MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.(1)

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP v World Tribune

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v MediaMattersvSourceIntelvNewsupvIntelnews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao v Học Viện Công Dân v Danh Ngôn

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

Hiện trạng pháp lư mới ở Biển Đông

Posted on 30/08/2016 by The Observer

Nguồn: Nguyễn Bá Sơn, “A New Legal Landscape in the South China Sea“, The Diplomat, 26/08/2016

Ngày 12/07/2016, Ṭa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) đă ra phán quyết cuối cùng trong vụ kiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc. Với phán quyết này, Philippines được đông đảo dư luận cho là đă giành thắng lợi hoàn toàn trước Trung Quốc liên quan đến những yêu sách biển của Trung Quốc ở Biển Đông. Tuy nhiên, việc miêu tả vụ kiện trọng tài này như một cuộc chiến trong đó có bên thắng bên thua làm giảm ư nghĩa của hệ thống giải quyết tranh chấp theo UNCLOS. Một quan điểm như vậy cũng không phản ánh đúng tầm quan trọng của phán quyết đối với các tranh chấp ở Biển Đông, càng không hiểu được sự đóng góp của phán quyết đối với sự hợp tác trong tương lai v́ ḥa b́nh, thịnh vượng của khu vực và thế giới.

Phán quyết Trọng tài Biển Đông – câu trả lời có thẩm quyền cho những vấn đề pháp lư quan trọng

Như Ṭa đă nhận xét rất chính xác, “nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở ư định của Trung Quốc hay Philippines xâm phạm các quyền pháp lư của bên kia, mà nằm ở cách hiểu khác nhau một cách cơ bản về các quyền của mỗi nước theo Công ước tại các vùng biển trên Biển Đông”.

Thực vậy, đa số trong 15 đệ tŕnh Philippines đưa ra trước Ṭa có thể gói gọn lại trong hai vấn đề pháp lư chính mà giới luật quốc tế đă trăn trở từ lâu. Những vấn đề này có thể được thể hiện dưới dạng hai câu hỏi sau: (1) “Yêu sách về các quyền lịch sử của Trung Quốc ở Biển Đông có phù hợp với UNCLOS không để Trung Quốc có thể yêu sách vượt quá các giới hạn về vùng biển mà Trung Quốc được hưởng theo đúng Công ước?”; (2) “Các cấu trúc nhỏ bé ở quần đảo Trường Sa có thể được coi là “các đảo đầy đủ” có khả năng tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng hay không?”. Với các câu hỏi đóng này, các câu trả lời “có” hay “không” của Trung Quốc và Philippines tất yếu đẩy quan điểm của hai bên đối chọi nhau.

Chính từ bối cảnh trên mà người ta nên nh́n nhận mục đích của hệ thống giải quyết tranh chấp theo UNCLOS. Thực vậy, ư tưởng về một thủ tục giải quyết tranh chấp bắt buộc với quyết định có tính ràng buộc trong UNCLOS, mà Trọng tài theo Phụ lục VII là cơ chế mặc định, bắt nguồn từ nhận thức thực tế rằng các thành viên có thể có quan điểm không thể dung ḥa trong cách giải thích và áp dụng Công ước, do đó một phán quyết của bên thứ ba là cần thiết, nếu nói là không thể tránh được. Phụ lục VII của UNCLOS cũng trù định rơ ràng về trường hợp một bên tranh chấp không tham gia vào vụ kiện và định rơ rằng việc không tham gia đó không tạo thành rào cản cho tiến tiến tŕnh trọng tài.

Ṭa trong vụ kiện trọng tài Biển Đông đă diễn ra đúng như thiết kế và đă hoàn thành đúng những ǵ mà các nhà đàm phán UNCLOS đă dự kiến – một bằng chứng cho tính hiệu quả của hệ thống giải quyết tranh chấp theo UNCLOS. Quan trọng hơn cả, Ṭa đă đưa ra những câu trả lời hữu ích cho các câu hỏi pháp lư chủ chốt liên quan đến cơ sở và phạm vi các quyền được hưởng vùng biển ở Biển Đông. Phán quyết của Ṭa Trọng tài là của cơ quan có thẩm quyền và hơn thế nữa, bởi nó đạt được bằng sự đồng thuận với lập luận chi tiết, tỉ mỉ bởi 5 chuyên gia nổi tiếng về luật biển.

Tuân thủ và công nhận

Ṭa Trọng tài trong phán quyết ngày 12/7/2016 đă chấp nhận lập luận của Philippines, tuyên bố “các yêu sách về quyền lịch sử hoặc các quyền chủ quyền, quyền tài phán liên quan đến các khu vực biển ở Biển Đông bao quanh bởi “đường chín đoạn” là đi ngược lại Công ước và không có hiệu lực pháp lư, bởi v́ chúng vượt quá giới hạn về địa lư và các quyền trên biển mà Trung Quốc được hưởng theo Công ước”, và “không một thực thể nổi nào ở quần đảo Trường Sa có quyền tạo ra vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.

Như dự đoán, Trung Quốc đă ngay lập tức phản đối phán quyết của Ṭa theo cách Trung Quốc đă làm từ nhiều tháng trước. Bất chấp những ǵ Trung Quốc đă lập luận, về mặt pháp lư như đă được nêu rơ trong Công ước và được chính Ṭa nhấn mạnh, phán quyết là chung thẩm và phải được các bên tuân thủ một cách có thiện chí. Cũng cần chỉ ra rằng Ṭa đă xem xét tất cả các lập luận mà Trung Quốc vẫn nhắc đi nhắc lại từ trước đến giờ nhằm bác bỏ tính hợp pháp của tiến tŕnh trọng tài và đă bác bỏ chúng một cách thuyết phục.

Tuy vậy, vẫn tồn tại nghi ngại về khả năng tuân thủ phán quyết của Trung Quốc . Lư do có hai khía cạnh, đó là: sự phản ứng có vẻ rất dữ dội của Trung Quốc đối với vụ kiện trọng tài và việc thiếu một cơ chế đối phó với sự không tuân thủ của Trung Quốc. Trong khi lư do thứ nhất trong dài hạn có thể không c̣n đúng, lư do thứ hai ở chừng mực nào đó không hiểu đúng bản chất vấn đề.

Đến nay Trung Quốc đă công khai bất chấp phán quyết của Ṭa Trọng tài. Nếu thái độ như vậy được chuyển thành hành động sau khi phán quyết được công bố th́ thực sự sẽ gây ra mối lo ngại không chỉ cho ḥa b́nh và ổn định trong khu vực mà c̣n đối với tính thượng tôn pháp luật trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chính thái độ của Trung Quốc đối với vụ kiện cho thấy rơ lo ngại của Trung Quốc về kết quả vụ kiện cũng như về những tác động của phán quyết đối với những hoạt động trong tương lai của Trung Quốc. Nếu không, tại sao Trung Quốc không đơn giản phớt lờ tiến tŕnh trọng tài và để nó ch́m vào quên lăng? Việc Ṭa Trọng tài không đồng ư với Trung Quốc về rất nhiều vấn đề chắc chắn làm Trung Quốc phiền ḷng.

Nh́n nhận như vậy, phản ứng giận dữ của Trung Quốc là có thể hiểu được. Nhưng ông Jerome A.Cohen, một chuyên gia kỳ cựu về luật pháp và chính trị Trung Quốc, đă nhận định: “Chính sách đối ngoại và lập trường pháp lư của Trung Quốc không phải là được khắc trên đá”. Cũng có thể bổ sung thêm rằng, Trung Quốc sớm hay muộn sẽ nhận ra lợi ích của vụ kiện trọng tài này và theo đó thay đổi chính sách và lập trường ḿnh vẫn giữ bấy lâu trong tranh chấp Biển Đông. Tất nhiên, Trung Quốc cũng cần thời gian để làm được điều này, giống như trường hợp sửa đổi luật pháp trong nước, nếu muốn có sự so sánh, đây là việc không thể thực hiện một sớm một chiều. Quan điểm lạc quan về những khả năng thay đổi hành vi và hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông có thêm cơ sở từ thực tế là Trung Quốc đă rất cẩn trọng không thực hiện những hành động mang tính khiêu khích và leo thang mới trên thực địa sau phán quyết.

Dù vậy, có hoài nghi rằng phán quyết chỉ là một thắng lợi không đáng (do thiệt hại c̣n nhiều hơn) cho Philippines v́ sự thiếu vắng cơ chế thực thi. Quan điểm hiện thực này từ lâu đă bị các thế hệ luật gia quốc tế bác bỏ. Trong trường hợp cụ thể của vụ kiện Trọng tài Biển Đông, quan điểm này đă hiểu sai tầm quan trọng của UNCLOS – văn kiện được ví như “bản hiến pháp về đại dương” và xác định một cách toàn diện các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia tại các vùng biển khác nhau. Từ thực tế là các hành vi trên biển về bản chất tương tác với nhau, việc tất cả các quốc gia cần phải hành động trong khuôn khổ do UNCLOS đặt ra là thiết yếu cho việc duy tŕ trật tự trên đại dương.

Phán quyết cuối cùng của Ṭa đă làm rơ những giới hạn của các quyền và nghĩa vụ mà Trung Quốc và Philippines được hưởng theo UNCLOS. Phán quyết do vậy trở thành thước đo khách quan đối với hoạt động tại Biển Đông của Trung Quốc và Philippines, thậm chí là tất cả các nước. V́ thế, phán quyết không chỉ đơn giản ràng buộc đối với Philippines và Trung Quốc mà thực tế c̣n có hiệu lực phổ quát – nó được hầu như tất cả các nước công nhận. Về vấn đề này, điều đáng chú ư là không quốc gia nào, ngoài Trung Quốc, đặt nghi vấn về tính chung thẩm và tính ràng buộc của phán quyết. Không một nước nào, dù lớn hay mạnh thế nào, có thể làm thay đổi thực tế này.

Cuối cùng, Trung Quốc cũng như của mọi quốc gia khác đều có lợi ích từ việc các nghĩa vụ quốc tế được tôn trọng. Việc Trung Quốc có tuân thủ phán quyết hay không sẽ là liều thuốc thử đối với cam kết công khai của Trung Quốc về tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS, và duy tŕ ḥa b́nh, ổn định trong quan hệ quốc tế. Tuân thủ phán quyết sẽ giúp đảm bảo một trật tự pháp lư ổn định và có thể dự đoán được ở Biển Đông, nơi có các nguồn tài nguyên quan trọng đối với sự phát triển của các nước ven biển và tạo thuận lợi cho tuyến đường hàng hải vận chuyển 50% hàng hóa trên thế giới.

Triển vọng hợp tác

Với một chút khiêm tốn, Ṭa đă tuyên bố rằng “mục đích của tiến tŕnh giải quyết tranh chấp là làm rơ các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên, từ đó tạo thuận lợi cho mối quan hệ trong tương lai của họ”. Nhưng như đă thấy, Phán quyết đă vượt ra ngoài phạm vi các tranh chấp song phương giữa Trung Quốc và Philippines và có tác động quan trọng đối với triển vọng của khu vực trong tương lai.

Thực vậy, thông qua việc đưa ra câu trả lời rơ ràng đối với một loạt các câu hỏi hóc búa, Toà đă gỡ rối đáng kể tranh chấp ở Biển Đông. Một hiện trạng pháp lư mới ở Biển Đông đă xuất hiện với sự rơ ràng hơn nhiều phạm vi vùng biển tối đa mà các quốc gia ven biển được hưởng. Sau phán quyết, các vùng biển ở Trường Sa – vùng biển tranh chấp do sự tranh chấp về chủ quyền chưa được giải quyết – chỉ giới hạn trong vùng lănh hải của các cấu trúc luôn nổi (đảo đá). Tại các khu vực tương ứng của Biển Đông, các nước ven biển giờ đây có thể tự tin hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo đúng UNCLOS. Bên ngoài giới hạn quyền tài phán của quốc gia ven biển sẽ là vùng biển quốc tế – nơi các nước được hưởng một số quyền tự do nhất định theo quy định của Công ước. Vấn đề đáy biển tại khu vực giữa Biển Đông có trở thành một phần của Vùng theo chế độ di sản chung của nhân loại sẽ phụ thuộc vào các đệ tŕnh tương lai của các nước ven biển về thềm lục địa mở rộng của họ.

Kết quả cuối cùng của vụ kiện là rất quan trọng cho việc xác định bản chất và phạm vi của các hoạt động được phép ở Biển Đông mà các nước có thể thực hiện theo UNCLOS đồng thời định h́nh hoạt động hợp tác trong tương lai tại khu vực. Trong tương lai gần, phán quyết sẽ soi sáng cho việc thực thi DOC ở Biển Đông và đàm phán về COC giữa ASEAN và Trung Quốc. Về lâu dài, với phạm vi các quyền và lợi ích biển được xác định rơ ràng hơn ở Biển Đông, các nước ven biển cần bắt đầu các hoạt động hợp tác, có thể có sự tham gia của các nước ngoài khu vực và các tổ chức quốc tế, để giải quyết các vấn đề có liên hệ chặt chẽ với nhau trong vùng biển nửa kín này theo quy định của UNCLOS.

Với các phân tích như vậy, không ai có thể chối bỏ ảnh hưởng rất có giá trị mà Ṭa có đối với sự phát triển trong tương lai ở Biển Đông. Giờ đây, việc nhận thức thực tế này cũng như thực thi phán quyết một cách thiện chí hoàn toàn phụ thuộc vào các quốc gia.

TS. Nguyễn Bá Sơn là luật sư tại Tp HCM, hoạt động trong lĩnh vực công pháp quốc tế và luật thương mại quốc tế. Tác giả cám ơn các bạn bè, đồng nghiệp đă hỗ trợ trong quá tŕnh thực hiện bài viết. Quan điểm trong bài là của tác giả và không phản ánh quan điểm của bất cứ tổ chức nào mà tác giả từng tham gia.

Bài viết được đăng lần đầu trên chuyên mục CSIS Commentary của Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS), Đại học Khoa học xă hội và Nhân văn Tp.HCM.

 

Việt Nam gặp thế lưỡng nan trong vụ kiện Phi-Trung

Posted on 28/11/2015 by The Observer

Tác giả: TS. Dương Danh Huy

 

 

Bộ Ngoại giao Philippines đưa thông tin Ṭa Trọng Tài tại Den Haag tiến hành phiên điều trần chính phân xử vụ kiện Phi-Trung về Biển Đông ngày 24/11/2015. Trước đó, ngày 29/10/2015 Ṭa đă phán quyết về phiên điều trần sơ khởi của vụ kiện.

Phiên điều trần đó là bước đầu, qua đó Ṭa xác định ḿnh có thẩm quyền hay không, và hồ sơ của Philippines có thể thụ lư được hay không. Trung Quốc cho rằng trả lời cho hai câu hỏi này đều là “Không”. Nếu trả lời đó đúng, hồ sơ của Philippines sẽ bị loại ngay từ bước này.

Nhưng, kết luận về phiên điều trần sơ khởi, Ṭa đă bác bỏ quan điểm của Bắc Kinh và tuyên bố rằng trong 15 điểm Philippines đưa ra, Ṭa có thẩm quyền để xử 7 điểm, trong đó có 2 điểm với điều kiện không có sự chồng lấn vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) hay thềm lục địa, tương đương với điều kiện không có thực thể địa lư nào trong quần đảo Trường Sa được hưởng hai quy chế này.

Ṭa cũng cho rằng vấn đề thẩm quyền của 7 điểm khác có thể có những yếu tố nằm ngoài phạm trù sơ khởi, do đó Ṭa phải xem xét các điểm này trong phiên điều trần chính mới có thể kết luận về thẩm quyền.

Như vậy, Philippines đă chiến thắng gần như hoàn toàn trong bước đầu: Ṭa sẽ tiến hành phiên điều trần chính để xét ít nhất 14 điểm trong hồ sơ của Manila. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa Philippines sẽ thắng tất cả những điểm này trong phiên điều trần chinh, đặc biệt là những điểm phụ thuộc vào điều kiện có thực thể địa lư nào trong quần đảo Trường Sa được hưởng quy chế EEZ hay không.

