MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008

֎ 10-2008 ֎ 11.2008 ֎ 11-2008

֎ 12-2008 ֎ 01-2009 ֎ 02-2009

֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009

֎ 09-2009 ֎ 10-2009 ֎ 11-2009

֎ 12-2009 ֎ 01-2010 ֎ 03-2010

֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010

֎ 10-2010 ֎ 11-2010 ֎ 12-2010

֎ 01-2011 ֎ 02-2011 ֎ 03-2011

֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011

֎ 10-2011 ֎ 11-2011 ֎ 12-2011

֎ 01-2012 ֎ 06-2012 ֎ 12-2012

֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015

֎ 12-2015 ֎ 01-2016 ֎ 02-2016

֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017

֎ 03-2017 ֎ 04-2017 ֎ 05-2017

֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Secret Army Secret War

֎ CIA Giải mật

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

 

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government v Congressional Record

v Associated Press v Commieblaster

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN vNational Pri Project

v Videos Library v Judicial Watch

v  MediaFactCheck

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v MediaBiasFactCheck v FactReport

v PolitiFact v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v Foreign Trade

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v CBS

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v Gateway

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

 

 

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

 

PART 1

 

CHUYẾN BAY CUỐI CÙNG TỪ ĐÀ NẴNG

 

 

 

JAN Wollett

 (Nữ Trưởng Tiếp Viên Hàng Không)

 

“Tại sao họ bắn? Chúng tôi là những người bạn tốt”

 

Ngày 29/3/1975 đáng lẽ nhân viên khách sạn Sài G̣n phải đánh thức tôi dậy lúc 5 giờ sáng . Tôi là tiếp viên trưởng của một chuyến bay khứ hồi ra Đà Nẵng . Nhưng 5 giờ sáng hôm ấy không có ai đánh thức tôi dậy. Khoảng 6 giờ sáng mới có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: “Chị xuống ngay pḥng đợi khách sạn trong ṿng 5 phút.” Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hăng tin CBS cũng đă có mặt. Tôi bảo Bruce: “Bọn này phải ra Đà Nẵng”. Anh ta nói: ’’Có tin thành phố này rơi vào tay Bắc Việt rồi” Tôi nói: “Nếu thành phố này đă mất th́ chúng tôi đâu có đi” Bruce yêu cầu được đi theo chuyến bay. Ông Daly bảo: “Muốn đi th́ đi. Có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất trong ṿng một giờ đồng hồ nữa.”

Bruce tập họp Mike Marriotte, chuyên viên quay phim và Mai Văn Đức, chuyên viên âm thanh, rồi chở họ ra phi trường. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Là tiếp viên trưởng, tôi được thông báo là sẽ có một hay hai tiếp viên người Việt đi thông dịch, sẽ có binh sĩ bảo vệ để đương đầu với đám đông. Hôm trước, chúng tôi đă gặp khó khăn ở Đà Nẵng, và chúng tôi cũng sẽ phải mang theo nước ngọt, nước cam, bánh ḿ săng-uưch cho hành khách.

Vừa vào phi cơ, tôi nói với Val và Atsako Okuka, một nữ tiếp viên khác: “Các bạn hăy xem xét ngay mọi thứ.” Chúng tôi thấy không có đồ ăn thức uống. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết một cái ǵ bất thường đang xẩy ra…Không nước ngọt, không nước  cam, không bánh ḿ, không đồ ăn thức uống trên phi cơ. Cũng không có tiếp viên người Việt, cũng chẳng có binh sĩ bảo vệ nào hết.

Chúng tôi thảo luận xem có nên bay ra hay không. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đă lên phi cơ rồi. Dunning và toán làm tin CBS cũng vậy. Hai nhân viên cơ quan  USAID leo lên. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi, không cần ǵ đến binh sĩ bảo vệ.

Lúc đó 8 giờ sáng, quá muộn so với giờ ấn định máy bay cất cánh. Ông Daly quyết định cứ đi Đà Nẵng để đón một số người tỵ nạn gồm đàn bà và trẻ em mà khỏi cần đến binh lính hộ tống hay thông dịch viên.

Chuyến bay ra khá êm. Chúng tôi mang theo một nhà báo người Anh và một người nữa của hăng tin UPI. Trong chuyến bay chúng tôi chuyện tṛ thân mật với nhau.

Phi cơ bắt đầu đổi cao độ để hạ xuống Đà Nẵng. Theo kế hoạch, sau chúng tôi 20 phút sẽ có một chuyến World Airway 727 khác do Don McDaniel lái. Sau anh ta, lại một chuyến 727 nữa do Dave Wanio điều khiển. Chúng tôi dự tính sẽ đậu từ 10 đến 15 phút để lấy khách rồi cất cánh, để chuyến thứ hai, rồi thứ ba đáp xuống. Với cách ấy chúng tôi có thể đem đi được 3 chuyến trong ṿng dưới một tiếng đồng hồ.

Nhưng khi hạ cánh có một cái ǵ rất lạ lùng.

Không hề thấy một bóng người.

Không một ai, cả phi trường hoàn toàn hoang vắng. Đột nhiên trong lúc phi cơ đang “chạy taxi” trên đường vào bến, đoàn người chợt xuất hiện. Họ chạy ào ra từ những nhà chứa máy bay, Hàng ngàn con người-tôi nói đúng nghĩa là hàng ngàn con người đua nhau chạy đến chúng tôi- Họ chạy bộ, chạy xe gắn máy, chạy xe thùng, xe Jeep, xe hơi, xe đạp…Họ chạy đến phía chúng tôi bằng bất cứ phương tiện nào họ kiếm được.

 

Chúng tôi đă có một kế hoạch là ông Daly và Joe Hrezo, trưởng trạm của hăng World Airways sẽ ra khỏi phi cơ. Họ sẽ lo việc sắp hàng hành khách ở lối vào cầu thang phía sau. Tôi sẽ đứng ở phía trước phi cơ, Atsaco ở giữa c̣n Val đứng ở khoảng sau.

Chúng tôi cho phi cơ chậm lại. Lúc ấy tôi đang đứng trong pḥng lái nh́n ra cửa sổ trước, chợt thấy có điều kỳ lạ. Một nhóm người lái chiếc xe vận tải nhỏ đuổi bên cạnh chiếc tàu bay. Một người đàn ông nhảy khỏi xe, chạy đến trước chúng tôi. Tôi nh́n về phía anh ta, lúc ấy chúng tôi đang đi chậm, anh ta rút một khẩu súng lục, bắn vào chúng tôi.

Đột nhiên tôi có cái cảm giác kinh dị y như đang đứng giữa khung cảnh của một phim cao bồi. Tôi đă nghĩ rằng: “Tại sao họ bắn chúng tôi? Chúng tôi là những người bạn tốt!”

Chúng tôi cho tàu chạy khỏi người đàn ông có súng và đi chậm lại ở phía xa. Bây giờ tôi bắt đầu chờ người khách đầu tiên lên phi cơ. Chúng tôi dự tính sẽ cho họ ngồi vào ghế, bắt đầu từ những hàng trước, lần lượt đến phía sau, sẽ sắp đặt họ trong ṿng trật tự.

Rồi những người lính bắt đầu lên.

Họ chạy xồng xộc với cặp mắt man dại. Chừng chín người lính đă lên, tôi xếp họ ngồi vào ghế. Rồi người thứ mười lên, nhưng hắn không chịu ngồi. Hắn bị kích động, cứ chạy lên chạy xuống la lớn bằng tiếng Anh: “Bay đi! Bay đi! Bay đi! Chúng nó sắp pháo kích vào phi trường ḱa!” Hắn cứ la hét như thế măi. Tôi nắm lấy hắn, tôi cũng hét lên: “Im mồm, tôi bảo ông ngồi đâu th́ ông ngồi xuống đó.” Tôi đẩy hắn xuống ghế.

Nhưng có điều lạ: rất ít người lên phi cơ. V́ vậy tôi nghĩ cần phải ra sau xem có chuyện ǵ…Tôi thấy Daly dưới chân cầu thang đang bị dằn xé. Áo ông rách vụn. Joe Hrezo biến đâu mất. Val đang cố giúp Daly lôi người lên cầu thang trong lúc tàu bay cứ tiếp tục chạy trên phi đạo. C̣n dưới chân thang, hàng tram người tuyệt vọng, điên cuồng, la hét cố bấu víu lấy Val và Daly. Đoàn người tiến đến không ngừng. Họ từ khắp phía, chạy đến cầu thang không ngớt. Tôi leo xuống. Daly ở dưới thang, ông cố lập trật tự bằng khẩu súng lục vung lên trời. Val cố giúp những người đang leo qua cạnh cầu thang. Một gia đ́nh 5 người chạy đến phía tôi cầu cứu. Đó là bà mẹ, ông bố, hai đứa con nhỏ, một trẻ sơ sinh c̣n ẵm trên tay mẹ. Tôi có thể nh́n rơ nét sợ hăi trên khuôn mặt khi họ cố chạy đến phía tôi. Tôi quay lại định nắm tay người mẹ kéo lên. Trước khi tôi kịp nắm tay bà, một người đàn ông đứng sau đă nổ súng vào 5 người này. Họ ngă gục cả xuống, đám đông đạp ngay lên xác họ. Cái h́nh ảnh cuối mà tôi thấy là họ biến mất dưới chân đám đông. Chỉ vài tiếng nổ lớn, họ biến mất, tất cả những người ấy. C̣n gă đàn ông vừa bắn xong đă đạp ngay lên thân họ để leo tới cầu thang. Hắn đè lên mọi người, chạy vào ḷng phi cơ. Tất cả mọi thứ quá sức hỗn loạn điên cuồng. Tôi c̣n nhớ vào giây phút điên dại ấy, tôi nghĩ: “Chốc nữa sẽ tính chuyện này”, tôi tiếp tục kéo người lên phi cơ. Chợt cảm thấy một người đàn bà đang níu tôi từ phía hông cầu thang, bà nắm cánh tay tôi, cố lọt lên bực thang. Tôi muốn giúp bà ta nhưng cũng sợ bị rơi tuột khỏi thành cầu. Tôi bèn quay lại nắm cánh tay người đàn bà, kéo qua thành cầu. Nhưng một người đàn ông ở phía sau đă níu lấy, giựt bà khỏi tay tôi. Khi bà rơi xuống, người đàn ông kia đạp ngay lên lưng, lên đầu người đàn bà để leo lên thang. Hắn dùng người đàn bà như một ḥn đá kê. Daly nh́n thấy chuyện xảy ra. Liền khi gă đàn ông tung được  chân qua thành cầu, Daly nắm khẩu súng đập một cú vào đầu gă. Tôi nhớ lúc ấy đột nhiên tôi thấy ṿi máu vọt ra, gă đàn ông rơi xuống, người ta đạp lên hắn. Tôi nhớ tôi đă nghĩ: “Đáng kiếp”. Gă đàn ông này biến mất dưới bàn chân dày xéo của đám đông.

Lúc ấy người đổ ùn ùn vào phi cơ, tôi chạy trở vào xem Atsatko có xếp nổi chỗ ngồi không. Cô nắm lấy tay tôi, bảo: “Đại úy Ken Healy đang cần chị”. Tôi đến pḥng lái gơ cửa. Cửa mở, Đại úy Healy bảo: “Joe Hrezo đă lạc khỏi phi cơ. Khi nào hắn trở lại được cho biết .” Tôi đáp: “OK.” Chuyện xảy ra là Joe và thông tín viên người Anh đă bị đám đông kéo tuột khỏi tàu, không trở vào được nữa. Chúng tôi lạc mất cả hai người. Joe tự chạy tới đài kiểm soát không lưu, người kiểm soát viên cho anh ta vào. Sau đó Joe liên lạc được với máy bay. Ken Healy cho biết chúng tôi sẽ “chạy taxi” đi rà trên đường vào băi và yêu cầu Joe phóng ra khi máy bay tới gần . Chúng tôi sẽ không dừng một giây nào. Liền khi Joe lọt vào phi cơ, chúng tôi sẽ cất cánh. Đại úy Ken Healy bảo: “Khi thấy chắc chắn Joe vào phi cơ rồi, gơ lên cánh cửa cho tôi hay”. Tôi đi sau, bảo Val: ” Val, canh chừng cầu thang, thấy Joe vào th́ giơ tay, tôi sẽ ra hiệu cho Ken biết”

 

Trong khi đợi phi cơ chạy qua đài kiểm soát, người ta tiếp tục ào tới. Chúng tôi ấn họ xuống, 5, 6 người một ghế. Trong lúc làm việc, tôi nhớ là đă tự hỏi: “Thế c̣n đàn bà, trẻ con đâu hết?” Hóa ra, mọi hành khách đều là binh sĩ. Sau đó, tôi đếm chỉ có 11 người đàn bà và trẻ con. Tất cả chỉ có thế! C̣n lại đều là binh sĩ…

Mọi người ngồi trên ghế với những bộ mặt căng thẳng. Gă khùng vẫn tiếp tục la lối: “Bay đi! Bay đi! Bay đi!”

Khi tàu đến gần đài kiểm soát. Daly vẫn c̣n đâu đó dưới cầu thang để kéo người vào. Tàu chạy rà qua đài kiểm soát được một lát, Val quay người lại, giơ tay lên. Tôi gơ vào cửa pḥng lái. Phi cơ bắt đầu rồ máy. Chúng tôi gia tăng vận tốc. Gă khùng lúc trước la lối đ̣i bay, bây giờ sợ hăi thét lên: “Ối! Ối! tàu bay đang cất cánh trên cỏ.”

Thật ra, chúng tôi chạy để cất cánh từ phi đạo, lối vào băi đậu, và Ken đă rồ máy để cảnh cáo người ta tránh ra, nếu không chúng tôi sẽ cán qua mà chạy.

Phi cơ leo lên cỏ v́ đă vào cuối đường bến, không c̣n cách nào trở lại được. Chúng  tôi cứ tăng tốc lực bay vượt lên, do đó đă đụng phải một chiếc xe và một cọc hàng rào gây hư hỏng cho  cánh phi cơ. Nhưng hư hỏng  trầm trọng nhất là do đạn và lựu đạn ném vào một bên cánh. Ở trong phi cơ, chúng tôi không thấy được hư hại, không rơ t́nh trạng thế nào. Nhưng đại úy Ken Healy biết rất rơ.

Dầu thế, chúng tôi vẫn phải bay lên. Phải thoát khỏi Đà Nẵng. Chưa một giây phút nào tôi nghĩ là không thể thoát. Không ai có th́ giờ để nghĩ những điều như vậy giữa cơn rối loạn. Sau  này tôi khám phá được suưt chút nữa chúng tôi đă không thoát. Đáng lẽ chúng tôi đă mất mạng v́ các hư hỏng của phi cơ. Với 358 con người ở ḷng tàu, c̣n lại 60 người khác trong khoang chở hàng, có cả người mắc trên bánh xe. Chiếc máy bay này thật sự chỉ dùng để chở có 133 hành khách thôi.

Sau này Ken Healy gởi cho hăng Boeing những con số thống kê liên hệ đến chuyến bay. Người ta cho chạy điện toán rồi bảo chúng tôi: Theo cách tính của họ, phi cơ chẳng thể nào cất cánh. Vậy mà chúng tôi đă cất cánh được. Sau Ken cũng gởi cho Boeing một điện tín khác, nói: “Quư ông quả đă chế được một cái tàu bay tốt hết xảy.”

Sau khi cất cánh, tôi bắt đầu đếm hành khách. Tôi chú ư một người ngồi ghế trước, mặt tái xanh, bị thương nặng, ruột đổ ḷng tḥng. Tôi dùng tay nhét đại ruột vào, giật cái khăn trên cổ một người nào đó quấn quanh bụng ông ta lại. Tôi kéo thùng cứu thương xuống. Thuốc men mất đâu cả từ Sài G̣n. Chúng tôi không có bất cứ một vật dụng y khoa nào trên tàu. Trống trơn. Không thuốc men bông băng ǵ. Sau khi tạm ổn thỏa với người đàn ông ghế trước, tôi nh́n ra lối đi, thấy một người khác đang ḅ lết đến bên tôi. Tôi nhận ra gă, đầu bê bết máu. Máu vấy đầy mặt. Chính là gă đàn ông đă kéo người đàn bà ra khỏi tay tôi. Đó là gă đàn ông bị Daly nện với khẩu súng lục. Lần sau chót tôi thấy h́nh ảnh người đàn bà bị nghiến trên mặt đất. Cũng lần sau chót tôi thấy gă đàn ông này bị đám đông đạp lên. Vậy mà sao gă cũng lết được vào phi cơ? Bây giờ gă đang ḅ. Tôi nhớ đó là lần duy nhất trong ngày tôi đă cầu nguyện, tôi cầu: “Lạy chúa. Xin đừng để cho gă này tiến lại gần con”. Gă cứ lồm cồm lết đến. Gă nắm lấy ống quần tôi. Gă nh́n lên tôi. Gă chỉ nói: “Xin cứu tôi”

Thế là tôi nắm đại một người, kéo khỏi ghế, tôi giúp gă ngồi vào ghế. Đầu gă nứt, tôi có thể nh́n thấy bên trong máu lầy nhầy. Không có ǵ để cầm máu cả. Tôi biết nếu tôi không giúp cho máu cầm lại, gă sẽ chết ngay trên tay tôi. Một người lính ngồi bên cạnh mặc cái áo tác xạ. Tôi xé toạc cái áo, bốc một nắm mạt cưa  nhét vào vết thương. Tôi cứ nhồi măi mạt cưa vào để chận ṿi máu. Chắc chắn giới Y khoa Mỹ sẽ giật ḿnh với phương pháp này, nhưng nó đă tỏ ra hữu hiệu. Tôi giật lấy cái sơ mi của một người khác, buộc quanh đầu gă để giữ mạt cưa lại…

Gă được b́nh yên suốt chuyến bay. Gă thật mạnh, không bị bất tỉnh lần nào. Tôi đi về phía sau lần nữa, thấy Val, Daly và Joe Hrezo đang cố kéo một người đàn ông mắc kẹt trong cầu thang sau. Cửa máy bay sau không đóng được. Người ấy bị kẹt trong thang, gẫy chân. Sau cùng họ lôi được người này ra, mang vào trong phi cơ. Val và tôi cố bó cái chân gẫy với một miếng gỗ – Lúc ấy Joe bảo tôi rằng thông tín viên người Anh không trở lại được. Anh ta bước ra phi đạo Đà Nẵng để thu h́nh đám đông, rồi vô phương trở vào phi cơ trong lúc rối loạn. Anh ta c̣n ở trong đài kiểm soát. Ken Healy hứa sẽ có một chiếc trực thăng Air America đến đón. Về sau, anh ta cũng đă trở vào được Cam Ranh. Val, Atsako và tôi tiếp tục cấp cứu cho mọi người trên tàu. Việc này chiếm hết th́ giờ và tôi đoán là khi đă bay được một giờ đồng hồ th́ chúng tôi mới bắt đầu nh́n đến các hành khách khác không bị thương. Tôi thấy vẻ kinh sợ trên mặt họ. Cuối cùng, họ nhận thức được họ đă làm những ǵ. Họ bắt đầu hỏi “C̣n những chuyến bay khác nữa không?”

 

Chúng tôi trấn an bằng cách nói thác: “C̣n chứ, c̣n nhiều chuyến nữa.” Những người này bây giờ đă hiểu ư nghĩa việc bắn giết đồng bào để leo vào chuyến bay. Bây giờ họ ân hận. Đành nói dối thôi, chứ chúng tôi cũng biết sẽ không c̣n chuyến nào ra Đà Nẵng nữa. Đây là chuyến chót. Những người đi sau không ra nữa. Ken Healy đă liên lạc với Don McDaniel của chuyến 727 kế, bảo anh ta đợi chúng tôi ở Phan Rang, và bảo anh ta điện cho Dave Wanio quay lại Sàig̣n để sửa soạn việc hạ cánh khẩn cấp. Tàu chúng tôi hư hỏng nặng, Ken không dám chắc bánh xe buông xuống được khi chúng tôi xuống Sàig̣n. Tôi hiểu điều đó có nghĩa ǵ.

Trong lúc ấy, phi cơ nóng kinh khủng mặc dù thang máy bay phía sau vẫn hạ xuống, cửa sau vẫn mở trống hốc. Người ta không thể thở nổi trong máy bay với chừng ấy con người – chúng tôi nhờ Đức, chuyên viên âm thanh của CBS luôn luôn nhắc nhở bằng tiếng Việt trên máy phát thanh là “Yêu cầu đừng hút thuốc.” Hành khách tuyệt đối cấm hút thuốc, và nếu có người hút thuốc là hỏa hoạn sẽ xảy ra lập tức.

Sau công tác cứu thương cho hành khách, tôi nhận ra trên máy bay không có ǵ cho họ uống. Nhưng có một ngăn nước đá đă chảy, bây giờ đầy nước lạnh. Tôi bảo Bruce Dunning xé tấm màn ra từng miếng vải vuông nhỏ, nhúng nước. Tôi lấy những mảnh vải ướt, đi lên đi xuống chuyển cho hành khách tạm thời lau mặt. Người nào cũng nhễ nhại mồ hôi. Tôi bảo Val và Atsako làm một cái ǵ để nâng tinh thần những người này. Sau những ǵ họ đă làm với chính các bè bạn, chiến hữu họ, sự xúc động đang chậm chạp kéo đến dày ṿ họ. Họ đă bỏ gia đ́nh. Họ đă giành giật, bắn giết nhau để lấn vào tàu. Bây giờ cơn náo loạn biến mất, nhận thức về cái ghê tởm đă xảy ra đang ngấm dần.

V́ thế, chúng tôi đi quanh, nói chuyện, vỗ vai, chùi mặt mày, lau tay, cố làm một vài điều giúp họ thoải mái đôi chút.

Lúc ấy, tôi cũng chết khát. Daly đến bên, mở áo sơ mi ló ra cho thấy một chai coca. Ông bảo “ra pḥng lái.” Tôi đi ra pḥng lái, ngồi xuống ghế quan sát viên, Daly tiến đến với một chai coca. Ông mở nút đưa tôi. Tôi nhớ tôi đưa chai coca lên miệng, nhưng nước cứ trào khỏi cằm, chảy xuống bộ đồng phục. Tôi không nuốt nổi. Chúng tôi chuyền cái chai coca độc nhất quanh pḥng lái. Một lần nữa, Ken Healy nói với tôi về các hư hỏng của chiếc tàu bay. Ông bảo không dám chắc cái bánh xe mũi có thể buông xuống được, nếu nó xuống được, chưa chắc sẽ chịu đựng được thân tàu. Ông báo động: phải sẵn sàng đối phó bất cứ điều ǵ khi hạ cánh xuống Sàig̣n.

Tôi trở lại khoang hành khách, phục vụ loanh quanh. Chợt mọi người đều xúc động nh́n qua phía trái. Chúng tôi đă bay đến Phan Rang. Don McDaniel và phi hành đoàn đang bay ở cao độ 35,000 bộ, họ đang chờ chúng tôi. Cuối cùng họ thấy một chấm đen ở phía dưới, họ nhận ra chúng tôi và đang bay xuống phía chúng tôi. Chúng tôi nh́n ra cửa sổ. Ngoài kia, tương phản với bầu trời xanh tuyệt vời, trên đám mây trắng nơn là chiếc tàu bay World 727 xinh đẹp màu đỏ và trắng. Một cảm giác sảng khoái đột nhiên chạy qua khắp chiếc tàu, và lúc ấy tôi biết cái cảm giác này cũng đi suốt qua tôi. Chúng tôi biết một chiếc phi cơ chị em đă t́m ra chúng tôi. Chúng tôi sẽ an toàn v́ cô chị chúng tôi nay đang hộ tống chúng tôi trở về b́nh an.

 

Thế là anh chàng Don McDaniel lái chiếc tàu bay của anh ta lượn quanh chiếc tàu bay chúng tôi để lượng giá những hư hỏng. Anh ta gọi Ken Healy, bảo “’H́nh như có một xác chết lủng lẳng trên bánh xe của bạn.” Ken đă hỏi anh ta về việc đó. Một người bị cán khi bánh xe lùi lại. Nhưng cái chết của người này đă cứu mạng sống của tám người khác dưới guồng bánh xe v́ xác chết đă cản cần máy lại, không làm cho bánh xe lùi thêm nữa.

 

Như vậy lúc đó chúng tôi biết sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề gây ra bởi bánh xe. Các cửa khoang chở đồ mở toang, cầu thang sau c̣n treo tḥng xuống, cửa sau cũng mở trống, vành xếp của cánh máy bay bị đạn bắn sẽ không hoạt động khi hạ cánh. Chúng tôi đang ở t́nh trạng khó khăn nghiêm trọng.

 

Phi cơ tiếp tục bay về Sàig̣n.

 

Tôi nói với Val “vào pḥng rửa mặt,” ở đây tôi nói cho Val biết những cái trục trặc của tàu bay. Lúc hạ cánh, tôi sẽ ngồi hàng ghế trên, Val sẽ ngồi sau khoang phi cơ. Tôi bảo không biết chúng tôi thoát được không. Tôi dặn ḍ vài điều nhắn cho gia đ́nh tôi trong trường hợp Val sống sót và nếu tôi không thoát được. Tôi bảo “Hăy cho gia đ́nh tôi biết mọi sự cũng ổn thôi. Tôi đă không hề sợ hăi ǵ. “Tôi không khóc. Cô cũng vậy. Người ta không có th́ giờ dành cho xúc cảm, mà hiển nhiên đây là lúc đầy cảm xúc, nhưng người ta đành phải giấu đi thôi.

Thế rồi phút cuối cùng của chuyến bay phải đến. Từ sau thân tàu, tôi bắt đầu đi lên, và đây là lúc một hành động tự phát xuất hiện. Một người đàn ông trao vào tay tôi khẩu M.16. Anh không nói tiếng Anh, tôi không nói được tiếng Việt, tôi không rơ anh ta muốn ǵ. Nhưng rồi tôi hiểu: anh muốn tôi hăy nhận lấy khẩu súng của anh. V́ thế tôi khoác cái khẩu súng khốn nạn lên vai, trong lúc bước đi, người ta bắt đầu trao thêm cho tôi mọi thứ khác. Khi đến pḥng lái, trên vai tôi đă có vài khẩu M.16 lủng lẳng, một băng đầy đạn, một nắm đạn rời. Một vài người đă trao một hay hai viên, vài người khác trao cho tôi nhiều hơn, tôi c̣n có hai khẩu súng lục treo trên ngón tay. Chính lúc ấy – khi tôi đang nắm những viên đạn nhỏ và những thứ vũ khí trong tay – đột nhiên một cảm giác rơ rệt bừng ra – cuộc chiến của những người này đă chấm dứt. Họ không muốn súng đạn hay bất cứ ǵ nữa. Điều ấy thực chua chát: chính họ cũng đă ở cuối đường.

Khi tôi gần đến pḥng lái, một gă khùng đặt một quả lựu đạn lên trên các thứ trong tay tôi. Tôi nh́n xuống, tự nghĩ “Trời ơi – một quả lựu đạn!” Phản ứng bản năng tôi là định xoay người, ném xuống phía sau máy bay. Nhưng tôi sợ nó đụng cầu thang phát nổ, tôi nghĩ “Chúa-ơi-tôi-sẽ-làm-ǵ-với-những-thứ-này?” Tôi đi về pḥng lái, đá cửa. Charlie Stewart, kỹ sư chuyến bay mở ra. Tôi nói với anh: “Charlie, cầm lấy mấy cái này!” Tôi chưa bao giờ từng chạm tay đến một quả lựu đạn. Charlie cầm lấy. Anh ta và Mike Marriott vội t́m băng keo quấn lại. Họ quấn băng keo quanh quả lựu đạn, và mọi thứ tôi mang vào. Nếu lỡ có ǵ phát nổ, họ muốn bọc bớt lại càng nhiều càng tốt.

Đă đến lúc hạ xuống Sàig̣n. Tôi gọi Mike Marriott tới bên cửa hông, chỉ cho anh cách mở cửa khẩn cấp và cách bung cầu tuột. Thông thường, đó là việc của Atsako, nhưng cô là tiếp viên mới, tiếng Anh không thạo, không chắc cô sẽ đối phó được trường họp khẩn cấp. Cho nên tôi muốn có một người đàn ông ngồi đấy.

Lúc tôi đang ngồi ở ghế trên với Bruce Dunning th́ Daly từ pḥng lái bước ra, ông yêu cầu Bruce xuống phía sau tàu. Ông muốn Bruce mang các phim ảnh quay được ở Đà Nẵng ra phía sau, nếu không ai sống sót th́ các phim ảnh vẫn phải được bảo toàn. Tất cả đều cảm thấy mănh liệt: Nếu chúng tôi không thoát, thế giới vẫn cần phải biết những ǵ xảy ra hôm ấy.

Daly đến, ngồi xuống cạnh tôi. Ông hỏi tôi có biết ǵ t́nh trạng chiếc máy bay không. Tôi nói biết. Ông hỏi tôi có sợ không. Tôi nói “Không, tôi không sợ chết.” Ông choàng cánh tay ôm tôi, nói “Cô bảnh lắm. Tôi sẽ đăi cô nhậu một chầu nếu ḿnh thoát ở Sàig̣n.” Tôi nói “Ông Daly, nếu sống sót, xin ông mua cho tôi một két bia.” Ông ta cười.

Rồi Daly lại bảo tôi “Những người này không hề biết súng của tôi trống rỗng.” Ông đă bắn hết đạn trong lúc cố duy tŕ trật tự ở cầu thang máy bay tại Đà Nẵng. Ông bảo “Tôi sẽ giữ khẩu súng để kiểm soát họ khi hạ cánh, như thế cô sẽ có th́ giờ mở cửa và bung cầu tuột.” Tôi đáp “Tốt lắm.”

Chúng tôi bắt đầu một cuộc hạ cánh khá dài để xuống Sàig̣n. Phi cơ bay hơi nhanh, tất nhiên không nên bay nhanh như vậy để hạ cánh, nhưng chúng tôi không điều chỉnh được vành xếp ở cánh. Và tôi ngồi ở cái ghế đặt ngay vị trí bánh xe mũi, ngồi đấy, tôi có thể cảm thấy bánh mũi có hạ xuống không? Có chống được thân tàu hay không? Rồi tôi cảm thấy bánh xe chính chạm phi đạo, tôi thấy phi trường bay vượt qua. Tôi cố chờ để cảm thấy cái bánh xe mũi hạ xuống mặt đường. Nhưng Ken đă giữ cho mũi máy bay cách khoảng mặt đất thật lâu. Tôi không hiểu làm thế nào anh đă giữ được như thế. Bỗng tôi thấy các toà nhà vút qua. Tàu chúng tôi đang chạy ngay trên phi đạo. Tôi hiểu bánh mũi đă hạ và chịu đựng được. Thế mà tôi không cảm thấy nó hạ xuống lúc nào. Ken đă khéo léo điều khiển chiếc 727 đáp xuống Sàig̣n một cách nhẹ nhàng như thế. Rồi phi cơ cứ vùn vụt chạy trên phi đạo, v́ chúng tôi không thể ngừng. Cảm ơn Thượng Đế, Sàig̣n có được cái phi đạo dài 14,000 bộ! Bốn chiếc xe cứu hỏa chạy nhanh, kèm bên chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi quẹo qua đường vào bến. Phi cơ ngừng, không tỏ dấu hiệu rơ rệt nào là có sự nguy khốn cả. Tôi nhảy ra, mở cửa, nhưng không bung cầu cấp cứu. Joe Hrezo đă đứng trên mặt đất, hẳn anh ta đă chạy xuống bằng thang sau. Cùng một lúc, Joe và tôi la lên: “Xe tải thương, cáng cứu thương! Chúng tôi cần xe tải thương, cáng cứu thương.”

Người ta mang cầu thang đến cửa trước. Mọi người bên trong ngồi im lặng. Qua máy phóng thanh, Đức nhắc đi nhắc lại: “Ngồi yên, đừng di chuyển.” Không ai nhúc nhích. Sau đó chúng tôi bắt đầu chuyển người ra. Tôi nhớ có một người đàn ông châm một điếu thuốc. Ngay khi anh ta tới cửa trước, tôi yêu cầu anh không được hút thuốc v́ có xăng. Anh ta ném điếu thuốc, dí chân lên điếu thuốc cháy đỏ. Tôi thấy anh ta đi chân không. Tôi nghĩ “Chúa ơi, thế th́ đau lắm.” Nhưng anh không cảm thấy. Không ai trên tàu c̣n cảm thấy ǵ nữa.

Hầu hết hành khách được lùa sang một bên. Cáng tải thương mang vào tàu, họ khiêng người đàn ông với vết thương nặng trên đầu, rồi khiêng người đàn ông bị đổ ruột. Khi mọi người ra hết, chúng tôi bắt đầu kiểm điểm. Val và tôi bước qua lối đi, nhặt nhạnh súng, đạn, những quả lựu đạn bỏ lại trên ghế. Tôi nhận ra chúng nặng quá sức. Tôi bảo Val “Thôi kệ – Bỏ lại – sẽ có người khác đến lo chuyện ấy.”

Tôi và Val rời tàu. Chúng tôi là hai người cuối cùng rời tàu. Nh́n những chỗ hư hỏng của chiếc máy bay, chúng tôi sợ hăi khi thấy những mảng kim khí đă toác ra. Chúng tôi cũng sợ hăi nh́n những lỗ đạn trên cánh. Lúc ấy tôi nói với Val “Thật đáng ngạc nhiên là chiếc phi cơ này đă có thể bay được.”

Val và tôi được đón đến ban phi vụ, rồi đến khách sạn Caravelle. Người ta đưa chúng tôi tới văn pḥng ông Daly, nơi đây thông tín viên NBC đang phỏng vấn tất cả mọi người. Tôi ngồi trên chiếc ghế dài uống bia trong lúc họ quay phim.

 

Trong pḥng bên, vài chục phóng viên khác đang chờ. Họ đều muốn phỏng vấn chúng tôi. Tôi hỏi Daly “Chúng ta nên nói ǵ?” Ông ấy bảo: “Cứ nói sự thật.”

Daly đưa tất cả chúng tôi đi ăn tối hôm ấy. Khi về lại khách sạn, tôi tắm rất lâu. Tôi nằm xuống giường, nhưng không ngủ được. Tôi cứ nh́n thấy măi h́nh ảnh những người buổi sáng hôm ấy ở Đà Nẵng. Tôi thấy người đàn bà bị đẩy đạp đến chết. Tôi có thể thấy cả quần áo của bà ta và cái xác máu me nát bấy. Tôi thấy gia đ́nh năm mạng người bị bắn từ sau lưng ngă gục xuống. Rồi người đàn ông ḅ lồm cồm ở lối đi trên máy bay, lết đến bên tôi. Tôi nhận ra suốt đêm tôi sẽ không thể ngủ được. Tôi nhỏm dậy, ra ngồi ở bàn viết. Tôi nghĩ có lẽ tôi có thể viết lại. Tôi đă cố. Tôi viết được đôi chút. Nhưng thật khổ, chuyện ấy quá lớn đối với chữ nghĩa. Tôi không biết viết thế nào về câu chuyện đă xảy ra.

Thời gian trôi. Tôi mất ư niệm về thời gian. Chợt chuông điện thoại reo. Tôi bốc máy trả lời. Điện thoại viên bảo có một cú điện thoại viễn liên quốc tế. Tôi nh́n đồng hồ, nhận ra đă 7 giờ sáng. Rồi giọng một người đàn bà, nói trong điện thoại từ một đài phát thanh ở Los Angeles. Bà ta muốn phỏng vấn tôi. Bà đă xem cuốn phim CBS về chuyến bay Đà Nẵng trong mục tin tức. Thế là tôi kể cho bà nghe tất cả những ǵ đă xảy ra. Cuối cuộc phỏng vấn, bà ta nói một câu ngu ngốc nhất. Chưa bao giờ trong suốt đời tôi nghe ai có thể nói một câu ngu ngốc thế. Bà ta bảo: “Cô Wollett, nghe chừng cô c̣n buồn bực lắm!” Tôi không thể tin được sự ngây ngô như thế trong nhận xét của bà ta. Lúc ấy, biết bao ư nghĩ diễn ra trong trí. Nhưng tôi chỉ c̣n có thể nói: “Thưa bà, hăy đặt vấn đề như thế này: Đây không phải là câu chuyện mà người ta có thể chứng kiến mỗi ngày.”

Bà ta nói “Thôi, cảm ơn, cô Wollett. Nhân tiện, xin chúc cô một lễ Phục sinh vui vẻ.” Đến lúc ấy, tôi mới nhận ra: đó là ngày chủ nhật mùa lễ Phục sinh.

 

“…Đây không phải là câu chuyện mà người ta có thể chứng kiến mỗi ngày…”

 

 

Nước Mắt Trước Cơn Mưa,

 

Joe Hrezo

 

 

 

 

 

 

 

JOE HREZO

 (Trưởng Trạm Hàng không)

 

“Chỉ sung sướng v́ c̣n sống sót.”

 

...

 

Tôi là quản lư trạm World Airways ở căn cứ không quân Clark, Phi Luật Tân vào năm 1975. Tôi thi hành bất cứ công tác đặc biệt nào mà xếp Ed Daly muốn. V́ vậy khi một chiếc 727 của chúng tôi ở Việt Nam bị đạn, tôi nhận cú điện thoại bảo phải liên lạc với chủ tịch Philippines Airlines, cố thuê chiếc phản lực cơ Sydney Hawker 125. Tôi đoán hẳn Ed Daly có quen biết lớn với ông chủ tịch. Daly muốn thuê cái phản lực nhỏ này để chở một bộ phận thay thế cho phi cơ 727 ở Sàig̣n. Tôi điện thoại nói chuyện với mấy người bên sở điều hành.

 

Họ đồng ư chuyến bay. Tôi gặp người trong căn cứ Clark, lấy được phép cho chiếc phản lực 125 hạ cánh. Chiếc máy bay đến Clark lúc 11 giờ đêm. Rồi tôi và cái bộ phận nặng 25 cân Anh kia bay đi Sàig̣n trên chiếc máy bay này, đến Sàig̣n khoảng 2 giờ sáng.

 

Khi đến nơi, tôi đoán có lẽ họ đă bắt đầu xài mấy chiếc phi cơ 727 để tải người từ Đà Nẵng vào rồi. Vụ này cũng ổn thôi. V́ vậy có hôm tôi đă leo lên làm một chuyến. Không lộn xộn ǵ. Ngày kế, tôi lại đi, có cả hộ tống bên toà Đại sứ đi cùng. Lúc hạ xuống Đà Nẵng vừa đến trạm Air America th́ đám người ngợm khốn khổ tràn đến. Chúng tôi cho tàu bay ṿng Iại, thả cầu, hai gă hộ tống bự con bước xuống, bắt đầu cho người lên. Người ta xô đẩy chen lấn, khi tàu đă đầy ứ họ c̣n cứ cố chui vào. Lính hộ tống có lựu đạn cay, đem ra xài. Chỉ báo hại bọn tôi hơn là cho đám dân: gió thổi ngược. Nhưng rồi cũng xong, bốc được người là chúng tôi về.

 

Nhưng hôm ấy khi toà đại sứ nghe Daly nói ông ta sẽ đi nữa th́ họ bắt đầu nạo ông ta.

 

Daly đă đ̣i gặp Đại sứ Graham Martin từ 10 hôm rồi. Cuối cùng Martin mới chịu tiếp, có tôi đi cùng với Daly. Râu ria 3 ngày không cạo, Daly đội một cái mũ cao bồi tổ bố. Bước vào một cái, câu đầu tiên ông ta nói: “Bây giờ ông có thể tắt mấy cái máy ghi âm khốn nạn của ông đi!” ông Đại sứ bảo “Ô kê! Không có cái máy nào bật lên cả.” Daly nói: “Tôi chỉ cần thông báo trong ṿng một, hai ngày là có thể gặp các giáo hoàng, quốc trưởng, tướng tá, vậy mà sao ông bắt tôi phải đợi đến mười bữa mới được gặp?” Daly sùng lắm. Ông ta bảo Đại sứ là Sàig̣n sẽ sụp đổ trong ṿng hai tuần lễ, c̣n Đại sứ th́ cứ bảo “không, không đúng”. Daly hỏi thế ông định làm cái tṛ ǵ đây, bởi v́ ông nên nói thẳng cho mọi người rơ t́nh h́nh đang xảy ra làm sao, hơn là cứ quanh co che đậy. Daly nói – tôi giật ḿnh khi nghe ông ta nói – với ông Đại sứ khốn khổ: “Thứ người như ông chỉ là thứ đứng bán xe phế thải! Không hơn không kém!” Tôi bị lâm vào t́nh trạng như vậy. Hai ông này kiểm soát mọi thứ, Daly nắm được tiền, c̣n tôi cứ ngồi đực mặt mà nghe.

 

Ông Đại sứ không hẳn là người thô lỗ. Ông là tay ngoại giao. Nhưng Daly la lối lung tung. Tôi phải nói ông Đại sứ khá lịch thiệp, nhưng ông ấy cũng chẳng có thể nói ǵ được nữa? Tôi chắc ông ta đă cố làm những ǵ tốt nhất mà ông ấy tin rằng ông phải làm. Nhưng tôi cũng chẳng rơ thế nào. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn không lấy được phép bay ra Đà Nẵng.

 

Daly bảo: “Đi như thường. Cho chúng biết bọn ḿnh làm việc như thế nào.” Chúng tôi sẽ lấy cả ba cái máy bay rồi đi. Ông ta bảo “Rồi, cậu với tớ biến. Ḿnh sẽ tổ chức vụ này.” Nhưng tôi nghĩ là toà Đại sứ đă nói ông đừng đi, v́ không an toàn!”.

 

Khi làm việc cho Daly, người ta không ngủ được nhiều. Ông ta thích thức khuya dậy sớm. V́ vậy hôm sau mới tinh mơ đă có người đánh thức tôi dậy. Không nhớ ai. Họ nói Daly đang chờ. Phải sẵn sàng tất cả mấy phi hành đoàn trong ṿng năm phút. Khi gặp Daly ông ta cộc lốc nói “Đi!” Thế là đi.

 

Tôi ngồi phía sau với Daly, Bruce Dunning và Mike Marriott. Daly ngồi trên cái ghế bên cạnh cửa, nói chuyện với họ. Daly nói “Tốt – Bọn ḿnh sẽ ra ngoài ấy. Đến bến của Air America, Joe, cậu và tớ sẽ nhảy ra tổ chức công việc.” Tôi từ chối thế quái nào được?

 

Chúng tôi ra ngoài ấy, hạ cánh, phi trường rất yên. Nhưng ngay khi máy bay vừa chậm Iại, người ta đổ ra từ khắp phía. Bỗng nghe Daly bảo “Ô kê! Tớ lên nói Ken hạ cầu, ḿnh sẽ ra.” Mẹ kiếp. Tàu bay dừng. Cầu hạ. Nghĩ là đă đến lúc rồi đây nên tôi nhảy ra. Nhưng ngay sau đó tôi thấy cái cầu rút lên, tàu bay tiếp tục lăn bánh. Khi rút cầu, Ken Healy quay tàu ra phi đạo, đánh một ṿng rồi trở đầu Iại. Nhưng đó chính là lúc người ta bắt đầu ào đến. Một thằng cha đứng bắn vào máy bay. Tôi thấy Ken lệch tay lái sang một bên, làm như sắp cán lên hắn. Không biết tại sao mà cha này không bị đụng. Tôi có nhét một khẩu 38 ngắn ṇng trong người. Nhưng tôi tính thầm: Nếu tôi nổ cha này th́ tôi sẽ bị chơi lại văng cứt. Nên tôi giữ êm khẩu súng dưới áo.

 

Có một xe tải chở đầy ắp người chạy rượt bên cạnh máy bay. Đứng dưới đất một ḿnh, tôi chứng kiến mọi sự, sợ văi đái. Cả đám người ào ào chạy bên tôi, vài trăm mạng. Một xe jeep nữa đầy người chạy tới, một cha cầm khẩu M16 lăm lăm ria tưới vào. Cái xe jeep lật lộn ṿng, người văng túa ra hết. Vậy là tôi cố thu ḿnh t́m cách đi thoát về phía đài kiểm soát không lưu, v́ chẳng cách nào lọt vào lại tàu bay được nữa. Nếu tôi là Ken Healy tôi đă cất cánh vọt rồi. Nhưng anh ta cũng không vọt nổi. Trên phi đạo, xe cộ ngổn ngang. Không lối chạy. Do đó anh ta mới cho tàu xuống cuối phi đạo, từ đó quay một ṿng 180 độ phía xa tuốt dưới đường bay. Lúc ấy tôi lọt vào đài không lưu rồi, mấy người Việt Nam ở đấy cho tôi vào. Vào th́ ô kê thôi! Liên lạc được với Ken trên điện đài, tôi bảo “Ê, Ken, tui sẽ chui ra chỗ bến Air America. Nhắm nổi không?” Anh ta nói “Ô kê! Canh chừng? Khi đến lưng cầu tôi sẽ xoay một ṿng. Vừa dứt, phải lọt vào tàu bay ngay!”

 

May phúc, tôi vào lọt. Anh ta không dừng, cho phi cơ chạy taxi rề rề. Tôi thấy rơ Daly đang quật vào đầu người ta với khẩu súng và đá bọn đó. Lúc này phần tôi có ai bám lấy tôi cũng không cảm thấy ǵ. Chi có mỗi một chuyện là phải chui vào lại cái tàu bay. Nghĩ có mỗi một chuyện ấy thôi! Cuối cùng tôi lọt. Vừa khi tôi lên được, Ken rú máy. Máy bay bốc lên với cây cầu thang c̣n thả ṭn ten. Tôi hăy c̣n đeo ở bực thứ hai. Daly đứng trên tôi một bực khi máy bay cất cánh.

 

Tôi biết khi tàu rú máy có vài người đeo lấy tôi. Tôi biết tôi đá một người văng ra, nhưng lúc ấy máy bay chưa cất lên. Phải chi lúc ấy máy bay đă cất cánh!

 

Nh́n lên tôi thấy Mike Marriott đang quay phim trên đầu cầu thang. Nh́n xuống tôi thấy mấy cái tàu thủy ở cảng Đà Nẵng bấy giờ bé tí, giống như đồ chơi. Phải nói suốt lúc ấy tôi sợ văi cứt. Có một cha mắc kẹt vào cầu thang. Cầu này có một trục rút, không biết sao cha này lọt vào, nửa người trong tàu bay, cẳng tḥi ra. Chúng tôi cố t́m cách lôi hắn, không nhớ cuối cùng khi kéo hắn ra được th́ tàu bay đă lên đến cao độ nào. Chúng tôi cố rút cầu lên nhưng vô phương. Tôi rút thắt lưng, Daly cũng vậy, chúng tôi lấy thắt lưng buộc cái thành cầu vào nắm cửa. Vào đến trong tàu th́ cảnh tượng hết tin nổi. Mỗi hàng ghế nhồi nhét bốn, năm, sáu người. La liệt, đa số đàn ông cả.

 

Thiệt khoan khoái hết sức là tôi trở vào được trong tàu bay. Mấy bà tiếp viên làm việc hết xẩy. Nhiều người trên đầu bị quật nặng, được mấy bà săn sóc chu đáo. Tôi đi vào pḥng máy bảo Ken “Cảm ơn nhiều.” Anh ta nói “’Tất nhiên tôi sung sướng được thấy lại ông!” Lúc ấy Daly ở đó. Daly không tin nổi số người trên tàu. Phần lớn là binh sĩ. Ông ta nói “Nh́n bọn lính khốn kiếp. Nh́n đống súng ḱa. Mong không có quả lựu đạn nào bung ra nhé?” Bấy giờ lựu đạn lăn long lóc trên sàn. Daly gọi người thu mang vào pḥng lái. Chỉ một chốc, pḥng lái đầy súng đạn.

 

Ken lo sốt vó v́ tàu bay mất xăng. \/́ thế tôi biết anh ta cố vào Phan Rang. Nhưng khi bắt đầu đổi cao độ xuống Phan Rang th́ họ gọi cho biết là không “an toàn.” Nhưng ai bảo đảm được chuyện đổ xăng. Bạn biết mấy cái chữ “thân thiện, bất thân thiện,’” “’an toàn, bất an toàn”” chứ? Nói cách khác, có thể xăng nhớt ở Phan Rang đă vào tay địch quân rồi. Họ không dám chắc. V́ thế Ken bảo “vô Sàig̣n.” Tụi tôi bèn bay vào Sàig̣n.

 

Tụi tôi bàn nhau về mấy cái bánh xe để hạ cánh. Chẳng ai biết rơ là chịu nổi hay không v́ khi lui tàu bay, bánh bị lọt hố. Điều động bánh xe cũng không được v́ có một cha đă lọt trong gầm bánh xe rồi.

 

Nhưng rồi cũng hạ cánh xong. Chưa bao giờ tôi thấy lính đông như thế. Đông hơn cả mặt trận. Họ vây lấy cái tàu bay.

 

Tôi ra phía sau lấy lại cái thắt lưng. Nó đă tự tuột ra từ hồi nào. Tôi khiêng một người mắc kẹt trong thang với cái cẳng nát. Giao cha này cho lính rồi cùng mọi người về khách sạn nơi Daly ở.

 

Đêm ấy trong pḥng ăn khách sạn, lúc Daly đang nói chuyện với các phóng viên th́ ở đằng sau, người ta cứ nói chuyện ồn ào. V́ vậy Daly đứng đậy nói “Xin quư vị lưu ư.” Ông ta rút khẩu súng đập lên mặt bàn, bảo “Tôi muốn quư vị lưu ư cho – hoặc là có kẻ ăn đạn ở đây – ngay bây giờ!” Mọi người im phắc. Vài phóng viên bỏ ra ngoài. Tôi muốn nói với bạn thế này: Ed Daly là một người đầy cá tính. Nhiều người không ưa ông, nhưng ông vẫn làm bất cứ cái ǵ ông muốn. Bất cứ khi nào ông thích. Và ông ta làm được việc. Ông không sợ nói thẳng những ǵ ông nghĩ. Ông có thể làm tổn thương nhiều người, nhưng ông ta không hại ai cả. Nếu bạn có lập trường tốt, bạn giữ vững lập trường, ông ta kính trọng bạn. Tôi đă đối xử với ông ta như vậy, phải, tôi làm như vậy.

 

Nhưng mà thôi, đêm hôm ấy tôi sung sướng là hăy c̣n sống sót. Chỉ sung sướng v́ hăy c̣n sống sót. V́ vậy lát sau tôi băng qua bên kia đường vào một quán nhậu, kiếm một cô bạn gái để vui chơi chút đỉnh.

 

NMTCM / P1NM / C1 / JH

 

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Mike Marito

 

MIKE MARITO 

(Chuyên Viên Quay Phim)

 

 

 

“Ngập cứt?”

 

.

 

Tôi là chuyên viên thu h́nh của chuyến bay cuối cùng ra Đà Nẵng hôm ấy. Bruce Dunning, Mai văn Đức và tôi đă xin được phép đi với Ed Daly. Khi chúng tôi hỏi để xin theo, ông ta bảo “Tất nhiên là được, càng đông càng vui.”

 

Khi chúng tôi sắp hạ xuống Đà Nẵng, hai hàng phi đạo dưới ấy hoàn toàn trống trải, không một bóng người. Không có ǵ trên đường bay hay đường vào bến cả. H́nh như, cũng không có ai lai văng ở các khoang chứa máy bay. Mọi sự có vẻ trái hẳn với các nguồn tin chúng tôi nghe nói là Đà Nẵng sắp sụp đổ.

 

Chúng tôi dự liệu gặp cảnh hỗn loạn và một đám động giận dữ, nhưng từ trên máy bay chúng tôi nh́n thấy Đà Nẵng và các con đường trong phố đều êm. Nên chúng tôi hạ cánh. Khi tàu bay từ phi đạo vưa quẹo vào đường bến th́ đột nhiên người ta ùa ra từ các nhà chứa máy bay. Phi trường Đà Nẵng bấy giờ là một căn cứ không quân khổng lồ trong thời chiến, từ các nhà chứa máy bay của căn cứ khổng lồ ấy, chắc phải đến 20,000 con người chợt hiện ra và ùa tới máy bay chúng tôi. Họ ngồi trên xe jeep, xe gắn máy, thiết vận xa, họ dùng mọi thứ xe tư nhân – mọi phương tiện xe cộ mà loài người đang sử dụng – họ chạy đến chúng tôi. Chúng tôi dừng lại một lúc giữa hai phi đạo – Tôi cho máy thu h́nh chạy. Trước khi thấy đám người này, chúng tôi định ra khỏi phi cơ. Nhưng chợt tôi có cảm giác ruột gan quặn thắt – cái cảm giác của những người làm tin chiến trường. Tôi tự bảo “Đừng, đừng ra khỏi tàu bay.” Những người này đang hoảng hốt. Bất cứ người nào nhỏ con đến đâu nhưng khi hoảng hốt, họ mạnh hơn ḿnh nhiều. Tôi đem máy quay phim ra phía cầu thang sau, đứng đấy thu h́nh. Trong lúc phi cơ c̣n di chuyển, người đă chạy ùa lên thang. Chắc có người đă leo qua bên hông cầu, bẻ cong lại, nên cầu thang không rút lên được nữa. Trong khi tôi đang quay, họ bắt đầu bắn lẫn nhau. Họ nổ súng loạn xạ từ phía sau để chen lại gần máy bay. Lúc đó, tôi ngoảnh lại bảo Bruce “Mẹ kiếp, bọn ḿnh ngập cứt rồil”

 

Chúng tôi chạy rà quanh phi trường. Cuối cùng Daly quyết định ông ta nói: “’Bay mẹ nó khỏi đây đi.” Lúc ấy chúng tôi bắt đầu cất cánh từ ngay cuối đường bến. Chúng tôi đụng một cái xe khi bắt đầu bốc lên. Mấy bánh xe bên trái tông phải một cái xe jeep. Lúc đầu tôi tưởng là chiếc máy bay vẫn c̣n chạy rà rà v́ tôi c̣n đứng trên thang tàu bay. Chợt nghe máy rú tôi mới nghĩ “Mẹ kiếp, ḿnh hăy c̣n đứng trên thang.” Tôi không muốn bay khỏi mấy bực thang chút nào. Lúc ấy có năm người Việt Nam đứng ở những bực dưới. Khi mũi tàu chống lên, lực bay và vận tốc bắt đầu bung mấy người ra. Một người cố bám được một lát, nhưng khi tàu bay lên khoảng cao độ 600 feet, anh ta buông tay bay như lính dù. Tôi chứng kiến anh ta bắn vụt ra không trung. Không thể tin được!

 

Lúc ấy ư nghĩ chạy qua đầu tôi là: “Phải sống sót trong vụ này, phải thu tất cả h́nh ảnh vào phim. Đây là giây phút khởi đầu của sự sụp đổ một quốc gia. Quốc gia này đă cáo chung. Đây là lịch sử, ngay đây, bây giờ. Phải ghi lấy lịch sử này bất kể cá nhân tôi đang cảm thấy như thế nào.” Tôi rời cầu thang, thu h́nh qua cửa sổ máy bay. Suốt lúc bay về, tôi mang nỗi hoài nghi – một nỗi hoài nghi hết sức mạnh mẽ, tôi muốn nói: Không cách ǵ chúng tôi có thể hạ cánh được. Phi công của chúng tôi, Ken Healy không điều động được mấy cái bánh xe để hạ, họ bảo có một cái xác người vướng trên ổ bánh xe. Cánh máy bay và mấy cái vành xếp đă hỏng, xăng của chúng tôi tiếp tục cạn.

 

Tôi ngồi trong khu dọn ăn phía sau. Tôi không có ghế ngồi. Lính tráng trên phi cơ đều có súng M16, và súng lục 45. Tôi tính: dẫu máy bay không bị rơi, vẫn có thể xảy ra chuyện những người lính này cướp máy bay đ̣i sang nước khác. Chúng tôi thực lo ngại chuyện ấy suốt buổi. Nên sau, chúng tôi t́m cách nói với họ: “Này quư bạn, mấy thứ này có thể bất ngờ gây tai nạn – Quư bạn có thể giao cho chúng tôi chăng?” Đức và tôi đi quạnh nhặt nhạnh các vũ khí và những quả lựu đạn. Chúng tôi dùng băng keo quấn lựu đạn để giữ chặt kíp Iại, rồi bỏ ra phía sau phi cơ.

 

Chúng tôi hạ cánh xuống Sàig̣n an toàn. Mỗi khi có trục trặc, cảnh sát luôn luôn t́m tụi quay phim – Nên chúng tôi một lần nữa, dự liệu trước việc này. Chúng tôi trao hết phim cho Bruce Dunning để ạnh ta giấu dưới áo khi chúng tôi ra khỏi phi cơ. Họ không biết là có một thông tín viên mạng phim thoát ra. Tụi tôi làm kiểu này hoài. Chúng tôi sẽ gây chú ư cho cảnh sát bằng những dàn máy móc quay phim để họ bu đến, rồi người thông tín viên chuồn đi. Quả nhiên cảnh sát Sàig̣n giữ Đức và tôi một lúc – Nhưng Bruce đă lặng lẽ bước, như không biết ǵ đến chúng tôi. Anh ta mạng được mấy cuốn phim đi thoát.

 

Chúng tôi được hai giải thưởng với bộ phim ấy. Câu lạc bộ báo chí nước ngoài một giải, Hiệp hội nhiếp ảnh viên báo chí quốc gia một giải nữa. Đến bây giờ – Tôi vẫn không thực sự tưởng tượng nổi những chuyện ấy là một cơn ác mộng – nhưng cho đến bây giờ, mỗi khi nh́n thấy bất cứ cái ǵ nhắc nhở tới Việt Nam, lập tức tôi thấy hiện ra các h́nh ảnh trong hồi tưởng như một làn chớp. Bất cứ lúc nào thấy cái ǵ dính dáng đến Việt Nam tôi lại thấy làn chớp ấy. Nó trong suốt như pha lê trong trí tôi. Suốt đời, tôi sẽ không bao giờ có thể quên.

 

NMTCM / P1NM / C1 / MM

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Susan McDonald

 

SUSAN McDONALD

 

580244_10151992920081953_576839680_n

Susan McDonald

 

(Nữ Y Tá Cô Nhi Viện)

 

“Chỉ là những tấm h́nh của lũ trẻ con.”

 

Tôi là nữ y tá, tốt nghiệp đại học Coretto Heights ở Denver năm 1970, sau đó làm việc ở Kentucky khoảng ba năm. Bấy giờ mỗi đêm truyền h́nh đều chiếu về chiến tranh Việt Nam. Tôi theo dơi thường thấy cảnh trẻ con bị bắn. V́ quan tâm đến việc săn sóc trẻ, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện xin sang Việt Nam làm việc.

 

Tôi viết thư cho một số địa chỉ để t́m tin tức việc làm tại Việt Nam. Bấy giờ một trong những người tôi viết thư hỏi là Rosemary Taylor, một phụ nữ người Úc làm việc tại Việt Nam từ 1968. Rosemary chú ư đến việc săn sóc trẻ vô thừa nhận và t́m các gia đ́nh nhận nuôi những đứa trẻ này. Bà đă phục vụ tại một viện nuôi trẻ vô gia cư ở Phù Mỹ. Sau bà tự lập nên những trung tâm riêng để săn sóc trẻ mồ côi và trẻ vô thừa nhận. Bà hoạt động qua các cơ quan Việt Nam, qua Toà Đại sứ các nước để t́m các gia đ́nh nhận nuôi những đứa trẻ này. Rosemary trả lời thư, nói rằng có lẽ tôi sẽ hữu ích trong việc làm với trẻ mồ côi. Hăng Air France cấp cho tôi một vé máy bay đi Việt Nam, đổi lại tôi thỏa thuận là ngày trở về sẽ đi kèm với năm đứa trẻ rời Việt Nam. Ngày trở về được để trống.

 

Tôi chưa đến Á châu bao giờ. Thật ra, tôi chưa rời Hoa Kỳ bao giờ. Lần này đi New York, rồi bay sang Paris. Tôi ở lại Paris vài ngày với mấy người bạn, rồi sang Sài G̣n.

 

Tôi không được chuấn bị trước về cuộc sống ở đấy. Tôi lớn lên ở Hoa Kỳ, một xứ sở sung túc, phương tiện độc nhất để làm quen với những ǵ khác hơn Hoa Kỳ chỉ là vô tuyến truyền h́nh. Nhưng truyền h́nh không chuyển đạt được cái sự thực nào khác ngoài khuôn khổ kinh nghiệm của tôi tại Hoa Kỳ. Nhớ lại lúc mới đến Việt Nam tôi đă bị tràn ngập bởi những ấn tượng đầu tiên về sự nghèo khó. Nh́n những căn nhà lụp xụp dọc bờ sông Sài G̣n, tôi cứ hỏi có thật con người ta sống trong những căn nhà như thế hay không. Sau này tôi nh́n mọi vật với một ánh sáng khác. Tuy nhiên cái ấn tượng đầu như thế. Nó chỉ đặt trên mỗi một ư tưởng: Đây đúng là một xứ sở hết sức nghèo nàn, ở xứ này người ta sống dọc bờ sông, ḍng sông này cũng được dùng làm cống thoát rác.

 

Tôi ở ngay Sài G̣n, làm cho một viện cô nhi tên gọi “Thiên Đường Mới.” Trước là một biệt thự của người Pháp, nay trở thành nhà trẻ. Khi tôi đến, hăy c̣n hai y tá người Pháp làm việc ở đấy. Họ muốn đổi đi làm với những nhóm ty nạn khác nên tôi đến thay thế. Họ chỉ ở lại có hai tuần sau khi tôi đến. Trong nhà có chừng năm mươi trẻ vào tuổi biết đi chập chững. Đây là nhà trẻ thứ hai hoặc thứ ba cùng loại do Rosemary lập ra. Một nhà nữa dành cho trẻ lớn hơn. Một nhà khác cho trẻ sơ sinh. Sau này chúng tôi cũng săn sóc cả những trẻ sơ sinh trong nhà trẻ của chúng tôi.

 

Tôi yêu thích công việc của tôi. Không lúc nào tôi cảm thấy nhớ nhà v́ trẻ con luôn luôn luẩn quẩn quanh tôi như trong một đại gia đ́nh. Tôi không bị trở ngại ngôn ngữ, v́ với lứa tuổi chập chững, các trẻ này cũng chỉ như mọi trẻ khác cùng tuổi ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

 

Một trong những công việc tôi phụ trách là mua sắm đồ ăn. Tôi mua các thứ ngoài chợ, bỏ vào máy xay, nghiền ra thành đồ ăn trẻ, chúng tôi không được tiếp viện đồ ăn trẻ thứ của Mỹ, nên cứ mua cà rốt, các thứ rau trái khác và thịt để bỏ vào máy xay. Lúc đầu tôi mua thịt gà, tôi quen ở Mỹ thịt gà là rẻ nhất, tôi tưởng ở Việt Nam cũng vậy, sau mới biết thịt gà rất đắt, cá và tôm hùm lại rẻ hơn. Tôi phải học mới biết mua thứ ǵ rẻ để tiết kiệm. Người ta cũng cho đồ ăn, có hôm họ cho vài thùng mận, suốt mấy ngày ấy chúng tôi dùng mận, có hôm họ cho vài thùng mứt, suốt mấy ngày ấy chúng tôi dùng mứt.

 

Tôi làm quen với tất cả những chuyện này, không có trở ngại nào đáng kể. Dưới miệt Hậu Giang, có mấy cô nhi viện khác, chúng tôi cũng hay lái xe xuống chở đồ tiếp tế và thuốc men cho họ. Ở các cô nhi viện này, nhiều trẻ chỉ mất cha hoặc mẹ, con cái được gửi vào đấy nhờ nuôi hộ. Đối với những trẻ này chúng tôi không làm ǵ nhiều ngoại trừ chích ngừa, cung cấp áo quần hoặc cho bất cứ đồ tiếp tế nào khác chúng tôi có. Khi săn sóc đám trẻ này, chúng tôi dự liệu sẽ có ngày cha hoặc mẹ chúng lănh con về lại, nên tất nhiên chúng tôi không lo việc t́m các gia đ́nh nhận làm con nuôi. Thực tế ra, trẻ em nào c̣n bất cứ một người bà con – như anh em họ, cô d́, chú bác – đều không được cho làm con nuôi – Chúng tôi giữ hồ sơ trẻ chu đáo, không tạo vấn đề cho các gia đ́nh nhận con nuôi, các đứa trẻ được cho làm con nuôi đều là trẻ bị bỏ rơi, trẻ vô thừa nhận, các dữ kiện về trẻ vô thừa nhận đều được đăng tải cẩn thận trên báo để xem có thân nhân t́m kiếm không.

 

Vào thời gian này, quân đội Mỹ đă rút ở hầu hết các nơi, nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn. Lính tráng, quân xa vẫn là cảnh tượng hàng ngày trên đường phố. Mười một giờ tối giới nghiêm, không ai được ra ngoài. Đêm đêm có pháo kích, chúng tôi đều nghe tiếng nổ. Nhưng vào năm 1973, không có dấu hiệu ǵ cho thấy chung cuộc xứ này đă đến, thời gian đă dứt, hay bất cứ cái ǵ như vậy. Tôi ở đấy, thực tế là sống với thời gian vô hạn định, chưa bao giờ nghĩ một ngày nào trong tương lai sẽ rời đi. Tôi yêu thích việc tôi làm, tôi được người Việt đối xử tử tế, chúng tôi mướn người Việt làm nhân viên trông coi cô nhi, họ là các phụ nữ trẻ gọi là “y tá dưỡng mẫu.” Cứ một y tá dưỡng mẫu phụ trách năm trẻ, trừ khi trẻ đau yếu hoặc cần có sự săn sóc đặc biệt, th́ một y tá dưỡng mẫu coi một trẻ.

 

Có nhiều trẻ bị sứt hàm ếch, sứt môi, sứt ṿm miệng bị bỏ vô thừa nhận. Tôi không biết tại sao, có thể v́ cha mẹ chúng cảm thấy bất lực trong việc đương đầu với sự tật nguyền, hoặc v́ tin dị đoan ǵ, không rơ, nhưng chúng tôi có rất nhiều trẻ như thế, chúng dễ bị nhiễm bệnh hô hấp, trừ khi được cho ăn, cho bú chậm răi. V́ chúng nuốt đồ ăn khó khăn, chúng tôi muốn chắc chắn chúng không bị nghẽn đồ ăn trong phổi, nên chúng tôi cắt đặt: cứ một y tá dưỡng mẫu phụ trách một em loại này.

 

Những trẻ này khi được nhận làm con nuôi ở ngoại quốc, sẽ được giải phẫu chỉnh h́nh. Một trong những lư do khiến tôi muốn trở thành bác sĩ – hiện tôi đang theo học y khoa – là v́ tôi muốn giúp các trẻ em bị sứt ṿm miệng. Tôi hy vọng kỹ thuật giải phẫu chỉnh h́nh sẽ dễ dàng hơn và sẽ giúp thay đổi cuộc đời những em bé ấy.

 

Chúng tôi gửi các em được nhận làm con nuôi đi ngoại quốc khá thường xuyên. Việc này tạo ra những khó khăn t́nh cảm. Tôi rất buồn khi trẻ ra đi, nhưng chúng tôi biết một mái gia đ́nh thương yêu các em sẽ là điều tốt nhất cho các em. Tôi đă đưa nhiều trẻ ra máy bay. Việc này cũng tạo khó khăn cho cả các nhân viên coi trẻ, v́ có sự gắn bó giữa họ và những đứa bé, nhất là đối với các em đă ở lâu với chúng tôi.

 

Những gia đ́nh muốn nhận nuôi cô nhi phải làm thủ tục qua một cơ quan, cơ quan này sẽ nghiên cứu gia đ́nh ấy, cơ quan chúng tôi đặt tại Boulder, Colorado. Họ cần bảo đảm rằng những gia đ́nh nhận nuôi cô nhi phải có khả năng săn sóc trẻ, cũng phải được bảo đảm rằng cộng đồng địa phương sẽ chấp nhận đứa trẻ, các nước Mỹ, Úc, Thụy Điển, Đức, Phần Lan, Pháp, Bỉ, Gia Nă Đại, Anh, Ư, Thụy Sĩ, Lục Xâm Bảo đều đă nhận cô nhi Việt Nam.

 

Khoảng cuối 1974, nhiều thay đổi bi đát bắt đầu xảy ra. Thoạt tiên, việc tiếp liệu mỗi lúc một khó. Rồi giờ giới nghiêm càng lúc càng sớm hơn. Nhưng không một ai báo cho chúng tôi biết chiến tranh sắp chấm dứt. Không một ai bảo chúng tôi đóng cửa cô nhi viện.

 

Việc gửi trẻ ra khỏi xứ bắt đầu lôi thôi, các bộ trưởng chính phủ làm việc với chúng tôi h́nh như thay đổi mỗi ngày, các bộ trưởng mới không biết ǵ những thủ tục thông thường, cứ thế, chúng tôi luôn luôn phải làm việc với những người mới, c̣n những người trước đă cũng làm việc, bây giờ đều rời xứ cả. Chúng tôi gặp nhiều khó khăn về việc gửi trẻ em đi bằng máy bay phản lực của World Airways. Rồi sau đó, cũng gặp nhiều phiền phức giấy tờ về việc cho trẻ rời xứ bằng không vận cô nhi của không quân Mỹ, chiếc C-5A. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng thu xếp được giấy phép cho các em có thông hành lên chuyến bay. Tôi nhớ chúng tôi đă gửi 230 cô nhi của chúng tôi lên chuyến C-5A ấy.

 

Mười lăm phút trước chuyến C-5A này, có vài em đă được gửi đi Úc. Tôi ở tại nhà để trông coi việc sắp xếp cho các em được đi đúng chuyến. Tôi không ra phi trường Tân Sơn Nhất, Rosemary phụ trách việc ấy. Khi bà ở phi trường về, tôi nhớ bà ấy bảo C-5A là một cái máy bay thật lớn. Đáng Iẽ trẻ được gửi đi bằng máy bay Nightingale, loại máy bay tiếp vận y tế quân đội, loại này có giường cũi cho trẻ, nhưng rồi chúng được gửi đi bằng chiếc C-5A là loại máy bay vận tải khổng lồ, việc này làm Rosemary 10 ngại. Thế là chỉ vài phút sau khi bà ấy về, tôi nhận được cú điện thoại từ bệnh viện Cơ Đốc. Người đàn bà bên kia đầu giây nói “Cô có thể gọi các nhân viên coi trẻ lại đây không? Trẻ em của cô bị thương, sắp mang vào.”

 

Chúng tôi nhảy vội lên taxi, chiếc Renault hai màu vàng và xanh, chạy vào bệnh viện. Trên đường không ai nói một lời, chúng tôi không biết chuyện ǵ xảy ra. Suốt buổi, tôi nghĩ ngợi: “Tàu bay đụng? Tàu bay rơi? Trục trặc lúc cất cánh? Chuyện ǵ xảy ra vậy?”’

 

Khi chúng tôi đến bịnh viện, họ bắt đầu chở trẻ vào, đứa sống, đứa chết. Đủ thứ phương tiện chuyên chở được đem ra sử dụng: vận tải, xe cứu thương, xe Jeep, xe tư nhân, c̣i hụ inh ỏi khắp nơi.

 

Có lẽ cái xúc động này là xúc động mănh liệt nhất của suốt đời tôi, chiếc máy bay rơi nát, có những người bạn tôi bỏ ḿnh. Những người lớn, những trẻ con mà tôi đă săn sóc để gửi lên chuyến bay, cũng chết. Tôi nh́n những thân thể nhỏ bé đầy thương tích như nh́n thấy một cơn ác mộng.

 

Tôi không định danh được nhiều trẻ. Nhiều đứa không nhận ra được nữa. Tôi có mở một hai bao đựng xác, nhưng cảnh tượng không chịu nổi. Nên tôi ngừng. Trên chuyến bay cũng có một số thư kư bên văn pḥng tùy viên quân sự, vài người chết. Tôi bèn đi dọc các pḥng trong bịnh viện t́m xem ai c̣n sống, c̣n nhận được ai không.

 

Trong khung cảnh Việt Nam bấy giờ, việc máy bay rớt không phải là việc bất thường. Những nhân viên làm trong nhà trẻ có thể nhận một cú điện thoại rồi người ta báo cho biết chồng bà ấy chết, hay con bà ấy chết, chúng tôi đă nh́n thấy quá nhiều quan tài, chúng tôi thấy xe tải chở áo quan đi qua mỗi ngày, cho nên việc máy bay rớt gần như phù hợp vào tất cả các chuyện khác xảy ra trong khung cảnh chung quanh chúng tôi. Nếu chuyện này xảy ra trong một xứ sở hoà b́nh, có lẽ nó sẽ khác. Vài em trong nhà trẻ chúng tôi hăy c̣n sống. Một bé gái mà tôi săn sóc từ lâu bị nứt sọ, găy xương hông. Tôi t́m thấy bé gái này trong nhà thương ngày hôm sau, con bé không biết tí ǵ về t́nh trạng thương tích của nó. Tôi sung sướng tràn trề khi t́m ra con bé, nỗi sung sướng trộn lẫn với những xúc động của sự chết chóc. Những ngày sau nữa, tôi cũng t́m thấy thêm vài em khác thuộc nhà trẻ chúng tôi c̣n sống sót sau vụ máy bay rớt này.

 

Rất nhiều người có mặt ở nhà thương sau khi xảy ra vụ rớt máy bay. Nhiều nhân viên bên toà đại sứ và bên USAID đề nghị cho chúng tôi dùng xe chở trẻ em về Iại nhà trẻ, chúng tôi ở nhà thương cho đến khuya để kiểm điểm đám trẻ đồng thời giúp những em tiếp tục chuyến bay xuất ngoại.

 

Tôi không rơ lúc ấy tâm thần tôi có đủ b́nh tĩnh để quyết định t́nh trạng sức khỏe của đám trẻ không. Khi t́m thấy những em c̣n thở là tôi đă đủ sung sướng lắm. Tôi chú ư đến những thương tích bên ngoài, những vết cắt… nhưng không đủ sức xem kỹ những trẻ c̣n sống sót.

 

Nhiều em phải đi ngay hôm sau trên chuyến bay thuê của hăng Pan Am. Những em c̣n thương tích khá nặng cũng vẫn được gửi đi v́ người ta đă t́m được cho các em một mái gia đ́nh.

 

Vào cuối tuần lễ thứ nhất của tháng tư, chúng tôi biết giờ cuối cùng đă điểm. Toà đại sứ đă lưu ư đến việc di tản công dân Mỹ ra khỏi nước. Nhưng tôi không thể rời bọn trẻ mà đi. Không ai thay thế việc điều hành nhà trẻ. Không ai nắm vững việc ăn uống và các thứ tiếp liệu mà bọn trẻ cần, c̣n nhân viên nhà trẻ th́ không ở vào địa vị có thể chu toàn tất cả những trách nhiệm này.

 

V́ vậy tôi ở lại cho đến khi biết chắc chắn mọi phương tiện di tản lũ trẻ thu xếp xong. Tôi ra đi ngày 26 tháng tư. Hai ngày trước, nhân viên bên toà Đại sứ đến bảo một chuyến bay đă sẵn sàng. Khi chúng tôi sửa soạn đi, họ quay lại bảo chuyến bay đă đ́nh chỉ, cùng một chuyện như vậy lại xảy ra ngày 25. Nhưng rồi đến 26, chúng tôi thực mới rời đi được với Iũ trẻ. Đó cũng là ngày cuối cùng của các cô nhi viện.

 

Chúng tôi đi bằng vận tải cơ C-141. Ra phi trường bằng xe buưt do toà Đại sứ cấp. Tôi nhớ hôm ấy rất nóng, chúng tôi phải cố giữ để lũ trẻ không bị ráo nước. Tôi mang theo một số chai nước cho trẻ uống. Tôi bị xúc động mạnh vào giây phút chia tay với những người Việt Nam mà tôi quen biết và đă mến yêu. Khi tôi rời viện cô nhi, các nhân viên giữ trẻ vẫn ở đấy, họ phải ở lại đấy cho đến khi tất cả các trẻ ra đi – có người đi với chúng tôi một quăng đường dài nhất mà họ có thể đi được: họ giúp chúng tôi lên máy bay, rồi họ ở lại. Họ rất b́nh tĩnh về những ǵ có thể xảy ra cho họ sau này. Họ không có vẻ ǵ rối loạn lúc ấy cả.

 

Chừng 250 trẻ em đă đi với chúng tôi, các em ấy là các trẻ ở trong ba ngôi nhà của chúng tôi, cũng có mười bốn người lớn trên chuyến bay. Tôi ngồi trên sàn phía sau máy bay với các em bé sơ sinh.

 

Những cánh cửa của chiếc máy bay C-141 giống như một cái vỏ ṣ vĩ đại. Tôi không cảm thấy sợ hăi khi những cánh cửa bắt đầu đóng lại. Chúng tôi có một số thùng trong máy bay, cứ hai em đặt trong một thùng. Bọn trẻ cần được chú ư nên lúc ấy chúng chiếm hết ư nghĩ của tôi. Nhưng khi cánh cửa đóng lại, tôi nhớ đến vài người bạn đă rời máy bay. Doreen Beckett, người Úc, đă trở về nhà cô nhi, cô ấy ở lại với Rosemary và với Ilse Ewald, người Đức, cả ba ở lại để xem xét chuyện nhà cửa, chuyện trả lương cho nhân viên, họ cũng cần vài lá thư giới thiệu mà họ có thể dùng đến trong tương lai. \/́ vậy họ không đi chuyến bay chúng tôi. Tôi không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra cho họ. Tôi nghĩ đến họ khi các cánh cửa đóng xuống. Nhiều cảm giác trộn lẫn trong tôi giây phút ấy. Rosemary, Doreen và Ilse cuối cùng đă rời được trong ngày chót của tháng tư, từ sân thượng toà đại sứ bằng máy bay trực thăng.

 

Tôi thực t́nh yêu mến Việt Nam. Tôi yêu mến những người bạn mà tôi đă làm việc chung tại các nước. Ra đi như thế thực bất ngờ – thực là một sự chấm dứt đột ngột do những quyết định từ bên ngoài. Tôi bỗng nhiên nhận ra rằng: thế là hết, thế là chấm dứt tất cả những công việc mà tôi đă làm. Và sẽ c̣n lâu lắm, rất lâu nữa tôi mới được gặp lại các bạn của tôi, nếu c̣n có thể được gặp lại họ. Sẽ lâu lắm, tôi không c̣n nh́n thấy Việt Nam nữa.

 

Chúng tôi bay đến căn cứ không quân Clark ở Phi Luật tân. Thật nhẹ người khi hạ cánh xuống. Những cánh cửa vỏ ṣ mở ra, tôi thấy một hàng dài người, một hàng người kéo dài vô tận, họ đứng đón đấy để săn sóc lũ trẻ con, cứ một người lo một đứa. Một bác sĩ đến bên tôi, hỏi: “Em nào đau yếu nhất ở đây?” Ông ta yêu cầu các báo cáo y khoa về bọn trẻ – Đă lâu lắm mới thấy có những việc như vậy. Tôi hầu như quên những chuyện như thế. Tôi đă ở tại một xứ sở, nơi những đứa trẻ trong các cô nhi viện xa xôi hẻo lánh chết dần ṃn mỗi ngày, không lạ lùng ǵ khi các loại bệnh dịch xảy ra, triệt hạ cả cô nhi viện – và ông bác sĩ này lại nói rằng “Đêm qua, suưt nữa chúng tôi mất đi một đứa trẻ.” Tôi nhớ tôi đă lặng người v́ sự quan tâm ấy. Đây, họ có những người săn sóc trẻ, có những chiếc xe cứu thương để chở những đứa đau ốm vào bịnh viện. Những em trong điều kiện sức khoẻ khả quan được đưa đến các pḥng tập thể dục, có nệm trải trên sàn. Ở đấy có hàng dăy kệ đầy ắp đồ ăn trẻ con đặt trong cao ốc.

 

Đêm đầu, chúng tôi ngủ trong pḥng tập thể dục. Mọi thứ tổ chức chu đáo. Mỗi ngày quân đội sắp xếp cho sáu mươi em đi Mỹ bằng máy bay C-141 có ghế ngồi, cứ hai em có một người coi sóc đi kèm. Tôi ở Phi Luật Tân chừng bảy ngày. Khi nhóm cuối cùng ra đi, tôi đi cùng với chúng.

 

Trở lại Mỹ, một thế giới khác hẳn, có một vụ kiện ǵ đó ở California về chuyện trẻ mồ côi bị bắt khỏi tay các bà mẹ trong cơn hoang mang hoảng sợ. Tôi cảm thấy tức giận về chuyện này, v́ lẽ nó không đúng sự thật. Vài người bảo những đứa trẻ chúng tôi mang đi là những đứa trẻ bị bắt cóc! Khó có những chuyện như thế! Tôi biết rơ c̣n bao nhiêu trẻ mồ côi bị bỏ lại Việt Nam (hơn 24,000 em trong các cô nhi viện, hơn 150,000 em đang được các gia đ́nh Việt Nam trông coi). Trong thực tế, quả có những người đàn bà, vào những ngày cuối cùng, đă đến tận cổng cô nhi viện đem con đi cho. Nhưng các nhân viên hành chánh của chúng tôi, là người Việt, đă ra nói chuyện với họ, trấn an họ rằng Cộng sản sẽ không giết hại trẻ con, chúng tôi đă yêu cầu họ mang con về.

 

Phải một thời gian rất lâu tôi mới phục hồi lại được sự nhạy cảm khi trở về Mỹ. Tôi nhớ lúc nh́n mặt trời lặn, lúc nh́n các phong cảnh đẹp đẽ hoặc bất cứ cái ǵ đẹp đẽ, tôi nghĩ “Chà, thật là đẹp.” Nhưng tôi không cảm thấy sung sướng, tôi cũng chẳng cảm thấy buồn rầu. Tôi chỉ cảm thấy một thứ tẻ nhạt tái tê.

 

Cuộc sống của tôi thay đổi thảm hại từ khi rời Việt Nam. Tôi đưa vài đứa bé đi Âu châu. Tôi ở lại với một gia đ́nh tại Anh trong thời gian ngắn. Rồi tôi đi Pháp, ở nhà một người đă mất vợ và 2 đứa con trong chuyến bay C-5A bị rơi. Sau đó tôi đi thăm Ilse ở Đức, rồi đi thăm những đứa bé được nhận làm con nuôi ở đây và ở Phần Lan.

 

Tôi nhớ có một lúc trên tàu lửa, tại một nơi nào đó ở Âu châu, nh́n thấy một nông dân đang cày ruộng, tôi nghĩ “Không phải xứ nào cũng lâm vào chiến cuộc.” Tôi cứ phải luôn luôn nhắc nhở ḿnh rằng hoàn cảnh Việt Nam không phải là hoàn cảnh ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Nhưng tôi vẫn c̣n mơ những giấc mơ về chuyến C-5A bị rớt. Trong cơn mơ, một người bạn đến bên tôi nói: “Chuyến bay bị rớt và bọn trẻ con ở trong ấy”. Rồi tôi thấy tôi ở nơi máy bay rớt. Trong giấc mơ tôi chạy lại cái máy bay. Không gian chung quanh máy bay phủ đầy những miếng giấy nhỏ bé như bông tuyết. Trước khi bước vào máy bay, tôi chụp lấy một miếng giấy nhỏ bay lượn trong không trung. Trên miếng giấy là h́nh ảnh một đứa bé. Rồi trong giấc mơ, tôi đă quay sang những người khác ở chỗ máy bay rớt, tôi reo lớn: “Không sao cả. Không đứa bé nào ở trong máy bay cả, chỉ có những tấm h́nh, chỉ là những tấm h́nh của lũ trẻ con.”

 

 

 

... NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA,

 

 

 

 

PETE Mc CLOSKEY

(Dân Biểu Hoa Kỳ)

 

“Này, ông bạn, tôi sẽ kể ông nghe cho hết đầu đuôi công việc.”

 

 

 

 

Chuyến đi Đông dương của phái đoàn quốc hội vào tháng 3/75 là nhằm cứu xét t́nh h́nh Việt Nam và Cam Bốt, v́ lẽ Tổng thống Gerald Ford bấy giờ đang yêu cầu Quốc hội chi 222 triệu Mỹ kim cho Cam Bốt, 300 triệu cho Việt Nam. Tổng thống Ford khuyến khích chuyến đi. Ông nói: “Chúng tôi biết rơ công việc ở đấy, nhưng quốc hội không biết ǵ.” Tôi bèn đi trước với Thượng nghị sĩ Dewey Barlett. Vài ngày sau, sáu dân biểu khác đến nhập chung. Đó là Bill Chappell thuộc ủy ban quân vụ, rồi Bella Abzug, và John Flynt, Don Fraser, John Murtha, Millicent Fenwick. Phil Habib cũng đến với tư cách phụ tá ngoại trưởng đặc trách Á Đông, Thái B́nh Dương sự vụ. Như vậy, chuyến đi gồm tám người thuộc quốc hội, và tôi nhớ trong chuyến về, khi tổng kết các ấn tượng và quan điểm, chúng tôi đă chia ra bốn với bốn, bốn diều hâu bốn bồ câu. Có một vài điều tôi muốn làm trong chuyến đi. Điều thứ nhất, tôi muốn so sánh t́nh trạng năm 75 với t́nh trạng tôi đă chứng kiến vào năm 1970 tại quân đoàn IV, vùng châu thổ, quân đoàn III, vùng ngoại vi Sàig̣n, quân đoàn II ở Pleiku, Kontum, quân đoàn I ở Đà Nẵng. Tôi muốn biết vị thế chiến trường, so sánh giữa hàng ngũ phía chúng ta và đối phương, giữa miền Nam và miền Bắc. Tôi cũng muốn kiểm điểm tinh thần của người miền Nam, lượng giá ư chí chiến đấu của người miền Bắc.

Ngân khoản mà tổng thống yêu cầu bấy giờ là một ngân khoản viện trợ quân sự phụ thêm cho Việt Nam. Quân đội miền Nam Việt Nam, theo tôi nhớ, vượt trội hẳn quân số Bắc Việt. Miền Nam có chừng 740,000 binh sĩ. Miền Bắc không bao giờ có hơn 450,000 quân. Miền Nam phải pḥng thủ một diện tích khá dài, nhưng họ có những tuyến truyền thông nội bộ. Tôi nhớ, mặc dầu vậy, thống kê cho thấy miền Nam đă sử dụng pháo binh gấp mười ba lần miền Bắc, điều ấy có nghĩa phần lớn số tiền này sẽ đổ vào vỏ đạn pháo binh.Tôi từng là Trung úy Thủy quân lục chiến tại mặt trận Triều Tiên. Sau đó ở lại lực lượng Thủy quân lục chiến trừ bị, đặc trách phản du kích. Tôi là dân biểu quốc hội duy nhất đă bốn lần đến Việt nam. Năm 1967, tôi là dân biểu Cộng Hoà đầu tiên đắc cử với lập trường chống chiến tranh Việt Nam.

Khi tranh cử lần đầu, người ta hỏi quan điểm của tôi về Việt Nam. Tôi đáp: Chúng ta không nên có mặt ở đấy. Chiến đấu ở chỗ ấy là sai lầm, sai địa thế, sai kẻ thù. Chúng ta đă phung phí tài nguyên nước Mỹ khi cố đánh một trận chiến như vậy.

Tôi nghĩ đương nhiên Nam Việt Nam sẽ sụp đổ sau khi Hoa Kỳ triệt thoái. Cái ư tưởng của tôi chủ yếu thế này: Sự chia cắt Việt Nam vào năm 1954 là một sự chia cắt giả tạo. Tất cả mọi người đều nghĩ Việt Nam phải thống nhất. Khi đến Việt Nam lần đầu, vào năm 1967, một điều đập ngay vào ấn tượng của tôi là: Khắp nơi, từ những làng mạc thôn ấp nhỏ bé, đến các trụ sở quận, trụ sở vùng, nơi nào cũng treo những bản đồ của một nước Việt Nam duy nhất. Ngay người miền Nam cũng không bao giờ thừa nhận là chỉ có miền Nam Việt Nam. Bất cứ lúc nào nh́n tấm bản đồ Việt Nam, ngay tại miền Nam Việt Nam cũng vậy, quư vị luôn luôn thấy đó là tấm bản đồ cả nước, không phải là tấm bản đồ dựa trên sự chia cắt giả tạo này.

Hiển nhiên, mỗi người Việt Nam đều nghĩ đất nước của họ là một đất nước thống nhất, vậy câu hỏi được đặt ra là liệu Hoa Kỳ có thể hỗ trợ cho sự chia cắt giả tạo ấy chăng? Và dựng nên một xứ sở mới hay chăng? Chúng ta đă làm như thế. Chúng ta gọi đó là “Xây dựng quốc gia.”

Khi sang đấy, tôi vẫn sẵn sàng chấp nhận cái sự kiện là chúng ta có thể tạo ra một quốc gia mới ở Nam Việt Nam như vậy, nếu họ có ư chí chiến đấu. Họ đông quân hơn lực lượng miền Bắc. Họ có pḥng tuyến nội bộ. Nh́n chiến trường người ta thấy miền Bắc có 13 sư đoàn, miền Nam có 16 sư đoàn. Miền Nam có đủ thủy, lục, không quân. Miền Bắc th́ không. Chúng ta đă cho họ tiền bạc, viện trợ, giúp đỡ. Chúng ta đă huấn luyện họ sử dụng vũ khí và phương pháp chúng ta. Vậy toàn thể câu hỏi cần được đặt ra là: Liệu ư chí chiến đấu của người miền Nam Việt Nam có thắng ư chí chiến đấu của người miền Bắc Việt Nam hay không?

Chúng ta gặp các phản ảnh trái ngược. Nói về phẩm chất quân đội miền Nam – các tướng lănh nói một khác, các sĩ quan cấp úy và các cố vấn làm việc tại địa phương lại nói với chúng ta những chuyện hoàn toàn khác hẳn.

Đúng, quả miền Nam có những đơn vị chiến đấu tinh nhuệ: Thủy quân lục chiến, nhảy dù rất dũng mănh, đầy khả năng. Nhưng quân đội thông thường là Bộ binh th́ không. Họ không muốn đánh. Không có động lực đánh. Lực lượng thông thường này gồm đa số những người bị bó buộc nhập ngũ, thực sự, họ không có ǵ căm ghét Việt Cộng nhiều.

Và rất rơ ràng ngay từ lâu người ta đă biết có kẽ hở trong khắp các cơ cấu. Việt Cộng lọt vào các lực lượng chính phủ. Không một Tư lệnh Thủy quân lục chiến nào tôi biết – kể từ lần đầu tôi sang bên ấy cho đến lần cuối – lại thông báo các kế hoạch hành quân cho phía đồng minh Việt Nam, họ đều biết làm như thế là sẽ lọt ra ngoài.

Tôi xin tŕnh bày với quư vị thật ra Kissinger và tất cả mọi người khác đều đă biết từ năm 1971 là sớm hay muộn Nam Việt Nam cũng sẽ sụp đổ.

Nhưng bây giờ không phải vô căn cứ khi nghe các người lănh đạo Nam Việt Nam tuyên bố: “Nếu bọn Mỹ khốn nạn các ông đánh trận này như các ông đă đánh ở Âu Châu th́ chúng tôi đă thắng. Phải chi các ông đánh miền Bắc, phải chi các ông chiếm một số thành thị, phải chi các ông đuổi chúng vào bụi rậm.” Lập luận của tôi về điều này là: Đúng, chúng ta đă có thể làm như thế. Chúng ta có thể phá hủy đê điều trên đồng bằng sông Hồng. Chúng ta có thể triệt hạ Hà Nội. Chúng ta có thể trải thảm bom, quét sạch từng thị xă nào có từ 100 dân trở lên. Nhưng một khi hành động như vậy rồi chiến thắng, và một khi chúng ta rời khỏi đất nước này, điều ǵ sẽ xảy ra? Những lực lượng cai trị đất nước này sẽ có ḷng tin của dân chúng, hay sẽ chỉ có các phương tiện để bắt dân chúng hỗ trợ mà thôi? Kỳ, Thiệu và cả đám ấy kể từ Diệm trở đi chỉ dấy lên được nhờ sự giúp đỡ của Mỹ. Ở miền Nam, không có một khuôn mặt quần chúng nào như Hồ Chí Minh ở miền Bắc cả.

Trước khi đi chuyến này, tôi nhận được tin có một số tù nhân chính trị, một số nhà báo bị bắt giữ, bị tra tấn. Tôi muốn tới nhà giam gặp để nói chuyện với họ. V́ thế, khi đến Việt Nam tôi nghĩ đại sứ Graham Martin đă cảm thấy cá nhân tôi là một sự thách thức. Cho nên ông đă có những bài thuyết tŕnh soạn sẵn cho tôi.

Một trong những bài thuyết tŕnh ấy phụ trách bởi Trưởng cơ sở Trung ương T́nh báo Tom Polgar. Về bài thuyết tŕnh này th́, trời đất! Điều mà người ta trông đợi ở một sĩ quan t́nh báo bất cứ ngành nào là sự lượng giá vô tư về năng lực kẻ thù – Không thấy – chỉ thấy nói về các ư định của kẻ thù. Chúng ta cần biết khả năng của họ thế nào. Họ có thể làm được ǵ. Ta có thể đoán được các ư định của họ, nhưng c̣n năng lực họ thế nào? Đó mới là vấn đề then chốt. Nhưng Tom Polgar toàn thuyết tŕnh cho chúng tôi những thứ rác rưởi vớ vẩn: Nào kẻ thù chẳng có ǵ, nào là người của chúng ta mạnh mẽ xiết bao!

V́ vậy tôi rời buổi thuyết tŕnh đi ra Quân đoàn I. Tôi gặp Tư lệnh ở đấy là tướng Ngô Quang Trưởng. Chính buổi nói chuyện của ông ta đă đưa tôi trở về mà nói lại với cả Ford lẫn Kissinger rằng: “Quí ông không cách ǵ thắng nổi. Địch có thể phá thủng bất cứ chỗ nào.” Chuyện này có thể ông Trưởng c̣n nhớ. Tôi đă đi thăm ông Trưởng với tư cách cá nhân v́ một người bạn có nói với tôi rằng ông ấy là vị tướng khá nhất của quân đội Việt Nam và đúng như thế.

 

Ông Trưởng trấn thủ Vùng I. Xin nhớ vùng I gồm năm tỉnh dọc duyên hải, bao gồm khu Phi quân sự. Trước, có lúc chúng ta phải dùng đến cả năm sư đoàn Mỹ để chiến đấu ở trong và chung quanh vùng này. Nào đệ nhất sư đoàn không kỵ… và Trời biết c̣n ǵ nữa. Hồi tưởng lại, tôi nhớ tổng cộng miền Nam có 13 sư đoàn th́ tướng Trưởng có ba sư đoàn để đương đầu với chừng ba sư đoàn Bắc Việt, và trấn ngay tại địa đầu biên giới. Ông Trưởng đă mất bộ quân phục thiện chiến của ông chỉ v́ Thiệu đă hoảng hốt rút quân về Nam để pḥng thủ Sàig̣n.

Là một Đại tá thủy quân lục chiến, biết khá rơ về trận địa, nói chuyện với một tướng lănh Việt Nam, tôi nghe Tướng Trưởng bảo “Không có cách ǵ.” Ông ta chỉ tấm bản đồ mà nói: “Nếu họ muốn đưa một sư đoàn vào chỗ này, hay chỗ này th́ chịu, không thể pḥng vệ được. Tôi phải có một sư đoàn đặt dưới này, tại Quảng Ngăi. Phải có một sư đoàn nữa trên này, ở Đà Nẵng. Phải có một sư đoàn khác tại vùng Phi quân sự – Họ có đủ khả năng: nếu họ muốn chuyển quân, họ có thể phá thủng bất cứ điểm nào trong vùng.”

Phải, đối phương đă chọn ưu tiên chọc thủng Vùng II. Nhưng như ông ta đă nói, đối phương có thể phá thủng bất cứ điểm nào trong vùng của ông mà không có cách ǵ ông pḥng vệ được. Bởi v́, đối phương có thể chọn lựa. Mà đây là một trong những nguyên tắc của chiến tranh: Tập trung toàn thể sức mạnh vào chỗ nào địch quân yếu kém.

Điều khác nữa, nếu quan sát các đơn vị của Nam Việt Nam quư vị sẽ thấy: Sĩ quan luôn luôn ở đàng sau. Quư vị sẽ thấy sự lệ thuộc vào pháo binh. Thấy họ từ chối không tỏ ra hăng hái trong các cuộc tuần tiễu năng nổ. Tất cả những điều ấy chúng ta đă cố dạy họ. Nhưng khi người của chúng ta vừa rời đi, họ quay lưng lại đục lỗ mà ẩn núp và thương lượng với nhau. Tôi nghĩ đă có nhiều cuộc ngưng bắn riêng tư như thế xảy ra giữa các đơn vị Việt Nam cả đôi bên.

C̣n một ông nữa gây chú ư cho tôi là ông chỉ huy Vùng III, tướng Toàn. Tôi đă xem con số thương vong, nh́n tỷ lệ đạn dược pháo binh ông ta sử dụng so với số đạn pháo binh địch sử dụng. Graham Martin bảo tôi không có pháo binh, chúng ta không thể thắng được. Và ông Tướng này cho tôi thấy ông đă bắn 9,600 trận pháo. Quư vị đă rơ các trận pháo kích của đối phương bắn đến cũng đều được đếm. So hai con số chênh lệch, hiển nhiên người ta thấy miền Nam không c̣n hăng hái đánh bộ binh nữa.

Với những ǵ ông Vùng III đă nói, với những ǵ ông Vùng I đă nói: Không có cách ǵ cả. Nh́n vị thế trận địa Vùng III: họ không pḥng thủ được nữa. Cảm tưởng của tôi là nếu thêm 300 triệu Mỹ kim cũng không thay đổi ǵ, không c̣n chạy chữa được những ǵ đă xảy ra trên trận địa.

Martin có nhiều cố gắng với tôi. Ông đưa tôi đi khắp nơi, kể cả dẫn tôi vào pḥng riêng của ông mà nói “Này, ông bạn. Tôi sẽ kể ông nghe cho hết đầu đuôi công việc.” Ông ta là một đại tá bộ binh về hưu đang hồi xuân. Nếu Polgar đă cho chúng tôi nghe những chuyện rác rưởi lăng nhăng, th́ Graham Martin lại là một người mất trí. Tôi thực t́nh nghĩ ông ta đă mất trí.

Tôi không rơ có ai tiên đoán sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam ra sao, nhưng người ta có thể đoán được dựa trên sự biện giải tâm lư các sự việc. Sự việc làm tôi ngạc nhiên là người miền Bắc đă đổ vào các sư đoàn trừ bị của họ. Thông thường, họ không bao giờ tấn công cho đến khi đă thực tập nhuần nhuyễn trên sa bàn. Họ hết sức – hết sức là thận trọng. Nhưng hiển nhiên, họ biết họ đă có đủ sức mạnh che giấu ở miền Nam, họ có đủ kỷ luật, bởi vậy vào năm 1975 họ đă đổ vào tất cả những ǵ họ có.

Sau, tôi yêu cầu gặp mặt một số nhà báo bị bắt ở Sàig̣n. Tổng thống Thiệu rất ưu ái đă ban cho tôi cái đặc ân vào lao xá gặp gỡ những người Việt Nam trẻ tuổi này.

Lao xá gồm những xà lim nhỏ bé chật hẹp mà chúng ta đă xây cho họ. Có hai mươi nhà báo bị bắt, tôi nghĩ là gồm có một người đàn bà, tất cả bị nhốt trong dăy xà lim liên tiếp kế cận nhau. Tôi nói “Này nhé, chúng tôi được nghe nhiều dư luận rồi, tôi muốn đánh tan các dư luận đấy nhé.” Nhưng trong mọi trường hợp, mỗi khi chúng tôi nói chuyện với tù nhân, các lính gác người Việt cứ lăm lăm súng ống đứng đấy lắng nghe.

Tôi nói chuyện với một cô gái. Có hai hay ba người trong phái đoàn chúng tôi vào pḥng giam cô này. Khi rời pḥng giam, anh Việt Nam ra trước, một người nào đó đi giữa tôi và anh ta, v́ vậy có một khoảng thời gian ngắn anh ta không nh́n thấy tôi và cuộc phỏng vấn đă xong. Cô gái nắm cơ hội, nói thầm với tôi. Cô ta bảo: “Sự thực không đúng thế. Họ đánh đập chúng tôi mỗi ngày. Họ đánh tôi rất nhiều.” Cô ta kể một câu chuyện hoàn toàn khác hẳn câu chuyện kể qua người thông dịch khi họ ở đấy.

Cảm giác của tôi v́ vậy là: Tất cả mọi sự đều bị ŕnh rập, tất cả những người tù khác mà chúng tôi phỏng vấn chắc đều đă được dặn ḍ tương tự: “Khi các dân biểu tới th́ phải nói với họ như thế này, như thế kia.”

Cô gái mệt mỏi, khóc lóc nhưng không thấy có một dấu hiệu bên ngoài nào để tôi có thể bảo cô ta đă bị đánh đập. Nhưng như tôi đă nói, cô ta thầm th́ mà bảo “Họ đánh đập chúng tôi.”

Tôi nhớ phái đoàn chúng tôi đă chia ra năm chống ba, hoặc bốn chống bốn nếu chúng tôi bỏ phiếu về việc cấp thêm viện trợ. Quan điểm của tôi là không cho miền Nam Việt Nam ǵ nữa hết v́ họ sẽ sụp đổ. C̣n về Cam Bốt, phải cho họ một chút ǵ, lư do là nếu Cam Bốt sụp đổ tất sẽ có tàn sát.

Chúng tôi đi Cam Bốt, ở đấy một ngày. Tôi hoảng kinh. Những ǵ xảy ra ở đây hoàn toàn khác hẳn Việt Nam.

Phil Habib tháp tùng chúng tôi. Hạ cánh xuống phi trường Nam Vang, chúng tôi biết thỉnh thoảng phi trường vẫn bị pháo. Không nhớ bao nhiêu quả đă rơi khi chúng tôi đến, nhưng có vài quả nổ trước đó và vài quả sau đó. Ngay Bella Abzug cũng chấn động khi hạ cánh ở phi trường với những xác máy bay cháy nằm ngổn ngang ven biên. Họ đưa chúng tôi ra, ấn vào xe, chạy vội qua các đường phố Nam Vang đến toà Đại sứ, ở đấy sẽ có buổi thuyết tŕnh đầu tiên. Chúng tôi biết chúng tôi sẽ phải rời ngay đêm ấy. Trừ một số ít, tất cả nhân viên sứ quán đều đă di tản rồi.

Có hai bài thuyết tŕnh chính thức dành cho chúng tôi. Một bài do Lon Nol phụ trách. Nhân vật hí họa nhỏ thó buồn cười này bước vào pḥng, ngồi xuống. Ông ta kêu gọi chúng tôi giúp đỡ. Nhưng họ bảo họ có 40,000 binh sĩ Cam Bốt đóng ở phạm vi chung quanh Nam Vang. Họ ước lượng sức mạnh Khờ Me Đỏ ngoài phạm vi này là 60,000. Đây là một quốc gia có dân số 6 triệu. Quư vị tự hỏi nếu chỉ có bấy nhiêu và họ đă có tất cả những binh sĩ Cam Bốt được huấn luyện siêu việt, trang bị đủ thứ khí cụ, th́ tại sao chúng ta đă không thể giữ đừng cho đối phương đến gần?

Nên tôi nói với ông Đại sứ: tôi được thuyết tŕnh đủ rồi, tôi hỏi tôi có thể ra ngoài làm một ṿng quan sát tiền tuyến chăng. Tôi có một Đại úy là tùy viên quân sự và một xe jeep, chúng tôi rồ máy ra tiền phương. Chúng tôi đến tư lệnh sư đoàn trước, rồi đến bộ chỉ huy Trung đoàn, tôi đ̣i nói chuyện với các tiểu đoàn trưởng hoặc vài ngựi trong đại đội. Tại trụ sở bộ tư lệnh, tôi yêu cầu: “Tôi muốn nói chuyện với một vài tù binh Khờ Me Đỏ của quư vị,” th́ họ đều bảo: “Chúng tôi không có tù binh nào.”

 

Sau xuống tiểu đoàn, ở đây gặp các ông mặc quân phục ngụy trang mầu đen trong một ngôi chùa nhỏ. Họ là một đại đội đang chuyển về hậu cứ, sau khi lănh lương, họ sẽ quay lại đơn vị. Tôi hỏi một thiếu tá về tù binh, ông ta nói: “Chúng tôi không giữ tù binh. Bắt được là ăn.”

 

Viên Đại úy giải thích cho tôi rơ khi giết một người lính, mọi người mang dao ra xẻo một miếng thịt rồi ăn, họ tin rằng họ tăng sức mạnh khi ăn thịt địch quân. Tôi nghĩ: “Lạy Chúa! Việc ǵ sẽ xảy ra khi vùng này thất thủ? Có cả hai triệu con người đang ở nơi đây!”

 

Trở về tôi nói: “Nhân danh Chúa, hăy cấp cho những người này đủ ngân khoản đến mùa mưa để họ có thể phân tán mà ra khỏi Nam Vang,” bởi lẽ khi Nam Vang thất thủ, sau những vụ tù binh Khờ Me Đỏ bị ăn thịt, tôi nghĩ địch quân sẽ tàn sát thẳng tay tất cả mọi người trong thành phố.

Đó là lư do tại sao khi về tôi đă diễn thuyết, nói chuyện ở các Đại học Stanford, San Francisco. Tại sao tôi chống chiến tranh mà lại muốn cấp tiền cho Cam Bốt? “V́ nếu chúng ta không chịu cấp ngân khoản cho Cam Bốt là chắc chắn sẽ có một cuộc tàn sát tập thể.” Tôi đă tiên đoán thế. Lúc ấy tháng Ba. Cam Bốt thất thủ giữa tháng Tư, theo tôi nhớ. Và nơi đó đă xảy ra cuộc tàn sát.

Trở về Mỹ tôi cùng với Phil Habib mở họp báo nói phải cho Cam Bốt tiền để sống sót qua mùa mưa. Nhưng Việt Nam, tôi không thể chấp thuận việc cho tiền. Habib tranh luận với tôi, một ông bên bộ Quốc pḥng th́ nài nỉ yêu cầu hỗ trợ việc cấp tiền, tuy nhiên tôi không thể làm việc ấy. Đối với Việt Nam, đây chỉ là vấn đề thời gian. Đây là một lư do đă mất.

Nhưng khi trở về tôi có viết một báo cáo trao cho Gerald Ford. Báo cáo này được ít nhất ba hay bốn thành viên của phái đoàn tán thành. Trong báo cáo, chúng tôi kết luận chúng ta cần phải có t́nh báo chính xác. Tôi tin rằng bộ máy t́nh báo ở Việt Nam đă trở nên thiên vị và đă trở thành một kẻ biện hộ. Sĩ quan t́nh báo đáng ra phải cung cấp các tin xấu, không phải các tin tốt. Với ông Polgar, thứ ǵ cũng là tin tốt: “Chúng ta đang thắng, chúng ta sẽ thắng.”

Sau tôi gặp riêng Kissinger và Ford tại pḥng Bầu Dục. Tôi nhớ Ford quay sang hỏi Kissinger là không biết chừng tôi đă nói đúng. Kissinger bảo: “Không cách ǵ. Việt Nam c̣n có thể đứng vững hàng năm.” Ông ta nói họ có tinh thần cao, họ có khả năng chiến đấu tốt, họ được huấn luyện kỹ, tất cả những ǵ họ cần chỉ là tiền mua tiếp liệu, mua khí cụ, mua các bộ phận thay thế mà thôi vân vân.

Cảm tưởng của tôi bấy giờ là Tổng thống Ford tin ông ta và không chấp nhận những ǵ tôi nói.

Tôi trao báo cáo của tôi cho tổng thống vào đầu tháng Ba. Bắc Việt tấn công cao nguyên Trung phần trong ṿng tuần lễ sau. Rồi miền Nam tan ră. Tôi đă nói những điều như thế sẽ xảy đến và chỉ là vấn đề thời gian. Rồi họ tấn công. Rồi báo chí suốt sáu tuần lễ kế tiếp đă tràn ngập tin tức về Cam Bốt và Việt Nam.

Tôi không có ǵ để căi cọ với những người miền Nam Việt Nam cả. Nếu đặt tôi vào địa vị họ, tôi cũng sẽ cảm thấy chua chát với tất cả mọi người, nhất là đối với những người đă đến đấy để phán đoán xem họ có đáng được nhận thêm hai mưoi, hay năm mươi triệu đô la nữa hay không. Nhưng câu hỏi đặt cho họ là: Làm thế nào có thể tự lừa dối ḿnh măi về phẩm chất chiến đấu của những người của họ? Làm thế nào có thể để sụp đổ ngoại vi Sàig̣n!

 

Tôi nghĩ những ǵ chúng ta đă làm ở Việt Nam là một tai họa và một thảm kịch. Và tôi nghĩ khi chúng ta đă đi tới cái điểm rút quân ra, chúng ta không c̣n muốn chết ở đất nước ấy nữa, nhưng chúng ta cứ tiếp tục dội bom xuống – th́ điều ấy thực quá đáng. Nếu người miền Nam Việt Nam có khả năng tự lo liệu, hăy tăng sức mạnh cho họ. C̣n thực tế họ đă không thể tự lo liệu được th́ điều ấy không nhất thiết là lỗi của ai khác hơn là của chính các tướng tá của họ.

 

 

 

 

Nước Mắt Trước Cơn Mưa  

 

 

WOLF LEHMANN

(Phó Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam)

 

“Đây điện văn cuối cùng của toà Đại Sứ Mỹ ở Sàig̣n”

 

Cuối năm 1974 sau vụ thất thủ Phước Long, toà Đại sứ Mỹ mỗi lúc một thêm lo ngại: Có những dấu hiệu và tin t́nh báo cho thấy Bắc Việt sẽ mở cuộc tấn công lớn vào đầu năm 1975. Quả nhiên chuyện đó xảy ra.

 

Một trong những dấu hiệu báo trước là việc phái bộ quân sự Liên Sô viếng thăm Hà Nội. Phái bộ đông đảo này cầm đầu bởi tướng Victor Kulikov, phụ tá Tổng trưởng quốc pḥng (sau là Tư lệnh lực lượng Sô Viết ở Âu Châu thuộc khối thoả ước pḥng thủ Warsaw). Họ đến Hà Nội khoảng mười ngày trước Lễ Giáng Sinh 1974, ở lại một tuần lễ, lư do bề ngoài là để tham dự ngày Quân Đội Việt Nam. Dù các tin t́nh báo không đồng nhất, người ta vẫn có thể thấy rơ mục đích chính của phái bộ này đến để hoàn tất những sắp đặt giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa về việc tăng cường súng, đạn và chiến xa. Lúc ấy Trung Hoa đă co lại, nhưng chưa đến mức trầm trọng như sau này.

 

Cuộc tấn công Ban Mê Thuột vào tháng Ba xảy ra rất bất ngờ. Chiến dịch ấy được che đậy khá chu đáo. Đại khái chúng ta biết, phiá người Việt (miền Nam) cũng biết và cũng đă theo dơi việc Bắc Việt đưa thêm quân vào đường ṃn Hồ Chí Minh. Nhưng địa điểm tấn công ở Ban Mê Thuột, thời điểm và sức mănh liệt của cuộc tấn công này là một ngạc nhiên lớn. Người ta vẫn tin các cuộc tấn công sẽ xảy ra ở Pleiku hay Kontum, chứ không phải ở Ban Mê Thuột.

 

Đầu năm ấy, việc phái đoàn quốc hội tới viếng Sàig̣n cũng mang đến thêm những phản ứng nhiều mầu sắc. Phil Habib tháp tùng phái đoàn . Hai thành viên đến trước vào ngày thứ hai 29 tháng Hai là dân biểu Mc Closkey và thượng nghị sĩ Barlett. Các tṛ múa rối xảy ra ngay khi họ bước chân tới phi trường. Các phóng viên vây lấy họ, rồi cự nự tôi ngăn chận không cho báo chí tiếp xúc phái đoàn. Điều ấy không đúng. Chính phủ Nam Việt Nam chỉ không muốn báo chí ùa ra thềm máy bay. Họ muốn báo chí đợi ở pḥng khách danh dự rồi sẽ mời phái đoàn quốc hội đến đấy.

 

Một số thành viên tới sau. Họ tới lúc 10 giờ sáng ngày 27 tháng Hai, gồm những tên tuổi lẫy lừng như Bella Abzug, Millicent Fenwick, dân biểu Don Fraser ở Minnesota. Trưởng phái đoàn là John Flynt, dân biểu Georgia. Họ đến thăm Việt Nam, thực hiện một chuyến thăm viếng phụ ở Cam Bốt rồi tất cả trở về Mỹ chiều chủ nhật mùng 2 tháng Ba. Đại sứ Martin cùng về Mỹ với phái đoàn vào ngày hôm ấy.

 

Tôi biết Mc Closkey. Cũng như vài người nữa trong phái đoàn, ông ta thích quan trọng hoá các vấn đề. C̣n mấy người kia, điển h́nh là Fraser và Abzug, chuyến viếng thăm này đối với họ giản dị chỉ là cơ hội để thổi phồng phong trào chống Việt Nam tại Hoa kỳ. Người ta thấy các phụ tá của họ xuất hiện rất sớm để lo liệu những buổi hội họp có sắp đặt với những người được gọi là “chống đối”. C̣n bà Abzug th́ chụp bất cứ cơ hội nào để làm mất mặt chính phủ Nam Việt Nam và toà Đại Sứ chúng tôi. Theo chương tŕnh ấn định, buổi tối trước hôm phái đoàn về Mỹ, chúng tôi thu xếp cho phái đoàn tiếp xúc với các người Mỹ không thuộc toà Đại Sứ: Nhân viên cơ quan thiện nguyện, các thương gia v.v… Tôi mời tại nhà riêng. Tối ấy nổ ra vụ to tiếng giữa tôi và Mc Closkey v́ ông ta và những người khác trong phái đoàn không ngớt nói chuyện Nam Việt Nam vi phạm Nhân Quyền. Nam Việt Nam vi phạm nhân quyền v́ đă bỏ tù những tên khủng bố đặt bom, thế là vi phạm nhân quyền. Ông ta và tôi căi cọ gay go. Ông ta doạ sẽ gọi tôi ra trước ủy ban của ông ta. Tôi bảo: “Được lắm, cứ việc”. Nhưng sau đó không bao giờ thấy ông ta nhắc chuyện ấy nữa. Ông ta là loại người đồng bóng, nóng lạnh thất thường.

 

Gửi phái đoàn quốc hội sang Việt Nam nguyên là hảo ư của Hoa Thịnh Đốn trong cố gắng cuối cùng nhằm t́m kiếm những hỗ trợ của quốc hội cho Việt Nam. Kết quả đi ngược. Với một phái đoàn gồm những người chỉ muốn triệt hạ Nam Việt Nam như Fraser và Abzug, làm sao có cơ hội nữa.

 

Từ trước tôi chưa bao giờ từng gặp Abzug, sau này tôi cũng hy vọng chẳng bao giờ phải gặp lại bà ta. Bà này không phải tay thường. Bà là tín đồ tả phái. Đối với bà ấy phe tả chẳng bao giờ có thể sai lầm, cộng sản th́ phải khá hơn mọi giải pháp khác. Tôi không thế nào hiểu được loại người như vậy. Bà ta là loại người như thế.

 

Một việc lớn chuyện đối với họ là việc đi thăm tù, đi thăm những tù nhân chính trị bị giam giữ bởi chế độ đàn áp Nguyễn Văn Thiệu. Trong lúc Bắc Việt tăng cường nỗ lực tiến chiếm cả nước, không ai đếm xỉa, họ lại đ̣i đi thăm cái gọi là tù nhân chính trị.

 

Chúng tôi đă thuyết phục phía Việt Nam cho họ làm chuyện ấy. Tôi khá bối rối, nhưng vẫn yêu cầu phía Việt Nam vui ḷng cho họ đi. Đương nhiên, những kẻ gọi là tù nhân chính trị đều là các cán bộ cộng sản. Nhưng chúng tôi vẫn thuyết phục phía Việt Nam cho những người này được gặp gỡ nói chuyện riêng với phái đoàn. Xin thưa: tôi không hề nói người Việt Nam không đánh đập tù nhân – ở Nữu Ước, cảnh sát cũng vậy thôi. Tôi không nói thế. Nhưng bảo rằng họ hành hạ tù nhân, tra tấn dă man th́ điều ấy thực vô nghĩa lư.

 

Khi đại sứ Martin cùng về Hoa Thịnh Đốn với phái đoàn, tôi xử lư công việc toà Đại Sứ cho đến hết tháng. Lại một lần nữa người Bắc Việt biết rơ mọi chuyện xảy ra. Họ biết chúng ta làm ǵ. Ngay trước khi phái đoàn quốc hội đến, họ ngưng các chiến dịch nặng. Đến khoảng mùng 7, mùng 8 tháng ba họ tiếp tục. Họ đă giữ im ĺm suốt trong thời gian phái đoàn quốc hội đến đây.

 

Ngày thứ sáu 14 tháng Ba, Tổng thống Thiệu ra Cam Ranh họp với tướng Phú. Lúc đó ông đă quyết định bỏ cao nguyên rồi.

 

Ngày thứ bảy 15 tháng Ba, chín giờ sáng, tôi có hẹn với ông Thiệu để chuyển cho ông một bức điện văn mà tôi không nhớ rơ của Đại Sứ Martin hay của Tổng thống Hoa Kỳ. Trong lúc thảo luận t́nh h́nh, ông Thiệu không trực tiếp nói đến quyết định của ông, nhưng chỉ úp mở đề cập. Ông nói bóng gió rằng ông nghĩ cao nguyên trung phần không c̣n giữ nổi. Nghe thế tôi hoảng sợ vội về lại văn pḥng. Liền đấy Tổng lănh sự Moncrieff Spear ở Nha Trang điện thoại xác nhận quyết định bỏ Pleiku và Kontum. Lát sau, trưởng nhiệm sở Trung Ương t́nh báo Tom Polgar bước vào cũng cho biết quyết định đă được thực hiện rồi.

 

Trước t́nh thế ấy, nhiều chuyện dồn dập phải đối phó. Tôi chỉ thị cho Tổng lănh sự Spear xúc tiến ngay việc di tản người Mỹ và các nhân viên Việt Nam ở Pleiku và Kontum. Tôi chỉ thị George Jacobson tiến hành các phương tiện hàng không thiết yếu, dành ưu tiên việc xử dụng các máy bay Air America. Sau đó, tôi gửi điện báo cáo bộ ngoại giao về các chỉ thị đă ban hành và tất cả phải được hoàn tất vào tối hôm ấy.

 

Cuộc triệt thoái cao nguyên trở thành thảm hoạ v́ một vài lư do. Lư do thứ nhất: không có kế hoạch, mệnh lệnh đưa ra quá nhanh, quy định hôm thứ sáu rồi thực hiện ngay lập tức. Lư do thứ hai: con đường 7B t́nh trạng quá xấu. Và ưu thế quân sự đă đặt ở bên đối phương: Quân đội Bắc Việt được tổ chức và điều động cực kỳ hữu hiệu. Chúng ta không nói du kích chiến, chúng ta đang nói chiến tranh với lực lượng chính quy. Di động tính của họ cao. Khả năng truyền thông của họ tuyệt vời. Họ khám phá được rất nhanh những ǵ đang xảy ra. Họ có thể phản ứng mau và làm cho các nỗ lực rút quân từ Pleiku và Kontum trở nên lúng túng. Trưa ngày thứ năm kế đấy nhằm 20 tháng Ba, lúc 4 giờ 50, tôi có thảo luận chi tiết hơn với ông Thiệu về các quyết định. Lúc ấy ông giải thích với tôi các lư do. Rồi bất ngờ và rất minh bạch, ông ta báo cho tôi biết thêm các quyết định kế tiếp về quân khu I. Ông tỏ ra lo buồn v́ cuộc triệt thoái Kontum và Pleiku quá xấu. Ông rất bực bội. Không trách được, trong hoạt động quân sự, triệt thoái luôn luôn là một công tác khó khăn.

 

Chúng tôi đều thấy trước sự sụp đổ. Đến lúc bấy giờ hiển nhiên không một ai có thể tin quốc gia này sống sót được nữa.

 

Ông Thiệu không hề tham khảo ư kiến chúng tôi về các quyết định chiến lược ấy, nguyên do là thấy bị bỏ rơi. Chúng ta đă dứt điểm mọi trợ giúp, chúng ta đă cắt viện trợ kinh tế. Chúng ta sỉ nhục ông với những tṛ khốn kiếp của phái đoàn quốc hội. Ông c̣n sự lựa chọn nào nữa ngoài việc trở lại một giải pháp cũ: Giải pháp cắt đất. Giải pháp này trước kia đă được đề ra bởi một cố vấn người Úc là Ted Serong.

 

Trong lúc t́nh thế tiếp tục mỗi lúc một xấu, tôi đều đặn liên lạc Hoa Thịnh Đốn qua các phương tiện truyền thông b́nh thường. Chúng tôi chuyển các nhân viên ở Huế vào Đà Nẵng, không để họ ngủ đêm ngoài ấy, nhưng ban ngày chúng tôi vẫn đưa họ ra Huế làm việc. Chừng nào người Việt c̣n ở ngoài ấy, chúng tôi c̣n muốn duy tŕ sự hiện diện nhân viên chúng tôi. Ban ngày từ Đà Nẵng chúng tôi cho trực thăng đưa họ ra các nhiệm sở ở Huế. Cứ như thế cho tới khi Huế thất thủ.

 

Chiều 27 tháng Ba, chúng tôi biết phi trường Đà Nẵng đă mất kiểm soát. Tôi đến ngay Bộ Chỉ Huy liên quân t́m gặp Thủ tướng chính phủ, nhờ ông liên lạc tướng Ngô Quang Trưởng xem ông Trưởng có thể điều động quân đội kiểm soát lại phi trường không. Trong lúc ở đấy, Thủ tướng dùng điện đài nói chuyện với ông Trưởng bằng tiếng Việt, tôi không hiểu hết nội dung, nhưng chủ yếu Thủ tướng nói với tôi rằng ông Trưởng sẽ cố gắng. Đó là chiều thứ năm, 27 tháng 3 năm 1975.

 

Tôi trở về toà đại sứ làm việc đến khuya. Ngủ được vài giờ. Đến 3 giờ sáng, tướng Weyand và Đại sứ Martin đến, tôi ra phi trường đón. Suốt hôm thứ sáu 28, chúng tôi phải lo những vụ di tản cuối cùng ở Đà Nẵng.

 

Hôm ấy, có lúc đă mất liên lạc với AI Francis, tổng lănh sự Đà Nẵng. Một số nhân viên của ông ta ra được một chiếc tầu, nhưng họ không biết ông lănh sự ở đâu. Sau chúng tôi t́m ra ông ở trên một chiếc tầu chiến Việt Nam, tôi dùng điện đài gọi các nhân viên của ông báo cho họ biết là cứ đi, đừng lo lắng ǵ về Francis nữa.

 

Vậy là chúng tôi đă đưa người ở Đà Nẵng di tản. C̣n Ed Daly lúc đầu cũng đưa người ở Đà Nẵng đi nhưng ông ta tạo nhiều phiền phức quá. Sự thực, nhiều lúc ông ta thiếu điềm tĩnh. Tôi nghĩ ai cũng biết điều đó. Ông ta hay vung vẩy súng ống lung tung. Vài ngày đầu không sao, ông ta làm việc trong khuôn khổ với người khác th́ mọi sự tốt đẹp thôi. Nhưng t́nh h́nh Đà Nẵng mỗi lúc một xấu, thường xuyên liên lạc với AI Francis tôi biết phi trường không c̣n kiểm soát được nữa, người tràn ngập, không c̣n có thể đem máy bay ra, th́ đó là lúc Ed Daly gây tai hoạ. Họ tự ư cất cánh bay đi Đà Nẵng không phép tắc. Họ đáp xuống ổn thoả. Họ đưa được người vào tầu, họ mang được người ra, nhưng họ đă giết chết khối người trên phi đạo.

 

Phía Việt Nam gọi điện thoại cho tôi từ phi trường rất giận dữ. Họ bảo tôi là Daly cất cánh không có phép. Tôi liên lạc với Francis, lúc ấy hăy c̣n liên lạc được với ông ta ở Đà Nẵng. Tôi nói Daly cho ba chiếc máy bay cất cánh rồi. Tôi nhớ Francis đă than: “Cứt thiệt”. Ông ta biết phi trường không sử dụng được nữa. Lúc đó ông ta đang cố gắng tuyệt vọng để sử dụng bất cứ phương tiện nào khác c̣n lại ở hải cảng như tầu bè, các thứ xà lan.

 

Đối với Daly bên hàng không World Airways, chừng nào họ làm việc theo đúng khuôn khổ, tôi nghĩ sẽ không có vấn đề ǵ với họ. Nếu họ đă cung cấp cho máy bay, việc này cũng tốt thôi. C̣n hành động tuyệt đối vô trách nhiệm như thế, đáng lẽ không nên để xảy ra.

 

Vụ chuyển vận trẻ con lại là một chuyện khác. Đây là một công tác có tổ chức – trước chúng tôi không nh́n nhận, nhưng nay có thể nói thực ra là: Trên vài mức độ, chúng tôi đă dùng công tác này để bắt đầu di tản các phụ nữ Mỹ kiều. Xảy ra vụ chiếc máy bay C-5A bị rớt là giây phút đen tối đáng buồn nhất đời tôi.

 

Việc ấy xảy ra ngày 4 tháng Tư, có người của chúng tôi trong ấy. Chúng tôi cho người di tản đi với lư do trông coi trẻ con – mặc dù không cần đông như vậy, nhưng chúng tôi phải sử dụng biện pháp này để tránh nói đến chuyện di tản. Chiếc máy bay C-5A cất cánh, gặp tai nạn khủng khiếp, tự nó cũng là một câu chuyện. Tôi nhận được điện thoại báo tin tai nạn xảy ra, và họ báo rằng tất cả trực thăng của Air America c̣n sử dụng được đều mang đi tiếp cứu. Lập tức, chúng tôi phải đối phó nhiều việc. Không phải chỉ là việc tiếp cứu nạn nhân, c̣n là việc đương đầu với các hậu quả chính trị nữa. Với loại tai nạn này, chúng tôi không muốn các tướng lănh Không Quân ở Hoa Thịnh Đốn kêu ầm lên rằng đây là do khủng bố của đối phương phá hoại. Chính họ đă kêu lên như thế. Luận điệu này chỉ gây rối loạn, cho nên lời công bố đầu tiên của chúng tôi là bác bỏ luận điệu ấy, sau đó sự thực cũng chứng tỏ đúng như vậy thôi.

 

Tai nạn xảy ra chỉ do khuyết điểm máy móc trục trặc, hoặc lỗi nhân viên phi hành, tôi không rơ đích xác cái nào. Một trong những cánh cửa sau đă không gài cẩn thận, bị bay tung ra làm phi cơ mất thăng bằng, phi công không điều khiển được nữa. Anh ta đă cố gắng rất khá để đáp bằng bụng xuống mặt ruộng, nhưng kết quả những người ngồi tầng dưới thiệt mạng, những người ngồi tầng trên sống sót. Chúng tôi không thể xem vụ này là hành động phá hoại hay khủng bố của đối phương. Không phải thế.

 

V́ vậy tôi đă điện thoại cho toà Bạch ốc để dẹp luận điệu vô nghĩa này. Phía không quân xem chiếc máy bay C-5A là một món đồ chơi yêu thích, họ không thể chấp nhận được rằng có thể có trục trặc do máy móc, hoặc do lỗi phi hành đoàn.

 

Nhưng sau cùng chúng tôi đă lo được vụ này khá nhanh chóng. Chúng tôi đă khép miệng họ. Chúng tôi bảo sẽ có cuộc điều tra, nhưng không có dấu hiệu nào về hành động phá hoại cả. Không có chuyện ấy. Vậy là kiểm soát xong nội vụ.

 

Ngày 26 tháng Ba, tôi gửi điện văn yêu cầu Hoa Thịnh Đốn chấp nhận cho chúng tôi được sử dụng quyền khẩn cấp tại Sàig̣n để chở các gia đ́nh, quyến thuộc, của cải vật dụng của họ. Hoa Thịnh Đốn không trả lời điện văn này. Họ không muốn ủy cho viên chức địa phương thẩm quyền này, v́ liên hệ đến sự sử dụng ngân khoản. Nhiều câu hỏi về các thủ tục hành chánh đă được nêu ra, nhưng không bao giờ được giải quyết. Dẫu sao, tôi đă đưa những thỉnh cầu rất sớm, ngay từ lúc ấy.

 

Tôi có thể xác định thời điểm di tản bất đầu từ vụ chuyển vận trẻ em, v́ lẽ vụ ấy được sử dụng cho mục đích di tản. Như thế, trái với điều nhiều người thường cho rằng măi đến đầu tháng Tư chúng tôi mới bắt đầu chương tŕnh di tản, thật ra chúng tôi bắt đầu ngay từ cuối tháng Ba.

 

Việc này quư vị thấy cũng nêu lên nhiều vấn đề: Chúng ta không thể đưa người ngoại quốc nhập nội Hoa Kỳ bằng cách cứ cho họ vào phi cơ rồi bay vào Mỹ. Trong thực tế, măi đến ngày 25 tháng Tư chúng tôi mới thực sự nhận được thẩm quyền chính thức để đưa người Việt vào Hoa Kỳ.

 

Rút cuộc chúng tôi vẫn đă t́m cách đưa được họ vào Guam và vào vịnh Subic. Vào Subic là cả một vấn đề. Đây không phải lănh thổ Hoa Kỳ. Đây là đất Phi Luật Tân. Người Phi không muốn người khác cứ chở người ngoại quốc vào đất nước họ. Vậy mà chúng tôi đă làm được chuyện ấy. Chúng tôi cũng đă đưa người sang Guam, dù không biết sau đó phải xoay sở thế nào, v́ lẽ măi đến 25 tháng Tư chúng tôi mới có quyền chính thức, và quyền ấy là được chở bằng tầu trong giới hạn 35,000 người Việt nhập nội Hoa Kỳ. Nhưng chúng tôi đă đem vào đến 135,000 người.

 

Ngày 4 tháng Tư chúng tôi bắt đầu cố gắng cắt giảm con số người Mỹ. Chúng tôi có thể kiểm soát được những nhân viên sứ quán, nhân viên chính phủ Mỹ và thân nhân của họ. Chúng tôi có thể bảo họ rời đi. Nhưng c̣n biết bao nhiêu người Mỹ khác nữa? Sau những năm tháng ở xứ ấy, có hàng ngàn người không phải là nhân viên chính phủ, họ là các nhà thầu, những người buôn bán tư, những ông già hồi hưu .. Nhiều người, gồm cả các nhà thầu, những người hồi hưu đă lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, lập gia đ́nh không hôn thú với người Việt. Nên người ta có đủ thứ: vợ chồng con cái, cha mẹ, anh em ruột, anh em họ, chị em ruột… Cứ trung b́nh con số một gia đ́nh Việt Nam là bảy người, quư vị sẽ thấy vấn đề của chúng tôi như thế nào? Khủng khiếp. Chúng tôi không có quyền chở hết những người này đi, nhưng nếu không chở toàn bộ gia đ́nh họ, họ không chịu đi. V́ vậy chúng tôi phải uyển chuyển t́m ra các cách thức và phương tiện, thành thực mà nói, đôi khi bất hợp pháp, để giải quyết vấn đề. Nếu phân loại con số những người Việt có thể bị hiểm nguy đe doạ th́ con số ấy vô tận. Trước hết, chỉ nói về những nhân viên trực tiếp, th́ đă phải phân loại ra nhiều ưu tiên – chúng tôi phải lo ngay cho các người làm việc ở DAO (văn pḥng tùy viên quân sự) và trong thực tế chúng tôi đă đưa một số người ấy đi rất sớm.

 

Rồi đến các viên chức chính quyền, những quân nhân đặc biệt liên hệ chặt chẽ với chúng ta. Rồi đến các thân nhân người Mỹ. Rồi lại có những người – ví dụ các thủ lănh nghiệp đoàn. V́ vậy chúng tôi đă phải phân chia trách nhiệm ra nhiều phần trong chương tŕnh di tản. Văn pḥng tùy viên quân sự phụ trách việc đưa các quân nhân – văn pḥng tùy viên lao động lo cho người trong lănh vực lao động. Chúng tôi phân công như thế. Nếu nói chúng tôi không có kế hoạch th́ không đúng. C̣n nếu nói chúng tôi đă bỏ sót người th́ vâng, hoàn toàn đúng. Chúng tôi có kế hoạch và có một hệ thống làm việc, nhưng một lần nữa xin nhắc lại lúc ấy chúng tôi vẫn chưa có thẩm quyền chuyển người đi.

 

Ngoài ra, c̣n một vấn đề khác nữa: Chúng tôi không được đưa các công dân Việt Nam ra khỏi nước mà không có sự cho phép của chính phủ Việt Nam. Chúng tôi đang thực hiện nhiều tác vụ. Ư thức được là giờ kết thúc sắp đến chúng tôi lại phải cố giữ cho chính quyền Việt Nam tiếp tục hoạt động. Phải giữ được trật tự. Phải pḥng ngừa t́nh trạng hỗn loạn xảy ra. V́ thế trong lúc cho người di tản chúng tôi vẫn cứ phải tiếp tục nói rằng không có chuyện di tản. Đại sứ Martin và tất cả chúng tôi phải giữ mọi thứ nguyên trạng, các h́nh ảnh vẫn treo ngay ngắn trên tường, nếu chúng tôi động đậy ǵ th́ người ta sẽ kêu ầm lên “Trời đất, ông Phó Đại Sứ đă sửa soạn hành lư rồi”, tin tức sẽ bắn ra như lửa cháy. Đó, lư do tại sao chúng tôi đă bỏ lại hết mọi tư trang vật dụng. Có trời mới biết sau đó ai đă hưởng các của cải ấy, hy vọng là những người làm của chúng tôi được hưởng. Lúc ấy chúng tôi đưa người ra bằng những chuyến bay C-130 và các chuyến bay thương mại, nhưng cứ mỗi lần có người ở Hoa Thịnh Đốn nói ǵ đến chữ “di tản” là tôi lại phải bốc điện thoại kêu lên: xin ngưng lại, đừng nói ǵ chuyện ấy cả. Các đường giây liên lạc với Hoa Thịnh Đốn xấu tốt bất thường, nhưng mỗi lần có việc khẩn cấp cần thực hiện ngay, tôi lại phải chụp điện thoại gọi nhân viên Bạch ốc. Ví dụ một lần bỗng cơ quan hàng không Liên Bang ở Honolulu không hề tham khảo ư kiến ai, họ tự tiện công bố là phi trường Tân Sơn Nhứt không c̣n an toàn cho máy bay thương mại đáp xuống. Lúc ấy tôi đang cố giữ chân hăng PAN AM tiếp tục bay để chúng tôi có thể sử dụng các máy bay thương mại. Như vậy phải lật ngược quyết định ấy, mà gọi Bộ Ngoại Giao không xong, v́ phải chờ đến cuộc họp ngày hôm sau. Trường hợp ấy, tôi đă bốc điện thoại gọi toà Bạch ốc bảo là “Xin quư vị ra lệnh cho mấy tên khốn hủy ngay chuyện ấy đi.” Tôi thực hiện việc ấy chỉ trong ṿng bốn tiếng đồng hồ. Trong loại công việc này người ta phải vận chuyển nhanh chóng. Có khi đường giây điện thoại rất tốt, nhưng gặp những trường hợp thật eo hẹp, lại phải giả lờ đi không gọi!

 

Chúng tôi không có thời biểu. Chương tŕnh tổng quát của cuộc di tản cần vận dụng tất cả: Ưu tiên một, sử dụng máy bay thương mại càng lâu càng tốt; Ưu tiên hai: sử dụng phi cơ quân đội càng lâu càng tốt; cuối cùng mới tới kế hoạch bốn của chương tŕnh là chiến dịch “Gió Cuốn” (Frequent Wind), sử dụng trực thăng vận. Trên căn bản, chúng tôi đă áp dụng đúng chương tŕnh ấy, và đă cho máy bay C-130 liên tiếp bay tới bay lui đến Guam và vịnh Subic.

 

Các máy bay C-130 luôn luôn đầy ắp. Nhưng máy bay thương mại th́ khác. Danh sách giữ chỗ nhiều hơn, nhưng khi bay, hành khách không đến đầy đủ: phần lớn họ là người Việt không lấy được giấy phép xuất cảnh, hoặc tự đổi ư không đi. Dù vậy khi cộng lại, chúng tôi cũng đă di tản được 135,000 người. Về con số đó, một nửa chúng tôi đă mang ra bằng máy bay thương mại, phi cơ quân đội, trực thăng và một số xà lan trên sông Sàig̣n. Đa số nửa c̣n lại đưa ra được bằng tầu, nhưng chúng tôi không trực tiếp đưa đi, chúng tôi vớt họ bằng hạm đội ở bên ngoài.

 

Chúng tôi đă di tản không sót một người Mỹ nào trong xứ, nhân tiện cũng đưa ra rất nhiều người ngoại quốc khác, thêm vào số người Việt chúng tôi mang ra. Một số đă rời từ sớm, số c̣n lại chúng tôi đưa đi vào ngày cuối cùng. Chúng tôi đă mang ra không sót một người Mỹ nào, ngoại trừ những người tự ư không muốn đi.

 

Về việc này cũng có khối chuyện để kể. Trong số những người Mỹ chúng tôi mang ra, có bảy tù nhân bị giam trong các nhà tù Việt Nam với những tội phạm khác nhau, kể cả hiếp dâm, giết người. Phía người Việt đă trao họ cho chúng tôi qua các lănh sự vào vài ngày trước. Sáu người trong bọn họ được báo cáo tŕnh diện ở các địa điểm di tản, và chúng tôi đă mang họ ra. Tôi đoán là giờ này qúy ông ấy đang đi phá làng phá xóm đâu đây ở xứ Mỹ này. Một người quyết định ở lại và đă biến mất. Người này không phải là người duy nhất. C̣n một người nữa tự nguyện ở lại, đi ra Bắc. Người này thuộc Ủy Ban hữu nghị Mỹ Việt, họ là những người bạn trung thành với Bắc Việt. Vào lúc sắp di tản ông ta nhảy qua tường, biến mất với các bạn bè của ông ta. Một năm rưỡi sau, ông ta xuất hiện. Tôi nhớ có một bài báo trên tờ Newsweek viết là ông ta đă “kinh ngạc ghê gớm” khi khám phá rằng ông ta đă giao dịch với cộng sản! Tôi nghĩ câu chuyện này thực đáng buồn cười.

 

Có một việc chúng tôi phải quan tâm và luôn luôn cân nhắc, đó là việc quân đội miền Nam có thể quay ra chống lại chúng tôi. Sau này chúng tôi đă bị chỉ trích nặng nề về việc đă cố giữ cho guồng máy cầm quyền của Việt Nam tiếp tục hoạt động. Nhưng chúng tôi không có quân lực trong xứ. Chúng tôi không có phương tiện thực hiện ư định. Chúng tôi cần phải giữ guồng máy cầm quyền Việt Nam cộng tác với chúng tôi. Chúng tôi phải ngăn ngừa t́nh trạng các thường dân hốt hoảng có thể gây rối loạn cho cuộc di tản. Sau nữa, chúng tôi đă khá lo ngại khi nghe một số chỉ huy quân đội bảo rằng: “Nếu chúng tôi sụp đổ th́ các ông cũng sụp đổ với chúng tôi. Chúng tôi sẽ chặn các ông lại.”

 

Đúng thế. Tin t́nh báo cho biết ít nhất có một viên chỉ huy các đơn vị quan hệ đă có ư định ấy. Chúng tôi đối diện khá gần gũi với cái viễn tượng là toàn bộ kế hoạch có thể tiêu tan nếu xảy ra hiểm nguy này. Phải suy nghĩ đến chuyện ấy thực là một điều kinh khủng. Chính điều này đă tác động và ảnh hưởng lên tất cả những hoạt động của chúng tôi. Nó làm cho mọi thứ trở nên có vẻ như vô trật tự, nhưng sự thực nó không đến nỗi vô trật tự như thế, hoặc như người ta đă chỉ trích.

 

Vào những ngày 25 và 26 nhằm thứ sáu và thứ bẩy, mặt trận đột nhiên lắng dịu. Quân đội Bắc Việt có vẻ đă ngưng các chiến dịch tiến công. Tôi cố t́m hiểu. Có hai lư do có thể xảy ra. Một là, phải chăng đây chỉ hoàn toàn có tính cách quân sự: Họ đang tập trung quân và tái phối trí? Sau này tôi nghĩ đúng như vậy. Hai là, tuy nhiên vẫn có thể họ đă dừng lại sau khi đă tiến sát đến thành phố – Rồi đưa ra một chính phủ liên hiệp như họ vẫn tuyên bố, mặc dù đây chỉ là một mánh lới thuần túy tuyên truyền.

 

Trái hẳn điều người ta nói, tôi chưa từng bao giờ mong mỏi một chính phủ liên hiệp. Trong thực tế, tôi ao ước điều ấy đừng bao giờ xảy ra. Nếu Hà Nội thực hiện điều ấy, sau này chắc chắn sẽ có những kêu gọi rầm rĩ đ̣i yêu cầu yểm trợ chính phủ liên hiệp mới, mà giản dị chính phủ này chẳng có giá trị ǵ hơn một bộ mặt ngoài.

 

Cho nên thành thật mà nói, tôi mong Bắc quân cứ dẫm nát Sàig̣n với xe tăng, đại pháo, với quân lực cơ giới như họ đă làm, để ít nhất mọi sự được rơ ràng, việc ǵ đă xảy ra. Vài người phê b́nh toà Đại Sứ tự đánh lừa ḿnh về việc tin sẽ có chính phủ liên hiệp. Chúng tôi quả đă chuẩn bị kế hoạch là nếu trong trường hợp có chính phủ liên hiệp, có lẽ chúng tôi sẽ để lại một số ít nhân viên. Chính tôi có thể sẽ ở lại giữ nhiệm vụ cùng với chừng nửa tá nhân viên nữa. Nhưng những người này dẫu sao vẫn là những người ra đi cuối cùng – việc này chẳng liên hệ ǵ tới kế hoạch di tản của chúng tôi cả.

 

Tôi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ được biết rơ Hà Nội có quả thật dự tính chuyện chính phủ Liên Hiệp hay không, trừ phi chúng ta có thể vào văn khố Hà Nội. Nhưng khi chúng ta có thể làm được việc ấy, chắc tôi và qúy vị cũng không c̣n nữa. (1)

 

Nh́n lại chuyện cũ, tôi nghĩ đó chỉ là quyết định quân sự khi họ giữ êm hai ngày thứ sáu và thứ bảy. Ngày chủ nhật, tương đối cũng êm. Suốt cuối tuần ấy chúng tôi tiếp tục vận chuyển người đi bằng C-130. Đến chiều chủ nhật lúc 6 giờ, vụ oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất bắt đầu xảy ra. Vào giờ ấy tôi đang ở trong pḥng làm việc. Có người vào báo mấy chuyến xe buưt chở người Việt ra phi trường đang bị ngưng trệ v́ lính gác kêu mệt, đ̣i đi ăn. Người ta yêu cầu tôi ra giải quyết.

 

Tôi rời văn pḥng băng qua khu hồ tắm, nơi tiến hành những vụ chuyển vận, để xem việc ǵ xảy ra. Đúng lúc tôi đến, Tân Sơn Nhất bị oanh tạc. Tôi thấy rơ những chiếc máy bay thả bom bay qua mái nhà. Súng pḥng không bắn lên, các xạ thủ trong sân toà đại sứ cũng nhả đạn. Trời biết họ bắn cái ǵ, mấy chiếc máy bay đâu có gần đến thế. Mọi người khiếp đảm, lính thủy quân lục chiến có hơi bị kích động, họ quá quan tâm về sự an toàn của mọi người nên đă dồn tất cả mọi người vào khu nhà ăn, kể cả tôi. Họ rất quan tâm về sự an toàn của tôi, với tư cách Phó Đại Sứ, điều ấy thực đáng cảm động, nhưng có hơi quá đáng một chút. Đừng quên tôi là cựu chiến binh. Tôi đă từng lănh đạn của các tay đại chuyên viên trong nghề binh lửa vào thời đệ nhị thế chiến. Tôi biết có biến cố đang xảy ra, phải tạm hoăn việc đưa người cho đến khi nắm vững t́nh h́nh. V́ vậy tôi quay lại văn pḥng, trong lúc tôi đang đi – th́ đây là câu chuyện nổi tiếng về cái cây mà chắc quư vị đă từng nghe nói – tôi đi ngang qua cái cây me to lớn, một cây me rất đẹp mọc ở trong sân, tôi thấy một cậu ong biển (2) đang dùng ŕu chặt cái cây này. Bấy giờ chúng tôi đều biết khi nào tiến hành trực thăng vận ở sân toà đại sứ, chúng tôi phải hạ cái cây, nhưng cái cây này ai đi ở ngoài đường cũng thấy. V́ vậy tôi vào sảnh đường, bảo nhân viên an ninh ra nói người lính dừng tay. Tôi bảo: “Mang cưa máy và dụng cụ chặt cây cho anh ta. Nhưng bảo đừng làm ǵ vội cho đến khi có lệnh. Chúng ta không muốn xảy ra t́nh trạng rối loạn.” Cái cây này không phải là một biểu tượng ǵ của Đại sứ Graham Martin, tôi nghĩ ông không hay biết ǵ chuyện này cả. Tôi trở về văn pḥng, quên bẵng chuyện cái cây, nhưng tôi biết sẽ phải hạ cái cây khi tiến hành công tác. Tôi biết sẽ phải bắt đầu xử dụng trực thăng vận. Tôi biết rơ t́nh h́nh đang xảy ra như thế nào. Sau đó tôi nghe nói có người tiếp tục ra sức chặt nữa, nhưng tôi không quan tâm. Sáng hôm sau, cái cây ấy vẫn c̣n đứng sừng sững ở đấy. Khi bắt đầu quyết định sử dụng trực thăng vận, một trong những câu đầu tiên tôi nói với các nhân viên hành chánh là: “nào, bây giờ ra bảo họ hạ cái cây xuống.” Cái cây được hạ vài tiếng đồng hồ trước khi trực thăng tới.

 

Chiến dịch trực thăng vận từ sân toà đại sứ là một công tác khó khăn v́ lẽ xung quanh đều có tường. Các phi công gặp nhiều khó khăn v́ phải tránh né bức tường ấy.

 

Nhưng dù sao chúng tôi đă phải lập tức xúc tiến mọi việc, t́m hiểu xem việc ǵ xảy ra ở phi trường Tân Sơn Nhất. Chúng tôi được văn pḥng tùy viên quân sự ở tại hiện trường cho biết có oanh tạc. Đường bay bị nhiều hư hại, chúng tôi không thể tiếp tục chuyển vận bằng máy bay C-130 được nữa.

 

Đại sứ Martin và tôi ở lại làm việc cho đến nửa đêm mới quyết định về nhà chợp mắt vài giờ. Nhân viên ở lại làm việc suốt đêm. Họ phải hoàn tất các lộ tŕnh xe buưt để bốc người vào ngày hôm sau trong trường hợp sử dụng trực thăng vận. Các xe buưt thuộc về cơ quan Hoa Kỳ phát triển quốc tế (USAID) – c̣n tài xế là nhân viên toà Đại sứ. Họ không rành lái xe buưt, đúng vậy, nhưng họ đă làm phận sự một cách tốt đẹp.

 

V́ biết hôm sau phải làm nhiều quyết định quan hệ sống chết, chúng tôi về ngủ trong khi các nhân viên ở lại lo liệu nốt các vấn đề chi tiết. Về được đến nhà tôi nghĩ đă hai giờ sáng. Không ngủ được nhiều. Chỉ lơ mơ một chặp th́ nghe tiếng nổ dữ dội ở phía Tân Sơn Nhất lúc bốn giờ sáng, hoặc sau đó một chút. Mười lăm phút sau, điện thoại cho biết trụ sở văn pḥng tùy viên quân sự bị pháo, hai lính thủy quân lục chiến thiệt mạng. V́ vậy lúc sau, có lẽ khoảng năm giờ rưỡi tôi trở lại sảnh đường toà Đại sứ. Ánh sáng ban ngày vừa ửng, mọi người đă tề tựu, ông đại sứ dùng xe đi ra Tân Sơn Nhất nói chuyện với tướng Homer Smith thuộc văn pḥng tùy viên quân sự, và để xem xét tại chỗ: có nên tiếp tục sử dụng máy bay C-130, hay phải bắt đầu sử dụng kế hoạch số Bốn. Đại sứ Graham Martin muốn đích thân lượng giá trước khi ban hành cái quyết định tối hậu. Khi trở lại, ông điện thoại cho Hoa Thịnh Đốn. Đấy là lúc quyết định được ban ra.

 

Tôi nghe nói ông đại sứ đang điện thoại cho Hoa Thịnh Đốn. Có một nhân viên nữa cùng với ông, ở một máy điện thoại khác. Người này bước ra khỏi pḥng đại sứ, vào pḥng tôi, nói “Đến lúc rồi.”

 

Tôi vào pḥng Martin, bảo: “Tôi được báo cáo là đă đến lúc. Chúng ta sẽ sang kế hoạch số bốn “Frequent wind”, di tản bằng trực thăng”. Ông đại sứ nói: “Phải”. Tôi lập tức đi ra ngay. Các nhân viên cao cấp đă tề tựu trong pḥng hội. Tôi nói: “Xong rồi, đă đến lúc rồi”. Họ đều tản ra để lo liệu công việc ḿnh.

 

Dự định đầu tiên của kế hoạch số bốn là các trực thăng từ hạm đội sẽ mang thêm Thủy quân lục chiến vào tăng cường tại hai địa điểm di tản: Văn pḥng Tùy viên Quân Sự ở Tân Sơn Nhất, và ở toà Đại sứ. Theo dự định, một giờ sau khi khẩu lệnh “Tiến hành” ban ra vào giờ 4+1, là họ sẽ vào: Nhưng việc ấy không xảy ra. Bất hạnh thay, họ đă chậm mất ba tiếng đồng hồ, lư do có sự trục trặc ở ngoài hạm đội. Các thủy quân lục chiến được chỉ định bay vào th́ ở trên một số tầu, mà trực thăng lại ở trên những tầu khác. Việc qua lại và chuẩn bị đă tốn mất một số th́ giờ. Ba giờ đồng hồ chậm trễ đă gây ra vấn đề. Trong vụ di tản chót này, ưu tiên một dành cho người chờ ở văn pḥng Tùy viên quân sự. Ưu tiên hai ở sảnh đường toà Đại Sứ, tại toà nhà chính, một số toà nhà khác và khu hồ tắm.

 

Buổi tối, tướng Richard Carey điện thoại cho tôi, đề nghị có lẽ nên ngưng trực thăng vận rồi tiếp tục lúc trời sáng. Tôi từ chối. Chúng tôi không thể ngưng, cần phải tiếp tục vận chuyển. Do đó quyết định ban ra là trực thăng vận cứ tiếp tục.

 

Bấy giờ tất nhiên t́nh h́nh chung quanh toà Đại sứ trở nên mỗi lúc một căng thẳng. Cả một đám đông người vây kín toà đại sứ suốt đêm. Cuối cùng chúng tôi đưa thêm một trung đội thủy quân lục chiến pḥng vệ toà đại sứ ngơ hầu bảo đảm an ninh khu vực, v́ người ta cứ tiếp tục cố trèo qua tường mà vào. Cảnh tượng thực hết sức thương tâm.

 

Cuộc di tản ở DAO chấm dứt sau khi tất cả mọi người đă được bốc đi, từ đó chỉ c̣n lại công tác bốc số người c̣n lại ở toà Đại sứ. Đến nửa đêm hay sau đấy một lúc, chúng tôi nhận tin từ hạm đội xác quyết về giới hạn số chuyến bay. Chúng tôi được báo chúng tôi sẽ chỉ c̣n bốc được mười ba chuyến nữa thôi, không kể các chuyến bay dành để rút số Thủy quân Lục chiến ra. Số chuyến bay ấy không đủ so với số người c̣n lại bấy giờ đang ở trong ṿng rào toà Đại sứ, đa số là người Việt, một số là người Đại Hàn – người Mỹ c̣n lại chẳng bao nhiêu. Chúng tôi có điện thoại trao đổi ư kiến việc ấy, nhưng chỉ được trả lời vỏn vẹn rằng: thế thôi, chỉ mười ba chuyến nữa, không hơn, ngoại trừ số chuyến sử dụng để bốc lính thủy quân lục chiến. V́ vậy chúng tôi gửi cái điện văn cuối cùng. Bản điện văn viết: “DỰ TRÙ KẾT THÚC NHIỆM VỤ LÚC 4 GIỜ 30 SÁNG 30 THÁNG TƯ GIỜ ĐỊA PHƯƠNG, V̀ NHU CẦU HỦY BỎ DỤNG CỤ TRUYỀN TIN, ĐÂY LÀ ĐIỆN VĂN CUỐI CÙNG CỦA TOÀ ĐẠI SỨ Ở SÀIG̉N.” Chúng tôi đánh điện văn này bằng tay xong là người nhân viên truyền tin dùng một cái búa tạ phá bỏ hệ thống máy móc. Anh ta được bốc đi, nhưng chúng tôi vẫn c̣n phương tiện truyền thông khác. Lính thủy quân lục chiến phụ trách trực thăng vận có mang theo điện đài đeo lưng để liên lạc với hạm đội. Chính qua hệ thống điện đài này mà lúc bốn giờ sáng chúng tôi nhận được lệnh cưỡng bách của Toà Bạch ốc yêu cầu Đại Sứ và các nhân viên c̣n lại phải rời bằng chuyến trực thăng kế tiếp. Chúng tôi không hoàn toàn thi hành đúng y như vậy, nhưng khoảng trước năm giờ sáng một chút là thời điểm tất cả mọi người phải ra đi.

 

Tôi đi quanh sân, nh́n một lần cuối, nói chuyện với viên Thiếu tá thủy quân lục chiến ở dưới ấy. Chúng tôi hăy c̣n chừng 250 Việt và một số người Đại Hàn. Viên Thiếu tá và tôi đồng ư sẽ có ba chuyến trực thăng lớn nữa để bốc hết số người này đi. Nhưng đă không có những chuyến bay ấy, lư do bắt nguồn từ sự chậm trễ ngay lúc đầu chiến dịch. Đó là lư do tại sao số người này bị bỏ lại. Con số vào khoảng 250 người không phải là 400 hay 500 như nhiều người đă bảo.

 

Số người Đại Hàn, con số đáng kể trong nhóm này đă được đùm bọc và giúp đỡ hồi hương qua sự thu xếp của người Nhật – họ đă duy tŕ một văn pḥng ở Sàig̣n, và đă ở lại đấy. Cho nên việc này tôi không áy náy nhiều. Tôi áy náy về việc đă bỏ người lại, nhưng đó là v́, như tôi đă nói, do sự chậm trễ mà ra. Người ta đă làm ồn ào việc này và một vài chuyện khác nữa. Những lời ong tiếng ve này đă che lấp đi một sự kiện là: Chúng ta đă bỏ lại ở Việt Nam mười chín triệu con người. Đấy mới là câu chuyện thực đáng nói. Hoa Kỳ đă bỏ lại mười chín triệu con người.

 

Vào khoảng năm giờ sáng, chúng tôi đi lên nóc thượng, gồm Đại sứ, tôi và số nhân viên cao cấp c̣n lại. Một chiếc trực thăng đă đậu trên nóc. Chiếc trực thăng nhẹ đậu trên nóc, chiếc nặng hơn đậu dưới sân. Vừa khi trực thăng hạ xuống, đại sứ Martin, tháp tùng bởi Tom Polgar và George Jacobson bắt đầu tiến ra trực thăng, tất cả số c̣n lại chúng tôi đi theo. Trưởng phi hành đoàn đưa người vào trực thăng, sau khi nhận biết đă có đủ những người cần phải bốc, anh ta vẫy tay ra hiệu cho số c̣n lại chúng tôi đứng lui ra. Chiếc trực thăng cất cánh. Có một chiếc nữa đang lởn vởn, sắp đáp xuống. Ngồi với chừng sáu nhân viên c̣n lại ở đầu cầu thang, tôi tự nhủ: “Bây giờ Đại sứ đi rồi, ḿnh xử lư nhiệm vụ, có thể ḿnh thay đổi ư định chăng” thử khôi hài chơi một lần cuối! Đă bốn ngày rồi tôi không được ngủ. Chiếc trực thăng kia hạ xuống. Viên thiếu tá trẻ tuổi đầy khả năng, người chỉ huy chiến dịch trực thăng vận sử dụng máy truyền tin để liên lạc với hạm đội, phối hợp kế hoạch rút lui nhóm thủy quân lục chiến. Đấy là tác vụ cuối cùng. V́ thế chúng tôi ngồi đấy khoảng hai mươi phút, rồi cất cánh vào lúc chừng 5 giờ 20 phút sáng, chấm dứt sự hiện diện chính thức của Mỹ ở Việt Nam. Điều cuối cùng mà toán lính Thủy Quân lục chiến đă làm sau đó là tự rút lui. Họ hoàn tất việc ấy vài tiếng đồng hồ sau đó.

 

Trên đường ra, chúng tôi nh́n thời tiết, nh́n trời đất thấy có sấm chớp đang tiến lại gần. Chúng tôi có thể thấy ánh đèn các đoàn xe Bắc quân đang tiến vào thành phố. Vài chiếc phi cơ chiến đấu của hạm đội có thể nh́n thấy từ xa vẫn đang tiếp tục che chở cho số người c̣n lại chúng tôi.

 

Chiếc trực thăng nhồi nhét tất cả số nhân viên, số người hộ vệ. Tất cả im lặng tuyệt đối ngoại trừ tiếng nổ của động cơ. Trên đường ra, tôi không nghĩ tôi đă nói một lời nào, tôi không nghĩ có ai nói một điều ǵ. Cái cảm giác dâng lên là một nỗi buồn khủng khiếp.

 

_____________________________

 

(1) Vào tháng 2/1993: Hà Nội đă cho Mỹ vào xem văn khố.

(2) Lính thủy quân lục chiến thuộc Đội Công Binh Tạo Tác. Ghi chú của người dịch.

 

 

 

LACY WRIGHT

(Nhân viên ngoại giao. Trưởng pḥng chính trị)

 

 

“Hy vọng luôn bừng nở”

 

 

 

 

 

Tôi sinh trưởng ở Springfield, Illinois thuộc miền Trung Tây nước Mỹ. Xong đại học, sang La Mă thụ giáo linh mục hai năm rưỡi. Rồi bỏ dở. Về lại Mỹ dạy trung học tại Chicago một năm. Thời gian ấy tôi dự một kỳ thi tuyển nhân viên ngoại giao và theo học chương tŕnh cử nhân Bang giao quốc tế tại đại học Chicago một năm. Tôi cũng không theo hết chương tŕnh, v́ đă được nhận làm nhân viên ngoại giao từ đầu năm 1968. Lúc ấy, ai vào ngoại giao mà chân c̣n cất bước và mồm c̣n bỏm bẻm nhai kẹo cao su được là được gửi đi Việt Nam.

 

Có thể nói lúc ấy đối với đa số người làm ngoại giao, bị đưa sang Việt Nam là một điều cay đắng. Ngành ngoại giao thời ấy, ít hay nhiều, đều có khuynh hướng chống chiến tranh. Chưa kể người ta sợ, chẳng ai muốn mất mạng giữa thời son trẻ. Nhưng phần lớn chúng tôi đều đă được đưa sang Việt Nam.

 

Sang bên ấy, có điều kỳ lạ làm chúng tôi thay đổi: đa số đâm ra thích Việt Nam. Nhiều người, kể cả tôi, sau khi về, lại t́nh nguyện xin trở lại.

 

Trước khi đi, chúng tôi được học mười tháng tiếng Việt tại học viện ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn. Dù không giỏi bằng nhiều người khác, nhưng khả năng Việt ngữ của tôi cũng không đến nỗi nào. Trái với điều người ta thường bảo người Mỹ không hiểu biết ǵ về xứ sở này, kể ra cũng có phần đúng, nhưng phần lớn nhân viên ngoại giao và nhân viên các ngành đều nói được tiếng Việt, nói rất giỏi. Tất nhiên không sánh được với người Pháp và vài nhóm người ngoại quốc khác tại Việt Nam.

 

Học viện ngoại giao không phải chỉ gồm có nhân viên ngoại giao. Dù nhân viên ngoại giao chiếm đa số, nhưng c̣n có cả các sĩ quan quân đội, thường là cấp thiếu tá, trung tá, và nhiều người thuộc các cơ quan khác. Nói chung, sĩ quan quân đội hơi lớn tuổi đối với việc học Việt ngữ, vốn là một ngôn ngữ khó. Trung b́nh họ ngoài bốn mươi, và cũng không có ai cố theo học. C̣n nhân viên ngoại giao đa số đều học tiếng Việt, nhiều người sau khi sang Việt Nam ra ngoài sinh hoạt, làm việc ở các tỉnh, đă trau dồi thêm và nói tiếng Việt rất giỏi.

 

Sau một năm học Việt ngữ rồi tham dự những lớp thuyết tŕnh chuẩn bị, tôi đă đến Việt Nam vào tháng 3, 1969.

 

Có vài điều tôi muốn nói. Điều thứ nhất: Dân Việt không phải ai cũng như ai, có người thế này người thế khác, có người khá có người không. Những nhân viên sang bên ấy trước vẫn không có cảm t́nh với chính phủ Nam Việt Nam, nhưng sau khi tiếp xúc với người Việt, làm việc với người Việt, sinh hoạt với các viên chức địa phương, dần dà nảy sinh nhiều t́nh cảm. Những người này bắt đầu đứng bên họ, mong cho họ những điều tốt đẹp, hy vọng họ sẽ thắng. Và mặc dầu tất cả chúng tôi đều thấy chế độ Nam Việt Nam có nhiều thiếu sót, nhưng sau khi quen thuộc với chiến thuật đối phương, thấy rơ sự khác biệt của phía Cộng sản và phía bên này, chúng tôi đều nảy sinh nhiều t́nh cảm đối với Nam Việt Nam. Điều thứ hai: Ở Việt Nam người ta có thể sống một cuộc đời phiêu lưu, với một giá sinh hoạt rẻ. Phần lớn nhân viên dân sự chúng tôi sống tiện nghi thoải mái, tương đối an toàn. Tất nhiên nhiều người phải về những vùng nguy hiểm, nhất là những người đi các tỉnh lẻ. Nhưng với đa số chúng tôi, những hiểm nguy đó chỉ vừa đủ cho cuộc đời thêm thích thú. Nó là cảm giác sôi nổi của cuộc sống thú vị giữa những hoạt động đầy tranh căi của thời đại chúng ta. Và đàn bà th́ vô số! Người ta ở vào một thời gian và không gian mà mọi kiềm chế b́nh thường được tung hê tháo bỏ, chẳng phải giữ ǵn ǵ. Tất nhiên, đó là một hấp dẫn không ngừng.

 

Thế đấy. Nơi ấy đă có những cái tốt, những cái xấu, có những điều cao quí và cũng có nhiều thứ kém cao quí như vậy.

 

Một trong những chuyện tôi thích kể là vào năm 1973 sau khi đă kư hiệp định Paris, Bộ Ngoại giao quyết định gửi nhiều nhân viên về lại

Việt Nam. Đưa người sang Việt Nam là bật rễ họ khỏi cuộc sống, gây nhiều trở ngại và thay đổi. Để thu hút chúng tôi, họ t́m cách tạo khích lệ: Trước hết, chỉ cần đi trong ṿng sáu tháng để theo dơi việc thi hành hiệp định. Lương được tăng đến 25 phần trăm. Trong thời hạn có sáu tháng, lại được về thăm nhà một chuyến, hoặc tùy ư du lịch bất cứ chỗ nào vói phí tổn tương đương. Và Mỹ ở tận bên kia địa cầu, như thế nghĩa là có thể đi du lịch bất cứ chỗ nào trên thế giới tùy thích.

 

Sau khi đặt ra đủ thứ khích lệ hấp dẫn như thế, Bộ Ngoại giao lại cho biết nếu được chỉ định là phải đi, không có quyền lựa chọn. Tuy nhiên sau khi công bố, ai cũng muốn đi. Có người gọi cả điện thoại đến sở nhân viên hỏi: “Này, sao không thấy tên tôi trong danh sách trở lại Việt Nam.”

 

Chuyến đầu tiên tôi sang Việt Nam một năm rưỡi. Vào thời gian ấy chương tŕnh B́nh định đạt nhiều kết quả. Chương tŕnh này có hai diện: một là loại bỏ Cộng sản, hai là cải thiện đời sống dân chúng. Nhiều tiến bộ đạt được trong cả hai lănh vực. Nói chung những tiến bộ ấy bắt đầu kể từ sau vụ tổng công kích Mậu Thân thất bại và tiếp tục được vài năm. Những kết quả này làm cho phần lớn vùng đồng bằng Cửu Long trở nên yên ổn.

 

Vùng đồng bằng gồm 16 tỉnh, tôi đă làm việc tại một trong 16 tỉnh ấy. Không hề có hoạt động của đối phương. Phần lớn vùng đồng bằng đều như vậy, an ninh rất tiến triển. V́ thế khi trở lại, tôi có một thái độ lạc quan khá ngây thơ. Mọi người đều phấn khởi là chiến tranh đă chấm dứt, hoặc ít nhất, có một triển vọng mới cho hoà b́nh: Bất kể sự kiện hiển nhiên là hiệp định hoà b́nh này không thực hoàn hảo ǵ. Có lẽ v́ hy vọng luôn bừng nở? Chúng tôi đă hy vọng: dẫu có thế nào, biết chừng đâu hiệp định này sẽ mang nhiều kết quả!

 

Vào thời điểm ấy, vẫn c̣n nhiều người Mỹ ở tại Việt Nam, nhờ đó đời sống vẫn thịnh vượng. Nhưng đến khi chúng ta rút đi một con số lớn người Mỹ, xứ sở này bắt đầu xuống dốc. Họ bắt đầu đối mặt với những khó khăn kinh tế trầm trọng, thiếu tiếp vận cho quân đội, và họ mất tinh thần.

 

Đầu năm 73 tôi được gửi đi Chương Thiện khoảng một, hai tháng. Rồi tôi lên Cần Thơ, thủ phủ vùng đồng bằng, cũng là thủ phủ quân khu 4. Lúc ấy chúng tôi thiết lập tại đây một lănh sự quán cũng như các lănh sự ở các quân khu khác. Tôi trở thành một trong 16 nhân viên ngoại giao làm việc dưới quyền lănh sự Mỹ ở Cần Thơ.

 

T́nh h́nh đồng bằng Cửu Long thực ra mỗi lúc một xấu. Đầu năm 74, lănh sự quán làm một bản phân tích chiến sự rất dài, rất bi quan. Chúng tôi nắm rơ những dữ kiện xảy ra: lính đào ngũ gia tăng, quân vận thiếu hụt, tinh thần xuống thấp. Những dấu hiệu cho thấy sau một thời gian khả quan ở vùng đồng bằng vào năm 73, t́nh h́nh tuột dốc kể từ mùa Xuân 74.

 

Vào lúc này, Cam Bốt sắp bị Khmer Đỏ nuốt trọn. Chúng tôi đang đứng ở lằn ranh của diễn tŕnh này. Một sự hiện đáng kể – ít ai biết – là bấy giờ có một số dân tỵ nạn chiến tranh chạy trốn Khmer Đỏ, sang Việt Nam, đến tỉnh Kiên Giang. Một nhân viên lănh sự quán của chúng tôi đă thẩm vấn họ, đúc kết nhiều bản báo cáo dài. Sau này Khmer Đỏ chiếm đóng toàn bộ Cam Bốt, tạo ra những cuộc tắm máu, thảm sát hàng triệu con người, nhưng thật ra các hành động tàn bạo nổi tiếng ấy đă xẩy từ trước. Các cuộc thẩm vấn cho thấy Khmer Đỏ đă giết chóc dă man tại những vùng họ chiếm trước rồi, chúng tôi đă ghi nhận những sự kiện ấy vào tài liệu rất sớm, ngay từ 1974.

Nhưng việc ấy không được công bố rộng răi. Thật ra, chúng tôi có công bố các tài liệu này tại Hoa Thịnh đốn trên một vài mức độ, tôi nhớ những người như Sidney Schanberg của tờ New York Time hồi ấy đă gạt đi, coi các báo cáo này chỉ là tài liệu tuyên truyền của Mỹ. Nhưng tôi nghĩ, nói chung, dân Mỹ không hoàn toàn xem những vụ chiếm đóng ấy bằng nhăn quan được gọi là tuyên truyền Mỹ, hay Mỹ bóp méo sự thật.

 

Tôi rời đồng bằng vào tháng 9,1974, nhận nhiệm vụ phụ tá đơn vị Nội chính trong ngành chính trị tại toà đại sứ. Công việc chúng tôi là theo dơi nội t́nh chính trị Việt Nam.

 

Khi phái đoàn quốc hội đến vào đầu 1975, tôi đă thuyết tŕnh cho phái đoàn này trong lănh vực chuyên biệt của tôi. Họ không hề đặt với tôi những câu hỏi như ông Thiệu thế nào, có nên duy tŕ quyền lực cho ông Thiệu hay không, hay bất kỳ câu hỏi nào khác như vậy. Họ chỉ thích nói về vai tṛ các đảng phái chính trị, vai tṛ các nhân vật chính trị khác, ví dụ về ông linh mục nổi tiếng, ông cha Thanh lănh đạo phong trào chống tham nhũng.

 

Vấn đề đàn áp đối lập và vấn đề tù nhân chính trị không phải là một vấn đề mới. Nó hiện hữu và đă được quan tâm. Song le điều tôi muốn nói là vào lúc này chẳng nên xoáy vào vấn đề tù chính trị mà trọng điểm của vấn đề phải là sự sống c̣n của quốc gia này. Đó mới là vấn đề chính đáng. Trong mấy chuyện nhân quyền, vấn đề này cũng quan trọng thiệt, đặc biệt là quan trọng đối với mấy cha ngồi tù. Nhưng trong chuyện chính trị th́ trọng điểm lúc ấy của phái đoàn quốc hội là phải đến để thực hiện một phán đoán khó khăn về chế độ Thiệu, phải cân nhắc xem Hoa Kỳ có nên tiếp tục hỗ trợ chế độ này nữa hay là thôi.

 

Người như Don Fraser là loại người có cái t́nh cảm của phái Tự Do, họ cố t́m kiếm các dấu hiệu cho thấy chính phủ Thiệu tham nhũng hay không tham nhũng. Tôi nghĩ những người như thế đă vấp phải cùng một cái lầm lẫn của dân Mỹ nói chung thường có khuynh hướng mắc phải, đó là cứ xoáy chặt vào những tội lỗi của chế độ Thiệu. Chế độ này quả có những tội lỗi. Nhưng nếu không cân nhắc xác đáng để thấy tội lỗi của đối phương c̣n ghê tởm gấp bội, và nếu không suy nghĩ rốt ráo để hiểu việc ǵ có thể xảy ra nếu đối phương chiến thắng – th́ chuyện ấy không thể tha thứ hay bào chữa được.

 

Trong thời gian đại sứ Martin ở Mỹ, việc tan ră cao nguyên đă xảy ra lúc ông đang vắng mặt. Theo sự hiểu biết của tôi, ông đă lạc quan một cách thiếu bảo đảm lúc về lại Hoa Thịnh Đốn có thể v́ ông không ở tại trung ương, ông không nắm vững những ǵ xảy ra. Vai tṛ của đại sứ Martin và phương cách làm việc của ông tất nhiên cũng là một đề tài đáng lưu ư.

 

Khỏi cần nói, nếu quư bạn ở địa vị ông, quư bạn cũng sẽ phải cực kỳ thận trọng mỗi khi tuyên bố, hay mỗi khi mở lời nói một điều ǵ. Đại sứ Martin cũng vậy. Ông được xem là con cừu đầu đàn. Những ǵ ông làm đều có giá trị tượng trưng. Khi phân tích phê b́nh ông, người ta phải nh́n các hoạt động của ông trong bối cảnh ấy, với ánh sáng ấy. Nh́n như thế, người ta sẽ thấy ông bắt buộc phải lạc quan. Một khi đại sứ Martin bắt đầu biểu lộ bi quan, ấy là mọi sự đổ vỡ hết.

 

Người ta cũng nói đến đại sứ Martin và những lư luận của ông tŕnh bày về sự can dự của chúng ta vào Việt Nam. Ông giải thích tại sao chúng ta ở đây, để làm ǵ, tại sao cần tiếp tục. Những luận giải của ông hay hơn, vững chắc hơn rất nhiều người khác. Tôi nghe ông nói vài lần và ông đă gây nhiều ấn tượng sâu sắc với tôi.

 

Nhưng có một điều tôi nghĩ ông đại sứ có thể làm, và nên làm – mà ông đă không chịu làm là đối với giới truyền thông, báo chí. Tôi không bảo rằng truyền thông, báo chí không bao giờ lầm lẫn, thật ra họ lầm lẫn khá nhiều, nhưng đại sứ Martin đă gây ra nhiều đối kháng nơi họ. Ông làm cho những người vốn đối kháng cá nhân ông, đối kháng sự can dự của chúng ta ở Việt Nam trở nên đối kháng mạnh mẽ hơn. Tôi nghĩ việc này có thể đối phó cách khác. Nhưng tôi không hiểu nếu như thế liệu có ảnh hưởng ǵ đến cái kết quả cuối cùng không? Có lẽ không, chắc chắn cũng chẳng có ǵ tốt hơn. Thường người ta khó biết bên trong con người Martin, ông thực sự nghĩ ǵ, tin tưởng ǵ khi nói chuyện với công chúng và ông phải phủ trên những chuyện ấy một bộ mặt đẹp đẽ.

 

Tôi không dám chắc có ai biết. Nhưng bây giờ, chúng ta đă biết được một điều. Đó là trong trí ông, ông có cái hy vọng sẽ thương thảo như một giải pháp cứu văn danh dự. Mặc dù giải pháp này chẳng hơn ǵ một cuộc thất trận được che đậy, nhưng như thế ít nhất c̣n có thể cho phép thực hiện di tản, giúp những người cần ra khỏi nước có thể đi thoát. Chúng ta cũng biết cái hy vọng ấy chỉ là hy vọng hăo huyền, nhưng chính hy vọng ấy đă từng ở trong trí ông lúc ông nỗ lực đối phó t́nh h́nh.

 

Đầu tháng Tư, nhiều chiến dịch nhỏ được thiết trí để đưa một số người ra khỏi xứ một cách lặng lẽ, không bị lưu ư. Đại sứ Martin giao cho tôi việc giúp đỡ những người Việt thân thích của người Mỹ ra đi. Có một số nhân viên ngoại giao kết hôn với người Việt, gia đ́nh ở tại Sàig̣n và khắp nơi trong xứ. Các nhân viên này đến ăn vạ ở Bộ Ngoại giao, nằng nặc yêu cầu giúp đỡ gia đ́nh họ. Khỏi nói chúng ta đều biết gia đ́nh họ quả sẽ là những người phải chịu nhiều nguy hiểm.

 

Chúng tôi thực hiện tác vụ này qua các căn nhà an toàn ở những địa điểm khác nhau. Trong mười ngày cuối cùng chúng tôi bận rộn bù đầu, ngày nào cũng nửa đêm mới về đến nhà như cái xác chết. Sau này tôi tiếc lúc ấy tôi đă không viết được ǵ để ghi lại, nhưng thật ra cũng không thể làm ǵ, v́ sau mỗi ngày làm việc là kiệt sức, cứ thế cho đến ngày cuối.

 

Sáng 29 tháng Tư tôi choàng dậy từ sớm v́ bom nổ ở phi trường. Lúc ấy tôi ở cách toà đại sứ có nửa khu nhà, tôi thức giấc đi ngay đến toà đại sứ mà không biết ngày hôm nay chính là ngày cuối cùng. Nhưng khi đến, tôi hiểu rơ và chúng tôi cố rút người từ tất cả các trạm ra đi.

 

Sáng hôm ấy chúng tôi liên lạc gọi tất cả những người Việt thuộc đường dây chúng tôi trách nhiệm đến toà đại sứ hoặc đến một trong các căn nhà an toàn được thiết lập làm trạm di tản. Mọi thứ trên đường phố đều tuyệt đối im ĺm v́ có giới nghiêm 24/24, không một bóng người lai văng. Tôi rời toà đại sứ bằng xe hơi đến một căn nhà an toàn mà hôm trước tôi đă bỏ lại một danh sách gồm các tên người – v́ tôi tưởng hôm sau tôi sẽ trở lại. Tôi cần phải lấy lại danh sách ấy, tôi không muốn nó rơi vào tay đối phương. Tôi đă đi về an toàn, không trở ngại ǵ.

 

Sau đấy tại văn pḥng đại sứ, Alan Carter cứ lo lắng suy nghĩ: có vài người Mỹ và một số người Việt vẫn c̣n đang ở tại trụ sở pḥng thông tin Hoa Kỳ. Ông không biết cách nào mang họ đi, ít nhất là mang hai người Mỹ đi. Tôi bảo ông ta để tôi lo, tôi lái xe đến đấy, bốc họ về. Vẫn không có trở ngại. Đường phố vắng tanh. Chúng tôi cứ loay hoay, suốt buổi như thế. Chừng tám giờ sáng, có một Mục sư Tin Lành người Anh ḷ ḍ bước đến cổng toà đại sứ, ḍm vào. Ông ta hỏi: “Thưa quư ông, chẳng hay t́nh h́nh hiện nay như thế nào?” Tôi nói: “T́nh h́nh xấu lắm, mục sư nên vào trong này. Sắp sửa phải di tản. Nơi này sắp rối beng đến nơi.” Ông mục sư bảo: “Ô, chúng tôi nào dám làm phiền quư ông! ” Tôi nói lại lần nữa: “Tốt hơn hết, Mục sư nên vào trong này.” Lúc ấy ông mục sư mới chịu bước vào, sau đó đă được trực thăng bốc đi. Có những người khiêm tốn đến thế! Giữa cơn phong ba băo tố, họ vẫn cứ một mực cung kính mà thưa rằng: “Chúng tôi nào dám làm phiền quư ông!”

 

Chừng buổi trưa, chúng tôi bắt đầu đi đón người. Vào lúc đó, chúng tôi tiến đến một ư tưởng tuyệt vời. Phải nói ư tưởng ấy là quà của Chúa gửi cho chiến dịch di tản: Đó là sử dụng xà lan để đưa người Việt đi bằng đường sông. Thật ra đây là đề nghị của vài người, trong ấy có Mel Chatman đă đưa ra một hai tuần trước nhưng lúc ấy ai cũng cho ư kiến này là “óc thỏ,” nghĩa là: nông nỗi và liều lĩnh. Nay trong t́nh trạng khẩn cấp, cần đến các hành động quyết đoán, họ đă mang ư tưởng ấy ra sử dụng và cho xà lan chuẩn bị, chờ dưới bến.

 

Do đó từ trưa cho đến 3 giờ 30 là lúc tôi ngừng, tôi cùng với một người bạn là Joe Mc Bride liên tục chở người ra xà lan bằng chiếc xe thùng. Không bao giờ tôi quên chuyến đầu tiên, nó chật ních hơn cá ṃi đóng hộp. Lại thêm không kiếm ra xà lan đậu ở chỗ nào. Mọi thứ không dễ dàng đến thế! Chúng tôi phải qua một cây cầu, lúc ấy dân chúng bắt đầu tràn ra, cả thành phố đă trở nên điên cuồng. Tôi lo không cách ǵ qua cầu nổi v́ đường đă bắt đầu kẹt xe. Tôi tính nếu có đi thoát được th́ đây chắc phải là chuyến cuối cùng.

 

Trời ngó lại! Phép lạ xảy ra là có một người ở toà đại sứ mang theo một nắm tiền. Anh ta biếu hết cho cảnh sát, yêu cầu cứ đứng đấy chỉ chỏ cho xe chạy. Nhờ thế chẳng mấy chốc chúng tôi tiếp tục di chuyển, rồi c̣n trở đi trở lại căn nhà bốc thêm mấy chuyến nữa.

 

Hôm ấy tại căn nhà này người ta đến rất đông. Cảnh tượng ấy thực năo ḷng: Ai nấy đều tuyệt vọng mong đi, ai nấy đều biết thế là hết. Thế là xong. Trên đầu chúng tôi trực thăng bay sành sạch, rơ ràng số người quá đông, Joe và tôi không thể nào mang đi xuể. Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến xe chót. Mọi người tuyệt vọng chen lấn lọt vào, tôi đă gần như phải dùng đến vũ lực để giữ trật tự. Tôi sẽ không bao giờ quên một người đàn ông, một ông già đă tự động đứng sang một bên giúp tôi sắp xếp mọi người. Ông không t́m cách len vào xe. Ông bảo mọi người “Đừng lo, anh ta sẽ trở lại.” Lúc ấy tôi biết rất rơ là tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa. Toà đại sứ đă bảo tôi: đấy là chuyến cuối.

 

Sau đó, buổi tối ở toà đại sứ tôi nhận cú điện thoại của một ông đang ở đâu đó trên đường phố. Ông này nói với tôi rằng người ta đă dặn ông đến chỗ này chỗ kia ở một địa điểm nào đó, nhưng chẳng ai đến cả. Ông ta đang ở trên đường, không ở trong trạm an toàn. Điều duy nhất tôi có thể làm là bảo ông tự kiếm cách đi xuống xà lan. Nhưng lúc đó mọi người đều sợ phải đi ra ngoài. Đây cũng là câu chuyện rũ rích: hễ cứ đi với người Mỹ th́ người ta mới thấy an toàn, và cảm thấy là có thể đi lọt. C̣n tự đi một ḿnh th́ người ta sợ! Biết chuyện ǵ sẽ xảy ra đây? Nhưng tôi đă cố thuyết phục ông này rằng ông phải tự đi lấy, hăy tự bắt lấy cơ hội, và đó là một cơ hội nhiều triển vọng!

 

Tôi rời Việt Nam từ toà đại sứ Hoa Kỳ vào lúc chín, mười giờ tối ngày 29 tháng Tư. Nếu muốn, tôi có thể đi sớm hơn v́ hễ trực thăng đến mà người nào muốn đi và đă sẵn sàng đi là cứ lên sân thượng mà đi. V́ vậy lúc 9 giờ tôi thầm nghĩ: tại sao không đi lúc này? Tôi không c̣n lư do ǵ để ở lại lâu hơn nữa. Khi ra đi, có một việc tôi sẽ không bao giờ quên, đó là lúc trực thăng quần một ṿng trên thành phố, người ta nh́n thấy ở hướng tây, căn cứ Long B́nh đang bốc cháy. Một đám cháy vĩ đại. Long B́nh là một trong những căn cứ lớn nhất của chúng ta ở Việt Nam. Nh́n ngọn lửa, tôi nghĩ nó đang thiêu đốt tất cả. Mọi công tŕnh của chúng ta ở đấy đang thiêu đốt ra tro. Và tất nhiên cũng phải nghĩ đến những con người chúng ta đă bỏ lại, một con số to lớn những người chúng ta đă rời bỏ mà đi.

 

Hôm nay tôi lại nhớ đến những người ấy. Tôi cũng nghĩ đến các oán thù bên phía đối phương. Họ đă không tạo ra các cuộc tắm máu như ở Cam Bốt, vâng, có vẻ như thế. Nhưng họ cũng đă giết biết bao người, và đến nay sau bao năm tháng trôi qua, vẫn c̣n những người bị giam giữ mỏi ṃn trong các trại cải tạo. Suốt thời chiến tranh Việt Nam không một người nào dùng thuyền rời nước. Ngay cả vào những năm khi chiến cuộc đến mức khủng khiếp nhất, vẫn không hề có một người Việt nào bỏ nước ra đi. Nhưng từ 1975, một triệu rưỡi con người đă đi, bây giờ vẫn ra đi. Hai mươi lăm ngàn con người mỗi năm tiếp tục rời nước bằng thuyền, chưa kể ba ngàn người mỗi năm vượt thoát bằng đường bộ băng qua ngả Cao Miên.

 

Từ khi chiến tranh chấm dứt, nh́n những ǵ Cộng sản đă làm ở Việt Nam và ở Cam Bốt, nhiều người mới hiểu: Khi chính phủ chúng ta nói rằng Hoa Kỳ đang chiến đấu chống lại một bọn người hung ác, th́ đây là trường hợp lời nói đă được xác nhận đúng như thế…

 

“Bước luẩn quẩn với cái rọ trên đầu.”

 

 

 

nuocmattruocconmua

 

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

 

ĐẠI SỨ GRAHAM MARTIN

“Bước luẩn quẩn với cái rọ trên đầu.”

 

Cho đến 1975 Việt Nam không đáng để Hoa Kỳ tốn thêm sinh mạng nữa. Lẽ ra, Hoa Kỳ đừng nên gửi quân tham chiến. Tôi đă chống giải pháp này. Khi làm Đại sứ ở Thái Lan, tôi cũng chống lại việc gửi cố vấn sang Thái, và tôi đă phải đương đầu bốn năm trời ṛng ră với Robert Mc Namara (*) để giữ chiến tranh khỏi lan tràn vào đất Thái.

 

Miền Tây Bắc Thái Lan lúc ấy cũng giống như giai đoạn đầu ở Đông Dương đă có những cuộc nổi dậy nhưng tôi nhất định chủ trương: Chúng ta chỉ cần yểm trợ cho chính phủ, không gửi quân chiến đấu, cố vấn cũng không-v́ lẽ bên hàng ngũ đối phương không có một bộ mặt da trắng nào, chắc chắn chúng ta không nên gửi nhân viên quân sự xuống đến cấp dưới tiểu đoàn.

 

Một kư giả ở nơi nào đó tại vùng Trung Tây nước Mỹ tên Paul Harvey từng mỉa mai: “Có một Đại sứ ở Thái Lan tŕnh độ chỉ đáng đưa đi làm đại sứ ở ḥn đảo Johnson, nghĩa là một ḥn đảo 1000 bộ chiều dài, 50 bộ chiều ngang, không thể lớn hơn cỡ ấy” chỉ v́ tôi đă không cho phép người Mỹ mang súng, ngay ở trong căn cứ cũng vậy.

 

Đúng. Tôi giữ quan điểm và chấp nhận rủi ro v́ lẽ chỉ cần một vụ phục kích xảy ra là công luận sẽ đưa tôi ra mà cắt họng. Nhưng tôi đă bẻ gẫy các vụ nổi dậy. Cũng không để xảy ra một vụ tàn sát Mỹ Lai nào. Tôi đă thành công.

 

Nhưng ở Việt Nam, Mc Namara và nhóm quân nhân đă áp dụng đường lối của họ. Và một khi quân đội chúng ta đă được gửi sang bên ấy, chúng ta không muốn thấy quân đội thất bại và rồi cho đến 1975, c̣n một vấn đề quan hệ nữa vẫn phải đặt ra, đấy là lời hứa của chúng ta. Liệu chúng ta có giữ lời hứa và giữ lời cam kết của chúng ta hay không?

 

Vụ tấn công Ban Mê Thuột và quyết định rút quân ở Cao Nguyên của Thiệu làm tôi hoàn toàn kinh ngạc. Vào giai đoạn này Tổng thống Thiệu yên trí rằng một vài người Mỹ thường hở cho báo chí biết tin, rồi tin tức lọt sang các nhóm chủ hoà, cuối cùng lọt sang đối phương. Không rơ ai đă thuyết phục ông như thế, nhưng suốt thời gian này ông không cho chúng tôi biết ǵ nữa. Chúng tôi chỉ c̣n dựa vào tin t́nh báo để theo dơi hành động Bắc quân, nhưng các tin tức này không phải lúc nào cũng chính xác.

 

Thời gian này tôi về Hoa Thịnh Đốn để cố xin viện trợ cho Nam Việt Nam. Trong chuyến về Mỹ tháng Ba cùng với phái đoàn quốc hội, tôi đă yêu cầu những người có thẩm quyền quyết định chính sách riêng: Cần phải chuẩn bị vấn đề tỵ nạn, xin hăy sắp xếp mọi thứ liên hệ cho người tỵ nạn ngay. Nhưng rồi, chẳng ai lo liệu ǵ.

 

Trong buổi họp cuối tại Bộ Ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn vào tháng 3/1975, Kissinger bảo: “Ông phải trở lại đấy v́ dân Mỹ cần có một người để trút hết các trách cứ lên đầu.”

 

Thực vậy, người Mỹ chúng ta vẫn có cái thói ấy và luôn luôn như thế, cho nên tôi bảo:

 

“Ông hăy nhớ hộ một điều: Đối với mọi chuyện ở Việt Nam, tôi là người duy nhất liên hệ đến toàn thể nội vụ, mà tuyệt đối chẳng có áp lực để làm bất cứ một quyết định nào hầu tránh khỏi các phê b́nh chỉ trích. Tuyệt đối chẳng có cách ǵ tôi thoát việc nhận lănh trách nhiệm sụp đổ Sàig̣n. Cái ǵ cũng đổ cho tôi, từ đầu đến đuôi. Vậy tôi sẽ không thích dính dáng bất cứ chuyện ǵ khác ngoài một chuyện duy nhất hợp lư vào lúc này, đó là: Mang người Mỹ sống sót ra đi an toàn, mang những người bạn Việt Nam liên hệ với chúng ta đi khỏi càng nhiều càng tốt. Tôi sẽ làm như vậy, và tôi sẽ không để cho ai thúc bách ǵ, ngoại trừ trường hợp ông giải nhiệm tôi.” Rồi tôi quay lại Việt Nam.

 

Đối với người Việt, tôi không có mối liên hệ riêng tư, bất kể người Bắc hay ngựi Nam. Tôi chẳng đặc biệt thích một người Việt nào. Tôi yêu mến người Thái, tôi nghĩ họ là một giống dân kỳ diệu nhất thế giới. Tôi thích một số đông người Tàu, nhưng tôi đặc biệt không thích người Khờ Me, tôi không thích người Lào, tôi không thích người Mă Lai. Tôi thích người Nam Dương.

 

Tôi có một đứa cháu trai chết ở Việt Nam từ đầu cuộc chiến. Nhưng việc này tôi chỉ oán trách Thủy quân Lục chiến Mỹ đă không chịu gắn lá chắn thép dưới gầm trực thăng trước khi tung nó ra một chiến trường mà bên dưới đầy súng đại liên 50.

 

Nói như thế là để hiểu rằng: Sự cam kết của tôi đối vói người Việt không quan hệ ǵ đến cái chết của cháu tôi, cũng chẳng dính dáng ǵ đến cảm t́nh riêng tư nào của tôi đối với người Việt Nam. Đối với tôi, vấn đề thuần túy phải đặt ra là: Chúng ta đă tuyên bố một lời hứa. Khi đă hứa mà lại bội hứa th́ chúng ta sẽ có ngày phải trả một cái giá đắt khôn lường ở khắp mọi nơi trên cái thế giới máu me tàn khốc này.

 

Khi trở lại Việt Nam, một người đă đến gặp tôi là Ed Daly bên hàng không World Airways. Anh ta đeo súng lủng lẳng bước vào pḥng, tôi yêu cầu bỏ súng ra, để bên ngoài. Thấy anh ta ngần ngừ, tôi kêu Thủy quân Lục chiến đưa ra ngoài tước súng. Hắn trở vào lại, ngồi xuống nói với tôi: “Ông có biết không, mấy người Việt Nam họ bảo nếu tôi cất cánh ra Đà Nẵng, họ sẽ bắn hạ tôi. Ông sẽ làm ǵ?” Tôi đáp “Vỗ tay hoan hô chứ sao! Ông cho ông là cái thá ǵ? Ông chúi trong cái lỗ đục dưới đất, đến cái đít của ông, ông cũng cóc ḍm ra. Ông không biết một cái đếch ǵ ở đây cả.” Sau đó, tôi với anh ta không bao giờ nói chuyện ǵ thêm, anh ta cũng không bao giờ trở lại toà Đại sứ nữa.

 

Tôi gửi Harry Summers ra Hà Nội trong tháng Tư (1). Chúng tôi vẫn có chuyến bay ra Hà Nội là để chuyên chở người thuộc ủy ban liên hợp quân sự ở căn cứ Davis. Đề đốc Geyler phản đối, nhưng tôi nhất định gửi người đi. Tại sao? Tại v́ bấy giờ ở đấy có một việc không một ai biết ngoại trừ tôi và Wolf Lehmann, phụ tá của tôi. Việc ấy là chuyện đi lại của Brezhnev và Kissinger với Hà Nội. Và theo Leonid Brezhnev, Hà Nội đă đồng ư ấn định thời hạn cho chúng tôi rút. Hạn chót là ngày 3 tháng 5. Đó là một thỏa thuận.

 

Tôi có nói với Kissinger: tôi cần hai tuần lễ. Kissinger cho biết ông đă thông báo cho Hà Nội và Hà Nội đă chấp nhận. Bắt buộc phải chấp nhận luật chơi thôi, lỡ cái xảy nảy ra cái ung th́ tôi cũng đành phải chịu (2). Người ta bảo máy bay có thể bị hạ, nhưng tôi nhất định cho đi. V́ thế chúng tôi bốc người từ căn cứ Davis, và Summers đă đưa họ ra Hà Nội, ngồi xuống mà thảo luận với người Việt Nam. Chúng tôi muốn nói chuyện (thẳng) với người Việt Nam là chúng tôi chấp nhận thi hành phần chúng tôi trong cuộc mà cả của Kissinger-Brezhnev. Họ sẽ để chúng tôi yên. Tôi tính là chỉ cần đến ngày 1 tháng 5, không cần đến 3

tháng 5. Tôi không muốn quá ngày ấy.

 

Đâu chừng một tuần trước ngày sụp đổ, tôi gửi một điện văn, lúc ấy Hoa Thịnh Đốn bất đầu tỏ ra bực bội. Tôi nói “Điều duy nhất ở đây chúng tôi có là sự điềm tĩnh của tôi, là khả năng phán đoán t́nh h́nh của tôi. Thực sự chúng tôi không c̣n ǵ khác. Bây giờ chẳng có ǵ để mất, v́ tôi đang bước đi luẩn quẩn với cái rọ úp trên đầu rồi.”

 

Ngày 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu từ chức. Tôi không thuyết phục ông rời xứ. Chính người kế vị của ông (3) đă gọi tôi, bảo Thiệu vẫn ở trong dinh Tổng thống làm ông khó cựa quậy, đó là cách lịch sự để bảo tôi rằng Thiệu vẫn tiếp tục gặp gỡ các tướng lănh. Ông hỏi tôi có thể giúp đưa Thiệu đi không? Tôi trả lời tôi sẽ giúp nếu ông Thiệu yêu cầu. Sau đó chừng 15 phút, Thiệu điện thoại nhờ tôi đưa ông ra khỏi xứ. Bây giờ tôi lại phải đương đầu một vấn đề khác. Nên sử dụng quân đội Mỹ để lo việc này hay không? Như thế là gây rắc rối cho Bộ Tham Mưu Liên Quân (Mỹ), gây rắc rối với người Bắc Việt và máy bay có thể bị hạ. Tôi đă yêu cầu quân đội đưa đến Sàig̣n một máy bay bốn động cơ bấy giờ cất ở Nakhon Phanom (Thái), và tôi giao việc này cho Polgar (4) thay v́ cho quân đội lo. Bên quân đội biết máy bay đến, nhưng họ không rơ sử dụng vào việc ǵ. Tôi hy vọng bên quân đội sẽ không biết việc chở Thiệu ra khỏi xứ cho đến khi đưa ông ta vào được tàu bay. Đây là tôi muốn nói Quân đội Mỹ, đặt quân đội Việt Nam sang một bên. V́ thế tôi bảo Polgar cho Frank Snepp (5) lái xe vào căn cứ quân sự, lên phía trên chỗ máy bay đậu một chút, rồi tôi đưa họ vào máy bay. Trước đấy, Charlie Timmes (6) và tôi đă đi gặp Nguyễn Cao Kỳ. Timmes có hẹn với Kỳ, nên tôi bảo Timmes: “Rồi, để tôi đi cùng với ông.” Hai chúng tôi lái chiếc xe Volkswagen nhỏ của Timmes, chuyến đi hơi rợn tóc v́ thành phố đă bắt đầu hỗn loạn. Tất cả chủ đích chuyến đi là để bảo cho họ biết rằng một cú đảo chánh máu me sẽ không phục vụ bất cứ một cái ǵ cho cơi trần gian xanh tốt này ngoại trừ một việc: Phục vụ cho cái tôi của Kỳ. Có thể ông ta đă suy đoán được để hiểu rằng thời điểm của ông ta không đúng lúc, và mục đích của tôi là chỉ muốn ông ta bỏ cái ư định ấy đi. Tôi để cho các người khác làm việc với ông ta. Tôi dặn họ: đừng để ư ǵ nhiều đến ông ta cả.

 

Nếu có một nhân vật biết được ngọn ngành mọi việc mọi tṛ của những người ở đấy th́ chính là tôi. Nhưng vào giờ phút cuối, có những người khác nữa làm ǵ, th́ chịu, tôi không biết đích xác cho nổi. Một ông đă gây rối cho tôi như thế lại chính là một bạn tốt, mà đến nay tôi vẫn thích, đó là Erich Von Marbod. Erich Von Marbod đến từ bộ Quốc pḥng. Ông ta cho không quân Việt Nam bay đi vài chiếc F-5 của họ sang Thái. Chuyện này trái lệnh tôi. Một mặt, chả quan hệ ǵ. Nhưng mặt khác, lại vô cùng hệ trọng. Bởi v́ tôi đă yêu cầu Kissinger một thời hạn, tôi nói là hai tuần. Chúng tôi cố mang đi tất cả các nhà thầu công tác quốc pḥng mà chúng tôi không thể rơ hết là những người ấy ở những nơi nào. Không thể bỏ họ lại mà đi. Đó là lúc cần đ̣i hỏi sự chậm răi, sự thận trọng, cho nên việc Erich Von Marbod thuyết phục tướng Trần Văn Minh cho mấy cái phi cơ bay sang Thái là một lỗi lầm rất lớn. Nó làm người Thái e ngại. Rồi những người đưa phi cơ sang bên ấy lại bị giấu diếm, họ không được bảo trước rằng sau đó họ sẽ không được phép trở về với gia đ́nh. Để làm họ dịu xuống, người ta phải phục thuốc họ. Và chính những người này đă gây rối khi đến Guam. Lỗi của tôi. Đáng lẽ tôi phải tống cổ Von Marbod từ hai ngày trước. Đáng lẽ tôi cũng phải tống cổ cả Polgar đi: Hắn không biết trời đất ǵ. Hắn không xứng đáng điều khiển cơ quan t́nh báo ở đấy. Hắn muốn chơi trội cùng với gă Malcolm Browne bên tờ Times và các ông bạn Hung Gia Lợi của hắn bên ủy hội Quốc tế kiểm soát đ́nh chiến, rồi cả William Colby (7) lẫn Kissinger đều nói lại với tôi việc ấy (8) Và tôi đă nói với Polgar rằng nếu anh cứ tiếp tục làm những chuyện như thế, tôi sẽ cắt hai ḥn dái nhét vào mỗi lỗ tai của anh một ḥn. Jim Kean đă nghe tôi nói với hắn như thế trong cầu thang máy.

 

Tôi không có ǵ để ân hận nhiều ngoài việc ân hận đă không tống cổ cả Polgar lẫn Von Marbod từ sớm. Họ đi hay ở cũng chẳng có ǵ khác biệt. Chỉ có một khác biệt trầm trọng mà sau đó tôi khám phá ra khi đọc tấm điện văn của các tướng Bắc Việt: Họ nghĩ việc đưa mấy chiếc phi cơ sang Thái là chúng ta nuốt lời hứa với họ. Chúng ta đă nói chúng ta sẽ không mang các chiến cụ đi. Chúng ta chỉ muốn họ để chúng ta yên ổn ra đi trong trật tự. V́ họ nghĩ chúng ta nuốt lời, hôm sau họ pháo kích phi trường, giết mất vài Thủy quân Lục chiến của chúng ta. V́ vậy, đến lúc tôi phải hạ lệnh trực thăng vận. Đây là lúc mọi sự bắt đầu bung ra.

 

Tôi vào Tân Sơn Nhất xem xét sau khi xảy ra vụ pháo kích. Hơn ba mươi năm trước, tôi đă là Đại tá không quân, bổ nhiệm từ 1936, nên những chuyện phi cơ, cái ǵ bay được cái ǵ không, tôi nắm trong bàn tay. Tôi đă là Tư lệnh phó sư đoàn Thái B́nh Dương thời đệ nhị thế chiến, kiêm chỉ huy quân báo. Việc ǵ tôi làm, tôi làm cật lực, tôi nắm vững, tôi biết rơ. Buổi sáng 29/4 hôm ấy ở phi trường Tân Sơn Nhất, họ bảo tôi máy bay không đáp xuống được. Chuyện này vô lư. Ra tận đấy quan sát, tôi vẫn thấy chuyện họ nói chả nghĩa lư ǵ, người ta chỉ cần vác một cái xe Jeep quần ra phi đạo ba mươi phút là dọn sạch mọi thứ vụn vặt. Nhưng lúc ấy, quả là bên quân đội Việt Nam bắt đầu rối loạn. Chỉ huy cao cấp đă chạy, Tân Sơn Nhứt không c̣n chỉ huy nữa. Trong t́nh trạng này nếu máy bay đáp xuống là bị tràn ngập bởi đám đông vô kiểm soát. Chúng tôi cần dựa vào quân đội Việt Nam để di tản trong ṿng trật tự, và chúng tôi cũng đă hứa với họ phút cuối sẽ bốc họ đi. Nhưng đến giây phút ấy, không c̣n có sự bảo vệ của họ nữa.

V́ Tân Sơn Nhứt hết bảo đảm được an ninh cho máy bay có cánh đáp xuống, nhưng khu vực văn pḥng tùy viên Quân sự hăy c̣n hệ thống pḥng thủ tốt, chúng tôi bèn cho trực thăng đáp xuống khu này thay v́ Tân Sơn Nhứt.

 

Tôi liên lạc với hạm đội, và với sự khẳng định của Hoa Thịnh Đốn, tôi nói với mọi người-tôi nói với rất nhiều người Việt là: “Chúng tôi không thể bảo đảm di tản tất cả quư vị. Nhưng nếu quư vị có thể dùng thuyền ra khơi, chúng tôi vớt.” Chúng tôi đă cho tàu đậu ngoài khơi ba ngày ṛng ră để vớt người đến khi tàu chật ních. Khi sĩ quan chỉ huy quân y cho biết nếu cứ tiếp tục, có thể bị bịnh dịch đe dọa, lúc ấy chúng tôi mới cho tàu đi. Tôi cũng ra lệnh cho hai máy bay tại căn cứ Clark đáp xuống Vũng Tàu để bốc gia đ́nh lính Thủy quân Lục chiến Việt Nam. Đề đốc Geyler phản đối, nhưng tôi gạt đi. Hai chiếc máy bay đáp xuống, hoàn tất việc bốc người trong ṿng mười lăm phút rồi thẳng cánh bay qua Clark. Từ giờ phút ấy, Thủy quân Lục chiến thuộc quyền điều động của tôi. Họ phụ trách bảo vệ trong trường hợp chúng tôi cần di tản ra từ băi biển. Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương không có nhiệm vụ di tản người từ băi biển ra. Từ nhiều tuần trước ngay việc đáp phi cơ trinh sát xuống, họ cũng không chịu, nhưng chúng tôi vẫn cứ làm. Đấy, tôi đă phải đối phó công việc với những cách thức như vậy.

 

C̣n về câu chuyện cây me, thật là một câu chuyện vô nghĩa (9) Hạ cái cây xuống cũng là chuyện hoàn toàn vô nghĩa. Cây me này chả mang một biểu tượng ǵ. Về chuyện này, mục đích là tôi cố giữ cho Sàig̣n một bộ mặt yên tĩnh, phải tránh mấy chuyện rối loạn đă từng xảy ra ở Đà Nẵng, Nha Trang. Ngoài ra, quỷ thần ạ, cần ǵ phải chặt cái cây ấy để lấy chỗ cho trực thăng? Nên tôi bảo “Để cái cây ấy yên đi!” Đơn giản thế thôi. Khi cần phải chặt, chỉ mười phút là xong. Cuối cùng mọi sự cũng đă xảy ra y như vậy. Chúng tôi không muốn có một hành vi bộc lộ rằng chúng tôi đang thua chạy, để Sàig̣n phải nháo nhào lên.

 

Cái cây này tuyệt nhiên không biểu trưng ǵ cho sự có mặt của người Mỹ. Nhưng về một phương diện, Jim Kean cũng có lư khi nói vậy.(10) Bởi v́ nó là cái dấu hiệu vật chất cho thấy chúng ta sắp rời đi, nên tôi phải che đậy. Việc tôi giữ cái cây chẳng có cái ư nghĩa thâm thúy ǵ như đó là biểu tượng cam kết của chúng ta cả.

 

Vào những giây phút chót, có nhiều việc không thể làm ngơ. Về những việc này Bộ trưởng Quốc pḥng James Schlesinger đáng phải lănh điểm xấu. Ông tỏ ra ngu xuẩn, nhiều phần trong con người ông luôn luôn như vậy.

 

Chúng tôi có một gă tên Stuart Herrington làm dưới quyền Đại tá Madison (11) Gă này đang giúp việc xếp người vào trực thăng trong sân toà Đại sứ. Gă có biết cái ǵ hơn là xếp người? Nhưng khổ nỗi, gă là thứ mồm loa mép giải, đáng lẽ biết th́ thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe. Đàng này ai hỏi ǵ gă cũng trả lời láo lếu. V́ thế khi các phi công bay vào, họ muốn hỏi tôi c̣n phải chở bao nhiêu người nữa, gă Herrington mau mồm nói “Hai ngàn hoặc hai ngàn rưỡi nữa.” Ông Đề đốc Noel Gayler ở ngoài hạm đội dăy nảy như gái ngồi phải cọc. Chở nhiều quá lỡ xảy tai nạn, ai gánh đây? Ông ấy là người phụ trách công tác, ông bèn áp lực khủng khiếp mà thúc chúng tôi “Di tản người Mỹ! Di tản người Mỹ! Di tản người Mỹ xong là đi quách đi, bỏ những người khác lại.” Chuyện này không được. Đây là chuyện mà tôi từ chối. Brent Scowcroft (12) đă hứa với tôi rằng tôi sẽ có năm mươi chuyến trực thăng người Việt và Đại Hàn mà chúng tôi cam kết. Chúng tôi đă đếm kỹ lưỡng số người khi kéo họ qua bức tường lọt vào toà Đại sứ. Nhiều người là những nhân vật trọng yếu, có người là bộ trưởng chính phủ. Tất nhiên chúng tôi không có ư định mang họ vào rồi bỏ họ mà đi! Khốn thay, lời nói của gă Herrington với viên phi công được chuyển tới ông Đề đốc, rồi chuyển tới Tư lệnh Thái B́nh Dương, lời nói ấy chuyển ṿng đến Bộ trưởng Quốc pḥng Schlesinger ở Ngũ Giác Đài. Các tướng Tham mưu thúc hối Schlesinger rằng: “Hễ cứ hỏi là lúc nào Martin cũng bảo c̣n 2000 nữa, bất kể đă chở được bao nhiêu. Cứ cái đà này đến phút chót vẫn là 2000!” Trong công tác bê bết máu lửa này dựa trên lời hứa của Scowcroft, chúng tôi đă phải thực sự tính toán cẩn thận: cứ mỗi chuyến chín mươi người. Ông ấy là Cố vấn An ninh của tổng thống, không tin ở ông th́ tin vào trời đất quỷ thần nào? Thế rồi đột ngột họ gửi điện văn bảo: Chấm dứt. “Chuyến trực thăng kế tiếp đến, xin ông đi cho!” Tất cả chỉ v́ gă Herrington này, và sau đó anh ta lại viết sách rồi trở nên một đại anh hùng !(13)

 

Tôi cũng lấy làm phiền về viên chỉ huy an ninh toà Đại sứ, người lănh trách nhiệm di tản cảnh sát Việt Nam. Tôi đă giữ riêng cho họ hai cái tàu trên sông, nhưng ông ta cứ lằng nhằng muốn đưa họ ra đi sớm. Phía tướng tá Việt Nam báo cho tôi biết: không cách ǵ có thể duy tŕ trật tự trong thành phố nếu tôi rút cảnh sát Sàig̣n đi. V́ thế tôi bảo ông ta khoan lại, đợi đến ba giờ trưa hăy đi. Ông ta bực bội chỉ muốn làm theo ư riêng ḿnh. Nhưng ông ta cũng đợi được đến ba giờ trưa rồi cho cảnh sát lên tàu di tản cùng với gia đ́nh họ. Tôi không có ǵ để than phiền nhiều về chiến dịch di tản này v́ tổng thống và Kissinger đều đứng bên tôi, hỗ trợ tôi cho đến tận giây phút cuối cùng.

 

Tôi không bảo chiến dịch ấy hoàn hảo, nhưng khi duyệt xét lại, tôi có quyền hỏi: “Ai có thể làm khác hơn trong những hoàn cảnh đặc biệt ấy?”

 

Khi rời toà Đại sứ tôi biết đấy là giây phút lịch sử. Chắc chắn như vậy. nhưng trước đây tôi từng hỏi Hoa Thịnh Đốn: “Chúng ta có sự lựa chọn. Trong sự lựa chọn đó cần phải hỏi: Sau tôi, c̣n những việc ǵ sẽ xảy ra? Đối phương sẽ lấn chúng ta hơn nữa, ở khắp nơi trên thế giới. Chúng ta cần phải giữ những lời cam kết của chúng ta!”

 

Trong lúc trực thăng bay, tôi nghĩ chúng tôi đă rũ bỏ xong. Chúng tôi đă kinh qua biết bao việc, chúng tôi đă mang hết được người Mỹ đi. Và mang hết người Mỹ ra đi, đó là trách nhiệm chủ yếu của chúng tôi. Chúng tôi cũng mang được một số lớn người Việt trong khả năng chúng tôi. Đáng lẽ chúng tôi nên mang đi nhiều hơn nữa, chúng tôi đáng lẽ phải mang 400 con người cuối cùng ấy ra đi, nhưng rất tiếc chỉ v́ sự lôi thôi đă xảy ra trong lúc rối loạn như thế thôi.

 

Tôi nghĩ người Mỹ có quyền hănh diện về chiến dịch di tản. Phần tôi tuyệt đối chẳng có ǵ dính líu đến những chuyện phải xin lỗi cả.

 

Tôi đă nhận lănh nhiều trách cứ về vụ Việt Nam. Chính v́ thế mà rất lâu sau, đợi cho mọi thứ lắng xuống, tôi mới ra trước Quốc hội để mọi người đứng lên lănh trách nhiệm và nhận lỗi của ḿnh, và họ đă làm như thế.

 

Dẫu sao tôi cũng có nhiều điều thích thú. Tôi không bao giờ lo rằng ḿnh có thể bị giải nhiệm. Tôi đă tính nếu bị sa thải, th́ sẽ về ngồi với cái máy chữ mà viết.

 

Áp lực của nhóm chủ hoà đă áp đặt trên hệ thống giáo dục, và sự mù quáng của cái chủ trương “đừng-làm-một-cái-ǵ-có-thể-gây-tranh-luận- hoặc-bị-tấn-công” đă có khuynh hướng chế ngự hệ thống giáo dục chúng ta, do đó các nhà xuất bản sách giáo khoa hoặc giả lơ chuyện Việt Nam, hoặc chỉ mô tả sơ sài nhạt nhẽo chẳng giúp cho ai có thể hiểu sự thực thế nào. Điều này đáng tức cười, bởi v́ về một phương diện khác, nó lại là điều tốt. Thỉnh thoảng nói chuyện với sinh viên, tôi nhận ra đa số chẳng những không hiểu biết ǵ, mà c̣n cực kỳ ngây thơ về chuyện Việt Nam. Nhưng chính v́ thế, họ lại có thể t́m hiểu vấn đề với một quan điểm hoàn toàn khách quan. Chính v́ thế, họ trở thành nhóm người duy nhất tại nước Mỹ có thể nh́n mọi sự với quan điểm khách quan ấy. Nhưng v́ vậy, khi thấy được những sự kiện phô bày đầy đủ rơ rệt trước mắt, họ bực tức v́ họ đă bị bưng bít, do đă bị từ chối trong việc t́m hiểu và đă chỉ được đọc một phần của cả vấn đề.

 

Hiển nhiên, sau này các sử gia sẽ đào sâu mở rộng hơn. Có lẽ họ sẽ đối xử rất tử tế với tôi, có lẽ c̣n tử tế hơn cả sự xứng đáng của tôi. Dầu vậy, chúng ta hăy c̣n biết bao nhiêu chuyện trời đất mà những chuyện ấy vẫn chưa từng được kể hết ra!

____________________________

 

(*) Mc Namara Bộ trưởng quốc pḥng Mỹ.

(1)Harry Summers là Đại tá văn pḥng tùy viên quân sự, DAO.

(2) Người Mỹ gọi là luật Murphy-” Murphy’s Law”-Khi cái ǵ hư hỏng xảy ra, là nó xảy ra, thế thôi!

(3)Tổng thống Trần Văn Hương.

(4) Trưởng nhiệm Sở Trung Ương T́nh Báo Mỹ.

(5)Thuộc Trung ương Tinh Báo Mỹ.

(6) Trung tướng Mỹ văn pḥng Tùy viên Quân sự.

(7)Giám đốc Trung Ương Tinh Báo Mỹ.

(8) Đây là việc Polgar tự động liên hệ với nhân viên Hung Gia lợi sắp đặt việc thương thảo với Bắc Việt. Chuyện này sẽ do Polgar tự kể trong chương kế-Polgar không biết những người làm chính sách Mỹ chỉ muốn rút, không thương thảo ǵ, không có ư định lập chính phủ liên hiệp. Việc này phụ tá Đại sứ Lehmann đă nói ở phần đầu của chương 4. Ghi chú của người dịch.

(9) Xem phần phỏng vấn Phụ tá Đại sứ Wolf Lehmann và phần phỏng vấn Thiếu tá Jim Kean chương 9. (10) Jim Kean, Thiếu tá Thủy quân Lục chiến, sẽ có bài ở Chương 9.

(11) John Madison, Đại tá Bộ binh, thành viên ủy ban Liên Hợp Quân Sự.

(12) Cố vấn an ninh quốc gia.

(13) Xem phần phỏng vấn Stuart Herrington ở Chương 7 . Ghi chú của người dịch.

THOMAS POLGAR

(Chỉ huy Trung ương T́nh báo Mỹ tại Việt Nam)

“Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

 

Hiểu ư định địch quân không khó v́ Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng, đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết đáng ngạc nhiên về những ǵ họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein Kampf. Họ thường nói trước những ǵ họ sẽ làm, chúng ta thường không tin những ǵ họ đă nói. C̣n chính sách Hoa Kỳ th́ đơn giản là không đáp ứng những tin t́nh báo mà chúng tôi thu lượm.

 

Xin đưa thí dụ: Mùa thu 1974, chúng tôi t́m ra được những báo cáo của Hà Nội nói Nixon đă đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ trọng. Bắt đầu vào tháng 10, 1974, khi t́m được phương án hoạt động 75, tôi lái xe xuống Biên Hoà nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm sở T́nh báo vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đă bàn thảo và đi đến kết luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do Trung ương cục miền Nam đưa ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.

 

Một hôm, tôi có dịp hỏi ư kiến Kissinger về hoạt động t́nh báo của chúng ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang tiếp nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung ương T́nh báo từ khắp nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành t́nh báo chúng ta? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: “Khi nó hỗ trợ cho chính sách của tôi, nó rất hữu ích!” Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng với tin tức do t́nh báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính sách trước, rồi cố t́m kiếm các tin tức t́nh báo để hỗ trợ chính sách ấy mà thôi.

 

Ở Việt Nam lúc đó có ba nguồn t́nh báo chính: Quân báo, sở An ninh Quốc gia và Trung ương T́nh báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn pḥng T́nh báo- Văn pḥng Tùy viên Quân sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm những cơ quan t́nh báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro, người chỉ huy t́nh báo thuộc Văn pḥng Tùy viên Quân sự suốt phần lớn thời gian kể từ sau Hiệp định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ đă được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến tranh Việt Nam đă chấm dứt. Quân đội Hoa Kỳ đă rút. Và chắc chắn, Tổng thống Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa v́ việc có thể đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.

 

Vào năm 1974, chúng ta đă không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ hạn. Chúng ta đă chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh. Lúc ấy, tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng-vào tinh thần của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.

 

Có năm sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan ǵ đến Việt Nam, nhưng đă ảnh hưởng trầm trọng đến họ. Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do Thái đă làm đổi hướng Bộ Quốc pḥng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống chết của Nam Việt Nam. Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng. Rồi các nhược điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đă tạo nên những phản ứng tâm lư mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá. Rồi việc quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận thuộc Khuynh hướng Tự do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang đầu Nam Việt Nam. Sau nữa, quốc hội v́ ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đă t́m cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.

 

Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu rất rơ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được. Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhă, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhă đă học bốn năm đại học ở Mỹ, c̣n hiểu rơ hơn cái bản chất bất định của nền chính trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra, thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận thức thấu đáo sinh hoạt quốc hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là chỉ coi quốc hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?

 

Vụ thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương diện quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ đă từ chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ “trả đũa mạnh mẽ và toàn bộ.” Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng chân, lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.

 

Khi phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào pḥng, Abzug lên tiếng hỏi: “Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?” Tôi tự giới thiệu. Bà ta nói: “Tốt! Tôi đă được người ta cảnh giác về ông.”

 

Bấy giờ có một lănh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng tăm ở Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết hắn rồi. Tôi bảo “Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác định được bất cứ người nào ở đâu trong tù.” Bà ta bảo: “Xác định người này xem.” Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3, Tuy Hoà.(Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Ḥa) Bà bèn bảo bà ấy muốn phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại chỉ có thể đi sáng chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng cũng đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau khi tất cả lo liệu xong, bà ấy nói: “À, tôi không lưu ư vụ này nữa” và không bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.

 

Cùng đi trong phái đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm t́nh với Nam Việt Nam nhưng vẫn c̣n cư xử đàng hoàng, đă theo dơi lắng nghe các buổi thuyết tŕnh. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không dự. Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không đến. Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của thủ tướng, họ đến, nhưng họ không tḥ mặt vào buổi tiệc của tổng thống. Rồi đại sứ cũng mời phái đoàn dùng cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng, v́ chính tôi đă được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.

 

Về vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đă đoán trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ xảy ra ở cao nguyên trung phần. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đă xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức t́nh báo của chúng tôi. Họ không chấp nhận v́-(Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn tin và những phương pháp thâu nhập tin tức t́nh báo, chẳng rơ tôi có nên nói ra ở đây không)-Nhưng sự kiện xảy ra là giới t́nh báo Hoa Thịnh Đốn đă không sử dụng tin tức t́nh báo từ Việt Nam do Văn pḥng Tùy viên Quân sự và sở Trung ương T́nh báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn tại cao nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều ấy. C̣n miền Nam Việt Nam th́ chẳng có được một quan niệm chiến thuật riêng tư nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn ra chỗ kia để pḥng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ đương đầu t́nh h́nh, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này dùng để giữ các địa phương th́ tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận tấn công. Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và trang bị để chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng cường.

 

Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú tại Cam Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ sáu. Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ bảy. Nhận tin sáng thứ bảy ấy, tôi chạy theo tướng Charles Timmes ra Tổng Tham mưu, và nói rằng “Tôi chẳng biết chuyện trời đất ǵ đang xảy ra đây nữa!” Tôi cho một phụ tá cao cấp đi gặp tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, hỏi chuyện ǵ đang xảy ra ở vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, t́nh h́nh không được tốt. Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về t́nh h́nh và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị- chớ chẳng có chuyện ǵ xảy ra ở vùng II cả.”

 

Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản. Tướng Timmes vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ bảy. Nhưng ông đă gặp tướng Trần Đ́nh Thọ, là Trưởng pḥng hành quân để hỏi thăm tin tức vùng II. Ông Thọ nói: “C̣n có cái ǵ xảy ra mà quư ông không hay biết cả đâu?” Rơ rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết ǵ việc ông Phú đang triệt thoái. Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi về. Phó Đại sứ Wolf Lehman bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe Bennett, sĩ quan chính trị đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho Moncrieff Spear, Tổng Lănh sự ở vùng II, bảo ông ta: “Tốt hơn hết ông nên chuyển người của ông ra khỏi Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: người ta đang di tản.” Ông ta nói: “Anh khùng à?” Bấy giờ ông ta đang ở Nha Trang, vùng duyên hải, tôi bảo: “Không, tôi có lư do để tin những việc đang xảy ra.” Ông ta nói: “Có phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy chăng?” Tôi bảo: “Ông biết thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể kết luận nếu khôn ngoan th́ hăy di tản ngay đi.”

Có một điểm tôi muốn nêu ra đây về tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta đă hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả cho Tổng Lănh sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, v́ đây là đại diện chính thức của Hoa Kỳ tại vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện ǵ đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực t́nh chỉ lăng xăng giết th́ giờ. C̣n ông Thọ Trưởng pḥng hành quân, cũng thế, chẳng hay biết ǵ cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là do tướng Phú hiểu lầm những ǵ Tổng thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.

 

Quân đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của tướng Phú. Chiến xa của họ đâm ra từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đă diễn ra ở đấy.

 

Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đă xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hoá nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể cao nguyên. Ống là một sĩ quan cấp tướng.

 

Lúc ấy vẫn chưa có ǵ xảy ra ở vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân Lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi vùng I. Quyết định này giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc tướng Trưởng c̣n đang đứng trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng. Tiếp đến, mất cả sư đoàn Thủy quân Lục chiến. Họ trở nên vô dụng, v́ đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái, sau lại ra lệnh “quay đàng sau, quay,” để quay trở lại! Đó là chuyện bất khả thi về phương diện quân sự. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến mất rất nhiều chiến cụ v́ không thể nào lấy ra được trong cái ḍng người tỵ nạn tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này ông có làm bất cứ cái ǵ cũng không c̣n có thể thay đổi t́nh thế lại được nữa. Cuộc chơi đă xong.

 

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ư với đại sứ Martin. Ông đại sứ lúc ấy đă rời Việt Nam sang Mỹ cùng với phái đoàn quốc hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố ra điều trần trước quốc hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện t́nh trạng sức khoẻ của ông cần giải phẫu, việc này đă làm chuyến về của ông chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu. Ông là một người kín đáo. Ông trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.

 

Về vụ chiếc C-5A th́ thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Y tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác sĩ Đán cảm thấy cần phải làm một cái ǵ về các cô nhi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu đưa được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt th́ việc này có thể vận động t́nh cảm công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động ḷng xót xa con người. Cùng lúc ấy, Văn pḥng Tùy viên Quân sự lại có nhiều nhân viên phụ nữ sẵn sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ v́ Hoa Kỳ chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển bằng đường hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp đặt cho họ vào những chuyến máy bay quân đội c̣n trống, xem họ như những người đi kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền bạc. Chính vợ tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi t́nh cờ đă lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hăng Cathay Pacific, đúng một ngày với chuyến C-5A bị rớt.

 

Tôi có hai bác sĩ thuộc Trung ương Tinh báo, nhân viên của tôi, khi máy bay rớt đă đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào bệnh viện Cơ Đốc ở Sàig̣n. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh, chụp rất nhiều h́nh. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho đại sứ coi, ông suy nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không. Nhưng ông kết luận những bức ảnh này quá rơ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với h́nh ảnh các thân thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay v́ khích động ḷng thương xót, lại tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.

 

Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia Lợi thuộc ủy ban quốc tế kiểm soát đ́nh chiến đến gặp tôi, anh ta nói: “Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đă thua trận chiến này.” Tôi bảo: “Ô kê, tôi nh́n nhận: Trận chiến đă bại rồi.” Anh ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.” Tôi bảo: “Đồng ư.” Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…” Anh ta bỏ lửng, không nói đại diện cho ai “…Không có ư định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức. Có lẽ, có thể t́m ra được một giải pháp nào-Không phải để thay đổi cuộc diện trận chiến, v́ nó đă xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung cuộc mà..” Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức.”

 

Tôi hỏi: “Ông có ư nghĩ ǵ trong đầu vậy?” “À vâng.” Anh ta nói: “Ông biết chúng tôi đă ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ chúng ta có thể t́m được một cách giải quyết trong lúc t́nh h́nh đang diễn tiến thế này-Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên bố bất can thiệp vào nội t́nh Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy tŕ ở đây một cơ cấu sứ quán b́nh thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm một số người Bắc Việt có thể chấp nhận. Đấy là những vấn đề chủ yếu.” Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với đại sứ chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui ḷng đi gặp các bạn của ông một lần nữa để t́m hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được trong chính phủ ấy?”

 

Vài ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của tôi mà nói: “Đấy, tôi đă chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. C̣n ông đă có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?” Anh ta đáp: “Vâng, thực ra tôi đă có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết ra.” Anh ta lấy một quyển sổ tay con, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp: “Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.” Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong ṿng vài ngày, chứ không phải vài tuần đâu.” Ông đại sứ tỏ ra có thiện cảm với chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái ǵ chăng. Nhưng chúng tôi đă gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không muốn có chuyện thương thảo ǵ hết.

 

Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.” Đấy, tôi kể cho các bạn nghe mấy chuyện này bởi v́ tôi muốn nhấn mạnh thật ra không bao giờ chúng tôi thương thảo với đối phương, cũng không bao giờ làm điều ǵ đối phương đ̣i hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là v́ những lư do hoàn toàn khác, không liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đă vờ vịt với họ, làm như chuyện ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện ấy mà thôi.

 

Thiệu từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông đại sứ không yêu cầu Thiệu từ chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông đại sứ nói chuyện với Thiệu, th́ hiển nhiên Thiệu đă mất hết tin tưởng vào mọi người, v́ mọi người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa ǵ nếu Thiệu cứ luẩn quẩn bên cạnh.

 

Một bữa đại sứ gọi tôi vào văn pḥng nói ông mới gặp Tổng thống Hương, Tổng thống không được thoải mái v́ sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong xứ. Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông, chừng nào Thiệu c̣n ở đây th́ ông cụ tê liệt không làm ǵ được cả. Ông cụ khẩn thiết yêu cầu đại sứ Martin lo liệu hộ v́ lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực hiện tuyệt đối trong ṿng “Tối mật!” Vâng, đại sứ Martin là người đầy lư trí, khi nghe cái ǵ “Tối mật” tất ông nghĩ đến “CIA Trung ương T́nh báo,” thế là ông hỏi: “Anh làm được không?” Tôi bảo “Thưa đại sứ, tôi làm được. Với một điều kiện. Ấy là: để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.” Việc này xảy ra ngày 24 tháng Tư th́ phải.

 

Mọi sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu xếp máy bay ở đâu. Tôi lấy tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc này Thiệu đă rời căn nhà trong Tổng Tham mưu. Các tướng lănh cao cấp Việt Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ư là với một kế hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan tâm công luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam Việt Nam có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu cái ư nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên đường ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan ǵ đến chuyện Thiệu đi, nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi phải bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham mưu Liên quân. Chúng tôi lấy vài chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế, tướng Timmes, tôi, và các hành lư- Chúng tôi dặn rơ mỗi người chỉ được mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả sẽ gặp nhau tại nhà thủ tướng Khiêm, bởi v́ đây là căn nhà lớn nhất, ít bị chú ư hơn là nhà ông Thiệu. Chúng tôi đồng ư sẽ cho máy bay đi Đài Loan, nơi người anh của Thiệu làm đại sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được với nhà cầm quyền Đài Loan để mọi người được nhập nội. Thủ tướng Khiêm cũng từng là đại sứ ở Đài Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ. Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay DC-6 chỉ có thể bay xa nhất bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.

 

Tôi chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng tin cậy và vững chăi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp là một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, v́ cấp bực của ông, không thể lái xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi kiếm một đại tá cảnh sát, cũng là đại tá quân đội, tôi nói: “Cần phải có một người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.” Tôi dự pḥng trường hợp lính gác hạch hỏi ǵ chăng. Pḥng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nh́n thấy bốn cái xe Mỹ do Mỹ lái th́ họ sẽ bảo “Các tay tổ đây,” khi nhận ra xe Đại sứ, họ sẽ bảo “Ông đại sứ đi họp” chắc chắn thế, chả trở ngại ǵ, nhưng phải có một đại tá quân đội cảnh sát để dự pḥng cho vững. Chúng tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một ḿnh ông Thiệu sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết c̣n ai khác. Cho nên cứ mang theo một số giấy tờ để trống, rồi tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.

Chúng tôi đưa cả cho viên đại úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan chúng tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp các sĩ quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong b́ này. Tất cả giấy tờ ở trong ấy.” Trong lúc đó một xe khác chở đại sứ chạy thẳng đến chiếc máy bay v́ đại sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với đại sứ: “Tôi không muốn đi cùng một xe với đại sứ trong thành phố v́ chỉ tạo thêm nhiều rủi ro phiền phức.” Cho nên tôi nhớ chúng tôi đă đổi xe. Tất cả diễn ra chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi thực hiện các điệp vụ. Chúng tôi đă đưa mọi người đến máy bay an toàn, vào máy bay an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.

 

Tôi ngồi chung xe với thủ tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không ai khóc. Gia đ́nh họ đều đă đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên v́ trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi, ông Thiệu không mang theo ai, trừ thủ tướng Khiêm. Điều này rất lạ v́ chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sàig̣n người ta ś sào bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông kia vân vân…Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy v́ lẽ tôi có liên hệ rất tốt với thủ tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.

 

Tôi luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đă quen cách di chuyển cố hữu của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của toà đại sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra. Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của đại sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi trong xe này, có viên đại tá cảnh sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi th́ sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và thủ tướng. Nhưng rồi việc xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi mong đợi. Có lần tôi đă đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đă làm y vậy.

 

Đêm hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ là chuyện cứt khô! Ai điên khùng ǵ mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va li, trời đất. Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đă mang vàng đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách cách trong hành lư bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của ngân hàng quốc gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu mỹ kim. Trị giá thực sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, v́ lư do giá vàng chỉ được tính có 35 mỹ kim một ounce (0.28g). Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời Nixon phá giá đồng mỹ kim. C̣n vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170 Mỹ kim một ounce. Bấy giờ đă có lúc Nam Việt Nam không c̣n tín chỉ trên thế giới nữa, quốc hội Mỹ th́ lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và như thường lệ, đại sứ Martin đă đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam Việt Nam nên gửi số vàng ấy sang quỹ dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, dùng sổ vàng ấy kư quỹ mà mua chịu vơ khí. Vâng, Thiệu đă chấp thuận đề nghị. T́nh cờ có chuyến bay chở hàng của Thụy Sĩ thuộc hăng Basel Air đang ở Sàig̣n, Nam Việt Nam thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới h́nh thức hàng hoá thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi từ chối không nhận chở, v́ lư do bảo hiểm. Họ bảo không cách ǵ kiếm ra ai chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi Sàig̣n. Người ta lại phải tính đến không quân Hoa Kỳ. Việc này được đem thảo luận tại Hội Đồng An ninh Quốc gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với không quân Hoa Kỳ không khó, nhưng t́m đâu ra mối bảo hiểm thương mại khi người ta lại sử dụng máy bay quân đội; chấm hết!

 

Cái củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng sư ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại Ngân hàng Quốc gia ở Sàig̣n. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?” Đó vẫn là cái đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu từ chức, một tốp người mới vào nắm quyền, cụ Hương hôm đầu th́ bảo ừ, chở đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng cụ kết luận thôi tốt nhất cứ giữ lấy vàng ở Sàig̣n, bởi v́ kể từ khi đại sứ Martin bắt đầu nói chuyện này, cho đến lúc ấy t́nh h́nh đă biến đổi, dẫu cho có kư thác vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không c̣n đến kịp và cũng chả giúp ích ǵ nữa. Ngoài ra họ cũng c̣n giữ được thể diện khi để lại số vàng ở trong xứ. Như thế, số vàng đă được để lại.

 

Đêm hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sàig̣n. Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất đại sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người đều có mặt. Tất cả các đại sứ c̣n ở tại Sàig̣n đều được mời, và ông Ba Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rơ rệt chúng tôi đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của tôi đối với t́nh h́nh. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm! Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đă trông ngóng đến ngày mùng một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!

 

Đại sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi riêng xe nhé.” V́ vậy tôi quay trở lại căn pḥng gửi một điện văn. Điện văn này tôi đă viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mă mà phụ tá của tôi và tôi đă giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả những ǵ tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.

 

Ngày rời Sàig̣n là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.

 

Đoạn kịch cuối mở màn ngày thứ hai. Chiều thứ hai là một buổi chiều rất xấu. Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, th́ giông băo khủng khiếp ập đến Sàig̣n. Mưa rơi xối xả. Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với b́nh xăng phụ 50 ga-lông do mấy phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi c̣n ở tại văn pḥng. Mặc dầu đă khoảng bảy giờ đêm, chúng tôi vẫn c̣n ở đấy v́ lúc này Sàig̣n ban đêm chẳng có ǵ khác để làm, thứ nữa Sàig̣n và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy buổi sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng tốt, để khi bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đă có đủ thông báo của chúng tôi.

 

Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi nhớ tôi đang ở trong pḥng viên Trưởng ban Truyền tin. Nhân viên truyền tin là những người lo phụ trách các báo cáo t́nh báo để gửi đi bằng điện đài.

 

Chúng tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử dụng Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vă trong các trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này: Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sàig̣n gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo t́nh h́nh lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện ǵ xảy ra!”

 

Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi nghĩ cái h́nh ảnh chính xác để mô tả ông là h́nh ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự bất lực của ông ta.

 

Trong tuần lễ cuối cùng, Sàig̣n vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận không kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi thiếu chút rau xà-lách. Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đă bừng dậy v́ lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho nhân viên trực của tôi ở toà đại sứ, một nhân viên t́nh báo; ở đấy, ngoài lính Thủy quân Lục chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực suốt ngày đêm. Tôi hỏi anh biết có chuyện ǵ xảy ra không? Anh ta nói lúc ấy chưa biết rơ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy quân Lục chiến đă trèo lên nóc nhà nh́n thấy có lửa cháy, anh ta đă liên lạc văn pḥng Tùy viên Quân sự, họ cũng chưa biết ǵ đích xác. Nhưng đă có một số thiệt hại đáng kể, hai lính Thủy quân Lục chiến tử thương. Tôi bảo: “Được rồi, t́nh trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là tốt lắm.” T́nh cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng pḥng tài chánh. Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong b́ khởi hành.” Phong b́ khởi hành là những phong b́ có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những toà đại sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong b́ được bỏ vào số tiền 1500 đô la bằng mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi người sẽ được trao tay một phong b́ này để pḥng vệ an toàn, dự pḥng trường hợp thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến toà đại sứ ngay.

 

Tôi là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy quân Lục chiến đă nhận thêm báo cáo từ văn pḥng Tùy viên Quân sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy toà đại sứ cần phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại sứ, tôi nói: “Rất tiếc phải gọi Đại sứ vào giờ này- Ông c̣n có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng đồng hồ nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại sứ cần phải vào gấp.” Ông Đại sứ bảo ông sẽ vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: cứ một người gọi bốn người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v…Nên tôi bắt đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, t́nh trạng sức khoẻ của Đại sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này, lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông th́ thà th́ thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rơ.

 

Đại sứ đă ra tận phi trường Tân Sơn Nhất, bởi v́ ông ta là Graham Martin mà, bạn hiểu không, mặc dù đă có đến mấy ông tướng Không quân phụ trách ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc phi cơ không c̣n đáp xuống được nữa. Ông đ̣i phải đích thân đến phi trường xem xét rồi mới chịu!

 

Ngày hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm đội các phi công đă sẵn sàng, trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng tám giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi sẽ phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ toà Đại sứ ở Sàig̣n. Họ bảo nhân số toà đại sứ sẽ c̣n lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân viên t́nh báo, nhóm nhân viên t́nh báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn bộ các đường truyền thông của toà đại sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng pḥng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông đại sứ. Tôi không bao giờ nh́n thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng hôm ấy do đại sứ nói. Do đó tôi về văn pḥng, tập họp các nhân viên cao cấp của tôi, lúc ấy tôi c̣n chừng 250 nhân viên t́nh báo tại chỗ. Tôi nói: “Quư bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!” Chuyện này không dễ dàng như thay lính Thủy quân Lục chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên t́nh báo không thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là nhân viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích viên.

 

Tôi lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan, để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi th́ khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp đặt. Lại c̣n phải cân nhắc trường hợp những người đă măn hạn, có người sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta măi đến tháng Bẩy mới măn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp t́nh trạng gia đ́nh. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội, toà lănh sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin, nhưng họ đă tự phong tỏa, tự khoá cửa và phải ở trong khuôn viên hàng mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.

 

Cái khẩu lệnh ấy cũng đă được chuyển ra ngoài hạm đội: Toà Đại sứ sẽ ở lại. Tư lệnh hạm đội, đề đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, toà

Đại sứ ở lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại được hút khỏi trực thăng, v́ người ta không được phép chứa trực thăng có xăng ở trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa xuống tầng dưới.

 

Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30, cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản. Tôi không rơ lệnh này chuyển đến đề đốc hạm đội lúc nào. Đại sứ Martin nhận lệnh lúc 11 giờ 30. Xem như cố vấn an ninh Brent Scrowcroft phải thông báo Ngũ Giác đài, nhưng bấy giờ là đang đêm ở Hoa Thịnh Đốn, có lẽ người làm việc không có mặt. Tôi không rơ đề đốc nhận lệnh ấy lúc mấy giờ. Sau này tôi hỏi ông ta trên chiến hạm: “Chuyện ǵ xảy ra vậy?” Ông ta đáp: “Chẳng có chuyện ǵ. Khi nhận tin di tản, tôi cho trực thăng đổ xăng, tôi gọi phi công, rồi lại được yêu cầu phải gửi một lực lượng an ninh Thủy quân Lục chiến vào Sàig̣n trợ giúp di tản, nhưng lính không có mặt trên những tàu chở trực thăng. V́ thế lại phải lo đưa lính từ khắp các tàu khác đến mấy chiếc tàu chở trực thăng. Mấy công tác ấy phải tốn th́ giờ.”

 

Nếu bạn hỏi, tôi sẽ nói: Tôi chả ngạc nhiên ǵ việc này. Tôi rất hoài nghi khả năng quân đội Hoa Kỳ khi cần đương đầu t́nh trạng khẩn cấp. Họ làm việc kiểu con rùa hành chánh: chậm chạp, lè phè. Lấy đấy mà xem, họ đă được thông báo t́nh h́nh Sàig̣n như vậy từ hai giờ trước, mà lính không đặt gần những tàu chở trực thăng, lại đưa tản mác trên những con tàu rải rác khắp mặt biển, thế là làm sao!

 

C̣n một việc nữa cũng không được dự liệu trước. Đó là việc một khi tin tức người Mỹ rời Việt Nam truyền ra, là đông đảo người ta sẽ tụ khắp chung quanh toà đại sứ, việc di chuyển sẽ trở nên vô phương. Do đó làm sao c̣n có thể sử dụng xe hơi, xe buưt chở người qua lại giữa toà đại sứ và văn pḥng Tùy viên Quân sự được, v́ hễ mở cổng đủ rộng cho xe đi th́ dân chúng sẽ như cuồng phong tràn vào.

 

Buổi sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thiêu hủy tài liệu. Trung ương T́nh báo có một thể lệ rất tốt, đó là tất cả hồ sơ đều phải có một phó bản giữ ở Hoa Kỳ, cho nên nếu có một trạm t́nh báo nào mất hồ sơ th́ chẳng hề ǵ, chỉ mất công chút đỉnh. V́ vậy chúng tôi tiêu hủy tất cả, chúng tôi đi khắp các văn pḥng một cách có phương pháp để phá bỏ bất cứ tài liệu nào về những người Việt có liên hệ chặt chẽ với chúng tôi.

 

Về cái cây me nổi tiếng th́ trong tất cả những buổi họp ở toà Đại sứ, qua mọi cuộc thảo luận, tôi chưa hề nghe ai nói, bàn ǵ về chuyện cưa cái cây này xuống. Tôi có nhiều t́nh cảm với cái cây me này chỉ v́ đấy là một biểu hiệu đẳng cấp trong toà đại sứ: Dưới cái cây là một băi đậu xe, đậu dưới bóng cây th́ mát mẻ, đậu ngoài nắng nhiệt độ như ḷ lửa. Cho nên được đậu xe dưới bóng cây me ấy tức là biểu hiệu đẳng cấp cao của toà đại sứ! Nhưng trang nghiêm mà nói, chưa bao giờ tôi nghe cái cây này có liên hệ ǵ đến chuyện di tản. C̣n hiển nhiên, chúng tôi sẽ phải mang trực thăng lớn vào băi đậu xe, cái cây này mọc chính giữa băi đậu, tất là sẽ phải hạ cái cây thế thôi.

 

Sáng hôm sau, khi đại sứ đă ra đi, không có chuyện ǵ để tôi ở lại nữa. C̣n các nhân viên truyền tin của tôi không thể đi nếu tôi hăy c̣n nấn ná ở lại. Viên phụ tá của tôi và mấy người khác cũng bảo nếu tôi c̣n ở đấy, họ cũng chưa chịu đi. Tôi xếp đặt cho mọi người ra đi theo các thứ tự cần thiết, nói thế không phải là giảm giá người này người nọ, nhưng có người công việc đă xong th́ đi trước, ví dụ nhân viên truyền tin không c̣n ǵ để làm nữa, những người phụ trách công tác vùng I, II, III cũng thế, các nhân viên hành chánh và quản trị nhân viên cũng có thể đi trước. Nhưng nhân viên lo việc vùng châu thổ vẫn c̣n cần, v́ tôi chưa rơ hết t́nh h́nh vùng IV ra sao.

 

Theo phương pháp ấy tôi quyết định ai đi, đi lúc nào, mọi sự trôi chảy, không gặp phiền phức, không bị tràn ngập. Tuyệt đối tốt. Tuyệt đối không trở ngại ǵ. Có lẽ những chuyện cuối cùng đáng kể là chuyện chúng tôi kéo người Việt ở bên ngoài vào toà đại sứ qua bức tường. Lúc ấy quanh toà đại sứ có cả vạn người, đúng số là như vậy, với đám đông vây quanh, thật khó cho người ta đến gần toà đại sứ . Nhưng bên ngoài c̣n có những người mà chúng tôi bắt buộc phải đưa họ di tản, ví dụ người trưởng ngành t́nh báo, ông phụ tá Cảnh sát Đặc biệt mà thực tế là Cảnh sát Chính trị. Vợ và con của Trung tướng Tổng cục Trưởng Chiến tranh Chính trị. Ông Tổng Trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn. Ông Trưởng ban Nghi lễ và Gia đ́nh. Tất cả đều ở ngoài toà đại sứ. Làm sao chúng tôi có thể mang họ di tản đây? Tôi không c̣n thể nào liên lạc được với họ. Nhưng phần ông Đôn cũng thu xếp vào được một chiếc trực thăng đậu đại trên một nóc cao ốc (nóc nhà này không được xây cất để trực thăng đáp, riêng đây tự nó cũng là một câu chuyện).

 

C̣n một số người khác khoẻ mạnh, quả quyết hơn, lấn được đến rào, chúng tôi nhấc bổng được họ, đưa vào toà đại sứ. Bấy giờ trong đám đông bên ngoài có một số sĩ quan quân đội mà chúng tôi đă thỏa thuận: Nếu họ đưa vào được một số người mà chúng tôi muốn, th́ sau cùng chúng tôi sẽ kéo họ vào cho họ đi. Chúng tôi cũng t́m được cách chuyển người đi qua đường phố Sàig̣n bằng cách giao dịch, thỏa thuận với cảnh sát, chúng tôi bảo họ: “Cho gia đ́nh các ông vào cùng với mấy người này, chừng nào các ông đưa được họ vào máy bay hay xe buưt an toàn, chúng tôi sẽ bốc các ông đi luôn.”

 

Những cuộc sắp đặt với cảnh sát có vẻ thần hữu hơn v́ chúng tôi biết họ, tin họ, họ cũng tin cậy chúng tôi. Buồn cười nhất là vào ngày cuối cùng, người ta đă đưa một nhóm người di tản như thế bằng cả một đoàn xe mô tô màu trắng oai vệ của liên đoàn an ninh phủ tổng thống, nối đuôi nhau đi.

 

Tại sân toà Đại sứ, chúng tôi dùng xe hơi cho châu đầu vào phía giữa để khi trời tối th́ chạy máy, rọi đèn pha lên, rồi cứ để như thế, hễ c̣n xăng, c̣n b́nh điện th́ c̣n ánh sáng.

 

Rồi có lệnh chúng tôi phải đi và ông Đại sứ cũng được bảo: “Ngài phải vào chiếc máy bay này.” C̣n chúng tôi, lúc đầu họ bảo trực thăng đậu dưới sân, tất cả chúng tôi xuống thang nhưng không thấy trực thăng đâu v́ họ đă đổi chương tŕnh, rồi họ lại bảo: “Trực thăng sẽ bốc từ nóc sân thượng.”

 

Tôi không có một gắn bó t́nh cảm nào quá lớn đối với Việt Nam như vài bạn đồng nghiệp của tôi đă quả t́nh yêu mến đất nước này. Nhưng đến giây phút cuối, nh́n thấy chung cuộc xảy ra thế ấy, tôi nghĩ chúng ta đă làm một việc tồi tàn đối với dân tộc này, đáng lẽ họ được khá hơn nếu đừng bao giờ chúng ta đến đây. Ngay từ lúc đầu.

 

Khi chúng tôi ra đi, trời đă rất tối. Phía Tân Sơn Nhất thấy vài đám cháy, nhưng nói chung ban đêm thành phố vẫn có vẻ b́nh thường. Đường vẫn sáng đèn, xe cộ vẫn sáng đèn. Thực kỳ dị, đó là một điều lạ lùng trong những ngày cuối cùng. Không phải chỉ những ngày cuối cùng mà suốt cả mấy tuần lễ cuối cùng, mọi sự đều có vẻ không thực, bởi v́ tất cả vẫn cứ hiện ra một vẻ rất b́nh thường. Nó không giống như cuộc vây hăm ở Warsaw, bạn hiểu không. Một ngày trước hôm sụp đổ, bạn vẫn c̣n có thể ra nhà hàng kéo ghế, c̣n thưởng thức được một bữa thịnh soạn, vẫn có thể ngồi nhấm nháp một cốc rượu vang ngon lành.

 

Không có ai nă đạn khi chúng tôi ra đi. Đó là một chuyện khác nữa. Người Bắc Việt là những người có lư trí. Họ không giống những người Hồi giáo cực đoan cuồng tín. Họ không dại ǵ tạo ra một biến cố nào nữa để có cớ cho người Mỹ can thiệp trở lại; và nếu họ sát hại ông Đại sứ, việc này sẽ trở thành đại sự, ngay cả đối với quốc hội.

 

Việc tiếp nhận chúng tôi trên tàu Blue Ridge chứng tỏ quân đội Mỹ là hạng bét. Họ bắt đầu lục soát hết thảy mọi người. Tôi nghĩ có lẽ Đại sứ là người duy nhất họ không lục soát. Vào lúc b́nh thời, cấp bực của tôi c̣n trên xa cả đề đốc chỉ huy chiến hạm.

 

Nhưng không một ai phản đối ǵ. Chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi đều trầm lại. Và chúng tôi quả là một đoàn quân chiến bại.

 

quảng cáo

Henry Hicks (Nhân viên văn pḥng tùy viên quân sự)

 

Ngày 24 tháng 4, tôi đưa gia đ́nh ra khỏi Sài G̣n, tôi nghĩ khi t́nh trạng khẩn trương qua đi, gia đ́nh sẽ trở về. Tôi không bao giờ tin đất nước này sẽ sụp đổ, ngay cả vào giây phút cuối. Tuy nhiên tôi vẫn đưa gia đ́nh ra khỏi xứ. Tâm trạng tôi lúc đó giống một anh suốt đời vô thần, lúc gần chết, gọi người bạn đến yêu cầu kiếm hộ một mục sư. Khi người bạn hỏi: “Tại sao cần mục sư?” Bèn trả lời: “Bởi v́ tôi có thể lầm”. Tôi không nghĩ đất nước này sẽ sụp đổ, nhưng tôi nghĩ tôi có thể lầm. và nếu tôi lầm, tôi không muốn gia đ́nh tôi phải trả giá cho sự lầm lẫn đó .

 

Trung Tướng Homer Smith giao cho tôi nhiệm vụ di tản nhân viên văn pḥng Tùy viên Quân Sự. Mọi việc tiếp diễn tốt đẹp cho đến đêm 28 tháng 4. Chúng tôi đang làm việc cật lực để đưa người đi, bỗng xuất hiện vài chiếc máy bay khốn kiếp. Chúng thả bom. Mấy tên cựu sĩ quan không quân Việt Nam đào thoát sang phía bọn khốn kiếp Bắc Việt đă lái những chiếc máy bay này. Chúng thả bom phi đạo khiến máy bay chúng ta không thể hạ cánh được Rồi đúng đêm hôm đó chúng nă hỏa tiễn vào.

 

Khoảng 2 giờ sáng ngày 29, tôi quyết định về nhà đánh một giấc ngủ. Tôi lái xe qua thành phố, trời tối đen như mực, chẳng có một ngọn đèn. Sớm hôm sau tỉnh giấc, lái xe trở lại Tân Sơn Nhất th́ mấy tên lính gác nổ súng cảnh cáo khi đến gần cổng phi trường. Tôi trở về, điện thoại đến Văn Pḥng Tùy Viên Quân Sự xem có chuyện ǵ xảy ra tại đó . Người ta bảo hăy đậu xe ở ngoài rồi đi bộ vào cổng, như vậy không có vấ đề ǵ. V́ thế, tôi lái xe trở lại, đậu xe, bắt đầu tiến vào cổng phi trường, th́ một lần nữa bọn lính gác khốn kiếp lại nổ súng. Dĩ nhiên họ không cố ư giết tôi, tôi nhớ thế. Họ chỉ t́m cách dọa nạt thôi. Tôi đứng cách khoảng 200 bộ Anh, họ vẫn tiếp tục bắn. Tôi quay lưng lại , rời phi trường lần thứ hai. Tôi lên xe lái về nhà, lại gọi văn pḥng Tùy viên Quân sự. Tôi nói: “Bọn nhân viên khốn kiếp của các ông đă nhận được lệnh chưa? Chuyện ǵ kỳ cục xảy ra vậy ? Tôi ráng đến sở làm nhưng họ cứ nổ súng bắn tôi ? ” Lần này họ bảo đến số 191 đường Công Lư. Tôi nghĩ khi đến đó, sẽ có người đưa tôi đến nơi làm việc. Nhưng khi đến nơi, người ta đưa thẳng tôi lên sân thượng. Một chiếc máy bay đă đậu sẵn- chiếc trực thăng của hăng Air America. Chiếc máy bay vẫn đợi … Đợi cho đến 3,4 giờ đồng hồ khốn kiếp! V́ vậy tôi lại gọi Văn pḥng Tùy viên Quân sự hỏi: “Sao cha phi công này không chịu đưa tôi đến Tân Sơn Nhất ?” Họ nói :”À, hắn được lệnh đợi thêm vài người nữa.” Chúng tôi lại đợi. Rồi nhiều người khác xuất hiện. Cuối cùng viên phi công nói:”Xong, chúng ta đi.”Cả bọn người khốn khổ bước vào trực thăng, đông đến nỗi viên phi công không cất cánh được , hắn phải bỏ bớt một số người ra. Cuối cùng hắn cất cánh, nhưng không trực chỉ Tân Sơn Nhất. Hắn bay về hướng Vũng Tàu.

 

Viên phi công hạ thấp máy bay. Tôi nh́n xuống. Tôi nghe được cả tiếng súng nổ, nhưng tưởng tiếng pháo. Tôi trông thấy vài đứa trẻ vẫn nô đùa trong sân trường học khi bay qua thành phố. Mọi việc vẫn có vẻ êm đềm…Nhưng tôi cảm thấy một nỗi buồn tê tái khi rời khỏi nơi này. Một nỗi kinh tởm lớn lao. Tôi không thể tin là chúng ta đă để cho bọn Cọng Sản thắng trận chiến này.

 

Chúng tôi bay qua Vũng Tàu, trực chỉ biển Đông. Nh́n qua cửa sổ trực thăng, tôi bỗng thấy cả một hạm đội dưới biển. Quang cảnh giống như caqcsw bức h́nh trong thời đệ nhị thế chiến, khi các hạm đội tập hợp. Chúng tôi tiến về chiếc Blue Ridge, nhưng chưa được phép hạ cánh, trực thăng quay lại ṿng thứ hai, rồi đáp.

 

Ngày hôm sau, nhiều máy bay trực thăng nữa cũng đáp xuống chiếc Blue Ridge. Ngay sau khi hạ cánh, người ta lật nhào mấy chiếc trực thăng xuống biển. Đó là một canhrtuwowngjteej hại nhất mà chưa bao giờ người ta được thấy.

 

Trên chiếc Blue Ridge, bọn nhà báo có một căn pḥng riêng, một căn pḥng đặc biệt dành cho họ làm việc. Tôi không muốn chuyện tṛ giao lưu ǵ với họ. Thực ra, tôi cũng từng có những quan hệ tốt đẹp với bọn nhà báo cho đến cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Sau đó, tôi nhớ họ đă gọi cái Tết này là một “Đại Thắng” của Cộng sản. Tôi hiểu quá rơ là không phải như vậy . Bọn nhà báo cũng hiểu như vậy. Khi ấy tôi đă nghĩ:” Vậy bọn nhà báo muốn những chuyện khốn nạn ǵ đây?” Tôi từng coi một vài tấm h́nh, dĩ nhiên xếp đạt trước, họ chụp sau Tết, khi vụ tấn công đă xảy ra. Những tấm h́nh này có tác dụng khiến cho ḷng người tan nát.Rồi tôi cũng lại được coi thêm nhiều bức h́nh nữa cũng đă dàn cảnh trước. Tôi bắt đầu nghĩ ngợi: “Chẳng c̣n có ǵ bọn nhà báo lại không thể dàn cảnh ra được nữa!”

 

Trước hết vào đầu cuộc chiến, chúng tôi đă tổ chức nhiều buổi họp báo để cung cấp tin tức cần thiết cho báo chí viết bài. Nhưng chẳng bao lâu, bọn nhà báo gọi những buổi thuyết tŕnh này là : Tṛ điên lúc 5 giờ “. Họ luôn luôn có nhuwngxchuyeenj khốn kiếp như thế. Thật ra chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy ai là người có trách nhiệm phải bảo đảm các bài viết tốt để bọn nhà báo bán báo kiếm lời, rồi chia lời cho các cổ đông của họ. Thật ra, đối với họ, báo chí chẳng qua cũng chỉ lkaf việc làm ăn buôn bán. Họ làm ăn buôn bán kiếm lợi thế thôi! Vậy mà họ cứ vo ve, ra vẻ như một nhóm người cực kỳ đặc biệt trên cơi đời.

 

Bọn truyền h́nh lại là bọn tệ hại nhất. Bọn khốn nạn này là bọn chẳng bao giờ nói ra sự thật, chẳng bao giờ chịu nh́n thấy sự thật. Tôi không bao giờ hiểu nỗi bọn truyền h́nh đă làm những chuyện trời ơi đất hỡi ǵ ở Việt Nam… Nhưng rơ ràng: SỰ THỰC KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC HỌ NÓI LÊN.

 

BECKY MARTIN

(Nữ nhân viên hành chánh, pḥng t́nh báo – Văn pḥng Tùy viên Quân sự).

“Ánh sáng cuối đường hầm vừa phụt tắt.”

 

Năm 1974 tôi đang làm việc cho bộ Quốc pḥng ở Hoa Thịnh Đốn. Thấy công việc nhàm chán, tôi muốn được nh́n thế giới bên ngoài. V́ thế một hôm tôi xin ghi danh vào tất cả các chức vụ chính phủ c̣n bỏ trống mà tôi có thể đảm nhiệm, tại hai mươi quốc gia khác nhau. Tôi xin đi, không phân biệt nơi nào. Hai tuần sau, vấn đề Việt Nam bỗng nổi bật, người ta gọi tôi đến cho đi.

 

Lúc đó tôi nghĩ “Ờ, chiến tranh chấm dứt rồi.” Có “Hoà b́nh trong danh dự rồi.” Đâu c̣n cái nhạc khúc của quá khứ nữa. Tôi không một chút ưu tư. Đă quyết định đi bất cứ nơi nào, và tôi nghĩ mọi chuyện thật tuyệt vời!

 

Tôi có thời hạn hai tuần lễ để tŕnh diện nhiệm sở mới, kể từ khi được thông báo. Tôi cần thông hành, cần sắp xếp việc di chuyển, nhưng người ta đă lo liệu hết mọi thứ. Điều duy nhất làm tôi áy náy trước khi đến nhiệm sở mới là chuyến bay Pan Am 747 từ đảo Guam đến Manila đông nghịt hành khách, nhưng từ Manila cất cánh đi th́ chiếc máy bay hoàn toàn trống rỗng. Tôi nh́n quanh, chợt nhận ra rằng ngoài phi hành đoàn, tôi là người da trắng duy nhất. Tôi nh́n thấy có bốn cho đến sáu người Việt Nam mặc quân phục. Tất cả chỉ có vậy, trên một chiếc máy bay 747 khổng lồ! Khi cất cánh khỏi phi trường Manila, một chiêu đăi viên đến bên tôi, hỏi “Tại sao chị đi Sàig̣n?” Tôi trả lời: “Đi nhận việc làm ở đấy.” Cô ta bảo “Chị nói dỡn?” Tôi nói “Không đâu. Thật đấy. Thế mỗi tuần cô bay vào Việt Nam bao nhiêu chuyến?” Cô ta nói: “Mỗi tuần hai chuyến.” Tôi hỏi: “Những chuyến ấy có đông người hơn chuyến này không?” Cô ta bảo “Không.”

 

Hăng Pan Am có khế ước chuyên chở thơ tín. Họ bay vào Việt Nam với những chuyến phi cơ gần trống rỗng như thế. Đó là mối nghi hoặc đầu tiên của tôi khi tôi nghĩ có thể tôi đă phạm một chuyện sai lầm ǵ đây. Hiển nhiên rất nhiều người đă biết một chuyện ǵ đang xảy ra, mà tôi lại hoàn toàn mù tịt.

Tôi đến nhận việc với tư cách Phụ tá T́nh báo, nhưng khi đến nơi, tôi không thích công việc ấy nữa. Bởi vậy, tôi lựa một chức vụ hành chánh, làm việc với bộ phận t́nh báo của văn pḥng Tùy viên Quân sự.

 

Cứ giả dụ chiến tranh đă chấm dứt, th́ có nhiều vùng đất đă lọt vào tay Việt Cộng và quân Bắc Việt tại khắp miền Nam Việt Nam rồi. Điều ấy, tôi không được biết. Vào buổi thuyết tŕnh đầu tiên mà tôi tham dự, là buổi thuyết tŕnh về t́nh h́nh chiến sự trong nước, người ta treo lên tường tấm bản đồ Quân Khu I. Tôi nh́n thấy những dấu hiệu màu đỏ lẫn lộn với những dấu hiệu màu xanh. Lúc ấy những dấu hiệu này chẳng có ư nghĩa ǵ với tôi. Tôi không rơ ư nghĩa các dấu hiệu, nhưng màu sắc vẫn giúp tôi dễ dàng nhận ra mọi chuyện. Tôi thấy trên bản đồ, phần lớn màu đỏ. Tôi nghĩ “Chúa ơi, thật bất thường. Đỏ tượng trưng cho bọn dữ. Đỏ thường chẳng bao giờ tượng trưng cho người hiền lương cả!”

 

Rồi đến bản đồ Quân khu II. Trời ạ! lại có ǵ lầm lẫn nữa đây. Nhưng ít đỏ hơn, nhiều xanh hơn. Tôi quay sang Đại úy Stu Herrington-người trước đây mói chỉ gặp một lần – tôi thúc khuỷu tay anh ta, hỏi “Đỏ là ai? Xanh là ai?” Anh ta trả lời: “Đỏ là bọn dữ.” Tôi than thầm.

 

Đến bản đồ Quân khu III. Ờ, chúng ta có nhiều xanh hơn. Nhưng không nhiều lắm. Tôi nghĩ “Chết thiệt, ḿnh làm ǵ thế này! Khùng hay sao mà đến nơi đây? Hoà b́nh trong danh dự, dỡn sao đây chớ? Chúa ơi, chúng ta đă để Việt Cộng lấy hết nửa nước này rồi.”

 

Sau buổi thuyết tŕnh, Jim Wink hỏi “Cô nghĩ thế nào?” Tôi nói: “Jim, không xong. Mất một nửa rồi c̣n chi.” Ông ta nói “Không, không đâu.” Tôi nói “Đúng! Đúng! Đúng thế! Có cách ǵ chúng ta đẩy bọn chúng ra được nữa?” Mấy người ùa vào tranh luận, Jim Wink, Jimmy Harris và mấy người khác. Họ nói “Không, chả sao. Chúng ta sẽ cung cấp cho người miền Nam những yểm trợ chiến thuật mà họ cần. Chúng ta là đồng minh của họ…” vân vân, vân vân. Tôi rút lại, không tham dự vào cuộc tranh luận này. Tôi không muốn phải lải nhải với họ về những đề mục này nữa.

 

Chiều hôm ấy Stu Herrington đến pḥng tôi. Anh ta nói “Cô có vẻ rầu rĩ về buổi thuyết tŕnh hôm nay phải không.” Tôi bảo “Phải.” Anh ta nói” Ờ, v́ thế tôi đến đây nói chuyện với cô để dự kiến lại mọi việc.” Tôi mời anh ta vào. Anh ta mô tả t́nh h́nh cho tôi nghe, sắp đặt mọi sự vào một viễn tượng thuộc phạm vi quân sự. Nói cách khác, với tất cả những dấu hiệu trên bản đồ, anh ta cho rằng vẫn không có nghĩa là chúng ta sẽ bị thua mau chóng trong giây lát đâu.

 

Nhưng một chuyện khác làm tôi vô cùng áy náy trong suốt ba tháng đầu tiên ở xứ này. Đó là có rất nhiều thanh niên trẻ ngoài đường phố: Họ đă khai gian tuổi, họ trốn quân dịch, họ sử dụng căn cước giả. Các thành phần đào ngũ rất đông. Cuộc chiến không được ḷng dân chấp nhận nữa. Đă có nhiều sinh mạng tổn thất, đă đánh giết ṛng ră bao nhiêu năm rồi. Tôi nghĩ ư dân Việt Nam không c̣n muốn chiến tranh nữa.

 

Tôi nghĩ một cách rất thành thực trước Thượng đế: Việt Nam là một trường hợp phí phạm khủng khiếp. Chúng ta đă hủy hoại đă phí phạm nhiều nhân lực, và đó là tổn thất lớn nhất của chúng ta. Chúng ta đă phí phạm nhiều tiền bạc. Chúng ta đă phí phạm nhiều năm tháng chiến đấu, đáng lẽ chúng ta phải hoàn tất trong một thời gian rất ngắn. Nhưng đây là vấn đề chính trị. Các chính trị gia không bao giờ cho phép quân đội thực hiện một điều lẽ ra quân đội phải làm: Đến đấy chiến đấu và chiến thắng.

 

Một buổi sáng hôm sau khi Nixon từ chức, chúng tôi nhận bản “Tóm lược tin tức t́nh báo và phân tích các hiểm nguy trong tháng.” Tùy viên Quân sự lúc ấy, tướng John Murray tỏ ra kiệt quệ v́ xúc động. Ông nói: “Thưa các bạn, ánh sáng cuối đường hầm vừa phụt tắt.”

 

Thực ra, Cộng sản không bao giờ có thể nắm hết được những thủ đoạn của cáo già Nixon (Người Mỹ gọi là Tricky Dicky, tay Nixon mưu mẹo. Ghi chú của dịch giả). Đối với họ, ông là một ẩn số. Ông ta không suy nghĩ theo kiểu người Á Đông suy nghĩ. Lấy ví dụ điển h́nh như trong cuộc hoà đàm ở Ba Lê với Kissinger, có lúc mọi việc đă không diễn tiến êm đẹp với Lê Đức Thọ. Đùng một cái Hà Nội bị dội bom! Hai phe không tiến đến được thỏa hiệp th́ Nixon quay lưng, mở chốt khai hỏa. Chỉ một thời gian ngắn, Bắc Việt vội vă trở lại bàn hội nghị. Như vậy, chúng ta tạo ra được hoà b́nh trong danh dự. Nhưng cuộc dội bom đă gây tổn thất nặng cho Bắc Việt. Cuộc dội bom chẳng những đánh vào Hà Nội, đánh vào các hệ thống và căn cứ chiến thuật tại miền Bắc, mà c̣n đánh vào các hệ thống và căn cứ chiến thuật của Cộng sản tại phía Bắc miền Nam Việt Nam. Nhưng rồi Nixon từ chức. Điều đó làm tôi quan ngại. Báo chí lúc đó toàn nói chuyện Watergate, nhưng chúng tôi chẳng đọc bao nhiêu. Chúng tôi cũng không bị các bản tin truyền h́nh tràn ngập. Chúng tôi không có đài truyền h́nh tin tức. Ở đây, chỉ có mỗi một tờ báo Anh ngữ duy nhất th́ vụ Watergate không phải là một vụ quan trọng đối với tờ báo này. Thực ra, những người sống ở nước ngoài bấy giờ không am tường bao nhiêu về vụ Watergate. Họ không rơ tại sao người Mỹ phải tự hành xác về những chuyện không đáng ǵ đối với họ như thế.

 

Bởi vậy, vụ từ chức của Nixon làm thay đổi hết mọi sự đối với chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu giải kết. Chúng tôi dành hai ba tháng trời để làm vi phim các tài liệu, rồi hủy hoại tất cả các tài liệu này sau khi vi phim thực hiện xong. Chúng tôi xé bỏ thiêu hủy hết. Những khối lượng giấy tờ vĩ đại trước đây sĩ quan an ninh chỉ nh́n thấy cũng đủ lên cơn đau tim, nay đều phải được tiêu hủy. Chúng tôi t́m cách thu nhỏ các tài liệu đến một kích thước rất bé để lúc cần là có thể vận chuyển ngay.

 

Vậy mà tôi vẫn không bao giờ thực sự cảm thấy Việt Nam có thể đổ vỡ cho đến lúc mất Đà Nẵng. Sự kiện này có tính tượng trưng đối với tôi. Tôi đă được đọc những bản phúc tŕnh của các nhân viên văn pḥng Tùy viên Quân sự ngoài ấy. Những bộ phận tiếp thu và liên lạc đều có đại diện ngoài Đà Nẵng. Tôi đă đọc phúc tŕnh của họ về những ǵ đă xảy ra: Bỗng nhiên, địch quân kéo đến! Bỗng nhiên, cả mười bốn, mười lăm sư đoàn đă kéo đến!

 

Vào ngày 4 tháng Tư, chúng tôi lại có một bản tóm lược tin tức t́nh báo hàng tháng. Sáng hôm ấy, một Đại tá đến văn pḥng chúng tôi. Ông nói: “Chúng ta sẽ khởi sự cuộc di tản đầu tiên. Bắt đầu ngay từ hôm nay!” Trước đó, chúng tôi đă lập một danh sách ưu tiên: Những ai ra đi, đi lúc nào, những người ít quan hệ nhất sẽ đi trước. Đại tá cho biết những người ở danh sách thứ nhất sẽ phải ra đi ngay hôm ấy, tức là ngày mùng 4 tháng tư. Tôi biết như thế sẽ gồm có một người nhân viên thư tín và một thư kư của chúng tôi, cũng sẽ gồm ba chuyên viên phân tích cao cấp của văn pḥng chúng tôi ra đi. Tôi nói: “V́ chúng ta phải làm bản tóm lược t́nh báo hàng tháng, tại sao không tiếp tục cứ ở lại một thời gian nữa, rồi sẽ đi những chuyến bay sau?” Ông Đại tá nói: “Vâng, tôi cũng đang nghĩ như vậy.” Tôi nói: “Tốt quá.” Lúc sau, ông trở lại bảo: “Đại tá Legro đă đồng ư. Mọi người cứ ở nguyên.” Bởi vậy văn pḥng chúng tôi thuộc bộ phận t́nh báo đương nhiệm là cơ quan duy nhất không có một người nào ra đi ngày 4 tháng Tư cả.

 

Tuy nhiên người ta vẫn tiếp tục chương tŕnh di tản ngay từ hôm đó. Họ quyết định di tản một số trẻ em Việt Nam. Họ nghĩ đây là phương cách tốt để cùng di tản một số lớn phụ nữ làm việc cho văn pḥng Tùy viên Quân sự. V́ thế sáng hôm đó, sau khi đến văn pḥng làm việc, các nữ nhân viên được báo cho biết họ phải ra đi. Người ta triệu tập các nữ nhân viên ở pḥng họp, cho biết quyết định, rồi cho họ được phép về nhà thu xếp hành lư. (Tôi nghĩ mỗi người được mang theo hai túi xách). Phần lớn các nữ nhân viên quay lại điểm hẹn, rồi được xe buưt của văn pḥng Tùy viên Quân sự đưa vào phi trường lên máy bay. Một vài nữ nhân viên không đến. Vài người cảm thấy những ràng buộc với gia đ́nh, họ không thể ra đi không mang theo gia đ́nh. Họ không trở lại làm việc cho đến ngày hôm sau.

 

Hôm ấy chúng tôi đang làm việc trễ th́ một nhân viên an ninh bước vào nói: “Chiếc máy bay C-5A bị rớt, vừa được đem trở lại Tân Sơn Nhứt.” Họ cần người phụ việc di chuyển các thi hài và các người bị thương ra khỏi mấy chiếc trực thăng sắp đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Tất cả chúng tôi đổ xô, chen chúc nhau lên chiếc xe vận tải ra phi trường đứng chờ trực thăng, nhưng cũng không có nhiều chiếc đáp xuống.

 

Trước hết, họ đưa vào một số thi hài, một số người sống sót, đa số là trẻ con. Chiếc C-5A là một chiếc máy bay ba tầng. Phần lớn trẻ con ở tầng trên, nên sống sót, nhưng bị phỏng nặng. Điều làm tôi kinh hoàng là thấy tất cả những đứa trẻ đó đều bị thương, cháy da, thân h́nh ướt đẫm nước tiểu, nhưng không một đứa nào khóc. Chúng nằm im ĺm như h́nh nộm. Tôi nghĩ chúng phải kêu la thảm thiết, nhưng không. Chúng nằm im. Không tiếng động. Không kêu. Không phản ứng ǵ.

 

Các bạn tôi thuộc văn pḥng Tùy viên Quân sự đều thiệt mạng. Tôi hầu như mất đi các người thân của chính gia đ́nh ḿnh. Tôi đă có linh cảm họ chết, ngay cả trước khi chiếc máy bay trực thăng đem bọn trẻ con về. Nhiều người vội vă chạy đến cứu trợ, nhưng tôi đứng sững nh́n. Tôi cứ nghĩ “Họ chết hết rồi.” Một cơn tê dại lan từ sống lưng lên suốt đỉnh đầu. Tôi bàng hoàng trước sự mất mát. Có một cái ǵ giống như phản ứng hoá học xảy ra trong cơ thể tôi, làm tôi tê liệt. Tôi không đối phó được nữa. Trước đây, tôi chưa từng bao giờ cảm thấy tê dại như thế.

 

Một chiếc trực thăng khác bay rất lẹ, chở đến nhiều trẻ em khác. Tôi chạy đến, giúp mấy đứa trẻ ra khỏi trực thăng lên xe cứu thương. Tôi thấy thi hài một phụ nữ, chính là Barbara, một nữ nhân viên làm chung tại văn pḥng Tùy viên với tôi. Con gái bà c̣n sống. Nó ngồi ngay bên xác mẹ. Mũi và miệng Barbara ngập bùn. Ngoài ra, chẳng thấy dấu vết nào khác. Sau này, họ bảo bà đă chết v́ sợ. Bà có chứng đau tim. Một chiếc trực thăng khác đáp xuống, chở thi hài một nhân viên phi hành đoàn. Đầu anh ta dập vỡ, hẳn anh ta chết tức th́. Chiếc kế chở mười hai bao thi hài khác. Thấy vậy, tôi quay lưng lại, bỏ đi.

 

Dù ở bất cứ đâu, tôi cũng không bao giờ coi nhẹ những dịp lễ Tết gia đ́nh. Tôi luôn luôn mời bạn bè thân thích đến nhà riêng trong những dịp này. Bàn ăn được bầy biện trang trọng như ở quê nhà. Không dùng đĩa giấy. Tôi luôn luôn giữ ǵn truyền thống lễ lạc của dân Mỹ. Lễ Phục Sinh vừa cử hành hôm chủ nhật vừa qua. Mới đây, tất cả những người đàn bà ấy đă đến nhà tôi dùng bữa Phục Sinh. Bây giờ, tất cả đều đă chết. Chỉ chưa đầy một tuần, họ đều chết cả.

 

Đêm đó chúng tôi trở lại văn pḥng, cố t́m xem những ai đă ở trên máy bay. Lúc ấy, chưa có danh sách phối kiểm. Có một người nữa, cùng tên với tôi, cũng là Becky Martin, đă ở trên máy bay. Cô này quê quán Texas, làm việc tại pḥng không lực – Một nhân viên an ninh hỏi tôi: “Có muốn tôi điện thoại cho ông bà thân sinh của cô không?” Tôi nói: “Liệu gọi được không?” Anh ta bảo: “Không rơ nữa.” Lúc ấy, mọi liên lạc viễn thông đều bị cắt đứt, người ta không muốn mọi người gọi gia đ́nh, cũng không muốn ai gọi vào. Người ta cần kiểm soát cho đến khi nắm vững những ai ở trên máy bay để đưa ra một bản thông báo chính thức. Không ai muốn xảy ra t́nh trạng phải nhận những cú điện thoại hỏi thăm, phải rầu rĩ trả lời: “Em ạ, tôi xin chia buồn, má em đă mất.” Mà có lẽ người mẹ lại vẫn c̣n sống.

 

Một nhân viên an ninh đă điện thoại được cho cha mẹ tôi. Anh ta nói với mẹ tôi trên đường dây rằng: “Thưa bà Martin, vừa xảy ra một tai nạn nghiêm trọng. Một vụ rớt máy bay. Nhưng con gái bà vẫn b́nh yên. Cô ấy không có mặt trên chuyến bay này.” Nhưng họ cắt điện thoại, không kịp cho anh ta nói rơ là có tên tôi trên danh sách nạn nhân, nhưng đấy chỉ là một cô Becky Martin khác.

 

Cha tôi có bạn bè làm việc ở Thái Lan, cả ở Sàig̣n. Mấy người này điện thoại vào hỏi văn pḥng tôi, rồi điện thoại lại cho cha mẹ tôi, xác nhận: “Đúng đấy, cô ấy vẫn b́nh yên.” Nhưng có người ở Cali lại gởi đến cho cha mẹ tôi một danh sách nạn nhân. Danh sách này làm cho cha mẹ tôi băn khoăn. Họ kinh hoảng, không biết đâu là thực. Phải một tuần rưỡi sau đó, khi tôi nói chuyện điện thoại thẳng với mẹ tôi, bà mới chịu tin là tôi thực sự b́nh an.

 

Sau tai nạn, tôi gói ghém tất cả hành lư vật dụng của các bạn tôi, xem xét giấy tờ của họ, liệt kê tất cả những ǵ họ có – Tôi làm việc này cho các nạn nhân để nếu vật dụng của họ không đưa được về, th́ gia đ́nh họ có thể được bồi thường. Khá nhiều nữ trang, đồ vật đắt tiền, h́nh ảnh, kỷ vật. Làm công việc này thật đau ḷng, nhưng nó cũng giúp ích cho tôi. Nó làm cho tôi cảm thấy các bạn của tôi vẫn c̣n ở bên tôi.

 

Trước ngày xảy ra tai nạn này chừng một tháng, tôi đă nằm mơ. Trong giấc mơ tôi thấy tất cả chúng tôi ở chung một căn pḥng, giống như pḥng làm việc của chúng tôi. Một căn pḥng rất lớn, rộng và dài, bàn làm việc sắp xếp nhiều hướng khác nhau. Trong pḥng, có một hệ thống âm thanh. Thật là tuyệt. Sáng thứ ba, chúng tôi thường theo dơi những chương tŕnh chơi banh bầu dục của đêm thứ hai. Rồi chúng tôi mở nhạc, và những bàn làm việc chợt lật ngược lên. Các ngăn kéo chợt mở tung ra. Tất cả giấy tờ đều bị lấy đi. Tất cả trống rỗng. Trong giấc mơ, tôi đang ngồi ở đấy với một vài người th́ Anne Reynolds, Joan Prey, vài người nữa chạy vụt qua văn pḥng. Joan đến chỗ chúng tôi, nói “Lẹ lên, chúng ta đi.” Tôi bảo “Khoan. Chưa đến lúc phải đi.” Cô ấy bảo “Cũng được, thế th́ gặp lại chị sau,” rồi cô ta đi. Tôi nghe điện thoại, Anne và vài người nữa gọi đến nói “Lại đây. Chúng ta sẽ gặp nhau ở chỗ ấy, chỗ ấy nhé.” Tôi không biết chỗ ấy là chỗ nào. Trong giấc mơ, trời mưa xối xả điên cuồng, cánh cửa lắc lư đập ra đập vào trong gió. Tôi nghe một người nói tiếng Việt, một tên Việt Cộng. Tôi lo lắng tự hỏi “Các bạn tôi đâu hết? Lẽ ra họ phải ở đây, nhưng sao chẳng c̣n ai ngoài tôi?” Tên Việt Cộng mở tung cánh cửa, tôi bừng tỉnh.

 

Giấc mơ ấy làm tôi ray rứt. Hôm sau, tôi đến chỗ Anne ở, nhấm nháp một cốc rượu. Tôi bỗng bảo: “Bọn khỉ mốc chúng mày bỏ tao đi sạch!” Anne hỏi: “Này, bạn nói cái ǵ vậy?” Tôi kể cho cô ấy nghe giấc mơ của tôi, cô ấy bảo rằng: “Không đâu Becky, bọn này không bao giờ bỏ bạn mà đi đâu.”

 

Nhưng sau này quả họ đều đă bỏ tôi. Họ đều đă bỏ tôi mà ra đi. Đấy là một giấc mơ kỳ lạ. Nó ám ảnh tôi suốt mấy ngày sau, nhưng rồi tôi đă cố khỏa lấp nó đi.

 

Hai ngày sau khi máy bay rớt, vài người trong nhóm chúng tôi xuống họp an ninh tại toà đại sứ. Người ta tŕnh bày kế hoạch di tản người Mỹ khỏi Sàig̣n. Họ chỉ cho chúng tôi một vài cao ốc mà họ trù tính sẽ cho trực thăng đáp xuống bốc người. Họ cũng trù tính cho những người có đệ tam quốc tịch đến những cao ốc ấy để di tản. Nhiều trực thăng chỉ có thể bốc ba hay bốn hành khách một lúc, như vậy nếu xảy t́nh trạng rối rắm khẩn cấp th́ chẳng bốc đi được bao nhiêu.

 

Người ta nghĩ Bắc Việt sẽ để yên cho chúng tôi đi. Tại sao lại phải hủy hoại cả một thành phố, trong khi họ có thể chiếm cứ được một cách trọn vẹn, không đổ vỡ ǵ? Nhưng nếu người miền Nam đâm ra hoảng hốt, họ cũng muốn di tản th́ họ sẽ đi đâu? Tất là họ sẽ t́m đến những trực thăng Mỹ! Chúng tôi sẽ phải kiểm soát cho được cái đám đông ấy. Và chúng tôi lại không nói được ngôn ngữ của họ!

 

Khi văn pḥng tôi được nghe kể chương tŕnh di tản do toà đại sứ đề ra, họ đă văng một loạt ngôn ngữ mà tôi không tiện kể. Chúng ta không nên in ra những ngôn từ ấy. Không thể tin được! Tôi cứ ngồi yên như phỗng mà suy nghĩ. Người có trách nhiệm mà hành xử như vậy sao? Đến trẻ con tiểu học cũng nh́n thấy những lỗ hổng trong kế hoạch ấy! Nếu tất cả mọi người dồn cục ở các cổng vào, th́ sao? Chúng tôi sẽ cho ai vào, ai không?

 

Đến lúc này, tôi nghĩ tốt hơn hết phải tự lo liệu một số việc riêng của ḿnh. Tôi chưa bao giờ viết chúc thư. V́ vậy tôi ngồi xuống, viết thư cho cha tôi và làm giấy ủy quyền cho luật sư. Lúc ấy thực dốt nát, tôi đă kư giấy ủy quyền bỏ trống cho luật sư. Tôi viết thư cho cha tôi, nói “Trong trường hợp con không về nhà vào cuối tháng năm, hăy giải quyết cái xe của con như thế này, giải quyết trương mục tiết kiệm của con như thế kia, giải quyết các vật dụng sở hữu khác như thế này…”

 

Tôi viết một danh sách dài những điều yêu cầu cha tôi làm, rồi tôi đưa cho Stuart nhờ viết địa chỉ lên phong b́. Tôi sợ nếu mẹ tôi thấy tuồng chữ của tôi, bà sẽ bóc. Trên b́ thư chúng tôi cũng đề “Thư riêng.” Mẹ tôi không bao giờ mở thư của ba tôi, nhưng tôi có cảm tưởng trong cơn rối ren này nếu mẹ tôi thấy tuồng chữ của tôi, bất kể thư ai, bà cũng bóc ra xem.

 

Sau này mẹ tôi quả đă mở thư ra thiệt. Lạy Chúa! Thư đến từ Sàig̣n, chắc phải có chuyện liên quan đến tôi. Cha tôi không có mặt để bóc thư, mẹ tôi cứ thế bóc ra.

 

Gửi xong lá thư, tôi nhẹ nhơm người. Sau đó Doug Dearth nói với tôi “Nhăn nhó chuyện ǵ vậy?” Tôi bảo: “Vừa phải lo xong đủ thứ chuyện” Anh ta hỏi: “Thế nghĩa là thế nào?” Tôi trả lời: “Anh biết đó, trường hợp chúng ta có khó khăn ǵ trong việc ra khỏi xứ này th́ tôi đă lo liệu xong xuôi mọi chuyện của tôi rồi.” Anh ta lại hỏi: “Cô làm ǵ vậy, gửi chúc thư về nhà à?” Tôi nói: “Tất nhiên không phải chúc thư. Chỉ là giấy ủy quyền thôi.” Anh ta bảo: “Becky ạ, nếu cô chết th́ giấy ủy quyền cho luật sư có ăn thua ǵ?” Tôi nói: “ờ, nhưng cũng trễ rồi. Mọi việc sẽ ổn thỏa thôi!”

 

Chúng tôi bắt đầu cho nhân viên ra đi, từ bộ phận này sang bộ phận khác. V́ là viên chức chỉ huy, tôi là người cuối cùng trong bộ phận của chúng tôi ra đi. Việc chúng tôi đi được thực hiện trong ṿng trật tự. V́ sẵn có phương tiện, nên khi có lệnh đi là chúng tôi đi.

 

Đêm 21 tháng Tư, cũng là đêm Thiệu từ chức, tôi ra phi trường Tân Sơn Nhứt rời khỏi Việt Nam. Chờ đợi suốt đêm. Những máy bay C-130 đến và đi đều đặn như ṿng quay đồng hồ. Muốn đưa ai ra đi lúc ấy, bạn chỉ cần đến bảo họ thế này: “Tên tôi như vậy, như vậy… Tôi có một số người như vậy, như vậy… cần phải đem đi.” Họ sẽ đưa cho bạn một cái thẻ. Có vậy thôi. Thế là tên bạn và số người đem đi sẽ được đưa vào danh sách. Khi người ta gọi, bạn cứ việc vào máy bay. Những máy bay C-130 có thể chở hàng trăm người mỗi chuyến. Cứ như vậy giờ này sang giờ khác. Cứ diễn tiến như vậy suốt mấy ngày.

 

Đến tảng sáng hôm sau tôi mới rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi được xe buưt đưa ra tận máy bay, có nhân viên không lực Mỹ khám người, khám hành lư. Người ta cũng mang đến cả một đơn vị Thủy quân Lục chiến để bảo vệ an ninh khu vực. Khu chờ chuyến bay lớn nhất là khu bể bơi, khu đánh “Bowling,” khu nhà tập thể dục thuộc pḥng Tùy viên Quân sự. Những khu này đông nghẹt người. Người ta ở đấy, chờ đến lượt, rồi lên máy bay.

 

Lúc chúng tôi tôi lên máy bay, vài phi công Việt Nam lái mấy chiếc chiến đấu cơ phản lực chạy rà qua. Chúng tôi dơ lên ngón tay cái, dấu hiệu chiến thắng, bạn ơi mọi sự vẫn tốt đẹp, cứ tiếp tục tiến lên! Chúng tôi cố làm cho họ tin rằng người Mỹ không rời đi đâu cả! Nhưng ngoài thành phố người ta biết rơ hơn, mặc dù không bao giờ có một xác nhận chính thức nào về việc người Mỹ đang di tản.

 

Chiếc máy bay đầy nhóc người. Tiếng động cơ inh ỏi. Trời gây gấy lạnh. Tôi đếm được năm người da trắng trên chuyến bay. Tất cả số c̣n lại đều là người Việt, khoảng một trăm người trên mỗi chuyến. Từng đơn vị gia đ́nh một. Khi máy bay ra đến biển, tôi bật khóc.

 

Chúng tôi đáp xuống phi trường Clark ở Phi Luật Tân. Tôi t́m cách sang một chuyến bay khác, sau cùng lên một chiếc máy bay chở trẻ con Việt Nam. Hoá ra, có vài em sống sót trong vụ chiếc C-5A rớt cũng ở trong chuyến bay này. Chiếc máy bay này là chiếc C-141 cải biến, ghế hành khách quay mặt về phía đuôi máy bay. Ở đuôi máy bay, người ta bố trí những chiếc giường cũi để giữ cho trẻ an toàn.

 

Tôi bảo tôi nhận việc đi “hộ vệ” đám trẻ con. Tôi nghĩ chuyện ấy khá mỉa mai, nhưng tôi đă làm chuyện ấy, và chẳng nghĩ ngợi ǵ hơn nữa. Quá nhiều chuyện đă xảy ra và quá nhiều người đă thiệt mạng! Người ta buộc trẻ con vào những người đi kèm để khi máy bay đáp xuống, lỡ có tai nạn ǵ th́ mấy đứa trẻ sẽ không bị bắn ra.

 

Tôi ôm trong tay một bé sơ sinh. Đúng ra, đó không phải là một bé sơ sinh, mà là một chú bé đă ba tuổi, nhưng nó ốm o, nhỏ thó như đứa trẻ con một tuổi. Tôi cũng coi sóc cho hai bé con nữa. Hai chị em đứa bé con! Chúng đă sợ sệt trong suốt chuyến bay trên đường về quê hương nước Mỹ.

 

quảng cáo

 

DIANE GUNSUL

(Nữ nhân viên văn pḥng Tùy viên Quân sự tại Biên Hoà)

“Nhấm nháp sâm-banh, ngắm nh́n cuộc chiến.”

 

Cuối thập niên 60, tôi là một thành viên hoạt động cho phong trào phản chiến tại Hoa Thịnh Đốn. Tôi đă tổ chức nhiều cuộc biểu t́nh phản chiến tại toà nhà quốc hội. Tôi đă tham gia nhiều buổi tuần hành, xuống đường – Tôi không bao giờ nghĩ quân đội Mỹ nên tham chiến ở Việt Nam. Nhiều người như tôi đă tin tưởng rằng chúng ta không nên gửi thanh niên sang bên ấy để rồi bị sát hại chỉ v́ một cuộc nội chiến. Tin tưởng như thế không có nghĩa là chúng tôi thiên Cộng.

 

Ngày 29 tháng Ba năm 1973, có tin từ Việt Nam cho biết quân đội Mỹ đang rời khỏi xứ. Người ta đang cần tuyển nhân viên dân sự sang giúp việc cho các nhóm cố vấn. V́ lẽ tôi đă từng kịch liệt chống chiến tranh, tôi tự nhủ “Ờ, họ thường sỉ vả là ḿnh cóc biết ǵ, v́ ḿnh chưa bao giờ ở đấy. Vậy thây kệ, thử xin đi cho biết.” Tôi nạp đơn. Có hai mươi lăm người xin việc, và tôi được tuyển. Tôi đến Việt Nam ngày 2 tháng Tư, 1973. Quân đội đă triệt thoái ngày 29 tháng Ba. Khi tôi vừa đến sở làm tại Biên Hoà th́ một quân nhân Mỹ bật đứng dậy, bước ra khỏi văn pḥng, hăy c̣n để lại trên cái gạt tàn thuốc một điếu x́ gà. Mọi sự tưởng chừng như anh ta sẽ c̣n quay trở lại. Người ta nhặt vội túi hành trang rồi ra đi. Tôi thấy hơi sờ sợ v́ có chuyện kỳ cục.

 

Tôi làm việc tại một nơi gọi là Trung tâm Tiếp vận. Đơn vị chúng tôi gồm từ hai mươi lăm cho đến một trăm nhân viên dân sự. Tướng Richard Baughn là một trong những người chỉ huy của tôi, họ đều ở Sàig̣n. Có một đại tá đặc nhiệm tại Biên Hoà. Ông đại tá này rơ rệt chưa bao giờ làm việc chung với các nhân viên dân sự, ông không hiểu nổi đám nhân viên dân sự chúng tôi.

 

Sáu tháng đầu tiên tôi sống ở Sàig̣n, đi xuống Biên Hoà bằng xe buưt. Nhưng Việt Cộng thường hay cắt đường, nếu lỡ hụt xe buưt hay phải đi những chuyến xe muộn th́ cũng rợn. Không di chuyển ban đêm được. Phải dùng trực thăng. Cuối cùng tôi chuyển xuống ở hẳn dưới Biên Hoà. Chúng tôi ở khu chung cư Franz Blau, trước đây từng là một nhà chứa gái điếm.

 

Tại Việt Nam, tôi đă gặp người sau này là chồng thứ hai của tôi, trên một chuyến xe buưt, ngay ngày đầu tiên. Chúng tôi cùng làm việc ở Biên Hoà.

 

Khi mới đến, tôi làm phụ tá quản trị với cấp bực thấp nhất, bậc7. Tôi leo lên bậc 9 ở đấy, trở thành một cấp chỉ huy hành chánh, nhưng ở Biên Hoà, nhân viên ít, người ta phải phụ trách đủ thứ việc khác nhau.

 

V́ vậy, tôi phải tự sắp xếp các chương tŕnh dự pḥng khẩn cấp. Tự sắp xếp các kế hoạch an ninh – Phải lo đủ thứ giấy tờ hành chánh cho các nhân viên ngắn hạn, các nhân viên tạm thời. Tôi cũng là viên chức phụ trách nghi lễ, v́ thế tôi có dịp đi gặp đủ mọi hạng người.

 

Tôi hiểu được người Việt là một dân tộc đầy nhiệt t́nh, rất cởi mở. Họ nhiều nhiệt t́nh và cởi mở hơn cả người Hoa hay người Nhật. Họ khác hẳn người Nhật Bản. Chúng tôi thường nói chuyện về chiến cuộc, về những ảnh hưởng tệ hại của chiến tranh đă đè nặng thế nào lên các gia đ́nh mà tôi quen biết. Tôi lui tới thăm viếng nhiều gia đ́nh. Chính chồng tôi đă nhận làm cha đỡ đầu cho một chú bé mới sinh lúc tôi ở đấy, chú bé con của một trung úy Việt Nam. Suốt đời họ là một cuộc chiến tranh dai dẳng, dai dẳng đến nỗi chiến tranh, đối với họ, chỉ là chuyện thường t́nh. Đó là một khung cảnh phù du, không thực.

 

Khi Phước Long thất thủ đầu năm 1975, người ta bối rối, nghi hoặc, nhiều hơn là sợ hăi. Người ta luẩn quẩn với các câu hỏi “Phải chăng đây là khởi đầu của một đoạn cuối thực sự?” Hoặc câu hỏi “Liệu người ta có đủ khả năng chặn đứng chuyện ấy hay chăng?” Rồi đến lúc người miền Nam triệt thoái khỏi Cao Nguyên, ḍng người tỵ nạn lũ lượt lê bước kéo đi, đến đây mới là lúc người ta bắt đầu chạm mặt cảm giác sụp đổ hoàn toàn.

 

Chúng tôi lại c̣n thường hỏi những chuyện như “Liệu người ta có đủ khả năng phục hồi hay không?” Tôi vẫn không tin t́nh trạng xấu sẽ kéo dài măi măi. Tôi vẫn c̣n nghĩ như vậy cho đến tháng tư 75 sau khi di tản khỏi Biên Hoà.

 

Đầu tháng Tư, một điện văn từ Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ gửi đến nói: “Di tản ngay tất cả đàn bà Mỹ.” Vỏn vẹn có thế. Tôi đọc tấm điện văn, giận run. Ông đại tá Chỉ huy trưởng liếc nh́n rồi cho gửi một điện văn phúc đáp, nói “Không có đàn bà Mỹ nào ở đây cả! Chỉ có các nhân viên tiếp vận các nhân viên hành chánh. Xin cho biết loại nhân viên nào không c̣n cần thiết ở đây?” Lúc ấy, dưới quyền đại tá Chỉ huy trưởng, có đến mười phụ nữ làm việc ở Biên Hoà. Họ gửi lại một điện văn khác, nói “Hoan hô!”

 

Đại tá Chỉ huy trưởng lúc ấy bèn thiết lập một danh sách nhân viên ở Biên Hoà theo thứ tự ưu tiên. Vài phụ nữ được đưa ra khỏi nước, v́ xem như không cần thiết. Vài phụ nữ khác được xem là cần thiết, chẳng hạn như tôi, được giữ lại. Chính thức ra, chưa có chương tŕnh di tản.

 

Để thực hiện chương tŕnh này, đầu tiên người ta t́m người t́nh nguyện đi kèm đám trẻ con, đây là một cách gián tiếp di tản. Một nữ nhân viên của chúng tôi là Selma Thompson, v́ quá sợ pháo kích và đạn súng cối, không chịu xuống Biên Hoà nữa. Lúc ấy cô ở Sàig̣n. Bên toà đại sứ cho tin những ai muốn đi th́ liên lạc. Họ cho có 24 giờ đồng hồ để sửa soạn.

 

Các phụ nữ làm việc ở Biên Hoà không được tin tức ǵ vụ này, cũng không biết về việc có chuyến C-5A chở trẻ con ra đi. Riêng Selma v́ ở Sàig̣n, biết được, nên đă xin. Cô ta v́ sợ pháo kích và súng cối mà đă ở lại Sàig̣n, rồi chính v́ thế đă leo lên chiếc máy bay này. Cô ấy đi chuyến C-5A vào ngày 4 tháng tư. Khi nhận được tin chiếc C-5A bị rớt, chúng tôi cực kỳ bàng hoàng. Chỉ đường tơ kẽ tóc, biết đâu tôi đă chẳng leo lên chiếc máy bay ấy? Suốt đêm, chúng tôi chờ tin. Cuối cùng điện thoại từ Sàig̣n đánh xuống cho biết Selma hăy c̣n sống sót và đă được di tản ra khỏi xứ. Đấy là cái kinh nghiệm đầu tiên của chúng tôi về cái gọi là di tản.

 

Tôi rời Biên Hoà ngày 10 tháng Tư. Trước đó, đại tá Chỉ huy trưởng đến, nói: “Được rồi; bây giờ đưa hết mọi người ra đi.” Ông đă có danh sách lập trước, mỗi ngày kiểm lại, cứ thế chỉ định những người đi. Đến lúc chỉ có bốn, năm người c̣n lại, trong đó có tôi. Chồng tôi c̣n ở lại lâu hơn nữa.

 

Tôi đi lúc mười giờ sáng. Chúng tôi di chuyển bằng chiếc xe chuyên chở nhỏ, xe buưt tiêu chuẩn của chính phủ Hoa Kỳ. Bốn năm người chúng tôi ngồi trong xe, chạy qua nhiều nút chặn, rất nhiều trạm kiểm soát suốt từ Biên Hoà lên đến Sàig̣n.

 

Đă nhiều tháng qua tôi không đi lại con đường này v́ mỗi lần đi Sàig̣n, tôi thường sử dụng trực thăng. Bây giờ đi xe buưt trên đường này, tôi kinh ngạc thấy đầy những ṿng kẽm gai kéo loằng ngoằng trên đường, tại các trạm gác. Măi đến khi ra khỏi xe mới không nh́n thấy kẽm gai và trạm gác nữa.

 

Trên chuyến xe, đây là lần đầu tiên tôi bắt đầu cảm thấy một nỗi đe dọa từ các bạn đồng minh người Việt. Họ biết chúng tôi đang rời Biên Hoà. Thực quá dễ biết, dù chúng tôi đă bỏ lại tất cả, mỗi người chỉ đem một túi nhỏ xách tay. Đây là lần đầu tiên tôi đâm lo sợ là chính những người bạn đồng minh có thể giết chúng tôi. Người Mỹ đang bỏ họ ra đi. Cho đến phút cuối, vẫn c̣n có những người Việt hỏi “Khi nào máy bay B-52 trở lại” Họ không thể tin nổi người Mỹ sẽ không c̣n trở lại với những chiếc oanh tạc cơ nữa.

 

Một việc chúng tôi đă làm là lo di tản cho các nhân viên cộng tác với chúng tôi. Họ không cần phải đến xin, chúng tôi hỏi họ có muốn đi không, cũng có vài người không muốn đi.

 

Tôi đến toà Lănh sự Mỹ với một người đàn ông Việt Nam từng làm việc với tôi. Trước, anh ta ở trong quân đội Việt Nam, đă giải ngũ. Anh ta muốn rời khỏi nước với vợ và hai con. Vợ con anh đă ra đi được với tư cách là vợ và con của chồng tôi. Bây giờ chúng tôi đến toà lănh sự, tôi sẽ kư một tờ khai xác nhận người đàn ông này là “chồng theo thông luật.” Theo thủ tục này người Mỹ khỏi cần khai vợ chồng theo hôn thú. Họ có thể đến tuyên thệ rằng đây là vợ hay chồng đă sống chung theo thông luật, họ muốn xin cho vợ hay chồng di tản, mặc dầu họ chưa được quy định là nhân viên không cần thiết để sẵn sàng ra đi.

 

Tôi mang theo một chứng thơ xác nhận tôi là nhân viên không cần thiết, mọi thứ để trống, khi nào cảm thấy muốn đi chỉ việc điền vào ngày tháng rồi đi. Tất cả chúng tôi lúc ấy đều có những chứng thơ này.

 

Chồng tôi đă theo thủ tục này mà giúp được đến ba phụ nữ đi với tư cách là “vợ” của anh vào ba lần khác nhau! Tất nhiên các nhân viên lănh sự Mỹ đều biết chúng tôi nói láo. Họ bị ràng buộc bởi các luật lệ của chính phủ Việt Nam, không thể cho người đi nếu những người này không có thông hành xuất ngoại. Nếu những người này không phải là nhân viên cơ quan Mỹ th́ vẫn có cách giúp họ là đến toà lănh sự mà thề là đă lấy nhau.

 

Tôi xấu hổ phát chết khi đến đấy thề rằng tôi có một anh chồng sống chung. Anh ta tất nhiên vẫn thường gọi tôi là “Cô Diane,” v́ đấy là tên tôi. Tôi dặn đi dặn lại rằng: “Đến toà Lănh sự th́ đừng có gọi tôi là cô Diane nữa nhé.” Và tất nhiên mỗi khi Lănh sự hỏi anh ta câu ǵ, tôi phải mau miệng trả lời. Tôi bảo “Thưa đây là chồng tôi, tôi cần đưa ông ấy đi di tản.” “Cho xem hôn thú!” Tôi nói “Chúng tôi chưa lập hôn thú, nhưng đă sống chung với nhau.” “Sống chung bao nhiêu lâu rồi?” Tôi bảo “Dạ, dạ…chừng một năm rưỡi… rồi!”

 

Ông Lănh sự nheo mắt nh́n. Ông ta thừa biết tôi khai láo. Ông ta quay sang hỏi “ông chồng” của tôi…”ông chồng” vội vàng quay sang tôi lắp bắp “Cô Diane…” Tôi bảo “Khổ quá! Đă dặn là đừng có gọi tôi bằng cô Diane nữa!” Nhộn thật!

 

C̣n về ba gia đ́nh quân nhân làm việc với chồng tôi, cả ba đều đă nhờ chồng tôi giúp đưa vợ con đi, nhưng không ai nhờ giúp cho bản thân họ. Họ không hỏi tôi giúp. V́ tự ái, không ai đến nhờ tôi đưa bằng cách ấy. Nhưng rồi cả ba người cuối cùng trong ṿng một tháng đều lần lượt đến được Guam bằng tàu. Lúc ấy, v́ chúng tôi làm việc trong trại tỵ nạn ở Guam, chúng tôi đă chứng kiến cảnh đoàn tụ mừng tủi của họ với những bà vợ mà chồng tôi giúp đưa đi.

 

C̣n “ông chồng” mà tôi đưa đi, đă sang được Phi Luật Tân, rồi sang Guam, cuối cùng đoàn tụ được với vợ con, hiện nay họ đang định cư ở San Diego.

 

Chúng tôi đă thực hiện những việc như thế cho những người đă cộng tác với chúng tôi. Họ đă sợ hăi, sợ hăi như thế cũng đúng thôi. Một trong những người chúng tôi không đưa đi, v́ anh ta không yêu cầu ra đi, một trung úy muốn ở lại với gia đ́nh. Vợ anh có con sơ sinh. Anh đă bị đưa vào trại cải tạo hơn bảy năm, bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng tôi nhận được một số thư và lời nhắn của vài người cho biết tin tức về anh ấy.

 

Vào những giờ phút cuối, người ta có cảm giác Cộng sản sẽ tàn sát tất cả những ai có liên hệ với người Mỹ. Nỗi sợ hăi này lan tràn như bệnh dịch.

 

Tôi không c̣n biết tin vào đâu. Tôi nghĩ có lẽ họ sẽ giết một số lớn những người trong quân đội. Bất kể ở Đông Phương hay Tây Phương, kẻ chiến thắng nào có cái-ǵ-gọi-là-danh-dự? Đă nhiều cuộc tắm máu xảy ra! Tôi không biết Cộng sản rồi đây sẽ tàn sát hay sẽ chỉ hành hạ họ. Và sau này điều Cộng sản đă làm, nói chung, chính là đă hành hạ cuộc đời họ với đầy thống khổ.

 

Thời gian này mọi người đều mang vũ khí. Nhưng là một người theo chủ nghĩa hoà b́nh, tôi không muốn giữ vũ khí làm ǵ. Ai nấy đều bỏ súng trong cặp, sau này c̣n đeo cả vào bao súng. Họ cấp phát vũ khí, hỏi tôi muốn lấy thứ nào. Tôi bảo: “Không, tôi không muốn thứ nào.” Họ hỏi: “Thế lỡ Việt Cộng mở cửa hầm, chĩa súng vào cô th́ sao?” Tôi bảo: “Ờ, có lẽ chết thôi.” Họ không tin. Tôi bảo họ: “Khi t́nh nguyện sang Sàig̣n, độc thân (lúc ấy người chồng thứ hai của tôi và tôi chưa lấy nhau) không con cái, không người phải nuôi dưỡng, không nợ nần, không có cái ǵ cả, tức là tôi đă sẵn sàng để nếu phải chết th́ cũng chết thôi. Tất nhiên tôi không mong chết, nhưng có bị bắt cũng chẳng sao.” Một ông đại tá Thủy quân Lục chiến lúc ấy nh́n tôi, nói: “Chuyện cô bị bắt sẽ không bao giờ xảy ra.” Tôi hỏi “Sao thế” Ông ta nói “V́ tôi sẽ giết cô trước!”

 

Tôi hơi cáu hỏi lại: “À, vậy đại tá đứng ở phía nào?” Ông bảo ông sẽ không bao giờ để cho Việt Cộng cầm tù một phụ nữ Mỹ. Tôi nói: “Đại tá ơi, này nhé: Cứ để Việt Cộng bắt tôi đi. Cứ cho là chúng hành hạ tra tấn tôi vài năm nhé, đủ các thứ tṛ ngoạn mục ấy mà, rồi đại tá xuất hiện, tung cửa bước vào giải cứu tôi, rồi chúng ḿnh sẽ viết sách nhé, làm phim nhé, kiếm hàng triệu đô la như chơi!” Tôi đùa, nhưng ông đại tá này vẫn không xem đấy là chuyện đùa. Ông ta bảo: “Tôi sẽ không cho phép những bọn người như thế cầm tù phụ nữ Mỹ!” Ông ta là một tay bảnh trai, nhưng khó quên nổi cái kiểu nói chuyện với giọng “nam nhi tay tổ” của ông.

 

Chồng tương lai của tôi đă được xếp vào loại không cần thiết. Khi anh rời xứ, tôi vẫn c̣n ở lại. Tôi viết thư cho ba người anh và em tôi để giải thích tại sao tôi c̣n ở lại, tôi nói tôi cảm thấy điều ấy là cần thiết và nếu lỡ mệnh hệ ǵ, th́ tôi đă sửa soạn sẵn sàng cả rồi. Tôi làm chúc thư, tôi đă làm hết mọi điều có thể làm nhưng tôi cũng hy vọng sẽ ra khỏi xứ này.

 

Chúng tôi nỗ lực di tản tất cả ngựi Mỹ ra đi trong khả năng chúng tôi. Cũng cố mang đi càng nhiều thân hữu của người Mỹ càng tốt. Đối với những người đă cộng tác, đă giúp đỡ chúng tôi, mang được họ đi là giúp cho đời sống của họ tốt đẹp hơn. Tôi cảm thấy tôi đang làm một công việc xứng đáng và có giá trị, sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy.

 

Trước đây đă một lần tôi cũng có cái cảm giác này, là vào lúc Tổng thống Kennedy bị ám sát. Cảm giác ấy là: Nếu họ giết tôi để Kennedy được sống, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận cái chết. Cảm giác này xảy ra lần nữa khi chúng tôi xuống đường tuần hành tại toà Bạch ốc lúc người Mỹ xâm phạm Campuchia vào mùa Xuân 1970. Cuộc xuống đường bất hợp pháp, người ta có thể nổ súng vào đám biểu t́nh tại toà Bạch ốc. Nhưng lúc đó, cảm thấy mănh liệt tính chất bất công của việc tiến vào vùng Mỏ Vẹt ở Campuchia, chúng tôi vẫn cứ tuôn vào cuộc biểu t́nh. Như thế đă ba lần trong đời tôi có cảm giác này. Khi tôi tin tưởng mănh liệt, tôi sẵn sàng chết cho niềm tin của tôi. Tôi không mong chết, tôi không t́m cái chết, nhưng đôi khi nếu cảm thấy phải chết cho niềm tin, th́ cái chết ấy cũng chính đáng.

 

Lúc ở trong căn hầm trú ẩn tại căn cứ văn pḥng Tùy viên Quân sự, tôi có một thư kư, người này có vợ hai con. Tôi bảo anh ta hăy ra đi. Nghe thế, đề đốc Owen Oberg nói: “Sao được. Lấy ai phụ trách việc tống thư văn.” Tôi bảo: “Anh này có vợ hai con. Anh ta cần di tản khỏi xứ. Tôi hăy c̣n độc thân, chẳng có ǵ ràng buộc. Nếu phải đánh máy giấy tờ, tôi lo lấy cũng được.”

 

Về việc di tản ra khỏi xứ, gần như bất cứ lúc nào tôi muốn là tôi có thể đi. Người ta chỉ cần giữ một số người tối thiểu. Mọi người Mỹ c̣n lại đều mang theo ḿnh một chứng thư để trống tên, trống ngày. Chứng thư xác định “Người này tên là… không phải là nhân viên cần thiết kể từ ngày…” Và khi muốn đi, chỉ việc đề tên, đề ngày tháng, rồi đi thẳng ra chỗ người ta đang sắp hàng vào máy bay mà bảo: “Ô kê! Tôi muốn ra đi.”

 

Tôi rời Việt Nam đêm 28 tháng tư. Bấy giờ là lúc một giờ sáng. Tôi quyết định ra đi v́ tôi biết giờ cuối cùng sắp điểm. Chúng tôi có một hệ thống truyền tin chặt chẽ với Hoa Thịnh Đốn bằng mật mă, mặc dầu không phải là nhân viên truyền thông, nhưng trong công việc tôi vẫn phải sử dụng hệ thống này.

 

Tôi biết hệ thống giải mă, mỗi ngày tôi đều có nhiệm vụ phải thay đổi các mật mă truyền tin. Do đó khi nhận tín hiệu mật đánh vào, giải mă xong tôi biết chuyện ǵ đang xảy ra. Tôi tự nhủ: “Ô kê, đă đến lúc phải đi.” Tôi biết t́nh h́nh không c̣n kéo dài hơn nữa.

 

Tôi đă kiệt quệ, biết rằng chẳng c̣n làm ǵ hơn được. Chồng sắp cưới của tôi đă ra đi. Với các mật hiệu đánh vào, tôi hiểu giờ cuối cùng đă điểm, và tôi không muốn phải đi bằng tàu hạm đội. Lúc bấy giờ các đề đốc hải quân vào căn cứ văn pḥng Tùy viên làm việc và thường bay ra hạm đội mỗi đêm – Địch quân thắt chặt ṿng vây, mỗi lúc một gần căn cứ, người ta có thể nghe rơ tiếng đạn, và nhiều cuộc chạm súng xảy ra. Một hôm, đề đốc Oberg bảo tôi: “Sao cô không theo chúng tôi? Ban đêm chúng tôi có thể đưa cô ra ngủ ngoài hạm đội.”

 

Tôi bảo: “Thưa đề đốc, ông đă ở ngoài biển bao nhiêu lâu rồi?” Ông nói chừng bảy tháng hay chín tháng ǵ đấy. Tôi bảo: “Thế đă bao lâu ông chưa lên bờ?” Ông nói lâu lắm rồi, nhiều tháng rồi chưa lên đất liền. Tôi bảo: “Đề đốc ơi, thế th́ thà tôi ở lại với Việt Cộng c̣n hơn!” Trung tâm điều hành di tản lúc nào cũng căng thẳng, người ta luôn luôn cứ phải khôi hài. Hết gọi máy bay, lại đến điều hợp các chuyến đi. Không tán dóc, không tiếu lâm, không c̣n xả nổi những áp lực trong các công việc căng thẳng.

 

Giữa bầu không khí như thế, một lần đề đốc Oberg nhờ tôi ra trung tâm thành phố bằng chiếc xe màu đen có cửa kính gương, xe chính phủ Mỹ. Tôi rành về mỹ thuật, lúc làm việc trong hầm trú ẩn, chúng tôi thường nói chuyện về đề tài này nên ông muốn nhờ tôi mua hộ một bức tranh, hoặc một món đồ thủ công nghệ tiêu biểu của Việt Nam để làm quà kỷ niệm cho người bạn ở Mỹ có đứa con trai chết tại Việt Nam. Ông cho tôi biết chừng giá tiền, rồi nhờ tài xế người Việt chở tôi ra phố.

 

Ra trung tâm Sàig̣n, tới đường Tự Do, nơi có nhiều tiệm bán đồ mỹ nghệ, tôi không tin nổi là mọi sự vẫn có vẻ b́nh thường. Không có ǵ rối loạn. Chỉ yên tĩnh hơn một chút. Điều ấy có một cái ǵ kỳ cục, giống như trong những cuốn phim của Fellini.

 

Từ Tân Sơn Nhứt, người ta đang dốc hết nỗ lực bốc người di tản trong một bầu khí căng thẳng gần phát điên lên được, mà rồi đi xuống Sàig̣n… Tất cả vẫn b́nh thường. Tôi nghĩ: “Nhưng người ta làm ǵ được bây giờ? Chẳng lẽ điên cuồng chạy ṿng quanh hay sao! Chắc chắn là không!” Tôi bước vào một tiệm bán đồ mỹ nghệ, nấn ná xem vài giờ đồng hồ cho đến khi chọn được một món quà tiêu biểu. Rồi tôi lên chiếc xe hơi màu đen của chính phủ Mỹ trở về lại Tân Sơn Nhứt. Thực kỳ cục. Tôi đă sợ khi xuống phố với chiếc xe hơi ấy. Tôi sợ dân chúng nh́n thấy có người Mỹ ngồi trong xe, họ đă biết chúng ta đang rời xứ.

 

Đêm rời Việt Nam, tôi leo vội lên chiếc xe buưt chạy ra phi trường. Chúng tôi len lấn lên máy bay, tôi nhớ h́nh như chiếc máy bay vẫn tiếp tục lăn bánh trong lúc chúng tôi dồn vào. Chắc chắn chiếc máy bay đang đậu, nhưng trong tâm trí tôi, h́nh như chiếc máy bay chỉ rà trên mặt đất hai phút đồng hồ, v́ việc bốc người rất điên cuồng, nhưng rất nhanh chóng. Vừa rời khỏi xe buưt, người ta thúc: “Đi tới, nhanh, đi, nhanh!” Họ đẩy chúng tôi thật nhanh vào khoang chứa đồ.

 

Chúng tôi ngồi bệt trên sàn, bám tay vào những sợi giây ràng hàng hoá. Mọi người im phắc trong một bầu khí sợ sệt, kỳ cục. Tôi c̣n nhớ những nhân viên phi hành Mỹ đứng ở cửa sổ máy bay, lăm lăm mấy khẩu súng hoả châu. Họ giật ḿnh khi thấy một người đàn bà Mỹ, tôi nhớ thế. Họ nh́n tôi như muốn hỏi “Cô là ai?”

 

Họ lấy làm lạ v́ lúc này tất cả những người di tản đều là người Việt, chỉ c̣n lại rất ít người Mỹ. Cũng c̣n một vài người đàn bà Mỹ trong xứ, nhưng rất ít, sau này họ đều được chuyển ra bằng trực thăng.

 

Tôi mệt bă người, lúc ấy chẳng nghĩ ngợi. Điều duy nhất chỉ c̣n mong cho máy bay đến được phi trường Clark an toàn, không trúng đạn. Đó là nỗi lo lắng duy nhất bởi v́ lúc cất cánh th́ máy bay bị bắn, không biết đạn đồng minh hay của Việt Cộng. Người ta đă kể nhiều chuyện về việc bạn đồng minh bắn lên lúc máy bay cất cánh, họ đă cay đắng. Họ đă cay đắng quá nhiều.

 

Lúc ấy, tôi biết tôi đang rời xa một xứ sở mà tôi đă đem ḷng yêu mến. Đất nước ấy thật là một đất nước đẹp đẽ. Tôi lấy làm buồn khi biết dân chúng miền Nam đă thua cuộc và có lẽ họ sẽ tiếc hận việc này. Tôi vẫn nghĩ có thể họ đă thắng cuộc chiến, nếu chúng ta đừng dính đến. Nhưng tôi cũng nghĩ cuối cùng Tự do vẫn sẽ chiến thắng bởi v́ họ đă từng được hưởng mùi vị của Tự do. Tôi thành thực tin tưởng ở bất cứ một nơi nào con người bị đàn áp, bất cứ dưới một chế độ cai trị nào chăng nữa, cuối cùng Tự do cũng vẫn thắng thế trở lại thôi.

 

Tôi bay đi Phi Luật Tân. Chúng tôi hạ cánh, mặc dầu phi trường đă đóng. Chúng tôi được rời khỏi máy bay nhưng không được phép ra khỏi xưởng chứa máy bay. Tôi thiếp một giấc trên ghế, khi tỉnh dậy chỉ c̣n lại mỗi ḿnh tôi, tất cả người Việt đă đi khỏi. Tôi hỏi họ đâu? Người ta cho biết họ đều đă được đưa sang Guam. Người ta không đánh thức tôi dậy, tôi cũng không nghe thấy tiếng họ rời. Trong xưởng chứa máy bay, ngồi trên mấy cái ghế của câu lạc bộ các bà vợ sĩ quan, tôi nhớ tôi đă đứng bật dậy, hỏi: “Những người Việt của tôi đâu?” Họ trả lời: “Chúng tôi đă đưa họ sang Guam v́ Tổng thống Ferdinand Marcos ra lệnh đóng cửa, không cho họ vào Phi.” Tôi mệt nhoài. Tôi kiệt quệ. Khi họ bảo những người Việt của tôi đă đi hết, tôi bật khóc. Mấy người Mỹ lẳng lặng tránh ra, mặc tôi một ḿnh. Họ muốn gửi tôi đi Guam ngay, nhưng tôi bảo tôi có chiếu khán vào Phi Luật Tân. Tôi đă xin chiếu khán này ngay khi mới đến Sàig̣n. Tôi đưa cho một viên đại tá xem hai cái thông hành, một thông hành công vụ và một thông hành du lịch. Ông ta không tin nổi. Ông ta nói: “Được rồi, vậy tôi sẽ đích thân đưa cô đến khu văng lai của sĩ quan, kiếm cho cô một cái pḥng.” Tôi ngủ một giấc ở đấy, khi thức giấc, cuộc chiến đă xong.

 

Thức giấc, tôi xuống dưới cầu thang, thấy ngay cái tựa lớn trên trang nhất của tờ báo quân đội Mỹ: “Sàig̣n đă sụp đổ.” Đọc bài báo tôi có cảm giác kỳ lạ, gần như đă giải thoát, thế là xong. Xứ sở ấy đă sụp đổ, thế là hết. Kết thúc. Trong tất cả những cuộc t́nh đổ vỡ, người ta đều cảm thấy một nhu cầu tâm lư, đó là nhu cầu kết thúc. Đối với tôi, tôi nghĩ tôi cũng có cùng một nhu cầu này, bởi v́ tôi cũng đă có một cuộc t́nh gắn bó với đất nước Việt Nam.

 

Xong xuôi. Tôi đến gặp các nhân viên Trung tâm Tiếp vận, bảo họ: “Khi liên lạc với Guam, xin nhắn với Roy – Chồng sắp cưới của tôi – là tôi hiện ở đây.” Nhưng họ đă quên không nhắn, nên tôi phải mất ba ngày mới lấy được chuyến bay. Anh ấy tưởng tôi vẫn kẹt ở Sàig̣n. Khi đến Guam, người ta loan báo là họ cần những người đă ở Việt Nam t́nh nguyện ở lại giúp trại tỵ nạn. Mặc dầu không muốn ở lại, chúng tôi muốn tiếp tục đi ngay, nhưng họ đang quá cần các nhân viên thiện chí, v́ người tỵ nạn đang dồn dập kéo vào, và họ đang bù đầu để lập thủ tục những người mới tới. Nên chúng tôi t́nh nguyện.

 

Chúng tôi ở lại đấy một tháng. Rồi chúng tôi đi nghỉ đổi gió ở Hạ Uy Di hai tuần trước khi về lại Cali.

 

Ngày nay hỏi chuyện người Mỹ, bạn sẽ thấy nhiều người không biết chiến tranh Việt Nam chấm dứt lúc nào, cũng không biết rằng khi Sàig̣n thất thủ, quân đội Mỹ đă không c̣n hiện diện ở đấy. Nhiều người không biết chuyện quân Mỹ đă rút đi từ hồi 73, rồi nhân viên dân sự kéo vào. “Quân đội Mỹ đă mất mười năm để thua trận. C̣n nhân viên dân sự chỉ mất có hai năm.” Thiệt là một chuyện diễu dở, nhưng mà…

 

Suốt hai năm, tôi không muốn nói năng ǵ về chuyện Việt Nam. Khi về lại Mỹ, đáng lẽ phải viết ngay một tờ khai các vật dụng mất mát để được chính phủ bồi thường, khoảng đâu mỗi Mỹ kim được nhận lại mười xu. Tôi đă bỏ lại rất nhiều đồ đạc, áo quần, giấy tờ h́nh ảnh cá nhân, nhưng phải đúng một năm và mười một tháng sau, tôi mới có thể ngồi xuống đặt bút viết tờ khai.

 

Trở về Mỹ tôi cảm thấy ḿnh như một con ngốc v́ mỗi lần nghe tiếng động lớn tôi vẫn chúi ḿnh núp dưới đất. Những chiến binh đều đă trải qua kinh nghiệm này. Phải một hai năm sau mới hết. Rồi lại lan man nghĩ ngợi đến những người bên kia, giờ này họ ra sao. Đấy là một giai đoạn thực quan trọng của đời tôi. Thỉnh thoảng tôi nói những chuyện ấy với người ở bên đây, nhưng đôi khi tôi cảm thấy ḿnh thật lạc lơng như người tự cung trăng. Có người cũng chú ư lắng nghe, nhưng chẳng ai có ư niệm ǵ về tất cả những điều tôi đă trải qua.

 

Ngay bây giờ, trong lúc nói chuyện với ông đây, tôi vẫn đang run rẩy. Mỗi lần nói về những chuyện này, tôi không bồn chồn hốt hoảng, nhưng vẫn đầy xúc động. Tất cả những ǵ trải qua, giờ đây đă là những xúc động in đậm trong ḷng tôi.

 

Tôi cũng có lúc nghĩ rằng kư ức cá nhân tôi và những chuyện của thời đă qua được tô điểm bằng những màu sắc của một chuyện t́nh, v́ Việt Nam là nơi tôi gặp chồng tôi, việc ấy đă làm cho tôi có một cái nh́n khác biệt về xứ sở này chăng. Tôi yêu mến xứ sở này bởi v́ đó là nơi tôi đă trải qua những tháng ngày hạnh phúc. Tôi nghĩ những người khác v́ không có cái gắn bó như thế, biết chừng đâu họ có thể nh́n mọi việc với một nhăn quan khác chăng. Phần tôi, tôi đă đạt được một cuộc hôn nhân nhiều hạnh phúc.

 

Cho nên trong trí nhớ, tự nhiên tôi chỉ muốn hồi tưởng lại những ǵ hạnh phúc. Tôi cũng chỉ c̣n muốn nói đến những ǵ hạnh phúc. Những hạnh phúc ấy, như ngồi với chồng tôi trên một băi biển ở Vũng Tàu năm xưa, nhấm nháp một cốc rượu sâm-banh mà nh́n ngắm chiến tranh, nh́n ngắm một đám khói đen như đám mây khổng lồ bay đến từ những vùng đất đang cầy lên bom đạn, rồi tự bảo “Không thể nào tin nổi. Chúng ta đang ngồi đây, trên một băi biển đẹp nhất thế giới, nh́n cuộc chiến tranh này mà nhấm nháp một cốc rượu sâm-banh.”

 

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge ֎ Mười điều răn ֎ Ten Commandements

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎ Foreign Trade

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days ֎ USA Census

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: