MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Một Trang Lịch Sử /details

֎ Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

֎ Một Trang Lịch Sử /org/3

֎ Một Trang Lịch Sử/pdf

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

֎֎֎֎֎

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Secret Army Secret War

֎ CIA Giải mật

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế

 

 

 

♣♣♣♣♣♣

 

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008

֎ 10-2008 ֎ 11.2008 ֎ 11-2008

֎ 12-2008 ֎ 01-2009 ֎ 02-2009

֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009

֎ 09-2009 ֎ 10-2009 ֎ 11-2009

֎ 12-2009 ֎ 01-2010 ֎ 03-2010

֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010

֎ 10-2010 ֎ 11-2010 ֎ 12-2010

֎ 01-2011 ֎ 02-2011 ֎ 03-2011

֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011

֎ 10-2011 ֎ 11-2011 ֎ 12-2011

֎ 01-2012 ֎ 06-2012 ֎ 12-2012

֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014

֎ 03-2015 ֎ 04-2015 ֎ 05-2015

֎ 12-2015 ֎ 01-2016 ֎ 02-2016

֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016

֎ 12-2016 ֎ 01-2017 ֎ 02-2017

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Diễn Đàn ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Đà Lạt ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government

v Associated Press v Congressional Record

v Reuter News v Real Clear Politics  

v MediaMatters v C-SPAN v.

v Videos Library v Judicial Watch v

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm v

v Observe v American Progress  v

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v

v The Online Books Page v

v American Free Press v

vNational Public Radio v

v National Review - Public Broacast v

v Federation of Anerican Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v CNN  v FoxAtlanta v

v Indonesian News v Philippine News v

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  

v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v

v Viễn Đông v Người Việt v Học Xá

v Việt Báo  v Việt List  v Xây Dựngv

v Phi Dũng v Việt Thức v Hoa Vô Ưu

v Đại Kỷ Nguyên v Việt Mỹv

v Việt Tribune v Saigon Times USA v

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Thơ Trẻ v

v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v

vLao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Tấm Gương

vSài G̣n v Sách Hiếm v Thế Giới  v Đỉnh Sóng

vChúng Ta  v Eurasia  v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ

v Nguyễn Tấn Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh v TPBVNCH v1GĐ/1TPB v Bia Miệng ♣♣

 

 

 

MỘNG BÁ VƯƠNG

 

 

 

 

 

TRUYỆN ĐỖ HÙNG

 

Gót danh lợi bùn pha sắc xám

Mặt phong trần nắng nám mùi dâu.

Nguyễn Gia Thiều

 

Năm Đinh Hợi 1527, niên hiệu Thống Nguyên năm thứ sáu đời vua Lê Cung Hoàng.

Đêm rằm tháng sáu , ánh trăng xanh vằng vặc phủ khắp Thăng Long thành. Màn đêm làm dịu bớt cái nóng oi ả kéo dài từ sáng sớm. Trời tịnh không có ngọn gió. Những hàng cây yên lặng trầm mặc. Trên vọng lâu hoàng thành, lá đại kỳ tượng trưng cho uy quyền hoàng đế mang hai chữ Thống Nguyên nằm liệt bất động.

Đêm đă khuya, kinh thành dường như ngủ yên nhưng có nhiều người c̣n thao thức. Điều bất thường đầu tiên, giờ tư qua đă lâu vẫn chưa nghe tiếng trống báo hiệu cho toán lính canh đổi phiên gác. Trên vọng lâu cổng thành phía nam bỗng xuất hiện nhiều bóng người áo đen. Một vơ tướng cao lớn đeo trường kiếm đứng yên như pho tượng. Người ta nhận ra Dục Mỹ Hầu Mạc Đăng Doanh, con trai trưởng của An Hưng Vương Mạc Đăng Dung. Đăng Doanh hiện đang chỉ huy năm ngh́n tinh binh bảo vệ hoàng thành.

Khoảng đầu giờ sửu, tiếng vó ngựa vang dội trên khắp các nẻo vào kinh đô. Hàng ngh́n lính áo đen gươm giáo tuốt trần dàn quân tại các nơi trọng yếu. Đây là đoàn cảm tử quân tinh nhuệ của An Hưng Vương Mạc Đăng Dung, nhân vật quyền lực nhất nước đang đặt đại bản doanh tại huyện Nghi Dương, trấn Hải Dương.

Mờ sáng, toán kỵ sĩ mười hai người do Tả Tướng Mạc Trung Chính, con trai thứ của Mạc Đăng Dung dẫn đầu phi nước đại đến cổng hoàng thành. Toán kỵ sĩ nhanh nhẹn xuống ngựa tiến lên vọng lâu.

Đầu giờ măo, trời sáng rơ. Người ta thấy đại kỳ vua Lê bị hạ xuống, thay bằng lá cờ khác.

Trời bỗng nổi gió. Gió hiu hiu rồi mạnh dần. Lá cờ mới mầu vàng tung bay ngạo nghễ hiện rơ hai chữ Minh Đức. Kinh đô Thăng Long thêm một lần biến động. Nhà nhà cửa đóng then gài. Không khí nặng nề bất trắc. Không ai biết chuyện ǵ đă và sẽ xảy ra...

Xế trưa, cổng thành mở rộng. Toán quân do Đông Quận Công Mạc Quyết , em trai Mạc Đăng Dung dẫn đầu dán yết thị ở các nơi công cộng, báo cho quân dân biết Hoàng Đế đương triều Lê Cung Hoàng đă hạ chiếu nhường ngôi báu cho An Hưng Vương Mạc Đăng Dung. Tân Vương lên ngôi đặt niên hiệu là Minh Đức, mở đầu triều đại nhà Mạc.

Chiếu chỉ có đoạn viết: ”... Ta không có tài đức để thay trời trị dân. Mệnh trời ḷng người thuận theo kẻ tài đức.

Xét Thái Sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung tư chất thông minh, tài kiêm văn vơ. Ngoài dẹp loạn lạc, các trấn quy phục. Trong coi trăm quan, mọi việc tốt lành. Công to đức lớn, trời độ người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải nên nhường ngôi báu. Cố sửa đức lớn, giữ mệnh trời để lương dân an vui, bốn cơi thái ḥa. Mong kính theo đó.”

Dân chúng nhiều người mừng rỡ, lắm kẻ ưu tư...

 

 

Chuyện trăm năm trước, năm Mậu Thân 1428. B́nh Định Vương Lê Lợi sau khi dẹp tan giặc Minh lên ngôi Hoàng Đế. Triều thần có người đề nghị vua nên dùng Tây Đô, ngôi thành do Hồ Quư Ly xây dựng thuộc huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa làm kinh đô.

Vua không bằng ḷng, cho rằng Tây Đô tuy xây dựng trên thế đất bằng phẳng, nhưng cảnh quan toàn thể là vùng rừng núi, nhiều sông. Đó là thế đất hẻo lánh cuối nước đầu non, chỉ hợp vớí thời loạn mà không nên với thời b́nh.

Cuối cùng, vua chọn Thăng Long nhưng đổi tên thành Đông Kinh. Vua nói: Thanh Hóa vốn là quê hương ta. Nhưng xét từ thời nhà Lư, ông cha ta đă chọn nơi này làm kinh đô. Đây là nơi tiện h́nh thế núi sông sau trước, đất rộng bằng phẳng, trông như rồng cuộn hổ ngồi. Tuy kinh đô đổi tên, dân vẫn không quên tên Thăng Long cũ.

Từ đó Thăng Long sống b́nh yên, phát triển thịnh vượng chưa hề nếm mùi binh lửa.

Gần tám mươi năm sau, triều đ́nh bắt đầu biến loạn.

Chuyện xảy ra vào năm Ất Sửu 1505, khi Lê Tuấn lên ngôi hoàng đế tức Lê Uy Mục.

Vừợa lên ngôi báu, việc đầu tiên của ông vua mới mười bảy tuổi là trả thù những người không chấp nhận cho vua nối ngôi. Nạn nhân đầu tiên chính là Trường Lạc Thái Hoàng Thái Hậu, bà nội nhà vua bị bức tử, các đại thần bị giết. Cuộc khủng bố tiếp tục chĩa mũi dùi ngay vào hoàng tộc. Người bị giết, kẻ bị giam giữ lưu đày. Quần thần hoang mang, ngờ vực, sợ hăi.

Uy Mục hiếu sát, bạo ngược dâm ô, thường tụ tập cung nhân uống rượu, lúc say giết người bừa băi. Những người bên họ ngoại nhà vua được ưu đăi, cậy thế cậy quyền muốn bắt giết ai tùy ư, cướp đoạt tài sản người. Dân oán hận, sứ giả Tàu gọi vua là Quỷ Vương.

Năm Kỷ Tỵ 1509, người anh thúc bá của vua là Giản Tu Công Lê Oanh đang bị giam cầm trốn thoát về Thanh Hóa. Lê Oanh kêu gọi quan quân đứng lên diệt bạo chúa. Bảng Nhăn Lương Đắc Bằng viết hịch kể tội vua Uy Mục: “...Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ nghiệp cả. Giết người xương thịt, d́m hăm thần liêu, vơ vét của dân, tiêu pha như bùn đất..”

Năm Kỷ Tị 1510, Lê Oanh kéo quân từ Tây Đô về kinh bắt được Uy Mục. Vua tự sát. Lê Oanh trả thù bằng cách nhét xác vua vào ṇng súng rồi bắn đi cho tan nát xương thịt.

Giản Tu Công Lê Oanh lên ngôi tức Lê Tương Dực. Mọi người tưởng vua mới sẽ khá hơn. Nào ngờ, chỉ được vài năm đầu. Khi ngoài hai mươi, vua bắt đầu tiêu pha xa xỉ, cho xây điện trăm nóc gọi là Cửu Trùng Đài tượng trưng uy quyền đế vương, công quỹ cạn kiệt. Vua hoang dâm, ngang nhiên tư thông với cả vợ vua Lê Uy Mục và các cung phi triều trước. Trẻ không tha già không thương. Chưa đủ, vua nhiều sáng kiến lạ, sai đóng chiến thuyền thật to trang hoàng lộng lẫy, bắt hàng trăm cung nữ trần truồng chèo thuyền rong chơi yến tiệc trên Hồ Tây, ca công tấu nhạc tưng bừng, thêm màn vũ thoát y hấp dẫn chưa từng có.

Dân kinh thành, toàn cánh đàn ông đổ ra bờ hồ trố mắt xem, ḥ reo đông vui như hội. Vua thích thú rượu say ngất ngưởng, cho là thời thịnh trị thái b́nh!.

Thấy cảnh chướng mắt, Nguyên Quận Công Trịnh Duy Sản, danh tướng lập nhiều công trận, cũng là người triệt để ủng hộ nhà vua lên ngôi cả. Một lần trong buổi thiết triều, Duy Sản lên tiếng can vua:

-Muôn tâu bệ hạ. Đế vương là rường cột, mối giềng xă tắc. Nay trong nước loạn lạc, giặc Trần Cảo có lần dám tiến đánh gần kinh đô. Nhiều vùng dân đói gối lên nhau mà chết. Trời làm lũ lụt, đê Yên Phụ vỡ. Rắn thần hiện ra trên sông Tô Lịch bốn tháng trời mới chịu bỏ đi. Ấy là những điềm bất thường xin bệ hạ chớ coi nhẹ.

Vua không vui, nói:

-Chuyện vỡ đê, rắn xuất hiện trên sông là lẽ thường. Cớ chi ngươi đặt điều mê tín cho là rắn thần? Ngươi muốn làm dân hoang mang chăng? C̣n giặc cướp nổi lên, ấy là do quan lại chưa làm hết sức, chưa truyền bá những điều trẫm răn dậy trong sách Trị B́nh.

Nghe vua nhắc đến sách Trị B́nh, Duy Sản tâu tiếp:

-Sách Trị B́nh của bệ hạ là những lời châu ngọc giáo huấn con dân. Thần nhớ điều thứ ba bệ hạ dậy: Quan lại trong ngoài phải nghiêm khắc sửa ḿnh hoàn thành chức trách. Không bừa băi dục vọng, say đắm tửu sắc, sai khiến bậy bạ, dắt mối đĩ điếm, yêu sách cỗ bàn, liên miên chè chén, bỏ bê công việc, hư hại phong hóa...

Vua giận ngắt lời:

-Ngươi chỉ là kẻ vơ biền cậy công nói điều xằng bậy. Trẫm ở ngôi đế vương thay trời trị dân, nắm trong tay sơn hà xă tắc. Trẫm viết sách giáo hóa quan dân. Nay ngươi lại muốn đem những điều ấy giáo hóa lại trẫm. Tội bất kính rơ ràng. Đế vương là tối thượng, trẫm muốn ai chết là phải chết. Huống chi trẫm bày cuộc vui ngươi dám cho là làm hư hại phong hóa ư? Trẫm không vui vẻ sao đủ sáng suốt trị nước chăn dân?

Nói xong, vua truyền nọc Duy Sản đánh năm mươi roi ngay giữa triều đường.

Duy Sản bị đ̣n đau cắn răng chịu nhục không một tiếng kêu la. Một tháng nằm nhà dưỡng thương, chịu đựng nỗi đau thể xác. Duy Sản nghĩ ra kế độc, ngầm cấu kết với bạn bè thủ hạ thân tín t́m cách giết vua.

Rạng sáng ngày bảy tháng tư năm Bính Tư 1516, Duy Sản kéo ba ngh́n quân vào hoàng thành loan tin dẹp phiến loạn.

Nghe tiếng quân reo ngựa hí trước nhà Thái Học, vua Tương Dực bước ra xem sự việc bị vơ sĩ của Duy Sản dùng thương đâm chết. Vua chết mới hai mươi tư tuổi.

Giết vua xong, quần thần họp bàn chọn vua mới. Các phe phái chống đối nhau kịch liệt đến đổ máu. Trịnh Duy Sản chém chết Vũ Tá Hầu Phùng Mại ngay giữa triều. Cuối cùng các phe thỏa thuận lập Quang Trị lên ngôi. Quang Trị mới tám tuổi.

Được tin Duy Sản giết vua, An Ḥa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ đang đóng quân tại Bồ Đề tức tốc kéo quân về bao vây kinh đô, hỏi tội lũ nghịch thần. Kinh đô tơi bời khói lửa. Văn Quận Công Trịnh Duy Đại, anh ruột Duy Sản đem vua chạy vào Thanh Hóa. Vua lên ngôi chỉ mới ba ngày, chưa có niên hiệu.

Đám tôn thất nhà Lê ḥa giải các tướng, bỏ Quang Trị, lập Lê Y lên ngôi vua tức Lê Chiêu Tôn. Chiêu Tôn là cháu bốn đời của vua Lê Thánh Tôn, lúc ấy vừa mười bốn tuổi.

Lợi dụng cơ hội, Trần Cảo người trấn Hải Dương kéo một vạn quân về mưu chiếm kinh đô. Trần Cảo từ lâu ấp ủ mộng đế vương, cho rằng khí số nhà Lê đă tận, có lời sấm ứng điềm Cảo sẽ là hoàng đế, bèn tự xưng Đế Thích giáng sinh. Quân của Cảo đầu cạo trọc, chiến đấu dũng cảm.

Biết thế giặc mạnh, Chiêu Tôn và triều thần phải bỏ kinh đô chạy vào Thanh Hóa.

Hoàng Thành bỏ trống. Dân tràn vào kho cướp báu vật. Một cuộc tranh cướp đẫm máu xảy ra. Xác người ngập hoàng cung. Cuối cùng, kho tàng trống trơn chẳng c̣n ǵ. Nhiều người trở nên giàu có nhờ giỏi cướp bóc.

“Giặc đầu trọc” tiến vào Thăng Long. Trần Cảo lên ngôi vua đặt niên hiệu Thiên Ứng, gia phong quan chức lập triều đ́nh mới.

Dân chúng biết kinh đô không c̣n là nơi an toàn, dắt díu nhau t́m đường lánh nạn.

Tại Thanh Hóa, Chiêu Tôn tập trung đại quân cử các tướng Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân chỉ huy về tái chiếm kinh đô. Trịnh Duy Đại về gặp Chiêu Tôn. Vua hỏi anh em Quang Trị. Đại nói cả ba bị lạc chẳng biết đâu t́m, để sau sẽ liệu.

Sau vua biết Duy Đại tàn nhẫn giết hết cả ba. Tội nghiệp vua Quang Trị, cậu bé mới lên tám, bỗng bị người bắt lên làm vua, rồi bị giết dễ dàng như loài thú. Chiêu Tôn uất hận nhưng không dám nói ǵ. Vua sợ thế lực anh em họ Trịnh, Trịnh Tuy là em họ của Đại và Sản. Trần Chân lại là con nuôi của Trịnh Tuy.

Quân vua về Thăng Long. Trần Cảo chống không lại rút chạy về vùng Chí Linh, Hải Dương. Tính ra Cảo giữ kinh đô chỉ hơn hai tuần lễ.

Suốt năm ấy, các tướng phải dẹp loạn nhiều nơi. Tháng mười một, Duy Sản khinh địch tiến sâu vào vùng rừng núi bị Trần Cảo bắt sống đem chém. Cảo thừa thắng kéo quân định chiếm lại kinh đô nhưng bị Trần Chân đánh bại chạy trốn lên phía bắc.

Sau chiến thắng, Trần Chân thành nhân vật có thế lực tại triều đ́nh.

Duy Sản chết, Chiêu Tôn nghĩ ngay việc triệt hạ Duy Đại, cũng là rửa mối hận cho anh em vua Quang Trị. Thừa dịp bọn hoạn quan Phạm Điền, Phạm Thứ tâu vua Trịnh Duy Đại và Trịnh Tuy có ư phản nghịch. Vua truyền chém Đại, bêu đầu ba ngày ngoài cổng thành. Riêng Trịnh Tuy, vua chưa dám đụng v́ Tuy hiện nắm vài ngh́n quân đóng tại ngoại thành Thăng Long.

Mấy ngày sau vua thiết triều. Quần thần đang hội nghị bỗng nghe tiếng súng nổ, tiếng quân reo ngoài thành. Vua như chim bị đạn, hoang mang hoảng sợ không biết có chuyện ǵ. Quan Đề Lĩnh vào điện tâu:

-Muôn tâu bệ hạ. Chẳng hiểu v́ cớ ǵ quân của An Ḥa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ và Vĩnh Hưng Hầu Trịnh Tuy đang đánh nhau dữ dội ngoài thành. Dân hoảng chạy toán loạn, nhiều nhà bị đốt cháy...

Vua rời triều cùng một số cận thần bước lên vọng lâu xem sự thể.

Trời lúc ấy mây đen vần vũ, bỗng biến sắc vàng tỏa khắp kinh đô. Vua hỏi Tư Thiên Giám đó là điềm ǵ? Quan tâu điềm quyền thần làm loạn nước.

Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt ngay cổng nam.

Thấy Hoằng Dụ mặc giáp trắng đang cỡi ngựa điều binh cố đẩy lùi quân Trịnh Tuy. Vua bắc loa kêu gọi ngừng chiến. Dụ làm như không nghe.

Nhá nhem tối, quân Trịnh Tuy rút ra ngoài kinh đô. Vua cho gọi Hoằng Dụ vào triều. Dụ cáo mệt không vào.

Hai hôm sau, Dụ lại kéo đại quân đánh Tuy. Tuy thua trận chạy vào Thanh Hóa.

Đoàn quân của Nguyễn Hoằng Dụ sau chiến thắng nghênh ngang về lại kinh đô bất ngờ bị quân của Đô Lực Sĩ Trần Chân, con nuôi Trịnh Tuy phục kích đánh tan tác. Kinh đô hoang tàn vắng lặng, dân không ai dám bước ra đường. Cuối cùng, Hoằng Dụ kéo tàn quân rút chạy về phía nam, dừng quân tại quê nhà thuộc huyện Tống Sơn, Thanh Hóa.

Thắng được Nguyễn Hoằng Dụ. Trần Chân cho ḿnh là thiên hạ vô địch. Chân kiêu ngạo đến độ ngang nhiên đeo gươm vào nội cung cùng thủ hạ chè chén. Quần thần có kẻ dị nghị bị Chân sai thủ hạ giết chết. Vua tức tối nhưng không dám nói ǵ.

Đô Ngự Sử Đỗ Nhạc và Phó Đô Ngự Sử Nguyễn Dự bàn với vua cách trừ khử Trần Chân. Đỗ Nhạc hiến kế:

-Nay Trần Chân ỷ mạnh làm càn, giết đại thần, gây loạn cả chốn nội cung thâm nghiêm. Đó là hành vi của loài dă thú không thể dung thứ. Thần xin bệ hạ nhẫn nhục, làm ra vẻ trọng nể hắn, mời hắn và bọn tay chân vào cung uống rượu, nói là để thưởng công lao chinh chiến. Khi bọn nó say sưa, ta sai vơ sĩ mai phục giết đi.

Chiêu Tôn y kế. Kết quả Trần Chân và sáu thủ hạ bị giết. Vua sai cắm thủ cấp của Chân trên đầu ngọn giáo, đem đi khắp kinh đô cho dân thấy.

Bọn thủ hạ của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng... thấy chủ bị giết quyết báo thù. Chúng tập trung quân tại chùa Yên Lăng ở ngoại thành, tổ chức tấn công kinh đô.

Kinh đô thêm một phen ch́m trong lửa khói. Bọn lính vô kỷ luật mặc sức đốt nhà cướp của. Dân chúng trở thành những nạn nhân đau khổ nhất.

Thế giặc mạnh, vua tôi nhà Lê vượt sông Nhị Hà chạy sang Gia Lâm đóng hành dinh ở Bồ Đề. Vua khẩn cho người vào Thanh Hóa cầu cứu Nguyễn Hoằng Dụ. Hoằng Dụ đang dưỡng quân nên không chịu động binh. Vua bối rối bàn với Đỗ Nhạc cho người đến Hải Dương triệu Vũ Xuyên Hầu Mạc Đăng Dung về cứu giá. Nhạc nói:

-Theo ư thần, bệ hạ không nên gọi Đăng Dung. Thần biết Dung từ lâu. Hắn đỗ Đô Lực Sĩ thời vua Uy Mục. Từ đó công danh thăng tiến. Hắn lắm mưu kế, đầy tham vọng. Nếu vời hắn về có khác nào đuổi được con chồn con cáo lại rước loài lang sói vào nhà. Đó là một lẽ. Thứ hai, Đăng Dung vốn thông gia với Trần Chân. Mạc Đăng Doanh là rể họ Trần, nếu hắn thừa dịp trả thù, bệ hạ tính sao?

Vua không chịu ư của Nhạc. Vua nói:

-Lời ngươi nói chỉ có lư một phần. Trẫm đánh giá con người Mạc Đăng Dung không phải như bọn Trần Chân, Hoằng Dụ hoặc Trịnh Tuy. Dung khôn ngoan trầm tĩnh, biết cách cư xử tỏ ra là người có lễ nghi. Vả lại, nếu không nhờ y th́ biết cậy ai bây giờ? Cứu binh như cứu hỏa, cứ gọi y về rồi liệu sau.

Đăng Dung nhận chiếu chỉ lập tức kéo quân về Bồ Đề bái yết. Vua vỗ về giao toàn quyền điều binh cho Dung.

Tỏ thiện chí ḥa hoăn, Mạc Đăng Dung đích thân gặp đám thủ hạ Trần Chân. Dung nói:

-Tôi vâng mệnh vua về đây thực tâm không muốn cùng các ông giao chiến gây cảnh nồi da xáo thịt, mà chỉ muốn ḥa giải băi binh tránh cho lê dân và binh sĩ cảnh lầm than đổ máu. Trần tướng quân với tôi là thông gia thân t́nh. Các ông và tôi chẳng lạ ǵ nhau. Chúng ta cùng là tôi nhà Lê th́ lệnh vua trên hết. Nếu chỉ v́ ân oán mà gây xáo trộn tất mang tiếng bất trung loạn thần. Xin cho biết tôn ư.

Hoàng Duy Nhạc nói:

-Chủ tướng tôi là bậc trung quân ái quốc, lại có công đánh đuổi bọn Trần Cảo bảo vệ kinh đô. Vua bất nhân nghe lời xàm tấu của bọn gian thần t́m cách hăm hại giết chủ tôi. Anh em chúng tôi quyết rửa mối oan cừu cho chủ tướng?

Nguyễn Kính tiếp lời:

-Kẻ nghĩa khí trên đời phải thờ vua, thầy và cha như một. Chủ tôi một ḷng thờ vua, ra công đuổi giặc Cảo làm mặt trời mặt trăng của nhà Lê lại sáng, tông miếu nhà Lê lại được tôn thờ. Nay người có công bị hại, ngậm oan nuốt hận, trời đất vô t́nh há chẳng đau xót sao? Vậy nên chúng tôi mài chí phục thù, trừ bọn gian ác. Trước là báo đền ân đức, sau là giải mối oan khiên, làm sáng tỏ đạo thờ thầy. Quan hầu nghĩ đó có phải là việc nên làm?

Đăng Dung trầm ngâm rồi nói:

-Trần tướng quân bị hại, chính ta cũng xót xa. Nhưng mệnh vua không thể căi. Ta nghĩ nợ máu phải trả bằng máu. Nếu các ông thuận, ta sẽ giết hết bọn chủ mưu hại chủ các ông, giải mối oan, làm sáng tỏ kẻ ngay người gian, để vong linh Trần tướng quân ngậm cười nơi chín suối. Mạc Đăng Dung đội trời đạp đất, thề chẳng nuốt lời.

Duy Nhạc và Nguyễn Kính vốn trọng Đăng Dung. Cả hai đồng ư băi binh rút quân về Sơn Tây.

Đăng Dung thực hiện lời hứa giết một số người, kể cả hai quan Ngự Sử Đỗ Nhạc và Nguyễn Dự. Trong khi bọn Nhạc, Kính vẫn chưa chịu rút khỏi kinh đô. Măi đến khi nghe tin Trịnh Tuy đă lập vua mới tại Sơn Tây mới chịu kéo quân về theo Trịnh Tuy.

Vĩnh Hưng Hầu Trịnh Tuy vốn tính thích xưng hùng xưng bá. Thấy Chiêu Tôn không c̣n uy quyền, lại bất tài nhu nhược, nghe lời xàm tấu. Trịnh Tuy mưu lập triều đ́nh riêng, bèn tôn người hoàng tộc là Lê Bảng lên ngôi vua lấy niên hiệu Đại Đức. Mấy tháng sau, Tuy lại phế Lê Bảng lập Lê Do lên ngôi niên hiệu Thiên Hiến. Chuyện xảy ra vào cuối năm Mậu Dần 1518.

Chiêu Tôn nghe tin cả giận, truyền Mạc Đăng Dung cất quân đánh dẹp. Dung tâu:

-Thế giặc mạnh lắm. Bệ hạ nên vời Hoằng Dụ kéo quân đánh bọn Nhạc, Kính. Thần sẽ tấn công Trịnh Tuy. Mở hai mặt trận một lúc chúng sẽ không cứu được nhau.

Vua cho là phải, hạ chiếu vời Hoằng Dụ. Nguyễn Hoằng Dụ biết Đăng Dung đang pḥ vua yên tâm động binh. Đoàn quân vừa tiến đến Sơn Tây đă bị Duy Nhạc đánh tan tác phải rút chạy về Thanh Hóa.

Trịnh Tuy thấy Dụ thua trận liền điều quân vượt sông tấn công hành dinh Bồ Đề quyết giết Chiêu Tôn. Đăng Dung chỉ huy quân sĩ quyết tử đánh tan giặc. Trịnh Tuy và Lê Do bỏ chạy.

Tháng bảy năm Kỷ Măo 1519, Do và Tuy đóng quân ở huyện Từ Liêm âm mưu đánh chiếm kinh đô. Lợi dụng trời mưa to, Mạc Đăng Dung ra lệnh phá đê cho nước tràn vào trại giặc. Lê Do bị bắt. Trịnh Tuy thoát chạy về Thanh Hóa.

 

Thắng trận, Chiêu Tôn yên tâm về lại Thăng Long, phong Mạc Đăng Dung làm Minh Quận Công. Mùa xuân năm Tân Tỵ 1521, vua lại gia phong Dung làm Nhân Quốc Công, Tiết Chế mười ba đạo thủy bộ binh. Chỉ trong một năm, Đăng Dung dẹp yên các cuộc nội loạn, t́nh thế tạm yên.

Biết tính vua phản trắc, hay nghe kẻ nịnh. Mạc Đăng Dung củng cố quyền lực pḥng thân, t́m cách gạt bỏ những thủ hạ thân tín của vua, đặt con là Dục Mỹ Hầu Mạc Đăng Doanh trấn giữ Kim Quang Điện, chỉ huy cấm binh bảo vệ hoàng thành.

Bọn hoạn quan hầu cận vua Phạm Hiến, Phạm Thứ lo sợ lắm. Chúng bàn nhau tâu vua t́m cách triệt Mạc Đăng Dung. Phạm Hiến nói:

-Nay Đăng Dung tóm thâu quyền bính, không ngừng củng cố quyền lực. Chúng ta thân cận nhà vua, số phận như cá nằm trên thớt. Ông có kế sách ǵ pḥng thân?

Phạm Thứ buồn bă:

-Sách có chữ tẩu vi thượng sách. Trong hoàn cảnh chúng ta, tôi nghĩ đó là kế vẹn toàn.

-Ông nói phải. Ta phải t́m cách trốn khỏi Thăng Long, kêu gọi các trấn hội binh về đánh chiếm kinh thành. Tôi biết tại các trấn Sơn Tây, Sơn Nam và Thanh Hóa nhiều người muốn triệt Mạc Đăng Dung. Nhất là Trịnh Tuy hiện đóng bản doanh gần Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Trịnh Tuy mộng bá đồ vương, dễ đem chức trước bổng lộc dụ dỗ.

-C̣n vua th́ sao? Phạm Thứ ngắt lời.

Hiến tiếp:

-Nhà vua tính dễ thuyết phục, lại dám làm. Ông không nhớ ngài đă từng giết Trịnh Duy Đại, Trần Chân. Trường hợp Mạc Đăng Dung lại khác. Dung khôn ngoan không đóng binh ở kinh thành mà lập bản doanh tại quê nhà. Chỉ để con trai và thủ hạ ở bên vua để kiềm chế. Tôi sẽ gặp Trịnh Tuy xem kế sách của hắn ra sao. Phải gấp rút xúc tiến kẻo trở tay không kịp.

Vài hôm sau. Phạm Thứ cáo ốm xin nghỉ. Thực sự Thứ ngầm vào Thanh Hóa liên lạc với Trịnh Tuy. Thứ bịa đặt nói vua sẽ gia phong vương tước cho Tuy, lại ban thưởng cơ man ngọc ngà châu báu. Thứ muốn Tuy yên ḷng, nói quân các trấn Sơn Nam, Sơn Tây sẵn sàng pḥ vua diệt loạn thần Mạc Đăng Dung.

Trịnh Tuy mừng lắm nhưng đ̣i phải có chiếu chỉ chính thức của vua. Thứ hẹn sẽ có người đem đến.

Vài ngày sau, Thứ và Hiến nhân buổi hầu rượu vua tại vườn Ngự Uyển. Hiến tung hô vạn tuế, quỳ nâng rượu ngang mày dâng vua. Vua đẹp ḷng thưởng mỗi người một chung rượu quư. Hiến làm bộ buồn rầu, cầm chung rượu rưng rưng:

-Tâu bệ hạ, kẻ hạ thần bao năm cúc cung tận tụy hầu hạ thánh chúa, ḷng mong non sông thái ḥa, cơ nghiệp nhà Lê muôn đời vững như Thái Sơn. Bệ hạ phúc lộc thọ trường chăn dân trị nước. Hạ thần được theo phù bệ hạ đến lúc răng long đầu bạc. Ước vọng không biết có được toại nguyện?

Nghe Hiến nói, vua đặt chén rượu đang uống dở xuống bàn, hỏi:

-Ngươi nói vậy là ư ǵ?

Hiến quỳ vập đầu trên sàn gạch, trán rướm máu, nói:

-Kẻ bề tôi không được dối vua. Hàng tháng nay, hạ thần mang nặng mối lo, ḷng như đeo đá. Nay run sợ tâu lên bệ hạỳ những điều mắt thấy tai nghe. Có điều ǵ phật ư, xin lượng thánh bao dung tha cho tội khi quân...

Vua nôn nóng:

-Ngươi cứ nói, nếu là sự thật, trẫm không phạt mà lại thưởng công.

Hiến kể lể:

-Tháng trước, thần ngang qua trấn Hải Dương, lại được dịp ghé bản doanh của Mạc Quốc Công (chỉ Mạc Đăng Dung). Cảnh thật nguy nga tráng lệ hơn cả hoàng cung. C̣n Quốc Công, đi bộ th́ long phụng dát vàng, đi thủy th́ thuyền rồng dây kéo. Nghi vệ đường bệ thiên tử. Khắp trấn, nam phụ lăo ấu đều biết chuyện năm xưa, khi Quốc Công c̣n hàn vi làm nghề chài lưới độ nhật ở bến đ̣ Hàn. Một hôm, Từ Thục phu nhân, vợ quan Thái Bảo Nghiêm Quận Công Nguyễn Văn Định, học tṛ Bảng Nhăn Lương Đắc Bằng. Bà tinh thông dịch lư, biết việc vị lai. Thấy Quốc Công, bà cung kính vái chào nói: Ngài có số đế vương. Mới đây, bà lại đến yết kiến Quốc Công, nói ngôi Đế Tinh ở phương đông ngày càng rạng rỡ, ứng vào điềm ngài sắp lên ngôi báu. Hạ thần thấy dân Hải Dương tỏ ra mừng rỡ, hănh diện v́ quê hương họ là đất phát đế. Đó là những điều chính thần mắt thấy tai nghe, chẳng có ư xàm tấu.

Vua lặng yên. Trăng đêm sáng vằng vặc soi trên hoa lá. Ngoại thành, vài ánh đèn le lói xa xa. Tiếng chó sủa bâng quơ, mơ hồ buồn bă.

Vua biết Phạm Hiến không nói dối. Vua vốn nghi ngại Đăng Dung, chuyện Hiến kể khơi thêm nỗi ngờ vực nhen nhúm trong ḷng vua bấy lâu. Vua buồn thở dài.

Từ ngày lên ngôi báu, vua chưa bao giờ được tận hưởng cảnh giàu sang phú quư tột đỉnh quyền lực, mà chỉ toàn cảnh khốn khó lao đao, cuộc tranh dành quyền lực giữa các cựu thần không ngừng. Trong ḷng ông vua mười tám tuổi chỉ có phiền muộn lo lắng. Vua nói:

-Mạc Quốc Công là bậc trung thần, rường cột xă tắc. Sao các ngươi dám đặt điều nghi hoặc. Nếu như Quốc Công nghe được ắt tính mệnh chẳng c̣n. Trẫm muốn từ nay các ngươi phải dè dặt lời ăn tiếng nói.

Nghe vua nói, Thứ và Hiến dập đầu khóc ngất, nguyện đem cái chết bày tỏ ḷng trung. Vua lặng lẽ bước vào thư pḥng, ngồi tựa ghế, ngổn ngang trăm mối. Quá nửa đêm, vua mở cửa nh́n ra thấy hai hoạn quan vẫn c̣n cúi đầu quỳ dáng thiểu năo. Vua thương cảm truyền cả hai lui. Phạm Thứ tâu nài:

-Tâu bệ hạ, việc Đăng Dung mưu thoán nghịch thần nghĩ nhiều người đoán biết nhưng không dám nói ra sợ tai vạ. Ngay cả Vĩnh Hưng Hầu cũng biết chuyện.

Nghe Thứ nhắc đến Trịnh Tuy, vua chăm chú nghe. Phạm Thứ bịa chuyện:

-Tuần trước, thần gặp thuộc tướng thân tín của Vĩnh Hưng Hầu là Nguyễn Bá Kỷ tại kinh đô. Kỷ với thần vốn chỗ thâm giao nên Kỷ không ngại ngùng thổ lộ: Vĩnh Hưng Hầu nay có trong tay trên hai vạn quân tinh nhuệ. Nghe tin Đăng Dung lộng quyền, ngài giận muốn hưng binh cứu vua dẹp loạn thần. Chỉ cần vua ban mật chiếu, ngài sẽ vâng mệnh tức khắc.

Vua yên lặng hồi lâu rồi nói:

-Trẫm tin các người, cứ ai có ḷng trung th́ trẫm nương cậy. Vậy ai dám v́ cơ nghiệp nhà Lê, lên đường vào Thanh Hóa trao mật chiếu?

Phạm Thứ hăng hái nhận nhiệm vụ.

Ngay đêm đó, Thứ bí mật lên đường. Vua ân cần dặn ḍ phải tuyệt đối bí mật.

Mười ngày sau, Thứ trở về gặp vua tŕnh kế hoạch, theo đó vua sẽ bí mật trốn lên huyện Minh Nghĩa trấn Sơn Tây, Trịnh Tuy đợi vua ở đó. Vua sẽ xuống chiếu truyền các trấn tập trung quân cùng lúc tiến đánh kinh đô Thăng Long và bản doanh Mạc Đăng Dung tại huyện Nghi Dương trấn Hải Dương.

Đêm hạ tuần tháng bảy năm Nhâm Ngọ 1522, vua và hai thái giám trốn khỏi kinh đô lên Sơn Tây. Sáng hôm sau, Mạc Đăng Doanh phái tùy tướng đuổi theo nhưng không kịp.

Mạc Đăng Dung nghe tin vội vă về kinh, lệnh truyền dân không được xao động, cấm tụ tập ngoài đường phố. Cử em ruột là Đông Quận Công Mạc Quyết đem năm ngh́n quân trấn giữ các yếu điểm. Đăng Dung triệu tập phiên họp khẩn gồm toàn phe cánh như Quỳnh Vũ Hầu Vũ Hộ, Hoằng Lễ Hầu Phạm Gia Mô, Dương Xuyên Hầu Nguyễn Như Quế... Ba người đồng hương liên hệ với Đăng Dung mật thiết như anh em.

Phạm Gia Mô đỗ tiến sĩ, từng làm Lễ Bộ Thượng Thư. Mô đa mưu túc kế nêu ư kiến:

-Sự việc nghiêm trọng xảy ra do chính nhà vua là đầu mối loạn. Nay ta cứ phao tin vua bị gian thần ép rời kinh, dân không thể thiếu chủ, nước không thể một ngày không vua, thần khí không thể bỏ trống. Ta tôn ngay hoàng đệ Lê Xuân lên ngôi. Truyền cho quân dân các nơi cứ an cư lạc nghiệp, giữ phúc sinh toàn. Danh chính ngôn thuận, ta sẽ liệu cách trừ khử loạn thần sau.

Mọi người cho là phải.

Lê Xuân lên ngôi tức Lê Cung Hoàng.

Thấy thế lực Chiêu Tôn c̣n mạnh, Thăng Long ở thế trống trải khó đương cự. Đăng Dung quyết định lập hành điện tại huyện Gia Phúc Hải Dương, đưa Cung Hoàng và triều thần đến đó. Lại lập pḥng tuyến tại huyện Cẩm Giàng cự địch.

Đăng Dung đoán đúng, thanh thế Chiêu Tôn ngày càng mạnh dù Trịnh Tuy vẫn chưa kéo quân đến Sơn Tây như đă mật ước với vua. Khoảng hai vạn quân theo vua tiến về Thăng Long, lập hành dinh tại phía tây kinh đô, tổ chức việc triều chính, quyết dành quyền lực từ tay Mạc Đăng Dung. Đến lúc ấy, Trịnh Tuy mới đem một vạn quân đến đóng bản doanh ở gần vua, nói là hộ giá.

Vua giận lắm, đám hoạn quan tâu vua không cần đến quân Trịnh Tuy cũng đủ thắng. Lại dèm pha Trịnh Tuy là kẻ phản trắc thời cơ, chờ dọn cỗ rồi đến hưởng, chẳng có chút công lao nào.

Tùy tướng của Tuy là Nguyễn Bá Kỷ đến bái yết vua. Vua kết tội khi quân đem chém, cho quân mang thủ cấp của Kỷ cắm vào cọc đặt ngay trước dinh Trịnh Tuy.

Trịnh Tuy hận lắm nhưng lờ như không, lại bắn tiếng đích thân sẽ dâng biểu tạ tội, đặt ḿnh dưới quyền vua sai khiến.

Đêm hôm sau, Trịnh Tuy bí mật hạ lệnh nhổ trại, sai hàng ngh́n quân tinh nhuệ mặc quân phục giống quân vua, tiến vào hành dinh bắt cóc vua rồi rút quân về Thanh Hóa.

Sáng hôm sau, các tướng mới biết vua đă bị Trịnh Tuy bắt. T́nh trạng quân sĩ hoang mang giao động. Thừa cơ, Mạc Đăng Dung hạ lệnh tấn công trên khắp mặt trận. Quân vua như rắn mất đầu bỏ chạy tan tác. Dung sai Mạc Quyết và Phạm Gia Mô truy kích Trịnh Tuy. Tuy thua chạy, quân sĩ tản mác vào rừng. Trịnh Tuy đem vua lẩn trốn ở vùng thượng lưu sông Mă.

Cuối năm, vua Lê Cung Hoàng cùng quần thần trở lại kinh đô.

Mùa xuân năm Ất Dậu 1525, dân vùng rừng núi Lam Sơn Thanh Hóa bị một phen kinh hoảng. Một đêm, người ta nghe những tiếng động ầm ầm dưới ḷng đất, có ngọn núi sụp hẳn xuống làm thành hố sâu. Vài hôm sau, mưa như thác đổ kéo từ nguồn xuống xác chết hàng tỉ tỉ các loại côn trùng, có nhiều loại sâu trông khiếp hăi.

Tháng sau lại xảy ra trận động đất khác cũng ở Thanh Hóa, vùng thượng lưu sông Mă. Một ngọn núi bị chẻ hai, nước từ hang núi cuồn cuộn chảy làm trôi nhà cửa. Nhiều người chết. Kẻ thức giả bàn cơ nghiệp nhà Lê khó bền v́ động đất xảy ra ngay trên quê hương vua Lê.

Mùa hạ, các trấn Thanh Hóa, Sơn Nam hạn hán. Ruộng khô đồng cháy. Dân ta thán hết bị người hành đến trời hành.

Biết quân Trịnh Tuy đang lâm vào thế khốn quẫn v́ thiếu lương. Cuối thu, Mạc Đăng Dung dẫn hai vạn quân vào vây đánh. Bản doanh của Trịnh Tuy đóng gần biên giới Ai Lao, giữa vùng rừng rậm bị hàng ngh́n cảm tử quân phóng hỏa đốt, quân Tuy thua chạy sâu vào rừng tản mác không tập trung lại được. Quân Mạc chiếm căn cứ, bắt sống được Chiêu Tôn. Trịnh Tuy một ḿnh một ngựa thoát chạy sang Ai Lao, sau này lâm bệnh chết.

Thế là chỉ trong nửa tháng, lực lượng trịnh Tuy hoàn toàn bị tiêu diệt. Đăng Dung đắc thắng về lại kinh đô. Vua Cung Hoàng và quần thần ra khỏi thành đón tiếp. Vua nói với Dung:

-Quốc Công là rường cột xă tắc, v́ nghĩa lớn hưng binh diệt trừ phản nghịch. Quân tiến như chim ưng lượn, như hổ vồ mồi. Bọn phản như hoẵng tan bầy, như kiến vỡ tổ. Lại đón được anh trẫm hồi kinh. Từ nay bốn phương đại đồng, nơi nào cũng chịu phép.

Dung cảm tạ kéo quân về lại bản doanh ở Hải Dương. Chiêu Tôn vào hoàng cung ở cùng vua Cung Hoàng. Hai anh em vẫn chung sống ḥa thuận tương đắc, đi đâu cũng có nhau. Dân chúng ai cũng khen Mạc Quốc Công độ lượng nhân nghĩa, cả như người khác th́ Chiêu Tôn đă mất mạng rồi.

Đám thân tín của Đăng Dung không bằng ḷng thái độ chủ tướng. Phạm Gia Mô đang làm quân sư cho Dung nói:

-Lẽ ra ngài nên giết Lê Y (chỉ Chiêu Tôn) ngay tại trận. Cho là gươm kiếm vô t́nh. C̣n đem hắn về đây có khác nào thêm vây cánh cho vua. Ngài tin được anh em họ chăng?

Đăng Dung ôn tồn đáp:

-Ta biết điều đó. Nhưng lúc bắt được hắn quân sĩ đều thấy. Nếu giết ngay mang tiếng hẹp lượng bất nhân. Không tránh được tiếng thị phi. Dù đem về kinh, thân phận hắn khác nào cá trên thớt. Ta từ từ tính chuyện, làm việc lớn nóng nảy khó thành.

Gia Mô nói tiếp:

-Ngài tính càng sớm càng tốt. Nay ư trời ḷng người đều thuận tiện. Họ Trần, Lư, Lê.. Người ở các trấn đă từng làm vua. Người trấn Hải Dương ta lẽ nào chịu kém. Ngài là niềm kiêu hănh cho cả trấn. Dân chúng ai cũng biết chuyện Từ Thục phu nhân tiên đoán ngài có chân mạng đế vương. Hàng đêm tôi xem thiên trượng thấy ngôi Đế Tinh phương đông quá đỗi rạng rỡ. Sách có chữ thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong. Thuận ư trời th́ c̣n, nghịch ư trời tất mất.

Đăng Dung trầm ngâm:

-Việc hệ trọng, ta phải suy cho chín.

Nói xong quay gót.

Trời về chiều. Mặt trời đỏ như mâm lửa ngả dần sau rặng núi phía tây. Đăng Dung một ḿnh thả thuyền trên sông. Giữa cảnh trời mây lồng lộng hùng vĩ, Dung buông tay chèo để mặc thuyền lênh đênh, đắm ch́m trong những suy tư ảnh hưởng đến cả vận mệnh đất nước. Đây là sự thật. Mạc Đăng Dung, con người quyền uy nhất nước. Người đang có quyền quyết định có nên chấm dứt ngay cơ nghiệp nhà Lê do đám bề tôi thân tín thúc bách. Xa xa, cây đa trên bến đ̣ Hàn ngả mầu xẫm. Cây đa tỏa bóng che nắng cho người trong những buổi trưa hè. Cũng tại bến sông đó, trên hai mươi năm trước, lần đầu gặp người đàn bà xưng là Từ Thục phu nhân, Đăng Dung nhớ như in câu nói của người đàn bà lạ mặt: “Sau này ngài sẽ là Hoàng Đế”. Bà c̣n nói thêm: “Ta có con trai tên Nguyễn Bỉnh Khiêm, thông minh dĩnh ngộ. Sau này sẽ cho nó phù tá ngài.”

Đăng Dung về thưa chuyện với mẹ. Người mẹ vui, mắt long lanh tin tưởng. Mẹ nói: “Ngày mẹ thụ thai con, măi tháng thứ mười bốn, con mới chào đời. Đêm trước hôm sinh con, mẹ mơ thấy thần nhân báo mộng, Ngọc Hoàng thấy vợ chồng ngươi nhân đức nên cho Tứ Quư Hoàng Đế xuống đầu thai ở cửa nhà ngươi...”.

Từ ngày ấy, Dung tự cảm thấy khác xưa. Dung chăm chỉ luyện vơ, lại chịu khó đọc sách thánh hiền. Năm sau, Dung thi vơ đỗ Đô Lực Sĩ. Trải qua mấy triều vua, hoạn lộ thăng tiến không ngừng. Nay tiến đến chức Quốc Công nắm trọn uy quyền. Mạc Đăng Dung thấy ngai vàng như kề bên, hoàn toàn trong tầm tay của ḿnh.

Mặt sông tĩnh lặng, loang loáng ánh trăng. Mạc Đăng Dung miên man suy nghĩ. Gịng họ Trần ở Sơn Nam xuất thân từ nghề chài lưới, sau dựng nên nghiệp bá. Ngay cả đến vua Thái Tổ nhà Lê, sinh ra trong gia đ́nh nông dân giàu có, tính t́nh hào hiệp, chí khí hơn người, trải mười năm lao khổ cũng đạt ngôi vị đế vương. Xét về gịng tộc, họ Mạc nào thua kém ai? Cả nước ai không biết Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, thông minh tuyệt vời, tài quán thiên hạ đến nỗi vua Trung Quốc phong làm Lưỡng Quốc Trạng Nguyên. Chú ruột Đăng Dung là Trạng Nguyên Mạc Đăng Hùng làm quan dưới triều vua Lê Thánh Tôn. Chú tài kiêm văn vơ, lại luyện được ngón đá cầu tuyệt diệu được vua thương mến. Một hôm, vua dạo thuyền trên sông Thiên Đức xem các quan diễn vơ đá cầu. Trạng Nguyên Đăng Hùng sơ ư đá quả cầu bay sang thuyền ngự, phạm vào vua. Triều thần kết tội khi quân đỏi trảm tử. Thân phụ Dung là Mạc Đăng Thuật, đỗ tiến sĩ đang làm quan đương triều bỏ trốn v́ sợ họa lây. Sau cơn gia biến, gia đ́nh lâm vào cảnh sa sút, Mạc Đăng Dung lớn lên làm nghề chài lưới nuôi mẹ. Dung nghĩ xét riêng mặt này th́ họ Mạc hơn hẳn họ Lê. Chưa kể đến cái thế, Lê Lợi khởi binh ở thế yếu hơn giặc Minh, c̣n Đăng Dung nay nắm lực lượng quân sự mạnh nhất... Kể như không c̣n đối thủ.

Nghĩ như vậy nhưng Dung chưa dám ra tay hành động ngay v́ tin câu sấm: Minh chúa xuất hiện ở phương đông vào năm Hợi, nay mới chỉ năm Tuất. Thời gian chẳng c̣n bao lâu nữa.

Hôm sau, Đăng Dung gọi Phạm Gia Mô bảo:

-Kế sách của ông hay, phải triệt Lê Y xong tùy đó mà liệu tiếp công việc, nhưng nên kín đáo.

Nghe chủ nói, Gia Mô tươi cười:

-Vâng lệnh ngài, vài ngày nữa tôi sẽ hồi kinh.

Trung tuần tháng mười, Gia Mô về kinh bàn với Đô Ngự Sử Nguyễn Mậu kế hoạch giết vua Chiêu Tôn. Mậu mang ơn Mô có lần cứu ḿnh thoát chết. Mậu hăng hái nói:

-Trước tiên, nên ly gián anh em họ Lê. Tôi có sẵn chủ trương, ngài yên ḷng.

Vài hôm sau trong buổi chầu Nguyễn Mậu tâu vua:

-Tâu hệ hạ, huynh trưởng của bệ hạ trước tuy ở ngôi cao, nhưng nay đă bị phế thành Đà Dương Vương. Việc bệ hạ để ngài ở chung trong nội cung e lỗi đạo quân thần. Tạo dị nghị nơi chốn cung đ́nh không phải là việc tốt.

Vua bối rối không muốn ĺa anh, v́ biết anh đang trong t́nh trạng bị ngờ vực, dễ gặp nguy biến. Phạm Gia Mô góp ư:

-Tâu bệ hạ, lời quan Ngự Sử chí lư. Theo ư thần, tại phường Đông Hà ngoại thành Thăng Long có sẵn dinh cơ khá bề thế. Vậy đề nghị Đà Dương Vương ra ở đó là tiện nhất.

Vua gờm Gia Mô v́ biết Mô là người thân tín nhất của Mạc Đăng Dung. Vua hỏi ư quần thần. Mọi người cho ư kiến của Gia Mô là phải.

Trung tuần tháng chạp, một ngày đông giá buốt. Chiêu Tôn ngồi nh́n cảnh gió bấc mưa phùn, ḷng nao nao nôn nóng như có điềm bất tường xảy đến. Bỗng người hầu cận báo Bái Khê Bá Phạm Kim Bảng, tùy tướng của Mạc Quốc Công xin gặp đang chờ ngoài cửa. Trời lạnh nhưng vương bỗng toát mồ hôi. Vương gượng gạo bước ra pḥng ngoài.

Kim Bảng thấy vương cúi chào lễ phép, trao vương một hộp gỗ dài rồi nói:

-Quốc Công sai tôi đến đây chờ ngài thi hành mệnh lệnh, không được tŕ hoăn.

Vương thẫn thờ mở hộp, hốt hoảng nh́n thấy trong hộp có một lưỡi gươm, dải lụa trắng và b́nh độc dược mầu nâu sẫm. Vương được lựa chọn cái chết bằng một trong ba thứ ấy.

Sau một lát chần chờ. vương lấy b́nh thuốc độc, quay về phương nam lạy ba lạy rồi tự sát. Năm ấy vương vừa hai mươi sáu tuổi.

Ngay hôm sau, dân kinh đô nghe tin Đà Dương Vương ngộ cảm chết bất ngờ, được an táng trọng thể, thi hài chôn ở lăng Vĩnh Hưng.

Sau cái chết của anh, vua Cung Hoàng vô cùng hoang mang sợ hăi. Vua có cảm nghĩ ai nấy nh́n ḿnh bằng đôi mắt ḍ xét, ngờ vực. Vua không biết tin cậy ai. Ngoài mặt, vua làm vẻ b́nh thường nhưng trong ḷng như bị xát muối. Vua thương anh bạc mệnh nhưng chẳng hề dám nghĩ đến chuyện báo oán phục hận. Chính sinh mệnh của vua lấy ǵ bảo đảm? Thân phận như con tướng trong bàn cờ sạch không c̣n sĩ tượng che chắn.

Đông tàn xuân qua. Đầu mùa hạ năm Đinh Hợi 1527, vua nghĩ chỉ có cách làm cho Mạc Đăng Dung hiểu vua hoàn toàn tín cẩn, kính phục Đăng Dung, tuyệt không có ư ǵ khác. Vua sai các cựu thần mang cờ tiết, kim sách, mũ áo, ô lọng, đai ngọc, kiệu tía, quạt hoa... và rượu quư đến huyện Nghi Dương tiến phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng Vương. Lại làm thơ ca tụng công đức Đăng Dung, trung nghĩa vẹn toàn, ngh́n thu rạng tiếng, người người noi gương...

Phạm Gia Mô nói với Dung:

-Ngài mưu việc lớn chớ nệ điều nhân nghĩa nhỏ. Nay ḷng dân ngả về ta v́ quá chán ghét chiến tranh do các vua Lê bất lực. Ta nắm trong tay lực lượng quân sự mạnh nhất, cả các chức vụ trọng yếu ở triều đ́nh cũng do người của ta đảm trách. Đám thân vua chỉ c̣n lại các bộ lại, bộ hộ và vài chức vụ lẻ tẻ. Tôi xem vận số nhà Lê không qua nổi mùa hạ. Nhà Lê khác nào như người không c̣n mạch sống, như cây kia chết khô. Ngài chỉ làm việc mai táng cái cơ nghiệp đó, nên thụ mệnh trời là đắc sách. Để lâu ta khó lường được t́nh h́nh.

Gia Mô tŕnh bày tỉ mỉ kế hoạch cướp ngôi. Nghe xong, Đăng Dung chưa vội trả lời. Lúc sau nói với Mô:

-Các ông chuẩn bị kỹ, cuối hạ ta khởi sự.

Đầu tháng sáu, Phạm Gia Mô về triều đ́nh bàn với Binh Bộ Thượng Thư Vũ Hộ, lại cử Đông Các Đại Học Sĩ Nguyễn Văn Thái soạn sẵn chiếu chỉ buộc vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi cho Mạc Đăng Dung.

Ngày rằm tháng sáu, Mạc Đăng Dung bí mật về triều. Trên một vạn quân trấn Hải Dương đặt trong t́nh trạng sẵn sàng ứng chiến.

Buổi chiều, Mô và Thái báo cho chủ tướng biết vua Lê thuận nhường ngôi, chỉ xin bảo toàn mạng sống của vua và hoàng tộc.

Ngay buổi tối, vua Lê truyền lệnh thiết triều bất thường. Hầu hết các quan trong triều thuộc phe cánh Đăng Dung đều rơ chuyện. Một số cận thần vua Lê bồn chồn ngơ ngác.

Trời tối hẳn. Kim Quang Điện đèn đuốc sáng trưng. Sau ba hồi trống chiêng dài, hai viên Tự ban dẫn các đại thần phẩm phục đứng hai bên tả hữu sân rồng. Quận Công Mạc Đốc, em trai An Hưng Vương mặc vơ phục, đeo trường kiếm đứng thế nghiêm gần ngai vua.

Vua Cung Hoàng chậm chạp bước ra, mặc hoàng bào đai ngọc, mũ xung thiên lên ngự tọa. Vài giây yên lặng nặng nề. Quan Tuyên Chiếu từ trong bước ra, quỳ trước mặt vua bắt đầu đọc tờ chiếu nhường ngôi. Đọc đến câu “...Thái Sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung tư chất thông minh, tài kiêm văn vơ..” Lễ Bộầ Thượng Thư Lê Tuấn Mậu lặng lẽ, ngang nhiên bước ra khỏi sân rồng. Quận Công Mạc Đốc trừng mắt định nắm chuôi kiếm, kịp nhận ra Mạc Đăng Dung từ bên trong ra dấu ngưng, nén giận đứng yên.

Quan Tuyên Chiếu đọc xong, hai quan lễ bộ pḥ An Hưng Vương bước ra đứng trước mặt vua. Vua Cung Hoàng cởi hoàng bào, đội mũ xung thiên cho tân vương rồi lui vào trong. Người ta nghe rơ có tiếng khóc nấc trong đám đại thần. Thượng Thư Bộ Hộ Nguyễn Thiệu Trí, quan Thượng Tể Lê Tuấn Kiệt bỏ mũ áo trên thềm bước ra ngoài. Vài vị quan nối gót theo.

Mạc Đăng Dung, giờ chính thức là vua Thái Tổ nhà Mạc vẫn ngồi yên lặng trên ngai vàng. Những giây phút nặng nề nghẹt thở. Chờ không c̣n ai bước ra, vua Mạc ra lệnh quan Tuyên Chiếu đọc chiếu chỉ đầu tiên của triều đại mới. Vua đặt niên hiệu Minh Đức. Ra lệnh đại xá, thi ân bố đức toàn thiên hạ, những mong mở đầu buổi thịnh trị, vận nước lâu dài, hưởng thụ vững bền phúc lộc.

Triều thần phủ phục cung bái, chúc Hoàng Thượng trường thọ muôn năm.

Vua gia phong trên năm mươi công thần, hạ chiếu giáng vua Cung Hoàng xuống làm Cung Vương, bắt dời đến ngụ tại Tây Cung.

Cơ nghiệp nhà Lê, từ vua Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng chấm dứt sau một trăm năm trị v́ nước Đại Việt. Vào rạng sáng ngày mười sáu tháng sáu năm Đinh Hợi 1527.

 

 

Dù đă xuống chiếu trấn an các cựu thần nhà Lê, sẵn sàng bỏ qua quá khứ nhưng vương triều nhà Mạc vẫn không tránh khỏi bị ngờ vựỳc. Tin đồn về số phận bi thảm của những cựu thần chống đối vẫn ngầm loan trong dân.

Trước tiên là Lễ Bộ Thượng Thư Lê Tuấn Mậu.

Tuấn Mậu đỗ tiến sĩ, làm quan từ thời vua Lê Thánh Tôn, nổi tiếng liêm chính, sức ăn mỗi bữa bằng mười người thường. Có lần Mậu khuyên Chiêu Tôn không nên dùng Mạc Đăng Dung v́ nhận ra Dung có tướng phản chủ.

Sau hôm bỏ triều đ́nh, Tuấn Mậu về dinh lệnh cho toàn gia trở về quê thuộc huyện Yên Phong, trấn Kinh Bắc. Vua Mạc cho sứ gọi về triều. Mậu nhổ vào mặt sứ giả, cả tiếng sỉ nhục nhà vua, sau đó đập đầu vào cột tự sát. Vua nghe tin thương cảm người trung nghĩa, thảo sắc phong tặng kẻ quá cố làm Phúc Thần. Sắc phong rước về đến đầu làng th́ bị sét đánh cháy. Người ta bảo anh linh quan Thượng Thư sống không chịu làm tôi nhà Mạc th́ chết quyết không nhận sắc phong.

Số phận quan Thượng Tể Lê Tuấn Kiệt cũng thế. Bỏ về quê nhà thuộc huyện Hoằng Hóa trấn Thanh Hóa, Kiệt tụ tập khoảng vài trăm người nổi lên chống nhà Mạc. Nhà vua cho sứ giả đến chiêu dụ, Tuấn Kiệt ném nghiên mực vào mặt sứ giả rồi đuổi về. Vua cho quân bao vây, Tuấn Kiệt mở đường rút chạy bị bắn chết.

Hộ Bộ Thượng Thư Nguyễn Thiệu Trí cũng trở về quê. Giận con trai trưởng ra làm quan nhà Mạc, Thiệu Trí lập bàn thờ tạ tội với nhà Lê rồi uống thuốc độc tự sát.

Hai nhân vật được chú ư nhất vẫn là Lê Cung Hoàng và bà Thái Hậu. Nhà vua nay bị giáng làm Cung Vương. Hai mẹ con cùng ở Tây Cung.

Ngay buổi chiều nhường ngôi, Tú Vương Mạc Đốc, em ruột vua nhà Mạc đến hỏi Cung Vương về hộp ấn tín. Cung Vương định lấy nộp nhưng t́m không thấy, hộp ấn tín không cánh mà bay. Vương đâu ngờ Trạng Nguyên Vũ Duệ thấy Đăng Dung cướp ngôi vua, lén mang ấn tín trốn mất.

Vương nói thật t́nh, Mạc Đốc không tin, lại cho vương c̣n nuối chí phục hận, có thái độ khiêu khích. Mạc Đốc quyết hạ nhục vương. Từ ngày ấy, vương hoàn ṭan bị cô lập. Hàng ngày vẫn có lính canh mang cơm ba bữa, nhưng nếu vương hỏi điều ǵ th́ tuyệt không ai dám trả lời. Rồi dần dần chỉ c̣n hai bữa sớm chiều, thậm chí có hôm bị bỏ đói. Vương yên lặng nuốt hận. Thái Hậu thường oán than khóc lóc.

Một hôm, Mạc Đốc vào cung thấy Cung Vương thơ thẩn ngoài hành lang, h́nh dung tiều tụy. Đốc nghiêm nghị nói:

-Ngài c̣n nhớ chuyện ngày xưa giữa Thái Sư Trần Thủ Độ và vua Lư Huệ Tôn?

Rồi không đợi Cung Vương trả lời, Mạc Đốc nói tiếp:

-Thái sư nhắc vua: Bệ hạ làm cỏ nhớ nhổ sạch rễ.

Mạc Đốc nói xong bỏ đi.

Cung Vương thẫn thờ, hiểu ư người ta muốn giết ḿnh. Đêm ấy, vương thắt cổ tự vẫn.

Sau ngày con chết, Thái Hậu hóa điên. Bà bỏ không ăn, thỉnh thoảng trong đêm khuya, lính gác thấy người đàn bà xơa tóc bám trên thành cửa sổ khóc than la hét, gọi đích danh Mạc Đăng Dung nguyền rủa cho đến khi mất tiếng. Mấy ngày sau, Tây Cung lại ch́m trong yên lặng, toán lính gác đă bỏ đi.

Thời gian trôi. Cuộc sống tương đối yên ổn làm người dân dần quên chuyện cũ. Kinh đô hồi sinh sau bao năm biến loạn, phố phường lại nhộn nhịp người mua kẻ bán.

Ba năm sau, tháng chạp năm Kỷ Sửu 1529, Thái Tổ nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, lui về ở tại quê nhà. Vua nói chỉ muốn vui bên sông nước, nh́n đàn cá vẫy lội tung tăng, hưởng thú thanh nhàn thả thuyền đi câu trên gịng sông thời thơ ấu.

Đăng Doanh lên ngôi tức Mạc Thái Tôn. Tôn phong vua cha làm Thái Thượng Hoàng.

Mạc Thái Tôn hiền ḥa thông minh, chăm lo phát triển kinh tế, ổn định xă hội, mở nhiều khoa thi tuyển chọn nhân tài. Ai cũng nghĩ mầm chống đối của con cháu và cựu thần nhà Lê đă tàn lụi. Nào ngờ, vẫn có người nuôi chí phục hận họ Mạc, dựng lại cơ nghiệp nhà Lê: Đó là An Thành Hầu Nguyễn Kim, con trai trưởng của An Ḥa Hầu Nguyễn Hoằng Dụ, người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa.

Sau cái chết của vua Cung Hoàng và các cựu thần chống đối, Nguyễn Kim nhận ra vua Mạc vô cùng thủ đoạn, chơi tṛ chó săn khóc thỏ. Kim nghĩ không thoát thân sớm sẽ mang họa vào thân, bèn bí mật dẫn hàng trăm thủ hạ trốn sang xứ Sầm Châu, thuộc nước Ai Lao nương nhờ vua Xạ Đẩu.

Dần dần Nguyễn Kim có số quân cả ngh́n người. Kim vừa luyện quân, vừa lo sản xuất dự trữ lương thảo.

Năm Ất Mùi 1535, xứ Sầm Châu bị hạn mất mùa, quân lính chỉ được ăn sắn khoai. Nguyễn Kim cùng con rể là Tả tướng quân Trịnh Kiểm về huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa t́m cách phát triển lực lượng, vận chuyển lúa sang Ai Lao. Kiểm cũng người Vĩnh Lộc, giỏi vơ nghệ, lại thêm mưu trí sức mạnh, từng tay không đánh chết cọp dữ.

Trời ngả bóng, Nguyễn Kim muốn dừng chân nghỉ tại chùa làng Nhân Lộ tránh người ḍm ngó. Sư cụ Viên Chân, trụ tŕ chùa với thân phụ Kim vốn thâm giao. Riêng Nguyễn Kim trước kia đă đôi lần gặp sư.

Sư Viên Chân mồ côi cha, hằng mong qui y từ thuở thiếu thời. V́ thương không nỡ bỏ mẹ một ḿnh, sư lo học hành đỗ đạt làm quan đúng ư mẹ mong. Năm hai mươi lăm tuổi, sư đỗ tiến sĩ, làm quan dưới thời Lê Thánh Tôn. Hai mươi năm trên hoạn lộ, sư nổi tiếng thanh liêm chính trực, sống như kẻ tu hành, không lập gia đ́nh.

Đến đời Lê Uy Mục, thấy vua bạo ngược. Nhân thân mẫu mất, sư lấy cớ về cư tang rồi từ quan, nương náu nơi cửa Phật.

Hai mươi năm sau, vị Ḥa Thượng trụ tŕ viên tịch. Thấy sư đạo hạnh cao thâm, quan dân trọng nể, chúng tăng trong chùa tôn sư lên thay thầy cai quản ngôi chùa.

Từ ngày ấy, thiện nam tín nữ trong những ngày sóc vọng, nô nức đến chùa nghe sư giảng kinh, chăm lo làm công quả. Sư mua thêm đất, buộc chúng tăng phải làm việc như mọi người. Chính sư hàng ngày cũng ra đồng làm việc, tránh tiếng trốn việc quan đi ở chùa.

Lúa gạo nhà chùa làm ra tích trữ trong kho, pḥng năm đói kém mất mùa lại đem phát chẩn. Được nhiều người ca tụng, sư ôn tồn bảo đừng nên, ta chẳng hề mong mang danh đạo tạo danh đời.

Một chiều nọ đứng trước hiên, sư thấy hai người khách dẫn ngựa vào sân chùa. Nh́n kỹ, sư nhận ra một trong hai là Nguyễn Kim. Sư vui vẻ đón khách, làm cơm thết đăi.

Tối hôm ấy trăng vừa lên, sư và Nguyễn Kim ngồi uống trà dưới mái hiên chùa. Sư nói:

-Thời gian như thoi đưa, An Ḥa Hầu măn phần thoắt đă gần mười năm. Phần tướng quân chắc bận việc triều chính, măi nay mới về thăm quê hương, lại ghé văn cảnh chùa thăm kẻ tu hành. Xưa ta với quan hầu đôi lúc vẫn ngồi đây đàm đạo. Cảnh cũ c̣n mà người xưa mất, khiến ta bùi ngùi tấc dạ.

Nguyễn Kim trầm ngâm, nói:

-Thế sự đảo điên, họ Mạc cướp ngôi nhà Lê. Cựu thần đôi người lấy cái chết báo đền ơn vua lộc nước, thề chẳng đội trời chung với lũ gian thần tặc tử. Từ ngày ấy, tôi lưu lạc đất khách quê người, sang nước Ai Lao nương nhờ vua Xạ Đẩu, chiêu binh măi mă chờ cơ hội dựng lại nghiệp Lê. Cảm tạ hoàng thiên, tôi đă ra công t́m kiếm, lập được người con cả của vua Chiêu Tôn lên ngôi. Ngài là Lê Trang Tôn, hành dinh đặt tại Sầm Châu. Ngài phong tôi chức Thái Sư Hưng Quốc Công. Nay số quân dưới tay ước tới vài ngh́n, tôi nghĩ chẳng c̣n bao lâu nữa đoàn quân trung hưng sẽ về lại Tây Đô, cơ nghiệp nhà Lê không thể tận được. Bọn chó lợn Mạc Đăng Dung, cha con gịng họ nhà nó sẽ không c̣n đất sống.

-Mừng tướng quân chức trọng quyền cao.

Sư ngừng, cúi xuống như suy nghĩ, dịu giọng:

-Rồi lại đao binh, nước Việt ta bao năm là chiến địa, núi xương sông máu, oan khiên chập chùng.....

Nguyễn Kim nói hơi gay gắt:

-Thầy đă từng là tôi nhà Lê, từng đọc sách thánh hiền tất hiểu hết nghĩa trung quân ái quốc.

Sư không trả lời thẳng, ôn tồn nói đến chúng sinh, đến khổ đau và hạnh phúc. Chiến tranh mang lại vinh quang hạnh phúc cho một người nhưng được đổi bằng đau khổ bất hạnh của hàng vạn người khác. Sư tiếp:

-Đức Thái Tổ khai sáng cơ nghiệp nhà Lê, các minh quân kế tiếp nối nghiệp tổ phụ, chăm lo cho dân giàu nước mạnh. Đó là thời hưng thịnh. Đến đời Uy Mục Đế, rồi Tương Dực, Chiêu Tôn và Cung Hoàng. Cái mầm loạn do đâu nảy sinh? Ai có trách nhiệm? Họa diệt vong là lẽ thường. Nước Việt của dân Việt, có triều đại nào tồn tại măi. Nào Lư, Trần, Lê. Nay đến họ Mạc. Đó là cơ trời vận nước. Nếu những người thực tâm tôn phù nhà Lê, quyết ḷng trung quân ái quốc, sao không nghĩ cách cứu cơ nghiệp ấy ngay khi có dấu hiệu suy vong từ thời Lê Uy Mục? Ta chỉ thấy các quyền thần tranh cướp, mưu bá đồ vương, mỗi người hùng cứ một phương, tranh dành quyền lực, xâu xé lẫn nhau. Có ai coi uy quyền hoàng đế ra ǵ. Đến khi những xác chết bạo quyền bị chôn vùi, sao không lăng quên, lại muốn làm cho nó hồi sinh, lại muốn nó tiếp tục tác quái nữa ư? Dân đen thấp cổ bé miệng, triều đại nào với họ cũng thế thôi. Dân chỉ mong có đấng minh quân đem lại ấm no hạnh phúc. Ta là kẻ tu hành, là con dân Việt. Tổ quốc trên hết, lẽ nào lại thờ ơ trước mệnh nước nổi trôi. Ta phải nói lên sự thật. Mấy năm nay dân vui hưởng thái b́nh, đêm ngủ mở cửa, của rơi ngoài đường không ai nhặt, gia súc buổi tối vẫn ở ngoài đồng. Tuyệt không c̣n trộm cướp. Đó có phải thời thịnh trị? Ai thay đổi cảnh thái ḥa là xoay ngược bánh xe lịch sử.....

Nguyễn Kim cắn chặt hàm răng toan rút gươm rồi lại thôi. Kim cố nén giận, đứng phắt dậy bước ra sân chùa.Sư cụ ngồi lặng lẽ nh́n hai bóng người phi ngựa ch́m trong màn đêm. Tiếng vó ngựa vang vang rồi tắt dần.....

ĐỖ HÙNG

 

 

 

 

 


 

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 



 

 

Your name:


Your email:


Your comments: