MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.(1)

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềOANĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vReuter vAP vWorld Tribune 

v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

v MediaMattersvSourceIntelvNewsupvIntelnews

v GlobalSecvGlobalIntelvEnergyv

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation vVeteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian vPolitical Insider vLaw vMedia

v RamussenvWikileaksvFederalist

v The Online Books vBreibart vInterceipt

v AmericanFreePress vPoliticoMagvAtlantic

v National Public Radio vForeignTrade vSlate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS vCNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v

SEPTEMBER 2017

Con đường tơ lụa (phồn thể: 絲綢之路; giản thể: 丝绸之路; Hán-Việt: Ti trù chi lộ; bính âm: sī chóu zhī lù, Ba Tư: راه ابریشم Râh-e Abrisham, Thổ Nhĩ Kỳ: İpekyolu) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đă từ hàng ngh́n năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa Đông và Tây).

Địa lư

Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Triều Tiên và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay 6.437 km.

Lịch sử

Trung Quốc là nước đầu tiên t́m ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới vào thế kỷ 3 TCN. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quư tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được h́nh thành từ đó. Thế kỷ 2 TCN, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây t́m người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đă t́m được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đă mang theo nhiều sản vật mà triều đ́nh rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đă được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đ́nh. Tuyến đường mà Trương Khiên đă khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa.

Giao lưu văn hóa

Con đường tơ lụa là một con đường huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á kỳ bí, gắn liền với hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những "thương nhân lạc đà", Con đường tơ lụa c̣n là một hành tŕnh văn hóa, tôn giáo đa dạng được ḥa trộn.

Trường An (nay là Tây An) là nơi các thương gia Trung Hoa tập kết hàng hóa, tơ lụa để chuẩn bị cho những chuyến buôn bán lớn qua Con đường tơ lụa. Lạc đà là phương tiện vận chuyển chủ yếu trên con đường thương mại này.

Con đường tơ lụa được coi là một hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thế giới thời cổ đại và được coi như cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây.

Nhà địa lư học danh tiếng người Đức Ferdinand von Richthofen chính là người khai sinh ra cái tên bằng tiếng Đức Seidenstraße (Con đường tơ lụa) khi ông xuất bản hàng loạt những cuốn sách và những bài nghiên cứu vào giữa thế kỷ 19 về con đường thương mại cổ đại này. Tuy nhiên lịch sử của Con đường tơ lụa có từ trước đó rất lâu. Theo những tài liệu c̣n lưu lại, Trương Khiên (張騫) người Trung Quốc là người đầu tiên đặt những viên gạch xây nên nền móng của con đường thương mại này. Vào thời nhà Hán (206 TCN-220), ông phải mang những văn kiện ngoại giao từ Trung Quốc đi về vùng đất phía Tây. Chính chuyến Tây du này đă h́nh thành nên một con đường thương mại phồn thịnh bậc nhất thời bấy giờ.

Kinh tế

Con đường tơ lụa được h́nh thành từ thế kỷ 2 TCN nhưng ban đầu, con đường này được thành lập với ư định quân sự nhiều hơn mục tiêu thương mại. Muốn t́m được những đồng minh nhằm khống chế bộ lạc Hung Nô (匈奴), năm 138 TCN, vua Hán Vũ Đế đă cử Trương Khiên đi về phía Tây với chiếu chỉ ngoại giao trong tay, nhưng không may Trương Khiên đă bị chính bộ lạc Hung Nô bắt và giam giữ. Sau 10 năm bị bắt giữ, Trương Khiên trốn khỏi trại và vẫn tiếp tục nhiệm vụ, ông hành tŕnh về Trung Á, Tây Vực. Tiếp kiến biết bao vị thủ lĩnh ở khu vực này nhưng chẳng ai chịu giúp nhà Hán cả. Năm 126 TCN, Trương Khiên trở về nước. Tuy thất bại nhưng với những kiến thức và thông tin thu được, ông đă viết cuốn sách Triều dă kim tài trong đó đề cập đến những vùng đất ông đă đặt chân tới, vị trí địa lư, phong tục tập quán, sản vật, hàng hóa và đặc biệt là tiềm năng giao thương. Triều dă kim tài đă kích thích mạnh các thương gia Trung Hoa. Sau đó Con đường tơ lụa dần được h́nh thành, người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu... đến Ba Tư và La Mă đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng t́m đường đến với Trung Hoa.

Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quư tộc của La Mă thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc mà thôi. Chính trị thời đó cũng có ảnh hưởng lớn đến Con đường tơ lụa. Khi nhà Hán suy vong vào thế kỷ 3, Con đường tơ lụa cũng bị đ́nh lại. Chỉ khi nhà Đường hưng thịnh, con đường này mới phát triển trở lại. Cũng vào thời Đường, do thấy được giá trị của con đường giao thương Đông - Tây này, các vị hoàng đế đă ban hành hàng loạt những chiếu chỉ nhằm khuyến khích thương mại và cũng từ đó, những nhà truyền giáo đă bắt đầu t́m đến với phương Đông. Con đường tơ lụa dưới triều Đường đă trở thành một điểm nhấn rơ nét trong lịch sử thương mại thế giới.

Đến thế kỷ 10, nhà Đường bị lật đổ, Con đường tơ lụa cũng bị suy thoái dần. Tuy nhiên với sự hùng mạnh của đế quốc Nguyên Mông, công việc buôn bán sau đó lại thịnh vượng. Dưới triều Nguyên, một người Ư nổi tiếng là Marco Polo (1254-1324) đă lưu lạc đến Trung Quốc và làm quan ở đây 20 năm, sau đó ông trở về nước bằng Con đường tơ lụa. Ông cũng là người có đóng góp cho sự phát triển của mối giao thương Đông - Tây khi viết nên cuốn sách Marco Polo du kư (tiếng Ư: Il Milione) kể về toàn bộ quá tŕnh lưu lạc đến phương Đông của ḿnh trong đó có đề cập đến những chuyến hàng đầy ắp sản vật trên Con đường tơ lụa. Nhưng đến thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đă bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao khiến cho những thương gia phải t́m đến những con đường vận chuyển bằng đường biển. Với việc giao thương qua đường biển phát triển (h́nh thành Con đường tơ lụa trên biển). Từ thế kỷ thứ 7, Quảng Châu đă được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Trước tiên là các thương gia Ả Rập và sau đó là Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến buôn bán. Quảng Châu tràn ngập hàng hoá của nước ngoài và bản địa, Con đường tơ lụa trên bộ dần dần biến mất. Hồi chuông cáo chung của Con đường tơ lụa vang lên cũng là lúc người Ba Tư (Iran ngày nay) dần học được cách làm tơ lụa của người Trung Hoa và việc trung chuyển tơ lụa từ đó giảm hẳn do người Ba Tư tự làm và bán trực tiếp cho La Mă chứ không nhập khẩu từ Trung Hoa nữa.

Nghiên cứu khảo cổ và di vật

Trong những chuyến khảo cổ sau này, người ta đă t́m ra khoảng 50.000 cổ vật nằm rải rác trên Con đường tơ lụa. Chúng là những hiện vật vô giá về lịch sử thương mại thời xưa. Con đường tơ lụa với những chuyến hàng đầy ắp đă trở thành dĩ văng, những dấu chân lạc đà giờ đă bị cát bụi sa mạc xóa nḥa nhưng cái tên "Con đường tơ lụa" sẽ c̣n măi trong lịch sử như một cây cầu kết nối ngoại thương giữa hai nền văn minh Trung Quốc và La Mă.

Dọc theo Con đường tơ lụa có sự hoà trộn và biến hoá trong đức tin tại các địa phương khác nhau đă làm nảy sinh nhiều kiểu đạo Phật khác nhau và có khi không hề giống với đạo Phật nguyên thủy tại Ấn Độ.

Từ kỹ thuật nấu rượu tới Phật giáo và thường được "đổi" bằng hàng hóa, sản vật, người Trung Hoa chuyển đi tơ lụa, thuốc súng, giấy và gốm sứ bằng Con đường tơ lụa. Đổi lại, những kiến thức về thiên văn học giúp Trung Quốc làm sâu thêm những hiểu biết của ḿnh về vũ trụ. Những bản vẽ Mặt Trăng, ngôi sao đă chứng tỏ sự khao khát t́m ṭi của người Trung Hoa về vũ trụ. Một tấm bản đồ t́m được ở Đôn Hoàng, Cam Túc làm người ta phải ngạc nhiên: toàn bộ 1.500 v́ sao mà con người biết đến 8 thế kỷ sau này đều giống với những ǵ đă được tả trong tấm bản đồ đó.

Bất chấp vô số những kỳ quan phương Đông mà các thương gia phương Tây đă miêu tả trong các chuyến đi dọc theo Con đường tơ lụa, vẫn có rất nhiều người hoài nghi việc con đường đó có thực sự tồn tại hay không. Chỉ sau khi cha con nhà thám hiểm người Venezia - Niccoḷ Polo và Marco Polo - trở về sau chuyến hành tŕnh thứ hai, người ta mới bắt đầu tin rằng Con đường tơ lụa là có thật.

Theo bà Susan Whitfield, "Con đường tơ lụa là con đường: Thương mại, Du hành, Chiến tranh và Niềm tin" và gần 800 năm sau chuyến hành tŕnh của Marco Polo, Con đường tơ lụa huyền thoại lại được tái hiện trong cuộc triển lăm do Thư viện Anh vừa tổ chức năm 2004 giúp cho công chúng nhận biết những giá trị thực của Con đường tơ lụa. Chứng tỏ những ảnh hưởng của Con đường tơ lụa đối với những nền văn minh dọc theo con đường là một thành công cực lớn của cuộc triển lăm. Người ta đă phải mất công chuẩn bị suốt 5 năm, và những hiện vật từ Bảo tàng Guimet ở Paris, Pháp, Bảo tàng Nghệ thuật Ấn Độ ở Berlin, Đức, Bảo tàng Miho ở Tokyo, Nhật Bản và bộ sưu tập riêng của Thư viện Anh... đă truyền cho công chúng niềm cảm hứng mà Withfield đă có được sau 20 năm t́m ṭi về Trung Hoa cổ đại do làm việc lâu năm ở Trung Quốc.

Con đường tơ lụa đă ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người là những h́nh ảnh của những đàn súc vật chất đầy hàng hoá, tơ lụa trên lưng, nhẫn nại hướng tới những miền đất lạ.

 

 

Con đường tơ lụa

 

Trần Yên Thảo & Lâm Hoàng Lân

 

 

 

Biên soạn đề tài này, ngoài những sách tham khảo đă liệt kê, chúng tôi có sử dụng số lớn tư liệu, nhờ bạn bè ghi chép qua nhiều năm, tại các thư viện Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương (Trung Quốc). Đó là những tư liệu chủ yếu h́nh thành đề tài. Rất tiếc, những tư liệu gom góp được, chỉ đủ giới thiệu “con đường tơ lụa” đoạn từ kinh đô Trường An qua Hàm Dương theo hành lang Hà Tây đến ngả rẽ Đôn Hoàng ra Dương Quan và Ngọc Môn Quan, xuyên Tây vực (nay là tỉnh Tân Cương) để đến địa cầu vùng Trung Á Tế Á. Lịch sử gọi đó là “đoạn phía đông của con đường tơ lụa” . 

Chúng tôi đă cố gắng hệ thống mọi tư liệu ăn khớp với niên đại và triều đại trong lịch sử Trung quốc. Những chú thích trong sách, do người biên soạn tự chú, và cũng chú ngay trong ngoặc đơn chứ không đánh số chú thích.Về thơ “biên tái” trích dẫn, bài nào sử dụng của tác giả khác, chúng tôi đều ghi tên người dịch ngay bên dưới bản dịch. Những bài không ghi tên, do người biên soạn tự dịch. 

Nhân đây, chúng tôi có lời xin lỗi và cảm ơn dịch giả Lê Nguyễn Lưu, v́ đă trích dẫn một số bài thơ biên tái trong “đường thi tuyển dịch” mà không biết địa chỉ để xin phép trước.

 

Người biên soạn

 

 

 

 NGUYÊN NHÂN LỊCH SỬ CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

 

Trung Quốc là nước có lai lịch dâu tằm tơ sớm nhất Thế Giới. Truyền thuyết từ hơn 4.000 năm trước, thời Hoàng Đế (lăo tổ của người Trung Quốc), các nguyên phi đă tự trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa và dạy dân mở mang nghề này. Năm 1958, tại vùng Tiền Sơn thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, người ta đă đào được những di vật thời Tân Thạch Khí, trong đó phát hiện một khung tre rất đặC biệt. Những phương pháp khảo sát khoa học đă xác định được đây là bộ phận c̣n sót của một khung cửi dệt tơ lụa thời cổ đại, một di vật cách đây hơn 4.000 năm. Qua đó có thể xác định, trễ nhất là từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đă có khả năng dệt tơ lụa.

 

Lịch sử qua thời kỳ bán khai, trang phục đă trở thành nhu cầu cấp thiết hàng đầu của toàn xă hội. Do đó mà ngành nghề dâu tằm ngày càng được trọng thị. “Kinh Thi” (tác phẩm thi ca lâu đời của văn học Trung Quốc) cũng có không ít bài mô tả sinh hoạt trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa của phụ nữ Trung Quốc thời cổ đại.

 

Khoảng 2.500 năm trước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc (770 – 221 TCN), Trung Quốc đă có lượng tơ lụa bán ra nước ngoài. Tới Tây Hán (206 TCN – CN 8) sản lượng tơ lụa càng cao dư dùng trong nước. Một số lớn được các thương nhân mở đường xuyên Tây Vực, đem bán tận Ba Tư, Thổ Nhĩ Ḱ, La Mă, …. Qua việc mở đường buôn bán tơ lụa từ Trung Nguyên đến các nước Trung Tây Á và phương Tây, không biết từ lúc nào, c̣n đường được mệnh danh là “Con đường tơ lụa”.

 

Tây Vực là địa danh được h́nh thành từ thời Tây Hán. Bao gồm hàng trăm tiểu vương quốc trải dài từ Tân Cương đến vùng Trung Á Tế Á. Tức khu vực có địa giới từ con đường Nam Bắc Thiên Sơn của Tân Cương, vượt núi Thông Lănh đổ về phía Đông và từ Đôn Hoàng (Cam Túc) đổ về phía Tây. Tây Vực là vùng đất con đường tơ lụa buộc phải đi qua và cũng là biên cảnh giữa Trung Quốc với các dân tộc phía Bắc và Tây Bắc. V́ an toàn lănh thổ trước sự xâm nhập bên ngoài và cũng v́ muốn độc chiếm huyết mạch giao lưu Đông Tây nên từ đời Hán – Đường, Tây Vực thường xảy ra chiến tranh với những lực lượng quân sự hùng hậu. Thậm chí có những cuộc chiến kéo dài hàng thập kỷ. Trong khi dân t́nh, cảnh vật và khí hậu nơi đây so với Trung Nguyên, có những bất đồng rất lớn.

 

“Con đường tơ lụa” phát xuất từ Trường An (nay là thành phố Tây An tỉnh Thiểm Tây) hướng về phía Tây, sau khi qua nhiều sông núi và thành trấn, được chia thành ba lộ tuyến: Lộ tuyến Nam từ phía Tây Nam Đôn Hoàng ra Dương Quan đi qua Thạch Thành Trấn, Bá Tiên Trấn, Vu Điền Trấn và tiểu vương quốc Sơ Lặc, sau đó vượt phía Tây núi Thông Lănh về đến Ba Tư, Thổ Nhĩ Ḱ và đế quốc La Mă. Lộ tuyến Bắc từ phía Tây Bắc Đôn Hoàng ra Ngọc Môn Quan, men theo phía Nam chân núi Thiên Sơn đi về phía Tây, qua Tây châu, Hán Luân Đài, đến các tiểu vương quốc Khưu Từ và Sơ Lặc, sau đó cũng vượt núi Thông Lănh. Về sau, v́ sự tính toán lợi hại của đường đất, các thương nhân c̣n mở thêm một lộ tuyến mới phía Bắc, tức cũng ra Ngọc Môn quan, nhưng theo phía Bắc chân núi Thiên Sơn để đi về hướng Tây. Sau khi qua Đ́nh Châu và Y Ninh, tiếp tục về hướng Tây đến Hy Lạp, Đông La Mă và Địa Trung Hải.

 

“Con đường tơ lụa” được khai mở từ Tây Hán, hoàn chỉnh vào đời Đường và được sử dụng suốt 17 thế kỷ. Về sau do sự phát triển đường hàng hải, ít gian nan và nguy hiểm hơn, nên con đường bộ xuyên suốt Đông Tây này ngày càng ít được lưu tâm.

 

Do sự thông thương của “Con đường tơ lụa”, những tinh hoa văn hóa, kinh tế giữa Trung Quốc và các nước phương Tây cũng giao lưu rất rộng răi. Đầu tiên là mặt hàng tơ lụa, đến thế kỷ thứ 4, khi kỹ thuật trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa được truyền bá qua các nước Trung Á và Tây Aù th́ từ các mặt hàng mỹ nghệ khác đến những phát minh khoa học như thuật in ấn, làm giấy, thuốc súng, luyện thép, … của Trung Quốc cũng tiếp tục theo “Con đường tơ lụa” truyền bá qua phương Tây. Đồng thời những sản vật vùng Trung Tây Á như Bồ Đào (Nho), Thạch Lựu (quả lựu), Hạch Đào (hạt điều), Chi Ma (gai), Ba Thái, Mục Túc (hai giống rau quả), … cũng theo ngă đường này lục tục đổ vào Trung Quốc. Cả các ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, vũ khúc, … qua đó, cũng ảnh hưởng nhau rất sâu đậm.

 

Thời Tây Hán (khoảng 141 TCN), Trương Khiên đă theo “Con đường tơ lụa) thông sứ Tây Vực, khám phá hàng trăm tiểu vương quốc trải dài suốt mấy ngàn dặm thảo nguyên và sa mạc, mở ra thời kỳ ngoại giao mới cho Trung Quốc.

 

Thời Sơ Đường (Cn 624 – 649), Huyền Trang cũng theo “Con đường tơ lụa” đi qua nhiều nước vùng Tây Vực, hành hương đến xứ Phật Aán Độ. Trong khi nhiều giáo sĩ phương Tây cũng theo đó, đưa giáo lư của nhiều tôn giáo khác nhau đến Trung Nguyên.

 

Đời Đường là thời kỳ phát triển cao độ của thi ca Trung Quốc. Vùng đất Tây Vực là đề tài chính sinh động giàu cảm xúc của nhiều nhà thơ đương thời. Hầu hết các thi nhân đă cọ xác trực tiếp với cảnh sinh hoạt và chiến tranh, những nỗi bi hoan ly hợp và cả cái chết trên những địa danh dọc theo “Con đường tơ lụa” họ đă sáng tác số lượng lớn các bài thơ giá trị được mệnh danh “Thơ biên tái”. Một thành phần trọng yếu làm phong phú nền thi ca đời Đường. Trong văn học sử Trung Quốc, những nhà thơ này cũng được đứng riêng thành một trường phái lớn gọi là “phái Biên Tái”, đại biểu là Sầm Tham, Cao Thích, Vương Xương Linh, Lư Ích, Trần Đào, ….

 

Thời Nguyên Mông (khoảng CN 1218 – 1242), Thành Cát Tư Hăn rồi đến các hậu duệ của ông (con trưởng Thuật Xích và con thứ Oa Khoát Đài) cũng theo con đường tơ lụa chinh phục nhiều nước Châu Aâu và đe dọa cả đế quốc La Mă.

“Con đường tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân, nhưng được hoàn chỉnh bằng vai tṛ lịch sử trọng đại từ kinh tế, văn hóa, tôn giáo, chính trị bang giao và cả chiến lược. Đó là huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây suốt hơn 17 thế kỷ, khi nhân loại chưa có đường hàng hải và hàng không.

 

Chương I.  TRƯỜNG AN – KHỞI ĐIỂM CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

 

Trường An (nay là thành phố Tây An, thuộc tỉnh Thiểm Tây), kinh đô thời Hán Đường và cũng là khởi điểm của con đường tơ lụa. Vào thời đó, Trường An là một thành phố lớn nhất nh́ Thế giới và cũng là trung tâm giao lưu văn hoá kinh tế Đông Tây.

Vào thời kỳ hưng thịnh của Hán Đường, sự qua lại giữa các tiểu vương quốc Tây Vực và Trường An phải nói là dập d́u. Đồng thời, Trường An là một thành phố có mức sinh hoạt rất cao. Đây cũng là lư do mà các sắc tộc Tây Vực, theo “Con đường tơ lụa”, đổ xô đến ngụ cư. Qua những thời gian dài, hầu hết người Tây Vực ngụ cư Trường An đều lấy họ Hán. Thậm chí rất khó ḷng phân biệt phong cách giữa người Trường An và Tây Vực. Người nước Vu Điền nhập cư Trường An đă cải họ Uất Tŕ.

Danh tướng khai quốc công thần nhà Đường Uất Tŕ Kính Đức (Uất Tŕ Cung) tổ phụ là người nước Vu Điền Tây Vực nhập cự Trường An, người nước Sơ Lặc cải họ Bùi, người nước Khưu Từ cải họ Bạch. Chỉ có người nước Khương đa số vẫn giữ họ Khương.

 

Người Tây Vực nhập cư Trường An đương nhiên cũng đem theo cả phong tục và nếp sinh hoạt của dân tộc ḿnh và đă gây ảnh hưởng lớn đến người Trường An, đối với các dân tộc ở ngoại biên phía Đông Bắc, phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc thời cổ đại đều được gọi chung là người Hồ cho nên ngay từ thời Tây Hán, tại Trường An đă có y phục Hồ (Hồ phục), phong màn Hồ (Hồ trướng), thức ăn Hồ (Hồ thực), điệu sáo Hồ (Hồ địch), điệu múa Hồ (Hồ vũ), …

 

Đời Đường Huyền Tông, thiên hạ thái b́nh lâu dài, tại Trường An có phong trào Hồ hóa rất thịnh, đương thời không phân biệt giàu nghèo sang hèn, người ta thi nhau mặc áo quần người Hồ, một loại trang phục ôm sát thân, eo nhỏ, tay hẹp, trái ngược hẳn với trang phục truyền thống Hán Tộc. Sau loạn An Sử, người Hồi Hột (sau cải danh là Hồi Cốt) nhập cư Trường An càng đông. Nhân đó, lối trang phục bó sát người của người Hồi Cốt cũng lưu hành tại Trường An khá phổ biến.

 

Nhà Đường mất không lâu, bà Hoa Nhị Phu nhân (họ Từ), ái cơ của Tiền Thục chủ Vương Kiến, có viết đề tài “Cung từ” với hơn 100 bài thất tuyệt. Trong đó có một bài mô tả sinh động và sâu sắc những cung nữ đời Đường với trang phục Hồi Cốt.

 

花蕊夫人

明朝腊日官家出

随駕先須點内人

回鶻衣装回鶻馬

就中偏称小腰身

 

Âm:

CUNG TỪ

Minh triêu lạp nhật quan gia xuất

Tùy giá tiên tu điểm nội nhân

Hồi Cốt y trang Hồi Cốt mă

Tựu trúng thiên xưng tiểu yêu thân

Hoa Nhị Phu nhân

 

Dịch:

LỜI TRONG CUNG

Buổi sớm nhà vua đi chủ tế

Dập d́u cung nữ hộ xe loan

Aùo quần Hồi Cốt ngựa Hồi Cốt

Diễm kiều đưa đẩy chiếc eo thon.

 

Bài thơ mô tả buổi sớm của một ngày lễ (theo Nông lịch là mồng 8 tháng 12), nhà vua xuất cung đi chủ tế. Các cung nữ hộ giá xe vua đều cưỡi ngựa và mặc trang phục tộc Hồi, phô bày những chiếc eo thon trông rất đẹp. Thế nhưng trong sâu xa của bài thơ, tác giả nhằm cảnh giác phong trào Hồ hóa của người Trung Nguyên, có thể làm mất phong cách của truyền thống Hán Tộc.

 

Thực phẩm của người Hồ theo “Con đường tơ lụa”, đưa vào Trường An cũng được đón nhận rộng răi. Theo lịch sử ghi chép th́, từ Đường Huyền Tông trở đi, nhà bếp của các đời vua và của cả quan viên đều có sẳn chất liệu và gia vị để nấu những món ăn người Hồ. Tại phường Phụ Hưng, phía Tây Bắc thành Trường An cũng đă xuất hiện những quán ăn của người Hồ với những món đặc thù nổi tiếng khắp kinh thành thời bấy giờ.

 

Rượu nho (bồ đào) của các sắc tộc Hồ đưa vào Trung Nguyên cũng gây ảnh hưởng không nhỏ. Từ Tây Hán, đă có rượu nho của các nước Đại Uyển và Khưu Từ đưa vào Trường An. Đến đời Đường có thêm rượu nho của Ba Tư và Cao Xương càng gây chấn động khắp kinh thành. Đường Thái Tông, sau khi diệt nước Cao Xương, có đem giống nho của Cao Xương về trồng ngay trong vườn thượng uyển. Khi thu hoạch nho, cũng theo phương pháp của Tây Vực để làm rượu. Đó là rượu nho Tây Vực đầu tiên được chưng cất tại Trường An. Tại Khúc Giang, một thắng cảnh du lăm phía đông thành Trường An, từ thời Sơ Đường đă xuất hiện những quán rượu của người Hồ, có những cô gái Hồ trẻ đẹp trông coi quán và có cả những vũ nữ ca múa các giai điệu của sắc tộc Hồ. Tương truyền đây là những nơi hết sức quyến rũ đối với các thi nhân đương thời.

 

Tháng 10 năm 1970, tại Hà Gia Thôn (phía Nam Thành Trường An cũ), trong khi lấy đất làm gạch ngói, người ta đă phát hiện hai kho văn vật chôn cất từ đời Đường. Số văn vật tổng cộng hơn 1.000 món, trong đó đồ vàng bạc chiếm 270 món. Qua nghiên cứu địa điểm khai quật nằm ở phường Hưng Hóa của thành Trường An đời Đường. Vị trí khai quật là nềân xưa của Bân Vương phủ. Do đó có thể khẳng định những bảo vật này là sở hữu của Bân Vương Lư Thủ Lễ, anh ruột của Đường Huyền Tông. Cũng qua nghiên cứu, trong số văn vật này, có không ít món là cổ vật của Thổ Nhĩ Ḱ, Hy Lạp, La Mă, … Đặc biệt nhất là chiếc chén đầu trâu bằng mă năo là cổ vật của Ba Tư. Tất cả đều theo “Con đường tơ lụa” đưa đến Trường An vào đời Đường (khoảng CN 590 – 627).

 

Trở lên tất cả là những tư liệu và sự kiện cho phép chúng ta khẳng định ngay từ thời Tây Hán, Trường An đă là khởi điểm của “Con đường tơ lụa”.

 

 

Phụ nữ Trung Nguyên đời Đường trong trang phục thuần túy Hán Tộc, tay cầm hoa Mẫu Đơn.

.

 

Thiếu nữ Trung Nguyên đời Đường trong trang phục người Hồ, tay cầm chim Anh Vũ.

 

 

 Chương II- HÀM DƯƠNG ĐIỂM DỪNG CHÂN ĐẦU TIÊN TRÊN CON ĐƯỜNG TƠ LỤA 

 

 

CDTLbangquasamacTaklamakan

 

Từ thời Hán Đường, những ai khởi hành từ kinh đô Trường An, dẫm lên con đường tơ lụa đi về hướng Tây khoảng 20km là đến Hàm Dương. Một thành phố lớn hàng đầu của Trung Quốc vào thời đó. “Hàm Dương”, cứ theo chiết tự mà giải th́ “Hàm” là bao gồm, “Dương” là phía mặt trời, ư nói hướng dương. Từ đó mới nói, trong khu vực này, Cửu Tông Sơn ở phía Nam, sông Vị Hà ở phía Bắc, đều quay về hướng mặt trời, do đó có tên là Hàm Dương.

 

Hàm Dương là kinh đô nước Tần thời Xuân Thu Chiến Quốc, dân số khoảng một triệu, Tần Thủy Hoàng trong cuộc chiến tranh gồm thâu lục quốc (Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Sở). Mỗi lần tiêu diệt một nước, ông ta ra lệnh lấy mô h́nh cung điện nước đó xây dựng tại Hàm Dương gọi là “Lục quốc cung điện”. Lục quốc cung điện được xây dựng trên một vùng hoàng thổ phía Bắc thành Hàm Dương, cung thất tổng cộng có tới 145 chỗ. Trong đó tàng trữ những chiến lợi phẩm, những nghệ nhân và cả những cung phi mỹ nữ của mỗi nước. Tương truyền chỉ riêng cung nữ của sáu nước cũng đă tới hàng vạn. Cho thấy “lục quốc cung diện” là một công tŕnh kiến trúc khá vĩ đại.

 

Cho tới đời Đường, nhà thơ Lư Thương Ẩn, khi đi qua Hàm Dương, hồi tưởng một thời xa xưa của lịch sử, có viết bài “Hàm Dương”, một bài thất tuyệt mô tả lại những cung điện nguy nga của một thời.

 

咸陽 李商隱

咸陽宮殿郁嵯峨

六國樓臺艶綺羅

自是當時天帝醉

不關秦地有山河

 

Âm:

HÀM DƯƠNG

Hàm Dương cung điện uất tha nga

Lục quốc lâu dài diễm ỷ la

Tự thị đương thời thiên đế túy

Bất quan Tần địa hữu sơn hà.

Lư Thương Aån

 

Dịch:

HÀM DƯƠNG

Hàm Dương cung điện nguy nga

Lâu đài lục quốc dời qua phương này

Ngọc Hoàng chếnh choáng men say

Phải đâu Tần địa cao dài núi sông.

 

Bài thơ dù mô tả sự nguy nga tráng lệ của cung Hàm Dương và lục quốc cung điện nhưng ư tưởng sâu xa cho rằng, do Ngọc Hoàng say rượu nên mới để cho nhà Tần bạo ngược diệt vong sáu nước chứ đâu phải nhờ sông núi hiểm trở của đất Tần. Ư tưởng hơi buồn cười nhưng cũng rất đáng để suy nghĩ.

 

Tần Thủy Hoàng tuy có rất nhiều cung điện, nhưng dục vọng xây cất của ông ta vẫn chưa giới hạn. Sau khi thống nhất thiên hạ, ông ra lệnh xây dựng cung “A Pḥng”, một công tŕnh vĩ đại nhất trong các vương triều kể từ nhà Tần trở về trước. Nghe nói diện tích lên đến 300 km2, 5 bộ một lầu, 10 bộ một gác (mỗi bộ tương đương năm thước ngày nay) trên 2.000 năm trước, phải nói đây là một công tŕnh ngoài sức tưởng tượng, không biết đă tiêu phí biết bao nhiêu nhân tài vật lực. Khi Tần Thủy Hoàng chết, cung A Pḥng vẫn chưa hoàn tất. Tần Nhị Thế (Hồ Hợi) tiếp tục xây dựng.

 

Sau này, khi Sở Bá vương Hạng Vũ đem quân vào Hàm Dương, đă phóng hỏa thiêu rụi mọi cung điện. Theo lịch sử ghi chép lại th́ ngọn lửa cháy ba tháng mới tắt hẳn. Tất cả những cung thất tráng lệ nhất từ cung Hàm Dương, lục quốc cung điện và cả cung A Pḥng đều thành tro bụi cả.

 

Sau ngày giải phóng, những di tích của kinh đô Hàm Dương cũ (cách phía Đông thành phố Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây ngày nay 10km) đă được khai quật. Căn cứ những di vật đào được cộng với tư liệu lịch sử ghi chép, người ta đă vẽ lại được đồ h́nh kiến trúc (phục nguyên đồ) của cung Hàm Dương đời Tần.

 

Kinh đô Hàm Dương, từ thời Tây Hán được cải danh Vị thành. Giữa Trường An và thành Hàm Dương có con sông Vị Thủy chắn ngang, trên sông có một cây cầu cũng gọi Vị kiều. Những ai qua lại giữa Trường An và Hàm Dương đều phải ngang qua cây cầu này. Do đó đương thời cây cầu Vị Kiều này rất nổi tiếng, thường xuất hiện trong tác phẩm của các nhà thơ, nhất là đời Đường. Nhà thơ Đổ Phủ trong bài “Binh xa hành” đă có câu “Gia nhương thê tử tẩu tương tổng. Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều” (Vợ con cha mẹ theo đưa tiễn. Bụi mù che khuất cầu Hàm Dương).

 

Cầu Hàm Dương tức Vị Kiều. Nhà thơ Lư Bạch trong đề tài “Tái hạ khúc” cũng đă nói tới cây cầu này trong một bài ngũ luật mô tả quân đội nhà Hán tây chinh:

 

塞下曲六首(其三) 李白

駿馬似風飆

鳴鞭出渭橋

彎弓辞漢月

揷羽破天驕

陣解星芒盡

營空海雾消

功成画麟閣

獨有霍嫖姚

Âm:

TÁI HẠ KHÚC (bài 3) Lư Bạch

Tuấn mă tự phong tiêu

Minh tiên xuất Vị Kiều

Loan cung từ Hán nguyệt

Sáp vũ phá thiên kiêu

Trận giải tinh mang tận

Doanh không hải vụ tiêu

Công thành họa Lân các

Độc hữu Hoắc phiêu diêu!

 

Dịch:

BÀI HÁT DƯỚI ẢI

Ngựa hay như gió quét

Cầu Vị thét roi rời

Cung gỗ từ trăng Hán

Tên lông phá giặc trời.

Trận tàn, sao sáng tắt

Dinh vắng biển mù vơi

Công lớn ghi Lân các

Phiêu diêu chỉ một người

Lê Nguyễn Lưu dịch

 

Ư của bài thơ: tướng sĩ ra roi, ngựa phi như gió qua cầu sông Vị hướng về biên tái, đem theo cung tên, nh́n vầng trăng Hán từ giả Trường An. Đao kiếm bay múa đánh bại quân xâm lăng Thiên Kiêu (Thiên Kiêu chỉ Thiền Vu, thủ lănh Hung Nô). Chiến tranh kết thúc, quân sĩ ră rời như khách tinh của chinh binh sợ màu trắng. Quân doanh vắng vẻ như sương biển tiêu tan.

 

Đoàn quân đem chiến thắng trở về, Hoàng đế hạ lệnh vẽ chân dung công thần trên gác Kỳ Lân, nhưng chỉ vẽ một ḿnh tướng Hoắc Khứ Bệnh. Ư hai câu cuối của bài thơ, thắng lợi trên chiến trường là công lao và xương máu của toàn bộ sĩ binh, nhưng công trạng cuối cùng chỉ qui về một ḿnh chủ tướng, ám chỉ sự bất công của các vương triều phong kiến thời bấy giờ.

 

Nhà thơ đời Đường Lệnh Hồ Sở viết đề tài “Thiếu niên hành”, cũng có một bài thất tuyệt mô tả những đoàn quân rời Hàm Dương Tây chinh:

 

少年行 令狐楚

弓背霞明劍照霜

秋風走馬出咸陽

未收天子河湟地

拟回頭望故鄉

 

Âm:

THIẾU NIÊN HÀNH (Lệnh Hồ Sở)

Cung bối hà minh kiếm chiếu sương

Thu phong tẩu mă xuất Hàm Dương

Vị thu thiên tử Hà Hoàng địa

Bất nghĩ hồi đầu vọng cố hương.

 

Dịch:

BÀI HÀNH TUỔI THIẾU NIÊN

Cung sáng đeo lưng kiếm ánh sương

Gió thu quất ngựa rời Hàm Dương

Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa

Thề chẳng quay đầu ngóng cố hương.

 

Bài thơ mô tả những đoàn quân thúc ngựa rời Hàm Dương về biên tái phía Tây. Chuyến hành quân này nếu chưa thu phục lại những vùng đất trong khu vực Hà Hoàng, do quân Thổ Phồn chiếm đóng (Đông Nam bộ Cam Túc và Hà Tây Tẩu Lang), thề quyết không quay đầu nh́n lại quê hương.

 

Tất cả lữ hành từ Trường An, theo con đường tơ lụa về phía Tây, đều phải dừng chân tại Hàm Dương một thời gian ngắn. Những đoàn thương nhân cũng dừng chân tại đây để chuẩn bị hành lư và súc vật cho cuộc hành tŕnh xa thăm thẳm.

Những quan viên đi công cán Tây Vực cũng được bằng hữu đưa chân tới đây để làm tiệc tiễn hành. Những đoàn quân Tây chinh cũng phải dừng chân ổn định quân lữ trước khi xuất chinh chiến đấu.

 

Ra khỏi Hàm Dương, đi về phía Tây, con đường tơ lụa phân thành hai lộ tuyến, men theo hai bên sườn hành lang Hà Tây.

Lộ tuyến Bắc đi qua Lễ Tuyền, Nguyên Châu, Hội Châu rồi đến Cam Châu. Lộ tuyến Nam đi qua Vũ Công, Lũng Châu, Thiền Châu rồi cũng hội tụ với lộ tuyến Bắc tại Cam Châu. Từ đó, hai lộ tuyến sẽ đi cùng đường cho đến Sa Châu (Đôn Hoàng) mới rẽ đôi trở lại.

 

Chương III – HÀNH LANG HÀ TÂY TRÊN CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

 

 

2CDTLpn3.Kylienson

 

 

Con đường tơ lụa từ Trường An đến Địa đầu vùng Trung Á có tổng số chiều dài đến 7.000 km th́ hành lang Hà Tây chiếm gần hết 3.000 km. Đó là một dăy dài hẹp có màu xanh, trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa mạc phía Nam cao nguyên Mông Cổ. Nhiều thành thị nằm dọc hành lang này như Thiên Thủy, Cam Châu, Túc Châu, Đôn Hoàng (Sa Châu)… nhờ sự thông thương của con đường tơ lụa mà trở thành những trung tâm giao lưu kinh tế văn hóa rất phồn thịnh.

 

Dọc hành lang cũng có nhiều vùng khí hậu tương đối tốt, cỏ nước phong phú giúp cho nông nghiệp và chăn nuôi phát triển khá sớm. Những khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà Hoàng… có nhiều địa thế hiểm yếu, là tiền đồn bảo vệ Trung Nguyên từ thời Hán Đường và đă trở thành vị trí chiến lược quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.

 

1. KHU VỰC ÂM SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY

 

Ra khỏi Hàm Dương, theo con đường tơ lụa đi về hướng Tây Bắc khoảng 50km (một km tương đương với hai dặm ngày xưa), sẽ đến Thể Tuyền (ngày nay đổi tên thành Lễ Tuyền). Ở đây có lăng mộ của Đường Thái Tông (Chiêu Lăng). Tiếp tục đi về phía Tây thêm 30km nữa đến Phụng Thiên (nay là huyện Càn tỉnh Thiểm Tây), ở đây có lăng mộ của Đường Cao Tông và Vơ Tắc Thiên (Càn Lăng). Cả hai nơi đều là những điểm du lịch nổi tiếng ngày nay.

 

Rời Phụng Thiên, đi về hướng Tây Bắc khoảng 120km sẽ đến Châu Trị An Định Đô Kinh Châu. Sau đó có thể vượt ải Tiêu Quan để đi qua Nguyên Châu, Hội Châu rồi đến Lương Châu, một trọng trấn trên con đường tơ lụa. Đó là con đường lớn độc nhất thông giữa Trường An với Tây Vực mà từ thời Tần Hán c̣n được mệnh danh là “Hồi Trung Đạo”. Kinh Châu là thành phố chủ yếu của “Hồi Trung Đạo”.

 

Khoảng giữa Kinh Châu và Nguyên Châu (nay là Cố Nguyên Ninh Hạ), là ṭa quan ải trọng yếu trên con đường giao thông Đông – Tây: Tiêu Quan (tại phía Bắc Nguyên Châu và phía Nam huyện Hồi Nhạc cũng có huyện Tiêu Quan. Hai nơi này chỉ trùng địa danh chứ không cùng địa phương). Tất cả những bài thơ Biên Tái nổi danh có đề cập đến Tiêu Quan là đều nói về ṭa quan ải này. Hành nhân khi đến Tiêu Quan, đưa mắt về hướng Tây, một bầu trời cảnh sắc biên tái đập vào mắt. Không chỉ có khí hậu địa vật thay đổi mà cả đến phong tục tập quán cũng trái ngược hẳn Trung Nguyên. Những trận cuồng phong nối tiếp, cát bay mù mịt, cát đập vào ḿnh ngựa. Khí hậu khô kiệt và lạnh giá, thảo mộc không thể sinh sôi, thậm chí những ngôi chùa cũng không có bóng tre trúc. Nhà nhà đều treo cung đao trên vách, sĩ binh không rời áo giáp để kịp thời chiến đấu khi có địch xâm nhập. Ở đây hoàn toàn không thấy h́nh bóng khách nhàn du. Cảnh tượng như vậy trải dài tận ngoài tầm mắt từ Tiêu Quan vọng hướng Lâm Thao.

 

Tại phía Bắc, lộ tuyến Bắc của con đường tơ lụa là một vị trí chiến lược tối quan trọng mà binh gia của các phe đều muốn làm chủ được t́nh h́nh. Đó là khu vực Âm Sơn và Hạ Lan Sơn. Phía Đông Hạ Lang Sơn là thành Diêm Châu, đời Đường c̣n có tên Ngũ Nguyên, (hiện nay khu tự trị nội Mông Cổ gần Aâm Sơn cũng có tên Ngũ Nguyên nhưng không phải thành Ngũ Nguyên đời Đường). Thành Ngũ Nguyên (Diêm Châu) từ xưa đến nay vốn thuộc huyện Định Biên, nằm về Bắc bộ tỉnh Thiểm Tây. Thành Diêm Châu do Hoàng Đế hạ lệnh xây dựng vào năm Trinh Nguyên thứ nhất Đường Đức Tông, nhằm củng cố biên pḥng và đă đem lại hiệu quả rất lớn. Từ ngày hoàn tất thành Diêm Châu cho đến nhiều thập kỷ sau, quân Thổ Phồn không dám ḍm ngó Trung Nguyên, ngay cả các sắc dân du mục khi săn bắt hoặc chăn thả súc vật cũng phải cách xa chân thành 100 km.

 

Ngũ Nguyên (tức Diêm Châu) có vị trí địa lư thiên Bắc. Khí hậu khô khan lạnh lẽo, mùa xuân đến rất chậm và tồn tại rất ngắn. Nhà thơ Trương Kính Trung đời Đường có viết bài thất tuyệt “Biên Từ” mô tả hiện tượng này.

 

遍詞張敬忠

五原春色舊來遅

二月垂楊未挂絲

卽今河畔冰開日

正是長安花落時

 

Âm:

BIÊN TỪ (Trương Kính Trung)

Ngũ Nguyên xuân sắc cựu lai tŕ

Nhị nguyệt thùy dương vị quải ti

Tức kim hà bạn băng khai nhật

Chính thị Trường An hoa lại th́.

 

Dịch:

LỜI BIÊN TÁI

Ngũ Nguyên xuân muộn từ xưa

Tháng hai tơ liễu c̣n chưa buông mành

Ở đây tuyết bắt đầu tan

Trong khi hoa đất Trường An rụng đầy.

 

Ư thơ: mùa xuân ở Ngũ Nguyên đến rất trễ, đă tháng hai rồi (chỉ âm lịch) mà dương liễu chưa rũ tơ, những ḍng sông băng mới bắt đầu tan chậm, nếu là đất Trường An th́ hoa xuân đă tàn tạ. Bài thơ ngoài nghệ thuật cao, c̣n có cả giá trị khoa học tự nhiên, ghi nhận được hiện tượng của “Vật Hậu học”. Những ghi chép này rất có ư nghĩa trong việc nghiên cứu những biến thiên của khí hậu.

 

Nhà thơ Lư Ích (một trong Đại Lịch thập tài tử) là người Lương Châu, sinh năm Thiên Bảo thứ 7 Đường Huyền Tông (CN 748). Năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN 764) ông 17 tuổi. Lúc đó Thổ Phồn công hăm Lương Châu, ông cùng gia đ́nh lánh nạn đến Lạc Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Năm Đại Lịch thứ tư Đường Đại Tông (CN 769), họ Lư đậu tiến sĩ. Bấy giờ quân Thổ Phồn tràn xuống Trung Nguyên đánh phá khắp nơi, thậm chí kinh đô Trường An cũng bị chiếm lĩnh. Năm Đại Lịch thứ 9 (CN 774), đại tướng Đường triều Quách Tử Nghi kiến nghị tiến hành đại qui mô quân sự đối phó quân Thổ Phồn. Lư Ích ṭng quân gia nhập Mạc phủ Vị Bắc Tiết Độ Sứ Tàng Hy Nhượng. Ông đă đến Trường An theo đoàn quân Bắc tiến đi qua Ngũ Nguyên, Hạ Châu, vượt sa mạc Phá Nột Sa đến ba ṭa Đông, Trung, Tây của Thụ Hàng thành. Trên đường hành quân, họ Lư đă viết nhiều bài thơ Biên Tái độc đáo được truyền tụng rất rộng. Như bài “Tống Liêu Dương Sứ Hoàn Quân” được vẽ thành đồ họa, bài “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch” được soạn thành ca khúc. Những bài này sẽ đề cập sau, khi nói về những địa danh có liên quan đến con đường tơ lụa.

 

Khi Lư Ích đi qua Du Lâm thuộc khu vực Âm Sơn của hành lang Hà Tây, có viết bài thất tuyệt “Thính Hiểu Giác”, mô tả tiếng c̣i sừng buồn thảm của buổi sớm nơi đây:

 

聴曉角 李益

遍霜昨夜墜關楡

吹角當城漢月孤

無限塞鴻飛不度

秋風卷入小單于

 

Âm:

THÍNH HIỂU GIÁC (Lư Ích)

Biên sương tạc dạ trụy Quan Du

Xuy Giác đương thành Hán Nguyệt cô

Vô hạn tái Hồng phi bất bộ

Thu phong quyển nhập tiểu Thiền Vu.

 

Dịch:

NGHE TIẾNG C̉I SỪNG BUỔI SỚM

Đêm qua sương phủ khắp Du lâm

C̣i sừng thành lặng bóng trăng tàn.

Quan tái nhạn hồng bay khó vượt

Vẳng nghe hồ khúc buồn xé gan.

 

Bài thơ diễn đạt những màn sương thu biên tái đă rơi xuống vùng Du Lâm. Mảnh trăng tàn vẫn c̣n treo lơ lững, tiếng c̣i sừng trên thành bỗng trỗi lên khúc nhạc Hồ (Hung Nô) buồn thảm, làm cho đàn nhạn từ Nam lên Bắc cũng không dám vượt quan san.

 

Hai chữ “Quan Du” trong câu đầu đă làm cho nhiều người tưởng là cây du bên quan tái, v́ nhầm lẫn với bài “Ṭng quân hành” cũng của Lư Ích “Quan thành du diệp tảo sơ hoàng. Nhật mộ sa vân cổ chiến trường” (Lá du trở vàng trên quan ải. Chiều hôm mây cát chiến trường xưa”. C̣n một cách giải dịch khác, “Quan Du” là “Du quan”, tức Du Lâm Quan (nay là khu Mông Cổ tự trị Chuẩn Cách Nhĩ Kỳ). Cho nên câu đầu của bài “Thính Hiểu Giác” phải dịch là “Sương đêm của miền biên tái đă rơi xuống Du Lâm Quan”.

 

Phía Đông Ngũ Nguyên (phụ cận vùng Du Lâm tỉnh Thiểm Tây) có một con sông tên Vô Định Hà. Sông này phát nguyên từ khu Mông Cổ tự trị Ngạc Nhĩ Đa Tư, chảy về hướng Đông Nam qua Du Lâm, huyện Mễ Chi, huyện Thanh Giản (thuộc tỉnh Thiểm Tây) rồi nhập vào Hoàng Hà. Đây là con sông nước chảy rất siết đem theo nhiều bùn cát, sâu cạn khó ḍ và thường khi thay đổi ḍng chảy nên mới có tên Vô Định Hà. Vô Định Hà là con sông nhỏ không có trong bản đồ, nhưng là khu biên tái quan trọng thời Hán Đường. Thời Hán quân Hung Nô thường theo ngă này xâm nhập và đánh phá Trung Nguyên, cho nên hai bờ sông thường xảy ra những trận chiến khốc liệt. Cho tới đời Đường, nhà thơ Trần Đào khi qua đây, vẫn c̣n chứng kiến những băi xương khô phơi trắng hai bờ. Ông cảm xúc h́nh dung những trận đánh ác liệt trên chiến trường xưa và viết bài thất tuyệt “Lũng Tây Hành”. Nhờ đó mà con sông Vô Định trở nên nổi danh.

 

隴西行陳陶

誓掃匈奴不顧身

五千貂錦喪胡塵

可憐無定河遍骨

猶是春閨夢里人

 

Âm:

LŨNG TÂY HÀNH (Trần Đào)

Thệ tảo Hung Nô bất cố thân

Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ Trần.

Khả liên Vô Định hà biên cốt

Do thị xuân khuê mộng lư nhân.

 

Dịch:

BÀI HÀNH QUA ĐẤT LŨNG TÂY

Liều thân phá giặc biên thùy

Năm ngàn tướng sĩ vùi thây đất Hồ.

Bờ Vô Định băi xương khô

Mà pḥng khuê vẫn mộng chờ chinh nhân.

 

Bài thơ diễn tả ḷng quyết tâm tiêu diệt Hung Nô không kể ǵ mạng sống. Trong trận chiến này, hàng mặc áo Điêu Cừu của Vũ Lâm quân cũng bỏ xác thê thảm đến năm ngàn người. Tội nghiệp cho những băi xương khô hai bên bờ sông Vô Định, trong khi những thiếu phụ nơi pḥng khuê quê nhà vẫn mộng nhớ người thân.

 

Phía Đông Diêm Châu và phía Bắc Hạ Châu là sa mạc Phá Nột Sa, c̣n gọi là sa mạc Phổ Nột Sa (nay là Khố Bố Tề sa mạc). Phía bắc Phá Nột Sa là Phong Châu, một địa điểm trọng yếu của khu vực Âm Sơn, ngay từ thời cổ đại, đây là nơi tụ cư của một dân tộc du mục phương Bắc. Một vùng thảo nguyên bao la, cỏ nước phong phú, ḅ dê béo tốt. Cuộc sống con người, dù là du mục, rất sung túc yên vui. Vào thời Bắc Tề (CN 550-577) có một nhà thơ vô danh sáng tác bài “Sắc Lặc ca”, một bài dân ca mô tả xuất sắc phong cảnh và cuộc sống dưới chân núi Âm Sơn.

 

敕勒歌 (北齊)無名氏

敕勒川,陰山下

天似穹廬,籠盖四野.

天蒼蒼,野茫茫,

風吹草低見牛羊.

 

Âm:

SẮC LẶC CA (Bắc Tề) Vô Danh thị

Sắc Lặc xuyên, Âm Sơn hạ

Thiên tự khung lư, lung cái tứ dă.

Thiên thương thương, dă mang mang,

Phong xuy thảo để kiến ngưu dương.

 

Dịch:

BÀI CA CỦA NGƯỜI SẮC LẶC

Ḍng sông Sắc Lặc, chảy dưới núi Âm Sơn.

Trời như mái lớn, che khắp thảo nguyên.

Trời xanh xanh, đất bao la

Gió đùa cỏ rạp thấy dê ḅ.

 

Sắc Lặc ca” đă trở thành bài thơ trứ danh trong lịch sử thi ca Trung Quốc. “Sắc Lặc” là một dân tộc du mục thời Bắc Tề tụ cư tại Sóc Châu (nay là Bắc bộ tỉnh Sơn Tây). Ư thơ, người Sắc Lặc chúng ta quê hương tại chân núi Âm Sơn. Trời như chiếc màn lớn (Mông Cổ bào) che khắp vùng thảo nguyên rộng lớn. Trời xanh bao la, đất mênh mông không bờ bến. Một trận gió lướt qua đè rạp đồng cỏ, để lộ những đàn ḅ dê béo tốt.

 

Theo lịch sử ghi chép, “Sắc Lặc ca” vốn là tiếng Tiên Ti. V́ người Tiên Ti lúc đó chưa có văn tự, cho nên tác phẩm được sáng tác bằng xuất khẩu và phổ biến qua truyền khẩu. Măi tới thời Nam Bắc triều mới được người Bắc Tề ghi thành Hán ngữ, từ đó trở đi bài thơ được lưu truyền bằng chữ Hán, do đó mà những câu thơ dài ngắn không đồng đều.

 

Tộc Tiên Ti vào thời Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều là một dân tộc hùng mạnh phương Bắc, đă từng dựng nên những nước Tiền Yên, Hậu Yên, Bắc Ngụy, Bắc Chu. Ngay cả nước Bắc Tề cũng do người Tiên Ti xây dựng trên cơ sở văn hóa Hán.

 

Theo ghi chép trong sách “Nhạc phủ quảng đề”: Tướng Cao Hoan của Bắc Tề đem quân công thành Ngọc Bích của Bắc Chu. Cuộc chiến kéo dài nhiều ngày, sĩ binh của Bắc Tề cơ hồ thương vong quá nửa mà vẫn chưa hạ được thành, tướng Cao Hoan lo sợ ngă bệnh. Vua Bắc Chu hạ lệnh: “Cao Hoan chỉ là con chuột già, dám ngang nhiên công thành Ngọc Bích. Ta chỉ cần ra quân đánh một trận nhẹ, bọn chúng sẽ không có đất chôn.” Cao Hoan nghe được, hốt nhiên vùng dậy triệu tập bộ tướng, an ủi sĩ binh và ra lệnh tất cả cùng hát bài “Sắc Lặc ca”, Cao Hoan cũng cất tiếng hát theo. Tiếng hát vang dội cả đồi núi thảo nguyên, sĩ binh phấn chấn tinh thần và công hạ thành Ngọc Bích. Câu chuyện tuy có vẻ giai thoại nhưng tự thân nó nói lên được sức mạnh kinh thiên động địa phát ra từ một bài dân ca giản đơn b́nh thường.

 

Bài “Sắc Lặc ca” mô tả cảnh sắc cực kỳ chân thật, cho người đọc (và cả người nghe) h́nh dung được toàn cảnh phong quang miền biên tái, một thảo nguyên rộng lớn dồi dào sức sống. Từ đó bài thơ trở thành (gần như) kinh nhật tụng, và nhất là câu cuối bài, đă trở nên thành ngữ cho bao nhiêu người, bao nhiêu thế hệ của dân tộc Sắc Lặc tụ cư dưới chân núi Âm Sơn (Phong xuy thảo để kiến ngưu dương).

 

Chân núi Âm Sơn hằng năm c̣n là địa điểm trao đổi ngựa và vàng lụa giữa Hồi Cốt (Hồi Hột) với vương triều Đường. Mỗi năm cứ đến hẹn kỳ, người Hồi Cốt từ phía Tây Bắc lùa ngựa, theo Con đường Tơ lụa, đến chân núi Âm Sơn. Vương triều Đường cũng chuyển tải vàng lụa, theo Con đường Tơ lụa đến đó. Giá mỗi con ngựa qui định 10 tấm lụa (sau này tăng lên 40 tấm), và ngựa què ngựa ốm chết Đường triều cũng phải nhận. Những vùng cỏ nước dồi dào dọc chân núi Âm Sơn hằng năm, đoàn ngựa của Hồi Cốt đi qua, ăn hết cỏ uống cạn nước mà số ngựa què quặt, ốm chết vẫn không giảm. V́ muốn thu vào số lượng ngựa quá lớn nên triều đ́nh không những vắt kiệt công của trong dân chúng mà c̣n phải trút vàng bạc trong kho lẫm để trợ giá cho khoản tơ lụa thiếu chất lượng và số lượng.

 

V́ quan điểm ngựa là phương tiện tối ưu trong chiến tranh (thời cổ) nên Đường Hiến Tông có ư đồ thu hết nguồn ngựa để bẻ găy khả năng chiến tranh của Hồi Cốt. Nhưng cuối cùng phải đối diện 3 hậu quả nghiêm trọng không c̣n thuốc chữa: Thứ nhất, ôm về số ngựa vô dụng quá lớn, đă trở thành gánh nặng không biết trút vào đâu. Thứ hai, tài vật trong dân chúng đă kiệt quệ mà kho lẫm triều đ́nh cũng trống rỗng. Thứ ba, người Hồi Cốt chỉ trao cho Đường triều số ngựa què quặt, ốm chết, trong khi vẫn bảo tồn chiến mă cho chiến tranh. Trong loạn An Sử (đời Đường Huyền Tông), triều đ́nh có mượn quân Hồi Cốt để dẹp loạn. Người Hồi Cốt cậy công nên tỏ ra kiêu ngạo, thái độ bắt ép điều kiện vô lư trong mậu dịch ngựa cũng phát xuất từ ḷng kiêu căng đó. Trong khi Đường Hiến Tông cứ tưởng lầm ḿnh có thể tương kế tựu kế trong ḷng tham này của đối phương.

 

Vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 11 đến năm thứ 15, Đường Huyền Tông, nhà thơ Vương Xương Linh đă theo quân đến vùng biên tái. họ Vương đă đến Tiêu Quan, Lâm Thao, Ngọc Môn Quan và đến cả Toái Diệp thành của vùng trung Á Tế Á. Thời gian sống trong quân lữ, ông đă thực sự cảm thụ được từ phong quang đến nếp sinh hoạt vùng biên tái. Từ đó, nhà thơ đă viết nhiều bài về biên tái rất nổi danh, mô tả sống động từ cảnh vật đến nếp sống trên những khu vực biên cương dọc theo Con đường Tơ lụa, trong đó, trứ danh nhất là bài thất tuyệt “Xuất Tái”:

 

出塞王昌齡

秦時明月漢時關

萬里長征人未還

但使龍城飛将在

不敎胡馬度蔭山

 

Âm:

XUẤT TÁI (Vương Xương Linh)

Tần thời minh nguyệt Hán thời quan,

Vạn lư trường chinh nhân vị hoàn.

Đản sử Long Thành Phi tướng tại,

Bất giao Hồ mă độ Âm San.

 

Dịch:

RA QUAN ẢI

Trăng Tần ải Hán nhiêu khê,

Chinh nhân vạn dặm ngày về chưa hay.

Cầm bằng Lư trướng c̣n đây,

Th́ Âm San đă vùi thây ngựa Hồ.

 

Xuất Tái” là một cựu đề trong Nhạc Phủ. Ư thơ, vầng trăng và quan ải hôm nay đều là cổ vật của Tần Hán. Những đoàn quân chiến đấu ngoài quan ải nhiều năm chưa trở về. Nếu c̣n danh tướng Lư Quảng của Tây Hán trấn thủ Long Thành bảo vệ biên cương th́, tuyệt đối không cho phép kỵ binh của người Hồ vượt núi Âm Sơn vào đánh phá Trung Nguyên.

 

Nhà thơ Trung Đường Đái Thúc Luân khi đi qua Âm Sơn cũng có viết bài “Tái Thượng khúc”, một bài thất tuyệt (mượn Hán chỉ Đường) mô tả hào tâm tráng chí của binh tướng Đường triều chiến đấu bảo vệ Âm Sơn:

 

塞上曲 戴叔倫

漢家旗幟满陰山

不遣胡兒匹馬還

愿得此身長报國

何須生入玉門關

 

Âm:

TÁI THƯỢNG KHÚC (Đái Thúc Luân)

Hán gia kỳ xí măn Âm San

Bất khiến Hồ nhi thất mă hoàn,

Nguyện đắc thử thân trường báo quốc

Hà tu sinh nhập Ngọc Môn Quan.

 

Dịch:

KHÚC HÁT TRÊN QUAN TÁI

Quân Đường vây kín cả Âm San

Không để ngựa Hồ thoát lưới ngăn.

Nguyện đem thân sống đền ơn nước

Mong ǵ trở lại Ngọc Môn Quan.

 

Bài thơ diễn đạt khí thế quân Đường (mượn Hán chỉ Đường) cờ xí rợp trời vây kín núi Âm Sơn, quyết không để cho một kỵ binh Hồ nào lọt lưới đào thoát. Chí nguyện thà chết vĩnh viễn bảo vệ quốc gia chứ không cầu sống sót trở lại Ngọc Môn Quan để hồi hương. Câu cuối bài có vận dụng một cố sự đời Hán, nói về nhân vật anh hùng Ban Siêu. Thời trai trẻ họ Ban đă ném bút ṭng quân đến trấn thủ nhiều thập kỷ tại Tây Vực và đă lập nhiều chiến công hiển hách. Những năm về già, Ban Siêu v́ nhớ quê, đă thỉnh nguyện triều đ́nh xin được trở lại Ngọc Môn Quan để về cố hương. Trong bài thơ của Đái Thúc Luân có phản ư, binh tướng Đường triều hạ quyết tâm thà chết, vĩnh viễn bảo vệ Âm Sơn pḥng thủ cho Trung Nguyên, chứ không xin trở lại Ngọc Môn Quan như Ban Siêu đời Hán.

 

Nhà thơ Lư Ích khi hành quân đến ba ṭa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành của khu vực Âm Sơn có viết một bài thất tuyệt “Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch”, mô tả cảnh tượng về đêm nơi vùng biên tái này:

 

夜上受降城聞笛 李益

回樂烽前沙似雪

受降城外月如霜

不知何處吹蘆管

一夜征人盡望

 

Âm:

DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH (Lư Ích)

Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết

Thụ Hàng Thành ngoại nguyệt như sương.

Bất tri hà xứ xuy lô quản,

Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.

 

Dịch:

ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG NGHE SÁO

Cát trước non Hồi trông tựa tuyết

Trăng ngoài thành Thụ ngó như sương.

Ai hay sáo thổi nơi nào nhỉ?

Đêm ấy người xa nhớ cố hương.

Lê Nguyễn Lưu dịch

 

Khu vực Âm Sơn vào đời Đường có ba ṭa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành, do Sóc Phương quân tổng quản Trương Nhân Nguyện xây dựng vào niên hiệu Cảnh Vân Vơ Tắc Thiên. Mục đích chế ngự quân Đột Quyết xâm nhập. Đông Thụ Hàng thành tại Nội Mông Thác Khắc Thác Nam. Trung Thụ Hàng thành ở phía Tây thành phố Bao Đầu ngày nay. Tây Thụ Hàng thành ở Hàng Tích Hậu Kỳ (bờ Bắc sông Ngũ Gia Hà). Lư Ích hành quân tới đây vào thời kỳ quân Thổ Phồn thường từ phía Tây xâm nhập, nhằm giành quyền kiểm soát huyết mạch Đông-Tây của Con đường Tơ lụa. Cho nên Tây Thụ Hàng thành vào thời kỳ này là tiền đồn quan trọng nhất của khu vực Âm Sơn. Phong Hỏa Đài trên núi Hồi Nhạc nằm về Tây Thụ Hàng thành. Ở phía Bắc Nguyên Châu cũng có huyện Hồi Nhạc và Phong Hỏa Đài, nhưng chỉ trùng địa danh chứ không liên quan tới Hồi Nhạc phong của Thụ Hàng thành.

 

Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch” vẽ ra những băi cát trước núi Hồi Nhạc sáng lên như màu tuyết, ánh trăng ngoài thành Thụ Hàng mờ ảo như sương. Tiếng sáo, không biết từ đâu, trỗi lên những khúc nhạc bi sầu, làm thức dậy ḷng nhớ quê của chinh khách.

 

Ba ṭa Đông, Trung Tây Thụ Hàng thành là tuyến đầu của Âm Sơn. Âm Sơn là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi ra khỏi Hàm Dương, men theo lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

 

2. KHU VỰC LŨNG SƠN TRÊN HÀNH LANG HÀ TÂY

 

Rời Hàm Dương, men theo lộ tuyến Nam của Con đường Tơ lụa, đi về hướng Tây khoảng 20km là đến huyện Hưng B́nh (thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay). Phía Đông Bắc Hưng B́nh là Mậu Lăng (lăng mộ của Hán Vũ Đế). Vào thời Tây Hán ở đây đă từng có huyện Mậu Lăng, nhưng qua hơn 2.000 năm biến thiên, Mậu Lăng chỉ c̣n để lại dấu tích. Phía Tây huyện Hưng B́nh là trạm Mă Ngôi, nơi mỹ nhân đời Đường Dương Quí Phi đă bị bức tử trên đường chạy vào Thục, trong loạn An Sử. Hiện tại, nơi đây vẫn c̣n mộ Dương Quí Phi. Tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến huyện Vũ Công, bên ngoài huyện trấn Vũ Công là phần mộ của một nhân vật nổi danh thời Tây Hán: Tô Vũ.

 

Từ Vũ Công theo Con đường Tơ lụa tiếp tục về hướng Tây, sau khi vượt Lũng Sơn, hành nhân bước vào vùng Đông Nam Bộ của Lũng Hữu đạo. Địa giới của Lũng Hữu đạo bao quát từ Lũng Sơn Cam Túc đổ về phía Tây, từ Ô Lỗ Mộc Tề Tân Cương đổ về phía Đông, thẳng tới Đông Bắc bộ tỉnh Thanh Hải, thủ phủ đóng tại Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải). Thời cổ đại lấy hướng Tây làm mé phải, cho nên phía Tây Lũng Sơn được gọi “Lũng Hữu”. Từ Tây Hán trở đi, Lũng Hữu là vùng biên tái không bao giờ gián đoạn chiến tranh. Lữ khách rời Trường An theo Con đường Tơ lụa, sau khi đến Lũng Hữu, sẽ đối diện một bầu cảnh sắc cực kỳ biến hóa từ khí hậu đến địa vật. Đó là cảnh tượng mà Vương Nhai, nhà thơ đời Đường, khi qua đây đă mô tả trong một bài ngũ tuyệt: “Lũng Thượng hành”

 

隴上行 王涯

負羽到遍州

鳴笳度隴頭

黄云知塞近

草白見遍秋

 

Âm:

LŨNG THƯỢNG HÀNH (Vương Nhai)

Phụ vũ đáo biên châu

Minh già độ Lũng Đầu

Hoàng vân tri tái cận

Thảo bạch kiến biên thu

 

Dịch:

ĐI TRÊN LŨNG SƠN

Cung nỏ đến biên cương

Nghe kèn qua Lũng Sơn

Mây vàng soi biên tái

Cỏ trắng báo thu sang

 

Bài thơ vẽ h́nh ảnh người chiến sĩ vai đeo cung tên tiến ra biên ải. Khi vượt Lũng Sơn hốt nhiên nghe khúc nhạc bi lương vẳng lên từ tiếng kèn lá của người Hồ. Mây vàng soi gần biên tái và những đám cỏ trắng báo hiệu thu về. Cỏ trắng là loại cỏ có tên Cập Cập, chỉ sinh trưởng ở vùng Lũng Sơn đổ về phía Tây. Mỗi độ vào thu, mọi nguồn nước cạn kiệt, cỏ bị chết khô hóa màu trắng.

 

Sau khi vào đất Lũng Hữu, hành nhân sẽ dẫm lên Tần Châu, một thành trấn lớn của khu vực Lũng Sơn (nay là thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc). Trong loạn An Sử, nhà thơ Đỗ Phủ đă từng lánh cư xứ này, ông có viết đề tài “Tần Châu tạp thi” với 20 bài ngũ tuyệt. Từ Tần Châu, tiếp tục đi về hướng Tây sẽ đến Lan Châu (đời Đường c̣n có tên Kim Thành), rồi đến Thiền Châu. Đó là khu vực bao quát những trọng trấn quân sự Lâm Thao, Hà Tây Cửu khúc (nay là Hồ Thanh Hải) và Mân Sơn. Những vùng này, vào thời Sơ Đường, là lănh địa của tiểu vương quốc Thồ Cốc Hồn. Vào niên hiệu Long Sóc Đường Cao Tông, Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn (Tây Tạng) tiêu diệt, phải chạy qua nương nhờ Vương triều Đường. Do vậy mà những vùng đất vừa kể, có một thời, là chiến trường kinh thiên động địa giữa Đường triều và Thổ Phồn.

 

Lũng Sơn tức đoạn phía Nam của Đại bàng Sơn (cũng c̣n có những tên Lũng Pha, Lũng Để, Lũng Thủ). Lũng Sơn ngày nay là biên cảnh giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc, có chiều dài từ Nam lên Bắc khoảng 100 km, cũng là phân giới giữa b́nh nguyên Vị Hà và cao nguyên Lũng Tây.

 

Thời cổ đại giao thông rất khó khăn, đi lại vất vả. Những đoàn quân Tây chinh, những thương đội hoặc những quan viên công cán Tây Vực, sau khi rời những đô thị phồn hoa như Trường An, Hàm Dương, theo Con đường Tơ lụa về hướng Tây. Sau khi vượt Lũng Sơn, suốt tầm mắt là một không gian biên tái dị dạng, đơn điệu. Khí hậu khô kiệt giá buốt gợi cho lữ khách ḷng nhớ quê da diết. Dân ca nhạc phủ thời Bắc triều có đề tài “Lũng Đầu ca từ” (3 bài) mô tả xuất sắc ḷng nhớ quê của lữ khách khi bước chân tới Lũng Sơn:

 

隴頭歌辞 (北朝)樂府民歌

隴頭流水

流离山下

念吾一身

飄然曠野

朝發欣城

暮宿隴頭

寒不能語

舌卷入喉

隴頭流水

鳴聲鳴咽

遥望秦川

心肝斷

Âm:

LŨNG ĐẦU CA TỪ

(Bắc Triều) Nhạc Phủ Dân Ca

(Bài 1)

Lũng Đầu lưu thủy

Lưu ly sơn hạ

Niệm ngô nhất thân

Phiêu phiêu khoáng dă

(Bài 2)

Triêu phát Hân thành

Mộ túc Lũng Đầu

Hàn bất năng ngữ

Thiệt quyển nhập hầu

(Bài 3)

Lũng Đầu lưu thủy

Minh thanh minh yết

Diêu vọng Tần Xuyên

Tâm can đoạn tuyệt

 

Dịch:

NHỮNG BÀI HÁT VỀ LŨNG ĐẦU (Lũng Sơn)

(Bài 1)

Nước tự Lũng Đầu

Đổ về chân núi

Một thân phiêu diêu

Gởi theo cỏ nội

(Bài 2)

Hân thành buổi sớm

Chiều tới Lũng Đầu

Lạnh không hớ miệng

Lưỡi cuộn yết hầu.

(Bài 3)

Lũng Đầu nước xung

Âm vang bất tuyệt

Vọng về Quan Trung

Ruột gan đứt hết

 

Bài 1:

Nước tự Lũng Đầu (Lũng Sơn) đổ tứ tán về chân núi. C̣n một thân lênh đênh phiêu bạt của ta, cũng chỉ biết phó mặc cho thảo nguyên không bờ bến.

 

Bài 2: Một sớm rời Hân thành, chiều tối đến Lũng Sơn. Trời lạnh tới độ không thể mở miệng nói, tưởng chừng như lưỡi đă bị cuộn cứng vào cổ họng.

 

Bài 3: Những khe nước từ Lũng Sơn tuôn xuống, vang vọng những âm thanh bi lương. Ta đứng trên đầu núi ngóng về cố hương Tần Xuyên (nay là Quan Trung tỉnh Thiểm Tây), tưởng chừng ruột gan đứt đoạn.

 

Những bài dân ca “Lũng Đầu lưu thủy” này khi lưu truyền, gần như đă hóa ra thành ngữ của bi lương, nhớ quê, sầu khổ. Trải qua nhiều triều đại, “Lũng Đầu lưu thủy” đă trở thành đề tài trong sáng tác của nhiều thi nhân.

 

Sầm Tham, nhà thơ nổi danh thời Thịnh Đường, xuất thân từ một gia đ́nh quan lại, đậu tiến sĩ năm 30 tuổi, có giữ một chức quan nhỏ tại Trường An. Đường Huyền Tông năm Thiên Bảo thứ 8 (CN 749), An Tây Tiết Độ Sứ Cao Tiên Chi về triều, thỉnh cầu Hoàng Đế cử Sầm Tham đến giữ chức thư kư trong mạc phủ Tiết Độ Sứ của ông ta, lúc đó Sầm Tham 35 tuổi. Một ngày mùa Đông năm đó Sầm Tham lần thứ nhất đến Tây Vực. Từ Trường An, họ Sầm theo Con đường Tơ lụa, đi về phía Tây qua khỏi Đôn Hoàng, đến An Tây Đại Đô Hộ Phủ (lúc đó đặt tại thành Khưu Từ, nay là vùng Khố Xa tỉnh Tân Cương)). Sầm Tham giữ chức thư kư ở đó 2 năm, đến năm Thiên Bảo thứ 10 (CN 751) được triệu hồi về Trường An.

 

Khoảng giữa mùa Hạ và mùa Thu, từ năm Thiên Bảo thứ 13 Đường Huyền Tông đến năm Chí Đức thứ 2 Đường Túc Tông (CN 754-757), Sầm Tham lần thứ hai được cử đến Tây Vực, nhận chức Phán quan tại mạc phủ An Tây Tiết Độ sứ Phong Thường Thanh. Lần thứ nhất đến Tây Vực v́ chưa quen với phong cảnh dị dạng, khí hậu khắc nghiệt và sinh hoạt gian khổ nơi quan ải, nên thơ họ Sầm chỉ có t́nh điệu nhớ nhung sầu thảm. Lầân này đến Tây Vực nhà thơ đă quen thuộc mọi thứ và có nhiều kinh nghiệm sinh hoạt nơi biên cương, nên thơ ông bật lên được tinh thần hào tráng, vẽ lên được những h́nh ảnh vừa hào hùng vừa bi tráng trên tuyến đầu đất nước. Ngay cả những bài thơ nhớ nhà của họ Sầm cũng không hề biểu lộ t́nh điệu sầu thảm, như bài thất tuyệt “Phó Bắc Đ́nh độ Lũng tư gia” dưới đây:

 

赴北庭度隴思家 岑参

西向輪臺萬里餘

也知鄉信日應疏

隴山鸚鵡能言語

爲報家人數寄書

Âm:

PHÓ BẮC Đ̀NH ĐỘ LŨNG TƯ GIA (Sầm Tham)

Tây hướng Luân Đài vạn lư dư

Dă tri hương tín nhật ưng sơ

Lũng Sơn Anh Vũ năng ngôn ngữ

Vị báo gia nhân số kư thư

 

Dịch:

NHỚ NHÀ KHI QUA LŨNG SƠN, TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN BẮC Đ̀NH

Tây cách Luân Đài hơn vạn dặm

Tin quê mỗi bước một thưa xa

Lũng Sơn Anh Vũ chừng biết nói

Thay giúp tin thư gởi quê nhà

 

Bài thơ mô tả h́nh ảnh lữ khách đi về hướng Tây, c̣n cách Luân Đài hơn vạn dặm. Tin tức quê nhà càng lúc càng xa theo mỗi bước chân. Tiếng hót chim Anh Vũ trên đầu núi Lũng h́nh như nói lên được ḷng người, hăy thay ta đưa tin về quê.

Vùng Lũng Sơn có loài chim Anh Vũ màu lông rất đẹp, các quan chức triều đ́nh rất thích chơi loài chim này nên lệnh cho địa phương hàng năm phải tiến cống. Việc bắt chim Anh Vũ (chim Két) là một tai họa kinh khủng cho bá tánh Lũng Sơn và cả quan sai địa phương. Anh Vũ ở Lũng Sơn làm tổ trên sườn núi cheo leo, cách mặt đất từ 100m trở lên. Người dân nơi đây phải dùng dây leo, treo người lơ lững trên không vào lúc nửa đêm, ŕnh bắt chim. Công việc hết sức nguy hiểm, 10 người leo núi may ra chỉ c̣n 1 người sống sót đem chim về. Trong khi các tướng lănh trấn thủ biên cương cũng học đ̣i chơi chim Anh Vũ. Họ lệnh cho sĩ tốt phải làm những chiếc lồng đẹp, hằng ngày c̣n phải hầu rượu cho các tướng lănh thưởng ngoạn chim, việc pḥng thủ biên ải nhiều khi lơi lỏng.

 

Con đường Tơ lụa” sau khi vượt Lũng Sơn, đi về phía Tây khoảng 100 km sẽ đến Tần Châu. Thủ phủ Tần Châu là Thiên Thủy (nay là thành phố Thiên Thủy tỉnh Cam Túc). Địa danh Thiên Thủy có từ năm Nguyên Đỉnh thứ 2 đời Hán Vũ Đế (114CN), có trước cả địa danh Tần Châu thời Tam Quốc. Phía Tây ngoại thành Thiên Thủy có một hồ nước. Theo nói lại th́ nước hồ này mùa Hạ không tăng Đông không giảm, mưa không đầy nắng không vơi. Truyền thuyết, có một con sông từ trời chảy xuống hồ nên mới có tên “Thiên Tủy” (nước trời). Truyền thuyết vẫn chỉ là truyền thuyết, tất cả những hiện tượng đó ngày nay không tồn tại.

 

Có một điều, chính sử không phủ nhận, Thiên Thủy từ viễn cổ tới đời Đường là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, là quê hương của nhiều nhân vật lừng danh trong lịch sử. Thượng cổ có Hoàng Đế Nữ Oa (nhân vật luyện đá vá trời và lập ra chế độ hôn nhân). Hoàng Đế Phục Hy (nhân vật vạch ra 8 quẻ bát quái làm nền tảng cho kinh Dịch). Đời Hán có Lư Quảng (danh tướng uy trấn Hung Nô). Tam quốc có Gia Cát Lượng, Triệu Xung Quốc, Khương Duy. Cả hai vị Hoàng Đế khai quốc nhà Đường Lư Uyên và Lư Thế Dân, đều là những nhân vật sinh trưởng tại Thiên Thủy.

 

Năm Càn Nguyên thứ nhất Đường Túc Tông (CN 758), nhà thơ Đỗ Phủ bị biếm quan ở Hoa Châu (nay là huyện Hoa tỉnh Thiểm Tây), ông đưa gia đ́nh, theo Con đường Tơ lụa, vượt Lũng Sơn đến Tần Châu. Gặp lúc cuộc sống ở đây chật vật, mọi sinh hoạt khó khăn lại thêm Tần Châu đang bị quân Thổ Phồn uy hiếp, nên ông chỉ lưu lại một thời gian ngắn rồi rời Tần Châu đến Đồng Cốc (nay là huyện Thành tỉnh Cam Túc). Cuộc sống ở Đồng Cốc chẳng khả quan ǵ hơn Tần Châu, nên cũng chỉ một thời gian ngắn, ông đưa gia đ́nh thẳng vào Thành Đô (đất Thục).

 

Thời gian lưu lại Tần Châu tuy ngắn ngủi (3 tháng) nhưng lại là thời kỳ sáng tác thịnh nhất của Đỗ Phủ, ở đây ông đă viết hơn 90 bài thơ (trung b́nh mỗi ngày 1 bài) mô tả xuất sắc từ núi sông, con người đến cả h́nh thể đất nước trên một vùng đất trọng yếu của Con đường Tơ lụa. Nổi bật nhất là 20 bài “Tần Châu tạp thi” mà trong khuôn khổ chương sách này, chúng tôi chỉ tạm trích 2 bài.

 

秦州雜 杜甫

秦州城北寺

胜迹隗囂宮

藓山門古

丹青野殿空

月明垂葉露

雲逐度溪風

清渭無情極

愁時獨向東

莽莽萬重山

孤城山谷間

無風雲出塞

不夜月臨關

属國歸何晚

楼蘭斬未還

烟塵獨長望

衰颯正摧顏

 

Âm:

TẦN CHÂU TẠP THI (Đỗ Phủ)

(Bài 2)

Tần Châu thành Bắc tự

Thắng tích Ngỗi Hiêu cung.

Đài tiểán sơn môn cổ

Đan thanh dă điện không

Nguyệt minh thùy diệp lộ

Vân trục độ khê phong

Thanh vị vô t́nh cực

Sầu thị độc hướng Đông.

 

(Bài 7)

Măng măng vạn trùng san

Cô thành sơn cốc nhàn.

Vô phong vân xuất tái

Bất dạ nguyệt lâm quan.

Thuộc quốc qui hà văn?

Lâu Lan trảm vị hoàn!

Yên trần độc trường vọng

Suy táp chính tồi nhan.

Dịch:

THƠ VẶT LÀM Ở TẦN CHÂU

Bài 2

Tần Châu chùa cơi Bắc

Ấy chốn Ngỗi Hiêu xưa.

Cửa núi làn rêu cũ

Đền hoang nét vẽ thưa.

Trăng soi sương lá giọt,

Mây dục gió khe đưa.

Thanh vị thờ ơ thế,

Về Đông buồn quạnh chưa!

Bài 7:

Lớp lớp núi muôn ḥn,

Nếp thành giữa lũng con.

Mây biên đùn gió lặng,

Chiều ải ló trăng non.

Thuộc quốc sao về muộn?

Lâu Lan chắc vẫn c̣n!

Ngóng hoài trong khói bụi,

Vẽ mặt luống thon von.

Lê Nguyễn Lưu dịch

 

Trong suốt 20 bài của “Tần Châu tạp thi”, Đỗ Phủ đă mô tả sống động từ lộ tŕnh dọc Con đường Tơ lụa đến Tần Châu và cả bức tranh toàn cảnh Tần Châu. Ông đă đi qua suối Ngư Long, núi Điểu Thử (suối Ngư Long phát nguyên từ Tây Bắc huyện Lũng, chảy về Nam nhập vào Khai Thủy. Suối này sản sinh một giống cá ngũ sắc tương truyền là giống Rồng, mới có tên Ngư Long. Núi Điểu Thử thuộc huyện Vị Nguyên tỉnh Cam Túc ngày nay).

 

Bài 2 trong “Tần Châu tạp thi” nói về những biến thiên của một thắng tích. Trên đầu núi phía Đông Bắc Tần Châu có ngôi chùa Sùng Ninh, vốn là nền cung điện xưa của Ngỗi Hiêu. Cuối thời Tây Hán Ngỗi Hiêu cát cứ toàn bộ vùng Cam Châu và Túc Châu (nay là tỉnh Cam Túc), tự xưng là Tây Châu đại tướng quân. Sau này bị nhà Đông Hán đánh bại nhiều lần, Ngỗi Hiêu lo buồn sinh bệnh mà chết. Di tích Ngỗi Hiêu cung tại đầu núi phía Bắc thành phố Thiên Thủy ngày nay, tục gọi Hoàng Thành. nay chỉ c̣n lại cảnh hoang tàn của những mẫu tường sụp đổ. Cửa chùa Sùng Ninh cũng mọc đầy rong rêu cỏ dại. Bên trong không một bóng người, ánh trăng chiếu qua những giọt sương trên lá, mây bên ḍng suối bị gió chiều cuộn trôi.

 

Bài 7: Tả cảnh Tần Châu nằm giữa sơn cốc với núi non trùng điệp. Trời không gió, mây vẫn cứ tự trôi qua ải. Đêm chưa xuống hẳn mà ánh trăng đă rải khắp biên cương. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ sao vẫn chưa trở về? Hay là chưa chịu đáp ứng yêu sách của vua Lâu Lan? (Vua Lâu Lan chỉ Thiền Vu Hung Nô. Điển Thuộc Quốc Tô Vũ lănh mệnh Hán triều đi sứ Hung Nô, bị bắt đày đi chăn dê 19 năm nơi biên tái. Ư thơ mượn điển cố Hán để chỉ sứ giả Đường triều). Hai câu cuối, Đỗ Phủ nhân cảnh chạnh t́nh, nghĩ về tuổi già long đong và dung nhan tiều tụy của ḿnh.

 

Con đường Tơ lụa”, từ Tần Châu, có một đại đạo thông thẳng qua sa mạc, ở đây có hàng ngàn lán trại của người Hồ (đă qui phục triều đ́nh), dân cư có đến 10 ngàn hộ, tuấn mă chạy khắp sa mạc rớt xuống những giọt mồ hôi đỏ như huyết. Đó là Tộc Bạch Đề của người Hồ (người dân tộc này thích dùng phấn trắng bôi lên trán nên tự xưng là “Bạch Đề Tộc”).

 

Lúc Đỗ Phủ đến Tần Châu th́ nơi đây đă là biên quan của Đường Triều. Trong loạn An Sử triều đ́nh đă điều hết quân tinh nhuệ pḥng thủ biên tái về nội địa dẹp loạn, kết quả tuyến đầu bỏ trống. Ngoại tộc thừa cơ bắt đầu xâm nhập, nghiêm trọng nhất là Thổ Phồn (Tây Tạng). Thổ Phồn liên tục đánh chiếm Hà Tây, Lũng Hữu, cuối cùng công hăm cả kinh đô Trường An.

Tại một ṭa núi phía Nam ngoại thành Tần Châu là chùa Nam Quách. Trong chùa có một ḍng suối gọi Bắc Lưu Tuyền chảy về hướng Tần Châu. Những ngày lưu lại Tần Châu, Đỗ Phủ đă từng du lăm qua chùa Nam Quách (vị trí ngày nay nằm giữa eo núi Nam Sơn, cách phía Nam Thiên Thủy khoảng 3 km). Trước chùa có hai cây Ḥe lớn xưng là Hán Ḥe. Tại một viện nhỏ phía Đông chùa có một giếng đá (nằm trong ḍng chảy của Bắc Lưu Tuyền). Giếng này không những nước rất tốt mà đặc biệt mùa hạn nước nhiều hơn mùa mưa. Trước chánh điện chùa có hai cây bách rất xưa mà trong thơ Đỗ Phủ gọi “Lăo thụ”, ít nhất cũng có hơn ngàn năm tuổi, mỗi cành đều có một bia đá. Một trong hai cây bách thân nứt làm đôi, chính giữa mọc lên cây ḥe, làm thành hiện tượng kỳ lạ “Bách Bao Ḥe”. Tương truyền, danh tướng khai quốc công thần Đường triều Uất Tŕ Kính Đức đă từng cưỡi ngựa trên hai cây bách này. Nói chung, những di tích cổ xưa của chùa Nam Quách vẫn c̣n bảo tồn đầy đủ.

 

Đông thiền viện chùa Nam Quách có miếu Đỗ Phủ (Đỗ Công Từ). Theo ghi chép th́ ở Đông Kha Cốc Tần Châu (nay là Công xă Liễu Gia Hà Thôn), thuộc huyện Thiên Thủy, Cam Túc) Đỗ Phủ đă từng ngụ tại nhà người cháu Đỗ Tả. Nơi đây có Đỗ Công Bộ thảo đường, một kiến trúc kỷ niệm Đỗ Phủ, niên hiệu Đồng Trị đời Thanh đă bị chiến tranh phá hủy. Sau này Đông thiền viện chùa Nam Quách được đổi tên “Đỗ Công Từ”. Ngày nay trong miếu vẫn c̣n tượng Đỗ Phủ và hai tiểu đồng đứng hầu sách (nhiều tư liệu cho đó là hai con trai của nhà thơ, Đỗ Tôn Văn và Đỗ Tôn Vơ).

 

Phía Đông Nam Tần Châu khoảng 40 km, là vị trí của một ṭa núi có đỉnh giống h́nh một đống lúa Mạch, nên có tên Mạch Tích Sơn, một thắng cảnh trứ danh nằm trên Hành Lang Hà Tây của Con đường Tơ lụa (khu vực Lũng Sơn). Khoảng sau nhà Tần (CN 384-417), Mạch Tích Sơn bắt đầu được khai quật, kéo dài đến thế kỷ 19, bảo tồn được gần 200 hang động. Bên trong có một số lớn tượng Phật bằng đá và hơn 1000m2 bích họa. Những hang đá trên núi cao hơn 140m, theo những phương pháp nghiên cứu hiện đại, người xưa đă đắp đất từ chân núi lên đến hiên nhai rồi theo những bậc đất, lên đó đục hang động, khắc tượng Phật, khi làm xong dời đất đi. Người sau muốn lên tham quan hang động phải thiết kế cầu treo mới lên được. Trải mấy ngàn năm biến thiên, Mạch Tích Sơn vẫn được bảo tồn hoàn hảo. Ngày nay đă trở thành thắng cảnh du lịch trên Con đường Tơ lụa.

 

Năm Quảng Đức thứ nhất Đường Đại Tông (CN 763), quân Thổ Phồn tiến chiếm kinh đô Trường An, 13 ngày sau bị danh tướng Quách Tử Nghi đem quân đẩy lui. Tới năm Quảng Đức thứ hai (CN 764), Thổ Phồn liên kết với Hồi Hột đem hơn 10 vạn quân, lần thứ hai công chiếm Trường An, nhưng cũng bị quân Quách Tử Nghi bẻ găy. Vùng Đông Bộ biên cảnh Thổ Phồn là Đường Kiếm Nam Tiết Độ Sứ do Nghiêm Vũ quản hạt, cũng nhiều lần bị quân Thổ Phồn nhập xâm đánh phá. Năm Quảng Đức thứ hai, Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xuất quân tấn công đại qui mô, tiêu diệt hơn 7 vạn binh mă Thổ Phồn. Tiết Độ Sứ Nghiêm Vũ xua quân chiếm luôn Câu Thành (nay là khu A Bá tự trị tỉnh Tứ Xuyên), sau đó tiến chiếm Diêm Xuyên Thành (nay thuộc Tây Bắc huyện Chương tỉnh Cam Túc). Cả hai nơi đều nằm phụ cận Lâm Thao. Cuộc chiến kéo dài từ mùa Thu đến mùa Đông mới kết thúc.

 

Trấn Lâm Thao nằm ở chân núi Mân Sơn (nay là huyện Mân tỉnh Cam Túc, không phải huyện Lâm Thao đời Đường) là một trọng trấn quân sự biên tái mà Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi qua, và cũng được nhiều nhà thơ nhắc tới. Nhà thơ Thịnh Đường Vương Xương Linh khi hành quân qua đây đă viết bài ngũ luật “Tái Hạ Khúc”

 

塞下曲 王昌齡

飲馬渡秋水

水寒風似刀

平沙日未沒

黯黯見臨滔

昔日長城戰

咸言意氣高

黄塵足今古

白骨亂蓬蒿

Âm:

TÁI HẠ KHÚC (Vương Xương Linh)

Ẩm mă độ thu thủy

Thủy hàn phong tự đao.

B́nh sa nhật vị một,

Ảm ảm kiến Lân Thao

Tích nhật trường thành chiến,

Hàm ngôn ư khí cao.

Hoàng trần súc kim cổ,

Bạch cốt loạn Bồng hao.

 

Dịch:

BÀI HÁT DƯỚI

Qua sông ngựa uống nước,

Nước lạnh, gió như dao.

Nắng tà vùng cát phẳng,

Thấp thoáng thấy Lâm Thao.

Trận Trường Thành thuở trước,

Cùng bảo khí quân cao.

Bụi vàng đầy kim cổ,

Xương trắng lẫn Bồng hao.

Lê Nguyễn Lưu dịch

 

Qua bài “Tái Hạ Khúc”, Vương Xương Linh diễn đạt tâm tư đối cảnh chạnh t́nh của một chiến binh già trấn đóng nơi biên tái. Buổi chiều mùa Thu, v́ cho ngựa uống nước phải lội qua ḍng sông nhỏ, nước sông giá lạnh, gió quét vào mặt như dao cắt. Màu trời hôn ám, bóng chiều tà c̣n vướng trên sa mạc mênh mông. Nh́n về hướng Lâm Thao xa xa, chạnh nhớ những trận ác chiến dưới chân Trường Thành thuở trước, ngày đó sĩ khí rất cao nhưng tự cổ chí kim, tất cả mọi cuộc chiến tranh đều chỉ để lại những băi cát vàng, xương người ngổn ngang lẫn lộn vào cỏ dại.

 

Vị Hà là chi lưu chủ yếu của Hoàng Hà, chảy qua trung tâm đế quốc Đường Triều (vùng Quan Trung Thiểm Tây), tích tụ phù sa cho những cánh đồng vùng Quan Trung, giúp cho nông nghiệp phát triển mạnh, tăng cường hùng hậu cho nhà Đường.

Khoảng giữa Tần Châu và Kim Thành (nay là Lan Châu Cam Túc) có huyện Vị Nguyên (c̣n có tên Tư Nghĩa), là đầu nguồn của Vị Hà, nơi Con đường Tơ lụa bắt buộc phải đi qua.

 

Vị Hà phát nguyên từ Điểu Thử Sơn phía Tây Nam huyện Vị Nguyên. Điểu Thử Sơn (núi Chim Chuột) là một hiện tượng tự nhiên kỳ lạ, ở đó chim và chuột sống chung một hang động. Hơn hai ngàn năm trước, thiên Vũ công sách “Thượng Thư” đă ghi “Hiện tượng Chim và Chuột sống cùng hang động”.

 

Vị Hà c̣n có một chi lưu là Khai Thủy, phát nguyên từ huyện Lũng tỉnh Thiểm Tây. Đoạn đầu nguồn sông này có tên Long Ngư xuyên (sông cá Rồng). Tương truyền nơi đây sản sinh một giống cá ngũ sắc có ṇi Rồng. Dân cư quanh vùng đều cho là thần vật không ai dám bắt.

 

Thao Thuỷ (tức Thao Hà) phát nguyên từ ranh giới hai tỉnh Thanh Hải và Cam Túc, chảy về hướng Đông, đến huyện Mân tỉnh Cam Túc th́ quặt hướng Bắc, chảy qua phía Tây Điểu Thử Sơn trước khi nhập vào Hoàng Hà.

 

Tại Cam Túc, Thanh Hải và Tân Cương đều có những ghi chép về huyệt động Chim Chuột trên núi, trên thảo nguyên hoặc hoang mạc. Người đời Thanh là Từ Tùng đă từng ghi chép hiện tượng huyệt động Chim Chuột khi đi qua vùng Y Lê tỉnh Tân Cương: “Chuột như chuột thường. Chim có lông đuôi dài màu xanh lục, nhỏ hơn chim Tước. Lúc rạng đông chim bay ra khỏi hang trước, một lúc sau chuột mới ra. Chim đứng trên lưng chuột để chuột mặc t́nh chạy nhảy chim vẫn không rớt”.

 

Tại Điểu Thử Sơn đầu nguồn Vị Hà, chuột già đào hang động, chim nhỏ đi t́m lương thực về dự trữ. Những ngày Đông tạnh ráo, chuột già ra khỏi hang tắm nắng, chim nhỏ đứng hót líu lo trên lưng chuột. Mùa Hạ nước sông lên cao, chuột già bơi qua sông, chim nhỏ cũng qua sông bằng cách đứng trên lưng chuột.

 

Do đâu mà có hiện tượng chim chuột ở cùng huyệt kỳ lạ này? Giới Động vật học giải thích: nhiệt độ tại vùng hoang mạc giữa Đông và Hạ, giữa ngày và đêm có mức sai biệt rất lớn, nhưng trong hang động th́ Đông ấm Hạ mát, nếu có sai biệt th́ mức độ cũng rất nhỏ. V́ thế các loài động vật sống chung rất hạnh phúc trong hang động, qua nhiều ngàn năm đă trở thành một thứ truyền thống bất dịch. Một số người cho rằng, vùng này khí hậu khắc nghiệt, cây cỏ không mọc được, chim chóc không có cây làm tổ nên phải sống chung với chuột trong hang động. Nhưng theo kết luận của nhiều đoàn khảo sát th́, Điểu Thử Sơn là vùng có nhiều rừng rậm cỏ cây um tùm. Làm sao có chuyện chim không cây làm tổ. Lư do sống chung ḥa b́nh của chim và chuột chỉ c̣n tồn tại ở khí hậu ôn ḥa dễ chịu của hang động.

 

Đó là những nét đặc trưng của vùng Lâm Thao. Từ Lâm Thao, theo Con đường Tơ lụa đi về hướng Tây Bắc đến Kim Thành (tức Lan Châu), rồi đến Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô, Thanh Hải). Phía Tây Thiền Châu là vùng Hà Tây Cửu Khúc (nay thuộc tỉnh Thanh Hải), từng là chiến trường đẩm máu giữa Đường triều và Thổ Phồn. Sau đó thẳng tới Tây Hải (nay là hồ Thanh Hải).

 

Vùng Tây Nam Thiền Châu Kim Thành nguyên là địa bàn của nước Thồ Cốc Hồn, do họ Mộ Dung của tộc Tiên Ty kiến lập. Vào đời Tùy, Thồ Cốc Hồn bị nhà Tùy diệt vong, biến thành quận huyện của Tùy. Cuối đời Tùy, Trung Quốc đại loạn, Phục Duẫn Khả Hăn của Thồ Cốc Hồn thừa cơ thu phục những vùng đất đă mất tái lập quốc gia. Vào thời Sơ Đường, Phục Duẫn Khả Hăn thường đem quân cướp bóc quậy phá biên cảnh Đường triều. Năm Trinh Quán thứ 9 (CN 635), Đường Thái Tông mệnh cho hai tướng Lư Tịnh và Hầu Quân Tập đưa 6 lộ quân tiến công Thồ Cốc Hồn, Phục Duẫn Khả Hăn đại bại tự sát.

 

Đường triều lập con y là Mộ Dung Thuận làm Khả Hăn Thồ Cốc Hồn.

Thời Thịnh Đường, nhà thơ Vương Xương Linh khi hành quân qua Thiền Châu Kim Thành, h́nh dung lại chiến trường xưa, có viết đề tài “Ṭng quân hành” gồm một số bài thất tuyệt, trong đó, bài thứ 5 mô tả lại trận chiến với Thồ Cốc Hồn.

 

從軍行 王昌齡

大漠風塵日色昏

紅旗半卷出轅門

前軍夜戰滔河北

已報生擒吐谷渾

Âm:

T̉NG QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)

(Bài 5)

Đại mạc phong trần nhật sắc hôn,

Hồng kỳ bán quyển xuất Viên môn.

Tiền quân dạ chiến Thao Hà Bắc,

Dĩ báo sanh cầm Thồ Cốc Hồn.

Dịch:

BÀI HÁT THEO QUÂN

Gió bụi trời chiều qua sa mạc,

Quân uy cờ cuốn dục lên đường.

Thao Hà đêm ấy vừa giao chiến,

Đă bắt sống vua Thồ Cốc Hồn.

 

Ư thơ, gió cát chiều tà trên sa mạc mênh mông. Đoàn quân hùng hậu cuốn cờ thẳng tiến về biên tái phía Tây. Ngay đêm giao chiến đầu tiên tại Thao Hà Bắc, đă có tin báo về, bắt sống được thủ lĩnh Thồ Cốc Hồn.

 

Từ khi Thồ Cốc Hồn đại bại trước Đường triều, mối quan hệ giữa hai nước được cải thiện ngày càng tốt. Đến đời cháu của Phục Duẫn, Nặc Hạt Bát kế vị ngôi Khả Hăn, được Đường Thái Tông phong “Hà Nguyên quận vương”. Năm Trinh Quán thứ 13 (CN 639), Nặc Hạt Bát đích thân đến Trường An triều kiến Hoàng Đế và thỉnh hôn. Năm sau, Đường Thái Tông phong con gái của Hoài Dương Vương Lư Đạo Minh là Hoằng Hóa Công Chúa, gă cho Nặc Hạt Bát làm “Khả Đôn” (vợ chính của Khả Hăn). Cuộc hôn nhân này giúp cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng được củng cố vững chắc. Khi Đường Thái Tông qua đời, Đường triều c̣n tạc một tượng đá của Nặc Hạt Bát, đặt ngay dưới chân Chiêu Lăng (lăng mộ Đường Thái Tông). Vào thời kỳ đó, đây là vinh dự rất lớn đối với lănh tụ một dân tộc miền quan ngoại.

 

Năm Trinh Quán thứ 15 (CN 641), vua Thổ Phồn là Tùng Tán Can Bố phái sứ giả đến Trường An cầu hôn. Đường Thái Tông quyết định gă Công Chúa Văn Thành. Lộ tŕnh đưa dâu có đi qua Thổ Cốc Hồn (nay là tỉnh Thanh Hải). Khả Hăn Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa rất nhiệt t́nh đón tiếp và đích thân tiễn đưa Công Chúa Văn Thành đến tận biên cảnh Thổ Phồn. Do mối quan hệ tốt đẹp giữa Đường triều và Thồ Cốc Hồn mà Con đường Tơ lụa (đoạn từ Kim Thành đến Hà Tây Tẩu Lang) được thông suốt không c̣n trở ngại.

 

Năm thứ 2 sau khi Đường Thái Tông băng (CN 650), Tùng Tán Can Bố cũng qua đời. Người kế nhiệm của ông từng bước một, bành trướng thế lực ra ngoài biên cảnh, đă nhiều lần đem quân tấn công Thồ Cốc Hồn. Năm Long Sóc thứ 2 Đường Cao Tông (CN 663), Thổ Phồn lại xua đại quân tấn công Thổ Cốc Hồn. Khả Hăn Nặc Hạt Bát và Hoằng Hóa Công Chúa chỉ đưa được vài ngàn dân và súc vật, theo bờ Đông Bắc Thanh Hải, vượt Kỳ Liên Sơn đến lánh nạn tại Lương Châu (lănh thổ Đường triều, nay là huyện Vũ Uy Cam Túc). Thồ Cốc Hồn từ đó diệt vong. Sau này Đường Cao Tông phái Đại tướng Tiết Nhân Quí đem hơn 10 vạn quân thu phục lănh địa của Thồ Cốc Hồn nhưng thất bại. Con đường Tơ lụa cũng bị tắt nghẽn dưới sự khống chế của Thổ Phồn.

 

Năm Thánh Lịch thứ nhất Đường Vơ Tắc Thiên (CN 698), Hoằng Hóa Công Chúa qua đời, an táng tại Dương Hồn Cốc Dă thành (nay là Nam Doanh Công Xă, huyện Vơ Uy tỉnh Cam Túc). Đó là thôn Bắc núi Chủy Tử, nghĩa trang của họ Mộ Dung tộc Tiên Ty. Mộ của Công Chúa cao 10 thước c̣n bảo tồn tới ngày nay. Bài thất tuyệt thứ nhất của Vương Xương Linh trong đề tài “Ṭng quân hành” nhằm mô tả nền xưa của lănh địa Thồ Cốc Hồn, một tiểu vương quốc từng có quá khứ huy hoàng, giờ c̣n để lại bên này biên cảnh, h́nh ảnh những sĩ binh Đường Triều trấn giữ biên cương, ôm ḷng nhớ quê da diết:

 

從軍行 王昌齡

烽火城西百尺摟

黄昬獨坐海風秋

更吹羌笛關山月

無那金閨萬里愁

Âm:

T̉NG QUÂN HÀNH (Vương Xương Linh)

(Bài 1)

Phong hỏa thành Tây bách xích lâu,

Hoàng hôn độc tọa Hải phong thu.

Cánh xuy Khương địch “Quan san nguyệt”

Vô ná kim khuê vạn lư sầu.

Dịch:

BÀI HÁT THEO QUÂN

Phong Hỏa” thành Tây trăm thước lầu,

Quanh đây biển gió một chiều Thu.

Sáo Khương trỗi khúc “Quan san nguyệt”,

Vạn dặm pḥng khuê vô hạn sầu.

 

Bài thơ diễn đạt tâm tư những sĩ binh trấn thủ biên cương, hằng ngày nh́n qua nền xưa của một tiểu vương quốc đă bị Thổ Phồn chiếm lĩnh. Từ sau khi Thồ Cốc Hồn bị Thổ Phồn diệt vong, Đường quân xây một “Phong hỏa đài” trên lầu cao trăm thước để quan sát địch t́nh. Hằng ngày sĩ binh ngồi trên Phong Hỏa đài, đón những làn gió chiều Thu từ hồ Thanh Hải thổi tới, cộng thêm tiếng sáo rợ Khương trỗi lên khúc nhạc thảm sầu “Quan San Nguyệt”, người lính biên cương không cầm được ḷng nhớ quê. Bài thơ cũng không quên đề cập nỗi buồn vô hạn của những chinh phụ nơi khuê pḥng, thương nhớ chinh nhân nơi biên tái.

 

Đời Đường Cao Tông (sau khi Thổ Phồn chiếm lĩnh Thồ Cốc Hồn làm thuộc địa), thế lực Thổ Phồn rất mạnh, uy hiếp nặng nề tuyến đường giao thông giữa Đường triều và Tây Vực, qua vùng Hà Tây Tẩu Lang (tức từ Lương Châu qua Cam Châu, Túc Châu tới Đôn Hoàng). V́ muốn bảo vệ biên cương và sự thông thương của Con đường Tơ lụa, khoảng giữa niên hiệu Khai Nguyên và Thiên Bảo, Đường triều đă cho thành lập Hà Tây Tiết Độ sứ tại Lương Châu với quân số 7 vạn 3 ngàn, và Lũng Hữu Tiết Độ sứ tại Thiền Châu với quân số 7 vạn 5 ngàn. Tất cả đều nhằm vào mục đích pḥng bị quân Thổ Phồn nhập xâm.

Năm Thiên Bảo thứ 12 (CN 753), Lũng Hữu Tiết Độ sứ kiêm Hà Tây Tiết Độ sứ Ca Thư Hàn đă xuất đại quân tấn công Thổ Phồn tại Hà Tây Cửu Khúc (phía Đông Hồ Thanh Hải). Những trận tiến công quân sự đại qui mô kéo dài rất nhiều ngày, Ca Thư Hàn cũng công phá được một vài thành nhỏ, nhưng tổn thất của quân Đường lại quá nặng nề. Thời Đường Huyền Tông, Hoàng Đế cũng đă từng lệnh cho Tướng Ca Thư Hàn đem quân tấn công Thạch Bảo Thành của Thổ Phồn (nay ở phía Tây Nam Tây Ninh tỉnh Thanh Hải). Trận đó quân Đường tiêu vong gần hết mới chiếm được thành, trong khi chỉ bắt được vỏn vẹn 400 quân địch. Nói chung từ Đường Vơ Tắc Thiên đến Đường Cao Tông rồi Đường Huyền Tông, quân Đường chỉ cầm chân được Thổ Phồn ở vùng Phong Hỏa Đài tuyến đầu Thanh Hải, chứ không thu phục được lănh địa Thổ Cốc Hồn.

Kim Thành (Lan Châu), Thiền Châu (nay là huyện Lạc Đô tỉnh Thanh Hải) và Tây Hải (nay là Hồ Thanh Hải) đều là tuyến đầu trọng yếu của khu vực Lũng Sơn. Lũng Sơn cũng là khu vực đầu tiên trên Hành Lang Hà Tây, sau khi ra khỏi Hàm Dương, theo Lộ tuyến Nam của “Con đường Tơ lụa” đi về hướng Tây.

 

 Chương IV- LỘ TUYẾN MỚI PHÍA BẮC CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

 

 

 

 yuyaquan-156036-1368927124_500x0

 

Lộ tuyến mới phía Bắc là một trong ba lộ tuyến thông Tây Vực của Con đường Tơ lụa. Tức từ An Tây (Cam Túc) ra Đường Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, vượt băi Qua Bích đến Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), tiếp tục về phía Tây qua Đ́nh Châu, thủ phủ của Bắc Đ́nh Đô Hộ phủ đời Đường (nay là Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), vượt Y Ninh (Tân Cương) thẳng tới Toái Diệp Thành. Từ đó vượt vùng Trung Á Tế Á để đến Hy Lạp, La Mă và bờ Địa Trung Hải.

Vùng biên cảnh phía Bắc và Tây Bắc Trung Quốc, từ thời Hán Đường, chiến tranh không bao giờ dứt. Đời Hán chiến tranh với Hung Nô. Những năm khai quốc Đường triều chiến tranh với Đột Quyết. Về sau (cũng đời Đường) chiến tranh với Thổ Phồn, Hồi Hột. Các tiểu quốc này muốn tấn công một nước lớn như Đường triều, trước tiên phải chiếm con đường phía Bắc Thiên Sơn của Tây Vực, tức lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa (vùng Y Châu, Đ́nh Châu và Ô Tôn) làm thuộc địa. Rồi sau mới chinh phục con đường phía Nam Thiên Sơn, tức lộ tuyến Bắc của Con đường Tơ lụa (các tiểu quốc Yên Kỳ, Khưu Từ và Sơ Lạc), những quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp phong phú. Từ đó mới đối địch với Hán Đường. Về phía Hán Đường, muốn củng cố biên pḥng, cũng phải đánh bại các tiểu quốc đó và làm chủ vùng Tây Vực.

 

Từ thời Tây Hán, Hán Vũ Đế đă 2 lần phái Trương Khiên thông sứ Tây Vực (năm 138-119 TCN). Sau nhiều năm lặn lội gian khổ và tù đày, Trương Khiên đă khám phá và mở rộng bang giao với 36 tiểu vương quốc vùng Tây Vực. Quan trọng nhất là các nước Đại Uyển (nay ở vùng Trung Á), Nguyệt Chi, Khang Cư (nay ở giữa hồ Baican và Biển Mặn), Đại Hạ (nay là phía Bắc Apganixtan), Điền Việt (nay là tỉnh Vân Nam), Vu Điền (nay nằm giữa tỉnh Tân Cương) và Ô Tôn.

 

Trong tấu chương tŕnh lên Hán Vũ Đế, Trương Khiên có viết “Ở Đại Hạ có gậy trúc sản xuất tại Cung Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên) và hàng tơ lụa sản xuất tại đất Thục (nay là Thành Đô, Tứ Xuyên). Người bản xứ cho biết những thứ đó do thương nhân Thiên Trúc (Ấn Độ) mang tới”. Qua đó Hán Vũ Đế được biết, từ lâu đă có con đường buôn bán giữa Trung Nguyên với các vương quốc phía Tây và Tây Bắc. Ông hạ quyết tâm làm chủ t́nh h́nh và mở rộng con đường này. Từ đó về sau, hàng năm Hán Vũ Đế đều phái sứ giả thông sứ Tây Vực, xây dựng quan hệ ngoại giao với các vương quốc vùng này. Sứ giả và các đoàn thương nhân Tây Vực cũng lũ lượt đến Trung Quốc. Hàng tơ lụa của Trung Quốc, ngày càng nhiều, đi qua Tây Vực tới các nước Tây Á rồi đi tiếp sang Âu Châu. Người đời sau gọi đó là “Con đường Tơ lụa”.

 

Năm Thần Tước thứ 2 Hán Tuyên Đế (năm 60 TCN), Hán triều thiết lập “Tây Vực Đô Hộ Phủ” tại Ô Lũy thành (nay là Công Xă Sách Đại Nhă Dă Vân Câu, thuộc huyện Luân Đài tỉnh Tân Cương), cử Trịnh Cát giữ chức quan đô hộ, có nhiệm vụ bảo hộ từ Thiện Thiện đổ về Tây Nam. Thiện Thiện đời Hán là tiểu vương quốc Thiện Thiện, thủ đô tại Y Tuần (nay là Mễ Lan thuộc huyện Nhược Khương Tân Cương. Không phải huyện Thiện Thiện của Tân Cương ngày nay). Tây Vực Đô Hộ phủ đời Hán chủ yếu kết hợp cộng đồng các vương quốc vùng Tây Vực nhằm đối phó Hung Nô, bảo vệ sự thông suốt của “Con đường Tơ lụa”.

 

Đến đời Đường, khoảng niên hiệu Trinh Quán Đường Thái Tông (CN 627 – CN 649), quân Đường tiêu diệt nước Cao Xương tại Tây Vực (thuộc quốc của Đột Quyết), thành lập Tây Châu tại đó (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương). Sau đó tiêu diệt luôn 2 nước Yên Kỳ và Khưu Từ. Sơ Lặc và Vu Điền thấy thế đều xin thần phục Đường Triều. Toàn bộ con đường phía Nam Thiên Sơn đều trở thành lănh thổ hoặc thuộc quốc của nhà Đường. Công Nguyên 640, Đường triều thiết lập An Tây Đô Hộ phủ, thủ phủ đặt tại Giao Hà (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương). Về sau (CN 658) di dời đến thành Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) xưng là An Tây Đại Đô Hộ phủ, cai quản 4 Đô Đốc Phủ: Toái Diệp (sau là Yên Kỳ), Khưu Từ, Sơ Lặc và Vu Điền, xưng An Tây Tứ Trấn. Chức quan cao nhất của Đô Hộ phủ là An Tây Đô Hộ, đến thời Đường Huyền Tông đổi là An Tây Tiết Độ Sứ. Công Nguyên 702, Vũ Tắc Thiên ra lệnh thành lập Bắc Đ́nh Đại Đô Hộ phủ, thủ phủ tại Kim Măn Thành Đ́nh Châu (nay là Hộ Bảo Tử, phía Bắc Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), cai quản toàn bộ con đường Bắc Thiên Sơn, chức quan cao nhất là Bắc Đ́nh Đô Hộ. Đến thời Đường Huyền Tông cũng đổi là Bắc Đ́nh Tiết Độ Sứ.

 

Lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa, sau khi ra Đường Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, con đường là một băi qua bích hoang lương không một làn khói bếp, đời Đường gọi là qua bích “Mạc Hạ Diên”. Địa h́nh toàn bộ của qua bích này được cấu thành từ cát, đá và đá vụn. Theo kết quả những nghiên cứu gần đây, địa tầng của lớp cát đá này có độ dày khá lớn. Từ 10m đến vài trăm mét, thậm chí có nơi không ḍ được đáy. Khí hậu trên qua bích cực kỳ khô hạn. Không có cỏ nước, không có sinh vật và thực vật. Toàn bộ Qua Bích là một cảnh tượng chết. Nhưng nếu vượt Qua Bích “Mạc Hạ Diên”, hướng về Tây khoảng hơn 300km, hành nhân sẽ đến Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), một lục châu có màu xanh sức sống của Tây Vực.

 

Năm Trinh Quán thứ nhất Đường Thái Tông (CN 627), cao tăng Huyền Trang một ḿnh cùng con ngựa già lén ra Ngọc Môn Quan, đi vào qua bích “Mạc Hạ Diên”. Do bất cẩn, nhà sư làm đổ hết nước trong túi da. Ông đi suốt 4, 5 ngày không t́m được nước uống, cuối cùng v́ kiệt sức ngất xỉu trên Qua Bích. May nhờ đang đêm có một làn gió mát thổi tới, ông tỉnh dậy, cùng lúc con ngựa già đánh hơi được hướng có nước, liền phi nhanh tới một ḍng suối trong mới cứu sống được Huyền Trang. Trong tiểu thuyết “Tây Du Kư”, Ngô Thừa Ân hư cấu nhân vật Tôn Ngộ Không bảo vệ thầy tṛ Huyền Trang vượt Qua Bích để đến Y Châu (vùng lục châu có màu xanh sức sống của Tây Vực), chính là Qua Bích “Mạc Hạ Diên” này.

 

Vào đời Đường, triều đ́nh thường xuyên phái một lực lượng quân đội rất lớn pḥng thủ Y Châu, bảo vệ sự thông suốt của “Con đường Tơ lụa”. Nhà thơ Vương Duy có viết bài thất tuyệt trứ danh “Y Châu ca”, diễn đạt nỗi nhớ thương giữa những chiến sĩ pḥng ngự Y Châu và thân nhân nơi quê nhà.

 

伊州歌 王維

清風明月苦相思

蕩子从戎十載余

征人去日殷勤囑

歸雁來时數附书

Âm:

Y CHÂU CA (Vương Duy)

Thanh phong minh nguyệt khổ tương tư,

Đăng tử ṭng nhung thập tải dư.

Chinh nhân khứ nhật ân cần chúc,

Qui Nhạn lai th́ sổ phụ thư.

Dịch:

BÀI CA ĐẤT Y CHÂU

Trăng gió biên thùy trĩu tương tư,

Theo quân lâm chiến mười năm dư.

Ngày đi chinh khách ân cần bảo,

Nhạn về gởi gắm những phong thư.

 

Một đêm trăng thanh gió mát nơi biên tái, sĩ binh chạnh nhớ người thân nơi quê nhà. Theo quân chinh chiến hơn 10 năm. Ngày ra đi có hứa hẹn sẽ báo tin b́nh an theo cánh nhạn xuôi Nam.

 

Năm Thiên Bảo thứ 13 Đường Huyền Tông (CN 754), nhà thơ Sầm Tham lần thứ 2 đến Tây Vực, nhận chức phán quan tại mạc phủ An Tây Bắc Đ́nh Tiết Độ Sứ của Phong Thường Thanh. Lộ tŕnh khi vượt Qua Bích “Mạc Hạ Diên”, giữa Ngọc Môn Quan và Y Châu, ông đă viết bài ngũ tuyệt “Nhật một Hạ Diên thích tác”.

 

日没賀延磧作 岑参

沙上見日出

沙上見日没

悔向万里來

功名是何物

Âm:

NHẬT MỘT HẠ DIÊN THÍCH TÁC (Sầm Tham)

Sa thượng kiến nhật xuất,

Sa thượng kiến nhật một.

Hối hướng vạn lư lai,

Công danh thị hà vật.

Dịch:

VIẾT KHI MẶT TRỜI LẶN TRÊN QUA BÍCH MẠC HẠ DIÊN

Theo cát mặt trời mọc,

Theo cát mặt trời khuất.

Vạn dặm đến chi đây,

Công danh là hư thực?

 

Bài thơ mô tả cảnh tượng khi tác giả vượt Qua Bích “Hạ Diên” tức “Mạc Hạ Diên”. Mỗi ngày chứng kiến mặt trời mọc từ sa mạc rồi cũng lặn xuống sa mạc, thật là đơn điệu. Ta hối hận tại sao phải từ vạn dặm lặn lội tới đây. V́ với bản thân ta, công danh thật chẳng là ǵ cả.

 

Từ Y Châu đi về phía Tây, trước mắt là ṭa Thiên Sơn nguy nga hùng vĩ. Sau khi tiến thêm khoảng 30km, đến Nam Sơn Khẩu dưới chân Thiên Sơn. Con đường Tơ lụa vượt Thiên Sơn tiến vào thông lộ chính của lộ tuyến mới phía Bắc. Trên núi có miếu Thiên Sơn, một kiến trúc h́nh vuông được xây bằng đá. Thời cổ đại, các đoàn thương nhân khi qua Thiên Sơn, đều lên miếu dâng hương lễ bái, cầu cho chuyến đi được b́nh an. Chân núi Thiên Sơn là thảo nguyên bao la xanh mượt. Lộ tuyến mới phía Bắc của Con đường Tơ lụa sau khi vượt Thiên Sơn, men theo phía Bắc thảo nguyên đi về hướng Tây đều là những vùng cỏ nước phong phú. Ngựa và lạc đà là phương tiện chủ yếu của các thương đội và lữ hành thời cổ đại, cho nên cỏ nước là nguyên nhân hưng thịnh của lộ tuyến mới phía Bắc.

 

Ngọn Thiên Sơn cao ngất, tuyết phủ quanh năm không tan. Sườn núi là những rừng tùng rậm rạp, chân núi thảo mộc xanh tươi. Một cảnh sắc muôn phần tươi đẹp. Trong 6 bài “Tái Hạ Khúc” của nhà thơ Lư Bạch, bài thứ 1 mô tả phong quang cùng sinh hoạt và nguyện vọng của những sĩ binh Đường triều trấn thủ Thiên Sơn.

 

塞下曲六首其一李白

五月天山雪

無花只有寒

笛中聞折柳

春色未曾看

曉戰隨金鼓

宵眠抱玉鞍

愿將腰下劍

直為斬楼

Âm:

TÁI HẠ KHÚC LỤC THỦ (kỳ nhất) Lư Bạch

Ngũ nguyệt Thiên San tuyết,

Vô hoa, chỉ hữu hàn.

Địch trung văn “Chiết Liễu”,

Xuân sắc vị tằng khan.

Hiểu chiến tùy kim cổ,

Tiêu miên băo ngọc an.

Nguyện tương yêu hạ kiếm,

Trực vị trảm Lâu Lan.

Dịch:

BÀI HÁT DƯỚI ẢI (bài 1)

Giữa Hạ tuyết Thiên San,

Không hoa, chỉ rét tràn.

Sáo vang bài “Bẻ Liễu”,

Chưa thấy vẻ Xuân giàn.

Yên ngọc đêm ôm ngủ,

Trống đồng sớm thúc quân.

Ngang lưng xin rút kiếm,

Quyết chém giặc Lâu Lan.

Lê Nguyễn Lưu dịch

 

Trời đă tháng 5 mà tuyết Thiên Sơn vẫn c̣n đông cứng. Ở đây làm ǵ có hoa tươi, chỉ có trời Đông giá rét. Tiếng sáo không biết từ đâu đưa tới khúc nhạc “Chiết Dương Liễu”. Mùa Xuân không bao giờ đến được biên cương. Buổi sớm tiếng trống đồng thúc quân ra trận, đêm tựa đầu trên yên ngựa. Ta chỉ nguyện vung thanh bảo kiếm, như Phó Giới Tử đời Hán chém đầu vua Lâu Lan. Câu cuối bài dùng một điển cố đời Hán “Lâu Lan”, thực tế chỉ chung những nước địch vùng quan ngoại.

 

Trong phần 4 chương III, chúng tôi có trích dẫn bài “Tái Hạ Khúc” thứ 5 của Lư Bạch, trong đó có những câu “Chiến sĩ ngọa Long Sa” và “Ngọc Quan thù vị nhập”. Long Sa nay là sa mạc Bạch Long tại Tân Cương. Cả Hán Ngọc Môn Quan và Đường Ngọc Môn Quan đều nằm phía Tây Kỳ Liên Sơn và phía Đông Thiên Sơn của Tây Vực. Câu “Ngọc Quan thù vị nhập” (chưa trở vào Ngọc Môn Quan) có nghĩa quân sĩ c̣n trú đóng phía Tây Ngọc Môn Quan. Cứ theo vị trí trú quân ở quan ngoại này th́ câu “Ngũ nguyệt Thiên Sơn tuyết” trong bài 1 “Tái Hạ Khúc” vừa trích dẫn, phải hiểu là Thiên Sơn của Tây Vực, chứ không phải Thiên Sơn tên gọi thứ 2 của Kỳ Liên Sơn.

 

Dăy Thiên Sơn từ Đông sang Tây dài 2.500km, Nam lên Bắc rộng từ 100 đến 400km, phân thành Tây Thiên Sơn thuộc Liên Bang Nga, Trung và Đông Thiên Sơn thuộc Trung Quốc. Trung và Đông Thiên Sơn dài khoảng 1.700km, có tổng diện tích khoảng 24,4 vạn km2 do 20 dăy núi chạy song song hướng Đông Tây, trong đó có nhiều bồn địa h́nh quả ấu giữa núi.

 

Về khí hậu, Thiên Sơn kéo dài đến Trung bộ Tây Vực (nay là tỉnh Tân Cương) như một mái che khổng lồ, phân ra khu hoang mạc ôn đới là bồn địa Hoài Khát Nhĩ và khu hoang mạc ôn đới ấm là bồn địa Tháp Lư Mộc thành ra 2 vùng Nam Bắc và là nơi phát nguyên của trên 200 con sông. Bắc Thiên Sơn là địa bàn du mục, Nam Thiên Sơn là địa bàn nông nghiệp. V́ các dân tộc du mục Bắc Thiên Sơn không cư trú chỗ nào nhất định, đâu có cỏ th́ ở, di chuyển luôn. Cho nên những cộng đồng dân cư cố định của Thiên Sơn chủ yếu là những dân tộc nông nghiệp ốc đảo Nam Thiên Sơn.

 

Khu nông nghiệp ốc đảo là khu vực cô lập tự phong bế, rất có lợi cho việc phát triển sản xuất trong khu vực. Nhưng theo qui luật phát triển sản xuất cùng với nhịp độ tăng dân số, khu vực này càng trở ngại cho việc mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống. Để khắc phục những trở ngại này, nhân dân nông nghiệp ốc đảo tăng cường việc đi lại giao lưu với nhau, nhất là với Trung Nguyên. Những đội thương nhân Mông Cổ thường xuyên tiếp xúc đă đem lại phồn vinh khiến bộ mặt xă hội ốc đảo thay đổi hẳn. Từ xă hội nông nghiệp đơn thuần biến thành xă hội nông thương nghiệp đặc thù. Hơn nữa, c̣n giao lưu với các dân tộc Đông Tây, tiếp thu khá nhiều văn hóa bên ngoài làm cho bộ mặt văn hóa ốc đảo ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.

Các ốc đảo ven Nam Bắc Thiên Sơn trở thành một loại bến cảng, h́nh thành 2 dây chuyền Đông Tây nối liền, cộng với đường mậu dịch Đông Tây ven sa mạc Tháp Khắc Lạp Mă Can, làm thành 3 con đường buôn bán. Đó là “Con đường Tơ lụa” mà đoạn đường Nam Bắc Thiên Sơn là chủ yếu.

 

Từ trước thời Tây Hán, Hậu Vương Đ́nh đă xây dựng “Kim Măn Thành” tại Xa Sư (nay là huyện Cát Mộc Tát Nhĩ, Tân Cương). Thời Sơ Đường thành lập Đ́nh Châu, thủ phủ đặt tại Kim Măn Thành. Thời Vơ Tắc Thiên, Đ́nh Châu trở thành Bắc Đ́nh Đô Hộ Phủ, thủ phủ vẫn là Kim Măn Thành, cai quản toàn bộ quyền hành chính quân sự của con đường Bắc Thiên Sơn. Những năm khai quốc Đường triều xă hội ổn định, kinh tế phát đạt, Kim Măn Thành là một trong 3 đô thị tơ lụa của Tây Vực (2 đô thị kia là Tây Châu và Vu Điền), nghề dệt tơ lụa tại 3 nơi này phát triển cực thịnh.

 

Kim Măn Thành nay là huyện Cát Mộc Tát Nhĩ của tỉnh Tân Cương. Phiên âm từ tiếng Đột Quyết “Cát Mộc” là “Kim Măn”, “Tát Nhĩ” là “Thành”. Ngày nay tại phía Bắc huyện thành Cát Mộc Tát Nhĩ khoảng 10km, c̣n di tích của “Hộ Bảo Tử Phá Thành”. Đó là nền xưa của Bắc Đ́nh Đô Hộ phủ đời Đường. C̣n sót những mẫu tường thành cao 10m và gạch ngói đổ nát. Riêng những kiến trúc lớn như Phật tháp vẫn c̣n nhận ra được.

 

Phía Bắc Thiên Sơn là A Nhĩ Thái Sơn, cực Bắc nữa là Yên Nhiên Sơn (nay là Hàng Aùi Sơn), đều là những địa danh thường xuất hiện trong thơ Biên Tái đời Đường. “A Nhĩ Thái” là tiếng Đột Quyết có nghĩa là “Kim”, nên A Nhĩ Thái Sơn cũng c̣n gọi là “Kim Sơn”. Bài thất tuyệt “Thu Khuê Tứ” của nhà thơ Đường Trương Trọng Tố có đề cập địa danh này.

 

秋閨思 張仲素

碧窗斜月蔼深暉

愁听寒螿泪濕衣

梦里分明見关塞

不知何路向金微

Âm:

THU KHUÊ TỨ Trương Trọng Tố

Bích song tà nguyệt ái thâm huy,

Sầu thính Hàn Tương lệ thấp y.

Mộng lư phân minh kiến quan tái,

Bất tri hà lộ hướng Kim Vi.

Dịch:

NỖI NHỚ ĐÊM THU NƠI KHUÊ PH̉NG

Trăng khuya vằng vặc qua song cửa,

Áo đằm nước mắt oán tiếng ve.

Rơ ràng mộng thấy ra quan ải,

Đường nào đưa thiếp tới Kim Vi.

 

Bài thơ viết về t́nh và cảnh một đêm Thu. Thiếu phụ tưởng nhớ chồng đang chinh chiến ngoài biên tái. Một đêm sâu tỉnh mộng, trăng tà chiếu qua song cửa sáng ngập khuê pḥng. Nàng không ngủ được nữa, tiếng kêu không ngừng của những con Hàn Tương (Hàn Tương là một loài ve nhỏ chỉ kêu vào cuối Thu) khơi dậy ḷng sầu, nước mắt đẩm cả tay áo. Lúc trong mộng nàng thấy rơ ḿnh đang ở quan tái. Nhưng con đường nào có thể đưa tới Kim Vi Sơn (tức A Nhĩ Thái Sơn) nơi trấn thủ của chồng. Bài thơ xử dụng đảo ư rất tuyệt, tả cảnh mộng tỉnh rồi sau mới tả cảnh trong mộng.

 

Chương V- lộ tuyến bắc của con đường tơ lụa 

 

 

Rời Đôn Hoàng ra Hán Ngọc Môn Quan đi về phía Tây Bắc, qua Tây Châu, Yên Kỳ, Hán Luân Đài rồi đến Sơ Lặc. Tức từ phía Đông bồn địa Tháp Lư Mộc đi giữa ḷng bồn địa về phía Tây. Đó là Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

 

Tháp Lư Mộc là bồn địa nằm sâu trong đất liền lớn nhất Trung Quốc và nổi tiếng nhất Thế Giới. Bồn địa cách Bắc Băng Dương phía Bắc và Thái B́nh Dương phía Đông mỗi bề 3.800km. Cách Ấn Độ Dương phía Nam 2.200km, có tổng diện tích 53 vạn km2. Đó là bồn địa khép kín và hoàn chỉnh nhất.

Phía Bắc có Thiên Sơn che chắn, phía Nam có núi Côn Luân và núi A Nhĩ Kim. Núi bao quanh bồn địa cao từ 4.000 tới 6.000m so với mặt biển.

 

 

Khí hậu bồn địa khô, nhiều gió, nhiệt độ thay đổi lớn. Lượng nước mưa mỗi năm dưới 50mm, thậm chí có nơi không tới 25mm. Mặt đất bồn địa chủ yếu là sa mạc (chiếm 64%). Thời kỳ đóng băng thế kỷ thứ 4, nguồn nước trên các dăy núi quanh bồn địa đều đóng băng. Khi băng tan kéo theo một lượng lớn bùn cát xuống bồn địa, lượng cát trầm tích dày tới 500m. Nhưng từ những thế kỷ về sau khí hậu dần dần khô hạn, các nguồn nước giảm nhiều và gió càng mạnh hơn. Lượng cát trầm tích từ những thế kỷ trước dần hồi biến thành sa mạc.

 

Sông Tháp Lư Mộc (con sông nội địa dài nhất Trung Quốc) chảy xuyên bồn địa từ Đông sang Tây, nhưng lại chảy qua vùng sa mạc khô cằn không có nước (sa mạc Tháp Khắc Lạp Mă Can) nên biến thành con đường có màu xanh lục, tạo một rừng Hồ Dương thiên nhiên trong bồn địa. Rừng Hồ Dương có diện tích 28.000.000 mẫu, một nguồn gỗ quan trọng.

 

Về nhân văn, theo nhiều tư liệu ghi chép, bồn địa Tháp Lư Mộc thời cổ đại, từng là lănh địa của nhiều vương quốc đă có một thời kỳ phồn vinh. Khi nhà Hán thông sứ Tây Vực th́ bồn địa Tháp Lư Mộc có 36 vương quốc. Về sau lại phân chia thành 50 nước. Như vậy trong bồn địa đương thời phải có khoảng 50 thành trấn lớn nhỏ. Điển h́nh là nước Vu Chấn (nay là Ḥa Điền), theo ghi chép của Ḥa Thượng Pháp Hiển (đời Tấn) khi qua đây: Nước này đông vui, thịnh vượng. Chúng tăng có đến vạn người. Chỉ một ngôi chùa Cù Phu Đế cũng có đến 3.000 tăng. Trong nước có 14 ngôi chùa lớn như vậy, không kể những chùa nhỏ. Cho nên những thành thị đó xứng đáng gọi là thông đô đại ấp.

 

Hiện nay những cổ thành trong bồn địa có nhiều nơi đă khai quật, như cổ thành Lâu Lan phía Bắc và cổ thành Ni Nhă phía Nam, đều là những thành thị to lớn. Điều này chứng tỏ bồn địa Tháp Lư Mộc đă có một thời kỳ dài khí hậu ôn ḥa.

 

Về kinh tế, nhiều khu vực trong bồn địa phát triển công nông nghiệp khá sớm. Nhiều tư liệu ghi chép về công nghiệp luyện sắt nơi đây: Ban đêm lửa đỏ rực, ban ngày khói mịt mù. Người ta lấy quặng trong núi về luyện sắt để dùng trong 36 nước. Đó là núi Khưu Từ, tức dăy núi Khố Xa, nằm về miền Bắc bồn địa ngày nay. Toàn vùng ven của bồn địa và các nhánh sông Tháp Lư Mộc giữa bồn địa, có nhiều ốc đảo cây cối xanh tươi. Tiềm năng phát triển nông nghiệp rất lớn.

 

Bồn địa Tháp Lư Mộc c̣n có giá trị giao thông quan trọng. Các lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa” đều phải đi qua khu vực này. Lộ tuyến mới phía Bắc chạy dọc ŕa Bắc của bồn địa. Lộ tuyến Bắc chạy suốt giữa ḷng bồn địa. Lộ tuyến Nam chạy dọc ŕa Nam. Như vậy bồn địa Tháp Lư Mộc chính là bản lề trọng yếu của “Con đường Tơ lụa”.

 

Những thế kỷ về sau, khí hậu khô hạn đă xua đuổi cư dân, gió cát chôn vùi thành thị. Bồn địa Tháp Lư Mộc từ đó trở thành khổ nạn cho không biết bao nhiêu lạc đà, người ngựa trên “Con đường Tơ lụa ”.

 

Lộ tuyến Bắc c̣n có một địa danh, gần như thần bí, thường xuất hiện trong thơ Biên Tái đời Đường, nhất là Vương Xương Linh và Lư Bạch: “Vương quốc Lâu Lan”. Các nhà thơ có khi chỉ thẳng sự kiện công phá thành và giết vua Lâu Lan, nhưng thường khi mượn h́nh bóng Lâu Lan để chỉ chung những địch quốc phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc thời cổ đại. Điển h́nh như trường hợp nhà thơ đời Đường Trương Trọng Tố trong bài thất tuyệt thứ 3, đề tài “Tái Hạ Khúc”.

 

塞下曲五首其三張仲素

朔雪飄飄開雁門

平沙历乱卷蓬根

功名耻計擒生数

直斬楼兰报國恩

Âm:

TÁI HẠ KHÚC NGŨ THỦ (kỳ tam) Trương Trọng Tố

Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn môn,

B́nh sa lịch loạn quyển Bồng căn.

Công danh sỉ kế cầm sinh số,

Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.

Dịch:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (bài 3)

Hoa tuyết đầy trời, ra ải Nhạn,

Cỏ Bồng quyện gió cát bay vàng.

Thẹn với công danh đâu dám tưởng,

Chỉ mong v́ nước diệt Lâu Lan.

 

Tác giả chỉ mượn Lâu Lan để chỉ một địch quốc vùng quan ngoại. Vị trí Nhạn Môn Quan (theo những kết quả khảo sát sau này), cách xa hơn ngàn dặm, không liên quan ǵ đến lănh thổ Lâu Lan. Đủ thấy vào thời kỳ hưng thịnh (hơn 1.600 năm trước), Lâu Lan là h́nh bóng bao phủ khắp các chiến địa vùng Tây Vực.

 

Cổ vương quốc thần bí này đă bị chôn vùi trong sa mạc mênh mông. Nước Lâu Lan ở đâu? Làm sao t́m được dấu tích của một vương quốc bị chôn vùi hằng ngàn năm trước (đây là nói về địa bàn tổ của vương quốc Lâu Lan, trước khi dời đến Y Tuần để tránh thế lực Hung Nô, đổi tên nước Thiện Thiện năm 77 trước Công Nguyên).

 

Tháng 3 năm 1900, nhà thám hiểm Thụy Điển Svend Heyting đă dẫn một đội thám hiểm đến khảo sát vùng La Bố Bạc. Đồng hành gồm 8 người, trong đó có 2 người Duy Ngô Nhĩ, tên Ngăi Nhĩ Đắc Khắc và Khoa Đạt Khắc Lạp. Đội thám hiểm theo ngă A Tư Đ́nh Bố Lạp Khắc đi về hướng Tây Nam. Trên đường, họ bị một trận cuồng phong xô đẩy thất lạc nhau. Ngăi Nhĩ Đắc Khắc trên ḿnh ngựa không biết bị xô dạt tới đâu. Khi trấn tỉnh, ông thấy ḿnh đang đứng giữa phế tính của một ṭa cổ thành. Giữa thành có một tháp cao. Gần tháp, dưới chân những mẫu tường sụp đổ, là những mộc bản chạm khắc rất tinh mỹ. Trong thành, ông c̣n nhận định được di tích những khu vực công sở và cư dân. Trước những sự kiện t́nh cờ phát hiện, Ngăi Nhĩ Đắc Khắc tưởng chừng ṭa cổ thành được vực dậy từ kư ức của một giấc ngủ ch́m hơn ngàn năm.

 

Khi Ngăi Nhĩ Đắc Khắc bị cuốn vào trận cuồng phong băo cát, Svend Heyting cho rằng ông đă gặp bất hạnh, đă bị chôn vùi trong sa mạc không c̣n trở lại. Nhưng khi họ gặp lại nhau với những sự kiện vừa phát hiện, cùng những điêu họa mộc bản đem theo từ di tích cổ thành, đội thám hiểm mới biết ḿnh đă thu được những kết quả lớn hơn kỳ vọng lúc ra đi.

 

Tháng 3 năm 1903, Svend Heyting, sau khi chuẩn bị chu đáo, đă dẫn đội thám hiểm trở lại ṭa cổ thành. Lần này họ đă phát hiện được số lớn văn vật. Trong đó có một mộc giản đời Hán (phiến gỗ dùng ghi chép văn tự thời cổ đại), trên đó có khắc 2 chữ “Lâu Lan”. Svend Heyting kết luận đây là di tích cổ thành Lâu Lan bị chôn vùi trong sa mạc hơn 1.600 năm trước. Những văn vật và tư liệu thu thập từ 2 cuộc khảo sát cổ thành Lâu Lan, trong một bản báo cáo phát biểu sau này của Svend Heyting, đă gây chấn động giới khảo cổ toàn cầu.

 

Trong những văn vật phát hiện tại cổ thành Lâu Lan, có nhiều mẫu tơ lụa sản xuất từ thời Tây Hán. Dù đă trải gần 2.000 năm chôn vùi, sắc thái vẫn tươi nhuận như mới. Mặt lụa vẫn c̣n nguyên những lời chúc tụng tốt lành như: “Tử tôn vô cực” (con cháu vô cùng), “Diên niên ích thọ” (dài thêm tuổi thọ), “Xương lạc quang minh” (vui sáng phồn vinh)… Chứng tỏ tơ lụa đương thời đă được sử dụng rộng răi tại vương quốc Lâu Lan.

 

Vị trí di tích cổ thành Lâu Lan, theo hai lần khảo sát của Svend Heyting, nằm về Đông bộ sa mạc Tháp Khắc Lạp Mă Can và ngay trên bờ Tây hồ La Bố Bạc. La Bố Bạc thời cổ đại c̣n có những tên gọi khác như “Diêm Trạch”, “Bồ Xương Hải”, “Lao Lan Hải”, “Khổng Tước Hải”, “Hạc Hải”. Đương thời hồ La Bố Bạc c̣n được gọi “La Bố Náo Nhĩ” (Hồ Bùn), ư nói có nhiều nguồn nước đổ vào tích tụ hồ này. La Bố Bạc là hồ có thủy lượng lớn thứ 2 của Trung Quốc thời cổ đại, hiện nay đă hoàn toàn khô kiệt.

 

Vị trí chuẩn xác của di tích cổ thành Lâu Lan, căn cứ Nhân Dân Nhật Báo (Trung Quốc) số ra ngày 13 tháng 4 năm 1982: Kinh Đông 89055’22’’. Vĩ Bắc 40029’22’’. Ṭa thành nằm thiên Bắc mặt quay Nam. Mặt Đông dài 333,5m, mặt Nam dài 329m, Tây và Bắc mỗi mặt dài 327m, tổng diện tích 108.240m2. Thành tường Lâu Lan đương thời dày 8m, cao 4m. Đông Bắc thành là khu tự viện. Trung tâm đổ về Tây Nam là khu nha môn. Khu cư dân nằm cả về phía Tây và Nam thành.

 

Vị trí cho thấy, cổ thành Lâu Lan cách phía Tây Đôn Hoàng khoảng 80km. Nghĩa là vẫn nằm về Đông Bộ sa mạc Tháp Khắc Lạp Mă Can và nằm trên bờ Tây hồ La Bố Bạc. Hoàn toàn không xê dịch, so với vị trí khảo sát của Svend Heyting (năm 1900 và 1903).

 

Từ Đôn Hoàng nh́n về phía Tây cho tới ngoài tầm mắt, là một không gian vô tận được cấu thành từ những g̣ cát chằng chịt và sỏi đá lổm chổm trên qua bích. Không có nước, không có sinh thực vật. Hoàn toàn là vùng đất không có sự sống. Bao quanh cổ thành Lâu Lan là địa h́nh “Nhă Đan”. “Nhă Đan” là tiếng Duy Ngô Nhĩ, có nghĩa là một địa h́nh được cấu thành từ những g̣ đất nối liền thành giồng luống, đan xen những khe hố. Địa h́nh này ngày càng trải dài theo phương hướng những trận cuồng phong. Giồng luống ngày càng bị xâm thực nâng cao từ 0,5m đến trên 10m, dài có đến vài trăm mét. Khe hố cũng bị khoét sâu khoảng 2m, rộng trên 20m. Người ngựa di chuyển trên địa h́nh này cực kỳ gian nan nguy hiểm.

 

Địa h́nh “Nhă Đan”, theo nhận định của các nhà khoa học, là một địa h́nh tác động bởi những trận cuồng phong trường kỳ xâm thực. Trong ṿng 10 năm (1960-1970), vùng La Bố Bạc mỗi năm, gió cấp 5-6 chiếm hết 150 ngày, gió cấp 7 – 8 chiếm 80 ngày. Thời gian c̣n lại trong năm (135 ngày) là gió giật cấp 10 trở lên. Nhiều thập kỷ tiếp sau đó, những trận gió cuồng bạo như những răng nhọn của chiếc lược sắt liên tục cào lên địa h́nh. Những tầng đất nhuyễn và cát đá của giồng luống trường kỳ bị nạo vét theo chiều gió. Cắn cứ kết quả nghiên cứu trong ṿng 40 năm (1919-1959), những giồng luống khe hố quanh cổ thành Lâu Lan và La Bố Bạc bị nạo vét tới độ sâu trên 5m.

 

Năm Thiên Bảo thứ 8 Đường Huyền Tông (CN 749), nhà thơ Sầm Tham đến Khưu Từ (nay là Khố Xa, Tân Cương), nhận chức Phán quan tại An Tây Đô Hộ phủ. Hành tŕnh có đi qua sa mạc Đồ Luân (nay là Tháp Khắc Lạp Mă Can) và bờ hồ La Bố Bạc. Chắc chắn nhà thơ không biết ḿnh đang dẫm lên phế tích bị chôn vùi hằng ngàn năm trước của tiểu vương quốc Lâu Lan (năm 1903 đội thám hiểm Svend Heyting mới t́m ra đầu mối của phế tích này). Con đường sa mạc đầy gian hiểm, hoang vu không một làn khói bếp. Ḷng nhớ quê trỗi dậy, Sầm Tham đă viết bài thất tuyệt “Thích Trung Tác”.

 

磧中作 岑参

走馬西來欲到天

辞家見月兩回圓

今夜不知何处宿

平沙万里絕人烟

Âm:

THÍCH TRUNG TÁC Sầm Tham

Tẩu mă Tây lai dục đáo Thiên,

Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.

Kim dạ bất tri hà xứ túc,

B́nh sa vạn lư tuyệt nhân yên.

Dịch:

VIẾT GIỮA SA MẠC

Một ḿnh một ngựa ruỗi trời Tây,

Xa quê hai độ nguyệt vơi đầy.

Đêm nay chưa biết nơi nào tạm,

Sa mạc t́m đâu khói bếp bay.

 

Xa quê đă tṛn 2 tháng, một ḿnh ruỗi ngựa về phương Tây. Đêm nay chưa biết sẽ dừng chân nơi nào, v́ sa mạc mênh mông không một làn khói bếp. Nhà thơ tiếp tục vượt đường dài, thành Khưu Từ c̣n ở cuối trời Tây. Giữa sa mạc, t́nh cờ gặp sứ giả Đường triều từ Tây Vực về Trường An. Sầm Tham đă cảm xúc viết thêm bài thất tuyệt “Phùng Nhập Kinh Sứ”.

 

逢入京使 岑參

故园東望路漫漫

双袖龙钟泪不干

馬上相逢無紙笔

恁君传語报平安

Âm:

PHÙNG NHẬP KINH SỨ Sầm Tham

Cố viên Đông vọng lộ man man,

Song tụ long chung lệ bất can.

Mă thượng tương phùng vô chỉ bút,

Nhậm quân truyền ngữ báo b́nh an.

Dịch:

GẶP SỨ GIẢ VỀ KINH

Dặm trường quê cũ tít phương Đông,

Ướt đôi tay áo lệ đôi ḍng.

Trên ngựa gặp nhau không giấy bút,

Thăm nhà cậy bạn báo tin suông.

 

Cách quê nhà phương Đông một cự ly thăm thẳm, nước mắt đẳm đôi tay áo. T́nh cờ gặp sứ giả trên đường về kinh đô. Trên ngựa không sẵn giấy bút, xin tạm nhắn về quê đôi lời b́nh an.

 

Lịch sử ghi chép từ hơn 2.000 năm trước, Lâu Lan đă là một vương quốc trong vùng Tây Vực. Tên nước Lâu Lan có thể bắt nguồn từ “Lao Lan Hải” (tức La Bố Bạc). Lâu Lan chính là hài âm của Lao Lan. Điều này khá thuyết phục v́ đất Lâu Lan có một phần nằm ngay bên bờ Tây hồ La Bố Bạc. Lănh thổ Lâu Lan vào thời kỳ hưng thịnh, phía Đông đạt tới Dương Quan, Tây đến bờ Nê Nhă Hà (Nam sa mạc Tháp Khắc Lạp Mă Can), phía Nam giáp A Nhĩ Kim Sơn, Bắc đến Cáp Mật. Lănh thổ hầu hết là sa mạc và đất kiềm muối. Nhưng vương quốc Lâu Lan, có một phần nằm bên bờ Tây La Bố Bạc, hồ này nhờ tích tụ nguồn nước rất lớn của 2 sông Tháp Lư Mộc và Khổng Tước, nên ven hồ có nhiều rừng rậm và thảo nguyên. Dân số của vương quốc này rất ít, chỉ hơn vạn nhân khẩu. Cư dân Lâu Lan chăn thả súc vật trên thảo nguyên, đánh bắt cá trên sông Khổng Tước và hồ La Bố Bạc hoặc săn bắn mưu sinh.

 

Từ Tây Hán (năm 220 TCN-CN 8), Lâu Lan là vùng đất nằm trên “Con đường Tơ lụa”. Sứ giả và những đoàn thương nhân qua lại Đông Tây không thể không dừng chân nơi đây. Lâu Lan nhờ đó trở thành một tiểu quốc phồn vinh.

 

Khi thế lực Hung Nô nhập xâm vùng Tây Vực, đối địch với Hán triều, Lâu Lan v́ thế lực yếu hơn nên ngă theo Hung Nô. Họ thường cung cấp cho Hung Nô tin tức t́nh báo, giết sứ giả Hán triều, đánh cướp các thương đội và gây gián đoạn lưu thông “Con đường Tơ lụa”.

 

Năm Nguyên Phụng thứ 4 Hán Chiêu Đế (năm 77 TCN), đại tướng nhà Hán Hoắc Quang phái Phó Giới Tử đi sứ Lâu Lan. Phó Giới Tử đem nhiều vàng lụa đến biên cảnh Lâu Lan và truyền các tiểu quốc Tây Vực thông báo vua Lâu Lan đến nhận ban phẩm của triều đ́nh. Phó Giới Tử cho vũ sĩ mai phục sẵn, khi vua Lâu Lan đến, giết chết ngay trên chiếu tiệc. Sau đó lập huynh đệ của y là Uư Đồ Kỳ làm vua Lâu Lan. Uư Đồ Kỳ v́ muốn tránh thế lực Hung Nô nên cũng ngay trong năm 77 trước Công Nguyên, dời đô đến Y Tuần, đổi tên nước là Thiện Thiện (nay là huyện Nhược Khương, Tân Cương. Không phải huyện Thiện Thiện của Tân Cương ngày nay).

 

Đất cũ của vương quốc Lâu Lan từ đó (năm 77 TCN) trở thành trọng trấn quân sự của Hán triều và là nơi gặp gỡ của các thương đội, lữ hành cùng tăng lữ trên huyết mạch giao thông Đông Tây (Con đường Tơ lụa). Có một số người Lâu Lan ở lại cố quốc chứ không di dời theo vương quốc đến Y Tuần. V́ là trung tâm giao lưu văn hóa kinh tế, nên đất cũ Lâu Lan cũng thu hút khá nhiều dân cư những tiểu quốc lân cận, ngay cả người Trung Nguyên cũng đổ xô đến kinh doanh.

 

Đất cũ Lâu Lan từ thời Tây Hán, không chỉ là thành thị phồn vinh trên Con đường Tơ lụa. Quanh hồ La Bố Bạc đương thời c̣n là vùng khí hậu ôn ḥa, nguồn nước của nhiều con sông nội địa tích tụ vào hồ, biến toàn khu thành lục châu có màu xanh. Đó là cơ địa (đất nền) sinh hoạt của toàn khu vực. Người ta săn thú, đánh bắt cá, trồng trọt và chăn thả súc vật thành đàn trên thảo nguyên.

 

Theo ghi chép trong “Hán Thư”, mặt nước hồ La Bố Bạc đương thời ngang dọc mỗi bề 300 dặm (tương đương 150km). Mặt hồ có tổng diện tích gần 1 vạn km2. Diện tích này khá phù hợp với không ảnh lấy từ vệ tinh nhân tạo ngày nay.

 

Tới đầu đời Đông Hán, vùng La Bố Bạc vẫn c̣n là cơ địa sinh hoạt của cư dân sống trên đất cũ Lâu Lan. Những thế kỷ về sau, khí hậu ngày càng khô hạn, những nguồn nước đổ vào hồ giảm dần, diện tích mặt hồ từ từ thu nhỏ. Vùng lục châu bị sa mạc hóa và kiềm muối hóa. Rừng và thảo nguyên chết khô, người và sinh vật không c̣n điều kiện tồn tại, phải bỏ đất dời cư. Năm Thái Nguyên thứ nhất Đông Tấn Hiếu Vũ Đế (CN 376), cổ thành Lâu Lan chính thức bị chôn vùi trên vùng sa mạc hóa.

Riêng 2 nguồn nước của sông Tháp Lư Mộc và Khổng Tước đổ vào hồ, giảm tới mức tối đa nhưng chưa kiệt hẵn. Năm 1959, đội khảo sát của viện khoa học Tân Cương Trung Quốc đă đến bờ Bắc hồ La Bố Bạc. Hồ vẫn c̣n mặt nước khá rộng. Thủy cầm sống thành đàn. Đội khảo sát vẫn c̣n chèo thuyền trên hồ, và c̣n đánh bắt những con cá dài 1m.

 

Sau ngày giải phóng, người ta khai khẩn nông điền trên đầu nguồn sông Tháp Lư Mộc và Khổng Tước, chi phối hết nguồn nước của 2 sông. Hồ La Bố Bạc từ đó mới khô kiệt hẵn. Cổ thành Lâu Lan đă có một thời kỳ phồn vinh trên “Con đường Tơ lụa” gần 2.000 năm trước, từ đó cũng trở thành tư liệu nghiên cứu cho giới khảo cổ.

 

Phía Bắc cổ thành Lâu Lan là Tây Châu (hậu thân của vương quốc Cao Xương, nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương), một thành thị trọng yếu trên Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

 

Khi nhắc đến Thổ Lỗ Phiên, người ta nghĩ ngay tới một nhiệt độ nóng bức như lửa. V́ khu vực này có bồn địa “Để Oa” diện tích 5 vạn km2. Mặt đất của bồn địa thấp hơn mặt biển 154m và khí hậu rất khô kiệt. Lượng nước mưa b́nh quân mỗi năm chỉ có 16mm, bốc lên hơi nóng tới 3.000mm, cho nên địa h́nh bồn địa chỉ toàn qua bích và sa mạc. Nhiệt độ trong bồn địa lên nhanh xuống chậm, h́nh thành mùa Hạ nóng bức từ tháng 6 đến tháng 8. nhiệt độ trong không gian từ 40 đến 47 độ duy tŕ hơn 1 tháng, nhiệt độ bên dưới lớp cát cao tới 82 độ, trứng gà vùi xuống đó cũng chín.

 

Trong bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc “Tây Du Kư” có một đoạn cố sự, Tôn Ngộ Không bảo vệ Đường Tăng đi qua 800km Hỏa Diệm Sơn. Bốn thầy tṛ Đường Tăng đến chân Hỏa Diệm Sơn chỉ thấy hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, chim không thể bay qua. May nhờ Tôn Ngộ Không mượn được quạt “Ba Tiêu”, quạt tắt lửa tan hơi nóng mới qua được. Hỏa Diệm Sơn đề cập trong “Tây Du Kư” chính là núi bao quanh bồn địa “Để Oa” (dài từ Đông sang Tây 100km), thuộc Trung bộ Thổ Lỗ Phiên ngày nay. Núi này do những sa nham màu đỏ tía cấu thành từ thế kỷ thứ 3. Khí hậu nơi đây cực kỳ khô hạn, không t́m thấy một tấc cỏ. Dưới nắng mùa hạ ṭa núi như bốc lên ngọn lửa lớn, từ đó núi có tên “Hỏa Diệm Sơn”.

 

Ngoại trừ viêm nhiệt, Thổ Lỗ Phiên c̣n là “Phong khố” (kho gió) lớn nhất Trung Quốc. B́nh quân mỗi năm, gió cấp 8 chiếm hết 72 ngày trở lên. Theo những ghi chép gần đây, mỗi cơn gió “Cát bay đá chạy” (phi sa tẩu thạch) làm tróc cả lớp sơn bên ngoài tàu hỏa, làm lật cả ô tô, thậm chí đưa cả những toa tàu hỏa ra khỏi đường tàu.

 

Những năm khai quốc Đường triều, phía Đông Nam Thổ Lỗ Phiên không xa, có nước Cao Xương. Năm Trinh Quán thứ 4 Đường Thái Tông (CN 630), vua Cao Xương Khúc Văn Thái từng đến Trường An triều kiến. Đương thời, khu vực Trung Nguyên bị tàn phá trong chiến loạn cuối đời Tùy chưa phục hồi, cảnh tượng hoang lương, thành ấp tiêu điều. Khúc Văn Thái ngầm cho rằng thế lực Đường triều không mạnh, nên khi về nước, ngă theo Tây Đột Quyết chống Đường. Thường khi đánh phá những nước nhỏ thuộc Đường trong vùng Tây Vực và gây trở ngại lưu thông trên “Con đường Tơ lụa”. Đường Thái Tông phái Ngu Bộ Lang Trung Lư Đạo Dụ đến hỏi tội trước. Khúc Văn Thái ngạo mạn trả lời? “Chim Ưng bay trên trời, chim Trỉ nằm trong tổ, mèo dạo chơi sân nhà, Chuột nằm trong hang… Ta là vua một nước chẳng lẽ không bằng được loài chim thú hay sao?”. Lư Đạo Dụ về bẩm báo, Đường Thái Tông nghĩ việc này không dùng vũ lực không xong. Năm Trinh Quán thứ 14 (CN 640), Đường Thái Tông phái đại tướng quân Hầu Quân Tập đem quân Tây chinh Cao Xương.

 

Khúc Văn Thái nghe quân Đường kéo đến, không hề pḥng bị, v́ cho rằn g Đường triều cách nước Cao Xương rất xa, đường đi toàn sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, cỏ nước thiếu thốn. Không bao lâu cũng sẽ tự lui binh thôi. Khi quân Đường đến biên cảnh Cao Xương, Khúc Văn Thái không chống cự được, sợ quá ngă bệnh chết. Quân Đường diệt vong nước Cao Xương và cùng năm đó, thiết lập Cao Xương thành Tây Châu (nay là Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương).

 

Nước Cao Xương đổi là thành Tây Châu từ thời sơ Đường. Đến giữa thế kỷ thứ 9 Công Nguyên, Hồi Cốt (nay là tộc Duy Ngô Nhĩ) có một chi từ phương Bắc dời đến, dựng đô tại thành Cao Xương. Lịch sử gọi đó là nước Hồi Cốt Cao Xương, là thuộc quốc của Đường Triều, và đổi tên là Hỏa Châu (c̣n gọi là Ḥa Châu). Đến đầu đời Minh, Hỏa Châu tuy hoang vắng nhưng vẫn c̣n người ở. Khoảng thế kỷ thứ 14-15, cổ thành Cao Xương mới hoàn toàn bị bỏ phế.

 

Tại công xă Hỏa Diệm Sơn, phía Đông Nam huyện thành Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương khoảng 40km, ngày nay vẫn c̣n di tích cổ thành Cao Xương. Thành có chu vi 5km. Tường thành cao 11m, xây bằng đất ép, trải gần 2.000 năm vẫn c̣n đứng vững.

Bố cục trong thành đúng theo quy cách kinh đô Trường An đời Đường.

 

Phía Tây Bắc di tích cổ thành Cao Xương không xa, có 2 thôn trang nhỏ. Một thôn tên A Tư Tháp Ná, thôn kia là Cáp Lạp Ḥa Trác. Giữa 2 thôn trang là một băi qua bích có nhiều ngôi mộ cổ. Theo kết quả nghiên cứu, những ngôi mộ này được chôn cất từ niên hiệu Thái Thủy thứ 9 đời Tây Tấn (CN 273) đến niên hiệu Đại Lịch thứ 7 đời Đường (CN 772). Tại những ngôi cổ mộ này, người ta khai quật được khá nhiều văn vật trân quí. Nhờ khí hậu khô kiệt trên qua bích, những mẫu tơ lụa sản xuất từ đời Đường vẫn c̣n bảo tồn nguyên vẹn. Quan trọng nhất là quyển cổ thư đă thất truyền từ đời Tống: “Luận Ngữ Trịnh Huyền chú” (quyển cuối). Sách dài 538mm, ghi niên hiệu Cảnh Long thứ 4 Đường Trung Tông (CN 710). Người sao chép đề kư: “Tây Châu, huyện Cao Xương, làng Ninh Xương, thôn Hậu Phong. Học tṛ tên Nghĩa sao chép năm Bốc Thiên Thọ thứ 12”. Điều này chứng minh, sách học của trẻ em vùng Tây Vực thời cổ đại không khác với Trung Nguyên.

 

Tại thôn A Tư Tháp Ná c̣n phát hiện chiếc hộp bọc giấy Hồ Quan trên một bộ hài cốt. Trong đó có một hóa đơn xuất nhập thức ăn cho ngựa của dịch trạm Tây Châu do lính dịch trạm tên Trần Kim viết năm Thiên Bảo 13-14 Đường Huyền Tông: “Phán quan họ Sầm mua bắp cho ngựa ăn là 3 đấu 5 cân. Thanh toán tiền cho lính dịch trạm tên Trần Kim”. Cứ theo lịch sử ghi chép, người họ Sầm đi nhận chức phán quan tại Bắc Đ́nh Đô Hộ phủ của Phong Thường Thanh (năm Thiên Bảo thứ 13-14), chính là nhà thơ “Biên Tái” trứ danh Sầm Tham. Lộ tŕnh theo “Con đường Tơ lụa” đến thành Khưu Từ (thủ phủ của Bắc Đ́nh Đô Hộ), nhà thơ có dừng chân tại Tây Châu và mua thức ăn cho ngựa tại dịch trạm này.

 

Thời Tây Hán, thành Giao Hà thuộc vương quốc Xa Sư Tiền (c̣n có tên Xa Sư Tiền Vương Đ́nh). Đến đời Thập Lục quốc, vương quốc này bị diệt vong, thành Giao Hà sau đó thuộc nước Cao Xương và là đô thị lớn thứ 2 của Cao Xương. Công Nguyên 640 Đường triều diệt nước Cao Xương, thành Giao Hà được dùng làm Tổng Hành Dinh của An Tây Đại Đô Hộ phủ, đến Công Nguyên 658 mới di dời đến thành Khưu Từ.

 

Phía Tây thành Thổ Lỗ Phiên không xa, có di tích cổ thành Giao Hà. Tường thành chỉ c̣n vài mẫu sụp đổ. Trong thành có một con đường chủ yếu thông từ Đông Nam sang Tây Bắc. Rải rác đây đó cũng c̣n những di tích pḥng ốc và tự viện nhưng đều đă trốc mái.

 

Mùa Xuân năm 1979, Thổ Lỗ Phiên mở rộng khu du lịch nối liền 2 ṭa cổ thành Cao Xương và Giao Hà, và thiết lập tại đó một trung tâm bảo hộ văn vật quốc gia trọng điểm. Nhờ đó thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan.

 

Từ Tây Châu tiếp tục đi về phía Tây khoảng 200km sẽ đến Yên Kỳ, là một trong những tiểu vương quốc Tây Vực thời cổ đại. Đời Hán Ban Siêu đă từng trấn thủ nơi đây. Đến đời Đường, Yên Kỳ được nâng thành Đô Đốc Phủ, là một trọng trấn quân sự quan trọng ở Tây Vực.

 

Phía Tây Yên Kỳ không xa, là thành thị Khố Nhĩ Lạc. Phía Bắc thành Khố Nhĩ Lạc có Thiết Môn Quan, một ṭa quan ải trọng yếu có thể khống chế 14km sườn núi cheo leo vùng thượng du sông Khổng Tước và cả cửa khẩu Hiệp Cốc. Từ đó có thể thông vào bồn địa Tháp Lư Mộc.

 

Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) là thành phố lớn nhất trên Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”. Thành phố này cách phía Đông Luân Đài (Hán Luân Đài) khoảng 100km. Ngày nay đi ô tô chỉ mất 2 giờ, nhưng thời xưa dùng Lạc Đà phải mất 2 hoặc 3 ngày, gặp lúc thời tiết nhiều gió có khi hơn.

 

Những năm đầu thời Tây Hán (năm 200 TCN), vùng Tây Vực có 36 tiểu quốc, phối trí trên cả 3 lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa”. Những nước nhỏ chỉ có một thành thị và nhân khẩu toàn nước chỉ độ vài ngàn. Nước lớn hơn th́ ngoài kinh đô c̣n có một hai thành trấn, dân số khoảng từ 1 đến 2 vạn. Trong đó, Khưu Từ là vương quốc lớn nhất. Dân số có đến trên 8 vạn. Lănh thổ bao quát 6 huyện thành gồm, Luân Đài (Hán Luân Đài), Khố Xa, Sa Nhă, Bái Thành, A Khắc Tô, và Tân Ḥa. Tất cả đều thuộc tỉnh Tân Cương ngày nay.

 

Khoảng niên hiệu Thần Tước Tây Hán Tuyên Đế (năm 61 đến năm 58 TCN), vương quốc Khưu Từ đă thuộc lănh thổ Tây Hán. Đến năm Vĩnh Nguyên thứ 3 Đông Hán Ḥa Đế (CN 91), Ban Siêu nhận chức Tây Vực Đô Hộ, bản doanh của Đô Hộ Phủ đóng tại phụ cận thành Khưu Từ. Khưu Từ đương thời vẫn là một tiểu vương quốc thuộc Hán chứ chưa diệt vong.

 

Đến đời Đường, An Tây Đại Đô Hộ phủ đóng tại thành Giao Hà (Tây Châu), quản lư toàn bộ con đường phía Nam Thiên Sơn. Năm Trinh Quán thứ 22 Đường Thái Tông (CN 648), Đường triều phái A Sử Na Xă Nhĩ diệt nước Khưu Từ và thành lập Khưu Từ Đô Đốc phủ. Cùng năm đó, di dời An Tây Đại Đô Hộ phủ từ thành Giao Hà đến Khưu Từ. Hai năm sau lại dời trở về thành Giao Hà. Năm Hiển Khánh thứ 3 Đường Cao Tông (CN 658), lại dời An Tây Đại Đô Hộ phủ trở lại thành Khưu Từ. Từ đó, Khưu Từ trở thành trung tâm chính trị quân sự chủ yếu trên Lộ tuyến Bắc của “Con đường Tơ lụa”.

 

Rời Khưu Từ, Lộ tuyến Bắc tiếp tục đi về phía Tây sẽ hội tụ với Lộ tuyến Nam tại Sơ Lặc Trấn. Từ đó 2 Lộ tuyến Bắc Nam của “Con đường Tơ lụa” sẽ cùng vượt Thông Lănh để đến Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và đế quốc La Mă.

 

 

Chương VI-  LỘ TUYẾN MỚI PHÍA NAM CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA - PHẦN KẾT

 

 

Nội dung bài này chỉ giới hạn ở đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa”. Tức từ kinh đô Trường An thời Hán Đường qua Hàm Dương, men theo Hành Lang Hà Tây rồi ra Ngọc Môn Quan và Dương Quan, xuyên Tây Vực để đến địa đầu vùng Trung Á Tế Á.

 

Thời cổ đại, các thương đội và lữ hành khi vượt hết được đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa”, họ đều coi như trút được gánh nặng của hành tŕnh. Mặc dù từ đó nh́n về các thị trường phương Tây vẫn c̣n một đoạn đường phía trước, tức vùng Trung Á Tế Á.

 

Đoạn đường này tuy tương đối khắc nghiệt về khí hậu sa mạc nhưng lại ít khắc nghiệt về địa lư nhân văn, tuy có đi qua gió cát sa mạc nhưng lại không phải qua sông vượt núi gian hiểm nhiều như đoạn phía Đông. Vùng Trung Á Tế Á là cơ địa của các vương quốc Ba Tư (nay là Iran và Irak), Đột Quyết (nay là Thổ Nhĩ Kỳ).. Những cộng đồng dân cư trên sa mạc của các vương quốc này có cự ly cách nhau không quá xa như vùng Tây Vực của đoạn phía Đông. Hơn nữa, họ cũng có quan hệ mậu dịch với Trung Nguyên, nên những thương đội Trung Quốc cũng không gặp nhiều khó khăn khi qua đây.

 

Đoạn phía Đông của “Con đường Tơ lụa” ngoài hai thành phố phồn vinh là Trường An và Hàm Dương, Hành Lang Hà Tây c̣n là yết hầu quan trọng về cả quân sự lẫn chính trị và kinh tế. Đó là một dăy dài, hẹp, có màu xanh trải từ bờ Tây sông Vị đến vùng sa mạc phía Nam cao nguyên Mông Cổ.

 

Các khu vực Âm Sơn, Lũng Sơn, Hà Tây Tẩu Lang và Hà Hoàng trên Hành Lang Hà Tây đều có những cứ điểm chiến lược quan trọng, làm b́nh phong che chắn Trung Nguyên và bảo vệ sự lưu thông của “Con đường Tơ lụa”.

Những vùng có khí hậu ôn ḥa trải dài các chân núi Âm: Sơn, Lũng Sơn, Kỳ Liên Sơn (c̣n gọi Thiên Sơn) và Yên Chi Sơn là những vùng cỏ nước dồi dào, thu hút cư dân nhiều bộ tộc ít người, và đă h́nh thành những cộng đồng kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi rất trù phú.

 

Những thành thị nằm dọc Hành Lang Hà Tây như Thiên Thủy, Cam Châu (nay là Trương Dịch), Túc Châu (nay là Tửu Tuyền), Lương Châu (nay là Vũ Uy), Sa Châu (nay là Đôn Hoàng)… Nhờ sự lưu thông của “Con đường Tơ lụa” mà trở thành những đô thị phồn vinh và là những trung tâm giao lưu văn hóa kinh tế Đông Tây theo 2 chiều mậu dịch. Thành phố Đôn Hoàng không những là ngă rẽ và là điểm hội tụ của 2 Lộ tuyến Bắc Nam mà c̣n là trung tâm của 2 chiều mậu dịch Đông Tây. Mặt khác, các thương đội và tăng lữ hành hương khi dừng chân tại Đôn Hoàng để chuẩn bị xuyên Tây Vực, đều cầu Thần bái Phật phù hộ cho hành tŕnh, nên từ rất sớm, Đôn Hoàng đă trở thành trung tâm phát triển cực thịnh của Phật Giáo.

 

Rời Đôn Hoàng, các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa” đều phải ra Dương Quan hoặc Ngọc Môn Quan để xuyên Tây Vực. Đó là 2 ṭa quan ải yết hầu của “Con đường Tơ lụa” và của cả nền an ninh Trung Nguyên. V́ muốn bảo vệ Trung Nguyên và làm chủ t́nh h́nh vùng Tây Vực nhằm giữ an toàn cho huyết mạch giao lưu Đông Tây mà, ngay từ thời cổ đại, nơi đây đă xảy ra vô số trận chiến khốc liệt. Đời Hán chiến tranh với Hung Nô và Đại Uyển, đời Đường chiến tranh với Đột Quyết và Thổ Phồn… Cho nên 2 ṭa quan ải này không những đă để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc, mà c̣n để lại nhiều h́nh ảnh tuyệt vời trong thi ca Biên Tái đời Đường.

 

Tây Vực là vùng đất vừa hiểm ác vừa quyến rũ, vừa hoang sơ vừa thần bí mà, các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa” bắt buộc phải đi qua. Đó là vùng đất đă đưa mặt hàng tơ lụa của Trung Nguyên đến các thị trường bờ Tây Thế Giới và là huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây. Nhưng đó cũng là nơi chôn vùi không biết bao nhiêu hành nhân trong gió cát sa mạc.

 

Thời viễn cổ, Tây Vực là nơi định đô của hơn 100 tiểu vương quốc. Tới khi nhà Tây Hán thông sứ Tây Vực th́ nơi đây chỉ c̣n 36 tiểu vương quốc, gồm khoảng 50 thành trấn lớn nhỏ, phối trí trên các Lộ tuyến của “Con đường Tơ lụa”. Nhưng qua những thời kỳ biến thiên, phần lớn diện tích Tây Vực bị sa mạc hóa, cư dân lưu tán, gió cát chôn vùi nhiều thành trấn. Tới đời Đường, Tây Vực chỉ c̣n lại các thành trấn: Y Châu (nay là huyện Cáp Mật Tân Cương), Đ́nh Châu (nay là Cát Mộc Tác Nhĩ Tân Cương), Ô Lỗ Mộc Tề và Y Ninh nằm trên Lộ tuyến mới phía Bắc. Thành Yên Kỳ, Khố Nhĩ Lặc, Khưu Từ (nay là Khố Xa Tân Cương) và A Khắc Tô nằm trên Lộ tuyến Bắc. Thành Thạch Thành (nay là Nhược Khương Tân Cương), Bá TIÊN (nay là huyện Thả Mạc Tân Cương), Vu Điền (nay là Ḥa Điền Tân Cương) và Sơ Lặc trấn (nay là thành phố Ca Thập Tân Cương) nằm trên Lộ tuyến Nam của “Con đường Tơ lụa”.

 

Bồn địa Tháp Lư Mộc chiếm gần hết diện tích của Tây Vực và sa mạc Tháp Khắc Lạp Mă Can cũng chiếm gần hết bồn địa này. Từ sau thời kỳ đóng băng thế kỷ thứ 4 khí hậu bồn địa ngày càng khô kiệt và nhiều gió, lượng nước mưa hằng năm rất thấp, thậm chí toàn vùng gần như không có cỏ nước (trừ rừng Hồ Dương thiên nhiên tồn tại từ thời kỳ bồn địa chưa trải qua biến thiên).

 

Nhưng theo lịch sử ghi chép và nhất là căn cứ kết quả khai quật những cổ thành Lâu Lan, Y Tuần, Ni Nhă, Cao Xương… th́ bồn địa Tháp Lư Mộc đă từng tồn tại nhiều vương quốc hùng mạnh. Chứng tỏ bồn địa đă có một thời kỳ khá dài khí hậu ôn ḥa, h́nh thành nhiều cộng đồng quốc gia trù phú. Nhưng về sau khí hậu ngày càng khô kiệt, bồn địa mất nguồn nước băng tan và các con sông cũng tắt hẳn ḍng chảy. Lượng cát trầm tích từ nhiều thế kỷ trước dần hồi bị sa mạc hóa xua đuổi cư dân, chôn vùi thành trấn. Bồn địa Tháp Lư Mộc từ đó trở thành khổ nạn cho các thương đội và lữ hành trên “Con đường Tơ lụa”.

 

Hồ La Bố Bạc nằm mút phía Đông của bồn địa Tháp Lư Mộc. Hồ này tích tụ nguồn nước lớn của 2 sông Tháp Lư Mộc và Khổng Tước nên từ thời cổ đại, mặt nước hồ có diện tích gần 1 vạn km2 (thủy lượng lớn thứ 2 của Trung Quốc). Nhưng cũng do ảnh hưởng các thời kỳ biến thiên, mực nước hồ cạn dần và đến nay th́ khô kiệt hẳn. Bờ Tây hồ La Bố Bạc là nền xưa của vương quốc Lâu Lan, nằm giữa 2 Lộ tuyến Bắc Nam của “Con đường Tơ lụa”. Tất cả 3 Lộ tuyến đều phải đi qua bồn địa Tháp Lư Mộc, nên khu vực này đă trở thành bản lề giao thông trọng yếu của “Con đường Tơ lụa”.

 

Từ thế kỷ thứ 4 trở đi, kỹ thuật Dâu Tằm Tơ dần hồi được truyền bá qua một số nước vùng cực Tây Tây Vực. Những năm khai quốc Đường triều xă hội ổn định, kinh tế phát đạt, các thành thị Kim Măn Thành (xưa là vương quốc Xa Sư Tiền Vương Đ́nh), Vu Điền (xưa là vương quốc Cù Tát Đán) và Tây Châu (xưa là vương quốc Cao Xương) là 3 thủ phủ tơ lụa nổi danh của vùng Tây Vực. Mặt hàng tơ lụa từ các thủ phủ này chuyển đến thị trường phương Tây đă rút ngắn được Hành Lang Hà Tây và một phần đường Tây Vực. Nhưng “Con đường Tơ lụa” từ đó cũng biến thành huyết mạch giao lưu văn hóa văn minh Đông Tây.

 

Con đường Tơ lụa” trên lư thuyết tồn tại 17 thế kỷ, nhưng thực tế có 1 thế kỷ gián đoạn (CN 763-CN 866). Năm Thiên Bảo 14 Đường Huyền Tông (CN 755), v́ loạn An Sử, triều đ́nh điều hết quân tinh nhuệ về nội địa dẹp loạn. Thổ Phồn thừa cơ đem quân tấn công Lương Châu. Đến năm Quảng Đức thứ 2 Đường Đại Tông (CN 763), quân Thổ Phồn chiếm lĩnh toàn bộ khu vực Hà Hoàng và “Con đường Tơ lụa” cũng tắt nghẽn từ đó. Năm Đại Trung thứ 2 Đường Tuyên Tông (CN 848), nhân Thổ Phồn có nội loạn, Trương Nghĩa Triều lănh đạo nghĩa quân đánh đuổi Thổ Phồn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài đến năm Hàm Thông thứ 7 Đường Ư Tông (CN 866), Trương Nghĩa Triều tái chiếm toàn bộ khu vực Hà Hoàng và tái khai thông “Con đường Tơ lụa”.

 

Con đường Tơ lụa” được khai mở từ mối lợi của các thương nhân nhưng, hoàn chỉnh trong vai tṛ lịch sử trọng đại. Đây không chỉ là con đường mậu dịch buôn bán Đông Tây thời cổ đại mà, c̣n là huyết mạch giao lưu chính trị, tôn giáo, văn hóa văn minh giữa Trung Quốc với vùng Trung Tây Á và cả các nước Châu Âu. Trong lịch sử, “Con đường Tơ lụa” ảnh hưởng sâu đậm đến mối quan hệ giữa Trung Quốc và phương Tây, và là tổng hợp tinh hoa, thúc đẩy phát triển văn minh nhân loại. Huyết mạch này tồn tại suốt 17 (thực tế chỉ có 16) thế kỷ, khi nhân loại chưa phát triển đường hàng hải.

 

SÁCH THAM KHẢO

 

Trung Hoa thượng hạ ngũ thiên niên (2 tập) của Trần Thắng Lợi (Nội Mông cổ nhân đân xuất bản xả 1998)

Đường thi cố sự tục tập (tập 1) của Lật Tư (Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá xuất bản xă Bắc Kinh 1988)

Quang Minh Nhật Báo Bắc Kinh (số ra ngày 26.2.1985).

Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh (số ra ngày 13.4.1982).

Trung Quốc Nhất Tuyệt của Lư Duy Côn (bản Việt ngữ của nhiều dịch giả, NXB Văn Hoá Thông Tin Hà Nội 1997).

Đường Thi Tuyển Dịch của Lê Nguyễn Lưu. (NXB Thuận Hoá 1997).

 



 

 

Cao Tiên Chi (Go Seon ji) một người Goguryeo

 

 

 thống lĩnh con đường Tơ lụa

 

 

TGo Seon-ji, Goguryeo.

 

 

 

Vị anh hùng của lịch sử thế giới

 

“Cuộc viễn chinh của Go Seon-ji c̣n vượt lên trên cả thành tích của tướng Hannibal và vua Napoleon”. Đó là nhận xét của Aurel Stein, một nhà thám hiểm người Anh từng khai quật, phát hiện thư tịch cổ tại khu vực Dunhuang (Đôn Hoàng), Trung Quốc. Với lời nhận xét đó, nhân vật Go Seon-ji đă được đánh giá cao hơn cả tướng Hannibal xứ Cartago, người đă chinh phục La Mă từ năm 218 trước công nguyên và hoàng đế Napoleon, nhà quân sự kiệt xuất của Pháp đầu thế kỷ XIX. Phải chăng đó là v́ Go Seon-ji, vị tướng của nhà Đường, Trung Quốc đă thành công trong việc lănh đạo đội quân viễn chinh quy mô lớn vượt qua cao nguyên Pamir (cao 4600m so với mực nước biển), nơi cao và hiểm trở hơn cả dăy núi Anpơ (dăy núi Alpes cao 2500m so với mực nước biển) mà Hannibal và Napoleon đă qua.

 

Trên thực tế, Go Seon-ji là người đă thu phục được vùng Trung Á, khu vực có con đường Tơ lụa vào thế kỷ thứ 8. Ở Trung Quốc ông được coi là “Thần bảo hộ của Tây Vực”, c̣n trong sử sách của A-rập th́ ông được miêu tả như “một vị vua của núi rừng Trung Quốc”. Vốn là người Goguryeo nhưng làm sao Go Seon-ji có thể trở thành một vị anh hùng, thống lĩnh cả một vùng của con đường Tơ lụa?

 

Vị tướng nhà Đường 5 lần viễn chinh Tây Vực

 

 

Mang họ Go (Cao) là họ của vua triều Goguryeo, Go Seon-ji được cho là hậu duệ của hoàng tộc Goguryeo, quốc gia đă bị diệt vong bởi nhà Đường, Trung Quốc vào năm 668. Sinh ra là người dân của một đất nước không c̣n tồn tại trong lịch sử nên cũng không có ghi chép nào cho biết chính xác về năm sinh và gia cảnh của Go Seon-ji. Trong “Cựu Đường thư” một thư tịch cổ của Trung Quốc có viết rằng, “Cha của Go Seon-ji là Go Sa-gye, sau khi Goguryeo bị diệt vong đă chuyển đến sống ở Trung Nguyên, theo việc trong quân Hà Tây, rồi sau làm chức tướng quân tại tứ trấn của Tây Vực.” Theo đó có thể phán đoán được rằng, Go Seon-ji sinh trưởng trong một gia đ́nh tinh thông vơ lược và là hậu duệ của dân di cư người gốc Goguryeo, khi nhà nước Goguryeo sụp đổ, bị nhà Đường ép sang Trung Quốc cư trú để tránh đi mối họa nổi dậy về sau.

 

Địa điểm đầu tiên cái tên Go Seon-ji được biết đến trong lịch sử chính là An Tây Đô hộ phủ, nơi Go Sa-gye, cha của ông được bổ nhiệm làm tướng lĩnh. An Tây (nay thuộc huyện Khố Xa, tỉnh Tân Cương) là cực phía Tây của con đường Tơ lụa và An Tây Đô hộ phủ bấy giờ chính là cửa ngơ thông sang phương Tây, đảm nhận chức năng quản lư và bảo hộ cho các thương nhân tới Tây Vực từ các nhánh phía Nam và phía Bắc của con đường Tơ lụa, đồng thời cũng là điểm chốt để ngăn chặn sự xâm lấn của các quốc gia Tây Vực vào Trung Quốc. Có thể nói, Go Seon-ji đă trưởng thành trên một vùng đất phức tạp, liên tục xảy ra xung đột với những cuộc ác chiến như vậy, nên từ nhỏ ông đă luyện vơ nghệ, sau khi lên 10 tuổi đă phục vụ trong quân đội, tham gia các cuộc tiễu trừ đạo tặc, lập công và 20 tuổi đă được phong làm chức “Du kích tướng quân”.

 

Sự dũng mănh của vị tướng trên con đường Tơ lụa

 

Năm 741, bộ lạc Đạt Hề ở phía Tây dăy núi Thiên Sơn, nổi dậy khởi binh chống lại triều đ́nh nhà Đường và tướng quân Go Seon-ji đă tỏa sáng. Ông đă dẫn 2000 kị binh đi đánh dẹp và trấn áp ngay được quân phiến loạn. Nhờ công lao này, ông được đặc cách thăng chức làm “Đô tri binh mă sứ”, chỉ huy quân đội tại những điểm xung yếu trong tứ trấn của Tây Vực.

 

Song, thế kỷ thứ 8 mới được xem là giai đoạn lập nhiều công lao hiển hách của vị tướng quân này. Đó là giai đoạn diễn ra những cuộc chiến kịch liệt, đối đầu giữa một bên là thế lực Hồi giáo sau khi nắm được vùng Tây Á, muốn truyền bá văn hóa của ḿnh sang phương Đông và một bên là nhà Đường thống trị vùng Đông Á cũng đang muốn mở rộng vùng văn hóa về phía Tây.

 

Go Seon-ji lúc này đă tỏa sáng như một ngôi sao. Năm 747, khi Thổ Phồn, một vương quốc từng thống trị Tây Tạng đă liên minh với người Hồi giáo và mở rộng thế lực ra ngoài, Go Seon-ji được bổ nhiệm làm “Hành doanh Tiết độ sứ” đem hơn 10 ngh́n bộ binh và kị binh đi đánh dẹp miền Tây Vực.

 

Đây là một cuộc viễn chinh muôn vàn khó khăn, quân đội phải đi ngang qua sa mạc Takla Makan, một sa mạc tử thần dài tới 370 ngh́n km vốn được gọi là nơi “không thể sống sót quay về” và đồng thời cũng phải vượt qua cao nguyên Pamir, mái nhà của thế giới, nơi tập trung những dải núi lớn có độ cao khoảng trên 5000m so với mực nước biển. Với tài lănh đạo siêu phàm, tướng quân Go Seon-ji đă động viên quân sĩ, chỉ trong ṿng 4 tháng tiến được tới phía Đông của dăy núi Hindu Kush (một dăy núi nằm giữa Afghanistan và Pakistan hiện nay), đánh tan quân Thổ Phồn tại chiến lũy Liên Vân, chiếm lấy vùng Tiểu Bột Luật ở phía Bắc của Pakistan ngày nay.

 

Go Seon-ji đă lập chiến công, được 72 nước ở Tây Vực hàng phục và quy thuận, mở rộng ảnh hưởng của nhà Đường tới khắp vùng Tây Á. Về sau ông c̣n thành công trong 3 lần viễn chinh khác đem quân đi đánh Tây Vực, nổi lên như một vị vua của con đường Tơ lụa. Tiếng tăm của ông lẫy lừng tới mức nhà thơ Đỗ Phủ, người được tôn sùng là Thi Thánh của nhà Đường cũng đă phải cất lời ca ngợi trong một bài thơ của ḿnh. Tuy nhiên, danh tiếng một thời của Go Seon-ji đă không c̣n được kéo dài cho đến măi về sau.

 

Hậu duệ của Goguryeo là người mở cổng, thông đường từ Đông sang Tây thời Trung Cổ

 

 

Ngay khi thế lực của nhà Đường, Trung Quốc lan rộng tới vùng Tây Turkestan, triều Abbas, triều đại Hồi giáo của đế quốc Ả Rập vào năm 751 đă đưa quân ra đối đầu với quân đội của nhà Đường. Tại trận chiến Talas, trận đại chiến đầu tiên và cũng là cuối cùng giữa người Ả Rập với người Trung Quốc trong lịch sử, Go Seon-ji đă phải đem 30 ngh́n quân ra đối đầu với 300 ngh́n liên quân Hồi giáo. Kết cục, do thiếu thốn về lực lượng ông đă phải nếm trải thất bại cay đắng.

 

Sau đó, đến năm 755, khi tướng An Lộc Sơn dấy binh làm phản nhà Đường, Go Seon-ji được cử làm Phó nguyên soái, đem quân đi dẹp loạn. Ông đánh nhau với loạn quân và đă giữ ǵn, pḥng bị được cho kinh thành Trường An. Song, do quan lại nhà Đường đố kỵ với những chiến công của một người dị tộc như ông, nên ông đă bị hăm hại, dẫn tới bị xử tử khi đang lâm trận.

 

Dù có kết cục đau buồn do hạn chế là một người Goguryeo di cư tới Trung Quốc, nhưng có thể nói, từ sau trận chiến Talas của ông, việc giao lưu văn hóa giữa các quốc gia đạo Hồi và nhà Đường mới chính thức được bắt đầu và cũng nhờ vậy mà thuật làm giấy hay la bàn của Trung Quốc mới tới được châu Âu, góp phần phát triển cho văn minh của châu Âu. Tuy có một cuộc đời đầy sóng gió nhưng Go Seon-ji là người đă kế thừa được chí tiến thủ của dân Goguryeo, mở rộng được con đường vào đại lục, để lại một dấu ấn trong lịch sử giao lưu giữa phương Đông và phương Tây.

 

 

Con đường tơ lụa trên biển thời Hán

 

Chử Bích Thu*

 

 

Sự ra đời của con đường tơ lụa được đánh giá là sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử quan hệ kinh tế – văn hoá giữa phương Đông và phương Tây thời cổ đại, v́ thế nó đă thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả. Về con đường tơ lụa trên bộ, đă từng có rất nhiều công tŕnh nghiên cứu công phu, nhưng những hiểu biết về con đường tơ lụa trên biển cho đến nay vần c̣n nhiều khoảng trống chưa được khám phá, đă và đang kích thích sự t́m ṭi nghiên cứu của các nhà khoa học.

 

Trung Quốc là quê hương của tơ lụa. Từ rất sớm, tơ tằm cùng các sản phẩm dệt nổi tiếng của Trung Quốc đă được vận chuyển ra nước ngoài. Sự ưa chuộng ngày càng phổ biến cùng những chuyến hàng mang sản phẩm tơ lụa sang phương Tây đă dần h́nh thành nên tuyết đường giao thương quốc tế mà về sau nó được mang tên là con đường tơ lụa. Năm 1877, nhà địa lư học người Đức Ferdinand von Richthofen ( 1833-1905) trong cuốn sách của ḿnh có nhan đề “ Trung Quốc”, lần đầu tiên đă đưa ra khái niệm con đường tơ lụa ( tiếng Đức Seidenstranssen, tiếng Anh là Silk Road) để chỉ tuyến đường thông thương trên bộ thời cổ đại giữa Trung Quốc và phương Tây, v́ tuyến đường này chủ yếu là buôn bán hàng tơ lụa  nên được mệnh danh là con đường tơ lụa. Sau khi xuất hiện tên gọi này, nhiều học giả đồng nhất cho rằng tơ lụa Trung Quốc xuất khẩu sang phương Tây không chỉ bằng đường bộ mà c̣n thông qua đường biển. Nhà Hán học người Pháp Edourd Chavanse ( 1865-1918) trong tác phẩm “ Sử liệu Tây Turki”, đă khẳng định rơ “ Con đường tơ lụa có hai tuyến: đường bộ và đường biển”[1].. Về sau, giới học thuật quốc tế đều thống nhất tên gọi con đường tơ lụa để chỉ tuyến đường thông thương thời cổ đại xuất phát từ Trung Quốc qua nam Á, tây Á nối liền tới châu Âu và bắc Phi, bao gồm tuyến đường trên bộ và trên biển.

 

 Như chúng ta đă biết, việc khai thông con đường tơ lụa đă mở ra một kỷ nguyên mới trong vấn đề giao thông, trao đổi thương mại và giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và phương Tây. Trung Quốc là nước nuôi tằm ươm tơ sớm nhất thế giới và hàng dệt ra tơ lụa ra đời rất được sự ưa chuộng của người dân, nên ngay từ đầu thời Tây Hán trong xă hội Trung Hoa đă xuất hiện những thương nhân dũng cảm muốn mang tơ lụa đến bán cho các quốc gia láng giềng gần biên giới nhà Hán để kiếm lời. Tuy nhiên, theo sử Trung Quốc, những năm đầu thời Tây Hán ( 206 tr.CN – 23), Hung Nô-một tộc du mục cường thịnh ở miền Bắc Trung Quốc, không ngừng phát động chiến tranh xấm lấn ra bên ngoài, gây sức ép rất lớn đối với biên cương của Triều Hán. Các dân tộc khác ở Tây Vực đều phục thuộc và chịu sự uy hiếp nặng nề của Hung Nô. Đến thời Hán Vũ Đế ( 140-87 tr.CN), để loại trừ hiểm hoạ biên giới, một mặt triều đ́nh Hán dùng vũ lực tấn công Hung Nô, mặt khác họ dùng biện pháp ngoại giao, liên kết với tộc Đại Nguyệt Thị và cộng đồng các nước Tây Vực, cùng nhau chống lại Hung Nô. Năm Kiến Nguyên thứ 3 (138 tr.CN) và năm Nguyên Đỉnh  thứ 2 (115 tr.CN), Hán Vũ Đế đă hai lần phái Trương Khiên đi sứ Tây Vực, từ đó đă khai thông con đường tơ lụa trên bộ[2]. Nhà Hán sau khi thiết lập được sự đô hộ ở Tây Vực đă bảo đảm cho việc giao lưu, buôn bán Trung – Tây được thông suốt. Tuyến đường này xuất phát từ kinh đô Trường An ( Tây An ngày nay) theo hướng Tây xuyên qua hành lang Hà Tây, qua Thiên Trúc (Ấn Độ), đến An Tức (Iran ) rồi đến Đại Tần ở Châu Âu ( tức đế quốc La Mă). Tơ sống và các sản phẩm dệt tơ lụa của Trung Quốc, cùng với các hàng hoá khác thông qua tuyến đường này được vận chuyển ra nước ngoài đă trở thành mặt hàng thịnh hành khắp phương Tây một thời. Tuy lấy tơ lụa để mở đầu và lấy việc buôn bán tơ lụa làm chính, song ư nghĩa của con đường tơ lụa lại vượt xa phạm vi kinh tế, có ảnh hưởng mạnh đến mặt chính trị, ngoại giao, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật cũng như sinh hoạt của nhân dân.

 

Thời Tây Hán, Trung Quốc đă đạt tới nền chính trị thống nhất, nền kinh tế vững mạnh, đó chính là tiền đề quan trọng cho việc phát triển giao lưu kinh tế-văn hoá với các nước. Hơn nữa, Hán Vũ Đế là một nhân vật kiệt xuất, dưới thời trị v́ của ông ( 54 năm từ 140 tr.CN đến 86 tr.CN), cùng với sự h́nh thành của con đường tơ lụa Tây Vực, Nhà Hán đă nổ lực khai thông tuyến đường biển nhằm đẩy mạnh sự giao lưu và mở rộng ảnh hưởng của vương triều Hán ra bên ngoài. Là một đất nước rộng lớn với đường bờ biển dài, Trung Quốc có lịch sử về hàng hải, họ biết lợi dụng sức gió, sự vận động của những ḍng hải lưu và thuật chiêm tinh. Bờ biển phía Đông đại lục Trung Hoa có hướng Bắc – Nam, nên các nhà hàng hải cổ đại Trung Quốc biết rằng, đi về hướng đông sẽ tới Nhật Bản và theo hướng nam sẽ tới Đông Nam Á. Do vậy, từ rất sớm cư dân vùng Hoa Đông đă có mối liên hệ mật thiết với Nhật Bản, Triều Tiên c̣n người Hoa Nam có mối quan hệ qua lại thường xuyên với cư dân Đông Nam Á.

 

Từ trước thời Hán, tơ lụa Trung Quốc đă được vận chuyển ra nước ngoài bằng đường biển, song, đây chỉ là những hoạt động “tư doanh” – mang tính chất buôn bán dân gian nhỏ chưa phải thương mại “ quan doanh” – h́nh thức hoạt động thương mại dưới sự chỉ đạo trực tiếp của triều đ́nh. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng thôn tính sáu nước Tề, Yên, Triệu, Sở, Ngô, Việt, nhân dân các nước chạy loạn đă t́m đường vượt biển sang Triều Tiên, dần h́nh thành nên tuyến giao thông trên vùng biển phía Đông. Tuyến đường này thông qua Đông Hải ( Hoàng Hải ngày nay), nối với Triều Tiên và Nhật Bản. Từ đây, tơ lụa và kỹ thuật nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải của người Trung Quốc đă được truyền bá sang Triều Tiên và đến thời Hán từ Triều Tiên lại được truyền tới Nhật Bản. Con đường truyền bá kỹ thuật này cũng chính là tuyến đường biển vận chuyển tơ lụa ra nước ngoài sớm nhất của Trung Quốc và sau này nó đă trở thành một bộ phận quan trọng của con đường tơ lụa trên biển. Tuy nhiên, trong thời Tần – Hán chưa diễn ra các hoạt động thương mại trên tuyến đường biển phía Đông này và tơ lụa Trung Quốc được đưa sang các nước hoàn toàn không mang tính chất hàng hoá thương mại. Cho đến năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 tr.CN), sau khi b́nh định Nam Việt, Hán Vũ Đế cho thành lập quận Hợp Phố cùng những cảng biển đầu tiên như: Hợp Phố, Từ Văn, tuyến đường biển phía Nam được h́nh thành, thương mại “ quan doanh” mới thực sự đi vào hoạt động và tơ lụa Trung Quốc đă trở thành một mặt hàng trao đổi theo thuyền của các xứ đoàn cập bến tới nhiều quốc gia[3]. 

 

Theo ghi chép trong Hán thư: “ Tự Nhật Nam Chướng Tắc, Từ Văn, Hợp Phố, thuyền  hành khả ngũ nguyệt, hữu Đô Nguyên quốc, hựu thuyền hành khả tứ tuyệt, hữu Ấp Lư Một quốc, bộ hành khả nhị thập dư nhật, hữu Thầm Ly quốc, bộ hành khả thập dư nhật, hữu. Tự Phu Can Đô Lưu Quốc. Tự Phu Can Đô Lư quốc, thuyền hành khả nhị nguyệt dư, hữu Hoàng Chi quốc… Hoàng Chi chi nam hữu Dĩ Tŕnh Bất quốc, Hán chi dịch sứ, tự thử hoàn hỹ.”[4] . Đây là những ghi chép sớm nhất trong sử liệu của Trung Quốc về tơ lụa thông qua đường biển đă trở thành hàng hoá thương mại với phương thức hàng đổi hàng để xuất khẩu ra nước ngoài. Mặt khác, những ghi chép này cũng vạch ra hải tŕnh tới Ấn Độ dương của đoàn thuyền Trung Quốc, các nước mà sứ đoàn Trung Quốc đă đi qua và thiết lập quan hệ buôn bán. Theo hải tŕnh này, thuyền xuất phát từ cảng Từ Văn, Hợp Phố đi khoảng 5 tháng đến nước Đô Nguyên ( tây – nam Malaysia), rồi lại đi tiếp 4 tháng đến nước Ấp Lư Một ( Ratburi – nam Thái Lan), lại đi thuyền khoảng hơn 12 ngày nữa th́ tới nước Thầm Ly ( Tanasalin – Miến điện), đi bộ khoảng hơn 10 ngày th́ tới nước Can Đô Lư ( Prome – nam Miến Điện), từ nước Can Đô Lư, lại đi thuyền khoảng 2 tháng th́ tới nước Hoàng Chi ( nam Ấn Độ), cuối cùng dừng lại tại nứơc Dĩ Tŕnh Bất ( quốc đảo Xrilanca)[5].Tại đây, sứ đoàn tiếp tục tiến hành trao đổi thương mại với các thuyền buôn hoạt động trên tuyến hàng hải của La Mă đi xuống từ Địa Trung Hải, rồi theo lộ tŕnh cũ quay trở về Trung Quốc. ( Xem Phụ lục bản đồ).

 

Thực tế, vào thời Hán, hàng tơ lụa Trung Quốc xuất khẩu ra nước ngoài chủ yếu là thông qua con đường tơ lụa trên bộ Tây Vực và Tây Nam. Vậy nguyên nhân nào khiếm nhà Hán vẫn nỗ lực khai thông tuyến đường biển? Có lẽ, lư do xuất phát từ chính những hạn chế nảy sinh trên tuyến đường bộ. Con đường tơ lụa trên bộ chỉ  thông tới những nước tiếp giáp với Trung Quốc, muốn vận chuyển hàng đi xa hơn về phía Tây, đoàn lái buôn phải đi qua một loạt các nước và nếu như một trong số các nước đó xảy ra chiến tranh hay một nước nào đó nảy sinh mưu đồ lũng đoạn dẫn đến thao túng hoạt động thương mại trên tuyến đường này th́ toàn bộ hoạt động của tuyến đường sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên trên tuyến đường bộ lại vô cùng khắc nghiệt, đoàn lái buôn phải vượt qua những ngọn núi cao lạnh lẽo, những sa mạc cằn cỗi nóng bỏng mịt mù băo cát. Phương tiện vận chuyển duy nhất là thồ hàng trên lưng lạc đà, do vậy số lượng hàng thồ không nhiều và thời gian vận chuyển lâu. Từ những điểm hạn chế trên của  con đường tơ lụa trên bộ, cộng với ư đồ mở rộng ảnh hưởng chính trị ra bên ngoài của triều đ́nh Hán đă dẫn tới việc h́nh thành tuyến đường buôn bán trên vùng biển phía Nam. Tuy nhiên, khi mới h́nh thành, tuyến đường này chủ yếu chỉ vận chuyển, buôn bán tơ lụa, hàng xa xỉ phẩm phục vụ nhu cầu của tầng lớp quư tộc và “ mậu dịch triều cống” với mục đích giữa mối quan hệ hữu nghị với các nước xung quanh của triều đ́nh Hán. Hậu Hán Thư, phần Thiên Trúc truyện có ghi “ Hoà đế ( 89 – 105 CN), số di sứ cống hiến, hậu Tây Vực phản bạn năi tuyệt. Chí Hoàn Đế Diên Hy nhị niên ( 159 CN), tứ niên (161 CN), tần ṭng Nhật Nam kiểu ngoại lái hiến”. Đoạn ghi chép trên vô cùng quan trọng, không những cho ta biết mối quan hệ hữu hảo giữa Trung Quốc và Ấn Độ đă được thiết lập từ những năm 89-105 CN thông qua con đường tơ lụa Tây vực, mà c̣n đưa ra lư do (Tây vực làm phản) khiến Ấn Độ phải chuyển hướng đi bằng đường biển qua Nhật Nam tới Trung Quốc triều cống.

 

Thực vậy, cùng với việc gia tăng ảnh hưởng chính trị của nhà Hán, hàng tơ lụa tuyện đẹp của Trung Quốc cũng ngày càng trở nên hấp dẫn đối với nước ngoài, các nước từ khu vực Đông Nam Á, Nam Á, cho đến Tây Á, châu Âu lần lượt phái sứ đoàn vượt biển đến bang giao với Trung Quốc. Họ mang tới Trung Quốc những thổ sản quư hiếm như: ngọc trai, hương liệu, các loại đá quư… để đổi lấy hàng tơ lụa. Hậu Hán Thư, phần Trung Tằng có ghi rơ các nước đă tới Trung Quốc triều cống như sau: Năm 131 CN có Diệp Điều Quốc (đảo Java ngày nay); năm 159 CN và năm 161 CN có nước Thiên Trúc (Ấn Độ); năm 97 CN, năm 120 CN và năm 131 CN có Đản Quốc ( Miến Điện ngày nay) đều đă phái sứ giả đến Trung Quốc bang giao[6]. Có thể nói, vào thời Hán, tơ lụa Trung Quốc qua đường biển được vận chuyển ra nước ngoài không chỉ mang tính chất hàng hoá mà đă trở thành lễ vật trao đổi, do vậy, giá trị và tác dụng của tơ lụa ngày một lớn, thậm chí vượt qua cả vàng bạc. Thông qua “ mậu dịch triều cống”, tơ lụa Trung Quốc – vừa là lễ phẩm vừa là thương phẩm, đă trở thành biểu tượng của hoà b́nh và t́nh hữu nghị.

 

Tuy không đặt mục đích thương mại lên đầu, nhưng trên thực tế, sau khi h́nh thành tuyến đường biển phía Nam, hoạt động thương mại cũng ngày một phát triển, tuyến đường này vươn tới đâu là ở đó diễn ra hoạt động buôn bán tơ lụa và hàng tơ lụa Trung Quốc được chuyển tới đó. Đây là mặt hàng hấp dẫn nên trong hoạt động buôn bán giữa các nước cũng xảy ra một số tranh chấp. Ta có thể h́nh dung về sự cạnh tranh trong hoạt động thương mại trên biển ở đoạn ghi chép sau trong Hậu Hán Thư: “ Dữ Án Tức, Thiên Trúc giao thị vu hải trung, lợi hữu thập bội… Kỳ vương thường dục thông sứ vua Hán, nhi An Tức dục dĩ Hán thái tăng dữ chi giao thị, cố già ngại bất đắc tự đạt”[7]. Từ đầu công nguyên, nước An Tức ( Ba Tư – tức Iran ngày nay) đă tiến hành các hoạt động buôn bán tơ lụa trên biển với Đại Tần ( La Mă) và Thiên Trúc (Ấn Độ). Bởi đây là mặt hàng “ một vốn bốn lời” nên An Tức muốn độc quyền buôn bán hàng tơ lụa Trung Quốc. Do vậy, họ đă ra sức ngăn cản mối giao thương đường biển trực tiếp giữa La Mă và Trung Quốc. Trong khi đó, nhu cầu về tơ lụa Trung Quốc đối với người phương Tây rất lớn, họ rất ưa thích mặt hàng tơ lụa mềm mại, mượt mà. Tơ lụa Trung Quốc không những mang tính thẩm mỹ, tính kinh tế, lại có giá trị sử dụng cao nên đă được xem là một trong những món hàng thượng đẳng ở phương Tây. Trên thực tế, La Mă là nước tiêu thụ mạnh mặt hàng tơ lụa của Trung Quốc, và chính do mưu đồ lũng đoạn của An Tức đă thúc đẩy La Mă mở ra một tuyến đường thông thương khác không cần đi qua An Tức mà trực tiếp nối liền với Trung Quốc. Theo mô tả trong Hậu Hán Thư: “ Chí Hoàn Đế Diên Hy cửu niên (166 CN) Đại Tần vương An Đôn ( Marcus Aurelius Antonious ) di sứ tự Nhật Nam kiểu ngoại hiến tượng nha, tê giác, đại mạo, thuỷ năi nhất thông yên”[8]. Dưới thời Hoàn Đế, năm Diên Hy thứ 9 ( năm 166 CN), vua Antonnious của La Mă đă phái sứ giả mang theo đường biển từ Nhật Nam tới triều cống nhà Hán, từ đó mở ra tuyến đường trao đổi thương mại trực tiếp với Trung Quốc.

 

Bên cạnh những ghi chép trong thư tịch cổ, rất nhiều phát hiện khảo cổ học đă chứng minh cho sự hoạt động của con đường tơ lụa trên biển thời Hán. Trước hết phải nói tới việc phát hiện di chỉ xưởng đóng thuyền ( niên đại Tần – đầu Tây Hán, năm 221 – 111 tr. CN) tại đường Trung Sơn Tứ, Quảng Châu năm 1974. Tại đây các nhà khảo cổ học Trung Quốc đă phát hiện trong địa tầng lớp đất sét xám 3 ụ đóng thuyền chạy dọc song song, theo hướng đông – tây. Trong đó, ụ số 1 có chiều dài hơn 88m, rộng 1,8m. Theo các nhà nghiên cứu những ụ này có thể đóng ra những thuyền gỗ có tải trọng tới 25-30 tấn[9]  (ảnh 1). Mặt khác, việc phát hiện những mô h́nh thuyền bằng gốm và bằng gỗ có niên đại Đông Hán ( năm 25-220 CN) tại đường Tiên Liệt và thôn Cao Lương Quan, thành phố Quảng Châu năm 1980 cũng phản ánh rất rơ tŕnh độ chế tạo thuyền thời Hán (ảnh 2,3). Đặc trưng của thuyền gỗ thời Hán là có nhiều buồng, nhiều khoang, mũi thuyền và đuôi thuyền cong vểnh, đặc biệt ở đuôi thuyền được thiết kế cần lái, song những thuyền này không đi được xa bờ, mà theo như ghi chép trong Hán thư “ hữu khổ phùng phong ba nịch tử”[10] ( tức là thuyền gặp gió băo lớn th́ bị ch́m). Thời Hán,Trung Quốc chưa chế tạo được các tàu viễn dương, thời kỳ này, các đoàn thuyền Trung Quốc chỉ đi theo hải tŕnh gần bờ, trong khoảng thời gian vài ba tháng, rồi ghé vào đất liền trao đổi hàng hoá và lấy nước ngọt, sau đó lại tiếp tục ra khơi.

 

Nhiều phát hiện khảo cổ cũng cho thấy, ngay từ thời Tây Hán, Trung Quốc đă nhập cảng hàng hoá từ La Mă, Tây Á và Ấn Độ. Điển h́nh là chiếc hộp bạc phát hiện trong di chỉ mộ Nam Việt Vương – Triệu Mục ( niên đại đầu thời Tây Hán, năm 206 -111 tr. CN) tại Tượng Cương, Quảng Châu năm 1983 (ảnh 4). Đặc điểm của chiếc hộp bạc này là h́nh dáng đến hoa văn trang trí đều mang phong cách khác hẳn so với các hiện vật thời Hán của Trung Quốc, nhưng lại rất giống những đồ bạc khai quật được ở di chỉ Susa (Iran). Thêm vào đó, việc phát hiện 3 chiếc bát thuỷ tinh ( niên đại giữa thời Tây Hán, năm 111 -32 tr. CN) tại Hoành Chi Cương, Quảng Châu năm 1954 hay chuỗi hạt phức hợp pha lê (crystal) – mă năo – thuỷ tinh ( niên đại cuối thời Tây Hán, 32 tr. CN – 25) ở Du Ngư Cương, Quảng Châu năm 1953 đều là những phát hiện khảo cổ học vô cùng quan trọng (ảnh 5, 6). Qua phân tích đối chiếu, những hiện vật này là những sản phẩm đặc trưng của La Mă và khu vực nam Địa Trung Hải[11]. Bên cạnh đó, việc phát hiện chiếc ṿng tay hạt xoàn vàng có niên đại Tây Hán trong mộ số 1 di chỉ Diêm Đôi, Tháp Giang, huyện Hợp Phố năm 1978 cũng là một phát hiện khảo cổ học quan trọng minh chứng cho hoạt động buôn bán đường biển thời Hán. Chiếc ṿng có trọng lượng 27,7 gram với 7 hạt xoàn bằng vàng (ảnh 7). Theo đánh giá của giám đốc Bảo tàng lịch sử  Trung Quốc, ông Du Vĩ Siêu, chuỗi hạt này hoàn toàn mang phong cách Ấn Độ và là hàng nhập khẩu từ Ấn Độ[12].

 

 Đặc biệt, các nhà khảo cổ Trung Quốc đă phát hiện được công cụ in hoa nhuộm màu ( niên đại đầu thời Tây Hán, 206 – 111tr.CN) trong di chỉ mộ Nam Việt Vương ở Quảng Châu năm 1983 (ảnh 8). Bộ dụng cụ này gồm một mảnh to ( dài 5,7 cm, chỗ rộng nhất 4,1cm) và một mảnh nhỏ ( dài 3,4cm, chỗ rộng nhất 1,8cm), mặt trước có đồ án hoa văn h́nh ngọn lửa khắc lồi, mặt sau để trơn. Hiện vật này chứng minh cho kỹ thuật dệt, in hoa và nhuộm vải buổi ban đầu của người Trung Quốc[13].

 

 Tóm lại, những ghi chép trong thư tịch cổ, kết hợp với nhiều hiện vật thu được từ các cuộc khai quật khảo cổ học, đă khẳng định sự h́nh thành và hoạt động của con đường tơ lụa trên biển thời Hán. Tuyến đường này xuất phát từ cảng Từ Văn, Hợp Phố ( bán đảo Lôi Châu) qua vịnh Bắc Bộ, men theo bờ biển Việt Nam qua vịnh Thái Lan xuống vùng tây – nam Malaysia, đi qua eo Malaca ṿng lên phía bờ biển nam Thái Lan, qua Miến Điện vào vịnh Ben-gal rồi xuôi xuống vùng nam Ấn Độ và dừng lại trên đảo Xrilanca.

 

Việc khai thông con đường tơ lụa trên biển đă phản ánh sự phát triển của sức sản xuất xă hội, kỹ thuật hàng hải và thương mại đường biển của Trung Quốc trong thời Hán. Tuy giai đoạn đầu, hoạt động thương mại trên tuyến đường biển chưa rơ nét, chủ yếu là “mậu dịch triều cống”, nhưng thông qua tuyến đường này Trung Quốc bước đầu mở rộng giao lưu kinh tế – văn hoá với các nước Đông Nam Á, Nam Á và tới tận châu Âu, tạo tiền đề cho việc phát hiện quan hệ thương mại với các nước này trong giai đoạn sau. Con đường tơ lụa trên biển thời Hán thực tế đă phát triển thành “ con đường sứ giả”, “ con đường hữu nghị’ với nội hàm ngày càng phong phú, đóng vai tṛ vô cùng quan trọng trong sự giao lưu văn hoá Trung Quốc và phương Tây thời cổ đại.

 

* NCV Viện nghiên cứu Trung Quốc

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Bảo tàng Quảng Đông : Tuyển tập ảnh hiện vật từ con đường tơ lụa trên biển; Nxb Quảng Đông, 1991.

Đặng Tân Dụ: Con đường tơ lụa và tác dụng của nó trong giao lưu văn hoá Trung Quốc – phương Tây; Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/1998, trang 40 (Đào Duy Đạt dịch).

Trần Viêm : Con đường tơ lụa trên biển và sự giao lưu văn hoá của Trung Quốc với bên ngoài; Nxb Đại học Bắc Kinh, 2002.

 Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc; Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1994.

Hán thư – Địa Lư chí: phần Việt địa; Hb 333, Thư viện Khảo cổ học, Viện KHXH Việt Nam.

Hậu Hán Thư – Đại Tần truyện : Phần An Tức; Hv 333, Thư Viện Khảo cổ học, Viện KHXH Việt Nam.

Từ Hải; Nxb Thượng Hải Từ thư; Thượng Hải; 1999.

Từ điển Anh – Hán về nhân vật – địa danh – sự kiện; Nxb Nghiên cứu và giảng dạy ngoại ngữ; Bắc Kinh; 1996.

Kỷ yếu hội thảo nghiên  cứu lư luận về các cảng khởi phát của Con đường tơ lụa trên biển tại Hợp Phố – Bắc Hải – Trung Quốc; Nxb Khoa học; Bắc Kinh; 2006.

The Maritime Silk Road of Han Dynasty:

 

The earliest sea – trade of China

 

Qin and Han dynasties are the two periods of opening “ Sikl road” on the sea and developing the navigation to ocean going voyage. As records “ Han – Shu. Di – Li – Zhi”, the fleets headed by Yishi sent by thẻ government of Western Han Dynasty, followed the martime of the folk trade, and arrived in Malay Peninsula and Islands Southeast Asia as well as Southeast coats of India and Srilanka during the first century B.C. The Chinese silk became the most precious dress material in the Mediterranean World. The gold and silvervessels, precious stone and glazed vessels, ect. Were shipped to China from abroad through seaway.

 

A lot of archaeological discoveries proved that as in Western Han Dynasty, Quang Zhou had the imports by ship from Rome Empire and West Asia. This is the testimony of sea-trade between China and the West Countries.

 

Chú thích:

 

[1] Trần Viêm: Con đường tơ lụa trên biển và sự giao lưu văn hóa của Trung Quốc với bên ngoài, Nxb Đại học Bắc Kinh, 2002, tr.3

 

[2] Đặng Tân Dụ: Con đường tơ lụa và tác dụng của nó trong giao lưu văn hóa Trung Quốc – Phương Tây: Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/1989, tr.40 (bản dịch của Đào Duy Đạt).

 

[3]Kỷ yêú hội thảo nghiên cứu lư luận về các cảng khởi phát của Con đường tơ lụa trên biển tại Hợp Phố – Bắc Hải – Trung Quốc, Nxb Khoa học, Bắc Kinh, 2006 – tr22.

 

[4] Hán Thư – Địa lư chí: phần Việt địa, Hb 119/3, Thư viện Viện Khảo cổ học, Viện KHXH Việt Nam,

 

[5] Hậu Hán Thư – Đại Tần truyện: phần An Tức, Hv.333, Thư viện Viện Khảo cổ học, Viện KHXH Việt Nam,

 

[6] Trích Hậu Hán Thư: phầ Trung Tằng

 

[7] Trích Hậu Hán Thư – Đại Tần truyện: Phần An Tức

 

[8] Trích Hậu Hán Thư – Đại Tần truyện: Phần An Tức

 

[9] Tham khảo “Tuyển tập hiện vật từ con đường tơ lụa trên biển”, Nxb Quảng Đông Khoa Kỹ, 1991, tr.20

 

[10] Trích Hán Thư- Địa lư chí: Phần Việt địa

 

[12] Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu lư luận về các cảng khởi phát của Con đường tơ lụa trên biển tại Hợp Phố – Bắc Hải – Trung Quốc, Nxb Khoa học, Bắc Kinh, 2006, tr3.

 

[13] Tham khảo “Tuyển tập hiện vật ảnh từ con đường tơ lụa trên biển” ”, Nxb Quảng Đông Khoa Kỹ, 1991, tr. 27

 

Hào quang một thời Con đường Tơ lụa

 

 

 

 

Các nhà buôn Catalonia (có lẽ là buôn lụa) trên đường từ phương Đông trở về trên Con đường Tơ lụa, tranh vẽ khoảng thời gian 1350. H́nh ảnh từ tập bản đồ 'Catalan Atlas', 1375

Trong suốt hơn 1.600 năm, các thương gia, nhà buôn, các nhà sư và binh lính, những người đă tới Tây An, kinh đô cổ của Trung Quốc để chiêm ngưỡng vẻ lộng lẫy của nơi này, đều đi trên Con đường Tơ lụa.

Những h́nh ảnh đầy quyến rũ các thương gia đi trên xe lạc đà kéo, những khách hành hương dũng cảm đương đầu với đám lục lâm thảo khấu, những phiên chợ miền Viễn Đông bày bán đầy những món đồ quư báu ngoài sức tưởng tượng: chỉ riêng việc nhắc tới Con đường Tơ lụa với bất kỳ kẻ phiêu lưu nào thời Trung cổ cũng khiến kẻ đó phải mắt tṛn mắt dẹt kinh ngạc, thán phục.

Tuyến đường giao thương xuyên lục địa này là hành lang chính giữa phương Đông và phương Tây trong nhiều thế kỷ, khởi đầu và kết thúc đều ở kinh đô Tây An (tức Trường An).

 

Con đường được đặt tên từ theo mặt hàng được buôn bán nhộn nhịp trên suốt chiều dài hành tŕnh là lụa Trung Quốc. Những người đầu tiên mở đường vào năm 206 trước Công nguyên.

Việc đi lại được mở rộng đáng kể vào năm 114 trước Công nguyên, và những mối giao thiệp diễn ra trên tuyến đường đă trở thành một yếu tố quan trọng trong việc phát triển các nền văn minh Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư, châu Âu và Ả-rập.

Việc buôn bán hàng hóa đă tạo giao thoa chính trị, kinh tế từ xa giữa các quốc gia. Lụa đương nhiên là mặt hàng buôn bán chính của Trung Quốc, nhưng nhiều thứ khác quan trọng không kém cũng được trao đổi, gồm cả tôn giáo, triết học và nhiều loại công nghệ khác nhau.

Bởi Tây An là nơi khởi đầu và cũng là điểm cuối của tuyến đường, các hoàng đế triều đại nhà Đường đă chọn đây làm nơi đóng đô, từ đó cai quản giang sơn dựa vào vị trí đắc địa và cơ hội biết đến và có được ngay các mặt hàng xa xỉ, được trao tay đổi chủ hàng ngày.

 

Di sản văn hóa

 

Con đường Tơ lụa nguyên sơ mà chúng ta biết tới được bắt đầu h́nh thành từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên.

 

 

Các loại gia vị được bày bán tại một khu chợ ở Tây An, Trung Quốc

 

Một vị tướng tên là Trương Khiên được Hán Vũ Đế của triều nhà Hán cử đi Tây Vực nhằm đặt mối bang giao với Nguyệt Chi (tức người dân các nước vùng Trung Á cổ đại), một bộ lạc du mục.

Vị hoàng đế nhà Hán e ngại rằng người Hung Nô, vốn từng định xâm chiếm tỉnh Cam Túc của nhà Hán, có thể đưa quân tới đánh. Người Nguyệt Chi khi đó là kẻ thù của Hung Nô, cho nên hoàng đế muốn liên kết với tộc người này để cùng đánh bại mối họa chung. Thật không may, Trương Khiên đă bị Hung Nô bắt trên đường đi và bị giam cầm trong suốt 10 năm. Trong thời gian này, vị tướng đă lấy một người vợ thuộc bộ tộc du mục và có một con trai.

Tuy nhiên, ông vẫn nung nấu ư định hoàn thành bằng được sứ mệnh, và cuối cùng ông đă trốn thoát, tiếp tục tây du.

Khi ông rốt cuộc tới nơi, vào năm 128 trước Công nguyên, ông kinh ngạc phát hiện ra là người Nguyệt Chi sống yên b́nh và không bận tâm tới chuyện báo thù người Hung Nô nữa.

Quay trở về, Trương Khiên tâu với hoàng đế về những ǵ ông chứng kiến tại Tây phương và làm hài ḷng đấng đế vương với những câu chuyện kể chi tiết về các vương quốc chưa từng nghe tiếng, khiến hoàng đế muốn có thêm các chuyến đi khám phá như thế nữa.

Mỗi lần cho người đi là một lần trở về với thêm những mặt hàng xa xỉ của phương Tây, từ lông thú, nước hoa cho tới thậm chí cả những con ngựa. Đồng thời, nhu cầu đối với các sản phẩm quư của phương Đông, chủ yếu là lụa, cũng tăng nhanh chóng, dẫn tới việc trao đổi sứ thần cùng các mối quan hệ kinh tế giữa phương Đông và phương Tây.

 

Con đường Tơ lụa trở nên thịnh vượng trong thời nhà Đường. Các mặt hàng như đá quư, quần áo được may tinh tế, và các món gia vị, được mua bán trao đổi hàng ngày. Vào thời cực thịnh, tuyến đường trải dài tới 4.000km, ra tới tận Địa Trung Hải và hấp dẫn các nhà thám hiểm nổi tiếng như Alexander Đại đế và Marco Polo.

 

Con đường Tơ lụa duy tŕ vị thế trong suốt hơn một ngàn năm trăm năm, nhưng bắt đầu suy tàn từ thế kỷ thứ 15, khi đế chế Ottoman thống trị tại Constantinople. Các sultan vương triều Ottoman thời đó mắng nhiếc người phương Tây về các cuộc thánh chiến liên miên, và trả đũa bằng cách cấm việc giao thương với châu Âu.

 

Sách cổ châu Âu về Con đường Tơ lụa nối châu Âu với Phương Đông

 

Vào cuối thời nhà Minh, Trung Quốc một lần nữa lại bế quan tỏa cảng, dẫn tới việc chấm dứt hàng trăm năm trao đổi văn hóa và tôn giáo giữa phương Đông và phương Tây.

 

Món tài sản quư giá của thế giới

Dẫu đă không c̣n được dùng làm tuyến đường chính thức trong hàng thế kỷ qua, nhưng tầm quan trọng lịch sử của Con đường Tơ lụa vẫn c̣n đó, và Trung Quốc từ hàng chục năm nay đă vận động để đạt được sự công nhận quốc tế.

Kể từ 1988, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn Hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đă bắt đầu t́m hiểu về vai tṛ của tuyến giao thương này trong việc quảng bá sự đa dạng văn hóa trên khắp vùng Á-Âu ở bắc bán cầu.

Do con đường chạy qua quá nhiều quốc gia, quá nhiều điểm đáng ghi nhớ, nên tiến tŕnh t́m hiểu để nó được công nhận là Điểm Di sản Thế giới của UNESO mất rất nhiều thời gian.

 

Lúc ban đầu, hồi 2008, Trung Quốc xác định 48 địa điểm dọc theo Con đường Tơ lụa có thể có tầm quan trọng. Nhưng tới 2011, UNESCO đề xuất rằng do quy mô quá lớn của Con đường Tơ lụa, hồ sơ xét duyệt cần phải được chia ra thành từng đoạn hành lang. Một hồ sơ chung của Trung Quốc, Kazakhstan và Kyrgyzstan nêu đoạn bao quanh từ miền trung Trung Quốc tới rặng núi Thiên Sơn đă được đệ tŕnh và được ủy ban của UNESCO phê chuẩn hồi tháng Sáu 2014.

Trong số các điểm được đưa vào quy chế bảo vệ này có một số điểm nổi tiếng nhất của Tây An, như Tháp Đại Nhạn, Đại Minh Cung và Hưng Giáo Tự.

Một số các địa điểm hấp dẫn, đáng chú ư khác có lăng mộ Trương Khiên, nhà tiên phong đă đặt nền móng ban đầu mở ra Con đường Tơ lụa, và Đền Động ở Bân huyện - một đền thờ Phật giáo được trang trí lộng lẫy, kỳ diệu nằm giữa cảnh quan Trung Hoa. Ngay cả một số đoạn của Vạn lư Trường thành cũng được gộp vào đoạn hành lang đặc biệt này.

Việc được ghi nhận là Di sản Thế giới của UNESCO khiến cho Con đường Tơ lụa thậm chí đến ngày nay vẫn nối Trung Quốc với phần c̣n lại của thế giới. Nó vẫn là một mạch máu chứa đầy sự phong phú văn hóa, dẫn ta quay trở về với vẻ đẹp Tây An nằm giữa trung tâm của tỉnh Sơn Tây.

 

Huyền thoại về "con đường tơ lụa" nổi tiếng trong lịch sử

 

 

Hiểu hơn về con đường mang theo nhiều điều vĩ đại và chứa đầy sự thú vị mà con người thời xưa đă tạo ra...

Con đường tơ lụa (The Silk Road) là một tuyến đường thông thương quan trọng của nhân loại trong suốt một thời gian dài lịch sử. Nhờ có con đường tơ lụa, những vùng đất, nền văn hóa mới được t́m ra và là động lực cho sự phát triển của cả châu Á, châu Âu trên nhiều lĩnh vực.

Từ một con đường vĩ đại...

Con đường tơ lụa bắt đầu được h́nh thành từ thế kỷ thứ 2TCN, khi ấy Trương Kiên - một triều thần của Hán Vũ Đế đă nhận lệnh đi về phía Tây để liên minh với những quốc gia và dân tộc mới.

 

 

Con đường tơ lụa trải dài từ Á qua Âu được mô phỏng thời xưa

Cuộc hành tŕnh của Trương Khiên không mang lại thêm mối quan hệ nào mới cho nhà Hán nhưng giúp ông có thêm nhiều kiến thức về nền văn hóa phương Tây, tuyến đường mới và đặt nền móng cho con đường tơ lụa.

Trong lịch sử, người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc... đến Ba Tư và La Mă đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng t́m đường đến với Trung Hoa.

Từ đây, con đường tơ lụa phát triển với tốc độ chóng mặt, bắt nguồn từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh của Trung Quốc qua Mông Cổ, Ấn Độ, Kazkhstan, Thổ Nhĩ Ḱ, Hy Lạp…

Từ thế kỷ thứ VII, con đường tơ lụa trên biển ra đời bởi các thương gia Ả Rập. Sau đó, các quốc gia như Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến Trung Quốc buôn bán qua đường biển với tốc độ nhanh, an toàn hơn.

 

... những món hàng giá trị và kỳ lạ...

Gọi là con đường tơ lụa v́ mặt hàng buôn bán chính và đầu tiên trên con đường huyền thoại chính là tơ lụa. Vào thế kỷ thứ 3 TCN, Trung Quốc đă t́m ra cách trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa sớm nhất trên thế giới.

Tuy nhiên, tơ lụa thời đó chỉ dành riêng cho vua chúa và hàng quư tộc ở Trung Quốc. Kể từ khi có con đường tơ lụa, các thương gia Trung Quốc quyết định đem sản phẩm này tới phương Tây.

 

Lụa một thời được coi là tiền tệ trên con đường này

Những bậc đế vương hay nhà quư tộc của La Mă rất thích lụa Trung Hoa. Họ mong muốn sở hữu thứ hàng này đến mức sẵn sàng đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương.

Nhận thấy lợi nhuận khổng lồ từ thị trường mới, các thương gia Trung Quốc tăng cường vận chuyển hàng hóa tới La Mă, Ai Cập. Đồng thời, người dân phương Tây cũng lên đường tới Trung Quốc để buôn bán và truyền bá tôn giáo.

 

Nô lệ cũng là một món hàng phổ biến trên con đường tơ lụa

 

Sau một thời gian, số lượng hàng hóa trên con đường tơ lụa ngày một đa dạng: từ đá quư, các loại gia vị, khoáng sản, thuốc… hay cả các loài động vật. Ngược lại, ngựa Ba Tư cũng trở thành món hàng giá trị và đắt đỏ mà các lái buôn thời bấy giờ trao đổi trên con đường tơ lụa.

Không chỉ các loài động vật, nô lệ cũng bị buôn bán dọc theo con đường tơ lụa. Họ hầu hết là những người dân thường vô tội bị bắt trong các cuộc chiến tranh, tội phạm hay nợ một món tiền lớn mà không thể trả.

... đến động lực phát triển các nền văn minh nhân loại

Không chỉ có ư nghĩa về mặt giao thương, con đường tơ lụa c̣n tạo nên động lực để thúc đẩy khoa học phát triển trong thời kỳ này. Những cuộc buôn bán, thám hiểm giúp con người có cái nh́n mới về tự nhiên, địa lư, chính trị.

Thông qua con đường này, văn hóa các nước cùng nhiều tôn giáo được giao thoa khắp nơi. Ở các thành phố lớn trên con đường tơ lụa như Samarkand, ngoài kinh tế th́ tôn giáo cũng là vấn đề rất đáng tự hào.

 

 

 

Rất nhiều nhà thờ, giáo đường Kitô giáo, Do Thái giáo, hay chùa chiền đều được dựng lên ở khắp nơi. Mọi tôn giáo đều được chấp nhận và tôn trọng trên con đường tơ lụa. Chính quan điểm thể hiện sự tiến bộ, tạo tiền đề cho các nền văn minh phát triển.

Con đường tơ lụa cũng là nơi để nhiều nhà thám hiểu viết nên tên tuổi của ḿnh, điển h́nh nhất là Marco Polo (1254 - 1324). Ông là một người Ư, sống vào thế kỷ XIV và đă sử dụng con đường tơ lụa để khám phá nhiều vùng đất mới ở Trung Quốc. Marco thậm chí c̣n được vua Hốt Tất Liệt phong một chức quan. Khi trở về lại châu Âu, ông đem theo nhiều kiến thức cùng sản vật Trung Hoa.

 

Chân dung nhà thám hiểm Marco Polo

Tương truyền rằng, món ḿ Ư chính là ḿ của Trung Hoa được Marco Polo đem về Ư qua con đường tơ lụa. Sau này ông viết lại cuộc hành tŕnh thú vị của ḿnh trong cuốn sách "Marco Polo du kư" và trở thành một nhà thám hiểm vĩ đại của toàn nhân loại.

Sự suy tàn của con đường vĩ đại

Các cuộc chiến tranh liên miên cùng nạn đạo tặc, cướp phá khiến cho những đoàn người buôn bán luôn gặp nguy hiểm, con đường tơ lụa vĩ đại dần suy thoái.

Tuy nhiên sau khi đế quốc Nguyên Mông mở rộng bờ cơi ra khắp châu Á và châu Âu, công việc buôn bán nơi đây thịnh vượng trở lại. Nhưng chính con đường này vô t́nh lại phát tán dịch bệnh “Cái chết đen” ra khắp châu Âu và Trung Á trong năm 1348 - 1350. Căn bệnh này giết hại gần 60% dân số của châu Âu và tác động không nhỏ tới hoạt động của con đường tơ lụa.

 

Thành phố cổ heo hút người Samarkand

 

Cuối cùng con đường tơ lụa vĩ đại cũng tan ră vào thập niên 1400 bằng hàng loạt sự kiện đáng buồn. Tại Trung Quốc, nhà Minh lên nắm quyền đă khống chế con đường tơ lụa. Việc bắt nộp thuế cao đă khiến nhiều thương gia phải t́m đến con đường vận chuyển khác.

Sự phát triển của đế chế Ottoman khiến cho tuyến đường nối phương Tây và phương Đông bị chặn đứng. Con đường tơ lụa từ đây ch́m vào dĩ văng và những hào quang của nó cũng tiêu tan để lại nhiều thành phố cổ heo hút.

 

 

 

 

Con Đường Tơ Lụa của thế kỷ 21: một trật tự mới của Trung Hoa

 

Bản đồ của các tuyến thương mại của Con Đường Tơ Lụa cổ xưa

Trần Trung Tín

 

Vào ngày 14 tháng 5, 2017 vừa qua, tại Bắc Kinh, đă có hai mươi chín vị nguyên thủ và đại diện của hơn 130 quốc gia tham dự hội nghị Belt and Road Forum for International Cooperation.

 

Diễn Đàn Ṿng Đai và Con Lộ (Belt and Road Forum) đặt trọng tâm quanh việc quảng bá và và thu hút sự tham gia việc xây dựng và phát triển Con Đường Tơ Lụa mới của Trung Hoa trong thế kỷ 21. Diễn Đàn này của Trung Hoa có thể được xem là một đối trọng với Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (World Economic Forum) của Tây phương, thường được biết đến qua các hội nghị thường niên được tổ chức tại Davos-Klosters, Switzerland.

 

Kể từ tháng Hai 2014, Bắc Kinh đă chính thức đề ra một trong những sáng kiến về phát triển kinh tế đầy tham vọng nhằm mục đích tái tạo Con Đường Tơ Lụa (Silk Road) đầy huyền thoại. C̣n được biết qua biệt danh Một Ṿng Đai, Một Con Lộ (One Belt, One Road), dự án này được tài trợ bởi nguồn tài chính giàu có lấy từ dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh.

 

Trở ngược về quá khứ hơn hai ngàn năm trước, triều đại nhà Hán của Trung Hoa đă phát động việc xây dựng Con Đường Tơ Lụa thành một mạng lưới thương mại liên kết Nam và Trung Á với Trung Đông và Châu Âu.

 

Ngày nay, ư tưởng về một Con Đường Tơ Lụa mới là một tập hợp liên kết các sáng kiến, hay kế hoạch kinh tế nhằm nối kết Đông và Trung Á, và ư tưởng này đă hinh thành ở Trung Hoa v́ những lư do hoàn toàn khác biệt.

 

Con Đường Tơ Lụa là ǵ?

 

Đầu tiên, Con Đường Tơ Lụa xuất hiện trong triều đại Nhà Hán (năm 206 trước Công nguyên – năm 220 sau Tây lịch) rồi dần dần bành truớng về phương Tây và đă tạo nên các hệ thống mạng lưới mậu dịch xuyên qua những nơi mà hiện nay là các quốc gia Trung Á như Kyrgyzstan, Tajikistan, Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan và Afghanistan, cũng như Pakistan và Ấn Độ ở phía nam. Mạng lưới này gồm những tuyến đường kéo dài hơn bốn ngàn dặm sang tận Âu Châu.

 

Vào thời đó, Trung Á là tâm điểm của một trong những đợt sóng đầu tiên trong việc toàn cầu hoá, nối kết các thị trường đông và tây, thúc đẩy sự giàu có to lớn và trộn lẫn các truyền thống văn hoá và tôn giáo. Hàng tơ lụa có giá trị của Trung Hoa, gia vị, ngọc bích, và các hàng hóa khác chuyển sang phương tây. Đổi lại, Trung Hoa nhận vàng và các sản phẩm khác bằng quư kim, ngà voi và thủy tinh. Hoạt động trên tuyến đường này đạt đến cao điểm trong thiên niên kỷ thứ nhất, dưới sự lănh đạo của người La Mă và sau đó là Byzantine Empires, và đời nhà Đường (618-907) ở Trung Hoa.

 

Nhưng các cuộc chiến tranh Thập tự giá (Crusades), cũng như những tiến bộ của Mông Cổ ở Trung Á, đă làm sút giảm sự mậu dịch trên Con Đường Tơ Lụa này. Sang thế kỷ thứ mười sáu, phần lớn thương mại của Á châu với Âu châu đă chuyển sang các tuyến mậu dịch bằng đường hàng hải, rẻ hơn và nhanh hơn.

 

Ngày nay, các nước Trung Á bị cô lập về mặt kinh tế, với mậu dịch trao đổi nội trong vùng chỉ chiếm 6.2% trong tổng số thương mại xuyên biên giới. Họ cũng phụ thuộc nặng nề vào Nga, đặc biệt là kiều hối (remittances) – giảm 15% vào năm 2014 do những bất lợi kinh tế của Nga.

 

Trung Hoa với những dự tính cho Con Đường Tơ Lụa Mới

 

 Có nhiều lư do để Trung Hoa theo đuổi Con Đường Tơ Lụa Mới. Tập Cận B́nh đă đề ra một tầm nh́n về một Trung Hoa quyết đoán hơn, nhất là khi đă thấy có những chỉ dấu bất thường của việc làm chậm lại sự tăng trưởng kinh tế.  Những dấu hiệu đó đă gây áp lực lên giới lănh đạo của Trung Hoa và đưa đến việc Trung Hoa phải mở ra một thị trường mới cho mặt hàng tiêu dùng và đáp ứng được với năng lực kỹ nghệ vượt bực.

 

Thúc đẩy việc phát triển kinh tế ở vùng phía tây của tỉnh Tân Cương, tại khu vực đang có những vấn đề rắc rối về chủ quyền sắc tộc, và là một nơi mà bạo động từ thành phần ly khai đang gia tăng cũng là một mối quan tâm lớn lao khác, cũng quan trọng như là bảo đảm sự cung cấp năng lượng lâu dài.

 

Chiến lược của Trung Hoa được tạo ra nhắm vào hai mục tiêu.  Thứ nhất, tập trung vào việc phát triển hạ tầng cơ sở trên đất liền xuyên qua Trung Á, được xem là “Con Đường Tơ Lụa Trong Ṿng Đai Kinh Tế” (Silk Road Economic Belt). Thứ hai dự kiến mở rộng các tuyến chuyên chở hàng hải xuyên qua Ấn Độ Dương và Vịnh Ba Tư và được xem là “Con Đường Hàng Hải Tơ Lụa” (Maritime Silk Road).

 

Ngay từ năm 2013, họ Tập đă nói với thính giả ở Kazakhstan rằng ông ta muốn tạo ra một mạng lưới rộng lớn gồm có đường xe lửa, đường ống dẫn năng lượng, xa lộ cao tốc, và các cửa ải thông thương dễ dàng tại biên giới, cả phía tây – xuyên qua các nước cộng ḥa miền núi trước đây thuộc Liên Xô – và phía nam, về phía Pakistan, Ấn Độ và phần c̣n lại của Đông Nam Á. 

 

Theo ông Tập, một mạng lưới như vậy sẽ giúp thế giới sử dụng đồng tiền Trung Hoa ở một quy mô rộng lớn hơn,  qua các giao dịch trong toàn khu vực, trong khi hạ tầng cơ sở tân lập có thể “phá vỡ sự tắc nghẹn nơi cổ họng trong sự nối kết của Á châu.”

 

Ngân hàng Phát triển Á châu, nổi bật với nhu cầu dành cho các khoản đầu tư như vậy, ước tính rằng khu vực này hàng năm phải đối diện với t́nh trạng thiếu hụt tài chính cho hạ tầng cơ sở đến gần khoảng 800 tỉ Mỹ kim.

 

Rồi tiếp theo sau đó Tập Cận B́nh đă công bố kế hoạch cho Con Đường Hàng Hải Tơ Lụa tại hội nghị thượng đỉnh vào năm 2013 của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tại Nam Dương. Để đáp ứng với việc mở rộng thêm lưu lượng hàng hải thương mại, Trung Hoa sẽ đầu tư vào việc phát triển hải cảng trên khắp Ấn Độ Dương, Bangladesh, Sri Lanka, Maldives và Pakistan.

 

Các sáng kiến/kế hoạch (initiatives) của Trung Hoa trong khu vực

 

Tại hội nghị vừa qua, Bắc Kinh hứa sẽ giúp hàng chục tỉ đô la cho các khoản tài trợ cho hạ tầng cơ sở và viện trợ phát triển, và tŕnh ra sự ủng hộ từ hàng chục nước khác để khuyến khích việc hội nhập kinh tế và tự do mậu dịch toàn cầu thông qua việc tạo ra cái mà Bắc Kinh gọi là “Con Đường Tơ Lụa Mới” (new Silk Road).

 

Tập Cận B́nh đă công bố hơn 100 tỉ đô la trong việc tài trợ hạ tầng cơ sở cho dự án – một số thông qua Quỹ Con Đường Tơ Lụa (a Silk Road Fund), một số thông qua các ngân hàng của Trung Hoa như Ngân hàng Xuất nhập cảng Trung Hoa và Ngân hàng Phát triển Trung Hoa.

 

Kế hoạch này, trên mặt lư thuyết, sẽ tạo dựng ra một mạng lưới các tuyến giao thương mậu dịch, đường xe lửa, hải cảng và đường cao tốc, liên kết các quốc gia trên bốn lục địa. Trung Hoa gọi đó là “kế hoạch của thế kỷ.”

 

Cho đến nay, có gần 70 quốc gia đă kư kết các thỏa thuận với Trung Hoa để tham gia vào kế hoạch Con Đường Tơ Lụa Mới này. Và nhiều nước láng giềng Châu Á của Trung Hoa rất cần sự đầu tư vào hạ tầng cơ sở và viện trợ phát triển.

 

Mặc dù các chi tiết như về vấn đề tài trợ vẫn c̣n mông lung, nhưng từ khi Chủ tịch Tập Cận B́nh tuyên bố vào năm 2013, Trung Hoa đă nâng cao kế hoạch này lên tầm cỡ của một chiến lược quốc gia. Đây cũng c̣n là sáng kiến của họ Tập trong chính sách ngoại giao và Bắc Kinh đă tiến hành hàng chục dự án từ đường xe lửa ở Tajikistan, Thái Lan và Kenya cho đến các nhà máy điện ở Việt Nam và Kyrgyzstan.

 

Cũng trong bài diễn văn khai mạc hội nghị năm 2017, Tập Cận B́nh đă mô tả  Con Đường Tơ Lụa nối kết Âu Châu và Á Châu khoảng hai ngàn năm trước và đă đưa ra h́nh ảnh của đoàn lữ hành lạc đà chuyên chở hàng hoá và ư tưởng qua lại giữa các đế quốc cổ xưa.

 

Ông ta nói, “Phần này của lịch sử cho thấy văn minh sẽ được thăng hoa qua sự cởi mở và các quốc gia trở nên thịnh vượng nhờ bởi sự trao đổi.”

 

Nhằm cố gắng xua tan những nghi ngờ về những thâm ư chính trị lâu dài của Trung Hoa, ông Tập Cận B́nh đă phát biểu trong hội nghị: “Chúng tôi không có ư định can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, xuất cảng hệ thống xă hội và mô h́nh phát triển của chúng tôi hoặc áp đặt ư chí của chúng tôi lên những người khác”.

 

Ông nói thêm: “Chúng tôi sẽ không vận dụng những phương cách đă lạc hậu trong địa lư chính trị.”

 

Những tuyến đường do Trung Hoa đề nghị trên Con Đường Tơ Lụa Mới

 

 

Theo một số nhà quan sát, th́ tính cho đến nay, chiến lược này có vẻ hoạt động được nhất là với sự thay đổi tổng thống tại Philippines và việc Hoa Kỳ rút ra khỏi Hiệp Ước TPP (Trans-Pacific Partnership Agreement).

 

Một phần quan trọng của sáng kiến Ṿng Đai và Con Lộ (Belt and Road) là xây dựng những đường ống năng lượng trực tiếp tới các tỉnh phía Tây của Trung Hoa xuyên qua Miến Điện (Myanmar) và Pakistan, bỏ qua một tụ điểm có tiềm năng dễ bị tắc nghẽn ngay tại eo biển Malacca.

 

Nhiều nhà lănh đạo đă lên tiếng ủng hộ ư tưởng của Trung Hoa cho rằng sự phát triển sẽ giúp giảm bớt các vấn đề an ninh, bao gồm cả khủng bố.

 

Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan nói với Diễn đàn Bắc Kinh: “Đây sẽ là một sáng kiến chấm dứt được khủng bố.”

 

Kết thúc hội nghị, các quốc gia đă kư một thông báo tán thành “một cam kết chung để xây dựng một nền kinh tế mở rộng bảo đảm mậu dịch tự do và toàn diện (inclusive trade) và chống lại mọi h́nh thức bảo vệ thị trường.”

 

Ngoài ra cũng nên lưu ư là tính từ năm 2013, sau khi khởi động sáng kiến Một Ṿng Đai, Một Con Lộ nhằm để xây dựng một Con Đường Tơ Lụa mới – với tham vọng sẽ do Trung Hoa nắm quyền điều khiển, th́ Trung Hoa cũng khá bận rộn trong việc thực hiện kế sách này.

 

Năm 2014, Tập Cận B́nh đă kết thúc các thỏa thuận trị giá 30 tỉ Mỹ kim với Kazakhstan, 15 tỉ Mỹ kim với Uzbekistan, và 3 tỉ Mỹ kim với Kyrgyzstan, ngoài ra c̣n chi thêm 1.4 tỉ Mỹ kim để tân trang hải cảng Colombo, Sri Lanka. Đến tháng 11 năm 2014, Trung Hoa tuyên bố thành lập Quỹ Con Đường Tơ lụa (Silk Road Fund) trị giá 40 tỉ Mỹ kim.

 

Năm 2015, Trung Hoa đă hoàn tất kế hoạch cho Ngân hàng Đầu tư Hạ Tầng Cơ sở Châu Á (Asian Infrastructure Investment Bank – AIIB), với số vốn ban đầu được nhắm tới là 100 tỉ Mỹ kim. Mặc dù có sự phản đối từ Hoa Kỳ, ngân hàng đầu tư AIIB đă lôi cuốn được năm mươi bảy thành viên sáng lập, gồm cả các đồng minh của Hoa Kỳ như Anh, Đức và Úc.

 

Phản ứng tiêu cực của Mỹ đối với ngân hàng đầu tư AIIB phản ảnh mức độ lo ngại của một số nhà hoạch định chính sách Mỹ về những nỗ lực của Trung Hoa sẽ làm xói ṃn các định chế Tây phương như Ngân hàng Thế giới (World Bank) và mở rộng ảnh hưởng của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) do Trung Hoa lănh đạo, một hiệp ước kinh tế và an ninh khu vực.

 

Phản ứng của các quốc gia liên hệ

 

Những quốc gia như Pakistan và Afghanistan vui vẻ đón nhận sáng kiến này như là một cách để giúp họ thoát ra khỏi sự nghèo đói.  C̣n Ấn Độ, Nam Dương và các quốc gia khác th́ muốn được hưởng lợi từ sự đầu tư nhưng lại lo ngại nhiều về những tham vọng chiến lược của Trung Hoa.

 

Theo như Christine Tjhin, nhà nghiên cứu cấp cao của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế tại Jakarta, th́ các thành phần ưu tú trong chính giới tại Nam Dương đều mang một “nỗi sợ hăi của độc quyền lănh đạo trong khu vực” của Trung Hoa.

 

Moscow lo ngại Bắc Kinh đang làm suy yếu ảnh hưởng của Nga ở Trung Á bằng cách nối kết Uzbekistan và các nước khác đến gần với nền kinh tế năng động hơn của Trung Hoa.

 

Tổng thống Nga Vladimir Putin đă đáp ứng lại với kế sách Con Đường Tơ Lụa mới của Trung Hoa bằng cách đưa ra “Dự án Eurasia Vĩ đại” (“Great Eurasia Project”), với Bắc Kinh dẫn đầu về kinh tế và Moscow về chính trị và an ninh.

 

Theo một phúc tŕnh của Trung tâm Nghiên cứu Đông phương, một trung tâm suy tưởng (think tank) ở Warsaw cho biết: “Tầm nh́n này cho phép Kremlin duy tŕ sự hiện diện của họ về mặt sáng kiến chính trị trong khu vực các quốc gia láng giềng.

 

Tuy nhiên, cũng có quan tâm chính yếu khác là Trung Hoa đang cố gắng tạo ra một trật tự quốc tế mới với chính họ ở ngay trong vị trí lănh đạo.  Đặc biệt là các chính quyền từ Washington, Moscow sang đến New Delhi đều lo ngại Bắc Kinh đang ra sức xây dựng ảnh hưởng chính trị và sẽ xói ṃn ảnh hưởng của họ.

 

Kế sách Con Đường Tơ Lụa Mới của Trung Hoa lại càng được dịp phát triển khi Tổng Thống Donald Trump tập trung chú ư vào những vấn đề nội bộ trong nước, và hạ thấp ưu tiên của các vấn đề của nước ngoài.

 

Các giới chức Hoa Kỳ nói rằng Washington muốn hợp tác với Trung Hoa về hạ tầng cơ sở. Nhưng một số nhà phân tích chính trị của Hoa Kỳ thi lại nói rằng Bắc Kinh đang cố gắng tạo dựng ra một mạng lưới kinh tế và chính trị tập trung vào Trung Hoa và đẩy Hoa Kỳ ra khỏi khu vực.

 

Ông Max Baucus, đại sứ của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh cho đến tháng Một, 2017, cho biết quyết định của ông Trump rút lui khỏi đề nghị Đối tác xuyên Thái B́nh Dương với 12 quốc gia đă làm cho các quốc gia láng giềng của Trung Hoa mất đi các công cụ mà họ hy vọng sẽ dùng để chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Hoa.

 

Nhưng một trong những điểm nổi bật nhất trong thời gian hội họp này tại Bắc Kinh là Ấn Độ. Là một quốc gia láng giềng có kích thước lớn ngay bên cạnh Trung Hoa, Ấn Độ đă tẩy chay cuộc họp tại Bắc Kinh v́ hành lang kinh tế và năng lượng của Trung Hoa tại Pakistan cắt ngang qua các phần của Kashmir, một khu vực trong vùng Himalya, mà cả Ấn Độ và Pakistan đều tuyên bố có chủ quyền. 

 

Các nhà lănh đạo Ấn Độ nh́n vào việc các công ty của chính quyền Trung Hoa đang làm việc tại phần do Pakistan kiểm soát trong khu vực đó là một sự công nhận sự kiểm soát của Pakistan.

 

Về mặt Trung Hoa, họ khẳng định rằng họ không theo phe nào hết trong cuộc tranh chấp.

 

Có thể là nhằm để nỗ lực xoa dịu những quan ngại này, Trung Hoa đă mời các chính phủ đến tham dự phiên hop taị một diễn đàn kéo dài hai ngày. Các nhà lănh đạo đến từ 28 quốc gia khác bao gồm Tổng thống Nga Vladimir Putin, nhưng không có qưốc gia nào đến từ các nước Tây phương lớn mạnh.

 

Viễn kiến của Ấn Độ – Một quốc gia có tầm vóc trong khu vực

 

Kể từ khi nhậm chức vào năm 2014, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đă hăng say theo đuổi việc gây cảm t́nh với các nước láng giềng của Ấn Độ như Afghanistan, Bangladesh, Pakistan và Sri Lanka.

 

Trong khi đó, Modi đă tạo được mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ, kư kết hiệp ước U.S.-India Joint Strategic Vision for the Asia-Pacific and Indian Ocean Region (Tầm nh́n Chiến lược chung của Hoa Kỳ – Ấn Độ cho Khu vực Châu Á Thái B́nh Dương và Ấn Độ Dương) trong chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Barack Obama vào tháng 1 năm 2015. Đứng hàng thứ năm trong các nhà tặng giữ (donor) đóng góp vào việc tái thiết Afghanistan, Ấn Độ đă rất tích cực trong việc hỗ trợ những cố gắng do Hoa Kỳ dẫn đầu, đă chi ra hơn 2 tỉ Mỹ kim trong hơn thập kỷ qua. 

 

Tuy nhiên, các tranh chấp dai dẳng về lănh thổ đă làm việc kết hợp giữa Ấn Độ và các nước láng giềng trở nên càng phức tạp thêm. Vấn đề biên giới với Trung Hoa đă không được giải quyết kể từ khi hai quốc gia này có chiến tranh v́ tranh chấp về biên giới trong vùng Himalaya vào năm 1962. 

 

Quan hệ Ấn Độ-Pakistan đă bị căng thẳng kể từ khi độc lập năm 1947 và cho đến nay các rào cản mậu dịch vẫn tồn tại giữa hai nước, bởi thế việc hai quốc gia này có thể chung sức thực hiện các loại dự án chung là một điều rất đáng nghi ngờ.

 

Về phía đông của Ấn Độ, Thủ tướng Modi đă tái xúc tiến nỗ lực b́nh thường hóa biên giới của Ấn Độ với Bangladesh, một điều mà nếu diễn ra tốt đẹp có thể đưa Ấn Độ đứng vào vị trí của một cửa ngơ tiến vào Đông Nam Á. Vào tháng 5 năm 2015, khi  Quốc hội Ấn Độ thông qua Hiệp định Ranh giới Đất đai (Land Boundary Agreement) th́ Modi đă thực hiện được một bước đột phá lớn trong lĩnh vực này và sẽ giải quyết nhiều đều trong các vấn đề này.

 

Trong khi Trung Hoa đă bày tỏ sự dè dặt về tương quan ngoại giao càng ngày càng sâu đậm giữa Ấn Độ và Hoa Kỳ, th́ các nhà hoạch định chính sách ở New Delhi từ lâu đă cảm thấy bất ổn trước việc Trung Hoa dang tay đón nhận Pakistan. 

 

Tháng 4 năm 2015, Tập Cận B́nh đă tuyên bố kế hoạch đầu tư khổng lồ với 46 tỉ Mỹ kim dành cho hạ tầng cơ sở của năng lượng và vận tải của Pakistan. Những hạ tầng cơ sở này được biết đến qua tên gọi là Hành lang Kinh tế Trung Hoa-Pakistan (China-Pakistan Economic Corridor – CPEC) nhằm nối kết hải cảng Gwadar của Pakistan ở Ấn Độ Dương (hiện đang dưới sự quản trị của Trung Hoa) cho tới khu vực miền Tây của tỉnh Tân Cương của Trung Hoa. 

 

Sự lo ngại của Ấn Độ cũng đă gia tăng trước việc Trung Hoa đầu tư vào Sri Lanka, ở phía nam Ấn Độ, là một nơi mà Trung Hoa đă mở rộng hợp tác quân sự cũng như hợp tác kinh tế.  

 

Bản đồ Trung Hoa, Ấn Độ và Pakistan và những vùng có tranh chấp

 

 

Những trở ngại trong việc xây dựng Con Đường Tơ Lụa Mới

 

Tham vọng xây dựng Một Ṿng Đai, Một Con Lộ cho Con Đường Tơ Lụa mới của Trung Hoa cũng đă gặp phải sự chống đối hay khó khăn. 

 

Tại Miến Điện, đă có áp lực từ quần chúng làm ngưng lại việc xây dựng một tuyến đường xe lửa trị giá 20 tỉ Mỹ kim giữa thành phố Kyaukpyu của Miến Điện và Côn Minh của Trung Hoa v́ sự tức giận của người dân địa phương do việc họ không được hỏi ư kiến về dự án này. Tương tự, chính phủ mới được bầu lên tại Sri Lanka đang đem ra kiểm soát những thỏa thuận đầu tư của chính phủ trước đây đă kư với Trung Hoa – vốn bị che giấu trong ṿng bí mật.

 

Sang đến vùng Trung Á, việc tiến hành các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở tại đó sẽ phải đương đầu với những địa h́nh rất hiểm trở xuyên qua những đèo núi dốc, cũng như những mối đe dọa từ các thành phần vũ trang. Các cuộc tấn công của các phần tử ly khai ở các tỉnh Tân Cương của Trung Hoa và các tỉnh trong vùng Balochistan của Pakistan cũng như Taliban đang hồi phục ở Afghanistan là những lo lắng thường trực. 

 

Một thách thức to lớn hơn nữa chính là pháp luật tại các nơi này. T́nh h́nh an ninh là một khó khăn thách đố trong buổi ban đầu khi đang tạo dựng nền móng.   Nhưng sang đến giai đoạn kế tiếp là phát triển th́ các nhà đầu tư, các giám đốc điều hành của các công ty, hay thế lực tài chính của tư bản Mỹ sẽ phải t́m hiểu liệu có đầy đủ pháp luật để bảo đảm cho việc đầu tư của họ không? Nếu câu trả lời là không, th́ các nguồn lực đầu tư đó sẽ quay sang nơi khác

 

Cuối cùng, vẫn c̣n phải kể đến tham vọng của Nga trong khu vực “gần ngoại biên” của họ ở Trung Á sẽ đụng độ như thế nào với những nỗ lực của Hoa Kỳ và Trung Hoa. 

 

Với mối quan hệ Mỹ-Nga xuống thấp nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nga đă theo đuổi riêng các nỗ lực nhằm kết hợp lại khu vực của họ thông qua Liên minh Kinh tế Á-Âu (Eurasian Economic Union), nhằm thống nhất các nền kinh tế của Nga, Kazakhstan, Belarus và Armenia. 

 

Trung Hoa cũng đang gia tăng việc cạnh tranh với Nga – qua việc đang thay thế các mối quan hệ đầu tư và năng lượng của Nga tại Turkmenistan, Uzbekistan và Kazakhstan, và việc này có khả năng gây ra những căng thẳng lớn giữa Bắc Kinh và Moscow trong những năm sắp đến.

 

***

 

Trong một vị thế của một đại cường đang nhanh chóng vươn lên, Trung Hoa không c̣n một chọn lựa nào khác hơn là phải t́m được một chỗ đứng vững chăi cho riêng họ để có thể phân chia hay chiếm trọn lấy thiên hạ.  

 

Về mặt quân sự trên đất liền th́ quân số “biển người” của Trung Hoa không c̣n là một ưu thế tuyệt đối như thời Chiến tranh Triều Tiên 1950.   Nơi mặt biển, hải quân Trung Hoa chưa thể sánh vai được với hải quân của các cường quốc hải quân khác. C̣n không quân của Trung Hoa th́ cũng chưa tự chứng minh được họ là một lực lượng đáng ngại có thể đối đầu với Nga hay Mỹ.

 

V́ vậy, quay sang lănh vực kinh tế, sáng kiến Con Đường Tơ Lụa Mới của Chủ tịch Tập Cận B́nh xem ra có nhiều triển vọng sẽ giúp Trung Hoa đạt được tham vọng bá chủ hơn là theo đuổi bằng phương cách quân sự.  

 

Cuộc hội thảo quốc tế quan trọng tại Bắc Kinh do Diễn Đàn Ṿng Đai và Con Lộ (Belt And Road Forum) tổ chức với sự tham dự của 28 quốc gia, chắc chắn đă làm hài ḷng các nhà lănh đạo Trung Hoa trong ước mơ là họ đang tạo dựng một trật tự mới trên thế giới.

 

Tuy nhiên, đó chỉ là những gi thể hiện trên mặt lư thuyết. Nhưng khi bước sang đến thực hành,  một khi phải cạnh tranh lâu dài với nhiều đối thủ có tầm cỡ trên khắp thế giới về mặt kinh tế và tài chánh, thi chắc chắn Trung Hoa phải cần đến một “sức mạnh mềm,” phải sở hữu một khả năng quản trị hảo hạng, một khả năng tiên liệu suất sắc, cùng là một đội ngũ có đầu óc khai phóng với nhiều viễn kiến tuyệt diệu (như Facebook, Tesla) và sáng tạo vượt bực (như Apple, Google); và đó chỉ mới là một số đ̣i hỏi căn bản phải được đáp ứng thoả đáng nếu muốn vượt lên và đứng đầu trong lănh vực kỹ nghệ và kinh tế tài chánh.  

 

Kế sách Con Đường Tơ Lụa Mới của Tập Cận B́nh chỉ mới được chính thức thành h́nh từ 2014 v́ vậy cũng c̣n quá sớm để có thể xác định được giá trị thực sự của Con Đường Tơ Lụa của thế kỷ 21 này sẽ đưa Trung Hoa đi đến đâu. 

 

Chỉ có thời gian mới có thể xác định được trên Một Ṿng Đai, Một Con Lộ (One Belt, One Road), Con Đường Tơ Lụa Mới trong thế kỷ 21 này sẽ đưa Trung Hoa đến vị trí bá chủ thế giới hay sẽ lại chỉ là một giấc mơ cá chép hóa rồng của Tập Cận B́nh luôn bị ám ảnh bởi khát vọng muốn dựng lại triều đại của nhà Đại Hán xa xưa trong một bối cảnh mới của một thế giới tự do dân chủ.

 

 

 

Tài liệu tham khảo:

 

1. http://www.npr.org/sections/parallels/2017/05/16/528611924/for-chinas-new-silk-road-ambitious-goals-and-more-than-a-few-challenges

 

2. https://www.cfr.org/backgrounder/building-new-silk-road

 

3. http://www.heritage.org/asia/commentary/chinas-huge-one-belt-one-road-initiative-sweeping-central-asia

 

4. https://obamawhitehouse.archives.gov/the-press-office/2015/01/25/us-india-joint-strategic-vision-asia-pacific-and-indian-ocean-region

 

5. http://www.bangkokpost.com/news/world/1247550/chinas-silk-road-stirs-unease-over-its-strategic-goals

 

6. http://www.cnn.com/2017/05/13/asia/china-belt-and-road-forum-xi-putin-erdogan/

 

 

 

 


SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: