MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa
֎ Biệt kích trong gịng lịch sử
֎֎֎֎֎֎֎
֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn Học
֎ LƯU TRỮ BÀI VỞ THEO THÁNG/NĂM
֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008
֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009
֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009
֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009
֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010
֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010
֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010
֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011
֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011
֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011
֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012
֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014
֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015
֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016
֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016
֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016
֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017
֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017
֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017
֎ The Invisible Government Dan Moot
֎ The Invisible Government David Wise
֎ Giáo Hội La Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật
֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông
֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?
֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh
֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận
֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu Lụt Miền Trung
v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank
v Federal Register vCongr Record v CBO
v US Government vCongressional Record
v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project
v JudicialWatch vReuter vAP v World Tribune
v RealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost
v MediaMattersvSourceIntelvNewsupvIntelnews
v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation
v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner
v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact
v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes
v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran
v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite
v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy
v Observe v American Progress vFair vCity
v Guardian v Political Insider v Law v Media
v Ramussen Report v Wikileaks v Federalist
v The Online Books Page v Breibart Interceipt
v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic
v National Public Radio v ForeignTrade v Slate
v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN
v Federation of American Scientist v Millenium
v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media
v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty
v Science&Technology vACLU Ten v Gateway
v Open Culture v Syndicate v Capital Research
v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông
v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia
v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN
v Ca Dao v Học Viện Công Dân v Danh Ngôn
v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử
v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm
v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu
v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic
v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng
v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn
v Việt Thức v Việt List v Việt Mỹ v Xây Dựng
v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta v Eurasia
v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ
v Người Việt Seatle v Cali Today v
v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân
v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv
v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương
v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong
v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới
v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm
v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh
Ai là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ?
(1) "Quốc ngữ" có nghĩa là ngôn ngữ của một quốc gia, nhưng v́ lúc mới h́nh thành loại chữ viết này được gọi là chữ quốc ngữ, dùng riết rồi quen cho nên chúng tôi xin viết hoa như tên của một loại chữ viết. (2) Có vài học giả cho rằng trước khi dùng chữ Hán, nước ta đă có một loại chữ "quốc ngữ" mà sau này bị chữ Hán bức tử. Giả thuyết này cho rằng những h́nh khắc trên trống đồng Ngọc Lũ là chữ của nước ta vào thời Âu Lạc, Hùng Vương. (3) Thanh Lăng, "Những chặng đường của chữ Việt quốc ngữ", Tạp Chí Đại Học số, tháng 2/1961 - Kỷ niệm giáo sĩ Đắc Lộ.
2. Một số nét t́m dược về chữ quốc ngữ ở trang khác
a. tài lieu 1. Trương Vĩnh Kí là chỉ bút Gia Định báo (1865–1897) – tờ báo dùng chữ quốc ngữ sớm nhất ở Việt Nam. Ông cũng mở trường dạy chữ quốc ngữ. Các ông Trương Vĩnh Kí, Húnh Tịnh Paulus Của là những người đầu tiên dùng chữ quốc ngữ để truyền bá học thuật và tư tưởng Âu-Tây, soạn Từ điển Việt–Pháp và Từ điển Pháp–Việt để người Việt học tiếp Pháp và người Pháp học tiếng Việt.
b. Tài liệu 2 Chữ Quốc ngữ, dùng mẫu tự La Tinh ghi âm tiếng Việt Nam, do các giáo sĩ Tây Phương và những người Việt hợp tác sáng chế ra từ đầu thế kỷ XVII, nhưng suốt một thời gian dài gần ba trăm năm nó chỉ được lưu hành trong phạm vi nhà thờ để truyền giáo, măi cho đến đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến rộng răi và được dùng làm văn tự chính thức thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm.
Từ khi ra đời đến nay,chữ Quốc ngữ đă phát triển qua các giai đoạn :
1) Giai đoạn h́nh thành Khi đặt chân lên đất nước ta, trước tiên các giáo sĩ phải học tiếng nói để giao tiếp với người bản xứ. Họ phải hiểu người Việt và làm sao nói được tiếng Việt th́ mới có thể thuyết phục những lương dân theo đạo Ki tô. Do đó, trong quá tŕnh t́m ṭi, học hỏi, các giáo sĩ đă t́m ra cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh để giúp cho những giáo sĩ người Âu mới đến xứ Nam học tiếng Việt một cách dễ dàng, nhanh chóng. Khi truyền đạo các giáo sĩ không chỉ giảng bằng lời nói c̣n phải dùng kinh sách nên họ sử dụng thứ chữ mới này để viết giáo lư bằng tiếng Việt. Vậy là v́ mục đích truyền giáo, chữ Quốc ngữ được các giáo sĩ Tây phương sáng chế ra để làm phương tiện phổ biến rộng răi đạo Ki tô.
Người tiên phong trong công cuộc khai sinh chữ Quốc ngữ là linh mục Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha. Theo các tài liệu c̣n lưu lại th́ từ cuối thế kỷ XVI đă có các đoàn truyền giáo của Tây phương đến Đàng Trong nhưng hoạt động của họ không đạt kết quả mong muốn. Mục tiêu chính của họ lúc bấy giờ là nhắm vào Trung Hoa và Nhật Bản, họ nỗ lực chinh phục hoàng đế Trung Hoa trở lại đạo với niềm tin rằng nếu việc làm này thành công th́ các quốc gia lệ thuộc từ Đàng Ngoài, Đàng Trong của Đại Việt đến Xiêm La hẳn phải noi theo. Với chiến lược truyền giáo này, các nước nhỏ không được xem là ưu tiên. Những linh mục được đào tạo ở Học viện Ma Cao là chuẩn bị để đưa vào Nhật Bản truyền giáo chứ không phải để đưa sang Đàng Trong. Nhưng từ năm 1614, hoàng đế Nhật Daifusama ra lệnh trục xuất các thừa sai ngoại quốc, mở đầu cuộc bách hại đẫm máu kéo dài gần nửa thế kỷ. Nguyên nhân là v́ các lái buôn Ḥa Lan theo Thệ phản giáo muốn tranh thương với người Bồ và làm cản trở hoạt động truyền giáo của Giáo hội Công giáo, đă t́m cách xúi giục Nhật hoàng cấm đạo. Những giáo dân Nhật muốn giữ đức tin đă vịn cớ buôn bán để xin ra nước ngoài, họ đến trú ngụ ở các khu cảng vùng Đông Nam Á lập thành các họ đạo nhỏ, những thừa sai bị trục xuất cũng đi theo. Một số giáo dân Nhật đến thương cảng Hội An sinh sống, họ mong chờ một thừa sai đến với họ, v́ thế mà Giáo đoàn Buzomi thay v́ đi Nhật lại sang truyền giáo ở Đàng Trong.
Người đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi hăy đến xứ Nam truyền giáo của chúa Nguyễn là linh mục Buzomi, người Ư, ông được Alexande de Rhodes mô tả là “một người nóng như lửa, ḷng nhiệt thành của ngài nung nấu mọi tâm hồn”.
Có thể xem Buzomi là người chính thức đặt nền móng cho công cuộc rao giảng phúc âm ở xứ Đàng Trong. Alexandre de Rhodes đă ghi rơ việc này trong cuốn “Hành tŕnh và truyền giáo”: “Cơ hội tiên khởi để bắt đầu công cuộc truyền giáo này là Ferdinand de Costa đức ông người Bồ, đă về Macao sau khi tới Đàng Trong.
Ông tới t́m các cha và kể những sự ông đă thấy cùng nói tới triển vọng tốt đẹp về việc truyền giáo cho đất nước này. Cha Buzomi, sau khi nghe biết, liền đến quỳ dưới chân bề trên, xin cho phép đi tới đất nước mà Chúa kêu gọi ngài.
Lời xin liền được chấp nhận. Thế là ngài trẩy đi ngay đầu năm 1615 và tới nơi vào ngày lễ thánh Phêrô lập ṭa ở thành Roma 18 tháng giêng. Ngài nghĩ ngay đến việc cất một nhà nguyện ở Hội An nơi tàu đưa ngài đến chính ngày lễ Phục sinh” ( Hành tŕnh và truyền giáo, tr 52) Cha Buzomi được chúa Săi tiếp đón niềm nở, được chúa ban cho một tờ chiếu đóng dấu đỏ của triều đ́nh cho phép cha được tự do truyền giáo khắp nơi trong xứ Nam. Để tiện cho công cuộc truyền giáo, ban đầu cha Buzomi nhờ giáo dân người Nhật thông ngôn. Người Nhật đến Hội An buôn bán đă lâu, họ đă có cơ ngơi ở đô thị này và cũng có nhiều mối quan hệ với những quan chức ở Thanh Chiêm nên giúp được cho cha Buzomi vượt qua những hạn chế lúc mới bắt tay vào việc. Về sau cha Buzomi t́m được một giáo dân tân ṭng có tên thánh là Agostinô, một thanh niên đầy nhiệt t́nh và quả cảm, giúp việc cho cha. Theo Bartoli, Agostinô là người đầu tiên trong tổ chức các thầy giảng ở xứ Nam và sau này ở xứ Bắc.(Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở việt Nam, tr 60).
Người này, theo Francisco de Pina, là người có học văn học và thông hiểu các giáo phái là cánh tay đắc lực cho Buzomi. Agostinô đă dạy tiếng Việt cho Buzomi, nhưng không có cách nào Buzomi thông thạo được tiếng bản xứ và v́ vậy luôn luôn phải cần đến thông dịch viên để giảng đạo. Việc đầu tiên của cha Buzomi là “t́m học hỏi phong tục tiếng nói của dân bản xứ, trước khi muốn đem tin lành đến cho họ. Cha có những nhận xét rất đúng về nền văn hóa Việt Nam. Theo cha, Việt Nam là một nước văn minh, có một tŕnh độ văn hóa cao, trọng cổ truyền, trọng “chữ viết và sách chữ”. Về văn tự th́ phân ra một đàng là lối nói b́nh dân, một đàng là lối nói của văn gia…”Họ viết bằng bút lông, và chữ viết đó trong những giấy tờ thường dịch, c̣n muốn hiểu và đọc được sách chữ, th́ phải học một số rất nhiều thứ chữ mà ở đây chúng tôi gọi là chữ Hán, chữ dân chúng thường dùng th́ cũng giống thể chữ Hán, nhưng lối đọc lại khác. C̣n tiếng nói th́ cung giọng êm dịu và giàu hơn tiếng nói của người Trung Hoa, nghe như người ta b́nh một bài thơ phổ nhạc”.(Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tr 61) Trước khi Buzomi đến, một số giáo sĩ theo tàu buôn đến Hội An đă tranh thủ truyền bá phúc âm cho một số ít người Việt, nhưng v́ ngôn ngữ bất đồng nên đă gây nhiều ngộ nhận. Christophe Borri kể một chuyện điển h́nh về việc này: “Một hôm đi dạo trên băi biển, thấy một bọn hát tuồng rong đang làm tṛ cho dân chúng xem, đứng lại cha đă được chứng kiến hài kịch sau đây: Một con hát bước ra sân khấu với cái bụng độn rất to, theo sau là một con hát giắt một em nhỏ. Con hát bụng độn hỏi em nhỏ: “Con gnoc muon bau tlom laom Hoa Laom chiam” (Con nhỏ muốn vào trong ḷng Hoa Lang chăng). Em nhỏ thưa có. Tức th́ con hát đứng bên t́m cách nhét em bé vào trong cái bụng độn giữa tiếng cười thỏa chí của khán giả.
Hài kịch diễn lại mấy lần mà người đứng xem vẫn không chán”. Nhờ câu chuyện đó mà cha Buzomi hiểu ra là người thông ngôn đă dịch sai câu mời gọi người tân ṭng muốn lĩnh nhận phép rửa.
Dân chúng hiểu lầm đem ra chế diễu cho người theo đạo là bỏ quốc gia dân tộc, trở thành người Ḥa Lan. (Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, tr 62) Ḥa Lan là đối thủ của Bồ Đào Nha trên biển, trên thương trường và cả về tôn giáo, người Bồ nói người Ḥa Lan theo đạo Thệ phản.
Người Việt đầu thế kỷ XVII thường gọi lầm đạo Công Giáo là “đạo Hoa Lang”. Cùng đi với Buzomi có linh mục Carvalho, là vị truyền giáo của người Nhật, ông thông thạo tiếng Nhật và phong tục của người Nhật, nên khi đến Hội An giáo đoàn đă được giáo dân Nhật đang lập nghiệp ở đây ủng hộ hết ḿnh. Năm 1616, cha Antonio Fernandez được tăng cường để thay cho cha Carvalho được gọi về Macao để sang Nhật truyền giáo.
Năm 1617, linh mục Francisco de Pina được cử đến Đàng Trong.
Pina là linh mục trẻ, có quyết tâm học tiếng Việt để tiếp xúc với người bản xứ rao giảng phúc âm khiến cho họ mau trở lại đạo. Đến Đàng Trong Pina đă tự nguyện lao vào học tiếng Việt để phụng sự việc Chúa v́ “hiệu quả tŕnh bày các mầu nhiệm bằng ngôn ngữ của họ th́ vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn. Thông ngôn chỉ nói điều ḿnh dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời từ miệng nhà truyền đạo có Thánh Thần ban sinh khí.” (Hành tŕnh và truyền giáo, tr 56)
Ông phải gấp rút học nói v́ một ḿnh ông phải gánh vác mọi việc không có ai đỡ đần như ông đă tŕnh bày trong bức thư gởi cho cha bề trên ở Ma Cao: “Với con trong giáo khu này, con không nhởn nhơ giữa việc học nói và việc giảng đạo. Đơn giản là con không có ai đỡ việc cho chút ít, chính con phải đi giảng đạo, phải ra gặp người đến và người đi, phải đàm thoại chỗ này chỗ nọ, chính con phải thăm giáo dân, người ở gần cũng như người ở xa, biết bệnh tật của họ, biết biến cố may hay rủi của đời họ. ” (Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học, tr 46).
Ông đă nhanh chóng vượt qua trở ngại của ngôn ngữ, chẳng bao lâu đă nói thông thạo tiếng Việt, tự ḿnh có thể truyền giáo không cần người thông dịch, trong khi những đồng đạo của ông như Buzomi, Fernandez không được cái may mắn đó, họ rất lung túng khi phát âm nên có nhiều chuyện lầm lẫn tức cười khi họ nói tiếng Việt.
Năm 1618, Pina cùng với một thanh niên giáo dân người Việt có tên đạo là Phê rô lần đầu tiên dịch sang tiếng Việt kinh Lạy cha và các kinh căn bản khác trong Ky tô giáo, có thể xem là khởi đầu của công cuộc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh. Năm 1622, nhờ sự trợ giúp của một số học sinh Việt Nam, Pina đă hoàn thành việc xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự La Tinh cho thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam. Ông đă sưu tập được một tuyển tập các truyện để cung cấp những trích dẫn nhằm củng cố nghĩa của các từ và các qui tắc ngữ pháp và ông bắt đầu viết ngữ pháp.
Năm 1624, tại Thanh Chiêm, Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt đầu tiên cho những người ngoại quốc, trong đó có hai học tṛ rất cự phách là Antonio de Fontes và Alexandre de Rhodes. Ông c̣n muốn đào tạo cho những người trẻ này hiểu sâu về ngôn ngữ Việt Nam để có thể cùng ông gánh vác công việc t́m hiểu ngôn ngữ và văn hóa bản xứ.
Cuối năm 1625, Pina đột ngột qua đời nhưng nhiệt tâm học tiếng Việt vẫn sôi sục ở những đồng huynh trẻ của ông, nổi bật là Alexandre de Rhodes. Vận dụng những kiến thức tích lũy được từ khi say mê học ngôn ngữ với Pina tại Dinh Chiêm, những năm hoạt động ở Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes đă bắt đầu soạn cuốn sách giáo lư bằng chữ Quốc ngữ đó là Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn(muốn)chịu phép rửa tội mà beào(vào)đạo thánh đức Chúa blời (trời,lời). Khi c̣n là bản thảo, cuốn sách này đă được dùng vào việc truyền giáo ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong, nhất là để huấn luyện các thầy giảng. Ông cũng sử dụng bản thảo cuốn Từ điển Việt-Bồ của Gaspard de Amaral, và cuốn Bồ-Việt của Antonio Barbosa để soạn cuốn Từ điển Việt-Bồ-La. Amaral và Barbosa đều là giáo sĩ Ḍng Tên, đă đến giảng đạo một thời gian ở Đàng Ngoài sau A.d.Rhodes và đă từ trần năm 1646-1647. Hai cuốn sách này đều được in tại Ṭa Thánh Rôma năm 1651. Đây là cái mốc đánh dấu lần đầu tiên sách Quốc ngữ được ấn hành.
Từ đó, chữ Quốc ngữ được sử dụng ngày càng nhiều trong phạm vi nhà thờ để phục vụ cho mục đích truyền giáo. Một số giáo sĩ người Việt dùng chữ Quốc ngữ để viết thư. Sau đó Hồ văn Nghi hợp tác với giám mục Pigneau de Béhaine ( Bá Đa Lộc) biên soạn Từ điển An Nam-La Tinh hoàn thành năm 1772 nhưng chưa được in, Phan văn Minh hợp tác với Giám mục Taberd biên soạn Từ điển An Nam-La Tinh in năm 1838. Trước năm 1859, tại Gia Định, các giáo sĩ Ki Tô đă thành lập trường Collège d'Adran dạy chữ La Tinh, Quốc ngữ và chữ Pháp cho học sinh.
2) Giai đoạn phát triển Cuối thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ bắt đầu được phổ biến rộng răi và trở thành công cụ phục vụ cho mục đích chính trị. 2.1 Pháp truyền bá chữ Quốc ngữ để làm công cụ cai trị.
Năm 1859, Pháp chiếm Gia Định, để đào tạo những người giúp việc trong bộ máy cai trị, phó đô đốc Léonard Charner ra nghị định ngày 21- 9-1861, dùng trường Collège d'Adran thành lập Trường thông ngôn tên là "Collège Annamite-Français de Monseigneur l'Évêque d'Adran" dạy chữ Pháp cho người Việt và dạy chữ Quốc ngữ cho người Pháp.
Khi Louis Bonard đến thay Charner ngày 29-11-1961, Bonard cho phát hành báo Le Bulletin Des Communes có phần chữ Nho để phổ biến rộng răi tin tức cho người Việt và người Hoa ở Gia Định. Ngày 15-4-1865, tờ báo tiếng Việt đầu tiên bằng thứ chữ mới, ghi âm theo mẫu tự La-Tinh là Gia Định Báo ra đời tại Sài G̣n. Trên Gia Định Báo số 4, ngày 15-4-1867, Pétrus Kư (1837-1898) đă viết một bài khuyến khích học chữ Quốc ngữ : "...Thầy Kư dạy học có làm sách mẹo [văn phạm] dạy tiếng Lang Sa [Pháp], có làm ra chữ quốc ngữ để người ta dễ học. Những người kư lục [thư kư] giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ v́ có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ [khó dễ] cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà c̣n có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường [Tôn Thọ Tường] đă học đặng chữ quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng th́ thuộc hết..."
Ngay sau khi chiếm toàn bộ Nam kỳ (1867 ), Pháp băi bỏ các ḱ thi chữ Hán và thay vào đó một nền giáo dục Pháp Việt . Họ đă thấy ngay vai tṛ lợi hại của chữ Quốc ngữ nên quyết tâm đào tạo những người biết chữ Pháp, chữ Quốc ngữ để làm tay sai cho họ. Nhiều nghị định liên tiếp được ban hành nhằm mục đích phổ biến chữ Quốc ngữ, dùng để thay thế chữ Hán và chữ Nôm : Ngày 14/11/1874 ,Thiếu tướng Hải quân Krantz giữ chức Thống soái Nam kỳ ,đă kư nghị định mở trường trung học Chasse Loup Laubat ở Sài G̣n vừa dạy tiếng Pháp vừa dạy chữ Quốc ngữ cho con em người Pháp đang cai trị tại Nam kỳ và con em các quan lại làm việc với họ .
Ngày 6/4/1878 ,Thống đốc Nam kỳ là Louis Lafont ra nghị định số 82, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1882 bắt buộc các công văn, thư từ phải viết bằng chữ Pháp hay chữ Quốc ngữ chứ không được viết chữ Hán, chữ Nôm và chỉ những người biết Quốc ngữ mới được tuyển dụng vào các cơ quan hành chánh cấp phủ, huyện, tổng. Ngày17/1/1879, Thống đốc Nam kỳ Lafont kư nghị định mở trường Trung học Mỹ Tho . Ngày 17/3/1879 chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập Sở Học chánh Nam kỳ và đưa ra chương tŕnh giáo dục Pháp-Việt bậc tiểu học, gồm có 6 năm học; theo đó trong ba năm đầu, học sinh phải học ba thứ chữ là chữ Nho, Quốc ngữ và chữ Pháp; ba năm sau, học sinh chỉ c̣n học Quốc ngữ và chữ Pháp.
Ngày 18/11/1896 Toàn quyền Đông Dương A. Rousseau kí nghị định cho phép mở trường Quốc Học Huế . Ngày 6/6/1898, riêng ở Bắc Kỳ, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định tổ chức một kỳ thi phụ sau kỳ thi hương truyền thống tại Nam Định. Các môn thi gồm tiếng Pháp và quốc ngữ, không có chữ Nho. Những người đậu cử nhân hay tú tài Nho học trong kỳ thi hương, nếu đậu luôn kỳ thi phụ, sẽ được ưu tiên chọn ra làm quan.
Ngày 27/4/1904 Pháp ra nghị định thiết lập chương tŕnh giáo dục hệ Pháp -Việt ở Bắc kỳ Năm 1906 ,Toàn quyền Paul Beau ra nghị định bắt dân các xă lập trường tiểu học dạy chữ Quốc ngữ, chữ Tây .... Những nỗ lực phổ biến chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp nhằm mục đích đào tạo những người làm tay sai và loại bỏ nền văn hoá Hán Nôm từ hàng ngàn năm đă ăn sâu vào cội rễ tư tưởng người Việt để thay vào đó là nền văn hoá Pháp, hầu củng cố chế độ thực dân.Việc làm đó tất yếu phải gặp sức kháng cự của nhân dân yêu nước .
2.2 Phong trào Duy Tân truyền bá Chữ Quốc ngữ để làm công cụ cứu nước Đầu thế kỷ XX phong trào Duy Tân do các cụ Phan Châu Trinh, Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lănh đạo khởi lên từ Quảng Nam với một đường lối chủ trương mới mẽ , tiến bộ, đă làm nô nức ḷng người. Mục tiêu"khai dân trí ,chấn dân khí ,hậu dân sinh" trở thành động lực thúc đẩy nhân dân tập hợp dưới bóng cờ của phong trào, trong đó mục tiêu khai dân trí được đặt lên hàng đầu . Công cụ để tiến hành sứ mệnh đó không ǵ tiện dụng hơn chữ Quốc ngữ . Mặc dầu lúc bấy giờ chữ Quốc ngữ c̣n có nhiều nhược điểm, nhưng so với chữ nôm th́ lại đơn giản, tiện lợi, có tính khoa học hơn nhiều, do đó rất hữu ích cho việc truyền bá chủ nghĩa Duy tân và nâng cao dân trí. V́ vậy các nhà lănh đạo phong trào bèn ra sức hô hào học chữ Quốc ngữ : Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước , Phải đem ra tỉnh trước dân ta , Khuyến học - Trần Quí Cáp Cùng một phương tiện là chữ Quốc ngữ nhưng Pháp và các chí sĩ cách mạng sử dụng với hai mục đích trái ngược nhau. Phải nói sao cho dân hiểu, dân làm, tránh hiểu sai, hiểu lầm, không để cho kẻ địch lợi dụng, quả là một trận chiến cam go. Việc dạy chữ Quốc ngữ trong các trường Duy Tân buổi đầu không dễ dàng v́ gặp phải sự chống đối của lớp người bảo thủ. Nhiều người đă kiên quyết không cho con em đi học thứ chữ "của Tây, của cố đạo" nhưng nhờ ḷng kiên tŕ, nhiệt t́nh yêu nước, các giáo viên tân học đă tạo được cho dân chúng sự hiểu biết cũng như ḷng tin vào tiền đồ của dân tộc, càng ngày số người theo học càng đông. Phong trào học chữ Quốc ngữ đă được nhân dân hưởng ứng nồng nhiệt, tại Quảng Nam chỉ trong ṿng năm, sáu tháng 40 trường tân học đă được dựng lên để dạy chữ Quốc ngữ, truyền bá cái học mới. Không chỉ dạy chữ Quốc ngữ cho dân, phong trào c̣n dùng chữ Quốc ngữ để dịch các sách Âu, Mỹ, Trung quốc hầu phổ biến kiến thức khoa học, kỹ thuật, kinh tế...để mở mang dân trí, ư thức dân quyền, đưa đồng bào tiến bước trên đường Duy Tân, cứu đất nước thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp : Sách Âu Mỹ ,sách ChiNa Chữ kia ,chữ nọ dịch ra tinh tường .....Một người học muôn người đều biết Trí ta khôn trăm việc phải hay Lợi quyền đă nắm trong tay Có cơ tiến hoá, có ngày văn minh Khuyến học -Trần Quí Cáp Phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ bắt đầu từ Quảng Nam sau lan rộng ra cả Trung kỳ, Bắc kỳ. Năm 1907, cụ Phan Châu Trinh ra Hà Nội cùng các thân hào nhân sĩ đất Bắc như các cụ Lương văn Can, Nguyễn Quyền ...thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục. Đây là một trường có quy mô tổ chức lớn, có nhiều giáo viên xuất sắc, vang danh khắp nước . Công cuộc Duy Tân đang được triển khai mạnh mẽ, quần chúng nhiệt t́nh hưởng ứng, nhưng tiếc rằng phong trào hoạt động chưa được bao lâu th́ đến năm 1908 nhân cuộc biểu t́nh chống sưu thuế của nhân dân Quảng Nam và các tỉnh miền Trung, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, bắt giam các lănh tụ Duy Tân, đày đi Lao Bảo, Côn Lôn, Trần Quí Cáp -nhà cách mạng giáo dục lỗi lạc của phong trào- bị tử h́nh. Các trường tân học bị đóng cửa, giáo viên bị đánh đập, giam cầm. Phong trào Duy Tân tan ră. 2.3 Chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của quốc gia Từ năm 1909, quốc ngữ được đưa vào chương tŕnh thi hương trên toàn Trung và Bắc Kỳ. Trong kỳ thi hương, đến trường 3, thí sinh bắt buộc phải làm 2 đề luận: một đề chữ Nho và một đề Quốc ngữ. Kỳ thi hương năm 1912, trường 3 gồm hai đề quốc ngữ, và trường tư một đề quốc ngữ. Kỳ thi hương cuối cùng năm 1918 ở Trung Kỳ, từ trường hai đến trường tư đều có đề thi quốc ngữ. Ngày 21-12-1917 Toàn quyền Albert Sarraut ra nghị định về Quy chế chung của ngành Giáo dục công cộng ở Đông Dương (Règlement général de l'instruction publique en Indochine), gọi là "Học chánh tổng quy", áp dụng cho toàn cơi Đông Dương để thay thế cho học chế thời Paul Beau. Theo tổng quy mới, trong 5 năm bậc tiểu học, th́ 3 năm đầu, học sinh học các môn bằng Quốc ngữ và chữ Pháp, chữ Nho không bắt buộc; hai năm cuối bắt buộc học các môn bằng chữ Pháp. Riêng 4 năm bậc trung học, mỗi tuần chỉ có 3 giờ quốc văn trong tổng số 27 giờ học mỗi tuần. Ở phần cuối tổng quy nầy qui định rằng các trường chữ Nho của tư nhân hay của triều đ́nh, kể cả Quốc tử giám, đều được xếp vào loại trường tư và phải tuân theo quy chế của chính quyền Pháp nghĩa là bỏ luôn chương tŕnh Nho học. V́ vậy, sau khoa thi hưong năm 1915, ở Bắc Kỳ không tổ chức thi Nho học nữa, ở Trung Kỳ, khoa thi hương cuối cùng năm 1918 và khoa thi hội cuối cùng năm 1919.
Ngày 18-9-1924, toàn quyền Martial Merlin (từ 1923-1925) công bố nghị định sửa đổi lại Học chánh tổng quy của Sarraut. Theo học chế mới, ba năm đầu của bậc tiểu học, dạy hoàn toàn bằng quốc ngữ thay v́ chữ Pháp hay chữ Nho, các lớp sau đó dạy bằng chữ Pháp. Từ năm 1925 trở đi, các tổ chức yêu nước chống Pháp viết truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ văn ... đều dùng quốc ngữ.
Ngày 11-3-1945 Vua Bảo Đại công bố bản Tuyên cáo độc lập bằng Quốc ngữ và ngày 30-7-1945 ban hành dụ số 67 quy định từ niên khóa 1945-1946, bậc trung học Việt Nam dạy bằng Quốc ngữ. Hoàng Xuân Hăn, bộ trưởng Bộ Giáo Dục - Mỹ Thuật, đă đưa ra "Chương tŕnh trung học" hoàn toàn bằng Quốc ngữ, môn Pháp văn cũng như Anh văn được xếp vào môn sinh ngữ, Hán văn là môn cổ ngữ. Chương tŕnh nầy làm căn bản cho các chương tŕnh trung học về sau. H́nh thành từ đầu thế kỷ XVII cho đến nay, chữ quốc ngữ không ngừng được cải tiến và hoàn thiện để trở thành chữ viết chính thức của quốc gia, một công cụ vô cùng tiện lợi giúp chúng ta dễ dàng hội nhập với các nước trên thế giới. Châu Yến Loan 2. Có phải alech xando rot sang tao ra chữ Quốc ngữ không?
Để soạn cuốn từ điển của ḿnh, có lẽ Alexandre de Rhodes đă dựa vào những công tŕnh kư âm Latinh tiếng Nhật (Romanji) đầu tiên của Yajiro, một người Nhật Bản cải đạo giữa thế kỷ XVI, tuy nhiên những tiền bối thực sự của ông là các linh mục ḍng Tên người Bồ Đào Nha. Trong thông báo gửi độc giả cuốn từ điển, chính Alexandre de Rhodes cũng thừa nhận rằng ông chịu ơn những người tiền bối. Ông nói rằng ông đă làm việc trên cơ sở cuốn từ điển Việt-Bồ Đào Nha của Gaspar de Amaral và cuốn từ điển Bồ Đào Nha-Việt của Antonio Barbosa. Nhưng người thầy trước hết của ông là Francisco de Pina, cũng là một người Bồ Đào Nha. Từ năm 1622, Pina đă phát triển một hệ thống kư âm dùng chữ cái áp dụng cho ngữ âm và thanh điệu tiếng Việt, đă soạn một văn tuyển và bắt đầu viết một cuốn sách ngữ pháp (Roland, tr. 37) Năm 1624, Pina mở trường dạy tiếng Việt đầu tiên cho người nước ngoài, hai sinh viên trong số đó là Antonio de Fontes và ... Alexandre de Rhodes.
V́ thế, không có ǵ đáng ngạc nhiên khi các quy ước kư âm của chữ Quốc ngữ cho thấy ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha, điều chắc chắn không phải không có liên quan đến thực tế là giữa 1615 và 1788, trong số 145 linh mục ḍng Tên tại Việt Nam có 74 người Bồ Đào Nha, trong khi chỉ có 30 người Ư, 5 người Pháp và 4 người Tây Ban Nha.
Thật vậy, bảng chữ cái tiếng Việt là một sự áp dụng vào tiếng Việt bảng chữ cái được sử dụng trong các ngôn ngữ Roman của những nhà truyền giáo. Để biểu hiện các thanh điệu, họ sử dụng các kư hiệu trong tiếng Hy Lạp. Trong bảng kư âm này, Nguyễn Phú Phong, tiếp theo AG Haudricourt, nhấn mạnh ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha. Các phụ âm có nguồn gốc Bồ Đào Nha, đó là “gi”, “ch”, “x”, “nh”, c̣n các nguyên âm, đó là “â”, “ê”, “ô”. (A.G Haudricourt, tr. 61, Nguyễn Phú Phong, tr. 13-17)
Các nhà truyền giáo ḍng Tên người Bồ Đào Nha và Alexandre de Rhodes đă phát triển hệ thống chữ Việt dùng chữ cái, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bỏ qua chữ Nôm. Hoàn toàn trái lại. Chữ nôm được họ sử dụng rộng răi để truyền bá phúc âm dưới h́nh thức giáo lư, Thánh tích, các sách trích lời Thánh. Tên nhà truyền giáo người Ư Girolamo Majorica xuất hiện dưới 48 công tŕnh khác nhau, tổng cộng 4200 trang[1].
Trên thực tế, như Jacques Roland đă nhấn mạnh, hệ thống chữ viết Latinh hóa trước hết là để giảng đạo và phục vụ công việc của nhà truyền giáo: "Nó cho họ một phương tiện tiếp cận khá thuận tiện với ngôn ngữ nói; nó cũng cung cấp một phương tiện trao đổi trí tuệ và giao tiếp bằng văn bản với những giới lănh đạo người Việt của cộng đồng Kitô hữu, những người buộc phải học thứ chữ mới v́ mục đích đó.
T́nh trạng phổ biến rất hạn chế của chữ Quốc ngữ thay đổi hết sức chậm cho đến giữa thế kỷ XVII. Khi đó, thứ chữ viết dùng chữ cái bắt đầu lan ra trong các cộng đồng Kitô giáo, có lẽ v́ lư do an toàn đối lại với chính sách chống dị giáo và có lẽ cũng v́ dễ sử dụng. (Jacques, tr. 51)
Nhưng trên thực tế sự sáng tạo chữ Quốc ngữ không chỉ do công sức của các nhà truyền giáo châu Âu. Họ đă không thể hoàn thành được công việc này nếu không có sự giúp đỡ của những người Kitô giáo Việt Nam, những giáo lư viên (les catéchistes), những giáo hữu (les frères) và tất nhiên, các linh mục (les prêtres). Chính họ cũng là những người chúng ta phải chịu ơn với tư cách là tác giả của những tác phẩm văn xuôi đầu tiên ở Việt Nam viết bằng ngôn ngữ "nôm na" và phiên âm bằng kư tự Latin: Lịch sử An Nam của Bento Thien (1659), Sổ ghi nhớ và chép công việc do nhà truyền giáo ḍng Tên Philippe Binh viết tại Lisbonne (1822).
Vai tṛ quan trọng của các học giả Việt Nam trong toàn bộ công tŕnh ngữ âm học này đă bị bỏ qua một cách bất công. Các cộng tác viên bản địa thường không được nhắc đến. Chỉ có một vài bằng chứng cho thấy sự hợp tác này. Francisco de Pina đă được giúp đỡ bởi một học giả trẻ người Việt có tên thánh là Pero, một "nhà văn giỏi chữ Hán bậc nhất" (Roland, tr. 3). Alexandre de Rhodes bày tỏ ḷng biết ơn bằng những lời cảm động: "Giúp tôi là một cậu bé bản địa tuyệt vời, người đă dạy tôi trong ba tuần tất cả các thanh điệu của tiếng Việt và cách phát âm tất cả các từ. Cậu không biết ngôn ngữ của tôi, tôi cũng không biết thứ tiếng của cậu, nhưng cậu có một trí thông minh tuyệt vời khiến cậu ngay lập tức hiểu những ǵ tôi định nói. Và trên thực tế, chỉ trong ba tuần ấy, cậu ta đă biết đọc biết viết thứ chữ của chúng tôi và biết phục vụ thánh lễ. Tôi rất kinh ngạc trước sự lanh lợi và trí nhớ của cậu”. (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 89) C̣n Tổng giám mục Pigneau de Behaine, người đă viết từ điển của ḿnh ở Pondicherry, khoảng giữa tháng 6 năm 1772 và tháng 6 năm 1773, th́ được sự giúp đỡ của tám học giả Nam Kỳ
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.