MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning

Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP v World Tribune

v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v Trí Thức

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

TỪ KẺ SĨ THỜI XƯA

ĐẾN

TRÍ THỨC NGÀY NAY

 

Long Biên

( ? – 1995)

 

 

Trong bài nầy, chúng ta thử t́m hiểu những đặc tính của kẻ sĩ thời xưa và trí thức ngày nay.

Để tránh lạm dụng danh từ, chúng ta cần định nghĩa một cách rơ ràng hơn từ trước đến giờ hai danh từ trên mà người ta thường dùng. Danh từ «trí thức» hay được xem như là tương đương hoặc dịch nghĩa của những danh từ Tây âu như intelligentsia, intellectuel, travailleur intellectuel, hoặc elite... mà ra, c̣n «kẻ sĩ» hay «nhà nho» th́ đuợc nguời Âu dịch là «lettré».

Từ đó, người ta thường dùng danh từ «trí thức», hoặc «kẻ sĩ», «nhà nho» theo dịch nghĩa những danh từ của người Tây phương hơn là theo đúng nghĩa căn bản của nó ở Đông phương. Vậy nên việc minh định ư nghĩa của danh từ không phải là không bổ ích. Vẫn biết rằng phương pháp chiết tự chưa chắc hẳn sẽ đem 1ại cho ta một cái nh́n toàn diện về một khái niệm, v́ ngôn ngữ, cũng như mọi vật trên đời, đều có sanh, có lớn, có biến chuyển, có diệt: nội dung của danh từ cũng v́ vậy mà thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, việc phân tích căn tự sẽ giúp chúng ta hiểu rơ nguồn gốc và ư nghĩa căn bản của danh từ mà chúng ta dùng.

 

I - «KẺ SĨ»

Trước hết là danh từ «kẻ sĩ». Ai cũng biết rằng trong xă hội thời xưa, kẻ sĩ được xếp vào hàng đầu, không những về địa vị ưu tiên – «nhứt sĩ, nh́ nông, tam công, tứ thưong» -, mà nhứt là về vai tṛ quan trọng trong xă hội. Yếu tố quan trọng của vai tṛ này không phải là tài cán quân sự, tổ chức kinh tế hay xă hội..., mà là nêu gương mẫu đạo đức cho quần chúng. Có người dựa trên hệ thống giá trị thực tiễn ngày nay, cho rằng vai tṛ đạo đức, luân lư không quan trọng, đáng kể, so với những kiến thức khoa học, kinh tế, xă hội... cần phải có để lănh đạo quần chúng. Tuy nhiên, nếu đặt vào khuôn khổ của xă hội thời xưa, th́ yếu tố đạo đức không những được quan niệm, mà chính thực sự là nền tảng đầu tiên trong việc xây dựng và duy tŕ xă hội.

Trong bất cứ thời nào, xă hội nào, người trí thức [1] thời xưa cũng như thời nay, đều đóng một vai tṛ quan trọng, và tùy theo quan niệm của xă hội thời đó mà đặc tính của người trí thức có khác nhau.

Chúng ta thử phân tích danh từ «kẻ sĩ». Nếu viết theo Hán tự, chúng ta có thể t́m hiểu «kẻ sĩ» một cách chính danh hơn. Cần so sánh chữ «sĩ» với 2 chữ «vương» và «thổ» để rơ thêm ư nghĩa. Trong chữ «Vương», nét ngang trên có nghĩa là «trời», nét ngang dưới có nghĩa là «đất», nét ngang giữa chỉ «người», và nét gạch đổ nối liền ba nét gạch ngang trên : «vua» là người được mệnh của Trời Đất, hoặc đứng trung gian hà hợp giữa Trời Đất để trị v́ thiên hạ. Trong chữ «Thổ», nét gạch dưới chỉ cho «đất», được nhấn mạnh và viết to như ngụ ư chứa đựng, làm nền tảng cho con người. Trái lại trong chữ «Sĩ», «người» có một vai tṛ quan trọng, như vươn ḿnh lên để vượt cả thiên nhiên địa lư.

 

(vương)

(thổ)

(sĩ)

 

«Kẻ sĩ» là «người không chịu khuất phục». Không những không chịu khuất phục mà c̣n t́m cách ngự trị, vượt lên những khó khăn của thiên nhiên cũng như nhân sự. Kẻ sĩ là người có «chí khí bất khuất», đặc điểm quan trọng nhất của lẻ sĩ là «bất khuất trước bạo tàn». Chí khí ấy được rèn luyện, nuôi dưỡng hằng ngày và được chứng tỏ bao lần trong lịch sử trước ngoại xâm cường bạo., nhứt là dưới thời kỳ thực dân Pháp... Kẻ sĩ đương nhiên phải là nhà ái quốc: như các cụ Phan Đ́nh Phùng, Phan Sào Nam, Vân vân...

Tuy chú trọng trước tiên đến đức độ, nhưng kẻ sĩ cũng không quên trau dồi trí độ, v́ đặc điểm thứ hai của kẻ sĩ là «người cầu tiến». Muốn hành động một cách dũng cảm, cần phải chắc chắn trong sự hiểu biết và phán đoán của ḿnh. Muốn được vậy, cần phải suy nghĩ thấu đáo trước sau, trong cũng như ngoài ḿnh. Rèn luyện trí óc để biết đúng mà dấn thân không sai lạc và có hiệu quả. Kẻ sĩ một khi đă thấy rơ con đường do trí tuệ soi sáng, th́ không c̣n do dư dự ǵ nữa, chỉ một mực tiến lên con đường mà họ đă vạch sẵn [2].

Nhưng kẻ sĩ cũng rất dè dặt, khiêm nhượng và thành thật đối với ḿnh. «Biết những ǵ ḿnh biết, biết những ǵ ḿnh không biết, đó mới thật là biết» [3]. Tử Lộ hỏi Đức Khổng về việc chết, Đức Khổng đáp : «Việc sống c̣n chưa biết, biết chi đến việc chết» [4], và không bàn thêm nữa...

Tuy nhiên chung quy lại, trí tuệ và dũng cảm cũng chỉ là hai đức tính phụ thuộc, hai phương tiện bổ túc, nhắm thực hiện và phát huy hai đức tính vi tiên nơi kẻ sĩ, là «nhân» và «nghĩa».

Có dũng cảm mà không có trí tuệ th́ sẽ đưa đến những việc làm liều lĩnh tai hại. Có dũng cảm mà không có nhân nghĩa th́ sẽ sinh ra trộm cướp bất nhân. Có trí tuệ mà không có dũng cảm, th́ tuy thấy việc phải mà không làm («Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dă») [5]. Có trí tuệ, dũng cảm mà không có ḷng nhân, th́ trong hành động sẽ đưa đến cường bạo, v́ quên lấy con người làm gốc. C̣n có ḷng nhân mà không có trí, dũng, th́ chỉ có tấm ḷng thương người rào rạt, nhưng rồi chỉ «than mây khóc gió», chứ không hành động ǵ cụ thể để giúp người. «Nhân, trí, dũng», đó là ba đức tính không thể không có nơi kẻ sĩ [6].

Ở đây chúng ta thấy rơ đặc tính của kẻ sĩ gần giống như châm ngôn của người Phật tử. «Nhân, trí, dũng» thay v́ «bi, trí, dũng». Vậy «nhân» khác với «bi» ở điểm nào? Đạo Phật lấy chữ «bi» làm gốc, cũng như kẻ sĩ lấy chữ «nhân» làm gốc. Là một tôn giáo nhắm giải thoát vượt trên cả vũ trụ thế gian, tâm tánh từ bi nơi Phật giáo là một t́nh thương vô biên vô hạn, không loại trừ một ai, t́nh thương bao trùm cả mọi sinh vật trên đời.

 

(bi) 

(trí)

(dũng)

 

  (nhân)

(trí)

(dũng)

 

«Nhân» cũng là «ḷng thương mọi người» (3). Nhưng Khổng giáo là một học thuật nhắm cải tạo xă hội một cách trực tiếp và cụ thể hơn, cho nên «t́nh thương mọi người» nơi kẻ sĩ, cũng v́ vậy mà phải được thích nghi với thực tế và giới hạn hơn. Tử Lộ hỏi Đức Khổng: «Người có ḷng nhân có ghét ai chăng?» Đức Khổng đáp «Có», và tiếp theo «Chỉ người có ḷng nhân mới thương người và ghét người một cách đúng đắn» (4). Vậy «nhân» là t́nh thương, tuy rộng lớn bao la, nhung có phân biệt giới hạn, có suy xét lựa chọn, để hành động được hiệu quả thực tế trong đời.

Nói tóm lại, lư tưởng của kẻ sĩ thời xưa không phải chỉ rèn luyện bản thân ḿnh, mà chính c̣n là dấn thân để cải tạo xă hội, xây dựng quốc gia phú cường ; quyền lợi chung của dân tộc là điều thao thức lo âu trước tiên của kẻ sĩ (5): «Tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ». Có thể nói kẻ sĩ là người kiểu mẫu trong bất cứ xă hội nào lấy đạo đức làm nền tảng và lấy hoà hợp nhân t́nh làm chung đích.

Ngày nay, với biến chuyển của nhân t́nh thế thái, với sự xáo trộn văn hoá, kẻ sĩ chỉ c̣n la một h́nh ảnh lu mờ trong kư ức, nhường chỗ lại cho một hạng người mà người ta thường gọi là «trí thức». Vậy chúng ta hăy xem những đặc tính của người trí thức.

 

 

II - NGƯỜI TRÍ THỨC :

Thế nào là người trí thức ? Có rất nhiều định nghĩa, nhưng tóm tắt, dựa trên nội dung do mỗi tác giả, chúng ta có thể phân biệt hai quan niệm về trí thức: một có tính cách nhân bản và một có tính cách xă hội.

Quan niệm có tính cách nhân bản thường nhấn mạnh đến giá trị của cá nhân người trí thức, và danh từ «trí thức» hay đượm một màu sắc tốt đẹp cao cả. Trái lại quan niệm có tính cách xă hội thường xem người «trí thức» chỉ như là một đơn vị trong một giai cấp xă hội nào đó: v́ có một địa vị, hoặc một vai tṛ nào đó trong xă hội, nên được gọi chung là «trí thức», chẳng hạn người ta dùng danh từ «trí thức» để chỉ tất cả những «người làm việc bằng óc năo» («travailleurs intellectuels»), để phân biệt với những người làm việc bằng tay chân («travailleurs manuels»). Trong trường hợp này, danh từ «trí thức» có tính cách «trung hoà» (neutre). Lại có khi không những không được đượm một màu sắc nào cả, mà c̣n có phần bị xem như là thấp kém, so với những giai cấp xă hội khác (1). Riêng về chúng ta, chúng ta sẽ thử t́m hiểu «trí thức» một cách chính danh hơn.

Trí là ǵ? Phàn Tŕ hỏi Đức Khổng về trí, Đức Khổng trả lời: «Trí là hiểu người» (2). Trí là khả năng suy luận để phán xét phải trái, tốt xấu. Không những «hiểu người» mà c̣n hiểu vật chung quanh ḿnh: «cách vật trí tri».

Hơn nữa, chữ «Trí» gồm có chữ «tri» (biết) và chữ «viết» (nói) mà ra. Người có trí không nghững là người hiểu biết sự vật phải trái, mà c̣n có khả năng diễn tả một cách minh bạch - bằng lời nói, bằng bút mực, hoặc bằng hành động - những hiểu biết của ḿnh ra cho những người khác biết, nhắm mục đích giúp kẻ khác cải tạo và đóng góp vào ích lợi chung.

 

(tri)

(viết)

(trí)

 

Một người dù có kiến thức quảng đại, sáng suốt đến đâu, thấy đâu là xấu tốt phải trái, mà chỉ im lặng, chỉ giữ hiểu biết ấy cho riêng ḿnh, không có can đảm, hoặc không đủ nghị lực để phát biểu ra, th́ người ấy chưa xứng đáng là người «trí». Họ chỉ mới xứng đáng với danh từ «tri», là «người có hiểu biết mà thôi».

 

«Thức» là thức tỉnh, là tự hiểu ḿnh. «Connais-toi toi-même» của Socrate. Thức thuộc về sự hiểu biết nội tâm nơi ḿnh, hơn là hiểu biết ngoại vật bên ngoài. Vả lại chữ «thức» gồm có chữ «ngôn» (lời nói: một tư tưởng vừa nảy ra, suy nghĩ 3 lần, rồi phát biểu ra bằng miệng, đó là lời nói), chữ «âm» (tiếng vang) và một bộ có nghĩa là tác dụng: lời nói bên ngoài có tác dụng phản chiếu vào tâm khảm bên trong và làm thức tỉnh ḿnh. Có thể nói chữ «thức» gần như đồng nghĩa với chữ «giác» (phần trên là nửa trên chữ «học», phần dưới là chữ « kiến» là thấy) trong Phật giáo.

 

(tam)

(khẩu)

(ngôn)

 

(ngôn)

(âm)

(thức)

 

(học)    

         

(kiến)

(giác)

 

Trí thuộc «hiểu biết» (science, savoir), thức thuộc về «lương tri» (conscience). Người trí thức, theo đúng nghĩa của danh từ, là người vừa hiểu biết sự vật, vừa hiểu ḿnh, «hiểu người hiểu ta», và những kiến thức ấy, họ đem diễn tả, chỉ dẫn cho người khác biết, hầu mong ích lợi chung. Như vậy, người trí thức phải là người vừa có đủ tài trí (science), lương tri (conscience) và đức độ (caractère).

 

(trí)

(thức)

 

Ở đây chúng ta cũng thấy thoáng qua ba đức tánh của kẻ sĩ đă vạch ra ở trên, là «nhân, trí, dũng». Nơi người trí thức, tài trí thuộc về «trí», lương tri thuộc về «nhân», và đức độ thuộc về «dũng» - phải có dũng cảm để dám nói lên sự thực, dù phải có hại cho ḿnh.

Nhưng trí thức khác nhau với kẻ sĩ ở một điểm rất quan trọng, là «trí» được kể như vi tiên, được xếp vào hàng đầu, thay v́ «nhân» nơi kẻ sĩ: kiến thức khoa học được đặt nặng trước tiên, thay v́ sự rèn luyện tâm linh, thay v́ «tiên học lễ, hậu học văn» nơi kẻ sĩ.

Mẫu người lư tưởng theo quan niệm ngày nay - trí thức - trước tiên phải có kiến thức rộng thay v́ nhân nghĩa, đức độ cao, như người lư tưởng ở xă hội thời xưa. Hay nói một cách đúng hơn, đó là hai quan niệm khác nhau giữa văn hoá Tây phương và Đông phương. Tây phương và tân học chuộng về thông thái (le savant), Đông phương và cựu học chuộng về đức độ (le sage).

 

Sau khi đă định nghĩa danh từ «trí thức», chúng ta hẳn thấy rơ rằng có một số rất đông những người tự mệnh danh, hoặc được người ta gọi là «trí thức», thật ra không xứng đáng với danh từ ấy, theo đúng nghĩa của nó. Nói riêng về Việt Nam, người có đỗ đạt, có bằng cấp cao không thiếu ǵ, nhưng họ không phải là người trí thức, v́: người ta có thể «thông thiên văn, đạt địa lư» nhưng tâm khảm chỉ là một mảnh đất hoang vu, nghèo nàn về tâm tánh, đức độ; người ta có thể «cách vật trí tri», nhưng chưa tự thức được ḿnh; người ta có thể thấy rộng hiểu xa, có thể giác ngộ được ḿnh, nhưng không có can đảm hoặc nghị lực để nói lên sự thực mà ḿnh biết, hầu chỉ dẫn đúng đường cho quần chúng, nhắm mục đích giác tha và ích lợi chung.

 

LONG BIÊN

 

 

 

[1] Xem định nghĩa bên dưới. 

[2] Luận Ngữ, q. 5, ch. 9 & q. 7, ch. 14. 

[3] Sđd, q. 1, ch. 2 

[4] Sđd, q. 6, ch. 11 

[5] Sđd, q. 1, ch. 2 

[6] Sđd, q. 7, ch. 14

 

 

Kẻ sĩ ngày xưa và người trí thức ngày nay

 

Hoạt động của giới trí thức cũng như mọi hoạt động khác trong đời sống xă hội, kinh tế, chính trị, học thuật...đều là h́nh thái của văn hóa. Văn hóa lại là phần hồn của một nước. Văn hóa cũng là văn minh, cũng là giáo dục. Đối với văn hóa, giáo dục có nhiệm vụ kép: "Giáo dục vừa xây dựng văn hóa cho ngày mai thụ hưởng, vừa vun bồi kế thừa truyền thống văn hóa của ngày hôm qua." (1) Nói gọn lại là nhiệm vụ xây dựng cái mới và vun bồi, kế thừa cái cũ. Kẻ sĩ xưa và trí thức nay theo nghĩa hẹp là tên gọi khác chỉ người học, người có chữ nghĩa, học cao hiểu rộng và có lương tâm, lương thức. Kẻ sĩ và trí thức khác nhau về cái học (nội dung đào tạo, phương pháp rèn luyện, chỗ đứng trong xă hội) nhưng về vai tuồng, sứ mệnh đối với xă hội, với nhân tâm, thế đạo th́ không khác. Kẻ sĩ hay trí thức măi măi là h́nh thái văn hóa. Văn hóa là phần hồn của đất nước. Cái học ngày xưa có ǵ khác với cái học ngày nay ? Và kẻ sĩ ngày xưa nắm giữ vai tuồng ǵ đối với quốc gia, xă tắc ?

Trước hết hăy luận bàn về cái học ngày xưa của kẻ sĩ. Chữ Sĩ trong hai tiếng Kẻ Sĩ ngày xưa chỉ người đi học, người học tṛ (Sĩ tử) c̣n chữ Kẻ là cách xưng hô khiêm hạ, nhún nhường. Học đường ngày xưa là "cửa Khổng sân Tŕnh". Mạng lưới giáo dục ngày xưa không quy mô như ngày nay. Học vấn, kinh sách mà người học nghiên cứu là Đạo Nho, c̣n gọi là Nho học. Nho học không đơn thuần là hệ thống tri thức mà c̣n là học thuyết về đạo đức. Người thông nho gọi là Nho sĩ. Nho học là môn học đạo đức và chính trị (hiểu theo nguyên nghĩa) - Cái chính trị diễn dịch từ đạo đức - Khác với ngày nay đạo đức diễn dịch từ chính trị. "Học cho biết cương thường đạo lư" (Đạo đức), học cho biết cách vật trí tri (Chính trị- Khoa học). Ngày xưa không tách rời đạo đức với chuyên môn. Chuyên môn gắn với đạo đức, nghề nghiệp (Đạo nghệ). Dạy đạo đức chính trị là dạy cách làm người và cách quản lư xă hội, lănh đạo đất nước. Từ thứ dân cho đến vương tử, muốn làm quan, làm vua đều phải qua cửa Khổng sân Tŕnh. Học hành, đỗ đạt, làm quan, về nhàn là chương tŕnh hành động của kẻ sĩ ngày xưa. Sĩ đứng đầu trong tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương). Sĩ đứng ở bậc thang giá trị cao nhất trong xă hội. Kẻ sĩ không nhất thiết xuất thân từ quư tộc mà có thể xuất thân từ giai cấp cùng đinh. Bằng con đường khoa cử, ai ai cũng có cơ hội tham gia quản lư xă hội, lănh đạo đất nước. Nho học chủ trương "Cử hiền tài". Ai có thực tài, thực học, là người hiền đức th́ được tiến cử. Kẻ sĩ được đắc dụng, trọng vọng, tôn vinh trong chế độ văn trị, đức trị. C̣n đối với chế độ pháp trị hà khắc, kẻ sĩ lại là thành phần nguy hiểm, dị ứng đối với bạo quyền, độc đoán. Xét về lịch sử, nhà Chu bên Tàu, là triều đại văn trị đầu tiên mở nhà học hoàn bị, đào tạo một số người nghiên cứu kinh sử để khi ra làm quan đem cái học ra giúp nước. Nhà Chu suy vong, nhà Tần dấy lên, Tần Thủy Hoàng theo chế độ pháp trị, độc tài bạo ngược, căm ghét học tṛ và sợ hăi kinh sách nên có chủ trương đốt sách chôn học tṛ (phần Thư khanh nho). Đến đời nhà Hán, Nho học được phục hưng, phục hoạt đă trở thành quốc học. Địa vị kẻ sĩ từ đây có cơ hội đem sở học của ḿnh ra giúp nước. Bằng con đường khoa cử, ai ai cũng có cơ hội tham gia quản lư xă hội. Theo quy luật xă hội, trong một chế độ không tạo cơ hội cho kẻ hiền tài tham chính th́ bọn xôi thịt có nhiều cơ hội đầu cơ chính trị. Khoa cử là sáng kiến của nhà Hán, đă đưa địa vị kẻ sĩ lên đứng đầu tứ dân.

    "Từ Chu Hán vốn sĩ này là quư"

                                 (Nguyễn Công Trứ)

 Ở nước ta, nhà Lư kế thừa nhà Đinh, nhà Tiền Lê giữ vững thời đại tự chủ đối với giặc phương Bắc. Thời Lư là thời đại vàng son trong lịch sử nước ta. Được như vậy là nhờ thời Lư mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Lăo) để tạo nhiều cơ hội cho nhiều ư hệ tham gia chính trường. Mặc dù Phật giáo vẫn là quốc giáo song Nho học vẫn được đề cao. Các vua đời Lư đă đưa con đến cửa Khổng sân Tŕnh để học làm người trước khi làm vua. Nhà Trần kế thừa nhà Lư vẫn tiếp tục mở các khoa thi Tam giáo. Nhờ vậy mà nhà Trần đă ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông. Đến đời nhà Lê, độc tôn Nho giáo, loại trừ nhiệm vụ giáo dục của tôn giáo. Do vậy mà nhà Lê bị cô lập dẫn đến hậu quả mất nước về tay giặc Minh. Ở những triều đại rộng mở, phóng khoáng, dung nạp được nhiều tư tưởng trái ngược, giữa thế quyền và kẻ sĩ ăn ư cùng nhau, cùng nhau hợp tác. Vua th́ có quyền, kẻ sĩ th́ có học.

Cả hai trợ lực nhau trị an xă hội, giữ vững chế độ. Kẻ sĩ ngày xưa có hai con đường hành động : Xuất và Xử. Xuất là ra làm quan, Xử là lui về ở ẩn. Nếu gặp minh chủ th́ ra hợp tác. Nếu gặp hôn quân th́ ra treo ấn từ quan, lui về ẩn dật. Đó là khí tiết kẻ sĩ. Dù Xuất hay Xử bao giờ cũng chính tâm thành ư, một mực giữ đạo cương thường. Cổ thời, có những mỹ từ dùng để tôn vinh, ngưỡng phục, đề cao kẻ sĩ như : Sĩ hạnh, Sĩ khí, Sĩ tiết, Danh sĩ, Học sĩ hàn lâm, Chí sĩ...

Tuy vậy, trong giới Nho học vẫn không ít bọn hủ nho, ngụy nho do đọc không hết sách, hiểu không hết lời, tri hành không hợp nhất (cũng như ngày nay bên cạnh chân trí thức vẫn không ít ngụy trí thức, ác trí thức)

Người trí thức ngày nay có ǵ khác so với kẻ sĩ ngày xưa ? Dùng quan niệm người trí thức thay cho quan niệm kẻ sĩ không được tương thích cho lắm. Nhưng không có từ nào thích hợp hơn. Quan niệm về người trí thức ngày nay thật khó mà giới thuyết rạch ṛi, định vị phân minh. Tuy vậy giữa kẻ sĩ và trí thức vẫn có một điểm đồng là người có học (có sở tri, có sở kiến). Chỗ khác biệt rơ nét nhất là cái học ngày xưa và cái học ngày nay khác nhau về nội dung, về phương pháp, về mục tiêu đào tạo. Ngoài ra địa vị và vai tṛ của người trí thức ngày nay không được đề cao, trọng vọng như xưa. Tuy nhiên như đă nói ở trên, kẻ sĩ hay trí thức đều là sản phẩm của một nền giáo dục mà giáo dục cũng là văn hóa. Đối với văn hóa, giáo dục có hai nhiệm vụ chính: Vừa xây dựng, định hướng cho ngày mai thụ hưởng, vừa vun bồi, kế thừa truyền thống văn hóa của ngày hôm qua. Trí thức của ngày hôm nay không thể đoạn tuyệt, quay lưng lại truyền thống văn hóa của ngày hôm qua. Những sở tri, sở học, sở kiến, sở đạt của trí thức ngày hôm nay, phát nguyên từ nguồn mạch của văn hóa truyền thống. Phủ nhận văn hóa truyền thống là tự bóp chết cái hồn của dân tộc, là bất tiếu (2). Jasper định nghĩa văn hóa là cái ǵ c̣n lại sau khi ta quên hết. Cái c̣n lại đó là cái hồn, cái tinh hoa, tinh túy của cả dân tộc. Không có ǵ hoàn ṭan mới mà không ẩn chứa cái cũ. Cụ Nguyễn Công Trứ nói "Chỗ mà ngày nay chúng ta ngồi th́ người xưa đă từng ngồi rồi" (Ngă kim nhật tại tọa chi địa. Cổ chi nhân tằng tiên ngă tọa chi). Một nền giáo dục không chú trọng đến cổ văn, cổ sử th́ sớm muộn ǵ cũng đào tạo một lớp trí thức lai căn, mất gốc (chương tŕnh văn học cổ ngày nay chỉ giúp cho Thầy và Tṛ dắt nhau vào một gian hàng đồ cổ, chỉ có thể liếc mắt nh́n qua rồi đi ra chứ không mang ǵ được về nhà). Dưới thời Pháp thuộc, Tây học thay thế cho Nho học, Trần Tế Xương đă than thở :

"Cái học nhà Nho đă hỏng rồi !

Mười người đi học chín người thôi "

Đất nước bị đô hộ th́ tất nhiên văn hóa bị nô dịch. Cái học nhà Nho đă hỏng v́ chẳng mấy ai c̣n đi học Nho song cái hồn của Nho sĩ vẫn c̣n đó. Các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng không chỉ là những nho sĩ kiệt xuất mà c̣n là những chí sĩ yêu  nước thương ṇi. Bài thơ "Bài ca chúc Tết thanh niên" của cụ Phan Bội Châu là hồi chuông cảnh tỉnh, đánh thức biết bao thanh niên mê chơi, mê ngủ trước cảnh quốc phá gia vong. Khi tự ḿnh nhổ ra khỏi gốc rễ truyền thống th́ chẳng khác nào những cô hồn sống không nơi nương tựa.

Trí thức ngày nay là hậu duệ của kẻ sĩ ngày xưa. Đă là hậu duệ ít nhiều cũng ảnh hưởng gen di truyền của tổ tiên ngày trước.Địa vị xă hội của trí thức ngày nay không c̣n được đề cao trọng vọng như ngày xưa. Xă hội ngày nay bị phân hóa ra làm nhiều giai cấp, tầng lớp và người ta chỉ chú trọng đến kinh tế hơn là trí thức, tâm linh. Ngày nay, các đại gia, các nhà đầu tư làm chủ xă hội. Những người trí thức có văn bằng cao đi làm thuê cho các doanh nghiệp. Các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp cấu kết với quyền lực chính trị để có đặc quyền, đặc lợi. Ngoài ra do nhu cầu giải trí càng ngày càng cao nên giới thể thao, giới tài tử điện ảnh, giới ca sĩ được coi trọng hơn cả trí thức (nhiều ca sĩ nổi tiếng mang bệnh "ngôi sao", được phỏng vấn trên truyền h́nh tỏ ra hănh tiến, hợm hĩnh kênh kiệu một cách lố bịch). Ngày nay văn hóa đọc cũng bị lấn át bởi văn hóa nghe nh́n.

Qua nhiều giai đoạn lịch sử, số phận của kẻ sĩ cũng như trí thức cũng lắm thăng trầm. Có thời kỳ trí thức là thành phần nguy hiểm cần phải "Đào tận gốc, trốc tận rễ". Thậm chí có thời trí thức bị coi như "cục phân". Nhưng dù ở hoàn cảnh nào th́ người trí thức vẫn giữ được tiết tháo của ḿnh. Kẻ sĩ ngày xưa "Uy vũ bất năng khuất. Phú quư bất năng dâm. Bần tiện bất năng di." Tuy vậy ngày nay vẫn có loại trí thức "trùm chăn", im tiếng, thờ ơ, bàng quan trước những bất công xă hội, cường quyền bạo ngược.

Trí thức ngày nay cũng khác kẻ sĩ ngày xưa về nội dung giáo dục đào tạo. Ngày nay khoa học phát triển đ̣i hỏi có sự chuyên biệt hóa các ngành học. Môn học đạo đức tách ra ngoài các khoa học chuyên môn. Đào tạo chuyên môn và giáo dục đạo đức là hai ngành học khác nhau. Ngày xưa, kẻ sĩ vừa học cương thường đạo lư (đạo đức) vừa học "cách vật trí tri" (Khoa học), vừa học văn vừa học vơ. Thành ngữ "Nho khả bách vi" nói lên tính đa năng, đa dụng của kẻ sĩ.

Cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa, khi th́ xử án, lúc đi dinh điền, lúc viết sử, lúc đánh giặc, lúc làm thơ. Ngày nay do hiểu biết của xă hội vô cùng rộng lớn nên học chuyên ngành là điều tất yếu. Nói như vậy không phải chỉ có những giáo sư, văn sĩ, học giả mới là trí thức. Bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nhà toán học vẫn là trí thức. Quư hồ là những người này có văn hóa, có tinh thần khoa học, có lương tâm nghề nghiệp. Có tri thức, có học vấn chưa chắc là có văn hóa. Đành rằng muốn có văn hóa phải thông qua học vấn. Tri thức khoa học là điều kiện ắt có chứ chưa đủ có để trở thành người trí thức. Có người cho rằng người lao động trí thức (intellectual worker) không phải là trí thức. Nói vậy e không đúng. Người lao động trí thức vẫn là người trí thức nếu họ có lương tâm khoa học. Einstein nói "Khoa học mà không có lương tâm là sự tàn lụi của tâm hồn". Cũng có người cho rằng người trí thức là người lao động trí óc. Điều này e cũng không đúng. Bởi v́ lao động nào mà chẳng cần đến trí năo ? Hơn nữa một người lao động chân tay có vận dụng trí óc một cách triệt để, chịu khó rèn luyện, học tập, mài ṃ phát minh ra những máy móc cải thiện kỹ thuật lao động chẳng phải trí thức ư ? Trái lại một bác sĩ chuyên móc tiền trong túi bệnh nhân; một kỹ sư không chế nổi một cái máy thông dụng, một giáo sư toán lư luận tiền hậu bất nhất, nhà văn nhà báo bẻ cong ng̣i bút ...họ cũng không phải là trí thức.

Người lao động trí óc mang nhiều nọa tính (3) : không động năo, không tỉnh thức, thiếu trách nhiệm đối với cộng đồng, không biết đau niềm đau của tha nhân, không ưu thời măn thế cũng không gọi là trí thức.

Thông thường những người học cao, chuyên môn cao, được mệnh danh là trí thức. Điều này cần phải xét lại. Học cao, chuyên môn cao phải có thực học, thực lực, thực tài và thực tâm mới xứng đáng là trí thức. Bây giờ vàng thau lẫn lộn, thực-giả bất minh, bằng giả tràn lan, bằng thật mà học giả cũng không ít. Cho dù bằng thật, học thật mà không băn khoăn thao thức về những tệ nạn trong xă hội, những tệ đoan trong đời sống văn hóa, những bất b́nh trong nhân dân... th́ cũng chưa thể gọi là trí thức. Đó là loại ngụy trí thức, tuy có thực tài, thực học nhưng chỉ dùng tài trí của ḿnh, bằng cấp, học vị của ḿnh để phủ đầu, áp đảo những trí thức khác kiểu "Vú lớn lấp miệng em".

Chân trí thức bao giờ cũng vừa tỉnh thức vừa đánh thức xă hội, định hướng xă hội, dẫn dắt quần chúng hướng về Chân-Thiện-Mỹ. Thời nay, có nhiều người bằng nào cũng lấy, hội nào cũng vào, ghế nào cũng ngồi, chức danh nào cũng đạt, song không hề có một phát minh, phát kiến nào mới mẽ cho nhân quần xă hội nhích thêm một bước nào.

Kẻ sĩ ngày xưa là người quân tử có vai tṛ định quốc an dân. Họ luôn quan tâm đến nhân tâm thế đạo, sự hưng vong của đất nước. Họ tự nhận là cán bộ của Nho giáo. Dù xuất hay xử, ra làm quan hay lui về ẩn dật vẫn một niềm ưu ái đối với dân, với nước. Trí thức ngày nay cho dù có học vấn, chuyên môn cao nhưng không quan tâm đến cộng đồng, xă hội, không gây được ảnh hưởng ǵ trong đời sống văn hóa, học thuật, không lắng nghe được tiếng kêu than nơi thôn cùng xóm vắng...  th́ cũng chỉ là những "ông phổng đá" mà thôi . Trái lại, có những vị mới chỉ đậu tú tài như cụ Nguyễn Hiến Lê đă miệt mài tự học, tự rèn luyện để trở thành một học giả có uy tín và có tầm ảnh hưởng to lớn trong nhiều thế hệ. Riêng tủ sách học làm người của cụ đă giúp cho không ít người hoàn thiện được nhân cách làm người đích thực là người. Cụ xứng đáng với lời khen tặng   :

"Phú quư mạc cầu, phấn phát băng tâm cư loạn. Thư hoa chân ái, sổ thiên văn tự lưu phương." (Phú quư chẳng cầu, giữ tấm ḷng son thời loạn. Sách hoa riêng thích, để đời văn tự ngàn chương)

Công tŕnh học thuật của cụ Nguyễn Hiến Lê có ảnh hưởng lâu dài và to lớn cho nhiều thế hệ mai sau.

Cái học ngày xưa khác cái học ngày nay, không những về nội dung mà c̣n về phương pháp học. Sách Trung Dung dành riêng một phần quan trọng bàn về phương pháp học tập của Nho sĩ ngày xưa. Phương pháp này đại loại tóm gọn trong mấy từ sau :  Bác học (người đi học phải học cho giỏi) thẩm vấn (hỏi th́ hỏi cho kỹ); thận tư (suy nghĩ th́ suy nghĩ cho cẩn thận); minh biện (biện luận cho rơ ràng); đốc hành (cố tâm thực hành điều ḿnh biết). Học th́ phải học cho thật giỏi, nghĩ th́ phải nghĩ cho ra lẽ, hỏi th́ phải hỏi cho biết mới thôi, làm th́ phải làm cho hết sức ḿnh. Ngoài ra phải khiêm tốn, thật thà, không giấu dốt, không nói những điều ḿnh không biết rơ (biết th́ nói là biết, không biết th́ nói là không biết, ấy là biết vậy - Khổng Tử). Phương pháp rèn luyện của người trí thức là tự ḿnh thấy, tự ḿnh nghĩ ra điều tự ḿnh thấy để hành động khi đă thực biết.

Cũng có những phương pháp giáo dục áp đặt, nhồi sọ bắt buộc người học phải nh́n một hướng, nghĩ một chiều, nói một kiểu, làm một cách, thiên về một phía.

Chỗ dị biệt rơ nhất của kẻ sĩ ngày xưa và trí thức ngày nay là nội dung và phương pháp học tập, rèn luyện. Tuy nhiên vẫn có một điểm tương đồng là vai tṛ, sứ mạng của kẻ sĩ ngày xưa không khác ǵ với vai tṛ và sứ mạng của trí thức ngày nay. V́ như trên đă nói, hoạt động của giới trí thức ngày nay cũng như những hoạt động khác của đời sống dân tộc đều là h́nh thái của văn hóa. Văn hóa lại là phần hồn của một nước. Văn hóa vừa là văn minh mà cũng vừa là giáo dục. "Nhiệm vụ của giáo dục vừa xây dựng văn hóa cho ngày mai thụ hưởng, vừa vun bồi, kế thừa truyền thống văn hóa của ngày hôm qua" (4)

Kẻ sĩ xưa và trí thức nay đều là sản phẩm của một nền giáo dục. Trí thức ngày nay vẫn c̣n giữ được địa vị tinh thần của kẻ sĩ ngày xưa. Muôn đời, trí thức vẫn là người cầm bó đuốc tinh thần của nhân loại, giữ vai tṛ lănh đạo tinh thần của một dân tộc. Trong một xă hội nặng mùi vật chất, đồng tiền là vạn năng, giá trị tinh thần thuộc về thứ yếu, đời sống tâm linh nghèo nàn, t́nh người đắt đỏ hiếm hoi...th́ địa vị tinh thần của người trí thức cần được đề cao, coi trọng hơn bao giờ hết. Quốc gia, dân tộc hưng thịnh hay suy vong th́ người thất học cũng phải có trách nhiệm huống chi là người có học (quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách).

 

 

---------------

Chú thích:

(1) Trích bởi Thạch Trung Giả

(2) Bất tiếu (Dégénéré) : Không giống- không giống cha mẹ- con hư- người ngu đối với người hiền.

(3) Nọa tính : Tính yếu ớt, nhu nhược, nhát nhớn, chây lỳ, tŕ trệ.

(4) Trích bởi Thạch Trung Giả..

 

 

Kẻ sĩ xưa và nay: Nỗi cô đơn triền miên

Nguyễn Quang Thân

 

Kẻ sĩ Bắc Hà được nhắc tới và nói đến nhiều có lẽ từ thời Lê Mạt nhiễu nhương, tiếp đến là Trịnh Nguyễn phân tranh rạch đôi sơn hà Nam – Bắc và sau đó là triều đại Quang trung Nguyễn Huệ chói ḷa rồi tắt nhanh như sấm sét. Chưa bao giờ đất nước và ḷng người bị chia rẽ, phân tâm như thời ấy.

Dân chúng lầm than đói khổ, nông dân khởi nghĩa và giặc giă nổi như rươi, kỷ cương rối loạn, văn hóa suy đồi. Hào quang khí phách Chu Văn An nhiều trăm năm trước vẫn le lói trong tâm thức kẻ sĩ. Khác hẳn với xă tắc trước đây là một mối “vững âu vàng”, từ thời thịnh Trần, sau đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tạo dựng một triều vua có thể nói là thịnh trị nhất trong lịch sử.

Kẻ sĩ từ Lư Thường Kiệt đến Nguyễn Trăi, Trần Nguyên Hăn, Đặng Dung và bao sĩ phu khác hầu như chỉ có một con đường để chọn là đuổi giặc xâm lược phương Bắc, cứu dân, cứu nước. Chưa có “Nam Hà” nên cũng chưa ai nói tới “sĩ phu Bắc Hà”.

Nhưng từ Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau đó khá lâu là Nguyễn Thiếp, giới sĩ phu đă vấp phải trước mắt ḿnh những ngă ba đường khắc nghiệt của lịch sử. Vốn được nuôi dưỡng bằng bầu sữa Nho giáo hàng trăm năm với tinh thần trung quân miễn bàn, họ bỗng choáng ngợp trước quá nhiều ông vua để thờ, nhiều triều vua để chọn.

Khi khuyên Nguyễn Hoàng vào Nam “vạn đại dung thân”, Trạng Tŕnh đă đánh dấu một giai đoạn lịch sử mới. Một đất nước đang tan ră, đang phân liệt và kẻ sĩ vốn chỉ biết có nhà Lê đang tự hỏi ḿnh về tính chính thống c̣n hay mất? Trong cuồng phong loạn ly với những cơn xoáy mănh liệt, nhân cách con người và trước hết là của giới tinh hoa có học được h́nh thành như là một phản ứng tự vệ.

Nhà thơ Aragon rất có lư khi viết câu thơ: “Khi tấm kính nhân dân bị che mờ th́ mặt người soi vào càng thấy rơ”. Kẻ sĩ được đặt trước những nan vấn đụng chạm đến cả đức tin đạo Nho khi cung Vua phủ Chúa tràn ngập rác rưởi, dâm loạn và thối nát. Những Thị Huệ, Đặng Mậu Lân hay Huy quận công chà đạp lên nhân phẩm của một xă hội từng có kỷ cương đang rữa nát.

Kẻ sĩ – người có học, được coi là lương tri của thời đại không thể không tự dằn vặt là ḿnh đang buộc phải “trung” với loại vua nào, chúa nào. Nhưng chữ nghĩa và đạo đức thánh hiền cùng tính cách học tṛ thừa bạc nhược, không cho phép họ hành động, không cho họ làm những ǵ họ nghĩ, họ muốn làm.

Mấy ai được như Nguyễn Hoàng dứt áo ly khai? Mấy ai được như Nguyễn Hữu Cầu, bỏ văn lấy vơ với khát vọng san bằng bất công, sắp xếp lại giang sơn? Hay như Lư Trần Quán tự chôn sống ḿnh để bảo toàn khí tiết?

Cặp bài trùng bạn đồng môn Phạm Đ́nh Trọng – Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) thời Lê Trịnh và Thần Siêu – Thánh Quát thời Minh Mạng cũng như mối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng thiên tài Nguyễn Du, cục máu đông không thể tan, với hàng chục năm lận đận t́m đường chống Tây Sơn, tỏ ḷng trung với nhà Lê đă bộc lộ hết sức rơ ràng sự giàng xé tâm can kẻ sĩ Bắc Hà đương thời.

Những kẻ sĩ khí phách như Nguyễn Hữu Cầu vứt đường công danh làm giặc, như Cao Bá Quát, thiên tài thi ca vẫn ước ao “Ngă dục đăng cao/ Hạo ca kư vân thủy” (Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất/ Hát vang lên để gửi tấm ḷng vào mây nước...), dám cầm gươm nổi loạn để kết thúc cuộc đời trên chiến trường.

Hay như Nguyễn Du bảo hoàng hơn cả vua, ôm mối trung quân, muốn “làm giặc” chống “giặc Tây Sơn” tuy cầm gươm không nên cơm cháo ǵ, nhưng cây bút lông của ông đă viết trọn những trang huy hoàng nhất của văn thơ nước Việt. Dù có người làm “giặc” nhưng ngay cả người đương thời vẫn coi họ là “kẻ sĩ”, có nhân cách lớn của “kẻ sĩ”.

Nhưng kẻ sĩ Bắc Hà không chỉ làm giặc. Một số lớn bị quan niệm bảo hoàng và cả nợ áo cơm trói buộc, bị giằng xé đau đớn suốt cuộc đời trong nỗi cô đơn. Nguyễn Siêu không đủ gan làm giặc nhưng mang tâm trạng u uất, bất lực, đành để tâm trau giồi văn thơ cứu lấy tinh hoa văn hóa ( như chăm chút thắng cảnh Hồ Gươm), chỉ c̣n biết “tả thanh thiên” (viết lên trời xanh) đối thoại với trời xanh những điều không thể viết thành chữ thành lời.

Hay Nguyễn Công Trứ, nhà thơ lớn của dân tộc, có cái ngông, cái phản kháng trong bản chất, một nhân cách độc đáo, tuy bảy nổi ba ch́m trong hoạn lộ nhưng vẫn không dứt được tấm áo xanh quan văn và cả cân đai quan vơ, không thể thoát ra khỏi sức hút của bộ máy quyền lực mà trong thâm tâm ông khinh ghét.

Và măi tới sau này, khi triều Nguyễn đă ổn định trong cái ô “bảo hộ” của thực dân Pháp, khi nước đă mất như “tấm dư đồ rách nát” (Tản Đà) không t́m thấy ngày mai, những kẻ sĩ Bắc Hà như Nguyễn Khuyến, Tú Xương vẫn có cái tài ấy, cái ngông, cái phản kháng, cái thâm nho ấy, nhưng chi c̣n biết giữ được nhân cách kẻ sĩ bằng cách trút tâm sự vào những vần thơ trào lộng để đời mà thôi.

Một số kẻ sĩ lại có cách xuất xử khác thường. Trong làn sóng ngầm dữ dội và quyết liệt chống Quang Trung ở Bắc Hà với Lư Trần Quán, Trần Phương B́nh, Nguyễn Hành, Phạm Thái, Bùi Dương Lịch, kể cả Nguyễn Du…th́ một số sĩ phu Bắc Hà như Ngô Th́ Nhậm (1746 - 1802) , Phan Huy Ích (1751 - l822), Nguyễn Thế Lịch (1748 - 1817), Vũ Huy Tấn (1749 - 1800) cùng nhiều người khác, tự nguyện và cũng rất hồ hởi ra tŕnh diện và cộng tác với triều Tây Sơn mà có vẻ như không hề có mặc cảm “thờ hai vua”.

Họ rất được nhà vua áo vải trọng dụng. Sau khi Gia Long lên ngôi, họ bị làm nhục, trả thù tàn nhẫn. Nhưng sau đó, con cháu họ như Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh (con và cháu Phan Huy Ích) lại cộng tác và làm quan to với nhà Nguyễn, như quên mối thù xưa và khí phách kẻ sĩ.

 

Từ Nguyễn Hữu Cầu, Cao Bá Quát đến Phan Huy Ích, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Trứ cho tới Nguyễn Khuyến, Tú Xương và sau nữa là Tản Đà…mỗi người một vẻ, kẻ sĩ Bắc Hà khác nhau rất nhiều về cách xuất xử, về hành vi cũng như tính cách cá nhân. Nhưng chính khối mâu thuẫn ấy đă tạo nên một viên ngọc văn hóa, đó là nhân cách “kẻ sĩ Bắc Hà” với tính cách thâm thúy, học rộng tài cao, có sở hữu chung là cái ngông, cái thâm nho, có minh triết lẫn tù mù trí tuệ, tuy mỗi người biểu hiện những tính cách đó khác nhau, thậm chí trời vực, nước lửa.

 

Có số ít kẻ sĩ dấn thân thà chết không chịu nhục, bên cạnh đó cũng không ít người chấp nhận sống cảnh hàn nho, coi trời bằng vung nhưng luôn “mong được vua yêu”( Mười mấy năm qua ấn với thao/ Thân này mong được đức vua yêu – Nguyễn Khuyến), nói là hèn nhát trước đ̣i hỏi của thời cuộc cũng không oan.

 

Tuy thế, qua văn thơ, giai thoại, hành vi, họ đă tạo ra được một khái niệm văn hóa trường tồn cùng lịch sử, đó là khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà” với tất cả các mặt đối lập hay dở phong phú để hậu thế có thể tranh căi, b́nh luận thậm chí chế riễu và chiêm nghiệm học hỏi.

 

Có người nói rằng “kẻ sĩ Bắc Hà” đă chết. Chết với cảnh đầu rơi máu chảy của thi hào họ Cao, với chiếc roi tẩm thuốc độc của Đặng Trần Thường, cái nhẫn nhịn “mấy năm làm quan không nói một lời tâu vua” của Nguyễn Du, cuộc đời ưu thời mẫn thế, luôn bất măn nhưng bất lực của Nguyễn Khuyến, Tú Xương…

Thực ra không hẳn thế. Khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà” xưa đă trở thành truyền thống kẻ sĩ. Bất măn, phản biện và phản kháng để giữ nhân cách (tu thân) và sau đó là thay đổi hay uốn nắn thời cuộc (b́nh thiên hạ) theo những nguyên lư truyền thống được giáo dục và truyền đạt từ “nếp nhà” là đặc điểm của trí thức mọi thời chứ không riêng ǵ kẻ sĩ Bắc Hà.

Dù mang nhiều mặt đối lập, dù là một khối mâu thuẫn lớn, dù khí phách lẫn hèn nhát, truyền thống kẻ sĩ vẫn là một điểm son, một hạt ngọc có ảnh hưởng tích cực là chủ yếu trong tâm thức văn hóa Việt.

Văn miếu Quốc Tự Giám - nơi lưu danh những "kẻ sĩ"

Thế kỷ hai mươi, “khi tấm kính của nhân dân bị che mờ”, nước mất nhà tan hay kẻ thù mang gươm súng trở lại ḥng “đô hộ nước ta một lần nữa”, chắc chắn lịch sử sẽ không quên một lớp kẻ sĩ (không chỉ Bắc hà) đă thật sự phát sáng trên con đường cứu dân cứu nước. Tuyệt đại đa số trí thức hàng đầu, hậu duệ của tầng lớp kẻ sĩ ưu thời mẫn thế dù đă phiêu bạt nước ngoài hay c̣n ở lại trong nước đă tự nguyện hiến dâng cho đại nghĩa dân tộc.

 

Đó là lớp “sĩ phu” Tây học nhưng c̣n khá đậm tinh thần Nho giáo, dù mác-xít hay không, vẫn chấp nhận hy sinh mọi thứ để đứng dưới cờ kháng chiến như Hồ Đắc Di, Tạ Quang Bửu, Hoàng Xuân Hăn, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện…

Lớp kẻ sĩ thời đó, tuy bị ảnh hưởng sâu đậm của trí thức thế kỷ Ánh sáng như Voltaire, Diderot nhưng vẫn mang đầy đủ tính cách “kẻ sĩ” truyền thống, vẫn “ngông”, vẫn có bản chất phản biện và tính cách mạnh mẽ do hấp thụ hoặc sống nhiều năm trong xă hội phương Tây. Nhưng họ đă từ bỏ bản thân ḿnh, kể cả cuộc đời vật chất lầu son gác tía để đi theo và cố gắng thích nghi với kháng chiến. Sự hy sinh ấy không phải là nhỏ nhưng niềm tin vào cuộc hồi sinh của dân tộc đă làm họ lạc quan, thúc đẩy họ luôn hướng về phía trước. Nhà thần học Nguyễn Khắc Dương nhớ lại:

“Anh (Tạ Quang Bửu) đưa mắt nh́n quanh anh em rồi trầm giọng xuống nói rằng: “Anh rất thương các em, con đường học vấn của các em thế là dang dở. Rồi đây một số trong các em sẽ phải lên đường với một hành trang chưa đầy đủ như lớp các anh, dù sao cũng tạm gọi là một phần nào thành đạt. Trong các em rồi nhiều kẻ sẽ bị hy sinh dù là dưới dạng nào trên nẻo đường nào. Nhưng các em cứ mạnh dạn đi theo con đường của ḿnh và nên biết những biến chuyển lớn lao của lịch sử bao giờ cũng đ̣i hỏi rất nhiều hy sinh dưới rất nhiều dạng. Và dù hy sinh dưới dạng nào (có khi những dạng đối nghịch nhau) th́ những hy sinh của các em cũng trực tiếp hay gián tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng tương lai”. (Trích trong cuốn Thầy Nghệ - NXB Hà Nội).

Ta thấy rơ, sự giải phóng cá nhân từ văn hóa phương Tây trong tâm thức lớp kẻ sĩ thế kỷ hai mươi như ḍng sông lớn ḥa tan, làm nhạt dần chất “kẻ sĩ Bắc Hà” mà chúng ta hằng biết.

Sau thắng lợi vang dội thống nhất đất nước cũng như những bất cập của quá khứ trước Đổi mới, sau những thành tựu 20 năm chuyển ḿnh sang kinh tế thị trường, xă hội vẫn đang hiện hữu nhiều vấn nạn. Thất phu hữu trách nhưng trước hết là trí thức, những người có học đang phải đối mặt với những câu hỏi và giải pháp của thời đại ḿnh. Dấn thân luôn là bản chất của kẻ sĩ.

Kẻ sĩ thời nay đă có sẵn trong máu truyền thống kẻ sĩ thời Nho giáo thịnh hành hay từ lớp cha anh Tây học vừa khuất bóng chưa bao lâu. Cái sở học của họ không như cha ông. Họ đang sống trong một thế giới ḥa nhập, đặc biệt là xa lộ internet và có thể không sợ vô lễ khi cho rằng họ học cao tài rộng hơn cha anh (đương nhiên với sự phát triển của thế giới văn minh), tính độc lập suy nghĩ và chất phản biện vốn có sẵn trong con người kẻ sĩ mọi thời đại cũng mạnh mẽ hơn nhiều. Bởi v́ chất Nho giáo chưa hề tồn tại hoặc nếu có (những người xuất thân gia đ́nh nho giáo) th́ cũng đă nhạt nḥa.

Nhưng kẻ sĩ thời nay như ta quen nghĩ về họ đă làm được ǵ, đă xuất xử thế nào? Rơ ràng là họ chưa làm được ǵ nhiều. Bởi v́, trước hết nếu không nói là duy nhất, kẻ sĩ thời nay cũng không may mắn hơn kẻ sĩ thời xưa là không có được một cơ chế, một môi trường phản biện lành mạnh để họ có điều kiện giúp dân giúp nước.

Thời xưa đàn hặc, viết sớ, tâu tŕnh vua không nghe hoặc may ra trăm lần mới có một lần nghe. Nỗi đau không chỉ riêng của Chu Văn An, thật điển h́nh. Kẻ sĩ mặc nhiên rơi vào một nỗi cô đơn triền miên. Người lạc vào hẻm núi, kêu cứu vẫn c̣n có thể nghe được tiếng vọng. Nhưng kẻ sĩ bày tỏ tâm can thậm chí cũng không nghe thấy tiếng dội của ḷng ḿnh, c̣n hy vọng ǵ mắt xanh của “bề trên” nhiều khi lắm quyền lực nhưng không phải bao giờ cũng sáng suốt. Nay cũng không khác lắm ngày xưa.

Không ít kẻ sĩ nản chí đầu hàng v́ không chịu nỗi sự cô đơn. Thói quen thụ động và nhút nhát dẫn tới dễ dàng chấp nhận vô điều kiện mọi thứ gọi là chính thống. Có người coi Trời bằng vung nhưng vẫn có kẻ coi vung bằng trời.

Dù vậy, kẻ sĩ chưa chết. Tinh thần và khí phách của kẻ sĩ Bắc Hà chưa chết và sẽ không chết. Roi tẩm thuốc độc của Đặng Trần Thường chỉ giết được thể xác một Ngô Thời nhiệm chứ không nhục mạ được tinh thần kẻ sĩ.

Hơn bao giờ hết, trên con đường dẫn tới một Việt nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh, xă hội vẫn cần một tinh thần phản biện, khí phách kẻ sĩ, không nhân lượng với cái ác. Không thể tưởng tượng được một xă hội không c̣n kẻ sĩ dù trong số họ hoặc trong mỗi người không phải bao giờ cũng loại trừ được những cái dở, cái hèn, cái bàng quan.

Cô đơn luôn đồng hành một cách tự nhiên với những người nh́n thấy trước và mạnh dạn bước lên trước thời đại. Có câu nói:

“Nguy hiểm nhất là người chỉ đọc một cuốn sách”. Nhưng c̣n nguy hiểm hơn là những người được giao trọng trách trong xă hội, dắt dẫn dân chúng mà chưa từng đọc một cuốn sách. V́ thế, kẻ sĩ luôn vẫn là nguyên khí của mọi thời


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: