֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong giòng lịch sử

 

 

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ Tìm IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lý

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đình Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Ðề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lãnh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Ký Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Bò

֎ Băng Ðảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Hòa Bình

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Diễn Đàn ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa ֎ Đà Lạt

 

 

BÀI ĐANG VIẾT CHƯA XONG

 

Kim Âu (tổng hợp)

 

Vừa qua trong khi tìm tài liệu về cộng đồng Philadelphia trên liên mạng, bất ngờ chúng tôi lọt vào facebook của cậu Ngô Kỷ và thấy cậu này có một phần đề cập đến việc lễ giỗ Richard Nixon. Tất nhiên việc giỗ người nào là quyền tự do của con cái cháu chắt đối với tiền nhân của họ chẳng ai cấm cản nhưng việc Ngô Kỷ tổ chức giỗ Nixon công khai lên facebook mạng cho thấy cái đầu của cậu này có vấn đề. Đối với những người Việt Nam có kiến thức tối thiểu về lịch sử chiến tranh Việt Nam không thể có người nào không cảm thấy sôi máu với hai con  quỷ Nixon - Kissinger do đó hành động của Ngô Kỷ cho thấy một là cậu ta không biết chút nào về lịch sử, hai là óc nô lệ vọng ngoại của cậu ta thuộc loại thượng thừa nên mới có hành động như đã nói.....dưới đây chúng tôi tổng hợp lại một số tài liệu lích sử để lớp người chưa hiểu biết lĩnh hội chút kiến thức về Nixon - Kissinger để tránh việc vì dốt nát mà "thờ giặc làm cha" như Ngô Kỷ.

 

NIXON- KISSINGER KẾT THÚC

CHIẾN TRANH VIỆT NAM

TRONG Ô NHỤC

 

Năm 1968, năm Richard Nixon được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ. Chiến tranh Việt Nam sau khi quân đội Hoa Kỳ theo lệnh của tổng thống Johnson ồ ạt đổ quân vào Việt Nam, liên tiếp tăng quân để "Tìm Diệt và Bình Định" đã khiến tình hình Việt Nam trở thành hỗn mang không thể tưởng tượng được, và chi phí của nó về tiền bạc và nhân mạng, nhất là nhân mạng đã trở nên quá cao để biện minh với dân chúng Mỹ và tầng lớp phản chiến cho việc tiếp tục theo đuổi cuộc chiến đến khi đạt được một thắng lợi. Nixon biết rằng không thể chiến thắng trong cuộc chiến tranh nên điều ông ta quan tâm chính là tìm kiếm một cách thoát ra tmà vẫn giữ được thể diện của Hoa Kỳ. Nền tảng của chính sách Nixon là "Hòa bình trong danh dự" - quan niệm rằng Hoa Kỳ phải tiếp tục chiến đấu để thực hiện cam kết với đồng minh của mình, Nam Việt Nam. Không làm như vậy sẽ là một sự phản bội  trắng trợn sẽ làm suy yếu lòng tin của nước Mỹ trên thế giới và phê phán không khoan nhượng của những quốc gia thân Mỹ. Tiến sĩ Henry A. Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Nixon, đã giành được tín nhiệm để nhận trách nhiệm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam với những điều khoản mà ông ta nói sẽ làm cho khu vực an toàn hơn và hệ thống quốc tế ổn định hơn.

Robert Dallek đã viết trong tờ Washington Post, "Nixon vận động năm 1968 tuyên bố có một" kế hoạch bí mật" để chấm dứt chiến tranh, nhưng sau khi vào Nhà Trắng năm 1969, ông và Kissinger nhanh chóng thừa nhận rằng chiến thắng quân sự ở Việt Nam không thể đạt được. Tại Sàigòn, "tân Tổng thống nói với cố vấn an ninh quốc gia năm đó," khuynh hướng chiến đấu để chiến thắng. Nhưng bạn và tôi biết nó sẽ không xảy ra - nó là không thể. "[Nguồn: Robert Dallek, Washington Post, 20 Tháng 5, 2007

"Sự trung thực cá nhân như vậy không có nghĩa là công khai - hãy để một mình rút lui." Tuy nhiên, "mặc dù chủ nghĩa thực dụng đằng sau hậu trường của Nixon và Kissinger, họ vẫn tiếp tục chiến đấu trong bốn năm vô cùng ác liệt đẫm máu -  tràn vào Campuchia vào mùa xuân năm 1970, mở một cuộc tấn công của Việt Nam Cộng Hòa vào Nam Lào  năm 1971 và  đánh bom Bắc Việt suốt 12 ngày đêm vào dịp Lễ Giáng sinh  năm 1972. Trong suốt thời gian đó, họ vẫn biết rằng chiến thắng là không thể, nhưng hy vọng rằng áp lực quân sự vào Hà Nội sẽ buộc Bắc Việt Nam ký kết bản hiệp định với cái mà Nixon gọi là "Hòa Bình trong Danh Dự " - một thỏa thuận có thể chấm dứt cam kết của Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng Hòa trong khi vẫn ẢO TƯỞNG RẰNG bảo vệ được uy tín quốc tế của Hoa Kỳ. Một thứ uy tín tự phong đã được tăng cường bằng cách kết thúc một cuộc chiến tranh mà nó không thể giành chiến thắng - một cuộc chiến tranh đã tiêu phí cạn kiệt các nguồn nhân lực và tài chính quan trọng của đất nước thay vì nó có thể sử dụng tốt hơn ở nơi khác, lĩnh vực khác. 

Học thuyết Nixon

Tháng 11 năm 1968, Richard Nixon đã giành được chiến thắng một cuộc bầu cử kết quả sít sao với Phó Tổng thống Hubert Humphrey. Trong cuộc bầu cử, Nixon hứa với nước Mỹ sẽ chấm dứt chiến tranh trong sáu tháng,  về cái gọi là "hòa bình trong danh dự" thông qua chiến lược Việt Nam hóa và thương lượng. Ông nói Việt Nam hóa sẽ giúp người miền Nam tự vệ mà không cần đến lính Mỹ.

Trong nửa đầu năm 1969 sau khi nhậm chức, mặc dù hứa hẹn chấm  dứt chiến tranh đem lại hòa bình  ở Việt Nam nhưng Nixon nói với các đệ tử của ông khi nhận ra "Nam Việt Nam có lẽ chẳng bao giờ tồn tại được," Tổng thống nói trên băng. Nixon bèn làm ngược lại - leo thang chiến tranh Việt Nam. Tháng 4 năm đó, số binh lính Mỹ ở Việt Nam đạt mức cao nhất trong cuộc chiến lên đến 543, 400 quân nhân. Tháng 7 năm 1969, ông tuyên bố thu hồi 60.000 quân Mỹ từ Việt Nam, trong khi bí mật ra lệnh ném bom các vị trí của Việt Cộng tại Campuchia.Trong khi chiến tranh ở Việt Nam tăng cường ác liệt, ngoại trưởng Henry Kissinger của Nixon đã theo đuổi các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris với người đồng cấp phía Bắc Việt, Lê Đức Thọ.

Nhưng chắc chắn không ai có thể tiên đoán vào năm 1969 rằng chính quyền Nixon cuối cùng sẽ đồng ý với một thỏa thuận chính trị để rút quân đúng hơn là tháo chạy khỏi Miền Nam Việt Nam mà không cần Bắc Việt Nam cùng làm như vậy. Khốn nạn thay đó là những điều đã xảy ra vào ngày 27 -1- 1973, khi Kissinger hí hửng làm trò sau khi ký vào bản Hiệp Định Paris vô   cùng nhục nhã cho một cường quốc như Hoa Kỳ và đám tay sai bất hạnh là Việt Nam Cộng Hòa.  Nhưng đó là chuyện   của năm 1973.

Cái gọi là - 'kế hoạch bí mật' của Nixon - hay "Học thuyết Nixon" để chấm dứt chiến tranh-được công bố vào tháng 7 năm 1969. Nó kêu gọi Nam Việt Nam và các quốc gia Châu Á khác tự tin hơn về các vấn đề quốc phòng thông qua - Vietnamization " Người Việt Nam chiến đấu chống Việt Cộng mà không có quân đội Hoa Kỳ - trong khi Hoa Kỳ tìm kiếm một hiệp định hòa bình với Bắc Việt, sử dụng vũ khí ném bom và các phương tiện nặng nề khác nhằm gây áp lực để Bắc Việt đưa ra những điều kiện thuận lợi cho Hoa Kỳ tại bàn hội nghị ở Paris 

Sự leo thang mới này đã gây ra nhiều cuộc biểu tình phản kháng chống chiến tranh rầm  rộ, đông đảo và chia rẽ cay đắng hơn. Vào ngày 4 tháng 5 năm 1970, bốn sinh viên đã bị Vệ Binh Quốc gia Ohio bắn chết tại Kent State. Họ đã phản đối vụ đánh bom Campuchia. Các tổ chức như Chiến dịch Cựu chiến binh Việt Nam chống lại Chiến tranh,  những người đứng sau phong trào phản chiến cho thấy đó không chỉ là "những học sinh hèn nhát vì sợ phải gia nhập quân đội", . [Nguồn: Lonely Planet] 

 

Chính sách Việt Nam hoá dưới thời Nixon

Số binh lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã giảm từ đỉnh điểm 554.000 vào tháng 4 năm 1969 xuống còn 475.200 vào cuối năm 1969. Đến thời điểm này 40.024 lính Mỹ đã bị giết. Khi kết thúc nhiệm kỳ đầu tiên của Nixon năm 1972, số lượng thương vong của người Mỹ mỗi tháng đã giảm từ 1.200 xuống còn 30. Năm 1973 số quân Mỹ tại Nam Việt Nam giảm xuống còn 30.000

Chương trình "Vietnamization" do Nixon và người Mỹ thi thố tại Việt Nam do quân đội Creighton Abrams, thực hiện vào cuối giai đoạn chiến tranh không khác gì chương jaumisation của Pháp trong thời kỳ Chiến Tranh Đông Dương lần thứ nhất đã kêu gọi Hoa Kỳ vận động và huấn luyện các lực lượng Nam Việt Nam để đảm bảo an ninh cho đất nước của họ. ông Robert Dallek đã viết trong tờ Washington Post: "Thực tế, Nixon hy vọng rằng khi quân đội miền Nam Việt Nam đứng lên, Hoa Kỳ sẽ đứng vững trong cuộc chiến chống lại các cuộc tấn công khủng bố, xuống." 

Chiến lược "Vietnamization" đã gây ra cái chết của ít nhất 10.000 người Mỹ và vô số những người Việt Nam, cộng thêm hàng tỷ đô la. Và nó đã bị hỏng ngay từ đầu. Tất cả những người mơ mộng hoang dã nhất của Washington đều biết rằng người dân miền Nam Việt Nam không thể đáp ứng tối hậu thư của chúng ta - đặc biệt là yêu cầu của chúng ta tạo ra một quốc gia nổi tiếng đủ mạnh để kiểm soát những cuộc ganh đua kéo dài từ lâu. Và nhiều năm huấn luyện bởi Hoa Kỳ không thể tạo ra sự khác biệt vì yếu tố cốt lõi còn lại không phải là kỹ năng chiến đấu của miền Nam Việt Nam, thay vào đó là niềm tin vào một quốc gia có những giá trị cao quý để người ta chiến đấu vì nó.

Trong khi đó, cuộc chiến nổ ra. Mô tả về Huế năm 1971, một quan chức Mỹ đã nói với David Alexander của tạp chí Smithsonian, "Tất cả các ngôi mộ của hoàng gia đều là đất không có người đàn ông. Bạn sẽ có trong một cái cần cẩu ... và bạn sẽ phải bay quanh núi vì Việt Cộng sẽ bắn vào bạn, và bạn không biết vào lúc nào cho dù bạn có thể đến được vì lực lượng quân sự đã kiểm soát khu vực đã hành quân rất nhiều lần.

"Vào tháng 6 năm 1971, Sư đoàn Không quân 101, đóng quân ngay bên ngoài Hué, đã đứng ngoài cuộc chiến tích cực, nó đã cung cấp sự an toàn cho phép các đội đào tạo/tư vấn của tôi và tôi tiếp tục xây dựng trường học và đường xá và đào tạo các quan chức địa phương. khi mà sự bảo vệ đã tạm cho là an toàn, các đội của tôi vẫn được trông đợi đia vào một vùng nông thôn đang ngày càng trở nên nguy hiểm hơn . Như lời khuyên của chính phủ Hoa Kỳ, tôi là một mục tiêu dễ dàng bất cứ khi nào Việt Cộng có thể muốn đưa tôi sang bên kia thế giới, một trường hợp lựu đạn ném vào dưới giường của tôi, tổi vẫn ngủ với một khẩu M-16 dựng bên giường và có một nhóm bốn lính canh Việt Nam đáng ngờ mà tôi hy vọng ít nhất sẽ bắn một cảnh báo trước khi chạy trốn.và khói đen treo trong một pall trên đường phố bây giờ kẹt với những người sợ hãi và âm thanh vang dội với những phát đạn bắn ra và kính cửa vung vãi. Không có gì chúng tôi có thể làm được, nhưng nhìn chằm chằm những dòng người đang hét toáng lên, chạy về phía con đường Đà Nẵng. "Không ai biết điều đó vào thời điểm đó, nhưng trận đánh ở phía bắc và tây Hué đêm đó - 2 tháng 5 năm 1972 - là bước ngoặt trong cuộc chiến. Về phía quân đội miền Nam, nhiếp ảnh gia Don McCullin đã nhớ lại rằng vào năm 1972, "Họ đã vứt bỏ vũ khí và vũ khí của họ, họ đã trốn khỏi chiến trường." Nếu thành phố rơi, con đường tới Đà Nẵng sẽ mở ra quân đội Bắc Việt, ba đồng nghiệp Hoa Kỳ của tôi ở Hué và tôi không tin rằng chúng ta sẽ bị kéo ra khỏi đường nếu thành phố rơi xuống.Chúng tôi biết rằng bất kỳ tên gián điệp nào gửi tới để cứu chúng tôi đều bị người Việt Nam tuyệt vọng trốn thoát. bởi vì các tàu sân bay của Hoa Kỳ đã đánh bắt quân Bắc Việt tiến vào thời buổi sáng chỉ cách các bức tường của thành phố và tất cả ngoại trừ việc tiêu diệt chúng. "

"Để làm cho bộ phim hoạt hình Việt Nam hoá, việc rút quân phải được dần dần và dễ dàng giải thích cho công chúng Mỹ. Lực lượng đào tạo của Hoa Kỳ bỏ lại phía sau phải đủ lớn để cung cấp dấu hiệu cam kết của chúng ta vào ngày 6 giờ. các nhà tư vấn không vũ trang như tôi bắt tay với những nông dân hạnh phúc sẽ ủng hộ sự sai lầm mà Vietnamization đang làm việc. Nhà Trắng hy vọng rằng chiến lược này sẽ giữ cho ngôi nhà của những lá bài đúng cách trong ít nhất hai năm, cung cấp những gì mà Kissinger gọi một cách khôn ngoan là " có thể che giấu sự thất bại của Mỹ bằng cách tuyên bố rằng số phận của Nam Việt Nam giờ đây là trách nhiệm của người miền Nam Việt Nam Nếu họ không muốn tự do đủ để thắng, chúng tôi đã làm hết sức mình.

Peter Spiegel đã viết trong tờ Los Angeles Times, "Sự thay đổi của Abrams ở Việt Nam sau khi ông tiếp quản từ Tướng William C. Westmoreland năm 1968, trong đó có một nỗ lực tăng cường tư vấn và một chương trình bình định nhanh, và việc mở rộng quân đội Nam Việt Nam - cuối cùng họ bắt đầu làm việc vào đầu thập niên 1970, các học giả quân sự cho rằng những nỗ lực này đã bị suy yếu, luận án của họ đi kèm, do thiếu ý chí chính trị ở nhà, buộc Quân đội Cộng hòa Việt Nam (ARVN) và chính quyền Sài Gòn nó một mình trước khi chúng đã sẵn sàng. [Nguồn: Peter Spiegel, Los Angeles Times, 24 tháng 11, 2006]

"Tướng Westmoreland thích chiến đấu với quân đội Mỹ, ông đã thấy nỗ lực cố vấn để giúp cho miền Nam Việt Nam trở thành trung học", Kalev Sepp, một chuyên gia chống nổi dậy thuộc Trường Đại học Hải quân, người đã thường xuyên tới Iraq để tư vấn cho các chỉ huy Hoa Kỳ . "Khi Abrams tiếp quản, ông quay lại và ông nhấn mạnh hệ thống tư vấn là một phần của cách mà người Mỹ có thể giải toả."

"Có một tình cảm đáng kể đối với những người thực sự học tập ở Việt Nam, và lý tưởng là phục vụ ở đó, rằng cách tiếp cận chiến tranh sau khi Westmoreland còn lại là trên một đường đua mới", Đại Tá Stuart A. Herrington, một cựu chiến binh ở Việt Nam đã khuyên Lầu Năm Góc về chính sách Iraq. "Đó là một sự thay đổi triệt để trong cách tiếp cận chiến tranh, và không có vấn đề gì ngay cả những kẻ thù của Bắc Việt bây giờ thừa nhận rằng cách tiếp cận thứ hai cực kỳ cực kỳ nguy hiểm." >>>

"Cựu chiến binh của những năm sau cuộc xung đột ở Việt Nam, một số người hiện đang giữ các vị trí ở các trường đại học chiến tranh hàng đầu của quân đội, thường mô tả một chiến lược bắt đầu hoạt động ngay cả khi lực lượng chiến đấu bắt đầu rút lui hồi những năm 1970. James Willbanks, cố vấn quân sự tại Việt Nam, người đứng đầu bộ phận lịch sử của Bộ Tư lệnh và Đại học Staff Staff, cho rằng các nỗ lực bình định - chiến lược đẩy lực lượng Nam Việt Nam vào nông thôn để cung cấp một cảm giác an toàn về thể chất và tinh thần - phần lớn đã thành công 1972. Ông nói thêm rằng QLVNCH thậm chí còn có khả năng giữ được miền Nam mà không có quân đội chiến đấu của Mỹ cho đến khi quốc hội quyết định rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Sài Gòn vào năm 1973.

 "Sự sợ hãi của họ là, giống như nỗ lực của Việt Nam hóa cuối cùng, một sự không muốn của công chúng Mỹ để hỗ trợ cho cuộc chiến." Chiến tranh Việt Nam đã kéo dài đến nay và việc rút quân đã kéo dài đến mức nỗ lực cố vấn của Hoa Kỳ đã mất hiệu quả , "Trung tướng Quân đội đã nghỉ hưu Walter Clark, người từng là cố vấn quân sự cấp tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long năm 1971 và 1972 trước khi trở thành chỉ huy của Citadel, một trường cao đẳng quân sự tư nhân ở South Carolina" Tôi không thể chộp lấy các ngón tay của tôi một loạt máy bay trực thăng mà Việt Nam có thể cần."

Việt Nam thực hành

Trong những năm 1971 và 1972, cộng sản đã phải đối mặt với một số vấn đề nghiêm trọng không liên quan đến các hoạt động tấn công của Hoa Kỳ. Chính phủ Sài Gòn bắt đầu có được một số hỗ trợ ở đồng bằng sông Cửu Long do thực hiện chương trình cải cách "đất-người cày" do Chính phủ Thiệu gây ra vào năm 1970. Gần 400.000 nông dân đã nhận được tổng cộng 600.000 ha, và trong năm 1972, thuê nhà đã giảm từ khoảng 60 đến 34 phần trăm ở một số khu vực nông thôn. [Nguồn: Thư viện Quốc hội]

Tại đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh quanh Sài Gòn, chương trình đã làm việc rất tốt. Nó phân phối lại khoảng một nửa số riceland trong đồng bằng. Tuy nhiên, phần lớn Quân Đoàn I và Quân Đoàn II, Chính Phủ đã phát hành tương đối ít thửa đất. Ở vùng cao, Chính phủ đã không thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để thực hiện những cải cách này. Ở vùng đất thấp, sự chống đối cứng cỏi của các quan chức địa phương và chủ nhà, cùng với sự khan hiếm đất trồng trọt và các cơ hội việc làm phi nông nghiệp đã ngăn cản việc phân phối lại. [Nguồn: Mark Moyar, Quan điểm của người dân trong thập kỷ cuối cùng của Việt Nam, Viện Hải quân Báo chí, 1997 + +] Chính phủ phân bố tương đối ít thửa đất. Ở vùng cao, Chính phủ đã không thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để thực hiện những cải cách này. Ở vùng đất thấp, sự chống đối cứng cỏi của các quan chức địa phương và chủ nhà, cùng với sự khan hiếm đất trồng trọt và các cơ hội việc làm phi nông nghiệp đã ngăn cản việc phân phối lại. [Nguồn: Mark Moyar, Quan điểm của người dân trong thập kỷ cuối cùng của Việt Nam, Viện Hải quân Báo chí, 1997 + +] Chính phủ phân bố tương đối ít thửa đất. Ở vùng cao, Chính phủ đã không thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để thực hiện những cải cách này. Ở vùng đất thấp, sự chống đối cứng cỏi của các quan chức địa phương và chủ nhà, cùng với sự khan hiếm đất trồng trọt và các cơ hội việc làm phi nông nghiệp đã ngăn cản việc phân phối lại. [Nguồn: Mark Moyar, Quan điểm của người dân trong thập kỷ cuối cùng của Việt Nam, Viện Hải quân Báo chí, 1997]

Thêm vào đó, một Chương trình Lực lượng Phòng vệ Nhân dân bắt đầu vào khoảng thời gian này đã có một số thành công trong việc giải phóng quân đội VNCH cho nhiệm vụ chiến đấu, khi quân đội Hoa Kỳ dần dần rút lui. Mặc dù lúc đó chưa rõ ràng liệu việc rút quân của Hoa Kỳ có làm cho QLVNCH sụp đổ ngay lập tức, như đã dự đoán của cộng sản, thất bại quyết định của một cuộc hành quân QLVNCH gắn liền với đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào vào tháng 3 năm 1971 là một dấu hiệu sớm. Tuy nhiên, vào thời điểm thất bại của Quân đội VNCH, cộng sản đã phải đối mặt với tinh thần ngày càng xấu đi và với số lượng quân đội giảm; tỷ lệ sa thải gia tăng và mức tuyển dụng giảm đã làm giảm sức mạnh PLAF từ 250.000 năm 1968 xuống dưới 200.000 vào năm 1971. * 

Thành công của Nhóm chiến lược Việt Nam của Nixon: Ellsworth Bunker, William Colby và Gen Creighton Abrams?

Lewis Sorley đã viết trong tờ New York Times: "Rất ít người có thể nhận thức được những thay đổi thành công trong chiến lược đã được thực hiện trong những năm sau của cuộc xung đột này". Ellsworth Bunker, người đã trở thành đại sứ Mỹ đến Nam Việt Nam vào năm 1967, William Colby, nhân viên CIA phụ trách các nỗ lực bình định nông thôn, và tướng Creighton Abrams, người đã trở thành chỉ huy hàng đầu Hoa Kỳ vào năm 1968. Nguồn: Lewis Sorley, New York Times, 17 tháng 10, 2009, Trung tá (Quân đội Hoa Kỳ, nghỉ hưu) Lewis Sorley nắm giữ các bằng cấp sau: BS của Học viện Quân sự Hoa Kỳ, Thạc sỹ từ Đại học Pennsylvania, và Tiến sĩ của Đại học Johns Hopkins. Ông là tác giả của cuốn sách "A Chiến tranh tốt hơn:Những chiến thắng chưa được kiểm chứng và bi kịch cuối cùng của những năm cuối của nước Mỹ ở Việt Nam "(1999).

1) Chống lại một cuộc chiến tranh: Abrams, Bunker và Colby đồng ý rằng cuộc chiến sẽ chiến đấu - và chiến thắng hoặc thua - ở các làng mạc. Họ đã quyết định ưu tiên ngang nhau trong tất cả các khía cạnh quan trọng của chiến tranh - do đó việc cải thiện lực lượng vũ trang của Nam Việt Nam và loại bỏ các căn cứ bí mật của Việt Cộng và những nơi ẩn náu ở nông thôn cũng được nhấn mạnh cùng với các hoạt động chiến đấu lớn.

2) Các chiến dịch tái thiết chiến đấu: Chiến lược ban đầu ở Việt Nam là sử dụng các đơn vị lớn để tìm kiếm và tiêu diệt - thường là trên mặt đất của kẻ thù đang chọn trong rừng sâu. Abrams đã quyết định thay vào đó hãy thử các hoạt động "rõ ràng và giữ chân", trong đó các tuần tra nhỏ đã được gửi tới các làng để bảo vệ dân chúng. Những quân đội này theo sau là các lực lượng an ninh Nam Việt Nam - mà Abrams chắc chắn sẽ được đào tạo và trang thiết bị tốt hơn và được lồng ghép vào quân đội thường xuyên - để cung cấp cho "tổ chức".

3) Ngăn chặn việc sử dụng vũ lực: Ngay từ đầu, Abrams nói, "Vấn đề của tôi có màu xanh lam." Theo đó anh ta có nghĩa là các lực lượng thân thiện (thường được miêu tả màu xanh da trời trên các bản đồ chiến trận, tương phản với kẻ thù được thể hiện bằng màu đỏ) đã gây ra "thiệt hại nghiêm trọng" cho người dân miền Nam và tài sản của họ. Anh ta sử dụng hỏa lực mạnh như pháo binh và chiến thuật không kích. \: / tương phản với kẻ thù có màu đỏ) đã gây ra "thiệt hại nghiêm trọng" bất hợp pháp cho người dân miền Nam Việt Nam và tài sản của họ. Anh ta sử dụng hỏa lực mạnh như pháo binh và chiến thuật không kích. \: / tương phản với kẻ thù có màu đỏ) đã gây ra "thiệt hại nghiêm trọng" bất hợp pháp cho người dân miền Nam Việt Nam và tài sản của họ. Anh ta sử dụng hỏa lực mạnh như pháo binh và chiến thuật không kích. \: /

4) Tạo ra một chính quyền trung ương hiệu quả: Như Nguyễn Văn Thiệu, người đã trở thành Tổng thống Nam Việt Nam năm 1967, đã có kinh nghiệm và ảnh hưởng, những người Mỹ cao cấp coi ông là "viên chức cố định số 1". Ông đã đi khắp nơi, quảng bá và đánh giá các chương trình địa phương. Và đến năm 1972, sáng kiến ​​"Land to the Tiller" của ông đã đạt được cải cách ruộng đất thật sự, phân phối hai triệu rưỡi mẫu đất cho gần 400.000 nông dân.

5) Hỗ trợ các chính quyền địa phương: Ở Việt Nam, các thôn nông thôn đã có thể bầu các quan chức của họ, những người này đã được đưa đến các buổi tập huấn tại thành phố cảng Vũng Tàu. Tổng thống Thiệu đã nói chuyện với mọi tầng lớp, nhấn mạnh rằng họ cần phải là "các tổng thống nhỏ" và tận dụng các nguồn lực mà chính phủ trung ương sẽ cung cấp cho tăng trưởng kinh tế, y tế và trường học.

6) Thu thập thông tin tình báo: "Trí thông minh là phần quan trọng nhất của điều nguy hiểm này", Abrams nói với một sĩ quan thăm viếng. "Và nếu đó là tốt, chúng tôi có thể xử lý bất cứ điều gì." Cách tốt nhất để rễ căn cứ bí mật của kẻ thù ở Việt Nam là lấy thông tin tốt từ dân làng và "ralliers", những người nổi dậy của Việt Cộng đã chuyển sang bên. \: /

7) Xây dựng nền kinh tế: Việt Nam phụ thuộc vào gạo, và chiến đấu rộng rãi và lợi ích của kẻ thù trong những năm đầu đã lấy nhiều diện tích đất canh tác. Các nỗ lực tinh thần đã đưa một phần đất đai đó trở lại sản xuất và mở lại thị trường địa phương, trong khi việc đưa ra "phép lạ gạo biến đổi gen" làm tăng đáng kể năng suất. Ở Afghanistan, việc tìm kiếm các cây trồng thay thế có thể cho nông dân đang phát triển trồng cây thuốc phiện dường như là một ngành kinh doanh đầu tiên.

8) Cải thiện an ninh: Bảo vệ người dân (không tính cơ thể, như thời kỳ trước đó) đã trở thành thước đo tiến bộ ở Việt Nam. Các số liệu thích hợp để theo dõi tại Afghanistan có thể là tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ trẻ em đi học và dữ liệu về sức khoẻ, cùng với sự tự do di chuyển trong và giữa các trung tâm dân cư.

9) Kiểm soát biên giới: Ở Nam Việt Nam, các lực lượng đồng minh không bao giờ có thể niêm phong biên giới với Campuchia, Lào hoặc Bắc Việt Nam. Những điều cấm tự do để đi ra ngoài miền Nam với lực lượng mặt đất đã cho phép địch sử dụng các khu vực biên giới để đào tạo, cung cấp các tuyến đường và khu bảo tồn.

10) Duy trì sự hỗ trợ chính trị ở nhà: Tất cả những gì đã được hoàn thành trên chiến trường trong những năm cuối của Việt Nam đã bị mất đi khi Quốc hội, mệt mỏi với nỗ lực của mình, quyết liệt cắt đứt sự ủng hộ cho Nam Việt Nam. Cả Lyndon Johnson lẫn Richard Nixon đều không thể tập hợp được công khai và ủng hộ cho chiến tranh.

Oanh tạc Campuchia

Cuộc đánh bom bí mật bắt đầu vào ngày 18 tháng 3 năm 1969. Trong khoảng thời gian đó và năm 1975, khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Hoa Kỳ đã giảm bốn lần nhiều tấn bom thông thường (539.000 tấn) vào Campuchia và rơi vào Nhật Bản trong Thế chiến II . "Các khu vực rộng lớn ở nửa phía đông của đất nước bị ném bom, giết chết hàng ngàn thường dân và biến hàng trăm ngàn người vào những người tị nạn. Nhiều quả bom đã bị thả xuống sau khi hiệp định hòa bình với Việt Nam được ký và các lính Mỹ đã được di tản khỏi Việt Nam. Xấu như Lào đã có thêm nhiều quả bom rơi vào đó.

Việc ném bom các đơn vị quân đội của Hoa Kỳ và các khu bảo vệ du kích ở Campuchia - đặc biệt vào mùa hè năm 1973, khi cuộc bắn phá dữ dội trên không (Arclight) đã được sử dụng để ngăn chặn cuộc tấn công Khmer Đỏ trên Phnom Penh - đã mua thời gian cho chính phủ Lon Nol , nhưng không ngăn được đà của lực lượng cộng sản. Các tài liệu chính thức của Hoa Kỳ cung cấp cho B-52 và F-111 79.591 loại máy bay, trong đó tổng cộng 539.129 tấn vật liệu phóng bị bỏ rơi, khoảng 350 phần trăm (153.000 tấn) đổ xuống Nhật Bản trong Thế giới Chiến II. Rất nhiều bom rơi ở Campuchia đã tấn công các khu rừng núi non hoặc không có người ở; tuy nhiên, như các bản đồ của Không lực Hoa Kỳ cho thấy, một số khác nằm trên một số khu vực có mật độ dân cư cao nhất của đất nước, như tỉnh Siemreab, Tỉnh Kampong Chhnang, và vùng nông thôn xung quanh Phnom Penh. Tử vong từ vụ đánh bom là vô cùng khó ước tính, và con số từ thấp đến 30.000 đến cao 500.000. Bất kể mức độ thực sự của thương vong, các sứ mệnh của Arclight đối với Campuchia, bị Quốc hội Hoa Kỳ chấm dứt vào ngày 15 tháng 8 năm 1973, đã tạo ra những cú thót tim đối với cấu trúc của cuộc sống ở nhiều làng mạc của đất nước, và theo một số nhà phê bình , đưa người dân Campuchia vào vòng tay của Khmer Đỏ. [Nguồn: Thư viện Quốc hội, tháng 12 năm 1987 *] của Quốc hội Hoa Kỳ, đã làm nổ tung các cơ cấu của cuộc sống ở nhiều làng mạc của đất nước, và, theo một số người chỉ trích, đã đưa người dân Campuchia vào vòng tay của Khmer Đỏ. [Nguồn: Thư viện Quốc hội, tháng 12 năm 1987 *] của Quốc hội Hoa Kỳ, đã làm nổ tung các cơ cấu của cuộc sống ở nhiều làng mạc của đất nước, và, theo một số người chỉ trích, đã đưa người dân Campuchia vào vòng tay của Khmer Đỏ. [Nguồn: Thư viện Quốc hội, tháng 12 năm 1987 *]

 

Vụ đánh bom là khía cạnh gây tranh cãi nhiều nhất của sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Campuchia. Trong cuốn Sideshow của cuốn sách, William Shawcross cung cấp một hình ảnh sống động về các điều kiện địa ngục, đặc biệt là trong những tháng tháng Giêng đến tháng Tám năm 1973, khi các cuộc tấn công Arclight cực kỳ dữ dội. Ông tuyên bố rằng vụ đánh bom đã góp phần tạo ra một phong trào Khmer Đỏ tàn bạo và đơn độc. Tuy nhiên, các lập luận của ông đã bị các quan chức Hoa Kỳ nghi ngờ - bao gồm cựu đại sứ Campuchia, Emory C. Swank, và cựu Tư lệnh Không quân Thái Lan, Tướng John W. Vogt - trong phụ lục của cuốn sách thứ hai của hồi ký của Ngoại trưởng Henry Kissinger. * 

Tác động của việc oanh tạc Campuchia trong Chiến tranh Việt Nam

Vụ ném bom của Campuchia trùng hợp với chuyến đi 5 năm của Khmer Đỏ tới Phnôm Pênh và làm tổn thương chế độ thân Mỹ ở Campuchia. Chính phủ đó quá yếu để thực hiện sau khi Hoa Kỳ rời Đông Nam Á khi Nam Việt Nam sụp đổ. Một người Campuchia nói với AP rằng "Khmer Đỏ đã giúp Khmer Đỏ có được phương tiện để thuyết phục mọi người tham gia cùng họ. Họ chỉ cần nói, 'Xem họ ném bom các làng mạc của chúng tôi ... tham gia và chiến đấu với Hoa Kỳ.' "

Vụ đánh bom Mỹ phức tạp và tăng cường cuộc nội chiến ở Campuchia và làm trầm trọng thêm các vấn đề và căng thẳng ở Campuchia. Nhiều người đã đổ lỗi cho sự liều lĩnh của Hoa Kỳ tại Campuchia như là đưa ra một loạt các sự kiện đã dẫn tới việc Campuchia tiếp quản bởi Khmer Đỏ. Theo Lonely Planet: Không nghi ngờ gì nữa, chiến dịch ném bom đã giúp Khmer Đỏ trong cuộc tuyển dụng của họ, vì ngày càng có nhiều nông dân bị mất thân nhân trong các cuộc tấn công trên không. Trong khi vụ đánh bom cuối cùng và nặng nhất trong nửa đầu năm 1973 có thể đã cứu Phnom Penh khỏi rơi xuống sớm, sự tàn bạo của nó cũng giúp làm cứng thêm thái độ của nhiều người Khmer Đỏ và có thể đã góp phần vào sự tàn bạo sau đó. [Nguồn: Lonely Planet]

Paul Watson đã viết trong Los Angeles Times: "Bom của Hoa Kỳ rơi vào Campuchia vào thời điểm đó đã gây ra sự phá hủy và biến động trên diện rộng ở nông thôn, do đó chính quyền Nixon một phần là đổ lỗi cho những gì đã xảy ra sau khi Khmer Đỏ đã được để làm sạch các mess 1975. Nhà lãnh đạo Khmer Đỏ Khieu Samphan nói. "Tôi nghĩ rằng trách nhiệm phải được chia sẻ là đúng." Ông nói rằng Khmer Đỏ đã làm những gì cần thiết để cứu đất nước của họ. [Nguồn: Paul Watson, Los Angeles Times, ngày 12 tháng 8 năm 2007]

Khu bảo tồn và trụ sở của COSVN là bộ sưu tập các chòi tạm thời đã được thay thế một cách nhanh chóng. Một người dân làng đã đánh mất con trai của bà cho một quả bom của Mỹ nói với AP, "Con trai tôi thật đẹp. Anh ấy có một khuôn mặt to tròn. Tôi không thể ngủ. Tôi không thể ăn được hàng tháng ... Tôi thậm chí không thề với người Mỹ. Không có thời gian. Chúng tôi phải tiếp tục chạy và trốn tránh từ nơi này đến nơi khác "Một số người tỏ ra thông cảm với những gì Hoa Kỳ đang cố gắng làm. Một người trong làng nói với AP, "Có rất nhiều Việt Cộng trong khu vực - đó là lý do tại sao họ bị đánh bom. Nếu họ muốn giết người dân làng thì sẽ không có ai ở đây cả. Người Mỹ biết cách giết. "

 Tổng thống Nixon đã ngừng các cuộc không kích vào tháng 8 năm 1973 sau khi một thẩm phán liên bang Mỹ phán quyết họ vi hiến và Quốc hội đã từ chối cấp tiền cho họ. Tuy nhiên, từ quan điểm của Khmer Đỏ, mức độ nghiêm trọng của vụ đánh bom đã được kết hợp bởi sự phản bội của Bắc Việt. Các nhà cộng sản Campuchia đã từ chối tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris. Khi Bắc Việt và Hoa Kỳ ký Thoả thuận Hoà bình Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, các nhiệm vụ ném bom ở Việt Nam và Lào đã bị chấm dứt. Các máy bay ném bom chiến đấu và các máy bay khác do đó phát hành đã bị chuyển hướng tấn công các vị trí Khmer Đỏ ở Campuchia. [Nguồn: Thư viện Quốc hội, tháng 12 năm 1987] 

Nixon rút khỏi Việt Nam năm 1972

BBC đã báo cáo: "Tổng thống Richard Nixon đã thảo luận về một chiến lược rút khỏi Việt Nam trước cuộc bầu cử năm 1972, một cuốn băng được phát hành để đánh dấu 30 năm kể từ khi ông từ chức cho thấy các lực lượng Hoa Kỳ đã tham gia vào một cuộc chiến ném bom khổng lồ năm đó ở miền Bắc Việt Nam. Cố vấn an ninh Henry Kissinger thậm chí với sự ủng hộ của Mỹ, Nam Việt Nam cũng không thể tồn tại được. Một số sử gia cho rằng cuộc đàm thoại này là bằng chứng cho thấy Nixon hy sinh lực lượng Mỹ trong nhiệm kỳ thứ hai của mình. Thông cáo báo chí cho biết đây là cuộc đối thoại không chính thức, không phản ánh chính sách của Nixon. "Một lần trong một thời gian, ông đã nản lòng và nói rằng" bắt lấy toàn bộ điều ", nhưng đó chưa bao giờ là chính sách của ông ta," ông nói. - ngày 08 tháng 8 năm 2004 | ~ |] 

"Nixon đã phủ nhận tin cho đến khi ông qua đời vào năm 1994 rằng cuộc bầu cử năm 1972 đã ảnh hưởng đến các chính sách của ông tại Việt Nam.Trong cuộc hội đàm của Oval Office được ghi lại bởi hệ thống ghi âm kích hoạt bằng giọng nói của Nixon, tổng thống sau đó nói với ông Kissinger rằng chiến thắng trong cuộc bầu cử là rất quan trọng. năm nay, nhưng liệu chúng ta có thể có một chính sách đối ngoại nếu một năm kể từ bây giờ hay hai năm nữa, thì Bắc Việt sẽ lấn lướt miền Nam? Đó là câu hỏi thực sự ", ông nói Nixon bắt đầu rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam vào năm 1969. Sau khi thắng cử năm 1972, ông đồng ý năm 1973 đưa phần còn lại của quân đội về Việt Nam. Quân đội Việt Nam. ~ ~ 

 "Trong cuốn băng ghi âm của Đại học Virginia Miller Trung tâm Công vụ, ông Kissinger khuyên Tổng thống rằng họ có thể tránh được coi như thất bại nếu Nam Việt Nam duy trì độc lập trong một vài năm tới:" Nếu chúng ta giải quyết nó, tháng 10 năm nay, vào tháng 1 năm 74, không một ai sẽ trả lời ", ông Kissinger nói. 

Đánh bom Hà Nội năm 1972

Nixon đã ra lệnh ném bom Hà Nội và đánh bom và thả thủy lội phong tỏa Cảng Hải Phòng trong thời gian Giáng sinh năm 1972 để phản ứng lại cuộc tấn công chính của Bắc Việt qua vùng DMZ vào miền Nam Việt Nam. Nixon tin rằng quyết định đánh bom Hà Nội sẽ đưa Bắc Việt lên bàn đàm phán. 

Trong các vụ đánh bom giáng sinh vào tháng 12 năm 1972, Hoa Kỳ đã giảm khoảng 20.000 tấn thuốc nổ trong 11 ngày. Hơn 1.600 thường dân thiệt mạng trong vụ tấn công Rebecca Kesby của BBC viết: "Chiến dịch ném bom lớn nhất từ ​​máy bay B-52 của Hoa Kỳ đã diễn ra vào dịp Giáng sinh năm 1972. Một số người tuyên bố cuộc tấn công có thể đã giúp đưa thỏa thuận tháng sau đó đã dẫn đến chấm dứt sự tham gia của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Chiến dịch Linebacker II là nỗ lực của Tổng thống Richard Nixon để nhanh chóng kết thúc chiến tranh Việt Nam, khi sức mạnh ngày càng tăng của Việt Cộng gây ra thương vong nặng nề trong quân đội Mỹ. tra tấn các phi công bị bắn rơi ở miền bắc, thường xuyên diễu hành trên truyền hình, cũng là một sự xấu hổ cho Washington.Nixon đã được áp lực để đưa quân về nhà.Trong cùng thời gian,

"Mối quan hệ giữa nhà đàm phán Henry Kissinger và chính phủ miền Nam bị căng thẳng, trong khi Lê Đức Thọ - đại diện cho chính quyền Bắc Cộng - đã không chịu nhường chỗ cho việc phát hành tù nhân. tối ngày 18 tháng 12, 129 chiếc B-52 hét lên trên Hà Nội - những chiếc máy bay ném bom khổng lồ có khả năng chở nhiều tấn chất nổ, bay theo hình thành, dưới những làn sóng liên tiếp gồm các tế bào nhỏ hơn, chứa ba chiếc máy bay. nghe và cư dân của Hà Nội chạy đua để trú ẩn. ////

"Không lực Hoa Kỳ đã mất hai chiếc B-52 trong tổng số 15 chiếc. Một số máy bay chiến đấu và máy bay hỗ trợ cũng bị phá hủy trong 11 ngày của Đội Linebacker II. mất tích, những người khác bị bắt sau khi phóng qua miền Bắc Việt Nam Vào thời điểm đó chính quyền cộng sản cho biết khoảng 1.600 người Việt Nam đã bị giết, nhưng nhiều người nghi ngờ con số thực sự cao hơn nhiều.

 "Linebacker II đã kết thúc vào ngày 29 tháng 12 và vào ngày 8 tháng 1 tất cả các bên đã trở lại phòng đàm phán ở Paris. Hiệp định Paris hòa bình đã được ký kết vào cuối tháng, dẫn đến việc thả một số tù nhân chiến tranh Mỹ và lát là cách để chấm dứt sự can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Lời tuyên bố của thỏa thuận hầu như giống hệt như vào đầu tháng 12 trước chiến dịch ném bom Giáng sinh. Ông Giáp đã viết trong Newsweek, "Năm 1966, ông Hồ nói với tôi rằng chỉ khi nào chúng ta có thể tiêu diệt những chiếc máy bay ném bom B-52 trên Hà Nội thì Hoa Kỳ sẽ rút lui, ông ấy nói đúng vào ngày 28 tháng 12 năm 1972, tôi nghe nói rằng chúng tôi đã hạ 17 phần trăm B-52 tấn công chúng tôi, ngay khi chúng tôi nhận được thông tin rằng Hoa Kỳ có ý định đàm phán rút quân, điều này cho thấy con người có thể giành chiến thắng trước sức mạnh vũ khí bằng tinh thần thép ". 

"Việc ném bom đã bị đình chỉ vào ngày Giáng sinh, nhưng trong những ngày bên cạnh, Không lực Hoa Kỳ bay 729 đợt tấn công vào ban đêm ở miền Bắc Việt Nam với ảnh hưởng tàn phá. Sau đó, Kissinger sẽ mô tả những người cộng sản là" trên đầu gối " Trong khi đó các cuộc không kích vào ngày 26 tháng 12 đã khiến cho người dân Việt Nam có cơ hội tập trung lại.

Chỉ trong một đêm, hàng trăm ngôi nhà bị phá hủy xung quanh Khâm Thiên, một phố mua sắm bận rộn ở Hà Nội. Khoảng 280 người đã thiệt mạng vànhiều người bị thương. Hà Mi có một người bạn, ngôi nhà bị đánh. "Có một vài ngôi nhà vẫn còn đứng, nhưng hầu hết chỉ là những đống đổ nát, dẹt trên mặt đất - hoặc thậm chí là một cái hố lớn. Nhà cửa đã biến mất, thật khủng khiếp, tôi nhớ khi nhìn thấy những người đang đứng đó nhìn vào nó - nhưng không có gì ở đó Tất cả mọi thứ đã biến mất. "

 

Tuy nhiên đây là một sứ mệnh nguy hiểm cho các phi công Mỹ, Bắc Việt có những tên lửa đất đối không được sản xuất bởi Liên Xô hoặc các SAM, và cung cấp pháo binh phòng không rất nhiều, và cũng có một số máy bay chiến đấu MiG-21 của Liên Xô. Jon Meacham đã viết trong Newsweek, Col. Bud Day, người đã bị giam trong tù POW với cái tên Hanoi Hilton với Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ John McCain trong tương lai "khi nước Mỹ bắt đầu vụ đánh bom giáng sinh vào năm '72, ông cho biết phản ứng của thượng nghị sĩ tương lai trước cuộc tấn công Giáng sinh là vui vẻ mặc dù sự nguy hiểm "Tôi là chỉ huy đội tàu vào thời điểm đó," Day nhớ lại "Các cuộc bắn phá bắt đầu vào đêm 19 tháng 12. Họ đã rơi xuống rất gần trại. Mảnh vụn đang đi vào cửa sổ ... Rất nhiều thứ đang rơi ra khỏi trần nhà. Chúng tôi vô cùng sung sướng vì đó là chuyến bay về nhà. John cũng giống như tất cả chúng ta-hạnh phúc vui sướng ... Mọi người đều kinh hãi và vui mừng vì cuối cùng điều đúng đắn đã xảy ra vì đây là cách duy nhất chúng tôi có thể ra ngoài. Chúng tôi biết điều đó và người Việt Nam biết điều đó. Chúng tôi đang tát nhau ở phía sau ... Họ trở nên bối rối. Họ bảo mọi người ngồi xuống ngay khi chúng tôi bắt đầu cười và mọi thứ. Họ ngay lập tức bị kẹt súng qua cửa sổ và bắt đầu la hét chúng tôi bằng tiếng Việt ... Họ luôn lo lắng rằng chúng tôi sẽ nổi loạn ... Tôi đã nói với tất cả mọi người, 'Ngồi xuống tường. Tôi không muốn ai bị giết. Chúng ta sẽ về nhà trong vài ngày. Tôi không muốn ai bị tổn thương ". [Nguồn: Jon Meacham, Newsweek, ngày 8 tháng 9 năm 2008]

Tuy vậy, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam", ký ngày 27/1/1973, chưa bao giờ có vẻ sẽ có kết cuộc như tên gọi. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã đồng ý đề nghị của Tổng thống Richard Nixon về các điều khoản. Hà Nội sẽ thả tù nhân Mỹ và để miền Nam chọn chính phủ thông qua bầu cử tự do. Nhưng hiệp định đặt quá trình bỏ phiếu trong tay một ủy ban mà chỉ có thể hành động khi toàn bộ thành viên cùng thống nhất, gồm cả phe Cộng sản và phi Cộng sản  suốt bao nhiêu năm đánh nhau. Tệ hơn nữa, Nixon  để quân Bắc Việt chiếm và kiểm soát phần lớn miền Nam, và rút toàn bộ bộ binh sĩ Mỹ còn lại. "Sớm hay muộn, chính phủ sẽ sụp," Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nói. Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger tường thuật lại cho Tổng thống nghe hôm 6/10/1972: "Tôi cũng nghĩ ông Thiệu nói đúng, rằng các điều kiện của chúng ta rồi sẽ tiêu diệt (destroy) ông ta."

 

Hai tổng thống Richard Nixon và Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc lập 30/07/1969

Lời thừa nhận bẽ bàng của Kissinger đến từ hồ sơ chính xác và đầy đủ nhất về tổng thống: hệ thống ghi âm bí mật của Nixon. Các máy ghi âm, kết nối với microphone giấu trong Phòng Bầu dục và các phòng khác hoạt động bất cứ khi nào nhận ra âm thanh, từ 16/2/1971 đến 12/7/1973. 

Ken Hughes đã bỏ ra hơn 10 năm nghiên cứu các băng này với Trung tâm Miller của Đại học Virginia, nhưng sự đối nghịch giữa hình ảnh mà Nixon tạo ra trước công chúng và thực tế ông ta bí mật ghi âm vẫn làm Ken Hughes đã bị sốc. 

Trẻ em được dạy rằng Nixon đã hứa với nước Mỹ về "hòa bình trong danh sự" thông qua chiến lược Việt Nam hóa và thương lượng. Ông nói Việt Nam hóa sẽ giúp người miền Nam tự vệ mà không cần lính Mỹ. Ông ta nhận ra nó sẽ không làm được. "Nam Việt Nam có lẽ chẳng bao giờ tồn tại được," Tổng thống nói trên băng. 

Trong ngày nhậm chức đầu tiên, ông hỏi giới chức quân sự, ngoại giao, tình báo rằng khi nào thì miền Nam có thể đối đầu Cộng sản một mình. Câu trả lời thống nhất: Chẳng bao giờ. Nixon có lựa chọn khắc nghiệt: tiếp tục gửi người Mỹ đến chiến đấu và chết, hoặc đưa quân về nhà mà biết rằng thiếu họ, Sài Gòn rồi sẽ sụp đổ. Cả hai lựa chọn đều không thể được gán nhãn "hòa bình trong danh dự" như ông hứa. Vì thế ông nói dối. Để Việt Nam hóa trông có vẻ thành công, ông lên lịch triệt thoái qua bốn năm, từ từ giảm số lính Mỹ từ 500.000 tháng Giêng 1969 xuống còn chưa đầy 50.000 vào ngày Bầu cử 1972. Trong bốn năm đó, ông có nhiều diễn văn trên truyền hình thông báo các đợt rút quân, và lần nào cũng nói nó chứng tỏ Việt Nam hóa đang hiệu nghiệm. Mảng thương lượng trong chiến lược rút đi của Nixon cũng lừa đảo như Việt Nam hóa. "Chúng tôi muốn một cự ly an toàn", Kissinger ghi vội trong sổ tay khi bí mật thăm Trung Quốc tháng Bảy 1971. Suốt nhiều thập niên sau đó, Kissinger phủ nhận việc có thỏa thuận về "cư ly an toàn", nhằm chừa ra một, hai năm giữa việc Nixon rút quân và Sài Gòn sụp đổ. 

Nhưng sự phủ nhận này sụp đổ khi lời của ông ta có trên băng ghi âm và được các trợ tá ghi lại trong các thương lượng với lãnh đạo nước ngoài.Trong cuộc gặp đầu tiên với Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, Kissinger phác thảo đòi hỏi của Nixon. Hòa bình không có trong đó. Nixon cần tù nhân Mỹ, triệt thoái toàn bộ, và ngừng bắn trong "khoảng 18 tháng". Sau đó, nếu phe Cộng sản lật đổ chính phủ miền Nam, "chúng tôi sẽ không can thiệp". 

Liên Xô cũng được bảo đảm như vậy. Trong phiên họp kín với Nixon tại hội nghị thượng đỉnh Moscow 1972, lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev nói: 

“Tiến sĩ Kissinger nói với tôi rằng nếu có thỏa thuận hòa bình ở Việt Nam, ngài sẽ để người Việt làm gì thì làm, cho cái họ muốn sau khoảng 18 tháng. Nếu chuyện này có thật, và nếu người Việt Nam biết chuyện này, họ sẽ thông cảm.” 

Các cuốn băng ghi lại 340 giờ những lời nói của ông Nixon tại Tòa Bạch Ốc

Cự ly an toàn" phục vụ một mục tiêu chính trị quan trọng. Nếu Sài Gòn sụp ngay sau khi Nixon rút lính Mỹ cuối cùng, rõ là ông thất bại. "Về đối nội, lâu dài nó không giúp chúng tôi vì các đối thủ sẽ nói lẽ ra chúng tôi phải làm chuyện đó từ ba năm trước," Kissinger nói. 

Chính trị chi phối các quyết định quân sự của tổng thống. Trong năm nhậm chức đầu tiên, Ủy ban Quốc gia Cộng hòa làm thăm dò bí mật để xem cách chấm dứt chiến tranh nào được ủng hộ nhất. Đến 66% ủng hộ đánh bom và bao vây miền Bắc để Hà Nội đồng ý thỏa thuận bao gồm bầu cử tự do ở miền Nam. 

Những người được hỏi nói họ ủng hộ ném bom và bao vây trong sáu tháng. Ngày 8/5/1972, sáu tháng trước bầu cử, Tổng thống Nixon lên truyền hình nói sẽ đánh bom và đặt mìn ở các cảng miền Bắc. 

Nhưng đến tháng 8, CIA ước tính Hà Nội vẫn đưa được 3000 tấn chiến cụ vào miền Nam mỗi ngày. Tuy vậy, mặc dù đánh bom là thất bại chiến lược, nó lại thành công theo cách có ý nghĩa nhất cho Nixon. Các thăm dò dư luận cho thấy người dân ủng hộ việc gia tăng đánh bom. 

Khi miền Bắc chấp nhận điều kiện của Nixon không lâu trước Ngày Bầu cử, nó có vẻ nước cờ quân sự của Nixon khiến kẻ thù phải gục ngã. Nhưng không phải. Hà Nội đồng ý thỏa thuận với cùng lý do khiến miền Nam từ chối. Cả hai phe nhận ra nó sẽ dẫn tới việc Cộng sản kiểm soát miền Nam, y như Nixon và Kissinger đã biết. 

Người Mỹ không biết tổng thống của mình đã làm gì. Các cuốn băng của ông bí mật, ghi chép đối thoại của ông và Kissinger với các lãnh đạo Cộng sản được giữ bí mật. Vào Ngày Bầu Cử, Nixon giành 60.7% phiếu bầu, cao hơn mọi ứng viên Cộng hòa trong lịch sử. 

Nixon nâng cốc cùng Chu Ân Lai trong chuyến thăm lịch sử đến Trung Quốc

Sau này, Nixon cáo buộc Quốc hội Mỹ đã tạo ra thất bại trong khi chiến thắng trong tầm tay. Một cách chỉ trích là lên án Quốc hội đã giảm viện trợ cho Sài Gòn. Đúng là các nghị sĩ đã cho miền Nam ít hơn những gì Nixon và Tổng thống Gerald Ford yêu cầu. Nhưng dù có tăng gấp đôi, gấp ba, Sài Gòn vẫn sụp đổ theo các điều khoản của Nixon. Miền Nam không thể chống đỡ Cộng sản khi thiếu hỗ trợ của bộ binh Mỹ. 

Ngay cả ngày nay, chiến lược thực sự của Nixon vẫn gần như không được công chúng biết, mặc dù giới học giả đã viết về nó từ nhiều năm. Jeffrey Kimball in hai tác phẩm bước ngoặt, Nixon’s Vietnam War và The Vietnam War Files, sử dụng tài liệu giải mật để chứng tỏ Nixon đã tạo dựng "cự ly an toàn" ra sao. Julian Zelizer mô tả Nixon gắn việc rút quân với bầu cử 1972 trong Arsenal of Democracy. 

Nhưng huyền thoại Nixon bị đâm sau lưng vẫn còn. Khi các chính trị gia và chuyên gia tranh luận làm sao, khi nào thoát khỏi Afghanistan (như Iraq trước đó), họ trích dẫn sai lầm lịch sử "thành công của Nixon khi đào tạo miền Nam biết tự vệ và thương lượng để giải quyết khác biệt thông qua bầu cử tự do – hai điều mà Nixon chưa bao giờ làm được. 

Hòa bình Paris không phải là Hòa Bình Trong Danh Dự như Nixon và Kissinger báo cáo. Thực tế lịch sử đã cho thấy đó là di sản tồi tệ nhất của tồng thống Richard Nixon: Chấm Dứt Chiến Tranh Ở Việt Nam Trong Ô Nhục

 

 

  

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Politics of Southeast Asia ֎ Bên Giòng Lịch Sử

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA ֎ Lam vs Ngo

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA MÌNH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LÃNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ GÌN DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐÃI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI HÒA VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlatevWSWS

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvCreate

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvGatewayvVeteran

vOpen CulturevSyndicatevCapital ResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền

vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn

vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê Bình

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXã Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài GònvThế GiớivTCCSvLuật Khoa 

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ

vST/HTVvvThống KêvĐiều Ngự