Theo ghi nhận của Ṭa, Việt Nam đă khẳng định rằng Ṭa có thẩm quyền để phân xử, và, thêm vào đó, trong 7 thực thể địa lư được nêu ra trong hồ sơ của Philippines, không thực thể nào được hưởng quy chế EEZ.

Nhưng Việt Nam không cho biết quan điểm của ḿnh về có thực thể nào khác được hưởng quy chế này hay không. Việt Nam cũng tuyên bố bảo lưu các quyền lợi và quyền pháp lư của ḿnh, nhưng không cho biết quyền lợi của ḿnh cụ thể là ǵ.

Sự ủng hộ của Việt Nam cho Philippines tuy mạnh mẽ về nguyên tắc nhưng dè dặt về chi tiết. Việt Nam đă thể hiện muốn Ṭa phân xử vụ kiện này, và chắc chắn là Việt Nam muốn Ṭa bác bỏ đường lưỡi ḅ Trung Quốc, nhưng có lẽ các nhà hoạch định chính sách Việt Nam vẫn quan ngại rằng phán quyết của Ṭa về một số điểm trong hồ sơ của Philippines có thể đi ngược với quyền lợi của Việt Nam.

Dư luận người Việt phần lớn ủng hộ việc Philippines kiện Trung Quốc. Có không ít sự ngưỡng mộ, thậm chí ca ngợi, cho động thái của Philippines, và có cả ư kiến cho rằng Việt Nam nên tham gia vụ kiện hoặc khởi tự khởi kiện Trung Quốc.

Mâu thuẫn quyền lợi

Nhưng có vấn đề quan trọng vẫn ít được phân tích trước công luận. Đó là mặc dù hồ sơ của Philippines có nhiều điểm có lợi cho Việt Nam qua việc bác bỏ yêu sách biển quá lố của Trung Quốc, hồ sơ này cũng có một số điểm có thể mâu thuẫn với quyền lợi của chúng ta (Việt Nam), tùy chúng ta xác định quyền lợi này bao gồm những ǵ.

Điểm 4 của hồ sơ Philippines cho rằng Đá Vành Khăn, Băi Cỏ Mây và Đá Xu Bi là những băi lúc nổi lúc ch́m, do đó không những không có lănh hải mà c̣n không nước nào có thể đ̣i chủ quyền. Điểm 5 cho rằng Đá Vành Khăn và Băi Cỏ Mây là thuộc EEZ và thềm lục địa của Philippines.

Câu hỏi người Việt cần trả lời là hai điểm này có mâu thuẫn với quyền lợi của Việt Nam hay không? Việt Nam có đ̣i quyền lợi ǵ với Đá Vành Khăn và Băi Cỏ Mây không? Nên phản đối hay chấp nhận điểm 4 và 5? Hay là Việt Nam không tự khẳng định, và phó thác cho Philippines, Trung Quốc và Ṭa tranh căi với nhau về hai điểm này?

Hai điểm 4 và 5 c̣n ảnh hưởng cả đến một số thực thể Việt Nam đang chiếm giữ, thí dụ như Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ.

Mặc dù Philippines không kiện Việt Nam và không đề cập đến những thực thể này, nếu chúng đúng là băi lúc nổi lúc ch́m và nếu Philippines thắng Trung Quốc ở điểm 4 và 5, hệ quả lô gíc sẽ là không nước nào được đ̣i chủ quyền trên những thực thể này, chúng sẽ thuộc về EEZ của họ, và khi đó nếu họ muốn th́ Việt Nam sẽ phải bàn giao lại cho họ. Việt Nam có sẵn sàng chấp nhận hệ quả này không?

Điểm 9 của hồ sơ Philippines khiếu nại rằng Trung Quốc đă, một cách bất hợp pháp, không ngăn chặn công dân của ḿnh khai thác thủy sản trong EEZ của Philippines. Mặc dù Philippines chỉ kiện Trung Quốc, không kiện Việt Nam, nếu Ṭa công nhận rằng một khu vực nào đó là EEZ của Philippines, và việc công dân Trung Quốc khai thác hải sản trong khu vực đó là bất hợp pháp, hệ quả lô gíc của phán quyết đó sẽ là việc Việt Nam đơn phương khai thác hải sản trong khu vực đó cũng sẽ là bất hợp pháp.

Khu vực này có thể là 200 hải lư tính từ đường cơ sở quần đảo của Philippines, chỉ ngoại trừ lănh hải 12 hải lư của các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Trong trường hợp đó, ngư dân Việt Nam sẽ không được đánh bắt trong khu vực cách các đảo Trường Sa hơn 12 hải lư và cách Philippines dưới 200 hải lư. Việt Nam có sẵn sàng chấp nhận hệ quả này không?

Tóm lại, nếu Việt Nam chỉ đ̣i chủ quyền với các đảo (tức là những thực thể cao hơn mức thủy triều cao) và lănh hải 12 hải lư th́ sẽ không có mâu thuẫn ǵ giữa ba điểm này và quyền lợi của Việt Nam.

Nhưng nếu Việt Nam có đ̣i những băi lúc nổi lúc ch́m cách các đảo này hơn 12 hải lư và cách Philippines dưới 200 hải lư, thí dụ như Đá Vành Khăn, Băi Cỏ Mây, Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ, th́ sẽ có mâu thuẫn.

Việc Việt Nam đóng quân ở một số thực thể hữu quan có nghĩa Việt Nam có đ̣i những thực thể đó, tức là có mâu thuẫn. Nếu ViệtNam đ̣i quyền tài phán cách đảo hơn 12 hải lư và cách Philippines dưới 200 hải lư th́ cũng sẽ có mâu thuẫn.

Tiến thoái lưỡng nan

Ba điểm 4, 5 và 9 đặt Việt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan. Phản đối hay phản biện với Ṭa th́ sẽ vô h́nh trung giúp Trung Quốc và có thể gây phương hại cho EEZ và thềm lục địa của ḿnh dọc bờ biển đất liền.

Không phản đối và không phản biện, nếu Ṭa công nhận ba điểm này, Việt Nam sẽ khó có cơ sở pháp lư để có yêu sách với một số băi lúc nổi lúc ch́m như Đá Vành Khăn, Băi Cỏ Mây, Đá Tốc Tan, Đá Núi Le và Đá Tiên Nữ.

Không những thế, Việt Nam sẽ khó có cơ sở pháp lư cho việc khai thác kinh tế trong một phần của khu vực Trường Sa. Phải làm ǵ để cân bằng một bên là việc chống Trung Quốc và bảo vệ EEZ và thềm lục địa dọc bờ biển đất liền, và bên kia là quyền lợi trong khu vực Trường Sa?

Thực chất, vụ kiện Phi-Trung đă đẩy Việt Nam tới điểm phải giải hai bài toán khắc nghiệt. Bài toán thứ nhất là quyền lợi của Việt Nam ở Trường Sa là ǵ: Việt Nam đ̣i chủ quyền với những thực thể nào, quyền tài phán ra cách các thực thể này bao xa? Giải đáp cho bài toán này sẽ cho biết hồ sơ kiện của Philippines có mâu thuẫn với quyền lợi của Việt Nam hay không, nếu có th́ mâu thuẫn thế nào?

Nếu bản thân ḿnh chưa biết quyền lợi của ḿnh là ǵ th́ việc yêu cầu Ṭa tính đến quyền lợi của ḿnh, tuy là điều vẫn phải làm, nhưng thiếu đi một phần giá trị.

Bài toán kế tới là nếu có mâu thuẫn với quyền lợi của ḿnh th́ Việt Nam phải ứng phó thế nào? Nếu Việt Nam phản đối và phản biện hồ sơ của Philippines để bảo vệ quyền lợi của ḿnh th́ sẽ vô h́nh trung giúp Trung Quốc. Đây là hai bài toán khắc nghiệt, nhưng dường như Việt Nam c̣n chưa giải được bài thứ nhất.

Mục đích của bài viết này không phải là đề nghị Việt Nam nên chấp nhận hay phản đối điểm nào trong hồ sơ kiện của Philippines, đặc biệt là các điểm 4, 5 và 9, cũng không phải là đề nghị Việt Nam nên chọn những ǵ là quyền lợi của ḿnh.

Mục đích đó là để cho thấy trong khi vụ kiện Phi-Trung buộc Việt Nam phải đối diện với hai bài toán khó liên quan đến quyền lợi đất nước, dường như các cơ quan có chức năng của nhà nước, các chuyên gia và giới trí thức chưa có phân tích đáng kể trước công luận để giúp người dân cũng như các đại biểu của họ suy nghĩ về hai bài toán này.

Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, một thành viên sáng lập Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, tác giả cảm ơn các ông Phan Văn Song, Hoàng Việt và Lê Trung Tĩnh đă góp ư cho bài viết. 

Phán quyết Biển Đông của Ṭa Trọng tài: Khả năng và tác động

Posted on 08/07/2016 by The Observer

Tác giả: Mỹ Hằng phỏng vấn TS. Trần Trường Thủy

 

Tiến sĩ Trần Trường Thủy, Giám đốc Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông, trả lời phỏng vấn báo Lao Động về các khả năng của phán quyết của Toà Trọng tài vụ kiện Philippines-Trung Quốc, ư nghĩa của các phán quyết và đánh giá về tác động đối với t́nh h́nh Biển Đông.

Ư nghĩa của phiên ṭa là ǵ, thưa ông?

Theo tôi, ư nghĩa của phiên ṭa tùy thuộc vào nội dung của phán quyết, phán quyết thế nào th́ ư nghĩa tương ứng theo. Trong nhiều vấn đề Philippines đưa ra ṭa, nếu giải quyết được càng nhiều vấn đề, t́nh h́nh tranh chấp Biển Đông sẽ càng rơ ràng hơn, phạm vi tranh chấp rơ ràng hơn, quyền lợi, nghĩa vụ của các bên liên quan cũng sẽ được làm rơ hơn. Lúc này các bên có phông chung hơn để có thể đàm phán về hợp tác, quản lư, hay giải quyết tranh chấp.

Nếu phán quyết không thu hẹp được khác biệt th́ không mang nhiều ư nghĩa. Đặc biệt là về Đường lưỡi ḅ và quy chế pháp lư các đảo, nếu Ṭa không bác được Đường lưỡi ḅ và không ra phán quyết coi các thực thể ở Biển Đông không có quyền tạo vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa th́ cơ bản t́nh h́nh Biển Đông vẫn sẽ như cũ.

Dư luận nói chung mong đợi phán quyết này sẽ giúp giải quyết vấn đề Biển Đông. Theo tôi giá trị của nó mang tính tương đối, có thể giúp làm rơ ràng một số vấn đề. Tuy nhiên, Ṭa chỉ có khả năng giải quyết được những vấn đề không mang tính cốt lơi của tranh chấp Biển Đông, c̣n những vấn đề mang tính cốt lơi th́ Ṭa không giải quyết được. Ṭa không giải quyết được tranh chấp chủ quyền hay phân định các vùng biển ở Biển Đông.  

Báo chí thế giới nói phán quyết sắp tới của Ṭa Trọng tài có lợi cho Philippines. Theo ông có cơ sở cho nhận xét đó không?

Theo tôi, tất cả đến giờ chỉ là dự đoán thôi. Phải căn cứ vào phán quyết mới biết có lợi bên nào. Nội dung chính của vụ kiện có thể chia tương đối thành 4 cụm vấn đề: thứ nhất là tính pháp lư của đường lưỡi ḅ; thứ hai là quy chế pháp lư của các thực thể đảo, đá, băi ở Biển Đông –thực thể nào mà Trung Quốc đang chiếm đóng là băi lúc nổi lúc ch́m, không được đ̣i chủ quyền và không được xây đảo nhân tạo; thực thể nào là đá chỉ quyền tạo lănh hải tối đa là 12 hải lư; hay thực thể nào là đảo có đầy đủ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; thứ ba là về băi cạn Scarborough – Philippines cho rằng băi này chỉ có lănh hải 12 hải lư và ngư dân Phlippines có quyền lịch sử về đánh bắt cá; thứ tư là về các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ bảo vệ môi trường, tự do hàng hải hay các quyền và nghĩa vụ liên quan của Trung Quốc và Philippines. Cụm vấn đề thứ tư chủ yếu phái sinh từ ba cụm vấn đề trước đó. Trong các nội dung của vụ kiện, theo tôi hai vấn đề chính mang tính quyết định nhất là về tính pháp lư của đường lưỡi ḅ và quy chế pháp lư của các đảo lớn ở Biển Đông, đặc biệt là đảo lớn nhất ở Trường Sa là đảo Ba B́nh.

Về đường lưỡi ḅ, có thể có ba khả năng chính phán quyết của Ṭa: Ṭa có thể bác bỏ nó, cho rằng đường này không phù hợp luật pháp quốc tế, Trung Quốc không thể đ̣i các quyền không phù hợp với Công ước Luật Biển; hoặc từ chối phán quyết v́ bản thân đường lưỡi ḅ không rơ ràng – Trung Quốc chưa tuyên bố chính thức về tính pháp lư của Đường này; cũng có thể Ṭa sẽ giả định các khả năng về quy chế pháp lư của Đường này và tuyên bố bác bỏ các khả năng không phù hợp với luật pháp quốc tế, ví dụ như Ṭa bác khả năng Trung Quốc dùng đường này để đ̣i quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử, bác khả năng đường này là đường biên giới trên biển chẳng hạn. Tuy nhiên, có thể Ṭa sẽ khó bác được khả năng Đường lưỡi ḅ là đường quy thuộc đảo, dùng để tuyên bố chủ quyền đối với các đảo, đá ở Biển Đông v́ Ṭa không có thẩm quyền xét xử các vấn đề liên quan đến chủ quyền đối với các đảo, đá. Không loại trừ các khả năng phán quyết của ṭa là tổ hợp các phương án và dung các câu chữ mập mờ để ngỏ cho các bên diễn giải. Chúng ta chỉ có thể xem xét cụ thể, chi tiết phán quyết của Ṭa mới có thể biết bên nào có lợi hơn. Rơ ràng, nếu Ṭa bác bỏ đường lưỡi ḅ th́  có lợi cho Philippines và nước khác. Nếu Ṭa từ chối nói về đường lưỡi ḅ hay dùng ngôn ngữ mập mờ th́ sẽ có lợi cho Trung Quốc

Liên quan đến quy chế pháp lư của các đảo lớn ở quần đảo Trường Sa. Có thể có ba khả năng xảy ra. Khả năng thứ nhất là Ṭa phán quyết không có đảo nào là đảo đúng nghĩa theo Công ước Luật Biển, nghĩa là không có đời sống kinh tế riêng hay thích hợp cho con người đến ở nên chỉ có quyền tạo lập tối đa 12 hải lư lănh hải. Khả năng thứ hai là Ṭa phán quyết một số đảo lớn (như đảo Ba B́nh chẳng hạn) là đảo đúng nghĩa, có thể tạo vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Khả năng thứ ba là Ṭa từ chối phán quyết hoặc dùng ngôn ngữ mập mờ như bản thân điều 121.3 của Công ước Luật Biển – đảo đá nào không có đời sống kinh tế riêng hay không thích hợp cho con người đến ở th́ chỉ có lănh hải, không có vùng đặc quyền  kinh tế và thềm lục địa. Trong thực tiễn án lệ quốc tế liên quan đến vấn đề quy chế pháp lư của các đảo, các quan ṭa đều từ chối đưa ra phán quyết mang tính làm rơ ràng điều 121.3 này. Nếu Ṭa phán quyết theo khả năng thứ nhất sẽ thu hẹp phạm vi tranh chấp ở Biển Đông – lúc này tranh chấp chỉ liên quan đến các đảo, đá và tối đa là vùng biển 12 hải lư xung quanh các vị trí này. Nếu khả năng này xảy ra cơ bản sẽ có lợi hơn cho các nước khác. Tuy nhiên, lúc này không bên nào có quyền đ̣i chủ quyền hay xây các đảo nhân tạo trên các băi lúc nổi lúc ch́m nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tạo ra từ đất liền của nước khác và ngoài phạm vi 12 hải lư của các đảo, đá luôn nổi. Nếu Ṭa phán quyết theo khả năng 2 và 3 th́ cơ bản phạm vi tranh chấp sẽ rất rộng lớn, chỉ có lợi cho bên nào có nhu cầu mở rộng phạm vi tranh chấp ở Biển Đông.

TQ tuyên bố không tham gia vụ kiện và không công nhận tính pháp lư của Ṭa. Điều đó có ảnh hưởng tới tính pháp lư của phán quyết hay không?

TQ đă có hàng loạt động thái như tuyên bố không tham gia vụ kiện, không chấp nhận và không tuân thủ phán quyết. TQ cũng mở chiến dịch vận động ngoại giao và dư luận quốc tế bác tính hợp pháp của việc thành lập Ṭa và phán quyết của Ṭa; vận động các nước không tuyên bố ủng hộ phán quyết hay kêu gọi Trung Quốc tuân thủ phán quyết. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lư quốc tế, TQ là bên kư kết và phê chuẩn Công ước Luật Biển có nghĩa là họ đồng ư với toàn bộ Công ước, trong đó có những phần và điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp. Philippines đă căn cứ vào mục giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước để đưa các vấn đề ra Ṭa. Ṭa trọng tài được thành lập theo đúng quy định ở phụ lục VII của Công ước. Công ước cũng quy định rơ thủ tục thành lập Ṭa và quy tŕnh xét xử nêu một bên trực tiếp liên quan không tham gia và trên thực tế Ṭa trọng tài vụ kiện Philippines-TQ đă được thành lập và tiến hành xem xét các nội dung theo đúng các quy tŕnh này.

TQ cũng cho rằng Ṭa không có thẩm quyền xét xử v́ Công ước cho phép các bên tuyên bố loại trừ một số vấn đề Ṭa không có thẩm quyền (liên quan đến chủ quyền, phân định biển, vùng nước lịch sử, hoạt động quân sự, chấp pháp, quyết định của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc) và TQ đă tuyên bố loại trừ các vấn đề này ra khỏi thẩm quyền của Ṭa. Tuy nhiên, có thẩm quyền hay không là vấn đề do Ṭa quyết định.  Tóm lại, về mặt pháp lư th́ những nội dung mà Ṭa tuyên bố là có thẩm quyền và ra phán quyết sẽ là cuối cùng, không thể kháng án và phán quyết của Ṭa mang giá trị ràng buộc pháp lư với các bên liên quan trực tiếp là Trung Quốc và Philippines. Tuy nhiên, Ṭa sẽ không có cơ quan thực thi phán quyết.

Về việc TQ dọa rút khỏi UNCLOS nếu phán quyết bất lợi cho họ?

TQ rút khỏi UNCLOS th́ hoàn toàn không ảnh hưởng ǵ đến giá trị pháp lư của các phán quyết. Công ước luật biển cho phép các bên được rút nhưng sau khi nộp tuyên bố th́ phải mất một năm sau quốc gia đó mới hết quyền và nghĩa vụ liên quan. Do đó, nếu TQ rút khỏi Công ước sau khi có phán quyết sẽ không làm mất đi các nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo phán quyết của Ṭa trọng tài.
TQ có rút khỏi UNCLOS hay không chắc chắn họ phái tính toán hơn thiệt. Cá nhân tôi nghĩ là có thể bị thiệt nhiều hơn là lợi, cả trong ngắn hạn và dài hạn. Không chỉ về mặt chính trị mà về mặt pháp lư và trên thực tế. Ví dụ họ sẽ  không được quyền khai thác tài nguyên vùng đáy biển nằm ngoài 200 hải lư, không thể tham gia vào các cơ chế được thành lập theo UNCLOS như Ṭa án luật biển hay Ủy ban đáy đại dương – là những có quan mà TQ đang có đại diện. Mục đích chính của việc rút khỏi UNCLOS là để khỏi bị nước khác kiện, tuy nhiên như tôi nói ở trên, kể cả khi một nước tuyên bố rút khỏi UNCLOS th́ một năm sau mới có hiệu lực và trong thời gian này các nước khác vẫn có thể kiện nước đó ra ṭa.  Ngoài ra đa số các quy định của UNCLOS đă là luật tập quán quốc tế, các nước có phải thành viên hay không cũng phải thực thi.

Việc TQ vận động dư luận, chia rẽ ASEAN có thể tác động đến Ṭa hay không?

TQ đang triển khai mạnh về tuyên truyền, chẳng hạn họ tác động để ASEAN không ra tuyên bố chung, tác động để các nước ở kháp các châu lục lên tiếng ủng hộ TQ, phản đối ṭa quốc tế, ủng hộ cách tiếp cận đàm phán song phương, tuyên truyền tính bất hợp pháp của ṭa.

Nhưng phiên ṭa theo đúng quy tŕnh của UNCLOS nên lập luận này không đứng vững. Thực tế trong hơn 60 nước mà TQ nói là ủng hộ họ, chỉ có bằng chứng 9 nước công khai ủng hộ cách tiếp cận của Trung Quốc, các nước c̣n lại, một số nước công khai phủ định tuyên bố của Trung Quốc, đa số đều không có công khai thông tin, thông tin ủng hộ chỉ do TQ một chiều đưa ra. Chiến dịch này của TQ thể hiện họ đang lo ngại cộng đồng quốc tế nói chung ủng hộ biện pháp đưa ra ṭa và tuân thủ phán quyết. Dư luận đang thành 2 luồng. Một luồng lo ngại luật pháp quốc tế bị ảnh hưởng, kêu gọi tuân thủ luật pháp quốc tế, ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp ḥa b́nh; luồng bên kia ủng hộ cách tiếp cận của TQ. Theo tôi điều đó không ảnh hưởng đến nội dung phán quyết của Ṭa trọng tài v́ họ chủ yếu xem xét dựa theo quy định của luật, thực tiễn các án lệ và nhất là bằng chứng, lập luận của các bên đưa ra. Việc TQ có tuân thủ phán quyết hay không sẽ phụ thuộc vào bản thân nội dung phán quyết và dư luận quốc tế.

B́nh luận của nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng t́nh h́nh Biển Đông sẽ căng thẳng hơn sau phán quyết của Ṭa. Xin cho biết ư kiến của ông?

Có lư do để lo ngại t́nh h́nh có thể sẽ tiếp tục căng thẳng. Trong ngắn hạn, nếu phán quyết có lợi cho Trung Quốc, nước này có thể “thừa thắng xông lên”. Nếu phán quyết bất lợi cho Trung Quốc, để giữ thể diện và thể hiện tính nhất quán, Trung Quốc có thể có các bước đi nhằm thể hiện thông điệp phớt lờ phán quyết của ṭa. Chẳng hạn, một số chuyên gia đă dự đoán khả năng các hoạt động như lập Vùng nhận dạng pḥng không (ADIZ), cải tạo băi Scarbourough, quân sự hóa Biển Đông, lập đường cơ sở cho quần đảo Trường Sa, hay đẩy Philippines ra khỏi băi Cỏ Mây. Philippines có thể có các bước đi để thể hiện quyền của ḿnh trong vùng đặc quyền kinh tế hay băi Scarborough. Mỹ có thể có các bước đi mới gây sức ép buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết và không làm phức tạp t́nh h́nh như thực thi hoạt động tự do hàng hải qua 12 hải lư băi Vành Khăn – là băi nhiều khả năng Ṭa sẽ tuyên bố là băi lúc nổi lúc ch́m không ai được đ̣i chủ quyền.

Trong dài hạn, như tôi nói ở trên, trong trường hợp phán quyết làm rơ ràng phạm vi tranh chấp và quyền, nghĩa vụ các bên liên quan th́ sẽ làm giảm các “cơ sở pháp lư” của các hoạt động vi phạm rơ ràng luật pháp quốc tế, qua đó có thể làm giảm một số động lực của các hoạt động gây căng thẳng. Tuy nhiên, diễn biến t́nh h́nh không chỉ phụ thuộc vào các vấn đề pháp lư mà sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như t́nh h́nh nội bộ TQ, quan hệ Mỹ-Trung, chính sách của Tổng thống mới của Mỹ, Philippines, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, tính đoàn kết của ASEAN….

Mỹ gần đây có nhiều phát biểu và hành động bày tỏ lo ngại về hành động của TQ trên Biển Đông. Ông nhận định thế nào về vai tṛ của Mỹ? 

Mỹ  phát biểu và hành động ở Biển Đông trước hết là v́ lợi ích của họ. Có thể thấy họ ngày càng lo ngại lợi ích của ḿnh bị ảnh hưởng. Mỹ có lợi ích ở Biển Đông trong việc duy tŕ trật tự quốc tế hiện hành, đảm bảo sự tuân thủ luật pháp quốc tế, không muốn Trung Quốc trỗi dậy phá vỡ luật chơi, thiết lập khu vực ảnh hưởng riêng, đẩy Mỹ ra khỏi khu vực. Mỹ cũng có lợi ích về hoạt động tự do hàng hải, hàng không, bao gồm hoạt động của tàu bè quân sự của Mỹ. Biển Đông là thuốc thử liên quan đến Trung Quốc có tuân thủ luật pháp quốc tế hay không, có phát triển ḥa b́nh hay không nhưng cũng là thuộc thử về uy tín và cam kết quốc tế của Mỹ. Do vậy chúng ta thấy Mỹ ngày càng can dự nhiều hơn về Biển Đông, qua các phát biểu đơn phương, song phương, đa phương ở nhiều cấp khác nhau, qua các hoạt động trên thực địa như hoạt động tự do hàng hải, tập trận, cử tàu bè thăm viếng các nước xung quanh, hỗ trợ nâng cao năng lực các nước xung quanh. Vấn đề Biển Đông không chỉ là tranh chấp chủ quyền, hay tài nguyên giữa các nước ven biển mà khía cạnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung cũng ngày càng nổi trội. Chính sách và hành động của Mỹ là nhân tố chính buộc Trung Quốc phải tính toán kỹ hơn các bước đi của ḿnh ở Biển Đông.

Tuy nhiên, có thể thấy mức độ can dự và hiệu quả các hành động của Mỹ ở Biển Đông cũng có giới hạn. Mỹ cũng loay hoay chưa t́m ra biện pháp đối phó hữu hiệu với Trung Quốc ở Biển Đông. Các hoạt động của Mỹ tại Biển Đông được tính toán rất dè dặt. Mỹ cũng không muốn cạnh tranh ở Biển Đông làm ảnh hưởng đến hợp tác trong các khía cạnh quan hệ khác với Trung Quốc. Quan hệ Mỹ-Trung là vừa hợp tác, vừa cạnh và cả hai đều không muốn đối đầu. Thời kỳ cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Obama sẽ mang tính “gói ghém” là chính, có thể sẽ không có bước đi mạnh mẽ mới trong chính sách của Mỹ; trường hợp Hillary Clinton thắng cử th́ chính sách Tái cân bằng sang Châu Á của Mỹ có thể được tiếp tục đẩy mạnh, chính sách đối với vấn đề Biển Đông có thể có nhiều nét mới.

Trân trọng cảm ơn ông. 

Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông

 

 

Trung Quốc vẫn chưa thắng trên Biển Đông

 

Posted on 02/07/2017 by The Observer 

 

Nguồn: Walter Lohman, “China hasn’t won yet in the South China Sea”, GIS Reports Online 06/06/2017.

 

Biên dịch: Bùi Ngọc Hà | Hiệu đính: Huệ Việt

 

 

 

Trung Quốc đă thực hiện được nhiều hoạt động trên Biển Đông – xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo, trang bị vững chắc về kinh tế và yêu sách chủ quyền lănh thổ. Những diễn biến đó đă khiến nhiều người tin rằng quốc gia này đang nắm được lợi thế trong cuộc chiến địa chính trị cam go. Tuy nhiên, xem xét kỹ hơn th́ thấy Trung Quốc c̣n rất xa mới có thể hoàn thành được những mục tiêu của ḿnh – thậm chí Trung Quốc c̣n có một số thất bại nghiêm trọng.

 

Để biết liệu Trung Quốc đă đạt được những mục tiêu của ḿnh hay chưa, trước hết ta phải hiểu những mục tiêu đó là ǵ. Có ba điều Bắc Kinh muốn đảm bảo ở Biển Đông. Đó là: chủ quyền, ưu thế chiến lược và lợi ích kinh tế.

 

Chủ quyền

 

Trung Quốc từ lâu đă diễn tả những yêu sách của họ trên vùng biển tranh chấp này bằng những cách thức nhằm nhấn mạnh chủ quyền. Bức thư họ gửi đến Tổng thư kư Liên Hợp Quốc năm 2009 là điểm khởi đầu cho những căng thẳng hiện nay.

 

Trong thư, Bắc Kinh đă giới thiệu “đường chín đoạn” (một đường trên bản đồ mô tả yêu sách của Bắc Kinh) và dùng cách diễn giải mà họ đă sử dụng từ giữa những năm 1970: “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh căi đối với các đảo ở Biển Đông cùng các vùng nước lân cận.”

 

Ngay cả trong chính sách “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Đặng Tiểu B́nh đưa ra từ những năm 1980 th́ cũng bắt đầu với cụm từ “chủ quyền là của chúng ta”. Dù vậy, Trung Quốc vẫn chưa bao giờ minh bạch về phạm vi yêu sách chủ quyền của ḿnh là chỉ gồm các đảo hay là bao gồm cả đảo và biển.

 

Nếu mối quan tâm chủ yếu của Trung Quốc chỉ là chủ quyền các đảo nằm trong đường chín đoạn th́ quốc gia này cũng chưa hề gần tới mục tiêu của ḿnh hơn so với năm 2009. Bởi lẽ năm bên liên quan khác trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông (Brunei, Malaysia, Philippines, Đài Loan và Việt Nam) vẫn kiên định với các yêu sách của họ. Trên thực tế, mối nghi ngờ rằng Trung Quốc muốn thâu tóm tất cả các thực thể địa lư trên biển đă là một lư do tốt để những quốc gia này tiến hành chiếm hữu, cải tạo và triển khai quân sự trên các đảo.

 

Điều này rất đúng ở quần đảo Trường Sa, nơi Việt Nam kiểm soát hầu hết các thực thể đă có chiếm hữu thực tế, và Đài Loan chiếm vùng đất tự nhiên rộng lớn nhất của quần đảo này. Philipinnes cũng đă tăng cường bảo vệ các thực thể địa lư mà họ chiếm đóng trong suốt 10 năm qua, bất chấp hoạt động tiếp cận Trung Quốc gần đây của tổng thống Duterte[1].

 

Tại quần đảo Hoàng Sa, sự chiếm đóng và kiểm soát lâu dài của Trung Quốc đă hạn chế các quốc gia khác tiến hành các biện pháp thực địa để khẳng định yêu sách của ḿnh. Nhưng điều này cũng chẳng ngăn cản được các đối thủ của Trung Quốc, đặc biệt là Việt Nam, lớn tiếng hơn bao giờ hết.

 

Các vùng biển lân cận

 

Mỗi khi vấn đề yêu sách của Trung Quốc đối với các thực thể địa lư trên Biển Đông được đề cập, Bắc Kinh luôn khẳng định rằng vấn đề này chỉ nên được quyết định giữa các các bên trực tiếp liên quan. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa từng làm rơ ư nghĩa của “các vùng biển lân cận”. Có phải họ chỉ đang đ̣i những quyền đă được quốc tế công nhận trên những vùng nước xung quanh các đảo mà họ tuyên bố chủ quyền? Hay là họ đang yêu sách toàn bộ vùng nước bên trong đường chín đoạn – [được coi là] “lănh thổ xanh” của họ như cách gọi chính thức của chính phủ Trung Quốc? Sự mập mờ giữa hai khả năng đă thúc đẩy các bên tranh chấp c̣n lại đoàn kết với nhau để chống lại khả năng thứ nh́. Và yêu sách của Trung Quốc đối với toàn bộ vùng biển trong đường chín đoạn cũng có thể đưa Jakarta vào cuộc tranh chấp, v́ đường chín đoạn đó chèn lên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia (EEZ) gần quần đảo Natuna.

 

Nếu các tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc bao gồm cả biển, họ đang làm mất đi ưu thế của ḿnh. Một vài bên trong cuộc tranh chấp này – bao gồm cả Indonesia – đă chính thức phản đối những tham vọng như vậy. Năm ngoái, Toà Trọng tài Thường trực PCA đă công bố một phán quyết[2] [của Toà trọng tài vụ kiện Biển Đông] bác bỏ hoàn toàn yêu sách biển của Trung Quốc[3]. Đồng thời, phán quyết này cũng khẳng định một số thực thể, như Đá Vành Khăn, Băi Cỏ Rong và Băi Cỏ Mây, không phải là đối tượng để tuyên bố chủ quyền v́ chúng không phải là đảo hay đá thật sự. Và v́ các thực thể này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines, toà án cho rằng Philippines có toàn quyền với chúng cùng các vùng biển xung quanh. Phán quyết cũng chỉ ra rằng Trung Quốc đă xâm phạm quyền của Philippines được đánh bắt cá chung ở gần băi cạn Scarborough, một điểm nóng tiềm năng khác.

 

Quan trọng hơn, yêu sách của Trung Quốc đối với toàn bộ vùng biển đă mở rộng tranh chấp vượt ra ngoài khu vực và can dự tới cả những quốc gia đang có hoạt động hải quân trong vùng này, ví dụ như Hoa Kỳ. Những cường quốc hải quân ngoài khu vực này đặc biệt quan ngại bởi những tham vọng của Bắc Kinh có thể hạn chế các quyền hàng hải đă được quốc tế công nhận. Với những t́nh huống như thế, những hứa hẹn của Trung Quốc về việc đảm bảo quyền tự do lưu thông thương mại không thực sự thuyết phục. Nhiều nước, như các nước Châu Âu, vẫn lo ngại về tiền lệ mà những yêu sách thế này sẽ đặt ra. C̣n với Washington, các mối quan tâm chính tập trung vào các quốc gia đang được Mỹ bảo hộ an ninh là Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong trường hợp xảy ra xung đột mà can dự tới bất kỳ nước nào trong ba nước này, các lực lượng của Mỹ sẽ cần đi qua khu vực Biển Đông mà không bị cản trở.

 

Chừng nào mà những yêu sách của Trung Quốc với Biển Đông c̣n bao gồm các đường biển quốc tế th́ nước này vẫn sẽ phải tiếp tục đối mặt với phản kháng mạnh mẽ từ các cường quốc ngoài khu vực và làm phức tạp thêm tranh chấp với các quốc gia láng giềng. Nếu Trung Quốc làm rơ đường chín đoạn chỉ là yêu sách các đảo và những quyền bắt nguồn từ các đảo đó th́ họ đă có thể chia tách các nước có yêu sách khác khỏi những quốc gia không phải là một bên tranh chấp nhưng có liên quan. Vẫn sẽ c̣n tồn tại những bất đồng về một số quyền trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển nhưng những bất đồng đó sẽ được giải quyết dựa trên luật pháp chứ không phải dựa trên sự cho phép của Trung Quốc.

 

Lợi thế địa chính trị

 

Mục tiêu thứ hai của Trung Quốc là đạt được lợi thế địa chính trị. Trên phương diện này th́ Trung Quốc đang làm tốt hơn. Họ đă củng cố được rất tốt kiểm soát trên các thực thể địa lư thuộc quần đảo Hoàng Sa. Tại Trường Sa, bảy ḥn đảo nhân tạo Bắc Kinh tạo dựng đă mang đến cho họ một vị thế chiến lược mới. Điều này quan trọng bởi bốn lư do.

 

Thứ nhất là lợi thế triển khai vũ lực trên Biển Đông. Trong một bức thư gửi Chủ tịch Uỷ ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ vào năm ngoái, Giám đốc Cơ quan t́nh báo Quốc gia James Clapper đă liên hệ tới đánh giá của ông rằng “Trung Quốc đă thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để triển khai năng lực quân sự trên Biển Đông vượt xa hơn mức pḥng vệ tiền đồn.”

 

Tại thời điểm đó, lực lượng Hải quân Giải phóng Nhân dân đă sử dụng các tiện nghi cảng biển tại một số đảo nhân tạo lớn nhất của Trung Quốc. Kể từ đó, Trung Quốc đă triển khai máy bay quân sự ít nhất một lần trên một đảo nhân tạo ở Trường Sa[4]. Các nhà kho chứa máy bay bắt đầu được xây dựng trên các đảo, mà theo Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ Đặc trách Thái B́nh Dương, có thể chứa được 72 máy bay chiến đấu phản lực và 10 phi cơ lớn hơn, như máy bay ném bom hay các máy bay chở dầu. Đáp lại những cáo buộc này, Trung Quốc phủ nhận đang “quân sự hoá” Biển Đông và nói rằng các hoạt động triển khai quân sự này là nhằm để bảo vệ quyền chủ quyền [của họ].

 

Thứ hai, theo một nhà phân tích kỳ cựu, thuyền trưởng nghỉ hưu Bernard Cole của Trường Cao đẳng Chiến tranh Quốc gia [Hoa Kỳ], những công tŕnh Trung Quốc xây dựng ở quần đảo Trường Sa đă “thiết lập được vị thế vượt trội cho Trung Quốc trong cuộc chiến tranh điện tử và khả năng bao phủ của radar” trên toàn khu vực. Nếu xây dựng trên cả băi cạn Scarborough, Trung Quốc sẽ có khả năng dựng lên một “bức tranh toàn cảnh Biển Đông”. Điều này rất cần thiết cho việc giám sát cái mà Trung Quốc coi là xâm phạm vào quyền chủ quyền của họ. Đây cũng là điểm then chốt để Trung Quốc có thể bảo vệ những quyền đó trong trường hợp xảy ra xung đột trên biển với Hoa Kỳ.

 

Chuỗi đảo

 

Thứ ba, đường chín đoạn bao gồm nửa phía Nam của cái được gọi là “chuỗi đảo thứ nhất” bao quanh vùng Đông Á như một sợi dây chuyền. Trung Quốc có mối quan tâm đến việc củng cố sức mạnh quân sự trong khu vực này bao gồm cả Biển Hoa Đông và Biển Đông. Theo quan điểm của Trung Quốc, các nước đồng minh của Mỹ và các căn cứ quân sự dọc theo hàng rào ngoài khơi này (gồm có Nhật Bản, Okinawa, Đài Loan và Philippines) đă ngăn cản họ tiếp cận đại dương xa hơn[5]. Nếu có sức mạnh quân sự thống trị ở vùng phía Nam của chuỗi này th́ sẽ phá vỡ được sự bao vây đó. Nó cũng sẽ cho phép Trung Quốc đặt “chuỗi đảo thứ hai”, gồm có các địa hạt của Mỹ ở quần đảo Bắc Mariana và Guam, vào thế mạo hiểm. T́nh huống này có thể làm rắc rối các kế hoạch quân sự của Hoa Kỳ khi muốn can thiệp vào bất cứ cuộc xung đột nào liên quan đến Trung Quốc.

 

 

Trung Quốc cảm thấy bị bao vây bởi các căn cứ quân sự và đồng minh của Mỹ dọc theo cái được gọi là chuỗi đảo thứ nhất và chuỗi đảo thứ nh́ viền phía Đông châu Á. Chiến lược của Bắc Kinh là xuyên thủng hàng rào đó (Nguồn ảnh: macpixxel cho GIS)

Cuối cùng, Trung Quốc có thể nh́n Biển Đông như một thành luỹ cho các tàu ngầm nguyên tử hạt nhân của họ. Trung Quốc có 4 tàu ngầm hạt nhân hiện đại mang tên lửa đạn đạo, chiếc thứ năm hiện đang được xây dựng và tiếp theo đó Trung Quốc có kế hoạch xây dựng lớp tàu thuyền thế hệ mới. Mục tiêu của những vũ khí này là trang bị cho Trung Quốc một năng lực bảo đảm có thể đáp trả những cuộc tấn công hạt nhân trong bất cứ cuộc xung đột lớn nào với Hoa Kỳ.

 

Một thành luỹ như vậy, được bảo vệ bởi các lực lượng hải quân khác, sẽ là một địa điểm hấp dẫn để Trung Quốc triển khai các tàu ngầm hạt nhân nếu không thể thống trị chuỗi đảo thứ nhất hoặc phát triển công nghệ cần thiết để vượt qua nó mà không bị phát hiện. Việc tăng thêm loạt tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo nằm trong dự kiến đă nêu bật sự hấp dẫn của phương án này. Trở ngại lớn nhất là sự hiện diện hiện tại của Hải quân Hoa Kỳ luôn ở trong tư thế sẵn sàng và tích cực, và có liên hệ mật thiết với các đồng minh và đối tác trong khu vực.

 

Lợi ích kinh tế

 

Mục tiêu thứ ba của Bắc Kinh tập trung xung quanh lợi ích kinh tế. Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào thương mại trên biển. Thương mại chiếm khoảng 40% GDP của Trung Quốc, với phần lớn đến từ biển. Con số này đă bao gồm cả các nguồn năng lượng. Đến năm 2030, Trung quốc sẽ sử dụng gấp 3 lần số lượng dầu và 60% lượng than trên toàn thế giới. Dù có sản lượng nội địa, nền kinh tế Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nhiên liệu hoá thạch. Bởi xu hướng này, Bắc Kinh đă phát triển một chiến lược toàn diện lâu dài bao gồm duy tŕ kiểm soát lănh hải.

 

Bắc Kinh cũng muốn chiếm được những nguồn tài nguyên năng lượng[6]. Cơ quan Quản lư Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ ước tính Biển Đông có thể chứa nhiều nhất tới 11 tỉ thùng dầu – ngang với Mexico. Tuy nhiên, Trung Quốc lại đưa ra con số ước tính khác là 125 tỉ thùng – nhiều hơn cả Kuwait. Dù là con số nào th́ hầu hết trữ lượng dầu tại vùng biển này đều nằm trong đường chín đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh đă và đang tích cực thách thức lợi ích của Philippines tại khu vực Băi Cỏ Rong. Đây là vùng đặc biệt có trữ lượng dầu lớn nằm trong thềm lục địa của Philippines. T́nh h́nh cũng tương tự đối với các nguồn khí tự nhiên.

 

Mặc dù không có nguồn dầu khí nào được t́m thấy tại những chuỗi quần đảo chính ở Biển Đông là Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo này vẫn có giá trị chiến lược lớn bởi chúng giúp Trung Quốc có thể tiếp cận các nguồn tài nguyên ở lân cận đó.

 

Các ngư trường cũng rất quan trọng.[7] Biển Đông chiếm 10% sản lượng đánh bắt cá trên toàn cầu và cung cấp nguồn protein thiết yếu cho người dân Trung Quốc. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều căng thẳng trên Biển Đông liên quan đến tàu đánh bắt cá.

 

Chỉ thành công một phần

 

Trung Quốc đă chỉ thành công được một phần trong việc đạt được mục tiêu kinh tế tại Biển Đông. Những đường biển của Trung Quốc hiện không bị đe doạ nhưng sẽ c̣n lâu nữa Trung Quốc mới có thể tự bảo vệ chúng. Dĩ nhiên là sự bành trướng và hiện diện của hải quân Trung Quốc ở Hoàng Sa – và bây giờ là Trường Sa – sẽ giúp Trung Quốc đạt được mục tiêu này. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ phải thay thế được hải quân Hoa Kỳ, và điều này không có vẻ ǵ là sớm đạt được. Nhiều nhất chỉ có thể nói Trung Quốc đă đặt một khoản đặt cọc đáng kể cho việc đạt được mục đích này về sau.

 

Để có nguồn năng lượng, Trung Quốc hiện đă đang tiến hành sản xuất tại các vùng thuộc chủ quyền của họ ở Biển Đông. C̣n việc sản xuất năng lượng tại các vùng tranh chấp có khả năng làm Trung Quốc hao tốn nhiều chi phí ngoại giao v́ Việt Nam[8], Philippines, hay các nước khác sẽ không từ bỏ yêu sách của ḿnh hay ngừng lại quá tŕnh khai thác và sản xuất đang được triển khai. Nếu dự định của Trung Quốc là lấy tài nguyên của các nước khác th́ Trung Quốc chưa đạt được tiến bộ nào trong mục tiêu này. Trên thực tế, bởi v́ hợp tác cùng khai thác các nguồn năng lượng ở biển là cách thức hợp lư nhất cho Trung Quốc có thể tiếp cận các khu vực xa bờ, Bắc Kinh đă thực sự thất bại [về phương diện này]. Sự hung hăng của Trung Quốc đang làm hại chính viễn cảnh hợp tác với các nước tranh chấp khác.

 

C̣n khi nói đến đánh bắt thuỷ hải sản th́ Bắc Kinh đang đạt được mục tiêu của ḿnh. Bất chấp những căng thẳng ngoại giao, sự xuất hiện của các tàu cá lớn của Trung Quốc trên vùng biển là minh chứng cho thành công của họ.

 

Những mục tiêu chưa đạt được

 

Trung Quốc đă thắng trên Biển Đông hay chưa? Điều này tuỳ vào cách nh́n của mỗi bên. Bắc Kinh chưa đến gần được hơn mục tiêu thiết lập chủ quyền trong toàn bộ đường chín đoạn, dù là với thực thể địa lư hay các hải lộ. Phán quyết của Toà trọng tài là một thất bại lớn đối với Trung Quốc. Tuy quân đội Trung Quốc đang thiết lập sự hiện diện trên biển với năng lực có thể đe doạ những nước đang tranh chấp khác, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để giúp Trung Quốc đạt được các mục tiêu chiến lược trừ khi Mỹ rút lui.

 

C̣n về những mục tiêu kinh tế, Trung Quốc đă thất bại trong việc có được những nguồn năng lượng mới, thành công trong việc tạo ra con đường đến các ngư trường và có thể đang đạt được những bước tiến nhằm đạt được mục tiêu lâu dài là tự chủ bảo vệ những đường biển quan trọng đối với nền kinh tế của quốc gia này.

 

Walter Lohman là giám đốc Trung tâm Nghiên cứu châu Á thuộc Quỹ Heritage. Bên cạnh đó, ông là một chuyên gia phân tích chính sách tập trung chủ yếu ở Đông Nam Á, và rộng hơn là chính sách châu Á bao gồm mối quan hệ với các đồng minh của Mỹ là Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc. Ông là tiếng nói hàng đầu ở Quỹ Heritage về mối quan hệ Mỹ – Đài Loan và là một nhà quan sát chặt chẽ các chính sách của Trung Quốc.

 

——

 

[1] Walter Lohman (2016). “Will Duterte end the Philippines-U.S. alliance?” GIS Reports Online, 21/10/2016: http://www.gisreportsonline.com/will-duterte-end-the-philippines-us-alliance,defense,2017,report.html

 

[2] Walter Lohman (2016). “Clarity and instability in the South China Sea,” GIS Reports Online, 22/8/2016: http://www.gisreportsonline.com/clarity-and-instability-in-the-south-china-sea,defense,1958,report.html

 

[3] Joseph Dobbs (2016) “Beijing’s dilemma in the South China Sea,” GIS Reports Online, 19/8/2016: http://www.gisreportsonline.com/beijings-dilemma-in-the-south-china-sea,defense,1959,report.html

 

[4] Joseph Dobbs (2016). “China modernizes its air force to project power globally,” GIS Reports Online 23/11/2016: http://www.gisreportsonline.com/china-modernizes-its-air-force-to-project-power-globally,defense,2055,report.html

 

[5] Prince Michael of Liechtenstein (2017). “Opinion: Military situation heats up on China’s perimeter,” GIS Reports Online 24/3/2017: http://www.gisreportsonline.com/opinion-military-situation-heats-up-on-chinas-perimeter,defense,2166.html

 

[6] Frank Umbach (2017). “The South China Sea’s energy dimension,” GIS Reports Online 01/5/2017: http://www.gisreportsonline.com/the-south-china-seas-energy-dimension,energy,2202,report.html

 

[7] Joseph Dobbs (2016). “Beijing’s maritime militias add to growing instability in the China Seas,” GIS Reports Online 20/10/2016: http://www.gisreportsonline.com/beijings-maritime-militias-add-to-growing-instability-in-the-china-seas,defense,2019,report.html

 

[8] Walter Lohman (2016). “Vietnam’s balancing act,” GIS Reports Online, 27/9/2016: http://www.gisreportsonline.com/vietnams-balancing-act,politics,1995,report.html

 

Nguồn bài dịch: Đại sự kư Biển Đông

 


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: