LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU
THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU
THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ
KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA
NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Lời giới thiệu của dịch giả: Từ lâu nhiều người chúng ta
đă quan tâm tới vấn đề Việt Nam nên theo mô h́nh CNXH nào? Năm 1981 cụ
Phạm Văn Đồng từng nói: “Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi thấy ta không theo
được Mô h́nh Xô Viết” (xem “Văn hóa Việt Nam, t́m ṭi và suy ngẫm”, tr.
923, Trần Quốc Vượng). Lại nghe nói ông Vũ Oanh (nguyên UV BCT) có đề
nghị nghiên cứu về mô h́nh CNXH Thụy Điển. Người Trung Quốc đă nghiên
cứu nhiều, từ năm 2002 họ bắt đầu cho công khai đăng một loạt bài về mô
h́nh này. Đảng CSTQ từ những năm 1980 đă cử các đoàn cán bộ sang Thụy
Điển khảo sát và do đó có bài giới thiệu sau đây. Sau đó năm 2008 Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào chính thức thăm Thụy Điển. Hồi đó có dư luận Trung Quốc
sẽ theo mô h́nh CNXH Thụy Điển. Nhưng cuối cùng th́ phe phản đối đă
thắng với lư do chủ yếu là làm như thế th́ ĐCSTQ sẽ mất quyền lănh đạo
đất nước – đây là quyền lợi sống chết không thể để mất. Tuy nhiên, dù mô
h́nh CNXH Thụy Điển v́ thế vẫn là vấn đề “nhạy cảm”, nhưng là một thực
tế cần được bàn đến v́ lợi ích của dân tộc.
Vương quốc Thụy Điển nằm ở đông nam bán đảo Scandinavia
thuộc Bắc Âu. Vào năm 1889, khi thành lập Đảng Xă hội Dân chủ Thụy
Điển,[1] vương quốc này c̣n là một trong những nước lạc hậu nhất châu
Âu, người ta gọi là nước của cướp biển, phần lớn dân vốn là cướp biển và
tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây cùng các hậu duệ của họ. Kinh tế
Thụy Điển ngày ấy c̣n lạc hậu rất nhiều so với nước Nga hồi Cách mạng
Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xă hội Dân chủ (XHDC) Thụy
Điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có một số thời kỳ gián
đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lănh đạo đất nước lâu hơn cả. Trong
thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, là thời gian được tác giả
khảo sát), Đảng XHDC đă xây dựng Thụy Điển từ một nước lạc hậu trở thành
một nước kinh tế phát triển,[2] đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu
người (sau Thụy Sĩ); và thứ nhất thế giới về phúc lợi xă hội, chứng tỏ
sự xă hội hoá phân phối đă đạt tŕnh độ rất cao.
Trên đây là tóm tắt nội dung chính của bài “Một số điểm
chính trong bản Báo cáo khảo sát đến muộn” (sau đây viết tắt là Báo cáo
Khảo sát). Tác giả báo cáo này là đồng chí Dương Khải Tiên, năm 1985 và
1988 từng hai lần đến Thụy Điển tiến hành khảo sát. Thu hoạch tổng quát
của tác giả là: “Đối với chủ nghĩa xă hội (CNXH) kiểu Thụy Điển, nhiều
năm qua, chúng ta chẳng những luôn luôn cho là đối lập với quan điểm
chính thống, giữ thái độ phê phán nghiêm khắc, mà thậm chí cho tới ngày
nay, trong suy nghĩ của mọi người nói chung vẫn khẳng định th́ ít mà phủ
định th́ nhiều. Thực ra, như vậy là không công bằng. Nếu phân tích một
cách thực sự cầu thị, ta sẽ không khó phát hiện thấy: ngoài những vấn đề
chính trị c̣n tranh căi, tạm thời chưa thể đưa ra một kết luận đa số
chúng ta có thể đồng ư, th́ thành tích của Thụy Điển về kinh tế là rất
lớn, xét về những ǵ mà CNXH của Mác [Karl Marx] yêu cầu phải có, dù là
về mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân,
hoặc là về mặt thực hiện công bằng xă hội, phân phối công bằng, bảo đảm
quyền lợi nên có của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.”
Bài Báo cáo Khảo sát này được đăng tải trên một tạp chí
có số lượng phát hành nhỏ, và đầu đề ghi rơ là “đến muộn” (khảo sát vào
thập kỷ 80 thế kỷ XX mà đến tháng 3/2002 mới được sửa chữa cho đăng).
Điều đó nói lên, cho tới nay, vấn đề tiến lên mô h́nh CNXH kiểu Thụy
Điển vẫn là một đề tài nhạy cảm. Theo tôi, Báo cáo Khảo sát đă đăng báo
rồi, hơn nữa ngày nay xem ra vấn đề này thực sự không cần phải né tránh;
thế th́ ta hoàn toàn có thể thảo luận và b́nh phẩm bài báo đó một cách
công bằng ngay thẳng, thực sự cầu thị, nhất là về mặt lư luận.
Bối cảnh lịch sử và phác thảo lư luận về hai mô h́nh tiến
lên chủ nghĩa xă hội
Về lư luận, trước hết hăy nên bắt đầu nói về t́nh h́nh từ
cách mạng Pháp 1848 – 1850 cho tới sau Công xă Paris. Như vậy, chúng ta
sẽ phải ra ngoài đề một chút, sau đó mới trở lại vấn đề mô h́nh CNXH
Thụy Điển.
Trong một thời gian rất dài sau Cách mạng Tháng Mười Nga,
các nhà lư luận Liên Xô bao giờ cũng đề cao quá mức Công xă Paris, coi
nó là h́nh mẫu cách mạng XHCN của giai cấp vô sản. Thực ra không phải là
như vậy. Trong một thời gian sau năm 1848, đúng là Mác và Ăng-ghen
[Friedrich Engels] từng cho rằng đă xuất hiện t́nh thế cách mạng trong
các nước phương Tây chủ yếu, do đó hai vị đă tích cực hoạt động v́ sự
nghiệp cách mạng này. Nhưng qua thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và
sau thực tế là các nước tư bản mấy lần b́nh yên vượt qua khủng hoảng
kinh tế, sức sản xuất vẫn được phát triển khá, Mác và Ăng-ghen bắt đầu
cảm thấy sự việc không như những ǵ hai vị đă dự kiến ban đầu, thời cơ
cách mạng vẫn c̣n chưa chín muồi.
Năm 1850, khi tổng kết kinh nghiệm cách mạng Pháp, Mác đă
chỉ rơ: “Khi sức sản xuất xă hội của giai cấp tư sản đang phát triển
mạnh với tốc độ có thể đạt được trong toàn bộ phạm vi quan hệ của giai
cấp tư sản, th́ chưa thể nói ǵ đến một cuộc cách mạng thực sự.” Trong
cuộc chiến tranh Pháp-Phổ năm 1871, giai cấp công nhân Paris nhân cơ hội
đánh trả bọn xâm lược và chống hành vi đầu hàng của giai cấp tư sản, đă
vùng lên khởi nghĩa và áp dụng các biện pháp có tính chất XHCN (hai phái
lănh đạo chính cuộc khởi nghĩa này là phái Lat-xan và phái
Pơ-ru-đông).[3] Khi đó Mác không tán thành cuộc khởi nghĩa này, cho rằng
thời cơ chưa chín muồi. Nhưng sau khi công nhân Paris phát động khởi
nghĩa rồi th́ Mác không dội gáo nước lạnh lên họ, mà nhiệt t́nh ủng hộ
và ca ngợi tinh thần dũng cảm của thợ thuyền Pháp, cho rằng Công xă
Paris của giai cấp công nhân Pháp là người tiên phong vẻ vang của xă hội
mới, sẽ măi măi được kính trọng. Đồng thời, Mác c̣n tổng kết sâu sắc các
bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng công nhân đầu tiên này, đề ra
không ít ư kiến chỉ đạo có ư nghĩa quan trọng.
Cần vạch rơ là, khi tổng kết kinh nghiệm Công xă Paris,
Mác từng nói một câu: “Không phải là giai cấp công nhân muốn thực hiện
một lư tưởng ǵ, mà chỉ muốn giải phóng những nhân tố xă hội mới được
ươm trồng trong chính cái xă hội của giai cấp tư sản đang sụp đổ.” Điều
này cũng có nghĩa là thời cơ cách mạng của giai cấp công nhân đă chín
muồi chưa, hoặc có thể thực hiện được xă hội XHCN hay không, vấn đề này
hoàn toàn được quyết định bởi các nhân tố xă hội mới được uơm trồng
trong xă hội tư sản (chủ yếu là sự phát triển cao của sức sản xuất, dân
chủ hoá nền chính trị xă hội và toàn bộ nền văn minh đạt tới tŕnh độ
cần thiết).
Sau Công xă Paris, Mác tập trung sức lực chủ yếu vào việc
hoàn thành bộ “Tư bản” và tiếp tục nghiên cứu lịch sử phát triển xă hội
loài người. Phần lớn nhiệm vụ chỉ đạo thực tế phong trào cách mạng là do
Ăng-ghen đảm nhiệm. Năm 1883, Mác từ trần. Trách nhiệm của Ăng-ghen càng
nặng hơn. Không nghi ngờ ǵ nữa, “Chủ nghĩa Mác”, mà cho tới nay ta vẫn
nói, là do Mác và Ăng-ghen cùng sáng lập nên. Sau Cách mạng Tháng Muời
và sau khi Lê-nin qua đời, chúng ta lại tiếp thu từ Liên Xô cách nói
“Chủ nghĩa Mác – Lê-nin”. Cách nói này thực tế làm mờ nhạt vai tṛ của
Ăng-ghen (tuy không phủ định Ăng-ghen). Tôi cho rằng, nếu Lê-nin c̣n
sống cũng không thể tiếp thu cách nói ấy. Tác giả Báo cáo Khảo sát cho
chúng ta biết, tác giả đă nghe thấy cách nói “Chủ nghĩa Mác Ăng-ghen” từ
chính miệng những người của Đảng XHDC Thụy Điển. Tôi cho rằng cách nói
đó là phù hợp với sự thật lịch sử. Không bao giờ được tách rời Mác và
Ăng-ghen kia mà! “Chủ nghĩa Lê-nin” là một chuyện khác, vấn đề này ta sẽ
bàn sau. Điều cần nói ở đây là, sau khi Mác qua đời, Ăng-ghen đă quán
triệt chủ trương cách mạng của hai người vào phong trào công nhân quốc
tế như thế nào. Đây là trang sử rực rỡ nhất trong cuộc đời Ăng-ghen.
Trong những năm cuối đời, Ăng-ghen luôn gắn ḿnh với số phận của phong
trào xă hội dân chủ quốc tế.
Như bạn tôi là ông Từ Lâm viết trong cuốn sách ông chủ
biên Ăng-ghen và thời đại hiện nay, sau khi Công xă Paris 1871 thất bại,
phong trào công nhân quốc tế từng có thời gian rơi vào thoái trào, tới
cuối thập kỷ 1870, đầu thập kỷ 1880 phong trào này mới bắt đầu hoạt động
hăng hái, chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng răi. Trên cơ sở đó, nhiều
nước Âu Mỹ như Đan-mạch, Bỉ, Tây-ban-nha, Hà-lan, Ư, Na-uy, Áo, Thụy
Điển, Hung-ga-ri, Đức, Pháp, Anh, Mỹ v.v… lần lượt thành lập các chính
đảng công nhân. Lúc đó, các đảng này phần lớn lấy tên là đảng Xă hội dân
chủ, đảng Xă hội hoặc đảng Công nhân (Công đảng), mà không lấy tên là
đảng Cộng sản. Điều này có liên quan với quan điểm của Ăng-ghen. Trong
một bức thư gửi cho bạn vào tháng 2.1894, Ăng-ghen viết: “Tôi cho rằng
từ Chủ nghĩa Cộng sản hiện nay không thích hợp sử dụng phổ biến. Tốt
nhất là lưu nó lại cho tới khi nào cần phải có sự biểu đạt một cách
chính xác hơn hăy dùng. Cho dù tới lúc đó cũng cần phải chú thích thêm,
v́ trên thực tế, đă 30 năm nay không dùng từ này.”
Vấn đề trên có một chút lai lịch, nay nhắc lại là không
thừa. Tháng 7/1898, dưới sự đề xướng của Ăng-ghen, đảng XHDC Đức và đảng
Công nhân Pháp đă triệu tập các đảng công nhân của 22 nước tham gia đại
hội đại biểu những người XHCN quốc tế. Đó chính là tổ chức về sau được
người ta gọi là “Quốc tế thứ II“. Thật ra tổ chức này rất lỏng lẻo,
không lập ra bất cứ cơ quan lănh đạo nào (trước đó, Hiệp hội Công nhân
quốc tế về sau được gọi là “Quốc tế thứ I” có lập một Uỷ ban chung),
ngay cả quy chế họp định kỳ cũng không có. Các đảng dự đại hội xác nhận
lấy học thuyết Mác Ăng-ghen làm cơ sở tư tưởng, nhưng tiến hành hoạt
động một cách độc lập tự chủ.
Nói đến tư tưởng chỉ đạo ngày ấy, không thể không nhắc
tới bài viết năm 1894 của Ăng-ghen (một năm trước ngày qua đời) “Lời nói
đầu cuốn Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ năm 1848 đến năm 1850 của Các
Mác”. Khi đề cập tới các sai lầm của Mác và Ăng-ghen trong dự kiến t́nh
h́nh cách mạng từ 1848 trở đi, bài này viết: “Lịch sử cho thấy chúng tôi
cũng từng sai lầm, để lộ ra cách nh́n của chúng tôi lúc đó chỉ là ảo
tưởng.” “Lịch sử thể hiện rơ là t́nh trạng phát triển kinh tế ở đại lục
châu Âu ngày ấy c̣n xa mới chín muồi tới tŕnh độ có thể quét sạch nền
sản xuất tư bản”, chủ nghĩa tư bản “c̣n có khả năng phát triển rất lớn”.
Căn cứ vào điều kiện lúc đó, đặc biệt là kinh nghiệm mới nhất của đảng
XHDC Đức, Ăng-ghen đă suy xét lại sách lược đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhấn mạnh đề ra chủ trương giai cấp công nhân nên lấy việc sử dụng
quyền bỏ phiếu bầu cử làm “vũ khí mới – một trong những thứ vũ khí sắc
bén nhất”, và nói rơ: “Từ lâu, Tuyên ngôn của đảng Cộng sản từng tuyên
bố, giành lấy quyền bỏ phiếu, giành dân chủ, là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của giai cấp vô sản chiến đấu.” Đồng thời tuyên bố
các đồng chí chúng ta tuyệt đối không v́ thế mà “vứt bỏ quyền làm cách
mạng (Ang-ghen nói rơ: dĩ nhiên, điều đó bao gồm quyền làm cách mạng bạo
lực — chú thích của Ngô Giang). Cần biết rằng, quyền làm cách mạng bao
giờ cũng là “quyền lợi lịch sử” chân chính duy nhất.”
Sau khi Ăng-ghen qua đời, Lip-nếch,[4] một nhà lănh đạo
đảng XHDC Đức đánh giá Ăng-ghen như sau: “Người vừa là người chỉ đường,
lại là người dẫn đường, vừa là lănh tụ, vừa là chiến sĩ. Ở Người thể
hiện sự kết hợp lư luận với thực tiễn.” Lịch sử chứng minh sự đánh giá
này là hoàn toàn công bằng.
Mấy chục năm trước và sau ngày Ăng-ghen qua đời, thế giới
tư bản ở vào thời kỳ phát triển b́nh ổn. Phần lớn các đảng công nhân Âu
Mỹ đều hoạt động công khai, có thể ra sức lợi dụng vũ khí bỏ phiếu bầu
cử. Bước sang thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản lại rơi vào cuộc khủng hoảng
mới, dẫn đến Thế chiến I. Cuộc chiến tranh này làm cho Quốc tế II bị
chia rẽ mạnh – xuất hiện sự đối lập của hai phái, gọi là phái “bảo vệ tổ
quốc” và phái “biến chiến tranh đế quốc thành chiến tranh cách mạng”.
Lê-nin đề xuất chủ trương của phái thứ hai. Khi đó, ngoài nước Nga dưới
sự lănh đạo của Lê-nin đă tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Mười
ra, các nước (hoặc vùng) Phần-lan, Đức, Áo, Hung, Italy cũng lần lượt
bùng nổ cách mạng và giành được thắng lợi tạm thời, cục bộ, nhưng cuối
cùng đều thất bại. Duy nhất chỉ có cách mạng XHCN Nga thành công. Do đó
sinh ra tên gọi “chủ nghĩa Lê-nin” (việc này xảy ra sau khi Lê-nin qua
đời), và có sự đối lập giữa “Quốc tế II” và Quốc tế III”. Từ đó có hai
phái là phái “chủ nghĩa Lê-nin” và phái “chủ nghĩa xă hội dân chủ”. Kèm
theo, xuất hiện hai loại mô h́nh tiến lên chủ nghĩa xă hội.
Ở đây, ta không bàn về sự đấu tranh giữa hai phái trên
(trong đó, chống chủ nghĩa xét lại là một nội dung chính), cũng không
bàn về thành tích hoặc thất bại và các bài học kinh nghiêm của CNXH ở
Liên xô và các nước XHCN khác cùng mô h́nh. Chúng tôi chỉ muốn nói khái
quát về phong trào xă hội dân chủ ở Tây Âu, và cũng chỉ nói rất vắn tắt
(v́ ở đây cũng không bàn riêng vấn đề này, vấn đề đó cần một bài viết
khác). Sau Thế chiến I, năm 1919, thành lập “Quốc tế III” (tức Quốc tế
Cộng sản); năm 1923, “Quốc tế II” khôi phục hoạt động, và đổi tên là
“Quốc tế đảng Xă hội”.[5] Từ đó trở đi, trong phong trào công nhân Tây
Âu h́nh thành sự đối lập giữa hai thế lực nói trên (tức giữa một bên là
các đảng Cộng sản với một bên là các đảng XHDC và các đảng Xă hội),
nhưng ưu thế và ảnh hưởng chủ yếu là ở phía các đảng XHDC và đảng Xă
hội, v́ các đảng này không những chỉ lôi kéo được tuyệt đại đa số công
nhân, mà lư luận và hoạt động của họ tương đối hợp với tâm lư của quảng
đại các tầng lớp trung gian và trí thức ở các nước tư bản; giai cấp tư
sản cũng tương đối có thể tiếp thu.
Ở đây, ta chưa nói về t́nh h́nh phức tạp vừa đấu tranh
vừa hợp tác giữa hai thế lực nói trên (trong thời gian chiến tranh chống
phát-xít, hợp tác là chủ yếu), mà chính bản thân các đảng tham gia phong
trào xă hội dân chủ trong phạm vi của Quốc tế Xă hội (các đảng XHDC và
các đảng Xă hội) cũng rất phức tạp. Chủ trương của các đảng này không
hoàn toàn nhất trí với nhau, ngoại trừ việc tất cả đều phủ định cách
mạng bạo lực và nói chung đều tiếp thu CNXH dân chủ. Lúc đầu, nh́n chung
c̣n tuân theo cương lĩnh của đảng XHDC Đức được soạn thảo dưới sự chỉ
đạo của Ăng-ghen năm 1889, khi thành lập Quốc tế II. Về sau th́ mỗi đảng
đi một đường: có đảng tương đối cấp tiến; có đảng tương đối ôn hoà; có
đảng tiếp tục giương ngọn cờ chủ nghĩa Mác; có đảng lại vứt bỏ ngọn cờ
này mà chủ trương đa nguyên hoá tư tưởng chỉ đạo (trong đó có cả chủ
nghĩa Mác), và chủ trương tư tưởng XHCN bắt nguồn từ nhiều con đường; có
đảng vẫn coi ḿnh là chính đảng của giai cấp công nhân, có đảng lại nói
ḿnh là đảng của nhân dân hoặc đảng của dân tộc; có đảng chủ trương hợp
tác với đảng cộng sản trong nước ḿnh; có đảng lại phản đối sự hợp tác
đó, v.v… Một số đảng đă không dưới một lần cải tổ hoặc xây dựng lại, về
khuynh hướng, cũng trước sau khác nhau. Nhưng nói tổng quát, bản tuyên
ngôn công bố năm 1951, khi Quốc tế Xă hội[6] tổ chức lại, về đại thể có
thể coi là một khuynh hướng có tính tiêu biểu.
Tuyên ngôn này viết: “Dù là người của đảng Xă hội xây
dựng niềm tin của ḿnh theo phương pháp phân tích xă hội của chủ nghĩa
Mác, hoặc theo các phương pháp khác, dù là họ tiếp nhận sự gợi ư của
nguyên tắc tôn giáo hoặc của nguyên tắc nhân đạo, tất cả họ đều phấn đấu
v́ mục tiêu chung. Mục tiêu đó là một chế độ phân phối xă hội công bằng,
đời sống tốt đẹp, tự do và thế giới hoà b́nh.” Ở đây chưa viết rơ mục
tiêu phấn đấu là chủ nghĩa xă hội, thế nhưng “Tuyên ngôn thành lập Quốc
tế xă hội” hồi thập kỷ 20 thế kỷ XX từng khẳng định mục tiêu này, và nói
rơ: “Mục đích của chủ nghĩa xă hội là giải phóng mọi người ra khỏi sự lệ
thuộc vào một thiểu số người chiếm hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất.
Mục đích của nó là giao quyền kinh tế cho toàn thể nhân dân, tiến tới
xây dựng một xă hội khiến cho mọi con người tự do đều có thể, với địa vị
b́nh đẳng, cùng làm việc với nhau trong xă hội.”
Cho nên, nh́n chung, phải chăng có thể nói là: phong trào
CNXH dân chủ Tây Âu (hoặc gọi là “phong trào xă hội dân chủ”, đều như
nhau) hiện đang t́m kiếm một con đường khác để tiến lên CNXH (khác với
con đường của Cách mạng Tháng Mười)? Hoặc nói là, phong trào này từng
bước ươm trồng các nhân tố XHCN trong cái bào thai tư bản chủ nghĩa, để
bằng cách tiệm tiến (từ tích luỹ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
chất từng phần, rồi đến thay đổi về chất cuối cùng) sáng tạo nên một
h́nh thái mới của xă hội XHCN? Theo tôi, có thể nói như vậy được. Dĩ
nhiên, sự sáng tạo này thường có tính thử nghiệm, không thể bước đều
nhau hoặc có xu thế tiến lên theo đường thẳng, mà tuỳ theo sự thay đổi
t́nh h́nh hoặc biến đổi so sánh lực lượng có thể có lặp đi lặp lại, có
lúc tiến lên, có lúc lại tụt lùi. Nhưng có một đặc điểm: khi đă tiến lên
rồi th́ dù cho lại tụt lùi, nhưng trận địa đă chiếm được th́ thường là
không bị mất toàn bộ (thí dụ: về thực hiện chính sách phúc lợi và chế độ
bảo đảm đời sống). Ở đây, tôi xin nêu hai thí dụ có thể giúp nói rơ vấn
đề: một là cuộc cải cách do Công đảng Anh tiến hành năm 1945, và hai là
mô h́nh Thụy Điển.
Trong bài này chỉ xin nói vài câu về cuộc cải cách (được
đảng XHDC gọi là cải cách dân chủ xă hội chủ nghĩa) bắt đầu tiến hành
tại Anh từ 1945. Đây là cuộc cải cách cơ cấu xă hội do Công đảng Anh
lănh đạo thực hiện trong t́nh h́nh tư bản Tây Âu bị tàn phá nặng nề sau
Thế chiến II. Biện pháp cải cách chủ yếu là:
Thực hành quốc hữu hoá các ngành khai thác mỏ, ngân hàng
phát hành, giao thông vận tải, các doanh nghiệp cung ứng địa phương và
sản xuất thép, tức đưa các ngành kinh tế này vào sở hữu nhà nước tư bản,
làm cho thành phần quốc doanh trong lĩnh vực kinh tế lên tới 20%;
Cải tiến thuế thu nhập theo một quy chế luỹ tiến khác
biệt rơ ràng giữa các cấp bực, làm cho 2/5 tổng thu nhập quốc dân thông
qua h́nh thức thu thuế được nhà nước thực hành tái phân phối;
Áp dụng phương pháp gọi là “phúc lợi toàn dân” nhằm thực
hành chế độ bảo hiểm rộng răi ốm đau, tai nạn, tuổi già, thương tật,
thất nghiệp, sinh đẻ và chết đối với tất cả mọi người và thực hiện chữa
bệnh không mất tiền cho toàn dân. Năm 1948, lănh tụ Công đảng Anh là
At-li [Clement Attlee, 1883-1967] tuyên bố: nước Anh đă trở thành “nhà
nước phúc lợi”. Từ đó, cái tên “nhà nước phúc lợi” bắt đầu được sử dụng
rộng răi. Theo các tài liệu xác thực, ngày ấy, Stalin có nói chuyện với
nhân vật phái tả của Công đảng Anh Rat-xki, thậm chí Stalin c̣n thừa
nhận cuộc cải cách này có thể là một trong những con đường đi lên chủ
nghĩa xă hội (do đó mà năm 1951, đảng Cộng sản Liên xô từng giúp đỡ đảng
Cộng sản Anh soạn thảo cương lĩnh quá độ hoà b́nh). Nhưng trên mặt khác,
hoặc nói trên một mặt quan trọng hơn, cuộc cải cách này đồng thời lại
làm ổn định trật tự tư bản chủ nghĩa từng bị phá tan (ghi chú: cuộc cải
cách này hồi ấy được Mỹ kín đáo cho phép và tài trợ).
Bây giờ ta có thể trở lại bàn về mô h́nh chủ nghĩa xă hội
dân chủ Thụy Điển được Báo cáo Khảo sát nói tới.
(C̣n tiếp Phần II).
——————
Nguồn: Khảo sát về chủ nghĩa xă hội kiểu Thụy Điển: Nhân
đọc “Một bản báo cáo khảo sát đến muộn”, Chủ nghĩa Mác và Hiện thực số
tháng 3/2002, Tạp chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung Quốc. Cơ quan chủ
tŕ tạp chí: Cục Biên dịch thuộc Trung ương Đảng CSTQ.
Tác giả Ngô Giang là giáo sư, nguyên Viện trưởng Học viện
Chủ nghĩa xă hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Báo cáo mà tác giả đề cập là của Dương Khải Tiên, được
viết sau chuyến khảo sát Thụy Điển hồi những năm 1980, khi Liên Xô c̣n
đang vững mạnh.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch và làm toàn bộ các chú thích ở
cuối trang và trong ngoặc.
———————–
1 Đúng ra phải gọi là đảng Dân chủ xă hội (tiếng Anh:
Social Democratic Party), nhưng VN ta quen gọi là Xă hội dân chủ (theo
nguyên văn âm Hán-Việt theo cách dịch của TQ). Từ điển Chủ nghĩa cộng
sản khoa học (NXB Tiến bộ Matxcơva và NXB Sự thật Hà Nội, 1986) dùng
“chủ nghĩa dân chủ xă hội”, nhưng có chỗ dùng “đảng Xă hội dân chủ”, có
chỗ dùng “đảng Dân chủ xă hội”. Đảng XHDC Thuỵ Điển chiếm 36,5% số đại
biểu Quốc hội khoá bầu 9.1998; hiện Chủ tịch Đảng là ông Goran Persson
đồng thời làm Thủ tướng chính phủ. (Trong bài này, toàn bộ các chú thích
ở cuối trang và chú thích trong dấu [ ] đều là của người dịch).
2 Số liệu năm 2001 về Thụy-điển : 449.964 km2; 8,875
triệu dân. Kinh tế năm 2000 tăng trưởng 4,3%. Năm 2000, GDP tính theo
sức mua : 197 tỷ USD; GDP đầu người : 22.200 USD (so với 4000 USD của
Nga năm 1998). Nông nghiệp chiếm 2,2% GDP, công nghiệp 27,9%, dịch vụ
69,9%. Xuất khẩu 95,5 tỷ, nhập khẩu 80 tỷ USD. Tỷ lệ lạm phát 1,2%, tỷ
lệ thất nghiệp 6%. Ngân sách : thu 133 tỷ, chi 125,2 tỷ USD. Viện trợ
ODA cho nước ngoài 1,7 tỷ USD (1999). Tuổi thọ trung b́nh 79,71 năm. Năm
1998 có 6 triệu điện thoại và 3,8 triệu điện thoại di động; 8,25 triệu
radio và 4,6 triệu tivi, Năm 2000 có 4,5 triệu người dùng Internet. CIA
Mỹ nhận định: Thuỵ Điển là nước “đạt được mức sống cao dưới chế độ chính
trị kết hợp chủ nghĩa tư bản công nghệ cao với chế độ phúc lợi cao”
(theo The World Fact Book 2001 của Cục T́nh báo TƯ Mỹ CIA). Ở đây người
dịch dùng số liệu năm 2001 cho sát với thời điểm tác giả Ngô Giang viết
bài này.
[3] Ferdinand Lassalle: xem chú thích 7. Pierre-Joseph
Proudhon (1809-1865): “nhà chính luận Pháp, nhà xă hội học và kinh tế;
nhà tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, một trong những người sáng lập về
mặt lư luận chủ nghĩa vô chính phủ” (trích dẫn theo Tuyển tập Mác
Ang-ghen, NXB Sự thật, Hà Nội 1981)
[4] V. Liebknecht (1826-1900), nhà sáng lập đảng XHDC
Đức, bạn của Mác và Ang-ghen
[5] Bách khoa thư Xô viết (1987) gọi là Quốc tế 2 rưỡi (2
1/2).
[6] Sđd1 gọi là Quốc tế XHCN, và nhận định là “tổ chức
liên hiệp quốc tế của các đảng dân chủ-xă hội, thi hành đường lối cải
lương.” Đại hội I của Quốc tế này họp ở Đức tháng 7.1951, ra tuyên ngôn
“Về những mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa XHDC” Tính đến 11.1977,
Quốc tế XHCN có 38 đảng (và 16 đảng dự thính), hai tổ chức Phụ nữ và
Thanh niên, 9 tổ chức có tính liên hiệp.
Khảo sát về chủ nghĩa xă hội kiểu Thụy Điển (P2)
Posted on 04/06/2015 by The Observer
Print Friendly, PDF & Email
EMEA-Stockholm
Tác giả: Ngô Giang (Trung Quốc) | Biên dịch và chú thích:
Nguyễn Hải Hoành
Bài liên quan: Khảo sát về chủ nghĩa xă hội kiểu Thụy
Điển (P1)
Khái quát vài nét về “chủ nghĩa xă hội dân chủ” Thụy Điển
Dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng ta
có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xă hội dân chủ Tây Âu.
Thực ra, cho tới ngày Liên Xô biến mất, người Liên Xô chưa bao giờ giới
thiệu cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về t́nh h́nh
thực sự của phong trào xă hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các
đảng cộng sản với các đảng xă hội dân chủ), không phải là “phủ định
nhiều, khẳng định ít”, mà là phủ định toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói
một điều: thật ra phong trào xă hội dân chủ Tây Âu đă phức tạp lại đa
dạng, t́nh h́nh các nước không hoàn toàn giống nhau. Thụy Điển không ở
vào vùng đất “trái tim” của thế giới tư bản, mà chỉ là “tứ chi” thôi
(“trái tim” và “tứ chi” là cách nói của Mác), cách khá xa vùng trung tâm
giành giật của các thế lực tư bản cường quyền, do đó cuộc cải cách xă
hội của Thụy Điển có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít
chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc.
Ở đây cần đặc biệt chỉ ra một điểm: các đảng XHDC, đảng
xă hội, đảng công nhân thuộc “Quốc tế xă hội” thành lập năm 1923 ở châu
Âu có cách giải thích về “chủ nghiă xă hội dân chủ”, trên nguyên tắc và
trên nhiều mặt, khác với cách giải thích của chủ nghĩa Mác; nhất là chủ
trương “đa nguyên hoá tư tưởng”. Đảng XHDC Thụy Điển tuy cũng thừa nhận
đa nguyên hoá tư tưởng, nhưng họ vẫn kiên tŕ lấy học thuyết Mác
Ăng-ghen làm tư tưởng chỉ đạo chính của ḿnh. Đây là một đặc điểm và ưu
thế của họ.
Tại đây, tôi chỉ xin căn cứ vào Báo cáo Khảo sát, chia nó
ra thành đề mục để tŕnh bày, tức dùng phương pháp “chỉ thuật lại mà
không viết thêm” (thuật nhi bất tác) để giới thiệu về t́nh h́nh xă hội
XHCN dân chủ ở Thụy Điển mà mọi người rất muốn t́m hiểu. Tôi xin phép
khuyên bạn đọc chịu khó đọc hết phần sau, chớ có bỏ qua một dịp t́m hiểu
về chủ nghĩa xă hội của Thụy Điển.
Về vấn đề tính chất của đảng Xă hội dân chủ Thụy Điển và
của xă hội Thụy Điển
Báo cáo khảo sát viết: “Lâu nay, chúng ta [tức ĐCSTQ]
luôn cho rằng đảng Xă hội dân chủ Thụy Điển là một đảng xét lại, xă hội
Thụy Điển là một xă hội tư bản như các nước xă hội phương Tây khác. Do
đó, trong quá tŕnh khảo sát, chúng tôi đă cực kỳ thẳng thắn hỏi các bạn
Thụy Điển: rốt cuộc đảng và xă hội của họ có tính chất như thế nào? Họ
trả lời rơ ràng: cho tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng XHDC Thụy Điển là
một chính đảng xă hội chủ nghĩa, xă hội Thụy Điển là một xă hội xă hội
chủ nghĩa. Lư do chủ yếu là: xét về lịch sử đảng XHDC Thụy Điển, năm
1889, khi thành lập đảng, họ không có cương lĩnh và điều lệ đảng của
riêng ḿnh, mà sử dụng nguyên xi cương lĩnh và điều lệ của đảng XHDC Đức
hồi đó, do Ăng-ghen sáng lập. Khi chúng tôi đến thăm Thụy Điển, tuy họ
đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7 cương lĩnh của đảng, nhưng các tài liệu
tuyên truyền phát đi vẫn ghi rơ: cơ sở lư luận của đảng XHDC Thụy Điển
là đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ăng-ghen; cơ sở giai cấp
rộng răi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rơ:
giai cấp công nhân không những chỉ bao gồm công nhân cổ xanh mà c̣n gồm
cả công nhân cổ trắng…
Nhân vấn đề này, họ đặc biệt mời chúng tôi tới thăm Nhà
Trưng bày lịch sử đảng XHDC Thụy Điển. Nh́n thứ tự các bức ảnh được treo
ở đây, có thể thấy rơ: vị trí thứ nhất là Các Mác, thứ hai là Ăng-ghen,
thứ ba là Lát-xan,[7] thứ tư là Bran-hân, nhà lănh đạo đầu tiên của đảng
XHDC Thụy Điển … Khi trao đổi ư kiến với một số nhà nghiên cứu lư luận
của đảng XHDC Thụy Điển, họ đặc biệt nhấn mạnh: chủ nghĩa xă hội mà họ
nói là có điều kiện, tức là trước đó phải thêm từ “dân chủ”, nói hoàn
chỉnh phải là xă hội “chủ nghĩa xă hội dân chủ“. Nếu không thêm từ “dân
chủ”, th́ họ thà để người ta nói xă hội của họ là xă hội tư bản, c̣n hơn
là để nói là xă hội XHCN. Bởi lẽ, loại xă hội XHCN ấy đại biểu cho xă
hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không
nhận được phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính
quyền và thực thi các chính sách XHCN.
Về tính chất
nền kinh tế Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết: “Theo cách nói của các bạn Thụy
Điển, tính chất của kinh tế Thụy Điển vừa không hoàn toàn là kinh tế tư
bản, vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà là một loại kinh
tế hỗn hợp.[8] Kinh tế hỗn hợp nghĩa là:
Về chế độ sở hữu th́ thực hành pha trộn chế độ sở hữu
công cộng và chế độ tư hữu;
Về chế độ phân phối th́ thực hành phân phối theo lao động
kết hợp với phân phối theo vốn (tư bản);
Về phương thức vận hành kinh tế th́ thực hành nhà nước
điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế thị trường. Trong đó, cốt lơi nhất
là sự hỗn hợp về chế độ sở hữu, v́ chỉ có làm được như thế th́ mới có
thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ phân phối và về phương thức vận
hành kinh tế. Tại sao chủ nghĩa xă hội phải thực hành kinh tế hỗn hợp?
Về vấn đề này, các bạn Thụy Điển đă dùng kinh nghiệm tự thân của đảng
ḿnh để giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử rất sâu sắc
của họ.
“Theo giới thiệu, khi đảng XHDC Thụy Điển thành lập năm
1889, lúc đó Thụy Điển hăy c̣n là một trong những nước lạc hậu nhất châu
Âu, thậm chí dân chúng c̣n chưa có quyền tối thiểu là quyền bầu cử phổ
thông. V́ sức sản xuất c̣n kém và tŕnh độ của đảng c̣n thấp, nên khi
đảng thành lập, họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành phải sử
dụng nguyên xi cương lĩnh của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ăng-ghen lănh đạo
soạn thảo. Cương lĩnh này quy định rơ ràng: về chính trị, phải thông qua
bầu cử dân chủ để quá độ hoà b́nh giành lấy chính quyền; về kinh tế,
phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng, phân phối theo lao động và quản
lư có kế hoạch. Sau hơn 30 năm phấn đấu, về cách đề xuất phương thức mục
tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi, như ban đầu đề khẩu
hiệu phấn đấu là “đấu tranh giành quyền bầu cử”; sau khi đă có quyền bầu
cử th́ sửa là “đấu tranh để được tham gia nghị viện”; sau khi đảng đă có
chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất “đấu tranh giành đa số trong Quốc
hội”. Thế nhưng, các mục tiêu kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại
không hề thay đổi.
Trong cuộc bầu cử năm 1920, số nghị sĩ của hai đảng XHDC
và đảng Nhân dân (thuộc phái bảo thủ) cộng lại đă vượt quá đa số trong
Quốc hội (phe đối lập chủ yếu là các nghị sĩ có liên quan tới Hoàng gia
Thuỵ Điển), số ghế nghị sĩ của đảng XHDC nhiều hơn của đảng Nhân dân,
hai đảng này đă lập chính phủ liên hợp cùng nắm chính quyền, người lănh
đạo của đảng XHDC làm Thủ tướng. Do đảng XHDC là lực lượng chính trong
chính phủ, nên đảng này có điều kiện thực thi cương lĩnh kinh tế quy
định trong Cương lĩnh của đảng, bắt đầu dùng biện pháp thu mua và chuộc
lại để xây dựng trên cả nước một số lượng lớn các doanh nghiệp sở hữu
công cộng, trong đó sở hữu nhà nước là chính. Nhưng v́ chưa thể giải
quyết tốt vấn đề quản lư các doanh nghiệp nên chẳng bao lâu sau, sức
sống của các doanh nghiệp đó bị giảm sút, hiệu quả và lợi ích không cao,
trong nền kinh tế xuất hiện những khó khăn không đáng có. Trong cuộc bầu
cử năm 1924, số phiếu bầu cho đảng XHDC bị giảm mạnh, kết quả là đảng bị
bật ra khỏi chính phủ, đảng Nhân dân có tính bảo thủ lên nắm chính
quyền. Theo cách nói của các bạn Thuỵ Điển th́ đảng đă đánh mất quyền
lănh đạo chính phủ.
“Trong t́nh h́nh đó, đảng XHDC Thụy Điển mới b́nh tĩnh
tổng kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ rút ra
được một kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng XHDC Thụy Điển là một
chính đảng XHCN, do đó phải kiên tŕ thực hiện CNXH; nhưng trong việc
thực hiện CNXH th́ xă hội hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn
bản; xă hội hoá phân phối mới là vấn đề căn bản, tức thực thi phân phối
công bằng của cải xă hội như thế nào để bảo đảm quyền lợi của giai cấp
công nhân và người lao động. Lập thật nhiều doanh nghiệp sở hữu công
cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều công sức nhưng hiệu suất
và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được nhiều của cải, nếu
muốn phân phối một cách công bằng th́ cũng chẳng có cơ sở vật chất kinh
tế lớn mạnh để làm chỗ dựa mà phân phối. Như vậy th́ không có lợi bằng
biện pháp:
không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng (trừ các
lĩnh vực bắt buộc phải do nhà nước làm),
khuyến khích ủng hộ sự phát triển kinh tế sở hữu phi công
cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của cải càng
tốt,
chính phủ thực hiện phân phối các của cải đó một cách hợp
lư nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động.
Có thể giải quyết những vấn đề và tệ nạn phát sinh trong
quá tŕnh phát triển các doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt sau:
sử dụng thế lực của công đoàn ở tổ chức cơ sở tiến hành
đấu tranh cần thiết;
sử dụng quyền lập pháp của Quốc hội để hạn chế các tệ nạn
đó ngay từ trên thượng tầng.
Đảng XHDC Thụy Điển đă dựa vào kết luận này để sửa đổi
lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng, qua đó giành được sự ủng hộ
của quần chúng rộng răi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được
đa số trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền,
cho tới năm 1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy
chục năm đó, đảng XHDC đă xây dựng Thụy Điển từ một nước kinh tế lạc hậu
nhất châu Âu trở thành nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế giới
về GDP đầu người (sau Thụy Sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng Nhân dân thay
thế nhưng trong phần lớn thời gian từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm
chính quyền. Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, phần phân
phối đă được xă hội hoá trong toàn bộ của cải quốc dân, tính theo tỷ lệ
thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đă đạt 57~58%. Nhờ đó đă có
điều kiện xây dựng Thụy Điển thành nước có phúc lợi xă hội nhiều nhất
thế giới, khiến cho lư thuyết xă hội hoá phân phối được vận dụng triệt
để vào trong thực tiễn.”
Về nguyên tắc
phân phối thực hành tại Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết: “Theo các bạn Thụy Điển giới
thiệu, nguyên tắc phân phối của họ là: phải vừa có lợi cho việc huy
động, phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao năng suất
lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn (ư
nghĩa có chút giống như khẩu hiệu “ưu tiên năng suất, chiếu cố công
bằng” mà Trung Quốc mấy năm nay luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là:
trong lần phân phối đầu tiên phải kiên tŕ nguyên tắc ưu tiên hiệu suất,
nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều th́ phải được phân phối nhiều;
ngược lại th́ chỉ được phân phối ít. Nhưng khi tái phân phối th́ phải có
sự điều tiết hợp lư, sao cho mức hơn kém trong phân phối cuối cùng không
quá lớn.
Bởi thế, cho tới nay trong cả nước Thụy Điển, chỉ có một
số cực ít các nhà doanh nghiệp xuất sắc, thí dụ những người như Tổng
Giám đốc hăng ô tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu
cuaron mỗi năm; c̣n nh́n chung chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt
đại đa số là không lớn lắm.[9] Thí dụ, lương của người lănh đạo cao nhất
trong chính phủ so với lương của công chức nói chung, trước khi nộp thuế
chênh lệch có thể tới gấp 4-5 lần, nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh
lệch chỉ c̣n bằng 2-3 lần. Điều đặc biệt là, ngoài lương ra, họ không có
bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức vụ nào khác; cho nên tỷ lệ chênh
lệch nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với chúng tôi, các bạn Thụy
Điển nói chênh lệch thu nhập ở Thụy Điển có lẽ là nhỏ nhất thế giới. Tại
Thụy Điển, cơ bản đă thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa thành
thị với nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với
lao động chân tay. Về vấn đề này, mới đầu chúng tôi c̣n nửa tin nửa ngờ;
nhưng sau khi quan sát thực địa một số gia đ́nh thuộc các diện khác
nhau, chúng tôi cảm thấy đúng là về đại thể là như vậy.”
Về chế độ
phúc lợi ở Thụy Điển
Báo cáo khảo sát viết: “Mọi người đều biết, phúc lợi xă
hội ở Thụy Điển ở mức nhiều nhất thế giới. Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn
được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu khác): bảo hiểm hưu trí
dưỡng lăo, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao
động, c̣n có nhiều loại h́nh phúc lợi xă hội khác, nhiều đến mức người
ta h́nh dung Thụy Điển là nước mà người dân “từ khi lọt ḷng đến khi
chết” đều được hưởng phúc lợi. Căn cứ theo kết quả khảo sát của chúng
tôi th́ câu nói trên đúng là “danh bất hư truyền”. Thí dụ:
Chế độ dưỡng lăo: người lao động về hưu được định kỳ lĩnh
lương hưu đủ sống, người già yếu không tự lo liệu cuộc sống được th́ có
thể vào ở trong viện dưỡng lăo của nhà nước, được hưởng sự chăm sóc y tế
miễn phí, điều kiện sống tại đây tương đương với khách sạn 3 sao.
Chế độ bảo hiểm thất nghiệp: nếu người lao động thất
nghiệp, họ được định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các trung tâm
giới thiệu việc làm của nhà nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm
vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc mới cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có
thể giúp một phần kinh phí dọn nhà.
Chế độ giáo dục: không những tất cả mọi người đều được đi
học không mất tiền suốt đời mà luật pháp c̣n qui định, từ nhà trẻ cho
đến bậc trung học, nếu trong lớp có một học sinh người nước ngoài, th́
nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ đẻ của em đó (dĩ
nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải lên lớp một số giờ
nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho
đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định nhưng pháp luật
qui định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa t́m được công việc
thích hợp và không muốn rời nhà trường th́ có thể tiếp tục học tập miễn
phí. Các bạn Thụy Điển cho biết, hiện nay hầu như ở trường nào cũng có
những sinh viên lớn tuổi đă học 7-8 năm hoặc hơn trong trường.
Chế độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có
lương (12 tháng đầu hưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến
tháng thứ 18 lại có thai, sẽ tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho
đến khi đứa trẻ ra đời lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra,
nếu người vợ làm công việc tương đối quan trọng không thể hoặc không
muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, th́ hai vợ chồng có thể bàn bạc để
chồng có thể nghỉ thay vợ.
Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh
án được nhà nước nuôi ăn ở không mất tiền, ngoài ra, mỗi tháng c̣n được
lĩnh một khoản tiền mặt trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là
nhỏ lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xă hội nói trên, đời sống cơ bản của mỗi
người dân trong bất kỳ t́nh huống nào đều có sự bảo đảm cần thiết. V́
thế bộ mặt xă hội nói chung là tốt đẹp, cuộc sống yên b́nh, trật tự nền
nếp, thực là có cái cảnh “ra đường không sợ mất cắp, đêm nằm không phải
đóng cửa”. Các cán bộ sứ quán Trung Quốc ở đây cho biết, mấy chục năm
qua họ rất ít khi bị mất cắp.
“Dĩ nhiên sự việc nào cũng có hai mặt. Qua một số điều
chúng tôi đă tiếp xúc hoặc nghe kể, chế độ phúc lợi suốt đời nói trên
của Thụy Điển ít nhất cũng tồn tại các vấn đề và mâu thuẫn trên hai mặt
sau.
Thứ nhất, chế độ phúc lợi cao này là dựa vào chế độ thu
thuế cao. Do thu thuế cao nên thu nhập tài chính nhà nước của Thụy Điển
chiếm gần 60% GDP, mức cao nhất thế giới. Nghĩa là gần 3/5 của cải toàn
xă hội bị nhà nước tập trung vào tay ḿnh, tỷ lệ để lại cho các doanh
nghiệp và người dân quá nhỏ, trên mức độ nhất định tất sẽ ảnh hưởng tới
tính tích cực của doanh nghiệp và người lao động. Đặc biệt là thuế suất
luỹ tiến của thuế thu nhập, bậc cao nhất từng dùng thuế suất trên 80%
(nay vẫn trên 70%), nghĩa là gần hết số tiền mà người lao động vất vả
kiếm được lại không được hưởng. Điều đó dẫn đến trường hợp khi doanh
nghiệp hoặc đơn vị cần hoàn thành một công việc cần kíp th́ ngoài 8 giờ
làm việc ra, người lao động nói chung đều không muốn làm ngoài giờ, v́
thu nhập làm thêm ḿnh chẳng được hưởng bao nhiêu. Bất măn nhất là những
người có thu nhập cao. Thập kỷ 80, một danh thủ quần vợt nổi tiếng thế
giới người Thụy Điển chỉ v́ bất măn với thuế suất quá cao của nước này
đă bỏ sang Anh định cư.
Thứ hai, chế độ phúc lợi cao rất dễ bị một số người lợi
dụng kiếm chác những khoản lợi ích họ không đáng được hưởng. Trong thời
gian thăm Thụy Điển, khi đến một gia đ́nh công nhân được gọi là có thu
nhập thấp nhất, chúng tôi đă phát hiện vấn đề đó. Gia đ́nh này có 4 cô
con gái rồi, nhưng bà chủ lại có thai tiếp. Cảm thấy rất kỳ lạ, chúng
tôi hỏi ông chủ tại sao đẻ nhiều như vậy. Ông trả lời: tôi đă tính toán
từ lâu, thấy để vợ ở nhà đẻ con là có lợi nhất. Chẳng những bà ấy được
nghỉ một năm rưỡi có lương, mà khi hết thời hạn đó lại có thai nữa th́
tiếp tục được nghỉ ở nhà vẫn có lương, nghĩa là bà ấy được nghỉ phép dài
hạn ở nhà cai quản công việc nội trợ phức tạp. Hơn nữa, chính phủ c̣n
khuyến khích sinh đẻ, ai có nhiều con th́ được hưởng chế độ trợ cấp luỹ
tiến; cứ thêm một con th́ hàng tháng được trợ cấp thêm ít nhất 1.000
cuaron, lại không phải đóng thuế thu nhập, như thế rơ ràng làm tăng thu
nhập của nhà tôi. Khi chúng tôi hỏi: như thế, ông có bị thiệt hại ǵ
không? Mới đầu ông ta bảo không, nhưng sau một lúc suy nghĩ, lại bảo là
cũng có thiệt ở chỗ không thể đi du lịch xa, v́ vợ con lóc nhóc đông quá
đi xa rất bất tiện … Câu chuyện này cho thấy, chế độ phúc lợi xă hội quá
cao quá nhiều của Thụy Điển cũng cần thiết phải điều chỉnh, cải tiến hợp
lư.
Về công bằng
xă hội ở Thụy Điển
Báo cáo Khảo sát viết: “Qua nhiều thực tế chúng tôi đă
t́m hiểu và tiếp xúc trong quá tŕnh khảo sát, có thể nói xă hội Thụy
Điển tương đối công bằng. Tuy không thể nói Thụy Điển hoàn toàn không có
chế độ đặc quyền đẳng cấp, lối sống không lành mạnh và hiện tượng tham
nhũng thường thấy ở nhiều nước khác, nhưng qua tai nghe mắt thấy th́ các
hiện tượng đó đúng là không nhiều. Tại sao xă hội Thụy Điển có thể thực
hiện được tương đối công bằng? Chủ yếu là do:
“(1). Có chế độ pháp luật hoàn thiện, có thể hạn chế một
cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công xă hội. Thí dụ, pháp
luật quy định rơ: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng, khi ra
ngoài đều không được mang theo nhân viên bảo vệ. Chính v́ thế mà Thủ
tướng Thụy Điển kiêm Chủ tịch đảng XHDC nước này là ông Ô-lôp Pan-mơ
[Olof Palme, 1927-1986] đă bị ám sát. Hôm đó, vào cuối năm 1986 (không
lâu trước ngày chúng tôi thăm Thụy Điển), sau giờ làm việc, ông Pan-mơ
cùng vợ đi tầu điện ngầm đến xem phim ở một rạp chiếu bóng trong khu phố
đông vui nhất thủ đô Xtốc-khôm [Stockholm]. Xem phim xong, hai người ra
về, khi đang đi bộ trên đường phố, sắp đến một ga tầu điện ngầm th́ ông
Pan-mơ bị một kẻ lạ mặt bắn chết; nghe nói cho tới nay vẫn chưa t́m ra
hung thủ. Sau vụ này, Thụy Điển mới sửa đổi luật, quy định Thủ tướng khi
ra ngoài cũng có thể mang theo nhân viên bảo vệ. Khi chúng tôi đến thăm
chỗ ông bị ám sát, vẫn c̣n thấy vết máu trên đường, thỉnh thoảng có
người mang hoa đến đặt lên chỗ có vết máu tỏ ḷng thương tiếc.
“Luật pháp cũng ghi rơ: trong cả nước, chỉ một số rất ít
cấp lănh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ
trưởng Quốc pḥng mới được nhà nước cấp ô tô công vụ, c̣n tất cả các
quan chức khác chỉ được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng
hoặc xe tư của ḿnh. Quy định trên không những giảm rơ rệt biên chế nhân
viên cơ quan nhà nước và chi phí, mà c̣n ngăn chặn được t́nh trạng lợi
dụng xe công làm việc tư, cũng như các tác phong không lành mạnh khác.
“Pháp luật c̣n quy định rơ: trong công việc giao thiệp
với khách nước ngoài, người lănh đạo ở cấp nào th́ được nhận quà tặng
trị giá bao nhiêu. Chúng tôi đă có một lần tự ḿnh thấy rơ điều này. Năm
1985, lần đầu tiên tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế đến Thụy Điển khảo sát,
đơn vị đón tiếp chính về phía bạn là Bộ Công nghiệp. Trong buổi làm việc
với bà Bộ trưởng Bộ này, chúng tôi có tặng bà một đôi b́nh hoa nhỏ
Cảnh-Thái-Lam cao khoảng 7-8 tấc Anh, sản xuất tại Bắc Kinh, để làm kỷ
niệm. Sau khi mở hộp giấy bọc và xem món quà, bà kinh ngạc khen: Đẹp
quá! Nhưng rồi bà lại thở dài: Rất tiếc là tôi không được mang món quà
này về nhà. Lúc đó chúng tôi đều không hiểu tại sao bà lại nói thế. Khi
ra về, tôi có hỏi một cán bộ Sứ quán Trung Quốc cùng dự buổi tiếp hôm
ấy, mới biết luật pháp Thụy Điển có quy định, lănh đạo cấp Bộ trưởng
trong hoạt động ngoại giao chỉ được nhận quà biếu có giá trị lớn nhất
không quá 1.500 cuaron (khoảng 180 đôla Mỹ). Loại b́nh hoa chúng tôi
biếu, ở Bắc Kinh th́ không đáng bao nhiêu tiền, nhưng ở Thụy Điển th́
ước tính có thể hơn 1.500 cuaron. Do đó bà Bộ trưởng không thể mang về
nhà, mà chỉ có thể để ở pḥng làm việc. Bao giờ măn nhiệm, giả thử tân
Bộ trưởng đến có nói món quà này nếu bà thích th́ lấy đi; lúc đó mới có
thể đem về nhà ḿnh.
“(2). Dư luận giám sát công khai, là biện pháp hạn chế
mạnh mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất công xă hội. Về mặt
này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy Điển và Áo [Austria] khảo sát, ở
cả hai nước đều gặp những chuyện cụ thể. Chúng tôi tới Thụy Điển đúng
vào lúc cô con gái của một vị Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng XHDC
Thụy Điển (tương đương Uỷ viên Bộ Chính trị ĐCSTQ) và là Chủ tịch Công
đoàn toàn quốc, có chuyện rắc rối: báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu
chuẩn được phân phối nhà nhưng vẫn được chia nhà, và phê phán ông Chủ
tịch Công đoàn lợi dụng đặc quyền đảng XHDC đang nắm chính quyền để tư
lợi. V́ vấn đề này, đảng XHDC đă tổ chức một cuộc họp báo để công khai
giải thích và tỏ thái độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn tuyên
bố: việc này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm; dĩ
nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông nhất định sẽ
đôn đốc con gái trả lại nhà nước căn nhà này, và sẵn sàng nhận sự phán
xử của luật pháp. Sau đó, vụ tai tiếng này mới ch́m xuống.”
Về vấn đề địa
vị trong xă hội của chính đảng và của người lănh đạo
Vấn đề này được Báo cáo Khảo sát dành riêng một đoạn viết
về những ǵ đă t́m hiểu khảo sát được: “Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các
chính đảng và nguy cơ sống c̣n của đảng đă buộc lănh đạo các cấp và tầng
lớp công chức phải đối xử với quần chúng nhân dân bằng một thái độ b́nh
đẳng và giải quyết các công việc xă hội theo nguyên tắc công bằng. Về
chính trị, Thụy Điển thực hành cái gọi là chế độ dân chủ kiểu phương
Tây, các chính đảng cạnh tranh với nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu của
quần chúng quyết định đảng nào được lên vũ đài chính trị nắm chính
quyền, sự sống c̣n của đảng trên một mức độ lớn cũng phụ thuộc vào lá
phiếu bầu cử của nhân dân. Nhà nước không cấp kinh phí vô điều kiện cho
các chính đảng, nguồn kinh phí hoạt động của các đảng phải trông vào
đảng phí của đảng viên nộp và các nguồn tự gây quỹ, phần khá lớn nữa là
kinh phí chính phủ cấp dựa vào số lượng nghị sĩ của đảng trong Quốc hội.
Đảng nào không nhận được nhiều phiếu bầu của quần chúng th́ không vào
được Quốc hội, do đó không có khoản kinh phí nói trên, như vậy sẽ rất
khó tồn tại lâu dài.
Bởi lẽ đó, dù là nguyện vọng chủ quan thế nào đi nữa,
trong mọi hoạt động, đảng XHDC Thụy Điển đều bắt buộc phải luôn giữ cho
ḿnh một h́nh ảnh giầu mà không xa xỉ, b́nh đẳng đối xử với quần chúng,
bảo đảm công bằng xă hội. Thí dụ: tuy đảng XHDC Thụy Điển đă nhiều lần
nắm chính quyền và một lần nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng vào cuối
thập kỷ 1980 khi chúng tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của
họ vẫn chỉ có 50-60 nhân viên công tác. Tỉnh uỷ tỉnh Goteborg chỉ có 5~6
người. Khi chúng tôi đến làm việc với họ, chỉ thấy một cán bộ làm tất cả
mọi việc, từ giới thiệu t́nh h́nh, toạ đàm trao đổi ư kiến, dẫn đi tham
quan các nơi, hướng dẫn du lịch, và cả việc lái xe nữa. Họ cho biết,
tỉnh uỷ Goteborg có 3~400 chi bộ phân tán trong các cộng đồng phường xă
(v́ pháp luật quy định không được tổ chức chi bộ đảng trong các doanh
nghiệp và cơ quan đơn vị), mỗi tháng ít nhất tỉnh uỷ phải đến mỗi cơ sở
một lần để t́m hiểu nắm t́nh h́nh, chỉ đạo công tác và truyền đạt chỉ
thị của cấp trên; do đó công tác của họ rất bận.
Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế thăm Thụy
Điển lần đầu, hôm đến Goteborg đúng vào Chủ nhật, Chủ tịch tỉnh và Chủ
tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng tổ chức chiêu đăi chúng tôi trong một
pháo đài trên núi gần biên giới với Na-uy. Pḥng tiệc bày biện sang
trọng nhưng ăn uống rất đơn giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng trường
ngoài pháo đài nghe một đoàn nhạc giao hưởng vừa từ Moskva trở về biểu
diễn. Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn chúng tôi cho tới Chủ tịch tỉnh và
Chủ tịch HĐND tỉnh, tất cả đều không có chỗ ngồi, mà cùng đứng chung với
khách du lịch suốt hơn một giờ. Trên đường về thành phố, khi ô tô chúng
tôi sắp lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước không nổ được
máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi bên cửa xe (ông này thọt chân) và Chủ
tịch tỉnh lẳng lặng xuống xe trước tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới
lúc xe nổ máy được mới thôi. Cảnh này thật làm mọi người cảm động.
“Nguyên tắc công bằng xă hội nói trên của các bạn Thụy
Điển không những chỉ thể hiện trong việc giải quyết các công việc trong
nước, mà đối với các bạn nước ngoài cũng vậy. Lần đi Thụy Điển năm 1988,
hôm tới Xtốc-khôm đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần, v́ không bố trí được
pḥng trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa chúng tôi đến trọ tại
nhà nghỉ của một công đoàn trên ḥn đảo ngoài biển gần đấy. Xung quanh
nhà nghỉ là cánh đồng tuyết, khu nhà nghỉ không có tường bao cũng chẳng
có người bảo vệ, rất ít nhân viên phục vụ. Mỗi người chúng tôi được bố
trí ở trong một căn pḥng khoảng chục mét vuông, kể cả trưởng đoàn cũng
vậy, tuy có được thêm một pḥng khách cũng nhỏ như thế, chỉ vừa đủ chỗ
kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe nói đây là căn pḥng ông Các-xơn
(Carsson), đương kim Chủ tịch đảng XHDC và Thủ tướng chính phủ Thụy
Điển, thường đến nghỉ. Hết hai ngày cuối tuần, họ đưa chúng tôi về thành
phố, bố trí trọ tại một khách sạn vừa không đồ sộ, thiết bị lại vừa chưa
đạt tiêu chuẩn khách sạn ba sao ở Trung Quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng
không được đặc cách ở pḥng sang hơn, mà cũng chỉ ở một pḥng tiêu chuẩn
như mọi đoàn viên.
“Những người lănh đạo Thụy Điển rất chú ư giữ ǵn h́nh
ảnh công bằng xă hội tốt đẹp nói trên, khi họ c̣n sống cũng như khi giải
quyết việc tang lễ cho người lănh đạo. Như ông Pan-mơ bị ám sát năm
1988, sinh thời ông vừa là Thủ tướng và Chủ tịch đảng XHDC Thụy Điển, mà
c̣n là Chủ tịch Quốc tế của các đảng Xă hội, có ảnh hưởng lớn trên thế
giới và ở châu Âu, có uy tín cao trong nước, cống hiến đối với đảng và
với nước đều không nhỏ. Nhưng sau khi ông qua đời, người ta không dựng
nhà kỷ niệm hoặc bia kỷ niệm ông, cũng không xây cất cho ông một ngôi mộ
sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông trong một nghĩa trang công
cộng phía sau nhà thờ gần dăy phố nơi ông bị ám sát. Ngôi mộ ông là một
khối h́nh hộp bằng đá cẩm thạch màu đen, diện tích khoảng 4 mét vuông,
trên dựng một phiến đá cao chừng 1 mét có chữ kư của Pan-mơ. Nghe nói
phiến đá này trước đây ở quê ông, mỗi lần về quê vận động tranh cử,
Pan-mơ đều đứng trên phiến đá này để diễn thuyết, nên người ta mang nó
về đây để làm kỷ niệm.”
Phần trích dẫn Báo cáo khảo sát đến đây xin dừng lại, chủ
yếu dùng cách sao chép. Theo tôi nghĩ, phần trích dẫn trên đă đưa ra một
phác thảo khái quát để bạn đọc có thể hiểu được t́nh phong trào xă hội
dân chủ Thụy Điển cùng các thành tựu đạt được.
Cảm tưởng sau
khi đọc Báo cáo Khảo sát
Trước hết, ta nên nhắc lại những nguyện vọng của Ăng-ghen
gửi gắm vào phong trào xă hội chủ nghĩa trong mấy năm cuối đời ông. Dĩ
nhiên, Ăng-ghen không thể thấy trước những t́nh h́nh mới sau khi chủ
nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, càng không thể dự kiến
được việc Thế chiến I đă làm cho trọng điểm phong trào XHCN chuyển từ
Tây Âu đến nước Nga và phương Đông lạc hậu về kinh tế. Sau Cách mạng
Tháng Muời Nga, nhiều người đặt hy vọng vào cách mạng XHCN ở Tây Âu. Khi
làn sóng cách mạng đó bị lắng xuống, vấn đề cách mạng XHCN của các nước
tư bản Tây Âu nên đi con đường nào lại trở nên một vấn đề thời sự. Phong
trào không thể dừng lại, nhưng rơ ràng, đường lối th́ có khác với đường
lối của Cách mạng Tháng Muời Nga.
Chúng ta có đầy đủ lư do để nhớ lại một sách lược quan
trọng do Ăng-ghen đề ra năm 1894 — cho rằng giai cấp công nhân nên “sử
dụng quyền bầu cử làm một vũ khí mới của giai cấp công nhân” và nhấn
mạnh “giành quyền bầu cử, giành dân chủ là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của giai cấp vô sản chiến đấu” — sách lược này vẫn thích
hợp với nhu cầu của giai cấp công nhân đang chiến đấu trong các nước tư
bản Tây Âu thời kỳ sau Thế chiến I. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
Muời Nga, trên thế giới h́nh thành sự đối lập gay gắt giữa chủ nghĩa tư
bản với chủ nghĩa xă hội. Trong t́nh h́nh đó, dĩ nhiên các đảng XHDC ở
các nước tư bản sẽ gặp nhiều trắc trở phức tạp trong quá tŕnh vận dụng
sách lược đó; điểm này tôi đă tŕnh bày ở phần trên. Thế nhưng, phong
trào chủ nghĩa xă hội dân chủ ở Thụy Điển cùng các thành tựu của nó —
như Báo cáo Khảo sát đă giới thiệu với chúng ta — ít nhất cũng cho thấy
việc vận dụng sách lược nói trên vào các nước tư bản Tây Âu không phải
là không thu được thành tích nào. Do đó, giờ đây ngoài việc quan tâm đến
những kinh nghiệm tự thân về CNXH mà chúng ta thu được (gồm kiểm tra,
tổng kết và cải cách tự thân), đồng thời ta cũng nên có thái độ khoa
học, khiêm tốn khảo sát t́nh h́nh phong trào XHCN phương Tây cùng các
thành quả của nó (gồm cả thất bại và thành công). Hai loại kinh nghiệm
này, do t́nh h́nh mỗi nước và điều kiện lịch sử khác nhau, cố nhiên có
những cái không thể so sánh được, song cũng có một số điểm nào đó có thể
so sánh được hoặc có thể tham chiếu được.
Về vấn đề này, thực ra bản thân Báo cáo Khảo sát đă ghi
chép lại các suy nghĩ và cảm tưởng của người khảo sát. Nay xin trích dẫn
như sau:
“Qua chuyến thăm này, chúng tôi đă hiểu biết tương đối
nhiều và tương đối sâu về t́nh h́nh của đảng XHDC Thụy Điển (và đảng Xă
hội Áo), mọi người đều cảm thấy thu hoạch rất lớn. Thế nhưng, rốt cuộc
th́ CNXH kiểu Thụy Điển và CNXH kiểu Liên Xô có ǵ giống nhau và khác
nhau? Rốt cuộc nên phân tích và nhận thức như thế nào về mối quan hệ
giữa Quốc tế II với Quốc tế III, giữa chủ nghĩa xét lại với chủ nghĩa
Lê-nin, và giữa đảng Xă hội kiểu Thụy Điển với đảng Cộng sản kiểu Liên
Xô, th́ chúng tôi cảm thấy có chút khó hiểu. Bởi thế, hồi đó, sau khi
thăm Thụy Điển, trên đường về nước nhân ghé qua Paris, chúng tôi đă tổ
chức một cuộc toạ đàm, có mời vài đồng chí trong đại sứ quán Trung Quốc
tại Pháp cùng dự. Từ các phát biểu trong và ngoài toạ đàm, có thể nhận
thấy có hai loại cách nói và cảm tưởng đối với các vấn đề nêu trên. Thật
bất ngờ, hai loại ư kiến này không hẹn mà lại trùng hợp nhau; cho đến
nay tôi vẫn cho rằng đó là những ư kiến rất đáng để chúng ta suy nghĩ
sâu sắc và tham khảo.
“Một loại cảm tưởng cho rằng, đường lối cách mạng, phương
châm và phương pháp cách mạng mà lư luận của Quốc tế II và lư luận của
Quốc tế III cũng như đảng Xă hội kiểu Thụy Điển và đảng Cộng sản kiểu
Liên Xô đă tuân theo, đều là đúng, hoặc là có lư lẽ cả; sự khác biệt
giữa hai bên chủ yếu là do t́nh h́nh trong nước của mỗi bên không giống
nhau.
Quốc tế II và đảng Xă hội về cơ bản đại diện cho các nước
tương đối phát triển về xă hội và kinh tế thời đó. Các nước này đă xây
dựng được chế độ bầu cử dân chủ; mỗi chính đảng đều có thể qua bầu cử mà
nắm được đa số trong nghị viện, rồi quá độ hoà b́nh lên nắm chính quyền,
từ đó thực thi cương lĩnh và chính sách của đảng ḿnh. Sau thập kỷ 20
thế kỷ XX, đảng Xă hội (hoặc đảng Xă hội dân chủ, Công đảng) ở phần lớn
các nước châu Âu đều lên nắm chính quyền thông qua h́nh thức bầu cử dân
chủ, thậm chí nắm chính quyền khá lâu, và thực thi các loại chính sách
cải cách xă hội; tác dụng của các đảng này trong việc thúc đẩy sự cải
lương và phát triển kinh tế xă hội thậm chí cả chế độ chính trị ở các
nước đó, là không thể bỏ qua, và là sự chứng minh hùng hồn nhất.
Quốc tế III và đảng Cộng sản về cơ bản đại diện cho một
số nước kinh tế xă hội tương đối lạc hậu hồi đó. Những nước này không
những chưa xây dựng được chế độ bầu cử dân chủ, mà hơn nữa, bọn phản
động nắm chính quyền được vũ trang tận răng lại có quyền tự do đàn áp
các lực lượng cách mạng. Tại các nước này, nếu không tiến hành đấu tranh
vũ trang th́ không thể nào lật đổ được ách thống trị của bọn phản động,
không thể giành được chính quyền, củng cố chính quyền và thực thi cương
lĩnh và chính sách XHCN. Nhưng đối với các nước đó, về tư tưởng chỉ đạo,
có một điểm cần phải làm hết sức rơ: biện pháp đấu tranh vũ trang để
cướp chính quyền chỉ có tác dụng “bà đỡ” đối với CNXH; đánh giá theo
tiêu chuẩn và yêu cầu của CNXH Mác-xít th́ trên thực tế các nước này lại
chưa “đạt yêu cầu” trên hai mặt cực kỳ quan trọng sau đây: (1) CNXH yêu
cầu phát triển cao độ tŕnh độ sức sản xuất; (2) CNXH yêu cầu phải có
nền pháp chế dân chủ hoàn thiện. Bởi vậy sau khi chính quyền XHCN ra đời
dưới sự “đỡ đẻ” của biện pháp đấu tranh vũ trang, phải hạ quyết tâm
tranh thủ “học bù” hai bài học này (đây chính là nguyên nhân Trung Quốc
tự xác định ḿnh c̣n đang ở trong “giai đoạn sơ cấp của CNXH”; nhiệm vụ
của giai đoạn này là để “học bù” hai bài học nói trên, nhằm chuẩn bị
điều kiện xây dựng thành công CNXH thực sự — ghi chú của Ngô Giang).
Nếu có thể nhận thức như vậy về vấn đề này, th́ sau khi
cách mạng thành công, xây dựng được chính quyền mới rồi, trừ phi đất
nước bị xâm lược, nếu không, phải tranh thủ thời cơ tập trung lực lượng
học thật nhanh thật tốt hai bài “học bù” này, dựa vào tính ưu việt của
chế độ XHCN sẽ có khả năng nhanh chóng đẩy mạnh phát triển kinh tế xă
hội của đất nước, đuổi kịp tŕnh độ của các nước phát triển, xây dựng
thành công CNXH thật sự. Nếu không nhận thức vấn đề như vậy, mà cứ chủ
quan cho rằng chỉ cần qua đấu tranh vũ trang xây dựng chính quyền mới
th́ ḿnh đă là một nước XHCN “đủ tiêu chuẩn” rồi; ai không đồng ư với ư
kiến đó, hoặc tỏ ư nghi ngờ ǵ, th́ thẳng tay kiên quyết loại bỏ, đả
kích thậm chí đàn áp họ. Như vậy không những rất khó xây dựng thành công
CNXH “đủ tiêu chuẩn” thật sự, hơn thế c̣n có thể trở thành một thứ chủ
nghĩa cực quyền kiểu phong kiến nửa phong kiến, như Liên Xô thời kỳ
Stalin trước đây. Cuối cùng, không những không xây dựng thành công CNXH
chân chính, mà c̣n bị quảng đại quần chúng và cán bộ phản đối, thậm chí
vứt bỏ.
Một loại cảm tưởng khác cho rằng, mối quan hệ giữa Quốc
tế III với Quốc tế II, giữa đảng Cộng sản kiểu Liên Xô với đảng Xă hội
kiểu Thụy Điển th́ giống như mối quan hệ giữa đạo Thiên chúa với đạo Tin
lành,[10] “tổ tiên” của cả hai đều là một nhà. Chẳng qua, Quốc tế III và
đảng Cộng sản kiểu Liên Xô chủ trương kiên tŕ tiến hành mọi cái theo
nguyên văn lời của “tổ tiên” không sai một chữ (cách nói này có thể bàn
lại: làm cách mạng XHCN tại các nước kinh tế lạc hậu thực ra đúng là
không theo nguyên văn lời của “tổ tiên”; cái gọi là khuynh hướng thuyết
độc tôn giáo lư cơ bản[11] th́ thể hiện ở một mặt khác. — Ghi chú của
Ngô Giang), không được vượt qua, có chút giống như thuyết độc tôn giáo
lư cơ bản người ta thường nói. C̣n Quốc tế II và đảng Xă hội kiểu Thụy
Điển th́ chủ trương tiến cùng thời đại, căn cứ theo sự phát triển của
thời đại và sự biến đổi của xă hội mà không ngừng cải cách đổi mới, nhằm
tạo thuận lợi cho việc mở rộng và thực thi ảnh hưởng và chủ trương của
lư luận do “tổ tiên” đề xướng, từ đó giành được thắng lợi lớn hơn.”
Ngày nay, xem ra hai mô h́nh tiến lên chủ nghĩa xă hội
nói trên đều có tính tất nhiên và tính chính đáng lịch sử. C̣n nói về
việc nh́n nhận hai mô h́nh đó và mối quan hệ giữa chúng với nhau, th́
đây là một vấn đề nên xem xét thận trọng và nghiên cứu kỹ. Mong rằng
trên vấn đề này sẽ nhận được nhiều cao kiến của các bạn đọc.
—————–
Nguồn: Khảo sát về chủ nghĩa xă hội kiểu Thụy Điển: Nhân
đọc “Một bản báo cáo khảo sát đến muộn”, Chủ nghĩa Mác và Hiện thực số
tháng 3/2002, Tạp chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung Quốc. Cơ quan chủ
tŕ tạp chí: Cục Biên dịch thuộc Trung ương Đảng CSTQ.
Tác giả Ngô Giang là giáo sư, nguyên Viện trưởng Học viện
Chủ nghĩa xă hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Báo cáo mà tác giả đề cập là của Dương Khải Tiên, được
viết sau chuyến khảo sát Thụy Điển hồi những năm 1980, khi Liên Xô c̣n
đang vững mạnh.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch và làm toàn bộ các chú thích ở
cuối trang và trong ngoặc.
——————
[7] Ferdinand Lassalle (1825-1864), người Đức, nhà văn,
người tuyên truyền cổ động cho công nhân, thuộc giai cấp tiểu tư sản;
tham gia Cách mạng 1848-1849, quen biết Mác và Ang-ghen từ đó (trao đổi
thư từ cho đến 1862); thành lập Hội Công nhân toàn Đức (1863) và là Chủ
tịch Hội, bằng việc đó, ông đă đáp ứng nguyện vọng của các công nhân
tiến bộ muốn tách khỏi giai cấp tư sản tự do về mặt tổ chức. Hệ tư tưởng
“CNXH nhà nước quân chủ Phổ” đă dẫn Lassalle tới chỗ liên minh với
Bismarck, do đó bị Mác phê phán. ( theo Sđd3).
[8] Năm 2001, thành phần tư nhân chiếm 90% giá trị sản
xuất công nghiệp (theo Sđd2).
[9] Số liệu năm 1992 : 10% số người có thu nhập thấp nhất
chiếm 3,7% tổng thu nhập toàn quốc, 10% số người có thu nhập cao nhất
chiếm 20,1%. Nghĩa là chênh lệch giầu nghèo khá nhỏ so với các nước
khác : chỉ số này ở Pháp là 2,5 và 24,9% (1989); ở Mỹ là 1,5 và 28,5%
(1994); ở Trung quốc là 2,2 và 30,9% (1995). (theo Sđd2).
[10] Nguyên văn chữ Hán là Ki Tô Giáo. Chú ư: Trung quốc
quen dùng Ki Tô Giáo để chỉ Tân Giáo (tức đạo Tin lành, tiếng Anh là
Protestantism). Đạo Thiên chúa (c̣n gọi Công giáo): Roman Catholic.
[11] Fundamentalism (chủ nghĩa tin theo các ghi chép
trong Kinh Thánh, phủ định Thuyết Tiến hoá và các học thuyết hiện đại
khác). TQ dịch là chủ nghĩa cơ yếu hoặc chủ nghĩa nguyên giáo chỉ.