THÁNG 07-2022

 

EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA

EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT

LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI

IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW

 

 

 

Nghiên Cứu Và Phát Triển Trong Ngành Dược Phẩm

 

Báo cáo này kiểm tra hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của ngành dược phẩm.

 

Chi tiêu cho R & D và kết quả của nó. Chi tiêu cho R&D và giới thiệu các loại thuốc mới đều tăng trong hai thập kỷ qua.

 

Năm 2019, ngành công nghiệp dược phẩm đă chi 83 tỷ đô la cho R&D. Được điều chỉnh theo lạm phát, số tiền đó gấp khoảng 10 lần số tiền mà ngành công nghiệp chi tiêu mỗi năm trong những năm 1980.

Từ năm 2010 đến năm 2019, số lượng thuốc mới được phê duyệt để bán đă tăng 60% so với thập kỷ trước, với mức cao nhất là 59 loại thuốc mới được phê duyệt vào năm 2018.

Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển. Số tiền mà các công ty thuốc dành cho R&D được xác định bởi số doanh thu mà họ mong đợi kiếm được từ một loại thuốc mới, chi phí dự kiến ​​để phát triển loại thuốc đó và các chính sách ảnh hưởng đến cung và cầu về thuốc.

 

Doanh thu toàn cầu kỳ vọng của một loại thuốc mới phụ thuộc vào giá mà các công ty dự kiến ​​tính cho loại thuốc đó ở các thị trường khác nhau trên thế giới, khối lượng bán hàng mà họ dự đoán ở những mức giá đó và khả năng nỗ lực phát triển thuốc sẽ thành công.

Chi phí dự kiến ​​để phát triển một loại thuốc mới — bao gồm chi phí vốn và chi phí cho các loại thuốc không tiếp cận được thị trường — được ước tính dao động từ dưới 1 tỷ đô la đến hơn 2 tỷ đô la.

Chính phủ liên bang ảnh hưởng đến số lượng chi tiêu tư nhân cho R&D thông qua các chương tŕnh (chẳng hạn như Medicare) làm tăng nhu cầu thuốc kê đơn, thông qua các chính sách (chẳng hạn như chi tiêu cho nghiên cứu cơ bản và quy định về những ǵ phải được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng) ảnh hưởng đến nguồn cung về các loại thuốc mới và thông qua các chính sách (chẳng hạn như khuyến nghị đối với vắc xin) ảnh hưởng đến cả cung và cầu.

 

Nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm

Bản tóm tắt

Hàng năm, ngành công nghiệp dược phẩm Hoa Kỳ phát triển nhiều loại thuốc mới cung cấp các lợi ích y tế có giá trị. Nhiều loại thuốc trong số đó đắt tiền và góp phần làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe cho khu vực tư nhân và chính phủ liên bang. Các nhà hoạch định chính sách đă cân nhắc các chính sách có thể làm giảm giá thuốc và giảm chi tiêu cho thuốc của liên bang. Các chính sách như vậy có thể sẽ làm giảm động lực phát triển các loại thuốc mới của ngành.

 

Trong báo cáo này, Văn pḥng Ngân sách Quốc hội đánh giá các xu hướng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển thuốc (R&D) và giới thiệu các loại thuốc mới. CBO cũng xem xét các yếu tố xác định số tiền các công ty thuốc chi tiêu cho R&D: doanh thu toàn cầu dự kiến ​​từ một loại thuốc mới; chi phí để phát triển một loại thuốc mới; và các chính sách liên bang ảnh hưởng đến nhu cầu về các liệu pháp điều trị bằng thuốc, việc cung cấp các loại thuốc mới hoặc cả hai.

 

Xu hướng gần đây trong nghiên cứu và phát triển dược phẩm và phê duyệt thuốc mới là ǵ?

Ngành công nghiệp dược phẩm đă dành 83 tỷ đô la cho các khoản chi cho R&D vào năm 2019. Các khoản chi đó bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, bao gồm phát hiện và thử nghiệm các loại thuốc mới, phát triển các cải tiến gia tăng như mở rộng sản phẩm và thử nghiệm lâm sàng cho mục đích giám sát an toàn hoặc tiếp thị. Số tiền đó gấp khoảng 10 lần số tiền mà ngành công nghiệp chi tiêu mỗi năm trong những năm 1980, sau khi điều chỉnh các tác động của lạm phát. Tỷ trọng doanh thu mà các công ty dược dành cho R&D cũng tăng lên: Trung b́nh, các công ty dược đă chi khoảng 1/4 doanh thu (ṛng chi phí và chiết khấu cho người mua) cho chi phí R&D trong năm 2019, cao gần gấp đôi tỷ trọng của doanh thu như họ đă chi vào năm 2000. Phần chia sẻ doanh thu đó lớn hơn so với phần doanh thu dành cho các ngành công nghiệp dựa trên tri thức khác, chẳng hạn như chất bán dẫn, phần cứng công nghệ và phần mềm.

 

Số lượng các loại thuốc mới được phê duyệt mỗi năm cũng đă tăng lên trong thập kỷ qua. Trung b́nh, Cơ quan Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đă phê duyệt 38 loại thuốc mới mỗi năm từ năm 2010 đến năm 2019 (với đỉnh điểm là 59 vào năm 2018), cao hơn 60% so với mức trung b́nh hàng năm trong thập kỷ trước.

 

Nhiều loại thuốc đă được phê duyệt trong những năm gần đây là "thuốc đặc trị". Thuốc đặc trị thường điều trị các t́nh trạng măn tính, phức tạp hoặc hiếm gặp và chúng cũng có thể yêu cầu xử lư hoặc theo dơi bệnh nhân đặc biệt. Nhiều loại thuốc đặc trị là thuốc sinh học (thuốc phân tử lớn dựa trên các ḍng tế bào sống), có chi phí phát triển cao, khó bắt chước và thường có giá cao. Trước đây, hầu hết các loại thuốc là thuốc phân tử nhỏ dựa trên các hợp chất hóa học. Ngay cả khi chúng đă được cấp bằng sáng chế, những loại thuốc đó vẫn có giá thấp hơn những loại thuốc đặc trị gần đây. Thông tin về các loại thuốc trong các thử nghiệm lâm sàng hiện tại cho thấy rằng phần lớn hoạt động đổi mới của ngành tập trung vào các loại thuốc đặc trị sẽ cung cấp các liệu pháp điều trị ung thư mới và các phương pháp điều trị rối loạn hệ thần kinh, chẳng hạn như bệnh Alzheimer và bệnh Parkinson.

 

Yếu tố nào ảnh hưởng đến chi tiêu cho R&D?

Các quyết định chi tiêu cho R&D của các công ty dược phẩm phụ thuộc vào ba yếu tố chính:

 

Dự kiến ​​doanh thu toàn cầu trọn đời từ một loại thuốc mới,

Chi phí dự kiến ​​để phát triển một loại thuốc mới, và

Các chính sách và chương tŕnh ảnh hưởng đến việc cung cấp và cầu thuốc theo đơn.

Các cân nhắc khác nhau thông báo cho kỳ vọng của các công ty về nguồn doanh thu của một loại thuốc, bao gồm giá dự đoán mà nó có thể chỉ định ở các thị trường khác nhau trên thế giới và khối lượng bán toàn cầu dự kiến ​​ở những mức giá đó (dựa trên số người có thể sử dụng thuốc). Giá và khối lượng bán của các loại thuốc hiện có cung cấp thông tin về mức độ sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng và các chương tŕnh bảo hiểm cho việc điều trị bằng thuốc. Điều quan trọng là, khi các công ty dược định giá một loại thuốc mới, họ sẽ làm như vậy để tối đa hóa doanh thu trong tương lai từ chi phí sản xuất và phân phối. Chi phí R&D ch́m của một loại thuốc — nghĩa là, các chi phí đă phát sinh để phát triển loại thuốc đó — không ảnh hưởng đến giá của nó.

 

Phát triển các loại thuốc mới là một quá tŕnh tốn kém và không chắc chắn, và nhiều loại thuốc tiềm năng không bao giờ được đưa ra thị trường. Chỉ có khoảng 12% các loại thuốc tham gia thử nghiệm lâm sàng cuối cùng được FDA chấp thuận đưa vào sử dụng. Trong các nghiên cứu gần đây, ước tính chi phí R&D trung b́nh cho mỗi loại thuốc mới nằm trong khoảng từ dưới 1 tỷ đô la đến hơn 2 tỷ đô la cho mỗi loại thuốc. Những ước tính đó bao gồm chi phí của cả nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm và thử nghiệm lâm sàng các loại thuốc mới thành công cũng như chi phí cho các loại thuốc không vượt qua giai đoạn phát triển trong pḥng thí nghiệm, đưa vào thử nghiệm lâm sàng nhưng không thành công trong các thử nghiệm đó hoặc bị nhà sản xuất thuốc thu hồi. lư do kinh doanh hoặc không được FDA chấp thuận. Những ước tính đó cũng bao gồm chi phí vốn của công ty - giá trị của các khoản đầu tư bị bỏ lại khác - phát sinh trong quá tŕnh R&D. Những chi phí như vậy có thể chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí trung b́nh của việc phát triển một loại thuốc mới. Quá tŕnh phát triển thường kéo dài một thập kỷ hoặc hơn, và trong thời gian đó công ty không nhận được lợi tức tài chính từ khoản đầu tư phát triển loại thuốc đó.

 

Chính phủ liên bang ảnh hưởng đến các quyết định R&D theo ba cách. Đầu tiên, nó làm tăng nhu cầu về thuốc theo toa, khuyến khích phát triển thuốc mới, bằng cách trợ cấp toàn bộ hoặc một phần cho việc mua thuốc theo toa thông qua nhiều chương tŕnh liên bang (bao gồm Medicare và Medicaid) và bằng cách cung cấp các ưu đăi về thuế đối với bảo hiểm y tế dựa trên việc làm.

 

Thứ hai, chính phủ liên bang tăng nguồn cung thuốc mới. Nó tài trợ cho nghiên cứu y sinh cơ bản cung cấp nền tảng khoa học cho việc phát triển các loại thuốc mới của ngành công nghiệp tư nhân. Ngoài ra, các khoản tín dụng thuế — cả những khoản dành cho tất cả các loại h́nh công ty và những khoản dành cho các công ty dược phẩm để phát triển các phương pháp điều trị các bệnh không phổ biến — cung cấp động lực đầu tư vào R&D. Tương tự, các khoản khấu trừ cho đầu tư R&D có thể được sử dụng để giảm nghĩa vụ thuế ngay lập tức thay v́ trong suốt thời gian đầu tư đó. Cuối cùng, hệ thống bằng sáng chế và một số điều khoản luật định làm tŕ hoăn việc FDA phê duyệt thuốc gốc cung cấp cho các công ty dược phẩm một thời gian độc quyền trên thị trường, khi cạnh tranh bị hạn chế về mặt pháp lư. Trong thời gian đó, họ có thể duy tŕ mức giá cao hơn trên một sản phẩm được cấp bằng sáng chế so với những ǵ họ có thể làm,

 

Thứ ba, một số chính sách liên bang ảnh hưởng đến số lượng thuốc mới bằng cách ảnh hưởng đến cả nhu cầu và nguồn cung . Ví dụ, các khuyến nghị của liên bang đối với các loại vắc xin cụ thể làm tăng nhu cầu đối với các loại vắc xin đó và tạo động lực cho các công ty dược phát triển những loại vắc xin mới. Ngoài ra, các chính sách quy định của liên bang có ảnh hưởng đến lợi nhuận từ nghiên cứu và phát triển thuốc có thể làm tăng hoặc giảm cả cung và cầu đối với thuốc mới.

 

Xu hướng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển và phát triển thuốc mới

Chi tiêu tư nhân cho nghiên cứu và phát triển dược phẩm và phê duyệt các loại thuốc mới đều tăng lên rơ rệt trong những năm gần đây, tiếp tục xu hướng kéo dài hàng thập kỷ đă bị gián đoạn vào năm 2008 khi các phiên bản chung của một số loại thuốc bán chạy nhất được cung cấp và khi cuộc suy thoái 2007-2009 xảy ra. Đặc biệt, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển thuốc đă tăng gần 50% từ năm 2015 đến năm 2019. Nhiều loại thuốc được phê duyệt trong những năm gần đây là thuốc đặc trị giá cao cho một số lượng tương đối nhỏ bệnh nhân tiềm năng. Ngược lại, những loại thuốc bán chạy nhất trong những năm 1990 là những loại thuốc có giá thành thấp hơn với số lượng bệnh nhân lớn.

 

Chi tiêu cho R&D trong ngành dược phẩm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, bao gồm những hoạt động sau:

 

Phát minh , hoặc nghiên cứu và khám phá ra các loại thuốc mới;

Phát triển , hoặc thử nghiệm lâm sàng, chuẩn bị và nộp đơn xin FDA chấp thuận, và thiết kế quy tŕnh sản xuất cho các loại thuốc mới;

Sự đổi mới ngày càng tăng , bao gồm việc phát triển các liều lượng và cơ chế phân phối mới cho các loại thuốc hiện có và việc thử nghiệm các loại thuốc đó để có chỉ định bổ sung;

Sự khác biệt của sản phẩm , hoặc thử nghiệm lâm sàng của một loại thuốc mới so với một loại thuốc đối thủ hiện có để cho thấy rằng loại thuốc mới vượt trội hơn; và

Theo dơi an toàn , hoặc các thử nghiệm lâm sàng (được tiến hành sau khi một loại thuốc được đưa ra thị trường) mà FDA có thể yêu cầu để phát hiện các tác dụng phụ có thể chưa được quan sát thấy trong các thử nghiệm ngắn hơn khi thuốc đang được phát triển.

Về mặt thực tế, đầu tư tư nhân vào nghiên cứu và phát triển thuốc giữa các công ty thành viên của Hiệp hội Thương mại và Nghiên cứu Dược phẩm Hoa Kỳ (PhRMA), là khoảng 83 tỷ USD vào năm 2019, tăng từ khoảng 5 tỷ USD năm 1980 và 38 tỷ USD năm 2000 . 1 Mặc dù tổng chi tiêu đó không bao gồm chi tiêu của nhiều công ty dược phẩm nhỏ hơn không thuộc PhRMA, nhưng xu hướng này đại diện cho chi tiêu R&D của toàn ngành nói chung. 2 Một cuộc khảo sát về tất cả chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển dược phẩm của Hoa Kỳ (bao gồm cả chi tiêu của các công ty nhỏ hơn) của Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) cho thấy xu hướng tương tự. 3

 

Mặc dù tổng chi tiêu cho R&D của tất cả các công ty dược phẩm có xu hướng tăng lên, nhưng các công ty lớn và nhỏ thường tập trung vào các hoạt động R&D khác nhau. Các công ty nhỏ không thuộc PhRMA dành phần lớn nghiên cứu của họ để phát triển và thử nghiệm các loại thuốc mới, nhiều loại thuốc cuối cùng được bán cho các công ty lớn hơn (xem Hộp 1 ). Ngược lại, một phần lớn chi tiêu R&D của các công ty dược phẩm lớn hơn (bao gồm cả những công ty trong PhRMA) được dành cho việc thực hiện các thử nghiệm lâm sàng, phát triển các cải tiến “mở rộng ḍng” gia tăng (chẳng hạn như liều lượng hoặc hệ thống phân phối mới, hoặc kết hợp mới của hai hoặc nhiều hơn thuốc hiện có), và tiến hành thử nghiệm sau phê duyệt cho các mục đích tiếp thị hoặc giám sát an toàn.

 

Hộp 1.

Các công ty dược phẩm lớn và nhỏ và quyết định "Mua hoặc Mua"

Các công ty dược phẩm nhỏ (những công ty có doanh thu hàng năm dưới 500 triệu đô la) hiện chiếm hơn 70% trong số gần 3.000 loại thuốc trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III. 1 Họ cũng chịu trách nhiệm về thị phần ngày càng tăng của các loại thuốc đă có trên thị trường: Kể từ năm 2009, khoảng một phần ba số thuốc mới được Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm phê duyệt đă được phát triển bởi các công ty dược có doanh thu hàng năm dưới 100 triệu đô la. 2 Các công ty dược phẩm lớn (những công ty có doanh thu hàng năm từ 1 tỷ đô la trở lên) vẫn chiếm hơn một nửa số thuốc mới được phê duyệt từ năm 2009 và tỷ lệ doanh thu thậm chí c̣n lớn hơn, nhưng họ mới chỉ bắt đầu khoảng 20% ​​số thuốc hiện đang ở giai đoạn III lâm sàng. thử nghiệm. 3

 

Đối với một công ty dược phẩm lớn, một lựa chọn để tăng số lượng loại thuốc mà họ dự kiến ​​sẽ giới thiệu là mua lại một công ty nhỏ hơn đang phát triển các loại thuốc mới. Trong ba thập kỷ qua, khoảng 1/5 số thuốc đang được phát triển - hoặc các công ty đang phát triển chúng - đă được một công ty dược khác mua lại. 4

 

Khi một công ty lớn mua lại một công ty thuốc nhỏ hoặc quyền đối với một trong các loại thuốc của công ty đó, công ty đó có thể sử dụng kiến ​​thức chuyên môn của ḿnh để tăng giá trị thương vụ mua lại hoặc để đa dạng hóa nguy cơ sụt giảm doanh thu (do thuốc mất khả năng bảo hộ bằng sáng chế, ví dụ). Khi thực hiện việc mua lại đó, một công ty lớn có thể đưa một loại thuốc ra thị trường nhanh hơn công ty nhỏ có thể có hoặc có thể phân phối nó rộng răi hơn. Với sự gia tăng của thuốc gốc, việc mất doanh thu bán hàng xảy ra khi bằng sáng chế của thuốc hết hạn có thể khiến các công ty thừa năng lực sản xuất. Mua lại một công ty nhỏ hơn có thể giúp nhanh chóng lấp đầy năng lực đó.

 

Việc mua lại một công ty nhỏ bởi một công ty lớn hơn có thể tạo ra hiệu quả có thể làm tăng giá trị tổng hợp của các công ty bằng cách cho phép các công ty thuốc ở các quy mô khác nhau — xét về số lượng nhà nghiên cứu, nhân viên hành chính và tài sản vật chất — chuyên về các hoạt động mà họ có lợi thế so sánh. Các công ty nhỏ — với tương đối ít nhân viên hành chính, ít chuyên môn trong việc tiến hành các thử nghiệm lâm sàng và ít vốn vật chất và tài chính để quản lư — có thể tập trung chủ yếu vào nghiên cứu. Về phần ḿnh, các công ty dược phẩm lớn có vốn hóa tốt hơn nhiều và có thể dễ dàng cấp vốn và quản lư các thử nghiệm lâm sàng hơn. Họ cũng có khả năng tiếp cận thị trường dễ dàng hơn thông qua các mạng lưới phân phối thuốc đă được thiết lập và các mối quan hệ với người mua.

 

Các nhà nghiên cứu đă t́m thấy một số bằng chứng cho thấy những vụ mua lại như vậy của các hăng thuốc lớn hơn đôi khi được thúc đẩy bởi mong muốn hạn chế cạnh tranh của các hăng lớn. Theo một nghiên cứu gần đây về các vụ mua lại trong ngành dược phẩm, ví dụ, một công ty có khả năng hoàn thành việc phát triển thuốc trong hệ thống của công ty bị mua lại thấp hơn khoảng 5% đến 7% nếu những loại thuốc đó cạnh tranh với các loại thuốc hiện có của công ty mua lại. ngược lại. 5 Trong một nghiên cứu năm 2017 về cạnh tranh và nghiên cứu và phát triển (R&D), Văn pḥng Giải tŕnh Chính phủ đă trích dẫn một số nghiên cứu hồi cứu về các vụ sáp nhập trong ngành dược phẩm cho thấy các giao dịch như vậy đă làm giảm chi tiêu cho R&D và cấp bằng sáng chế trong vài năm. 6Điều ngược lại cũng đúng: Sự gia tăng cạnh tranh trong ngành dược phẩm đă làm tăng chi tiêu cho R&D của các công ty. 7

 

1 . Xem Viện IQVIA về Khoa học Dữ liệu Con người, Bối cảnh Thay đổi của Nghiên cứu và Phát triển (Tháng 4 năm 2019), tr. 15, https://tinyurl.com/1cm3g2fs .

 

2 . Xem Ulrich Geilinger và Chandra Leo, Báo cáo phê duyệt thuốc mới của HBM (HBM Partners, tháng 1 năm 2019), tr. 16. https://tinyurl.com/yyzze476 , (PDF, 1,14 MB). HBM Partners là một công ty đầu tư chăm sóc sức khỏe của Thụy Sĩ.

 

3 . 30 công ty lớn nhất đă phát triển 53% thuốc được phê duyệt kể từ năm 2009, và vào năm 2014, 25 công ty thuốc lớn nhất đă nhận được hơn 70% doanh thu của ngành. Xem Viện IQVIA về Khoa học Dữ liệu Con người, Bối cảnh Thay đổi của Nghiên cứu và Phát triển (Tháng 4 năm 2019), tr. 16, https://tinyurl.com/y2kpxve8 ; và Văn pḥng Trách nhiệm Chính phủ, Ngành Dược: Lợi nhuận, Chi tiêu cho Nghiên cứu và Phát triển, và Các thỏa thuận mua bán và sáp nhập , GAO-18-40 (tháng 11 năm 2017), tr. 16, www.gao.gov/products/GAO-18-40 .

 

4 . Xem Colleen Cunningham, Florian Ederer và Song Ma, “Những vụ mua lại kẻ giết người,” Tạp chí Kinh tế Chính trị , tập. 129, không. 3 (tháng 3 năm 2021), tr. 670,  http://dx.doi.org/10. 1086/712506 .

 

5 . Ibid., Trang 649–702.

 

6 . Xem Văn pḥng trách nhiệm giải tŕnh của Chính phủ, Ngành công nghiệp thuốc: Lợi nhuận, Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, và các thỏa thuận mua bán và sáp nhập , GAO-18-40 (tháng 11 năm 2017), tr. 16, www.gao.gov/products/GAO-18-40 . Đối với các nghiên cứu riêng lẻ, hăy xem Carmine Ornaghi, “Sáp nhập và đổi mới trong Big Pharma,” Tạp chí Quốc tế về Tổ chức Công nghiệp , vol. 27, không. 1 (tháng 1 năm 2009), trang 70–79, https://doi.org/10.1016/j.ijindorg.2008.04.003 ; và Patricia M. Danzon, Andrew Epstein, và Sean Nicholson, “Sáp nhập và mua lại trong ngành dược phẩm và công nghệ sinh học,” Kinh tế học quản lư và quyết định , vol. 28, không. 4/5 (tháng 6 – tháng 8 năm 2007), trang 307–328, www.jstor.org/stable/25151520 .

 

7 . Xem Richard T. Thakor và Andrew W. Lo, “Cạnh tranh và tài trợ R&D: Bằng chứng từ ngành công nghiệp dược phẩm sinh học”, Tạp chí phân tích định lượng và tài chính (xuất bản), http://dx.doi.org/10.2139/ssrn.3754494 .

 

CBO dựa vào dữ liệu PhRMA v́ trước năm 2008, cuộc khảo sát của NSF không bao gồm chi tiêu cho R&D của các doanh nghiệp trong nước bên ngoài Hoa Kỳ. (Cả ước tính của NSF và PhRMA đều phản ánh chi tiêu cho R&D trên toàn thế giới của các công ty dược phẩm có hoạt động tại Hoa Kỳ.) Ước tính của NSF về chi tiêu cho R&D kể từ năm 2008 cho thấy chi tiêu cho R&D trên toàn thế giới của các thành viên PhRMA chiếm khoảng 75% đến 85% tổng ngành, tùy thuộc vào năm.

 

Trong những năm gần đây, chi tiêu cho R&D của ngành dược như một tỷ trọng trong doanh thu thuần (bán trừ chi phí và chiết khấu) đă tăng lên: Chi tiêu của người tiêu dùng cho các loại thuốc kê đơn có thương hiệu đă tăng lên, nhưng chi tiêu cho R&D lại tăng nhanh hơn. Vào đầu những năm 2000, khi doanh thu của ngành dược tăng mạnh, cường độ nghiên cứu và phát triển của ngành — tức là, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển tính theo tỷ trọng doanh thu thuần — trung b́nh khoảng 13% mỗi năm. Trong thập kỷ từ 2005 đến 2014, cường độ R&D của ngành công nghiệp trung b́nh từ 18% đến 20% mỗi năm. Tỷ lệ đó đă có xu hướng tăng lên kể từ năm 2012 và vượt quá 25% vào năm 2018 và 2019, mức tăng cường nghiên cứu và phát triển cao nhất được ghi nhận bởi ngành dược phẩm nói chung ít nhất kể từ năm 2000. Dữ liệu bị hạn chế trong những năm trước đó, nhưng đối với các công ty thành viên của PhRMA, hàng năm R &4 Kể từ đó, cường độ R&D đă tăng lên giữa các công ty PhRMA cũng như đối với toàn ngành, đạt 25% vào năm 2017 trước khi giảm nhẹ vào năm 2018. So sánh, cường độ R&D trung b́nh trên tất cả các ngành thường dao động từ 2% đến 3%. . 5 Cường độ nghiên cứu và phát triển trong ngành công nghiệp phần mềm và bán dẫn, nói chung có thể so sánh với ngành công nghiệp dược phẩm về mức độ phụ thuộc vào nghiên cứu và phát triển, vẫn ở mức dưới 18% (xemH́nh 1).

 

 

H́nh 1.

Mật độ R & D trung b́nh cho các công ty Hoa Kỳ được giao dịch công khai, theo ngành

Phần trăm

 

 

Các công ty dược phẩm đă dành một phần ngày càng lớn trong doanh thu ṛng của họ cho các hoạt động R&D, trung b́nh khoảng 19% trong hai thập kỷ qua. Để so sánh, các ngành công nghiệp chuyên sâu về nghiên cứu khác, như phần mềm và chất bán dẫn, trung b́nh khoảng 15%.

 

Nguồn dữ liệu: Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, sử dụng dữ liệu từ Bloomberg, giới hạn ở các công ty Hoa Kỳ như được xác định bởi Aswath Damodaran, “Dữ liệu: Phân tích” (truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020), https://tinyurl.com/yd5hq4t6 . Xem www.cbo.gov/publication/57025#data .

 

Cường độ nghiên cứu và phát triển là chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển như một phần của doanh thu thuần (bán hàng trừ chi phí và chiết khấu).

 

R&D = nghiên cứu và phát triển; S&P = Standard and Poor's.

 

Có một số cách giải thích cho sự gia tăng cường độ nghiên cứu và phát triển của ngành trong tám năm qua. Nó có thể phản ánh vai tṛ ngày càng tăng của các công ty dược phẩm nhỏ, vốn có ít doanh thu và do đó, tỷ lệ chi tiêu cho R&D trên doanh thu thuần cao. Nó cũng có thể chỉ ra rằng lợi nhuận kỳ vọng từ các khoản đầu tư vào R&D đă tăng lên (nếu điều kiện thị trường thay đổi) hoặc cơ hội để phát triển các loại thuốc mới đă tăng lên (nếu những tiến bộ gần đây trong khoa học và công nghệ đặc biệt có hiệu quả). Cuối cùng, nó có thể phản ánh chi phí đầu vào R&D đang tăng lên, chẳng hạn như thiết bị vốn và lao động có tay nghề cao. CBO đă không đánh giá tầm quan trọng tương đối của những khả năng đó.

 

Phát triển thuốc mới

Trong thập kỷ qua, ngành công nghiệp dược phẩm đă đưa ra số lượng ngày càng tăng các loại thuốc mới hàng năm (xem H́nh 2 ). Từ năm 2010 đến 2019, trung b́nh mỗi năm có 38 loại thuốc mới được phê duyệt. Đó là mức tăng khoảng 60% so với thập kỷ trước. Việc phê duyệt thuốc đă đạt đến đỉnh cao mới vào năm 2018, vượt qua số lượng phê duyệt kỷ lục vào cuối những năm 1990. (Số lượng phê duyệt thuốc mới là một thước đo đầu ra sẵn có nhưng không hoàn hảo từ chi tiêu cho R&D của ngành dược phẩm. Thước đo này không phản ánh sự khác biệt về hiệu quả của các loại thuốc mới so với các phương pháp điều trị thay thế hoặc số người có thể được hưởng lợi từ thuốc mới.)

 

H́nh 2.

Phê duyệt trung b́nh hàng năm đối với các loại thuốc mới của FDA

Số lượng thuốc

 

 

Từ năm 2015 đến năm 2019, FDA đă phê duyệt số lượng thuốc mới gấp đôi so với một thập kỷ trước đó. Thuốc sinh học chiếm tỷ lệ ngày càng tăng trong các phê duyệt của FDA.

 

Nguồn dữ liệu: Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, sử dụng dữ liệu từ Trung tâm Nghiên cứu và Đánh giá Thuốc của FDA và Trung tâm Nghiên cứu và Đánh giá Sinh học của FDA. Xem www.cbo.gov/publication/57025#data .

 

Cho đến những năm 1990, FDA không coi sinh học là một danh mục riêng biệt; chúng được tính bằng NME.

 

BLA = đơn xin cấp phép sinh học; FDA = Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm; NME = thực thể phân tử mới.

 

Thông tin về các loại thuốc mới mà ngành dược giới thiệu có thể được suy ra từ những thay đổi trong chi tiêu bán lẻ trên các nhóm thuốc điều trị khác nhau. Khi được xếp hạng theo chi tiêu bán lẻ, các nhóm điều trị trong đó nhiều loại thuốc đặc trị đắt tiền đă được giới thiệu trong thập kỷ qua đứng đầu bảng xếp hạng, trong khi các nhóm mà thuốc bán chạy nhất hiện có ở dạng thuốc thông thường xếp hạng thấp hơn so với một thập kỷ trước. 6 Thông tin về các loại thuốc mới mà ngành dược có thể giới thiệu trong tương lai có thể được suy ra từ các thử nghiệm lâm sàng đang được thực hiện.

 

Phê duyệt Thuốc mới. Trong năm năm qua, cả chi tiêu cho R&D và phê duyệt thuốc đều tăng đáng kể. Mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp và có thể thay đổi (xem H́nh 3 ). Bởi v́ có thể mất một thập kỷ hoặc hơn chi tiêu cho R&D để phát triển một loại thuốc mới và sử dụng thành công nó thông qua các thử nghiệm lâm sàng, việc phê duyệt thuốc sẽ tụt hậu so với chi tiêu cơ bản cho R&D. Sự tụt hậu đó gây khó khăn cho việc giải thích mối quan hệ giữa chi tiêu cho R&D và việc phê duyệt thuốc mới. Ví dụ, việc phê duyệt thuốc đă giảm trong những năm 2000 mặc dù chi tiêu cho R&D tăng đều trong những năm trước đó, làm dấy lên lo ngại về sự sụt giảm năng suất R&D của ngành. Tuy nhiên, những lo ngại đó chỉ là tạm thời. Mặc dù chi tiêu cho R&D không đổi từ năm 2008 đến năm 2014,

 

 

H́nh 3.

Chi tiêu R&D và Phê duyệt Thuốc mới

 

Sự gia tăng liên tục trong chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển dược phẩm không nhất thiết dẫn đến việc tăng số lượng các loại thuốc mới. Chi tiêu cho R&D cũng phản ánh chi phí lao động (các nhà nghiên cứu có tay nghề cao) và vốn (công nghệ pḥng thí nghiệm) đang tăng lên.

 

Nguồn dữ liệu: Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, sử dụng dữ liệu từ Trung tâm Nghiên cứu và Đánh giá Thuốc của FDA và các báo cáo thường niên của PhRMA (nhiều năm khác nhau). Xem www.cbo.gov/publication/57025#data .

 

Dữ liệu cho những năm 1980–1983 không được hiển thị v́ không thể tính được đường trung b́nh động của 5 năm cho 4 năm đầu tiên của dữ liệu.

 

FDA = Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm; NME = thực thể phân tử mới; PhRMA = Các nhà sản xuất nghiên cứu dược phẩm của Mỹ; R&D = nghiên cứu và phát triển.

 

một. Đường trung b́nh động năm năm thay thế giá trị cho mỗi năm trong chuỗi dữ liệu hàng năm bằng giá trị trung b́nh trong năm năm liên tiếp. (Ở đây, giá trị trung b́nh số học của mỗi giá trị hàng năm và bốn giá trị trước được sử dụng.) Đường trung b́nh động mượt mà hơn chuỗi dữ liệu cơ bản và hữu ích để giảm các thay đổi hàng năm không liên quan đến xu hướng tổng thể trong dữ liệu.

 

Bản thân sự gia tăng phê duyệt thuốc đó không cho thấy mức độ cải tiến đặc biệt của các loại thuốc mới (ví dụ, nhắm mục tiêu bệnh tật theo những cách mới) thay v́ chỉ cải thiện từng bước các loại thuốc hiện có. Hơn nữa, xu hướng tăng mạnh chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển gần đây không nhất thiết cho thấy tỷ lệ giới thiệu thuốc tiếp tục cao. Ví dụ, sự sụt giảm tỷ lệ thành công trong các thử nghiệm lâm sàng có thể làm chậm tốc độ giới thiệu thuốc mới ngay cả khi chi tiêu cho R&D tiếp tục tăng. Ngoài ra, không phải tất cả chi tiêu cho R&D đều hướng đến việc phát triển các loại thuốc mới. Các công ty dược phẩm dành một số nguồn lực R & D để t́m ra sự kết hợp hiệu quả mới của các loại thuốc hiện có, như với các phương pháp điều trị và pḥng ngừa HIV mới hơn hoặc cho các cơ chế phân phối thuốc mới, chẳng hạn như máy bơm insulin.

 

Cuối cùng, sự gia tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển của ngành không cung cấp thông tin về các loại thuốc có thể được giới thiệu trong những năm tới. Ở một mức độ nào đó, thông tin đó có thể được suy ra từ các mô tả của các thử nghiệm lâm sàng hiện đang được tiến hành. Nhưng không thể biết chắc chắn loại thuốc nào trong số những loại thuốc đó cuối cùng sẽ được đưa ra thị trường.

 

Xu hướng chi tiêu thuốc gần đây theo lớp trị liệu. Các loại thuốc đặc trị mới hoặc cải tiến cho bệnh tiểu đường, các bệnh ung thư khác nhau, rối loạn tự miễn dịch (như viêm khớp dạng thấp hoặc bệnh đa xơ cứng), và HIV đă thúc đẩy sự gia tăng chi tiêu bán lẻ lớn trong các hạng mục điều trị cho những căn bệnh này (xem H́nh 4 ). Nhiều loại thuốc đặc trị mới là sinh học, dựa trên các ḍng tế bào sống chứ không phải là các thành phần hoạt tính hóa học. Đối với HIV, các liệu pháp điều trị ARV mới là sự kết hợp của các loại thuốc đặc trị giúp đơn giản hóa việc điều trị.

 

Hinh 4.

Tổng Chi tiêu Thuốc Bán lẻ của Hoa Kỳ theo Hạng Trị liệu, 2009 và 2019

Hàng tỷ đô la năm 2019

 

 

Thuốc mới có thể dẫn đến sự gia tăng lớn trong chi tiêu bán lẻ v́ chúng có giá cao hơn, nhu cầu cao hoặc cả hai. Việc giảm chi tiêu có thể dẫn đến việc bảo hộ bằng sáng chế hết hiệu lực đối với các loại thuốc hàng đầu và các phiên bản chung chi phí thấp được giới thiệu.

 

Nguồn dữ liệu: Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, sử dụng dữ liệu từ Viện IQVIA về Khoa học Dữ liệu Con người, Chi tiêu Thuốc và Khả năng Chi trả ở Hoa Kỳ: T́m hiểu Chi phí Thuốc của Bệnh nhân (Tháng 8 năm 2020), Phụ lục 24, https://tinyurl.com/5655tnoc ; Viện IMS về Tin học Y tế, Sử dụng Thuốc và Thay đổi Chi tiêu: Đánh giá Việc Sử dụng Thuốc ở Hoa Kỳ năm 2014 (tháng 4 năm 2015), tr. 40, https://tinyurl.com/3bk9oufn , và Chi phí thay đổi và sử dụng thuốc trong chăm sóc sức khỏe: Đánh giá về việc sử dụng thuốc ở Hoa Kỳ năm 2013 (tháng 4 năm 2014), Phụ lục 8, https://go.usa. gov / xsaFR . Xem www.cbo.gov/publication/57025#data .

 

Các lớp trị liệu trong h́nh được xếp hạng theo thứ tự chi tiêu năm 2019. Con số này không bao gồm “ống tim mạch khác” (xếp thứ 12 vào năm 2019, với tổng chi tiêu là 10,1 tỷ đô la) v́ không thể t́m thấy dữ liệu năm 2009 cho loại đó.

 

Chi tiêu bán lẻ phản ánh chi tiêu thực tế và doanh thu mà các nhà sản xuất nhận được, bởi v́ nó không bao gồm các khoản giảm giá do các nhà sản xuất đó trả.

 

ADHD = rối loạn tăng động giảm chú ư; GI = đường tiêu hóa.

 

một. Viêm gan siêu vi đă lọt vào danh sách 20 lớp điều trị hàng đầu theo chi tiêu bán lẻ vào năm 2014; do đó, mức chi cho năm đó đă được thay thế cho mức của năm 2009.

 

Một số nhóm điều trị đă trải qua sự gia tăng chi tiêu lớn có các loại thuốc mới với số lượng bệnh nhân tương đối lớn hoặc các phương pháp điều trị mới cho các t́nh trạng măn tính có thể được điều trị bằng phương pháp điều trị nhưng cần tiếp tục điều trị. (Do đó, các loại thuốc điều trị bệnh măn tính thường bán với số lượng ổn định.) Các nhóm khác bao gồm các loại thuốc mới với số lượng bệnh nhân tiềm năng tương đối nhỏ hoặc thời gian điều trị ngắn hơn nhưng có giá cao trên mỗi đơn vị điều trị. Giá cao có thể phản ánh nhu cầu tương đối không nhạy cảm với giá do tính chất nghiêm trọng của bệnh tật và các loại thuốc đó được chương tŕnh bảo hiểm chi trả. Ví dụ, giá thuốc điều trị ung thư có xu hướng cao.

 

Trong một số trường hợp, mức tăng chi tiêu bán lẻ quan sát được làm tăng quá mức doanh thu thuần của nhà sản xuất v́ chúng không tính đến các khoản giảm giá chưa được quan sát. 7 Các khoản giảm giá có xu hướng cao hơn đối với các loại thuốc có sẵn một số liệu pháp cạnh tranh. (Các khoản giảm giá lớn hơn tương ứng với giá thực thấp hơn.) Do đó, các khoản giảm giá đối với thuốc điều trị tiểu đường có xu hướng cao hơn đáng kể - tính theo tỷ lệ phần trăm của giá bán lẻ - so với các loại thuốc điều trị ung thư, vốn không có tính thay thế cao.

 

Một số loại thuốc điều trị có chứa các loại thuốc bán chạy nhất được phát triển vào những năm 1990 đă giảm chi tiêu bán lẻ từ năm 2009 đến năm 2019 do chúng phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các phiên bản chung.Những loại thuốc phân tử nhỏ bao gồm thuốc chống loạn thần không điển h́nh, thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế bơm proton. Các nhóm trị liệu có chứa các loại thuốc đó - tương ứng là sức khỏe tâm thần, thuốc hạ huyết áp và các sản phẩm tiêu hóa - đă trải qua sự sụt giảm lớn trong chi tiêu bán lẻ. Một nhóm điều trị, chất điều chỉnh lipid (nhóm bao gồm statin), đă giảm đến mức không c̣n xuất hiện trong số 20 thuốc hàng đầu, được xếp hạng theo chi tiêu bán lẻ. Những sự sụt giảm đó phản ánh việc sử dụng rộng răi các phiên bản chung mới của những loại thuốc đó.

 

Một tầng lớp trị liệu đă bị sụt giảm chi tiêu bán lẻ v́ một lư do khác. Viêm gan do vi rút chỉ lọt vào top 20 vào năm 2014, trùng với sự ra đời của một số phương pháp điều trị mới hiệu quả cao và giá cao - cho bệnh viêm gan C. đến sự kết hợp của các yếu tố. Đầu tiên, các loại thuốc mới hơn, giá thấp hơn đă được giới thiệu, làm giảm giá trung b́nh của nhóm đó khi chúng giành được thị phần. Thứ hai, số lượng đơn thuốc đă giảm: Khi các phương pháp điều trị được thực hiện, số lượng bệnh nhân tiềm năng đă giảm xuống. Đó là bởi v́ các loại thuốc mới điều trị thành công khoảng 95% bệnh nhân bị nhiễm viêm gan C măn tính. số 8Ngược lại, các liệu pháp cũ hơn, ít tốn kém hơn lại thành công ở ít bệnh nhân hơn và có tác dụng phụ nghiêm trọng trong nhiều trường hợp.

 

Các loại thuốc mới đang được phát triển. Thông tin về các loại thuốc có thể được phê duyệt trong những năm tới có thể được thu thập từ dữ liệu về các thử nghiệm lâm sàng gần đây. Thông tin đó cho thấy rằng các công ty dược phẩm đang nhấn mạnh vào các phương pháp điều trị ung thư và rối loạn hệ thần kinh như bệnh Alzheimer và bệnh Parkinson. Trong số các thử nghiệm lâm sàng trên người đang được tiến hành tính đến năm 2018, các loại thuốc trong hai nhóm điều trị đó chiếm số lượng thử nghiệm nhiều hơn gấp đôi so với các loại thuốc trong ba nhóm tiếp theo cộng lại (vắc xin; giảm đau, bao gồm cả liệu pháp điều trị viêm khớp và da liễu.) 9

 

Đại dịch coronavirus 2020–2021 đă thúc đẩy sự phát triển của vắc-xin để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, căn bệnh do coronavirus gây ra. Ngoài chi tiêu cho R&D của khu vực tư nhân, chính phủ liên bang đă hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển vắc-xin để giải quyết đại dịch (xem Hộp 2 ).

 

Hộp 2.

Tài trợ của Liên bang để hỗ trợ phát triển vắc xin COVID-19

Chính phủ liên bang có thể hỗ trợ trực tiếp việc phát triển vắc xin tư nhân theo hai cách chính, hoặc bằng cách trang trải chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D), hoặc bằng cách cam kết trước để mua vắc xin thành công tùy thuộc vào một công ty đạt được các mục tiêu phát triển cụ thể. Theo phương pháp đầu tiên, chính phủ sẽ cung cấp kinh phí R&D thường đến từ chính các công ty dược phẩm, từ các khoản đầu tư mạo hiểm hoặc từ các nguồn khác bên ngoài công ty. Phương pháp đó có thể phù hợp hơn trong các trường hợp trong đó nỗ lực R&D có nguy cơ thất bại tương đối cao và lợi nhuận kỳ vọng quá thấp để thu hút đầu tư tư nhân. Cơ sở lư luận cho việc tài trợ của chính phủ trong những trường hợp như vậy sẽ phụ thuộc vào việc liệu giá trị kỳ vọng cho xă hội - thay v́ cho các nhà đầu tư tư nhân - có vượt quá chi phí tài trợ hay không.

 

Theo phương pháp thứ hai - nghĩa là đồng ư mua trong tương lai một số liều vắc xin cụ thể với một mức giá cụ thể - chính phủ sẽ trở thành nguồn cung cấp nhu cầu thường đến từ thị trường. Thỏa thuận mua trước như vậy có thể thích hợp hơn trong trường hợp chính phủ dự định mua sản phẩm mới với số lượng lớn bất kể số tiền hỗ trợ tài chính mà chính phủ cung cấp cho R&D. Nó cũng có thể thích hợp hơn trong trường hợp có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phát triển sản phẩm, nhưng với nhiều sự không chắc chắn về cách tiếp cận nào là tốt nhất. Thỏa thuận mua trước cũng sẽ đảm bảo cho nhà phát triển một lượng doanh thu nhất định trong trường hợp chính phủ hỗ trợ phát triển nhiều sản phẩm cạnh tranh đồng thời.

 

Vào tháng 5 năm 2020, Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh đă khởi xướng “Operation Warp Speed”, một nỗ lực hợp tác liên quan đến Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch bệnh, Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), Viện Y tế Quốc gia và Bộ Quốc pḥng. ,với sự tài trợ được cung cấp thông qua Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Tiên tiến Y sinh (BARDA). Thông qua Chiến dịch Warp Speed, chính phủ liên bang đă hỗ trợ hơn 19 tỷ đô la cho bảy nhà sản xuất dược phẩm tư nhân để phát triển và sản xuất vắc-xin hoặc điều trị COVID-19, căn bệnh do coronavirus gây ra (xem bảng bên dưới). 1Kể từ ngày 2 tháng 3 năm 2021, năm trong số bảy công ty đó đă chấp nhận tài trợ trước cho các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng. Năm trong số bảy công ty chấp nhận tài trợ trước nhằm mục đích giúp các nhà sản xuất tăng cường khả năng sản xuất của họ trong khi vắc xin tiềm năng của họ vẫn đang trong quá tŕnh phát triển; khoản tài trợ thứ sáu được chấp nhận để phát triển năng lực sản xuất vắc xin của một công ty khác sau khi công ty này nhận được giấy phép sử dụng khẩn cấp. Cuối cùng, sáu trong số bảy nhà sản xuất đă kư thỏa thuận mua trước. Hai trong số các công ty có vắc xin đă nhận được giấy phép sử dụng khẩn cấp đă nhận được thêm kinh phí để bán nhiều liều hơn mức được đảm bảo bởi các thỏa thuận mua trước.

 

Việc thực hiện song song một số giai đoạn phát triển thường được tiến hành theo tŕnh tự, chẳng hạn như kết hợp các thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I và giai đoạn II hoặc xây dựng năng lực sản xuất trong khi các thử nghiệm vẫn đang được tiến hành, đă cho phép các nhà sản xuất dược phẩm tiến bộ nhanh hơn nhiều trong quá tŕnh phát triển quy tŕnh hơn là điển h́nh cho vắc xin. 2 Một năm sau khi trường hợp COVID-19 đầu tiên được chẩn đoán ở Hoa Kỳ, ba trong số vắc xin được hỗ trợ bởi tài trợ của BARDA đă nhận được giấy phép sử dụng khẩn cấp từ FDA và hai vắc xin khác đang trong giai đoạn thử nghiệm lâm sàng. (Thông thường, phải mất vài năm nghiên cứu và thử nghiệm trước khi vắc xin ứng cử viên bước vào thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III. 3Các vắc xin cúm theo mùa mất ít thời gian hơn để phát triển và phê duyệt v́ công nghệ của chúng cũng như các quy tŕnh quản lư và cấp phép cho những vắc xin đó đă được sử dụng trước đó.) Theo Tổ chức Y tế Thế giới, hơn 200 vắc xin COVID-19 ứng cử viên đang được phát triển trong Tháng 2 năm 2021. 4

 

 

 

1 . Hầu hết các nhà sản xuất cũng đă nhận được hỗ trợ nghiên cứu từ hoặc kư kết các thỏa thuận mua trước với Liên minh Châu Âu, một số chính phủ quốc gia và hai quan hệ đối tác toàn cầu được hỗ trợ bởi các tổ chức và các nhà tài trợ khác (Liên minh Đổi mới Chuẩn bị Dịch bệnh và Gavi, Liên minh Vắc xin). Ví dụ, xem Christopher M. Snyder và những người khác, “Thiết kế tài trợ kéo cho vắc xin COVID-19,” Health Affairs , vol. 39, không. 9 (tháng 9 năm 2020), trang 1633–1642, https://doi.org/10.1377/hlthaff.2020.00646 .

 

2 . Xem Nicole Lurie và những người khác, “Phát triển vắc xin Covid-19 với tốc độ đại dịch,” Tạp chí Y học New England, tập. 382 (ngày 21 tháng 5 năm 2020), trang 1969-1973, https://doi.org/10.1056/NEJMp2005630 .

 

3 . Xem Wellcome Trust, “5 giai đoạn phát triển vắc xin” (truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2021), https://tinyurl.com/y6rxbbuf .

 

4 . Xem Tổ chức Y tế Thế giới, “Vắc xin COVID-19” (truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021), https://tinyurl.com/fpdcc777 .

 

Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển

Các công ty dược phẩm đầu tư vào R&D để đón đầu lợi nhuận trong tương lai. Đối với mỗi loại thuốc mà một công ty xem xét theo đuổi, lợi nhuận dự kiến ​​phụ thuộc vào ba yếu tố chính: doanh thu toàn cầu dự kiến ​​từ thuốc (trừ đi chi phí sản xuất và tiếp thị), chi phí R&D của loại thuốc mới và các chính sách ảnh hưởng đến cung và cầu cho các loại thuốc theo toa. Khi dự đoán lợi nhuận trong tương lai cao hơn, các công ty đầu tư nhiều hơn vào R&D và sản xuất nhiều loại thuốc mới hơn, CBO ước tính. Tương tự, nếu kỳ vọng về giá cả và lợi nhuận thấp hơn, các công ty sẽ đầu tư vào R&D ít hơn, và ít loại thuốc được phát triển hơn (xem Hộp 3 ).

 

Hộp 3.

Ảnh hưởng của những thay đổi về khả năng sinh lời mong đợi đối với việc giới thiệu các loại thuốc mới

Nếu lợi nhuận dự kiến ​​của các loại thuốc mới giảm — do sự thay đổi trong chính sách liên bang, sự thay đổi về cung hoặc cầu, sự sửa đổi trong cán cân quyền lực giữa các công ty thuốc và người mua thuốc, hoặc v́ bất kỳ lư do nào khác — th́ lợi nhuận dự kiến ​​từ nghiên cứu và phát triển thuốc sẽ cũng suy giảm. Lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn có thể có nghĩa là ít thuốc mới hơn, v́ sẽ có ít động lực hơn cho các công ty chi tiêu cho R&D. (Nếu lợi nhuận kỳ vọng tăng lên, th́ những tác động ngược lại sẽ xảy ra.) Kỳ vọng về lợi nhuận trên R&D một phần phụ thuộc vào kỳ vọng về giá mà các loại thuốc trong tương lai có thể ra lệnh — do đó, một phần phụ thuộc vào giá thuốc hiện tại và ảnh hưởng đến giá đó.

 

Phân tích của Văn pḥng Ngân sách Quốc hội về Nhân sự 3 trong Đại hội lần thứ 116 minh họa những hiệu quả đó. Dự luật đó sẽ yêu cầu Bộ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh thương lượng giá thuốc — chủ yếu là những loại thuốc có mức chi tiêu cao nhất — và đối với các nhà sản xuất không tham gia đàm phán về thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong phân tích đó, CBO kết luận rằng dự luật sẽ làm giảm kỳ vọng của các công ty dược phẩm về doanh thu trong tương lai v́ đ̣n bẩy đàm phán mới của Bộ trưởng. Triển vọng doanh thu thấp hơn như vậy sẽ khiến các khoản đầu tư vào R&D kém hấp dẫn hơn đối với các công ty dược phẩm. CBO ước tính rằng theo dự luật, khoảng 8 loại thuốc sẽ được giới thiệu vào thị trường Hoa Kỳ trong giai đoạn 2020–2029 và ít hơn khoảng 30 loại thuốc trong 10 năm tiếp theo. 1Theo đánh giá của CBO, những ước tính đó nằm ở giữa sự phân bổ các kết quả có thể xảy ra và không chắc chắn. Phân tích của CBO phù hợp với một tài liệu rộng lớn hơn đă t́m thấy mối quan hệ tích cực giữa giá thuốc và nỗ lực R&D. 2

 

1 . Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, thư cho Frank Pallone Jr. Danh dự về tác động ngân sách của HR 3, Đạo luật Giảm Chi phí Thuốc Hiện hành của Elijah Cummings (ngày 10 tháng 12 năm 2019), www.cbo.gov/publication/55936 .

 

2 . Xem Margaret E. Blume-Kohout và Neeraj Sood, “Quy mô thị trường và đổi mới: Ảnh hưởng của Medicare Phần D đến Nghiên cứu và Phát triển Dược phẩm,” Tạp chí Kinh tế Công cộng, tập. 97 (tháng 1 năm 2013), trang 327–336, https://doi.org/10.1016/j.jpubeco.2012.10.003 ; Daron Acemoglu và Joshua Linn, “Quy mô thị trường trong đổi mới: Lư thuyết và bằng chứng từ ngành dược phẩm,” Tạp chí Kinh tế hàng quư, tập. 119, không. 3 (tháng 8 năm 2004), trang 1049–1090, https://doi.org/10.1162/0033553041502144 ; và Pierre Dubois và những người khác, “Quy mô thị trường và đổi mới dược phẩm,” Tạp chí Kinh tế RAND, tập. 46, không. 4 (Mùa đông 2015), trang 844–871, https://doi.org/10.1111/1756-2171.12113.

 

Doanh thu dự kiến

Kỳ vọng của một công ty về doanh thu mà họ có thể kiếm được từ một loại thuốc phụ thuộc vào mức giá mà công ty dự đoán loại thuốc đó có thể áp dụng ở các thị trường khác nhau trên thế giới và số lượng mà công ty dự đoán có thể được mua với giá đó. Những kỳ vọng đó được thông báo bởi giá cả và khối lượng bán hàng được quan sát đối với các loại thuốc hiện có trên các thị trường khác nhau. Đối với các công ty thuốc đă thành lập, ḍng doanh thu hiện tại từ các sản phẩm hiện có cũng cung cấp một nguồn tài chính quan trọng cho các dự án R&D của họ.

 

Kỳ vọng Doanh thu được h́nh thành như thế nào. Một công ty phát triển kỳ vọng của ḿnh về doanh thu tiềm năng trong tương lai của một loại thuốc dựa trên quy mô thị trường tiềm năng của thuốc, điều này phụ thuộc vào giá mà công ty có thể chỉ định khi bán cho các nhóm bệnh nhân khác nhau và trong các cuộc đàm phán với người trả tiền, trong nước và nước ngoài. Theo nghĩa đó, giá của các loại thuốc hiện có - bao gồm cả sự thay đổi về giá đối với các nhóm bệnh nhân khác nhau - giúp xác định chi tiêu R&D cho các loại thuốc trong tương lai. (Điều ngược lại là không đúng: Theo đánh giá của CBO, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển hiện tại không ảnh hưởng đến giá tương lai của các loại thuốc có được từ chi tiêu đó.)

 

Doanh thu do các loại thuốc hiện có tạo ra cung cấp thông tin về quy mô thị trường tiềm năng cho các loại thuốc mới bằng cách cho biết mức độ sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng và các chương tŕnh bảo hiểm cho việc điều trị bằng thuốc. Số lượng đơn thuốc cho những loại thuốc đó hỗ trợ suy luận về số lượng bệnh nhân tiềm năng, xu hướng sử dụng các liệu pháp điều trị bằng thuốc ở mức giá quan sát được và mức độ phổ biến của các liệu pháp cạnh tranh.

 

Doanh thu bán hàng từ các loại thuốc không liên quan khác cũng giúp các công ty h́nh thành kỳ vọng về quy mô thị trường. Chúng tiết lộ thông tin về mức độ chi phí điều trị bằng thuốc mà thị trường hiện đang chịu đựng, cả nói chung và cho các t́nh trạng khác nhau sẽ có ít nhiều điểm chung — liên quan đến thời gian, mức độ nghiêm trọng hoặc ảnh hưởng đến chất lượng hoặc tuổi thọ — với các điều kiện mà loại thuốc mới sẽ điều trị.

 

Doanh thu dự kiến ​​cũng phụ thuộc vào doanh số bán đơn vị dự kiến ​​ở các thị trường khác nhau trên thế giới. Những số lượng đó được xác định bởi số lượng bệnh nhân tiềm năng sử dụng thuốc ở những thị trường đó, tỷ lệ những người có thể mua thuốc với giá mà nhà sản xuất dự tính cho những thị trường đó (có tính đến bất kỳ loại thuốc thay thế nào có thể có), và số lượng đơn thuốc mà một đợt điều trị sẽ yêu cầu.

 

Sau khi một loại thuốc mới được phê duyệt, CBO hy vọng rằng nhà phát triển của nó sẽ đặt giá của nó theo xu hướng tương lai, có nghĩa là giá được đặt để tối đa hóa doanh thu ṛng từ thuốc mà không cần quan tâm đến chi phí phát triển của nó.

 

Doanh thu dược phẩm thực tế (được điều chỉnh theo lạm phát) tăng mạnh từ giữa những năm 1990 cho đến khoảng giữa những năm 2000, khi các bằng sáng chế về một số loại thuốc bom tấn hết hạn và các thuốc tương đương có giá thành thấp hơn được giới thiệu. Doanh thu sau đó giảm nhẹ từ giữa những năm 2000 đến giữa những năm 2010, kết quả của những bằng sáng chế hết hạn và cuộc suy thoái 2007-2009. Doanh thu tăng trưởng trở lại với sự ra đời của một số loại thuốc mới đắt tiền (xem H́nh 5 ).

 

 

H́nh 5.

Doanh thu trên toàn thế giới và trong nước của các công ty thành viên PhRMA

Hàng tỷ đô la năm 2019

 

 

Doanh thu từ việc bán thuốc đă tăng đáng kể kể từ năm 1980, mặc dù sự tăng trưởng đó đă bị gián đoạn do hết hạn bằng sáng chế của một số loại thuốc được sử dụng rộng răi và bởi cuộc suy thoái 2007-2009. Doanh thu tăng trưởng trở lại kể từ đó, một phần là do các loại thuốc mới đắt tiền.

 

Nguồn dữ liệu: Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, sử dụng dữ liệu từ PhRMA, Khảo sát thành viên thường niên của PhRMA 2019 , Bảng 4 (PhRMA, 2019), https://tinyurl.com/ycvneve7 (PDF, 2,15 MB). Xem www.cbo.gov/publication/57025#data .

 

Dữ liệu doanh thu PhRMA phản ánh các khoản thanh toán mà nhà sản xuất nhận được, không bao gồm chiết khấu tiền mặt, chiết khấu Medicaid, trả lại hàng và phụ cấp cho chi phí tiếp thị.

 

PhRMA = Nhà sản xuất và nghiên cứu dược phẩm của Mỹ.

 

Doanh thu như là Nguồn tài trợ cho R&D. Trong ngành công nghiệp dược phẩm, doanh thu từ trước đến nay là nguồn tài chính quan trọng cho R&D cho các công ty đă thành lập với các loại thuốc có thương hiệu để bán. Thuốc biệt dược có thể tạo ra một lượng lớn tiền mặt v́ chi phí sản xuất và phân phối của chúng thường rất thấp so với doanh thu bán hàng của chúng.Các công ty đă thành lập dường như thích tài trợ cho R&D của họ bằng nguồn thu hiện tại bất cứ khi nào có thể hơn là dựa vào các nguồn tài trợ bên ngoài như vốn đầu tư mạo hiểm. 10 Tài trợ bên ngoài liên quan đến chi phí giao dịch cũng như các chi phí tiềm ẩn khác, chẳng hạn như bồi thường rủi ro do các nhà đầu tư bên ngoài chịu, những người không thể giám sát hoàn hảo các nỗ lực và kỹ năng của công ty. 11

 

Tỷ lệ R&D được tài trợ trực tiếp từ doanh thu đă giảm trong những năm gần đây do số lượng R&D ngày càng tăng hiện được thực hiện bởi các công ty sản xuất thuốc theo định hướng nghiên cứu với ít hoặc không có sản phẩm trên thị trường. Trong thập kỷ qua, các công ty dược phẩm nhỏ hoặc mới nổi đă phát triển một lượng lớn các loại thuốc mới. Những công ty này có doanh thu tương đối ít (một số không có), và hầu hết họ phải t́m kiếm nguồn tài chính từ bên ngoài, chẳng hạn như đầu tư mạo hiểm và các thỏa thuận hợp tác với các công ty dược phẩm lớn hơn. Mặc dù tổng vốn đầu tư mạo hiểm vẫn chỉ tài trợ một phần nhỏ trong tổng chi tiêu R&D của ngành dược, nhưng nó hỗ trợ một phần lớn hơn nhiều trong chi tiêu cho R&D của các công ty nhỏ hơn so với các công ty lớn đă thành lập.

 

Việc phát triển thuốc cũng xảy ra trong các pḥng thí nghiệm nghiên cứu của trường đại học. Ngoài các khoản tài trợ do Viện Y tế Quốc gia (NIH) tài trợ mà nhiều trường đại học nhận được để thực hiện nghiên cứu y sinh cơ bản, các trường đại học có thể hợp tác với (và được tài trợ bởi) các công ty dược phẩm tư nhân để thực hiện nghiên cứu ứng dụng nhằm phát triển các loại thuốc mới. 12 Nguồn tài trợ cho R&D đó có thể chủ yếu đến từ doanh thu, v́ sự hợp tác thường liên quan đến các công ty dược phẩm đă thành lập. 13

 

Chi phí R&D của một loại thuốc mới

Chi tiêu cho R & D cũng bị ảnh hưởng bởi chi phí dự kiến ​​của việc phát triển một loại thuốc mới, bao gồm cả những chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu tiền lâm sàng và trong các thử nghiệm lâm sàng. Ngoài các chi phí tự trả đó, các công ty dược phẩm phải chịu chi phí vốn phát sinh từ việc dồn quỹ vào quá tŕnh phát triển thuốc trong nhiều năm trước khi họ tạo ra thu nhập từ các khoản đầu tư đó. Những chi phí vốn đó phản ánh lợi nhuận mà quỹ có thể kiếm được nếu chúng được đầu tư theo những cách khác.

 

Việc phát triển một loại thuốc cuối cùng sẽ tiếp cận thị trường thường đ̣i hỏi một thập kỷ hoặc nhiều hơn các khoản chi cho R&D. Mỗi giai đoạn thử nghiệm lâm sàng liên tiếp đ̣i hỏi số tiền chi tiêu ngày càng tăng. Các nhà phát triển thuốc có thể đánh giá lại cam kết của họ ở mỗi giai đoạn và giá trị kỳ vọng của thuốc có thể thay đổi khi học được nhiều điều hơn trong các thử nghiệm lâm sàng hoặc khi điều kiện thị trường thay đổi — nghĩa là, có một giá trị tùy chọn để tiếp tục. Các công ty sẽ không nhất thiết phải hủy dự án thuốc ngay cả khi chi phí có khả năng xảy ra trong tương lai của nó vượt quá giá trị có thể xảy ra khi đánh giá đó được thực hiện, bởi v́ giá trị dự kiến ​​có thể tăng lên khi có thêm thông tin về thuốc hoặc thị trường của nó.

 

Nghiên cứu dược phẩm vốn có nhiều rủi ro và các dự án bị hủy bỏ hoặc thất bại là một phần b́nh thường của bất kỳ chương tŕnh phát triển thuốc nào. Các công ty bắt đầu các dự án thuốc khi biết rằng hầu hết trong số họ sẽ không mang lại một loại thuốc bán trên thị trường. Một số loại thuốc được phát triển trong giai đoạn tiền lâm sàng không bao giờ được đưa vào thử nghiệm lâm sàng và trong số những loại thuốc đó, chỉ có khoảng 12% tiếp cận thị trường (ước tính gần đây là từ 10% đến 14%). 14

 

Ước tính, từ nhiều nguồn, chi phí R&D trung b́nh cho mỗi loại thuốc mới nằm trong khoảng từ dưới 1 tỷ đô la đến hơn 2 tỷ đô la. Những ước tính đó đều bao gồm chi phí vốn cũng như chi phí cho các loại thuốc không được đưa ra thị trường. Các ước tính khác nhau là giá trị trung b́nh đối với các mẫu khác nhau của các công ty và loại thuốc — nghĩa là, chúng phụ thuộc vào các lựa chọn phân tích và lấy mẫu do các nhà nghiên cứu đưa ra các ước tính đó và được hiểu tốt nhất là minh họa cho kết luận chung rằng việc phát triển các loại thuốc mới rất tốn kém và có giá cao tỷ lệ hỏng hóc.

 

Giai đoạn tiền lâm sàng. Mặc dù thuốc dành ít thời gian hơn trong quá tŕnh phát triển tiền lâm sàng so với trong các thử nghiệm lâm sàng, nhưng tổng chi tiêu cho R&D tiền lâm sàng của một công ty thường chiếm một phần đáng kể trong tổng chi tiêu cho R&D của công ty. Đó là bởi v́ các công ty thường phát triển nhiều loại thuốc tiềm năng trong giai đoạn tiền lâm sàng chưa bao giờ tham gia hoặc hoàn thành các thử nghiệm lâm sàng. Theo một ước tính sử dụng dữ liệu được cung cấp bởi các công ty dược phẩm lớn, phát triển tiền lâm sàng chiếm trung b́nh 31% tổng chi tiêu của một công ty cho nghiên cứu và phát triển thuốc, hoặc 474 triệu đô la cho mỗi loại thuốc mới được phê duyệt. 15

 

Khi tính đến chi phí vốn, tỷ trọng chi tiêu cho R&D trong giai đoạn tiền kỹ thuật đă tăng lên 43%. Bất kỳ lợi tức nào về chi tiêu cho R&D đối với việc phát triển thuốc tiền lâm sàng sớm phải chờ đợi sự hoàn thành thành công của cả giai đoạn tiền lâm sàng và các thử nghiệm lâm sàng sau đó. Kết quả là, độ trễ giữa đầu tư và lợi nhuận đối với chi tiêu cho R&D xảy ra trong giai đoạn tiền lâm sàng dài hơn so với chi tiêu trong các thử nghiệm lâm sàng. (Đối với những loại thuốc không tiếp cận được thị trường, sẽ không nhận được lợi nhuận nào, mặc dù bài học kinh nghiệm từ những nỗ lực đó có thể hỗ trợ sự phát triển của các loại thuốc khác.) Theo một nghiên cứu, giai đoạn tiền lâm sàng mất trung b́nh khoảng 31 tháng, tiếp theo là khoảng 95 trung b́nh là vài tháng đối với các thử nghiệm lâm sàng — hoặc khoảng 10,5 năm từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. 16Các ước tính khác khác nhau; Ví dụ, trong một mẫu gồm 10 loại thuốc điều trị ung thư, một nghiên cứu cho thấy thời gian trung b́nh từ khi phát hiện đến khi được phê duyệt là 7,3 năm. 17 Những con số này là thước đo của xu hướng tập trung: Một số loại thuốc được đưa ra thị trường trong thời gian ngắn hơn. 18

 

Giai đoạn Thử nghiệm-Lâm sàng. Chi phí để tiến hành các thử nghiệm lâm sàng đối với một loại thuốc cao hơn so với chi phí để tiến hành giai đoạn tiền lâm sàng v́ các thử nghiệm có sự đóng góp của nhiều người hơn trong thời gian dài hơn. Các thử nghiệm lâm sàng diễn ra theo nhiều giai đoạn:

 

Thử nghiệm giai đoạn I (c̣n được gọi là thử nghiệm an toàn trên người) thử nghiệm một loại thuốc mới tiềm năng ở các mức liều lượng khác nhau, thường trong một nhóm nhỏ t́nh nguyện viên khỏe mạnh để đánh giá tính an toàn của nó trên người. Đối với các loại thuốc có mức độ độc tính dự kiến ​​cao, đối tượng thử nghiệm giai đoạn I là những người mắc bệnh mục tiêu.

Thử nghiệm giai đoạn II lớn hơn và chỉ bao gồm những người có t́nh trạng sức khỏe mà thuốc được dự định điều trị. Thử nghiệm giai đoạn II đánh giá hoạt tính sinh học của thuốc và xác định và mô tả đặc điểm của bất kỳ tác dụng phụ nào.

Thử nghiệm giai đoạn III vẫn c̣n lớn hơn và đánh giá hiệu quả lâm sàng của thuốc. Chúng có thể mất nhiều năm để hoàn thành. Hiệu quả điều trị dự kiến ​​của thuốc càng nhỏ so với giả dược, th́ số lượng bệnh nhân cần thiết trong các thử nghiệm pha III của thuốc càng lớn để có thể phân biệt được tác dụng thực sự của thuốc (nếu có) với sự thay đổi ngẫu nhiên về kết quả của bệnh nhân.

Thử nghiệm giai đoạn IV (c̣n được gọi là thử nghiệm cảnh giác dược) có thể được tiến hành sau khi một loại thuốc mới được đưa ra thị trường. Họ t́m kiếm các tác dụng phụ chưa từng thấy trong các thử nghiệm trước đó và đo lường hiệu quả của một loại thuốc trong thời gian sử dụng lâu hơn so với nghiên cứu trong các thử nghiệm trước đó.

Nói chung, chỉ những loại thuốc đă điều hướng thành công ba giai đoạn đầu mới có thể được xem xét để FDA chấp thuận, mặc dù các cơ quan quản lư đôi khi phê duyệt các loại thuốc mới mà không cần thử nghiệm giai đoạn III. (Trong số 59 loại thuốc được phê duyệt vào năm 2018, 7 loại thuốc không trải qua thử nghiệm giai đoạn III trước khi được phê duyệt.) 19 Trong một số trường hợp, FDA có thể yêu cầu thử nghiệm giai đoạn IV sau khi thuốc được phê duyệt để phát hiện các phản ứng bất lợi có thể không được quan sát cho đến khi thuốc được sử dụng rộng răi hơn. Các công ty dược phẩm cũng có thể chọn tiến hành các thử nghiệm pha IV để cho thấy (v́ mục đích tiếp thị) tính ưu việt của sản phẩm của họ so với các liệu pháp điều trị bằng thuốc hiện có khác.

 

Rất ít loại thuốc tham gia thử nghiệm lâm sàng cuối cùng được chấp thuận; một số thất bại trong các thử nghiệm lâm sàng, và một số khác bị gạt sang một bên khi một công ty quyết định tập trung vào các loại thuốc có triển vọng hơn. Trong một số trường hợp, các loại thuốc được đệ tŕnh để phê duyệt bị FDA từ chối. Trong một mẫu thuốc trong các thử nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng cứ 100 loại thuốc bước vào thử nghiệm giai đoạn I, th́ có khoảng 60 loại thuốc được thử nghiệm nâng cao đến giai đoạn II, chỉ có hơn 20 loại thuốc bước vào thử nghiệm giai đoạn III và chỉ có khoảng 12 loại được FDA chấp thuận. 20 Sự hiểu biết rơ ràng như vậy được phản ánh trong chi phí R&D trung b́nh cho mỗi loại thuốc được phê duyệt, bao gồm tất cả chi phí R&D cho các loại thuốc không được đưa ra thị trường.

 

Chi phí có xu hướng tăng lên trong mỗi giai đoạn phát triển liên tiếp. Trong mẫu vừa được mô tả, các công ty đă chi trung b́nh khoảng 1,065 triệu đô la cho các thử nghiệm lâm sàng cho mỗi loại thuốc mới được phê duyệt (nhiều hơn gấp đôi số tiền chi cho giai đoạn nghiên cứu tiền lâm sàng). Chi tiêu trung b́nh là 28 triệu đô la trong giai đoạn I, 65 triệu đô la trong giai đoạn II và 282 triệu đô la trong giai đoạn III. 21 Đối với mỗi loại thuốc đă hoàn thành ba giai đoạn đầu của thử nghiệm lâm sàng, tổng chi phí trung b́nh của các thử nghiệm đó là khoảng 375 triệu đô la. 690 triệu đô la c̣n lại (trong tổng số 1,065 triệu đô la tổng chi tiêu trung b́nh cho các thử nghiệm lâm sàng) phản ánh chi tiêu đồng thời của các công ty cho các loại thuốc không thành công trong các thử nghiệm lâm sàng hoặc đă được trích lập.

 

Chi phí vốn của R&D. Ngoài chi phí nghiên cứu tiền lâm sàng và thử nghiệm lâm sàng, các công ty dược phẩm phải chịu chi phí bằng cách bỏ qua các cơ hội đầu tư khác với số tiền chi cho các thử nghiệm lâm sàng. V́ chi tiêu cho R&D của các công ty dược phẩm diễn ra trong nhiều năm, nên những chi phí vốn đó là đáng kể và có thể gần bằng giá trị của chi phí R&D thực tế để phát triển một loại thuốc mới.

 

Ước tính Tổng chi phí R&D. Ba nghiên cứu gần đây đă ước tính chi phí R&D trung b́nh cho mỗi loại thuốc mới. Tất cả họ đều đo lường chi phí R&D theo cùng một cách: Họ cộng tất cả chi phí R&D của mỗi công ty trong mẫu của họ — không chỉ chi tiêu của họ cho loại thuốc mới được lấy mẫu mà cả chi tiêu của công ty cho các loại thuốc khác đang được phát triển cùng thời điểm. đă không tiếp cận thị trường. Các nghiên cứu cũng đều áp dụng điều chỉnh chi phí vốn đối với chi tiêu R&D của mỗi công ty để phản ánh độ trễ giữa đầu tư và lợi tức đầu tư. 22 Mặc dù có những điểm tương đồng về phương pháp luận, nhưng ước tính của các nghiên cứu nằm trong khoảng từ 0,8 tỷ đô la đến 2,3 tỷ đô la chi tiêu cho R&D cho mỗi loại thuốc mới.

 

Sự khác biệt trong việc lựa chọn mẫu và nguồn dữ liệu dường như là những nguồn biến đổi quan trọng trong các ước tính đó. Ước tính lớn nhất, 2,3 tỷ đô la (từ một nghiên cứu năm 2016, được tŕnh bày ở đây bằng đô la 2019), bao gồm khoảng 900 triệu đô la chi tiêu cho nghiên cứu tiền lâm sàng và 1,4 tỷ đô la cho các thử nghiệm lâm sàng. 23 Những ước tính này dựa trên một mẫu gồm 106 loại thuốc được chọn ngẫu nhiên từ 10 công ty dược phẩm lớn, 5 trong số đó được xếp hạng trong số 10 công ty hàng đầu của ngành theo doanh thu bán hàng, với 3 loại khác được xếp hạng trong top 50 nhưng nằm ngoài top 25. 24Nghiên cứu được trích dẫn rộng răi đó là nghiên cứu mới nhất trong một loạt các nghiên cứu tương tự mà các tác giả đă xuất bản trong ba thập kỷ qua. Do chi phí R&D được báo cáo bởi các doanh nghiệp được lấy mẫu không được công bố rộng răi, nên rất khó để đánh giá mức độ ảnh hưởng của kết quả của các nghiên cứu đó do việc lựa chọn mẫu và các khía cạnh khác của phương pháp thu thập dữ liệu. 25 Tuy nhiên, một nỗ lực độc lập nhằm tái tạo một lần lặp lại nghiên cứu trước đó đă t́m thấy kết quả tương tự. 26

 

Nghiên cứu thứ hai, được thực hiện một phần để cung cấp một giải pháp thay thế cho những ước tính năm 2016, cho thấy chi phí R&D trung b́nh là 1,2 tỷ đô la (được biểu thị ở đây bằng đô la 2019), với chi phí cho từng loại thuốc dao động từ 137 triệu đô la đến 5,8 tỷ đô la. 27 Giới hạn trên, dựa trên một loại thuốc bên ngoài chiếm 2,2 tỷ đô la trong chi phí R&D thực tế và 3,6 tỷ đô la chi phí vốn, làm lệch ước tính trung b́nh lên. Chi phí R&D trung b́nh , không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài, là 0,9 tỷ đô la.

 

Mẫu trong nghiên cứu đó bao gồm 63 loại thuốc (được phát triển bởi 47 công ty khác nhau) trong số 355 loại thuốc mà FDA đă phê duyệt từ năm 2009 đến năm 2018. Dữ liệu chi tiêu cho R&D cho 63 loại thuốc đó được công bố công khai (không giống như dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu năm 2016) . Mẫu nghiên cứu nghiêng về các công ty nhỏ hơn — mặc dù hiện nay điều này cũng đúng với việc phát triển thuốc nói chung — và các tác giả cảnh báo rằng mẫu của họ có thể tŕnh bày quá mức các loại thuốc được phê duyệt từ năm 2014 đến năm 2018 và những loại thuốc trong một số lĩnh vực điều trị, thuốc hạng nhất, thuốc mồ côi, và các tác nhân điều trị đă nhận được sự chấp thuận nhanh chóng. Dữ liệu R & D bao gồm chi tiêu của các công ty cho các loại thuốc không tiếp cận thị trường.

 

Trong nghiên cứu thứ ba, các nhà nghiên cứu giới hạn mẫu của họ trong các loại thuốc ung thư mới từ các công ty không có sản phẩm được phê duyệt trước đó. Họ đă t́m thấy chi phí trung b́nh là 0,9 tỷ đô la cho mỗi loại thuốc được phê duyệt (được biểu thị ở đây bằng đô la 2019). 28 Đáng chú ư, nghiên cứu đó đă loại trừ chi tiêu cho R&D của các công ty chưa phát triển bất kỳ loại thuốc nào được phê duyệt, và do đó, nghiên cứu đánh giá thấp chi tiêu cho R&D đối với các loại thuốc không thành công và mở rộng ra, chi phí dự kiến ​​cho mỗi loại thuốc mới. Trung b́nh quan sát thấy chi phí R & D trong mẫu đó là khoảng 0,8 tỷ đô la cho mỗi loại thuốc mới, với ước tính cho các loại thuốc riêng lẻ là từ khoảng 212 triệu đô la đến 2,7 tỷ đô la bao gồm cả chi phí vốn. Những ước tính đó bao gồm tổng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển của các nhà phát triển trong khi các loại thuốc được phê duyệt đang được phát triển, bao gồm cả chi phí cho các loại thuốc không thành công.

 

Xu hướng về chi phí R&D . Chi phí R&D đă tăng khoảng 8,5% mỗi năm trong khoảng một thập kỷ qua. 29 Sự gia tăng chi phí R&D trung b́nh có thể phản ánh những thay đổi về loại thuốc đang được phát triển hoặc số lượng thuốc trong các thử nghiệm lâm sàng tốn kém. Nếu tỷ lệ thành công của các loại thuốc sinh học mới thấp hơn so với các loại thuốc truyền thống, phân tử nhỏ, hoặc nếu chi phí R&D cho các loại thuốc thất bại cao hơn cho các loại thuốc sinh học, th́ điều đó cũng sẽ góp phần làm tăng chi phí R&D trung b́nh.

 

Một số bằng chứng cho thấy rằng tỷ lệ thành công trung b́nh thực sự có thể đă giảm. Nghiên cứu năm 2016 cho thấy ít hơn 12% số thuốc bước vào giai đoạn I thử nghiệm lâm sàng cuối cùng đă được đưa ra thị trường, nhưng nó báo cáo tỷ lệ thành công vượt quá 20% đối với các loại thuốc được phát triển trong những năm 1980 và 1990. 30 Tuy nhiên, các bằng chứng khác cho thấy rằng tỷ lệ thành công chung của các thử nghiệm lâm sàng không hề giảm. 31

 

Một yếu tố khác có thể làm tăng chi phí R&D là việc tuyển dụng bệnh nhân ứng viên vào một số loại thử nghiệm lâm sàng trở nên khó khăn hơn. 32Ví dụ, bệnh nhân tương lai có thể ít quan tâm đến việc có cơ hội thực hiện các phương pháp điều trị chưa được kiểm tra trong các thử nghiệm lâm sàng khi các lựa chọn điều trị được chấp thuận đă tương đối hiệu quả. Và, trong một số lớp trị liệu, càng khó chứng minh rằng một loại thuốc mới sẽ cải thiện tiêu chuẩn chăm sóc hiện có. Ví dụ, những tiến bộ trong phương pháp điều trị ung thư đă kéo dài tuổi thọ mong đợi của bệnh nhân ung thư. Do đó, các thử nghiệm lâm sàng về thuốc điều trị ung thư tiềm năng phải được mở rộng hoặc kéo dài để có thể ước tính hiệu quả điều trị trên tuổi thọ của bệnh nhân với độ chính xác phù hợp. Đó là, bởi v́ các phương pháp điều trị ung thư đă trở nên hiệu quả hơn, hiện nay, trung b́nh sẽ mất nhiều thời gian hơn để quan sát một số ca tử vong nhất định trong một thử nghiệm lâm sàng. 33

 

Chính sách cộng đồng

Chính sách liên bang ảnh hưởng đến chi tiêu R&D của các công ty dược phẩm, cả về quy mô và hướng đi. (Các chính sách ở các quốc gia khác và ở các cấp chính phủ khác cũng có thể ảnh hưởng đến chi tiêu đó. Những chính sách đó nằm ngoài phạm vi của báo cáo này.)

 

Các chính sách xung quanh các chương tŕnh chăm sóc sức khỏe liên bang và trợ cấp ảnh hưởng trực tiếp nhất đến nhu cầu về các loại thuốc mới. Các chính sách khác ảnh hưởng đến việc cung cấp thuốc mới (hỗ trợ liên bang cho nghiên cứu cơ bản, xử lư thuế đối với chi tiêu R&D và những chính sách ảnh hưởng đến tính độc quyền của thị trường). Vẫn c̣n những lĩnh vực khác của hoạch định chính sách liên bang ảnh hưởng đến cả cung và cầu (chính sách vắc xin và chính sách quản lư).

 

Những thay đổi trong chính sách làm tăng nhu cầu về dược phẩm hoặc khuyến khích nguồn cung của họ sẽ có xu hướng làm cho hoạt động R&D trở thành một khoản đầu tư hấp dẫn hơn. Những thay đổi chính sách theo hướng ngược lại có thể khiến nó trở nên kém hấp dẫn hơn.

 

Các chương tŕnh và trợ cấp chăm sóc sức khỏe liên bang . Một loạt các chương tŕnh chăm sóc sức khỏe liên bang và trợ cấp làm tăng nhu cầu đối với các dịch vụ và sản phẩm chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả thuốc theo toa. Những sáng kiến ​​như vậy gián tiếp kích thích chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển thuốc. Cụ thể, chính phủ liên bang — thông qua Medicare, Medicaid, TRICARE, Cơ quan Quản lư Y tế Cựu chiến binh, Chương tŕnh Bảo hiểm Y tế Trẻ em và các thị trường bảo hiểm y tế do Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng — mua hoặc trợ cấp thay mặt cho việc mua một số lượng đáng kể thuốc theo toa người về hưu, cựu chiến binh, người khuyết tật và hộ gia đ́nh có thu nhập thấp. Tổng hợp lại, chi tiêu liên bang và tiểu bang cho thuốc theo toa chiếm khoảng 40% tổng chi tiêu bán lẻ thuốc theo toa của Hoa Kỳ vào năm 2019. 34

 

Những thay đổi đối với các chương tŕnh đó sẽ ảnh hưởng đến chi tiêu cho R&D. Ví dụ, khi Medicare Phần D (phúc lợi thuốc theo toa của Medicare) được triển khai vào năm 2006, doanh số bán thuốc theo toa cho những người ghi danh đă tăng lên đáng kể. Ngoài ra, đối với những người đăng kư Medicare có đầy đủ quyền lợi của Medicaid, việc đài thọ thuốc theo toa được chuyển từ Medicaid sang Medicare Phần D, làm tăng giá trung b́nh phải trả cho các loại thuốc chính hiệu của những người đăng kư đó. Sự gia tăng doanh thu hiện tại và dự kiến ​​đă khuyến khích ngành công nghiệp phát triển các loại thuốc mới cho dân số Medicare. Từ năm 2003 đến năm 2010, số lượng thuốc bước vào thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I đă tăng khoảng 50 phần trăm trong các hạng trị liệu với doanh số bán hàng tương đối cao cho những người đăng kư Medicare. Hoạt động phát triển gia tăng đó cuối cùng đă dẫn đến sự gia tăng số lượng ma túy trong các lớp đó.35

 

Chính phủ liên bang cũng tăng nhu cầu đối với thuốc theo toa bằng cách trợ cấp cho bảo hiểm y tế dựa trên việc làm: Khoản đóng góp của người sử dụng lao động đối với chi phí bảo hiểm đó được loại trừ khỏi thu nhập chịu thuế của nhân viên, giúp giảm giá một cách hiệu quả cho nhân viên. Do đó, nhiều người lựa chọn bảo hiểm y tế hào phóng hơn so với cách khác, điều này làm tăng chi tiêu của họ cho việc chăm sóc sức khỏe (bao gồm cả thuốc kê đơn) và gián tiếp kích thích R&D dược phẩm. Kích thích đó sẽ biến mất nếu trợ cấp thuế đối với bảo hiểm y tế dựa trên việc làm bị loại bỏ. Quy mô ảnh hưởng đối với chi tiêu cho R&D sẽ phụ thuộc vào việc việc loại bỏ trợ cấp sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự lựa chọn bao trả bảo hiểm y tế của các cá nhân. 36

 

Hỗ trợ cho Nghiên cứu cơ bản. Chính phủ liên bang là nhà tài trợ chính cho nghiên cứu cơ bản trong khoa học y sinh. Nghiên cứu đó cuối cùng làm tăng nguồn cung cấp các loại thuốc mới v́ các công ty dược dựa vào những phát hiện từ nghiên cứu đó — ví dụ, xác định các mục tiêu bệnh tật mà các liệu pháp thuốc mới có thể nhắm đến. Nghiên cứu cơ bản đó tạo ra kiến ​​thức, trên thực tế, làm giảm chi phí R&D của các công ty tư nhân và kích thích đầu tư tư nhân vào R&D, v́ nó mở rộng tập hợp các cơ hội phát triển thuốc có khả năng sinh lời. Đặc biệt, sự gia tăng nghiên cứu cơ bản liên quan đến sức khỏe tại NIH hoặc các cơ quan nghiên cứu liên bang khác đă được phát hiện làm tăng R&D thuốc tư nhân trong các lớp trị liệu liên quan đến nghiên cứu cơ bản đó. 37

 

Cơ sở lư luận của đầu tư công vào nghiên cứu y sinh cơ bản là các khuyến khích đầu tư vào đó của các công ty tư nhân bị tắt. Nghiên cứu cơ bản tạo ra kiến ​​thức (chẳng hạn như xác định mục tiêu bệnh) không có sẵn trong một sản phẩm bán trên thị trường (chẳng hạn như một loại thuốc). Một công ty có thể giữ cho ḿnh càng nhiều thông tin đó th́ giá trị của nó đối với công ty càng lớn - và động cơ đầu tư vào nghiên cứu đó của công ty càng mạnh mẽ. Nhưng v́ thông tin có thể được truyền đạt với chi phí thấp, nên nó có thể khó chứa đựng trong một công ty. Các công ty tư nhân có xu hướng miễn cưỡng thực hiện các nghiên cứu cơ bản như xác định một mục tiêu bệnh mới, v́ sẽ khó giữ được nhiều giá trị của khám phá đó cho riêng họ. Ví dụ: một khi mục tiêu bệnh được biết, nhiều công ty (không chỉ công ty xác định nó) có thể phát triển các loại thuốc nhằm vào mục tiêu đó. Điều đó làm suy yếu các khuyến khích tư nhân đầu tư vào nghiên cứu cơ bản và kết quả là các công ty tư nhân làm quá ít về nó từ góc độ toàn xă hội (có nghĩa là lợi ích xă hội nếu họ thực hiện nghiên cứu cơ bản bổ sung sẽ lớn hơn chi phí).

 

Vai tṛ của Nghiên cứu do NIH tài trợ. Trong hai thập kỷ qua, tổng tài trợ của liên bang cho NIH đă lên tới hơn 700 tỷ đô la. 38 Phần lớn kinh phí đó đă hỗ trợ nghiên cứu cơ bản (về gen, sinh học phân tử và các khoa học đời sống khác) nhằm xác định các cơ chế bệnh tật mới. Hỗ trợ của liên bang dành cho NIH tăng gần gấp đôi từ năm 1995 đến 2003, tăng từ 18 tỷ đô la lên khoảng 37 tỷ đô la (xem H́nh 6 ). Tài trợ của liên bang cho NIH đă giảm (tính theo đô la được điều chỉnh theo lạm phát) mỗi năm từ 2003 đến 2015, khi khoản tài trợ đó là khoảng 33 tỷ đô la. Với mức tăng thực tế hàng năm trong 5 năm tiếp theo, nguồn tài trợ cho NIH đạt 41 tỷ đô la vào năm 2020.

 

H́nh 6.

Tài trợ của Liên bang cho Viện Y tế Quốc gia, Tài khóa 1995 đến 2020

Hàng tỷ đô la năm 2019

 

 

Sự gia tăng lớn trong nguồn tài trợ cho NIH — trung tâm của phần lớn hỗ trợ nghiên cứu y sinh cơ bản của chính phủ liên bang — vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 trước một thập kỷ nguồn tài trợ giảm dần. Kể từ năm 2016, nguồn tài trợ của NIH đă tăng lên hàng năm.

 

Nguồn dữ liệu: Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, sử dụng dữ liệu từ Viện Y tế Quốc gia, Văn pḥng Ngân sách. Xem www.cbo.gov/publication/57025#data .

 

NIH = Viện Y tế Quốc gia.

 

Từ năm 2010 đến năm 2016, mọi loại thuốc được FDA phê duyệt theo một cách nào đó đều dựa trên nghiên cứu y sinh học do NIH tài trợ. 39 Trong nhiều trường hợp, các loại thuốc mới nhắm vào cơ chế bệnh tật đă được xác định bằng những tiến bộ của khoa học cơ bản từ nguồn tài trợ đó. Thật vậy, hầu hết các loại thuốc mới quan trọng được ngành công nghiệp dược giới thiệu trong hơn 60 năm qua đều được phát triển với sự hỗ trợ của các nghiên cứu được tiến hành trong khu vực công. 40 Khoa học cơ bản do nhà nước tài trợ đă tạo nền tảng cho khu vực tư nhân có thể thực hiện các công việc bổ sung về khoa học ứng dụng phát triển thuốc.

 

Nghiên cứu do NIH tài trợ ảnh hưởng đến R&D của tư nhân như thế nào. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng nghiên cứu khu vực công có xu hướngtăng nghiên cứu và phát triển tư nhân hơn là giảm nó đi — nghĩa là, chúng là sản phẩm bổ sung, không phải sản phẩm thay thế. 41 Một số nghiên cứu gần đây cho thấy sự gia tăng nghiên cứu cơ bản do NIH tài trợ với sự gia tăng các nỗ lực R&D của tư nhân. 42 Một nghiên cứu cho thấy rằng trong thập kỷ sau khi nguồn tài trợ của NIH tăng lên, chi tiêu cho R&D của tư nhân đă tăng gấp 8 lần so với mức tăng tài trợ đó. 43 Một nghiên cứu khác cho thấy cứ hai tài trợ nghiên cứu của NIH th́ có khoảng một bằng sáng chế mới của khu vực tư nhân được trao. 44

 

Mối quan hệ bổ sung giữa chi tiêu R&D của nhà nước và tư nhân phát sinh chủ yếu do tài trợ của NIH tập trung vào nghiên cứu cơ bản dẫn đến việc khám phá ra các loại thuốc mới, trong khi chi tiêu tư nhân tập trung vào các ứng dụng của nghiên cứu đó. Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển của tư nhân cho thử nghiệm lâm sàng, đổi mới gia tăng, khác biệt hóa sản phẩm và an toàn, tất cả đều dựa trên nghiên cứu cơ bản.

 

Mối quan hệ đó phức tạp bởi hai yếu tố. Thứ nhất, sự phân biệt giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng chưa được xác định rơ và khả năng chi tiêu cho nghiên cứu của liên bang lấn át chi tiêu cho R&D của tư nhân khác nhau tùy theo loại h́nh nghiên cứu. Nguy cơ đông đúc càng lớn khi chính phủ tài trợ cho nghiên cứu mà các ứng dụng thương mại tiềm năng là rơ ràng và có giá trị, như trường hợp các pḥng nghiên cứu liên bang và tư nhân đua nhau lập bản đồ bộ gen người. Thứ hai, chi tiêu cho nghiên cứu của liên bang cũng có thể gián tiếp lấn át chi tiêu tư nhân bằng cách tăng nhu cầu về các nhà nghiên cứu có tay nghề cao. Điều đó có thể gây ra sự gia tăng chi phí lao động nghiên cứu trong khu vực tư nhân cũng như khu vực công. 45

 

Xử lư thuế đối với chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển. Mă số thuế làm tăng việc cung cấp thuốc mới theo hai cách: Thứ nhất, nó cung cấp các khoản tín dụng thuế cho một số chi phí R&D nhất định (bao gồm các khoản tín dụng dành cho tất cả các loại h́nh công ty và các khoản tín dụng dành riêng cho việc phát triển các loại thuốc điều trị các bệnh không phổ biến). Thứ hai, nó cho phép tất cả các loại h́nh công ty được khấu trừ các khoản chi không đủ điều kiện nhận tín dụng làm chi phí kinh doanh trong năm mà chúng được thực hiện. Cả hai biện pháp khuyến khích đều khuyến khích chi tiêu cho R&D bằng cách giảm chi phí cho công ty.

 

Ưu đăi thuế. Tín dụng thuế nghiên cứu và thử nghiệm, dành cho tất cả các loại h́nh công ty cho các khoản chi tiêu R&D đủ tiêu chuẩn nhất định, trực tiếp làm giảm số thuế thu nhập mà một công ty phải trả. 46 Khoản tín dụng thuế đó đă được sửa đổi theo thời gian và được thực hiện vĩnh viễn bởi Đạo luật Chiếm đoạt Hợp nhất, 2016 (Công luật 114-113). 47 Một số sự gia tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển của các ngành công nghiệp dược phẩm trong vài thập kỷ qua có thể là một phản ứng đối với những thay đổi trong tín dụng đó. Ngoài ra, Đạo luật Thuốc cho Trẻ mồ côi (PL 97-414), được ban hành vào năm 1983, đă tạo ra một khoản tín dụng thuế để khuyến khích sự phát triển của các loại thuốc để điều trị các bệnh tương đối phổ biến.Các công ty cũng có thể chọn khấu trừ chi phí đầu tư R&D ngay lập tức thay v́ trong suốt thời gian đầu tư. Nhiều công ty sử dụng cả tín dụng thuế và khả năng tăng tốc khấu trừ cho các khoản đầu tư vào R&D, mặc dù chỉ có một ưu đăi thuế có thể được sử dụng cho bất kỳ khoản chi phí đầu tư cụ thể nào.

 

Hiệu lực của Luật thuế năm 2017. Ảnh hưởng thực của PL 115-97 (ban đầu được gọi là Đạo luật Cắt giảm thuế và Việc làm và được gọi là Đạo luật thuế năm 2017 trong báo cáo này) đối với đầu tư R&D là không chắc chắn. Đầu tư vào R&D được khuyến khích bằng việc giảm thuế suất doanh nghiệp hàng đầu từ 35% xuống 21% v́ thu nhập từ các loại thuốc mới sẽ bị đánh thuế ở mức thấp hơn.

 

Đầu tư không được khuyến khích bởi những thay đổi trong cách thực hiện các khoản khấu trừ cho chi phí R&D. Đạo luật này dự kiến ​​sẽ làm giảm giá trị của các khoản khấu trừ thuế cho R&D khi chúng có hiệu lực. Bắt đầu từ năm 2022, các công ty sẽ khấu trừ chi phí R&D hàng năm trong khoảng thời gian 5 năm thay v́ nhận toàn bộ khoản khấu trừ thuế trong năm chi phí phát sinh. Điều đó không khuyến khích đầu tư vào R&D v́ giá trị của khoản khấu trừ đó sẽ giảm xuống. Việc giảm thuế suất doanh nghiệp cao nhất sẽ làm giảm giá trị khấu trừ thuế hơn nữa.

 

Đạo luật thuế năm 2017 cũng giảm tín dụng thuế do Đạo luật Thuốc mồ côi tạo ra từ 50% xuống 25% chi phí thử nghiệm lâm sàng. 48 Khi kết hợp với thuế suất thấp hơn, sự thay đổi đó sẽ làm giảm khoảng 40% lợi ích thuế năm đầu tiên dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển thuốc dành cho trẻ mồ côi. (Chi phí áp dụng cho khoản tín dụng thuế đối với thuốc dành cho trẻ mồ côi cũng không thể được áp dụng cho khoản tín dụng nghiên cứu và thử nghiệm, chúng cũng không thể được khấu trừ dưới dạng chi phí.) Thay đổi đó cũng sẽ không khuyến khích đầu tư vào R&D thuốc.

 

Các chính sách ảnh hưởng đến tính độc quyền của thị trường. Chính phủ liên bang đă áp dụng nhiều chính sách khác nhau cho phép các nhà sản xuất độc quyền trên thị trường để tăng nguồn cung thuốc mới. Trong những giai đoạn đó, giá trung b́nh của những loại thuốc mới đó cao hơn so với những loại thuốc sau này, một khi những phiên bản chung loại có giá thấp hơn được phép đưa vào thị trường. Lợi tức chi tiêu cho R&D được cung cấp bởi những mức giá cao hơn đó khuyến khích các công ty phát triển các loại thuốc mới. Sự khuyến khích đó không phải là không giới hạn: Một nhà sản xuất chỉ nhận được độc quyền trên thị trường đối với thuốc của chính ḿnh. Có thể có các loại thuốc cạnh tranh trong cùng một thị trường điều trị và các công ty có thể giới thiệu các loại thuốc mới khác vào thị trường đó, miễn là chúng không vi phạm bằng sáng chế của các loại thuốc hiện có.

 

Cách chính mà chính phủ liên bang cấp cho các nhà đổi mới độc quyền thị trường tạm thời là thông qua hệ thống bằng sáng chế của Hoa Kỳ. Hầu hết các bằng sáng chế sẽ hết hạn sau 20 năm kể từ ngày nộp đơn đăng kư sáng chế, nhưng các công ty dược phẩm có thể nhận được thêm vài năm bảo hộ bằng sáng chế để công nhận rằng các loại thuốc đă được cấp bằng sáng chế không thể được bán cho đến khi họ hoàn thành các thử nghiệm lâm sàng. (Đơn xin cấp bằng sáng chế thuốc thường được nộp trước khi thuốc đi vào thử nghiệm lâm sàng, bởi v́ những tiết lộ từ những thử nghiệm đó có thể được coi là "nghệ thuật trước" có thể làm mất hiệu lực bằng sáng chế nếu đơn đăng kư của nó được nộp sau khi những tiết lộ đó xảy ra.) Công nhận rằng một loại thuốc có thể tiêu tốn một số nhiều năm độc quyền trên thị trường trong các thử nghiệm lâm sàng, không kiếm được doanh thu, Đạo luật Hatch-Waxman (PL

 

Các công ty dược phẩm cũng có thể nhận được độc quyền bổ sung — khác với độc quyền được cấp bằng sáng chế — cho các loại thuốc điều trị các bệnh tương đối phổ biến. Đạo luật Thuốc dành cho Trẻ mồ côi, được ban hành vào năm 1983, cung cấp bảy năm độc quyền trên thị trường (đối với việc sử dụng cho trẻ mồ côi được chỉ định, bất kể thời hạn bằng sáng chế c̣n lại) đối với các loại thuốc điều trị các t́nh trạng ảnh hưởng đến dưới 200.000 người ở Hoa Kỳ hoặc thuốc đó, theo phán quyết của FDA , đối mặt với các điều kiện thị trường khiến cho việc một nhà đổi mới khó có thể thu hồi được chi phí R&D của ḿnh. Đạo luật Thuốc cho Trẻ mồ côi dường như đă dẫn đến sự gia tăng số lượng các loại thuốc mới cho các bệnh hiếm gặp. 49

 

Chính sách ảnh hưởng đến thuốc gốc. Ngoài việc kéo dài thời kỳ độc quyền trên thị trường đối với thuốc biệt dược, Đạo luật Hatch-Waxman (ban hành năm 1984) cũng hỗ trợ sự phát triển của thuốc gốc. Nó mở rộng bằng sáng chế thuốc lên đến năm năm nhưng khuyến khích sự cạnh tranh từ các loại thuốc gốc khi các bằng sáng chế về một loại thuốc tiên phong đă hết hạn.

 

Luật cho phép FDA chấp thuận hầu hết các loại thuốc gốc mà không cần thử nghiệm lâm sàng. Thay vào đó, nhà sản xuất phải chứng minh rằng thuốc của ḿnh là dược dụng tương đương với biệt dược mà hăng sao chép, có cùng thành phần hoạt tính và không có sự khác biệt đáng kể về tốc độ và mức độ hấp thu tại vị trí tác dụng của thuốc trong cơ thể.

 

Luật cũng cho phép FDA gia hạn thêm ba năm tính độc quyền trên thị trường của thuốc có thương hiệu đối với những thay đổi gia tăng, chẳng hạn như chỉ định mới, chế độ dùng thuốc hoặc quần thể bệnh nhân. (FDA chỉ cấp quyền độc quyền bổ sung đó khi nhà sản xuất đă tiến hành các thử nghiệm lâm sàng mà cơ quan này đánh giá là cần thiết. )

 

Do đó, đạo luật này đă tăng cường các động cơ khuyến khích phát triển các loại thuốc mới bằng cách kéo dài tuổi thọ bằng sáng chế thuốc và giúp các phiên bản chung loại chi phí thấp hơn được giới thiệu dễ dàng hơn khi thuốc vào phạm vi công cộng bằng cách cho phép FDA phê duyệt hầu hết các thuốc gốc dựa trên sự tương đương dược phẩm hơn là hơn các thử nghiệm lâm sàng.

 

Các Chính sách Ảnh hưởng đến Thuốc Biosimilar. Quốc hội đă t́m cách tạo ra sự thúc đẩy sự phát triển của các loại thuốc tương tự sinh học — chất tương tự, cho thuốc sinh học, các bản sao chung của các loại thuốc phân tử nhỏ. Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Giá cả phải chăng (PL 111-148) đă tạo ra một con đường viết tắt để FDA chấp thuận các loại thuốc tương tự sinh học. Nhà sản xuất thuốc tương tự sinh học được đề xuất phải chứng minh rằng thuốc “rất giống và không có sự khác biệt có ư nghĩa lâm sàng so với” thuốc sinh học tiên phong. 51 Ngoài ra, các nhà sản xuất tương tự sinh học không cần phải tiến hành nhiều thử nghiệm lâm sàng như đă tiến hành đối với thuốc tiên phong v́ họ có thể trích dẫn các quyết định về tính an toàn và hiệu quả của FDA đối với thuốc sinh học gốc.

 

Cho đến nay, đạo luật đó đă dẫn đến tương đối ít thuốc tương tự sinh học được chấp thuận so với tác động của Đạo luật Hatch-Waxman đối với sự phát triển của thuốc gốc. Tính đến tháng 12 năm 2020, FDA chỉ phê duyệt 29 loại thuốc tương tự sinh học và không phải tất cả chúng đều đă được giới thiệu. 52 Trong số 125 tỷ đô la chi tiêu bán lẻ trong nước được báo cáo cho thuốc sinh học vào năm 2017 (biểu thị ở đây là đô la 2019), 11 tỷ đô la đă được chi cho sinh học có phiên bản tương tự sinh học và chỉ 0,9 tỷ đô la đă được chi cho những chế phẩm sinh học đó. 53

 

Sự thiếu cạnh tranh tương đối đối với các loại thuốc sinh học tiên phong có thể góp phần vào việc chuyển hướng phát triển thuốc mới sang thuốc sinh học thay v́ thuốc phân tử nhỏ. Một phần, sự thay đổi đó có thể chỉ phản ánh những tiến bộ trong khoa học cơ bản. Nhưng thuốc sinh học cũng là mục tiêu nghiên cứu hấp dẫn v́ chúng khó sao chép hơn. Hệ thống bằng sáng chế không yêu cầu người sáng tạo ban đầu phải chia sẻ ḍng tế bào gốc. Các nhà sản xuất t́m cách tạo ra một loại thuốc tương tự sinh học phải phát triển ḍng tế bào sống của riêng họ để sử dụng làm cơ sở cho loại thuốc mới. Ngược lại, thách thức chính trong việc tạo ra một bản sao chung của một loại thuốc phân tử nhỏ là sao chép phân tử hoạt tính của loại thuốc gốc, được công bố công khai trong bằng sáng chế. Ngoài ra, ngay cả theo con đường viết tắt do FDA chỉ định, thuốc tương tự sinh học vẫn phải trải qua một số thử nghiệm lâm sàng; không giống như thuốc gốc, thuốc tương tự sinh học không thể tránh chúng hoàn toàn.54

 

Thuốc sinh học có thể ít cạnh tranh hơn thuốc phân tử nhỏ. Độc lập với (nhưng đồng thời với) bảo hộ bằng sáng chế, FDA cấp cho các loại thuốc sinh học tiên phong trong 12 năm đảm bảo tính độc quyền, trái ngược với 5 năm độc quyền đối với các loại thuốc phân tử nhỏ. 55 Ngoài ra, khi có liên quan đến thuốc sinh học, người tiêu dùng có thể không dễ dàng chấp nhận một chất thay thế tương tự sinh học như họ làm một loại thuốc thông thường, bởi v́ một chất tương tự sinh học không giống với loại thuốc mà nó bắt chước. 56 Sự chấp nhận của người tiêu dùng có thể ngày càng tăng với tính sẵn có nhiều hơn và sự quen thuộc với các loại biosimilars. Tuy nhiên, một số chính sách thanh toán của liên bang và các thỏa thuận hợp đồng tư nhân có thể không khuyến khích việc sử dụng biosimilars. 57Với khả năng phải đối mặt với ít cạnh tranh hơn ngay cả trong thời kỳ độc quyền của thị trường, các nhà sản xuất thuốc sinh học cũng sẽ dự đoán doanh số bán hàng lâu dài hơn của những loại thuốc đó.

 

Chính sách về vắc xin . Một số chính sách liên bang làm tăng nhu cầu về vắc xin và do đó chi tiêu cho R&D để phát triển chúng. Chương tŕnh Vắc xin cho Trẻ em của liên bang cung cấp vắc xin miễn phí cho những trẻ em có thể không được tiêm chủng v́ gia đ́nh không có khả năng chi trả. Ngoài ra, Trung tâm Kiểm soát và Pḥng ngừa Dịch bệnh xuất bản một lịch tŕnh tiêm chủng được khuyến nghị cho trẻ em và người lớn, bao gồm các khuyến nghị cụ thể cho các nhóm khác nhau, chẳng hạn như nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khách du lịch, bà mẹ tương lai, nhóm chủng tộc và dân tộc và những người có một số t́nh trạng sức khỏe tiềm ẩn. Những khuyến nghị đó khuyến khích các cá nhân tiêm chủng cho bản thân và con cái của họ, đồng thời trợ cấp của liên bang làm giảm chi phí cho người tiêu dùng các loại vắc-xin đó.58 Những phát hiện này cho thấy rằng các nhà sản xuất dự kiến ​​nhu cầu về vắc xin sẽ tăng lên do các khuyến nghị mới.

 

Các chính sách liên bang cũng ảnh hưởng đến việc cung cấp vắc xin. Nghiên cứu tương tự cũng xem xét Quỹ bồi thường thương tật do vắc-xin liên bang, được thành lập vào năm 1986 để khuyến khích các nhà sản xuất phát triển và cung cấp vắc-xin mới bằng cách bồi thường cho các nhà sản xuất chống lại các vụ kiện phát sinh do phản ứng bất lợi đối với vắc-xin ở trẻ em. Nghiên cứu cho thấy sự ra đời của quỹ có liên quan đến việc tăng cường phát triển các loại vắc xin mới.

 

Năm 2020, chính phủ liên bang đầu tư trực tiếp vào việc phát triển vắc-xin bằng cách cung cấp hơn 19 tỷ đô la tài trợ để hỗ trợ phát triển tư nhân vắc-xin pḥng ngừa COVID-19 thông qua Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Tiên tiến Y sinh (xem Hộp 2 ).

 

Chính sách pháp lư . Các chính sách quản lư của liên bang ảnh hưởng đến cung cấp thuốc hoặc nhu cầu về thuốc có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty thuốc trên chi tiêu R&D, do đó sẽ ảnh hưởng đến số tiền họ sẵn sàng chi cho R&D. Quy định đề xuất về một số giá thuốc sẽ ảnh hưởng đến khối lượng bán của các loại thuốc hiện có và do đó, lợi nhuận kỳ vọng trong nghiên cứu và phát triển đối với các loại thuốc trong tương lai; ngược lại, lợi nhuận dự kiến ​​thấp hơn sẽ dẫn đến ít loại thuốc mới hơn. Những thay đổi về quy định của các thử nghiệm lâm sàng cũng sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp các loại thuốc mới.

 

Giá thuốc. Thị trường Hoa Kỳ chịu sự điều chỉnh về giá ít hơn so với thị trường ở nhiều nước khác. Các công ty dược chủ yếu có thể tự định giá, mặc dù một số cơ quan liên bang mua thuốc với giá theo giới hạn luật định, áp đặt các giới hạn theo luật định về tốc độ tăng giá của nhà sản xuất hoặc nhận được khoản giảm giá từ các nhà sản xuất được quy định trong luật. 59

 

Vào năm 2019, Hạ viện đă thông qua HR 3, điều này sẽ yêu cầu Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh đàm phán với các nhà sản xuất thuốc về giá nội địa của một số loại thuốc giá cao, một nguồn gốc để đảm bảo rằng chúng không quá 20 cao hơn phần trăm so với giá trung b́nh của những loại thuốc đó ở các quốc gia cụ thể khác. Theo HR 3, các nhà sản xuất thuốc không đồng ư tham gia đàm phán hoặc không đồng ư với giá thương lượng sẽ phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Sự kết hợp giữa thuế thu nhập và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với việc bán thuốc có thể khiến nhà sản xuất thua lỗ nếu thuốc được bán ở Hoa Kỳ. Những khoản thuế đó sẽ có tác động tương tự như khi thuốc không được chấp thuận để bán hoặc như thể có danh mục thuốc — nghĩa là, một danh sách quốc gia về các loại thuốc mà công ty bảo hiểm có thể chi trả — từ đó loại thuốc đó đă bị loại trừ. Do đó, việc sử dụng thuế tiêu thụ đặc biệt có thể là một nguồn gây áp lực lên các nhà sản xuất thuốc trong các cuộc đàm phán và sẽ làm giảm giá thuốc cũng như chi tiêu của liên bang, CBO ước tính.60 (Để thảo luận về tác động của giá thấp hơn đối với việc giới thiệu các loại thuốc mới, hăy xemHộp 3.)

 

Nói một cách tổng thể hơn, luật tiểu bang bắt buộc hoặc khuyến khích thay thế thuốc gốc cho thuốc tương đương với biệt dược của chúng sẽ giúp hạ giá thuốc. 61 Ngoài ra, hầu hết các chương tŕnh Medicare Phần D khuyến khích việc thay thế thuốc gốc cho các thuốc tương đương với tên thương hiệu của họ. 62 Và mặc dù sự tồn tại của thuốc gốc được cho phép bởi yêu cầu công bố của hệ thống bằng sáng chế (buộc các nhà sản xuất thuốc tiết lộ cấu trúc phân tử của thành phần hoạt chất của thuốc), một số quyết định quản lư của liên bang đă đẩy nhanh việc giới thiệu các loại thuốc đó. 63Theo Đạo luật Hatch-Waxman, các loại thuốc gốc được chứng minh là có chứa thành phần hoạt chất tương tự như thuốc tiên phong không cần phải thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng, như đă mô tả ở trên. Đạo luật này cũng cung cấp các biện pháp bảo vệ pháp lư khỏi các tuyên bố vi phạm bằng sáng chế cho các nhà sản xuất cố gắng phát triển các phiên bản chung của thuốc tiên phong trước khi bằng sáng chế hết hạn và khỏi trách nhiệm đối với các tác dụng phụ không được liệt kê trên nhăn của thuốc tiên phong. 64

 

Sự cạnh tranh từ các loại thuốc gốc - cũng có thể làm giảm nhu cầu về các loại thuốc mới vào các thị trường đó - đă có xu hướng không khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thuốc. 65 Một số nghiên cứu đă phát hiện ra rằng việc giảm 10% thực tế trong tăng trưởng giá thuốc sẽ liên quan đến việc giảm 6% chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển dược phẩm như một tỷ trọng trong doanh thu ṛng. 66

 

Các thử nghiệm lâm sàng. Một khoản chi phí R&D đáng kể có thể chiếm hơn một nửa chi phí R&D (không bao gồm chi phí vốn), các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành theo các yêu cầu của liên bang. Do đó, những thay đổi đối với chính sách liên bang liên quan đến các thử nghiệm lâm sàng có thể ảnh hưởng đáng kể đến chi tiêu R&D của tư nhân. Đặc biệt, các nhà hoạch định chính sách đă thực hiện một số thay đổi đối với các quy định liên bang quản lư các thử nghiệm lâm sàng nhằm giảm thời gian thực hiện và do đó hạ giá thành.

 

Ví dụ, hướng dẫn của FDA, được mô tả ở trên, về cách các công ty dược phẩm có thể thiết lập tương đương sinh học giữa thuốc tương tự sinh học và thuốc sinh học tiên phong nhằm giảm thiểu chi phí của các thử nghiệm lâm sàng liên quan đến việc phát triển thuốc tương tự sinh học. 67 Đạo luật về phí sử dụng thuốc theo toa, được ban hành vào năm 1992, đă cung cấp cho FDA các nguồn lực bổ sung để đẩy nhanh quá tŕnh phê duyệt thuốc, điều này giúp giảm cả thời gian đưa ra thị trường và chi phí vốn phát triển thuốc mới.

 

Gần đây hơn, các nhà hoạch định chính sách liên bang đă cho phép sử dụng "điểm cuối thay thế" trong các thử nghiệm thuốc cho một số bệnh nhất định, bao gồm cả nhiễm HIV và một số bệnh ung thư, để rút ngắn một số thử nghiệm lâm sàng. Điểm cuối đại diện bao gồm các chỉ số dự đoán, gián tiếp (chẳng hạn như huyết áp, mức cholesterol, kích thước khối u, số lượng tế bào T hoặc các dấu hiệu thực thể khác của bệnh), cùng với các kết quả xét nghiệm khác và các biện pháp trong pḥng thí nghiệm. 68 FDA có thể phê duyệt một số loại thuốc nhất định để bán ở Hoa Kỳ dựa trên kết quả thử nghiệm lâm sàng dựa trên các biện pháp thay thế đó chứ không phải dựa trên các biện pháp trực tiếp về lợi ích lâm sàng của một loại thuốc.

 

Việc sử dụng các điểm cuối thay thế đă giúp vô hiệu hóa xu hướng trong nghiên cứu do tư nhân tài trợ nhằm nhấn mạnh các phương pháp điều trị có thể được thương mại hóa nhanh hơn, điều này có thể dẫn đến việc đầu tư quá ít vào các phương pháp điều trị có giá trị lâm sàng sẽ mất nhiều thời gian hơn để phát triển. 69 Các thử nghiệm lâm sàng nhanh hơn cũng có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân bằng cách đẩy nhanh việc giới thiệu các liệu pháp kéo dài sự sống như các phương pháp điều trị kháng vi rút HIV được phát triển vào những năm 1990. 70 Tuy nhiên, việc dựa vào các điểm cuối thay thế có nghĩa là người tiêu dùng có thể chi tiền cho một số loại thuốc hóa ra ít có ư nghĩa về mặt lâm sàng. 71

 

1 . Xem Nghiên cứu và Nhà sản xuất Dược phẩm của Hoa Kỳ, Khảo sát tư cách thành viên thường niên PhRMA 2020 (PhRMA, 2020), https://tinyurl.com/ydh6p64t và Khảo sát tư cách thành viên thường niên PhRMA 2019 (PhRMA, 2019), https://tinyurl.com/ycvneve7 (PDF, 2,15 MB).

 

2 . Tổng số chỉ bao gồm các nghiên cứu được tài trợ bởi các công ty thành viên PhRMA, bao gồm bất kỳ nghiên cứu theo hợp đồng nào được tài trợ bởi các công ty đó và được thực hiện thay mặt cho họ bởi các trường đại học hoặc các pḥng thí nghiệm nghiên cứu theo hợp đồng khác. Đặc biệt, tổng PhRMA không bao gồm các khoản chi để mua tài sản R&D (chẳng hạn như thuốc đang phát triển) của một công ty khác.

 

3 . Xem National Science Foundation, “Business Enterprise Research and Development Survey” (truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2021), www.nsf.gov/st Statistics/srvyberd/ .

 

4 . Xem Nghiên cứu và các nhà sản xuất dược phẩm của Hoa Kỳ, Khảo sát tư cách thành viên thường niên của PhRMA 2019 (PhRMA, 2019), Bảng 2, https://tinyurl.com/ycvneve7 (PDF, 2,15 MB) .

 

5 . Phạm vi đó áp dụng cho cường độ nghiên cứu và phát triển trung b́nh của khoảng 4.000 công ty trong Chỉ số thị trường toàn S&P 500). CBO đă chọn Chỉ số Thị trường Toàn bộ làm cơ sở so sánh v́ độ rộng của nó.

 

6 . Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, Giá và Chi tiêu cho Thuốc Đặc biệt trong Medicare Phần D và Medicaid (Tháng 3 năm 2019), www.cbo.gov/publication/54964 .

 

7 . Các khoản giảm giá không được quan sát được nhà sản xuất trả cho công ty bảo hiểm hoặc người mua và được coi là thông tin độc quyền.

 

8 . Xem Bộ Cựu chiến binh, “Thuốc chữa bệnh viêm gan C: Tổng quan cho bệnh nhân” (truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2021), https://go.usa.gov/xs7qe .

 

9 . Xem Viện IQVIA về Khoa học Dữ liệu Con người, Sử dụng và Chi tiêu Thuốc ở Hoa Kỳ (tháng 4 năm 2018), tr. 37, https://tinyurl.com/yd5cnvrl .

 

10 . Xem Qi Sun và Mindy Z. Xiaolan, “Tài trợ vốn vô h́nh”, Tạp chí Kinh tế Tài chính, tập. 133, không. 3 (tháng 9 năm 2019), trang 564-588, https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2019.04.003 ; Bronwyn Hall và Josh Lerner, “ Nguồn tài chính cho R & D và Đổi mới ,” trong Bronwyn H. Hall và Nathan Rosenberg, biên tập, Sổ tay Kinh tế Đổi mới , tập. 1 (Bắc Hà Lan, 2010), trang 609–639; và Thomas W. Bates, Kathleen M. Kahle, và René M. Stulz, "Tại sao các công ty Hoa Kỳ giữ nhiều tiền mặt hơn họ từng làm?" Tạp chí Tài chính, tập. 64, không. 5 (tháng 10 năm 2009), trang 1985–2021, https://doi.org/10.1111/j.1540-6261.2009.01492.x .

 

11 . Xem R. Glenn Hubbard, “Sự không hoàn hảo của thị trường vốn và đầu tư,” Tạp chí Văn học Kinh tế, tập. 36, không. 1 (tháng 3 năm 1998), trang 193–225, www.jstor.org/stable/2564955 .

 

12 . Xem Văn pḥng trách nhiệm giải tŕnh của Chính phủ, Ngành công nghiệp thuốc: Lợi nhuận, Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển, và các thỏa thuận mua bán và sáp nhập , GAO-18-40 (tháng 11 năm 2017), tr. 36, www.gao.gov/products/GAO-18-40 .

 

13 . Đă dẫn., Tr. 37.

 

14 . Một công ty, trong giới hạn, có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công của chính ḿnh bởi v́ tỷ lệ đó phụ thuộc vào loại thuốc mà công ty chọn để theo đuổi và tiến tới các thử nghiệm lâm sàng và vào cách công ty quản lư quá tŕnh nghiên cứu của ḿnh. Để biết tỷ lệ thành công ước tính, xem Chi Heem Wong, Kien Wei Siah, Andrew W Lo, “Ước tính tỷ lệ thành công của thử nghiệm lâm sàng và các thông số liên quan,” Thống kê sinh học , tập. 20, không. 2 (tháng 4 năm 2019), trang 273–286, https://doi.org/ 10.1093 / bistosystem / kxx069 ; David Thomas và những người khác, Tỷ lệ thành công trong phát triển lâm sàng 2006–2015  (Tổ chức đổi mới công nghệ sinh học, Amplion và Biomedtracker, 2016), https://tinyurl.com/y2n8rnzb (PDF, 4,02 MB); và Michael Hay và những người khác, “Tỷ lệ thành công trong phát triển lâm sàng đối với thuốc điều tra,” Nature Biotechnology , vol. 32, không. 1 (2014), trang 40–51, https://doi.org/10.1038/nbt.2786 .

 

15 . Xem Joseph A. DiMasi, Henry G. Grabowski và Ronald W. Hansen, “Đổi mới trong ngành dược phẩm: Ước tính mới về chi phí R&D,” Tạp chí Kinh tế Y tế, tập. 47 (tháng 5 năm 2016), tr. 25, https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2016.01.012 . Ước tính được báo cáo trong nghiên cứu đó là $ 430 triệu đô la trong năm 2013.

 

16 . Đă dẫn., Tr. 23.

 

17 . Xem Vinay Prasad và Sham Mailankody, “Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển để đưa một loại thuốc điều trị ung thư ra thị trường và doanh thu sau khi được phê duyệt,” JAMA Internal Medicine, vol. 177, không. 11 (tháng 11 năm 2017), trang 1569–1575, https://doi.org/10.1001/jamainternmed.2017.3601 .

 

18 . Xem Barbara Bolten, “Các nhà phát triển thuốc nhanh nhất và cách làm của họ,” The CenterWatch Monthly, vol. 24, không. 8 (ngày 1 tháng 8 năm 2017), www.centerwatch.com/articles/13284%20 .

 

19 . Xem Viện IQVIA về Khoa học Dữ liệu Con người, Bối cảnh Thay đổi của Nghiên cứu và Phát triển (Tháng 4 năm 2019), tr. 7, https://tinyurl.com/y2kpxve8 .

 

20 . Xem Joseph A. DiMasi, Henry G. Grabowski và Ronald W. Hansen, “Đổi mới trong ngành dược phẩm: Ước tính mới về chi phí R&D,” Tạp chí Kinh tế Y tế , tập. 47 (tháng 5 năm 2016), trang 23–24, https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2016.01.012 .

 

21 . Đă dẫn, trang 24–25. Các giá trị tương ứng trong nghiên cứu, được báo cáo bằng hàng triệu đô la năm 2013, lần lượt là 965 đô la, 25,3 đô la, 58,6 đô la và 255,4 đô la.

 

22 . Các giá trị được báo cáo ở đây đều sử dụng chi phí vốn 7%, v́ mỗi nghiên cứu bao gồm các tính toán sử dụng tỷ lệ đó. (Trong phân tích về tác động ngân sách của HR 3 đối với Đại hội 116 , CBO đă sử dụng 8,1% chi phí vốn cho nghiên cứu và phát triển thuốc v́ đó là đánh giá của CBO về chi phí; sử dụng tỷ lệ cao hơn có xu hướng tăng nhẹ ước tính chi phí R&D. ) Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, thư cho Frank Pallone Jr. Danh dự về tác động ngân sách của HR 3, Đạo luật Giảm Chi phí Thuốc Hiện hành của Elijah E. Cummings (ngày 10 tháng 12 năm 2019), www.cbo.gov/publication/55936 . CBO đă chuyển đổi các giá trị được báo cáo ở đây thành đô la 2019.

 

23 . Xem Joseph A. DiMasi, Henry G. Grabowski và Ronald W. Hansen, “Đổi mới trong ngành dược phẩm: Ước tính mới về chi phí R&D,” Tạp chí Kinh tế Y tế , tập. 47 (tháng 5 năm 2016), tr. 26–27, https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2016.01.012 . Các giá trị được báo cáo trong nghiên cứu DiMasi năm 2016, tính bằng triệu đô la 2013 và sử dụng giá trị tỷ lệ chiết khấu trung tâm là 10,5%, tương ứng là $ 2,558, $ 1,098 và $ 1,460.

 

24 . Đă dẫn., Tr. 20.

 

25 . Để có đánh giá quan trọng về nghiên cứu năm 2016 của DiMasi và những người khác, hăy xem Sammy Almashat, “Chi phí nghiên cứu dược phẩm: Huyền thoại về viên thuốc 2,6 tỷ đô la” (Public Citizen, tháng 9 năm 2017), https://tinyurl.com/y4kb4xoq .

 

26 . Xem Christopher P. Adams và Van V. Brantner, “Ước tính chi phí phát triển thuốc mới: Có thực là $ 802 triệu?” Các vấn đề sức khỏe , tập. 25, không. 2 (Tháng 3 / Tháng 4 năm 2006), trang 420–428, https://doi.org/10.1377/hlthaff.25.2.420 .

 

27 . Xem Olivier J. Wouters, Martin McKee và Jeroen Luyten, “Cần đầu tư cho nghiên cứu và phát triển ước tính để đưa một loại thuốc mới ra thị trường, 2009–2018,” Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, tập. 323, không. 9 (2020), trang 844–853, https://doi.org/10.1001/jama.2020.1166 . Các giá trị được công bố trung tâm của nghiên cứu khác với các giá trị được báo cáo ở trên: chúng được biểu thị bằng đô la năm 2018 và sử dụng 10,5% chi phí vốn. Các tác giả cũng ước tính chi phí R&D bằng cách sử dụng tỷ lệ chiết khấu 7 phần trăm.

 

28 . Xem Vinay Prasad và Sham Mailankody, “Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển để đưa một loại thuốc điều trị ung thư ra thị trường và doanh thu sau khi được phê duyệt,” JAMA Internal Medicine, vol. 177, không. 11 (tháng 11 năm 2017), trang 1569–1575, https://doi.org/10.1001/jamainternmed.2017.3601 . Các ước tính được báo cáo trong nghiên cứu là bằng đô la năm 2017.

 

29 . Xem Joseph A. DiMasi, Henry G. Grabowski và Ronald W. Hansen, “Đổi mới trong ngành dược phẩm: Ước tính mới về chi phí R&D,” Tạp chí Kinh tế Y tế , tập. 47 (tháng 5 năm 2016), tr. 20, https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2016.01.012 . Ước tính dựa trên sự so sánh của các tác giả về phát hiện năm 2016 của họ với ước tính mà họ đă công bố vào năm 2007 (1,2 tỷ đô la, năm 2005) bằng cách sử dụng các phương pháp tương tự. Xem Joseph A. DiMasi và Henry G. Grabowski, “Chi phí của R & D về dược phẩm sinh học: Công nghệ sinh học có khác nhau không?” Kinh tế học Quản lư và Quyết định , vol. 28, không. 4-5 (tháng 6 – tháng 8 năm 2007), trang 469–479, https://doi.org/10.1002/mde.1360 .

 

30 . Xem Joseph A. DiMasi, Henry G. Grabowski và Ronald W. Hansen, “Đổi mới trong ngành dược phẩm: Ước tính mới về chi phí R&D,” Tạp chí Kinh tế Y tế , tập. 47 (tháng 5 năm 2016), Bảng 1, https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2016.01.012 .

 

31 . Xem Chi Heem Wong, Kien Wei Siah, và Andrew W. Lo, “Ước tính tỷ lệ thành công thử nghiệm lâm sàng và các thông số liên quan,” Thống kê sinh học , tập. 20, không. 2 (tháng 4 năm 2019), trang 273–286. https://doi.org/10.1093/biostosystem/kxx069 ; và Jorge Mestre-Ferrandiz, Jon Sussex, và Adrian Towse, Chi phí R&D của một loại thuốc mới (Văn pḥng Kinh tế Y tế, Vương quốc Anh, 2012).

 

32 . Xem Anup Malani và Tomas J. Philipson, Tiến bộ Y tế Có thể Duy tŕ được không? Những tác động của mối liên hệ giữa phát triển và thị trường đầu ra , Tài liệu 17011 (Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia, tháng 9 năm 2012), www.nber.org/papers/w17011 .

 

33 . Xem Darius N. Lakdawalla, “Kinh tế của ngành dược phẩm,” Tạp chí Văn học Kinh tế, tập. 56, không. 2 (Tháng 6 năm 2018), tr. 401, https://doi.org/10.1257/jel.20161327 .

 

34 . Xem Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid, Dữ liệu Chi tiêu Y tế Quốc gia, “Bảng NHE” (truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2020), Bảng 16, https://go.usa.gov/xASdV . Trong bảng, tổng chi tiêu của Medicare, Medicaid và “Các Chương tŕnh Bảo hiểm Y tế khác” (chủ yếu là Cơ quan Quản lư Y tế Cựu chiến binh, TRICARE và Chương tŕnh Bảo hiểm Y tế Trẻ em) chiếm 40% tổng chi tiêu bán lẻ thuốc theo toa vào năm 2019.

 

35 . Xem Margaret E. Blume-Kohout và Neeraj Sood, “Quy mô thị trường và đổi mới: Ảnh hưởng của Medicare Phần D đến Nghiên cứu và Phát triển Dược phẩm,” Tạp chí Kinh tế Công cộng, tập. 97 (tháng 1 năm 2013), trang 327–336, https://doi.org/10.1016/j.jpubeco.2012.10.003 ; và David Dranove, Craig Garthwaite và Manuel I. Harmosilla, Lợi nhuận mong đợi và tính mới của khoa học về đổi mới , Tài liệu làm việc 27093 (Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia, tháng 5 năm 2020), www.nber.org/papers/w27093 .

 

36 . Để biết phân tích về những tác động có thể xảy ra của một sự thay đổi chính sách như vậy đối với quyết định của các cá nhân về bảo hiểm y tế và tiêu dùng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung, hăy xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, Các phương án giảm thâm hụt: 2019 đến 2028  (tháng 12 năm 2018), trang 235 –236, www.cbo.gov/publication/54667 .

 

37 . Xem Margaret E. Blume-Kohout, “Việc tài trợ cho nghiên cứu công theo mục tiêu, bệnh cụ thể có ảnh hưởng đến đổi mới dược phẩm không?” Tạp chí Phân tích và Quản lư Chính sách , tập. 31, không. 3 (Mùa hè 2012), trang 641–660, https://doi.org/10.1002/pam.21640 ; và Michael R. Ward và David Dranove, “Chuỗi nghiên cứu và phát triển theo chiều dọc trong ngành dược phẩm,” Điều tra kinh tế, tập. 33, không. 1 (tháng 1 năm 1995), trang 70–87, https://tinyurl.com/z7huxuxv .

 

38 . Xem Kavya Sekar, Tài trợ của Viện Y tế Quốc gia (NIH), FY1995 – FY2021,  Báo cáo R43341, phiên bản 39 (Dịch vụ Nghiên cứu Quốc hội, ngày 12 tháng 5 năm 2020), https://go.usa.gov/xshZu . Mức tài trợ danh nghĩa đă được CBO điều chỉnh theo lạm phát bằng cách sử dụng chỉ số giá tổng trong nước.

 

39 . Ekaterina Galkina Cleary và những người khác, “Đóng góp của NIH tài trợ cho các phê duyệt thuốc mới 2010–2016,” Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia , tập. 115, không. 10 (ngày 6 tháng 3 năm 2018), trang 2329–2334. https://doi.org/10.1073/pnas.1715368115 .

 

40 . Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, Văn pḥng Trợ lư Bộ trưởng Kế hoạch và Đánh giá, Báo cáo trước Quốc hội: Giá Thuốc Kê đơn (Ngày 20 tháng 5 năm 2020), https://go.usa.gov/xAVns (PDF, 2.04 MB).

 

41 . Hăy xem Paul A. David, Bronwyn H. Hall và Andrew A. Toole, “R&D Công là Bổ sung hay Thay thế cho R&D Tư nhân? Đánh giá về Bằng chứng Kinh tế lượng, ” Chính sách Nghiên cứu , tập. 29, không. 4–5 (tháng 4 năm 2000), trang 497–529, https://doi.org/10.1016/S0048-7333(99)00087-6 ; và Bettina Becker, “Chính sách R&D của Nhà nước và Đầu tư vào R&D của Tư nhân: Khảo sát về Bằng chứng Thực nghiệm,” Tạp chí Khảo sát Kinh tế , vol. 29, không. 5 (tháng 12 năm 2015), trang 917–942, https: // doi.org/10.1111/joes.12074 .

 

42 . Để biết thêm thông tin, hăy xem Wendy H. Schacht, R & D Liên bang, Khám phá Thuốc và Định giá: Thông tin chi tiết từ mối quan hệ NIH-Đại học-Ngành , Báo cáo RL32324 (Dịch vụ Nghiên cứu Quốc hội, ngày 30 tháng 11 năm 2012).

 

43 . Xem Andrew A. Toole, “Có phải đầu tư tư nhân vào nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm không?” Tạp chí Luật & Kinh tế , tập. 50, không. 1 (tháng 2 năm 2007), trang 81–104, https://doi.org/10.1086/508314 .

 

44 . Xem Pierre Azoulay và những người khác, “Đầu tư R&D của Nhà nước và Bằng sáng chế Khu vực Tư nhân: Bằng chứng Từ các Quy tắc Tài trợ của NIH,” Đánh giá Nghiên cứu Kinh tế , tập. 86, không. 1 (Tháng 1 năm 2019), trang 117–15, https://doi.org/10.1093/restud/rdy034 .

 

45 . Xem Austan Goolsbee, "Chính sách R&D của Chính phủ có mang lại lợi ích chính cho các nhà khoa học và kỹ sư không?" Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ , tập. 88, không. 2 (tháng 5 năm 1998), trang 298–302, www.jstor.org/stable/116937 .

 

46 . Ví dụ: chỉ chi tiêu cho nghiên cứu được coi là "có tính chất công nghệ" mới đủ điều kiện nhận tín dụng. Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, Thuế ảnh hưởng như thế nào đến việc khuyến khích đầu tư vào tài sản vô h́nh mới (tháng 11 năm 2018), www.cbo.gov/publication/54648 .

 

47 . Để biết lịch sử và mô tả của khoản tín dụng, hăy xem Gary Guenther, Nghiên cứu Tín dụng thuế: Các vấn đề chính sách và luật hiện hành cho Quốc hội lần thứ 114, Báo cáo RL31181, phiên bản 70 (Dịch vụ Nghiên cứu Quốc hội, ngày 18 tháng 6 năm 2016), https://go.usa .gov / xshBx .

 

48 . Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, Thuế ảnh hưởng như thế nào đến việc khuyến khích đầu tư vào tài sản vô h́nh mới (tháng 11 năm 2018), www.cbo.gov/publication/54648.

 

49 . Wesley Yin, “Khuyến khích thị trường và đổi mới dược phẩm,” Tạp chí Kinh tế Y tế, vol. 27, không. 4 (2008), trang 1060–1077. https://doi.org/10.1016/j.jhealeco.2008.01.002 .

 

50 . Xem Loại trừ Sản phẩm Thuốc Mới, 21 CFR § 314.108 (2020).

 

51 . Xem Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm, “Phát triển, Đánh giá và Phê duyệt Biosimilar” (ngày 20 tháng 10 năm 2017), https://go.usa.gov/xASPs .

 

52 . Xem Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm, “Thông tin Sản phẩm Biosimilar” (ngày 17 tháng 12 năm 2020), https://go.usa.gov/xAVna .

 

53 . Xem Viện IQVIA về Khoa học Dữ liệu Con người, Sử dụng và Chi tiêu Thuốc ở Hoa Kỳ: Đánh giá về năm 2017 và Triển vọng đến năm 2022  (tháng 4 năm 2018), tr. 11. https://tinyurl.com/y36l4bqt .

 

54 . Xem Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm, “Các loại thuốc gốc được FDA kiểm tra gắt gao” (ngày 8 tháng 10 năm 2014), https://go.usa.gov/xAVRg và “Phát triển, Đánh giá và Phê duyệt Biosimilar” (ngày 20 tháng 10 năm 2017), https://go.usa.gov/xAVR4 .

 

55 . Đối với sinh học, xem 42 USC § 262 (k) (7) (A) (2018); đối với thuốc dành cho trẻ mồ côi, xem 21 USC § 360cc (2018); đối với thuốc phân tử nhỏ, xem § 355 (j) (5) (F) (ii) (2018). Các công ty có thể nhận thêm sáu tháng độc quyền (ngoài độc quyền bằng sáng chế) nếu một loại thuốc — trong bất kỳ công thức, liều lượng hoặc chỉ định đă được phê duyệt nào — được thiết kế cho bệnh nhi. Xem Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm, “Đủ tiêu chuẩn để được Độc quyền cho Trẻ em theo Mục 505A của Đạo luật Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm Liên bang: Các câu hỏi thường gặp về sự độc quyền dành cho trẻ em” (ngày 30 tháng 11 năm 2016), https://go.usa.gov/xAVRP .

 

56 . Xem Darius N. Lakdawalla, “Kinh tế của ngành dược phẩm,” Tạp chí Văn học Kinh tế, tập. 56, không. 2 (Tháng 6 năm 2018), trang 403–404, https://doi.org/10.1257/jel.20161327 .

 

57 . Xem các sửa đổi đối với chính sách thanh toán trong Biểu phí bác sĩ và các sửa đổi khác đối với Phần B cho CY 2018, 82 Fed. Reg. 52976, 53181 (ngày 15 tháng 11 năm 2017), www.govinfo.gov/app/details/FR-2017-11-15 ; và Tony Hagen, “Xóa bỏ các khuyến khích và Biosimilars sẽ phát triển”, Trung tâm Biosimilars (ngày 7 tháng 7 năm 2020), https://tinyurl.com/acq5f5t3 .

 

58 . Xem Amy Finkelstein, “Ảnh hưởng tĩnh và động của chính sách y tế: Bằng chứng từ ngành công nghiệp vắc xin,” Tạp chí Kinh tế hàng quư, tập. 119, không. 2 (tháng 5 năm 2004), trang 527–564, https://doi.org/10.1162/0033553041382166 .

 

59 . Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, So sánh Giá Thuốc biệt dược trong số các Chương tŕnh Liên bang được Chọn (tháng 2 năm 2021), www.cbo.gov/publication/56978 .

 

60 . Xem Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, thư cho Frank Pallone Jr. Danh dự về tác động ngân sách của HR 3, Đạo luật Giảm Chi phí Thuốc Hiện hành của Elijah E. Cummings (ngày 10 tháng 12 năm 2019), www.cbo.gov/publication/55936 ; Christopher Adams và Evan Herrnstadt, Mô h́nh đàm phán giá thuốc của CBO theo Đạo luật giảm chi phí thuốc hiện nay của Elijah E. Cummings , Tài liệu làm việc 2021-01 (Văn pḥng Ngân sách Quốc hội, tháng 2 năm 2021), www.cbo.gov/publication/56905 .

 

61 . Xem Yan Song và Douglas Barthold, “Ảnh hưởng của các quy định về dược sĩ cấp tiểu bang đối với việc thay thế thuốc theo toa chung”, Health Ecoomics, vol. 27, không. 11 (tháng 11 năm 2018), trang 1717-1737. https://doi.org/10.1002/hec.3796 .

 

62 . Xem Stacie B. Dusetzina và những người khác, “Các chương tŕnh Medicare Phần D Hiếm khi đài thọ Thuốc chính hiệu khi có sẵn thuốc chung,” Health Affairs, vol. 39, không. 8 (Tháng 8 năm 2020), trang 1326–1333, https://doi.org/10.1377/hlthaff.2019.01694 .

 

63 . Hệ thống bằng sáng chế cho phép bắt chước đổi mới (chẳng hạn như các bản sao chung của thuốc tiên phong) bằng cách yêu cầu nhà đổi mới, để đổi lấy bằng sáng chế về thuốc tiên phong, tiết lộ đầy đủ chi tiết về sáng chế để cho phép “một người có kỹ năng b́nh thường trong lĩnh vực nghệ thuật” để nhân rộng nó khi bằng sáng chế hết hạn. Xem 35 USC § 103 (2018).

 

64 . Để được bảo vệ pháp lư khỏi trách nhiệm pháp lư do sự kiện bất lợi, hăy xem Aaron S. Kesselheim, Jerry Avorn và Jeremy A. Greene, “Rủi ro, Trách nhiệm và Thuốc Chung,” Tạp chí Y học New England, tập. 367, không. 18 (ngày 1 tháng 11 năm 2012), trang 1679–1681, https://doi.org/10.1056/NEJMp1208781 . Trong Đạo luật Hatch-Waxman, những điều khoản đó được cân bằng bằng việc cung cấp các biện pháp bảo vệ bằng sáng chế mạnh mẽ hơn cho các nhà đổi mới thuốc, bao gồm việc kéo dài thời gian bảo hộ bằng sáng chế theo luật định trong một phần thời gian thuốc đang được FDA xem xét và 5 năm thị trường được đảm bảo độc quyền trước khi FDA có thể phê duyệt bản sao chung đầu tiên của một loại thuốc tiên phong.

 

65 . Xem Joseph P. Cook, Graeme Hunter và John A. Vernon, Tỷ lệ sử dụng chung, Giá dược phẩm thực, và chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển , Tài liệu làm việc 15723 (Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia, tháng 2 năm 2010), www.nber.org/papers / w15723 .

 

66 . Xem Carmelo Giaccotto, Rexford E. Santerre và John A. Vernon, “Giá thuốc và hành vi đầu tư nghiên cứu và phát triển trong ngành dược phẩm”, Tạp chí Luật và Kinh tế , tập. 48, không. 1 (tháng 4 năm 2005), trang 194–214, https://doi.org/10.1086/426882 ; và FM Scherer, Cơ cấu ngành, Chiến lược và Chính sách Công (Harper Collins, 1996).

 

67 . Xem Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm, “Các nghiên cứu về tính khả dụng sinh học và tương đương sinh học được đệ tŕnh trong NDA hoặc INDs — Các cân nhắc chung” (tháng 3 năm 2014), https://go.usa.gov/xAV5f .

 

68 . Để biết danh sách đầy đủ các điểm cuối đại diện được sử dụng, hăy xem Cục Quản lư Thực phẩm và Dược phẩm, “Bảng các điểm cuối thay thế là cơ sở của việc phê duyệt hoặc cấp phép thuốc” (ngày 30 tháng 3 năm 2021), https://go.usa.gov/xASyF .

 

69 . Xem Eric Budish, Benjamin N. Roin và Heidi Williams, “Các công ty có không đầu tư vào nghiên cứu dài hạn không? Bằng chứng từ các Thử nghiệm Lâm sàng về Ung thư, ” Tạp chí Kinh tế Hoa Kỳ, vol. 105, không. 7 (tháng 7 năm 2015), trang 2044–2085. https://doi.org/10.1257/aer.20131176 .

 

70 . Xem Mark G. Duggan và William N. Evans, “Ước tính tác động của đổi mới y tế: Nghiên cứu điển h́nh về các điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV,” Diễn đàn về Kinh tế và Chính sách Y tế, tập. 11, không. 2 (tháng 1 năm 2008), trang 1–37, https://doi.org/10.2202/1558-9544.1102 .

 

71 . Xem Bishal Gyawali, Spencer Phillips Hey và Aaron S. Kesselheim, “Đánh giá lợi ích lâm sàng của thuốc điều trị ung thư nhận được sự chấp thuận nhanh chóng,” JAMA Internal Medicine, vol. 179, không. 7 (ngày 28 tháng 5 năm 2019), trang 906–913, https://doi.org/10.1001/jamainternmed.2019.0462 .

 

Về tài liệu này

Báo cáo này của Văn pḥng Ngân sách Quốc hội được chuẩn bị theo yêu cầu của Chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện. Theo nhiệm vụ của CBO là cung cấp phân tích khách quan, công bằng, báo cáo không đưa ra khuyến nghị.

 

David Austin và Tamara Hayford đă chuẩn bị báo cáo với sự hướng dẫn của Joseph Kile, Lyle Nelson và Julie Topoleski. Christopher Adams, Pranav Bhandarkar và David Wylie (trước đây của CBO) đă đóng góp vào phân tích. Anna Anderson-Cook (trước đây của CBO), Colin Baker, Paul Burnham, Julia Christensen, Michael Falkenheim, Sebastien Gay, Ryan Greenfield, Stuart Hammond, Evan Herrnstadt, Leo Lex, Paul Masi, John McClelland, Lara Robillard, Ellen Werble, Chapin White, và Katherine Young đă đưa ra những nhận xét hữu ích.

 

Pierre Azoulay của Trường Quản lư Sloan tại Viện Công nghệ Massachusetts, Peter Bach của Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering, và Craig Garthwaite của Trường Quản lư Kellogg tại Đại học Northwestern đă đưa ra những nhận xét hữu ích về dự thảo. (Sự hỗ trợ của những người đánh giá bên ngoài không có nghĩa là không có trách nhiệm đối với sản phẩm cuối cùng mà chỉ thuộc về CBO.)

 

Jeffrey Kling đă xem xét báo cáo. Người biên tập là Caitlin Verboon, và RL Rebach là người biên tập đồ họa và người vẽ minh họa b́a. Báo cáo có sẵn trên trang web của CBO ( www.cbo.gov/publication/ 57025 ).

 

CBO liên tục t́m kiếm phản hồi để làm cho công việc của ḿnh hữu ích nhất có thể. Vui ḷng gửi bất kỳ ư kiến ​​nào đến Communications@cbo.gov .

 

 

Phillip L. Swagel

 

Giám đốc

 

Tháng 4 năm 2021

 

Giữ liên lạc

Nhận cập nhật qua email của CBO

Địa Chỉ Email

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 11

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

THÁNG 10

 

THÁNG 9/2020

 

VĂN HÓA - LỊCH SỬ

 

TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN

 

The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative

 

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lăng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lư Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Gịng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Định Chính Tà 1

  42. Phân Định Chính Tà 2

  43. Phân Định Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Gịng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 


 

 

MINH THỊ

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.

 CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *