tác với cả đôi bên. Chính v́ thế mà vấn đề làm việc với Việt Minh đă được để lại sau này sẽ xem xét khi t́nh h́nh phát triển thêm.
Sáng hôm sau, Phương, rất đúng giờ, đến cơ quan của tôi và cho biết đă gửi thư báo cho “tướng” Hồ nhưng không chắc là thư sẽ đến kịp trước khi ông Hồ rời đi biên giới. Phương gợi ư là nếu tôi có đến Tŕnh Tây th́ tôi nên dừng lại ở một quán trà nào đó và t́m một người Trung Hoa nói thạo tiếng Anh tên là Wang Yeh Li, người này có thể giúp tôi gặp được ông Hồ nếu ông c̣n ở đó.
Chú thích :

(1) trưởng ban mật vụ SI, OSS Côn Minh
(2) Kế hoạch hoạt động của OSS ở Bắc vĩ tuyến 16 Đông Dương
(3) Cơ quan nghiên cứu và phân tích, OSS
(4) Trợ lư Tham mưu trưởng, Cục tác chiến, VVD
(5) Chennault, “Con đường của một chiến sĩ”
(6) Tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ và Tổng đại diện Pháp ở Đông Dương sau khi Aymé và Mordant bị bắt.
(7) Thị trấn biên giới Trung Hoa, giáp với thị trấn Móng Cái
(8) Đầu tháng 3, Helliwell đă cho phép lấy ở kho OSS 6 khẩu Colt 45 và nhiều đạn giao cho AGAS để chuyển cho ông Hồ
(9) c̣n gọi là Fu Hsing Chen, một thị trấn cổ, cách Côn Minh 200 dặm về phía nam.
(10) Đây có sự nhầm lẫn. Chỉ có một phái đoàn quân sự Pháp bên cạnh chính phủ Trung Quốc ở Trùng Khánh, dưới quyền tướng Pechkov; c̣n M.5 ở Trùng Khánh chỉ là một đơn vị của SLFEO/Calcutta, phụ trách về các hoạt động bí mật ở Đông Dương
(11) đại diện OSS ở Đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh
(12) Hội tương tế và Hội thể thao của người An Nam ở Vân Nam
(13) Đại sứ mới thay cho Gauss từ tháng 1-1945
(14) đại diện OSS/Chiến trường Trung Hoa
(15) thủ trưởng Nhóm quan sát Mỹ (DIXIE) ở hành dinh Cộng sản Trung Quốc ở Diên An

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: