Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

 Hoàng Văn Chí

 

Trăm hoa đua nở trên đất Bắc

 

8   9   10   11   12   13

 

 

"... Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với ḿnh, th́ rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết." (Phan Khôi)

 

 

Tiếp chương II, phần II - Phái thanh niên: Hoàng Tích Linh

 

Hoàng Tích Linh, năm nay chừng 40 tuổi, quê ở làng Đông Ngạc, gần Hà Nội, em ruột nhà văn Hoàng Tích Chu và hoạ sĩ Hoàng Tích Chù. Cùng với Trần Dần, Hoàng Tích Linh tham gia bộ đội và công tác trong đoàn kịch của trung ương. Ông viết nhiều kịch ngắn, nhưng có hai bản chúng tôi trích sau đây là đặc sắc hơn cả.

 

Vở Xem mặt vợ, phù hợp với bài thơ "Tôi t́m em" của Tạ Hữu Thiện, nêu lên sự băn khoăn của cả thế hệ thanh niên ở Bắc Việt hiện nay là các cô gái mà họ định lấy làm vợ, đă bị nền giáo dục cộng sản làm chột mất t́nh yêu. Các cô này chỉ quan niệm hôn nhân như một việc phục vụ Đảng, phục vụ "nhân dân".

 

Vở Cơm mới tả một cảnh đấu tố trong chiến dịch Cải cách ruộng đất. Trong vở kịch một hồi này tác giả tŕnh bày rất cặn kẽ rằng không phải chỉ có giai cấp địa chủ mới bị khủng bố mà chính ngay bần cố nông, cả những bần cố nông đă hăng hái tham gia kháng chiến cũng bị khủng bố đến nỗi phải tự tử. Những tài liệu về "sửa sai" đăng trong báo Nhân dân là báo của Đảng cũng nêu lên những vụ tương tự.

 

 

*

 

 

Xem mặt vợ (kịch ngắn một hồi)

 

Thời gian: Mùa thu, sáng chủ nhật

 

Nhân vật:

NGUYỆN, ngoài 30 tuổi, công nhân

Chị NGUYỆN, ngoài 30, bán hàng xén, tổ trưởng phụ nữ khu phố

TẤN, 25 tuổi, cán bộ công trường

LAN, 20 tuổi, bán hàng ở mậu dịch

DUNG, 18, y tá 1 cơ quan

 

Bài trí: Nhà Nguyện ở một ngơ lao động. Căn buồng vuông vắn có mảnh vải hoa bạc ngăn đôi. Cửa phía trong, trông ra mảnh vườn nhỏ và bếp. Đồ đạc sơ sài mấy tấm phản, tràng kỷ, bàn ghế. Đồ chơi trẻ con bày khắp nhà. Tường treo nhiều ảnh chụp và tranh "Công nhân kiến thiết", tranh "Thống nhất", tranh "Bác Hồ với thiếu nhi".

 

Màn mở lên

 

Cửa sổ và cửa trông ra phố mở tung. Nắng tràn vào trong nhà, những bức tranh màu sáng rực rỡ. Ngoài phố cảnh tấp nập một sáng chủ nhật.

 

Trên giường, anh Nguyện chăm chú chữa radio. Chị Nguyện nhanh nhẹn vắt lại cất màn, chiếu, quét giường.

 

CHỊ NGUYỆN, dáng vội vă – 7 rưỡi rồi. Cô ấy cũng sắp đến, nhà cửa lủng củng thế này, cô ấy lại chẳng cười cho (vui vẻ thu dọn bàn ghế, một chiếc ghế đổ).

NGUYỆN vẫn lúi húi chữa, không ngửng đầu lên – Cái ǵ thế?

CHỊ NGUYỆN nh́n chồng – Anh ngồi sù sù từ sáng đến giờ cũng không biết bảo con để nó bày bừa ra nhà (thu dọn đinh ốc, bóng đèn trên giường). Con bày, bố cũng lại bày, ai chịu được. Để tôi mang vào trong nhà mà chữa nhá!

NGUYỆN – Cái ǵ?

CHỊ NGUYỆN – Cô ấy hẹn sáng nay đến chơi đấy! Ai lại nhà cửa luộm thuộm thế này trông sao tiện?

NGUYỆN – Cô ấy đến xem mặt chú Tấn, chứ xem mặt nhà ḿnh đâu mà sợ. Rơ dở hơi lắm!

CHỊ NGUYỆN – Phải, chẳng biết ai dở hơi. Lúc anh hỏi tôi anh đ̣i đến xem nhà hàng chục lần th́ sao?

NGUYỆN – Th́ lúc ấy người ta cũng vờ thế mới xem mặt cô được kỹ chứ. Ai đ̣i xem nhà làm quái ǵ!

CHỊ NGUYỆN – Bây giờ việc trăm năm của chú Tấn phận ḿnh là anh chị phải trông nom. Cảnh nhà ḿnh lao động chẳng có ǵ, lại càng phải giữ thể diện cho chú ấy. Anh cứ để mặc tôi thu xếp… Tôi đă dạm hỏi cả thẩy mấy đám. Chỉ có đám cô Dung này ưng ư nhất cả. Ít tuổi, tiến bộ, mẫu mực, lại có công tác tự túc được rồi. Chú Tấn nhà ta mà lấy được th́ đẹp đôi lắm!

NGUYỆN – Biết vậy, c̣n tuỳ chú ấy chọn.

CHỊ NGUYỆN – Ai không biết là tuỳ chú ấy. Nhưng cũng phải biết ba bảy đường tuỳ. Giá chú ấy công tác ngay Hà Nội th́ cũng c̣n dễ. Đằng này chú ấy công tác xa mới về, ḿnh phải chọn nơi nào đích đáng nơi ấy, chú Tấn với người ta chỉ gặp mặt nhau có một lần là xong việc rồi chứ!

NGUYỆN – Xem mặt xong rồi cưới ngay…

CHỊ NGUYỆN – Chứ lại dề dà như anh ấy à. Tôi tính chú ấy được nghỉ phép ba tuần. Lỡ dịp này lại xin phép khó khăn ra. Bên nhà người ta mới xem ảnh cũng đă thuận ư rồi. Sáng nay chú cô ấy gặp gỡ nhau xong là cưới phắt ngay được.

NGUYỆN – Cô cứ nói như mai cưới ngay được rồi ấy! Việc lấy nhau bây giờ người ta c̣n t́m hiểu nhau chán ra kia rồi mới đặt thành vấn đề hẳn hoi được.

CHỊ NGUYỆN – Ấy gặp nhau khắc hiểu nhau ngay chứ khó ǵ. Giai chưa vợ, gái chưa chồng bắt duyên nhau lắm. Con gái đang ế chồng khối kia!

NGUYỆN – Đă chắc chú ấy bằng ḷng chưa?

CHỊ NGUYỆN – Sao lại chẳng bằng ḷng. Tôi đến chơi ḍ hỏi tính nết cô ta kỹ lắm rồi.

NGUYỆN bật cười – Thế ngộ nhỡ chú ấy không thích th́ ḿnh cũng bắt chú ấy phải thích à?

CHỊ NGUYỆN – Chẳng c̣n đám nào hơn đám này đâu. Được cả hai chị em. Nhưng cô em là cô Dung mới có 18 tuổi. Trẻ măng mà ăn nói đă chững chạc ra vẻ cán bộ lắm rồi. Tôi xem ư chú Tấn cũng tán thành món cô Dung đấy (gọi với trong sân) chú Tấn, chú Tấn ơi! Hăy nghỉ tay ra đây nói chuyện.

 

Tiếng Tấn ngoài vườn.

 

NGUYỆN – Này, thế c̣n cô chị?

CHỊ NGUYỆN – Cô Lan hơn em hai tuổi. Nhà ấy được cả hai đều xinh xắn cả.

NGUYỆN – À … thế để chú ấy gặp cả hai rồi thuận ư ai th́ lấy.

CHỊ NGUYỆN – Sao anh lại cứ bàn lằng nhằng thế. Giới thiệu cô chị làm ǵ thêm nhiễu chuyện ra. Cô chị tự nhiên lắm. C̣n cô em nền nếp hơn lại có nghề trong tay. Tôi đă cân nhắc chán rồi. Chú Tấn công tác trên rừng trên rú phải tính lấy người biết thuốc men trong nom săn sóc mới được. Chú Tấn mà không lấy được cũng hớ.

NGUYỆN – Ờ, cứ kể thế th́ lấy được đấy!

CHỊ NGUYỆN cười – Anh rơ thật "quan bẩy cũng gật, quan tư cũng ừ" chẳng ra làm sao. Chú Tấn c̣n tinh hơn anh nhiều.

 

Tấn ra, nét mặt hí hửng.

 

TẤN – Anh chị nói xấu ǵ em thế?

CHỊ NGUYỆN – Chú ra đây. Tôi đang nói xấu chú đây này. Người đến là đoảng. Bàn chuyện cứ hay bàn ngang. Việc của chú có dở dang, chú cứ bắt đền anh đấy.

TẤN – Em bắt đến cả chị nữa.

CHỊ NGUYỆN – Tôi tính đâu vào đấy rồi. Chú nghỉ chẳng được bao ngày. Nhân tiện chú cần tiêm cho dứt nọc sốt rét đi. Tôi sẽ mách cô ấy từ mai ngày ngày đến trông nom thuốc men cho chú. Chú, cô tha hồ có cớ đi lại nói chuyện bàn bạc với nhau, thế có phải tiện cho mọi đường không?

NGUYỆN – Cô bàn cách ấy được đấy.

CHỊ NGUYỆN – Bây giờ xem mặt nhau cũng đă dễ dàng lắm đấy. Trước kia hồi xem mặt tôi, anh chú long đong hàng mấy tháng mà có được tích sự ǵ đâu. Ngày ngày đi qua hàng tôi, tiền đă chẳng có lại c̣n vờ hỏi hết thứ này đến thứ khác. Được thế, tôi càng trêu dấn. Lắm lúc nghĩ đến tức cười. C̣n việc của chú tôi tính như thế, chú thấy thế nào?

TẤN – Cũng c̣n phải xem ư tứ cô ấy thế nào đă chứ.

CHỊ NGUYỆN sốt sắng – Tôi biết cả đôi bên. Từ hoà b́nh được học tập cô ấy tiến bộ nhanh lắm, gương mẫu nhất cơ quan đấy. Đôi bên hợp lắm rồi. Chú chẳng phải đắn đo ǵ nữa đâu.

NGUYỆN – Ấy… việc này không hấp tấp được. Chú phải t́m hiểu cho thật chắc chắn đi. Thời buổi này phải hợp t́nh hợp ư, đôi bên thoả thuận cả mới nên lấy nhau. Sau này c̣n ăn đời ở kiếp với nhau không phải thắc mắc mảy may ǵ nữa có hơn không?

TẤN – Có thế nào cũng c̣n phải hỏi ư kiến anh chị nữa.

NGUYỆN – Cứ ư chú là chính. Anh chị có ư kiến chỉ là phụ thôi. Việc này dân chủ bơn bớt mới được. Bàn quá là nát. Lúc tôi lấy chị cũng vậy. Hai đứa ưng thuận nhau là lấy ngay, giá lại đưa cho ông anh, bà chị, ông chú bà thím bàn ra tán vào th́ cũng chẳng xong đâu.

CHỊ NGUYỆN – Việc chú chẳng khó đâu. Người ta cũng dễ tính thôi. Chỉ cần chú với cô Dung quyết định nữa là xong.

NGUYỆN – Chú được nghỉ ba tuần phải tiến hành thế này mới chóng vánh được. Tuần đầu t́m hiểu, hai tuần sau cưới. C̣n mọi việc cưới xin ra sao, chú chẳng phải lo. Đă có chị, chị làm tổ trưởng phụ nữ khu phố tổ chức tập thể quen rồi.

CHỊ NGUYỆN – Mọi việc tôi đă tính toán đâu vào đấy. Chính quyền mời ai, khu phố mời ai, ban văn nghệ liên hoan thế nào đă sẵn sàng cả rồi chú không ngại việc đó.

NGUYỆN – Thôi phiên phiến thôi. Người ta đến dự cưới chứ có đi họp đâu. Cô đă dự nhiều đám rồi về kêu ca măi mà bây giờ lại c̣n bày vẽ ra…

 

Cô Lan đỗ xe đạp ngoài cửa.

 

CHỊ NGUYỆN, thấy trước, giục chồng – Đấy các cô ấy đă đến kia. Nhanh tay lên anh (Nguyện mang vội đồ chữa ra-đi-ô vào trong nhà. Chị Nguyện vui vẻ bảo Tấn) Ḱa chú, chú cũng vào thay quần áo đi. Ai mặc áo lót thế kia mà lại định xem mặt vợ bao giờ?

 

Chị Nguyện đon đả ra tận cửa đón.

 

LAN nhanh nhẹn vui tính – Chị! Lần đầu đến chơi chị lại đến muộn để chị phải đợi lâu quá.

CHỊ NGUYỆN – Cô ngồi đây. Các cô đă hẹn hôm nay chủ nhật lại chơi, tôi yên trí không sáng th́ chiều thế nào rồi các cô cũng đến.

LAN – Sợ chị đợi em phải đến trước đấy. Dung bận tí việc đến sau chị ạ.

CHỊ NGUYỆN – Ấy, cứ thấy cô Dung là thấy bận. Công tác của cô ấy vất vả thật. Có lẽ chủ nhật cũng không được rỗi mấy cô nhỉ.

LAN – Em Dung không bận lắm đâu. Công tác như em thôi. Chủ nhật cũng được nghỉ cả ngày. Có hôm nay Dung tạt qua cơ quan báo cáo chắc cũng sắp lại đây.

CHỊ NGUYỆN – Ra thế… tôi lại cứ tưởng… Hôm nay cô lại chơi. Chỗ cô tự nhiên cứ coi như người nhà mới nói thẳng thắn ngay vào việc được…

LAN cười tinh ư – Em biết loáng thoáng rồi. Hôm nọ bác Phúc có đưa cho chúng em xem ảnh của anh Tấn. Nếu hợp t́nh hợp tính th́ càng tốt. Đằng em với bên nhà chị lại thành chỗ người nhà chị nhỉ?

CHỊ NGUYỆN – Thế c̣n ǵ bằng nữa. Chú em nhà tôi năm nay 24 tuổi rồi đấy. Nói chuyện vợ con cứ chối đây đẩy. Tính người cũng dễ dăi. Là người kháng chiến thật đấy mà ăn nói c̣n lúng túng lắm.

LAN – Bây giờ phụ nữ chúng em mong lấy chồng hay chứ chẳng cần người nói hay, chị ạ.

CHỊ NGUYỆN – Vẫn biết thế… nhưng cách thức Hà Nội ta biết ăn nói vẫn hơn có phải không cô?

LAN hóm hỉnh – Chúng em đă bảo nhau rồi. Chồng con không cùng một chí hướng cũng cắt đứt. Không chồng suốt đời cũng được.

CHỊ NGUYỆN cũng cười – Cô nào cũng nói như vậy mà chả cô nào cứng rắn măi được đâu. (Tấn ra) cô Lan đến chơi… Chú ngồi đây.

LAN tự nhiên – Anh công tác ở công trường.

TẤN – Vâng, ở công trường cầu cống.

LAN – Vui lắm phải không anh?

 

Chị Nguyện lặng lặng mang ấm nước vào.

 

TẤN tự nhiên hơn – Thích nhất chỗ công trường tôi làm là công trường động. Ở chỗ này vài tháng xong việc lại chuyển đi nơi khác. Hai năm nay chuyển ba lần. Hết Bắc Giang lại Việt Tŕ rồi Lao Kay. Rồi sắp vào Thanh, xuống Vinh.

LAN – Công tác của anh được đi nhiều nơi thích nhỉ.

TẤN sôi nổi – Sau này thống nhất, con đường c̣n dài, c̣n nhiều cầu cống, c̣n khai phá nhiều đường mới. Chỉ sợ chân ḿnh không đi hết được. Tính tôi quen từ nhỏ như ḥn bi, ngồi ĺ ở một chỗ không chịu nổi.

LAN – Thế những người ngồi ĺ măi Hà Nội th́ anh bảo sao?

TẤN – Tại mỗi người một tính, một nết. Hợp đâu, thích đấy.

LAN – Thế chắc anh không thích Hà Nội.

TẤN – Hà Nội lại khác. Năm 50 tôi c̣n học kỹ nghệ, sau thích hoạt động mới bỏ học ra kháng chiến. Công tác xa Hà Nội thực, nhưng vẫn nhớ chứ. Tôi thích công tác liên miên vài tháng mới lại về Hà Nội một lần.

LAN – Nghe anh nói cũng thích rồi, công tác hợp mới phấn khởi được (hơi buồn) công tác tôi lại khác hẳn anh.

TẤN – Tưởng chị làm ở mậu dịch đông người mua bán chắc phải tấp nập suốt ngày.

LAN – Bề ngoài thế thôi, trông vui mắt nhưng buồn lắm, anh ạ. Ngày hai buổi lại bán hàng, lại ghi sổ, lại thu tiền. Mà khách hàng khó tính không chịu được. Lắm lúc bực gắt lại bị phê b́nh.

TẤN – Tại chị chưa quen đấy.

LAN – Không phải quen đâu. Phê b́nh không đúng mới bực ḿnh chứ.

TẤN đùa – Chị nói thế chẳng ma nào muốn xin vào mậu dịch bán hàng nữa.

LAN cười – Th́ anh vừa bảo, tại mỗi người một nết, hợp đâu thích đấy, (nghĩ ngợi) chỉ tại cần phải đi làm để đỡ cho mợ tôi ở nhà quấn chỉ kiếm không đủ nuôi các em đi học. Tính tôi lại thích bay bổng, nhưng bay bổng khác anh kia. Tôi đang học thêm nhạc. Rồi tôi sẽ hát ở đài phát thanh. Lúc ấy tiếng hát của tôi sẽ vang đi khắp nơi, tôi sẽ hát cho mọi người nghe… Tôi tin là tôi phục vụ được nhiều hơn bây giờ.

TẤN – À… lúc ấy tôi công tác xa mà nghe được tiếng hát của người ḿnh quen biết chắc thích hơn cả.

LAN – Anh cũng thích hát à?

TẤN – Tôi không biết hát nhưng thích nghe hát. Tính tôi như ngựa lồng thế này không thích ca hát sao được. Tôi cho chỉ có bụt là không thích nghe hát mà thôi.

 

Hai người cùng cười thân mật hơn. Chị Nguyện mang nước ra, chợt thấy, hơi khó chịu, lại lẳng lặng quay vào.

 

LAN – Nhiều người không thích hát chứ. Mợ tôi, cả Dung cũng thế. Chỉ có mấy em nhỏ là nó thích bắt tôi hát luôn. Mợ tôi bực lắm, nhưng tôi lại hát để tập dượt nhân thể.

TẤN – Thế chị hát cho tôi nghe một bài. Lần đầu gặp chị lại được nghe chị hát.

LAN tự nhiên ngượng nghịu – Ai lại thế bao giờ. Lần khác, anh ạ.

 

Yên lặng, Tấn suy nghĩ nh́n Lan.

 

LAN – Ờ, sao măi Dung không lại? (lảng sang chuyện khác) Anh c̣n nghỉ, mời anh lại chơi nhà.

TẤN – Tôi mong thế lắm. Cũng muốn đến luôn. Chỉ sợ phiền…

LAN – Có ǵ là phiền đâu. Anh cứ đến chơi. Tối nào Dung cũng có nhà. Quen chị ở đây là được biết anh, mà tính anh tự nhiên càng dễ gần hơn chứ.

TẤN vui vẻ – Thế tôi sẽ đến luôn. Và chị phải hát nhé. Rồi tôi sẽ cho chị xem nhưng kỷ niệm kháng chiến của tôi.

LAN – Ờ… thế anh phải cho tôi xem trước rồi tôi mới hát.

TẤN – Mà chị phải hát thật hay kia.

LAN cười – Nhất định thế. Tiện bây giờ anh lấy cho xem trước đi.

TẤN thân mật – Nhưng chị cũng phải hát ngay đấy nhé. (Chạy vào trong đem túi dết ra) Công tác nay đây mai đó rất cần kỷ niệm (giở túi dết, tư lự) giở cho chị xem, chị hiểu được hết đời tôi đấy.

 

Hai người sát vai nhau.

 

TẤN – Đây, chiếc túi gấm thêu và con dao là của mẹ nuôi người Thổ, chợ Chu, hồi bà cụ c̣n con gái. Hôm bà cụ sắp chết, không chôn theo, bà cụ cho đứa con nuôi người Kinh làm kỷ niệm. Cứ một vật này hôm nào lại chơi tôi kể cho chị nghe cũng nhiều chuyện rồi. Có lẽ để tôi giở cho chị xem trước tập ảnh th́ hơn.

 

Hai người cùng nhau giở chung ảnh. Anh Nguyện ra lấy cái dùi ở giường đằng sau. Cả hai cùng không biết.

 

TẤN – Ra kháng chiến tôi vào ngay bộ đội. Ảnh này chụp ở cầu Hàm Rồng sau chiến dịch Hà Nam Ninh, đây là những ảnh dân công khi tôi chuyển sang công tác ở Sông Đà. Đây, ảnh mẹ nuôi tôi. Và ảnh tôi mới chụp.

LAN xem kỹ – Ảnh này đẹp hơn ảnh bác Phúc cho xem trước (nh́n Tấn). Trông trẻ mà giống anh hơn (cười). Thế mà anh lại định giấu diếm.

 

Dung vào, áo cán bộ màu xanh. Cả hai vẫn không biết. Dung ngập ngừng không đánh tiếng.

 

CHỊ NGUYỆN vừa ra trông thấy – Ḱa cô Dung. Cô vào đây. Đợi măi cô.

DUNG – Chị mặc em.

LAN – Sao chậm thế, hở Dung?

CHỊ NGUYỆN kéo ghế vồn vă – Cô ngồi đây… Chú Tấn lấy hộ chị ấm nước.

DUNG với LAN – Bực quá, chị ạ. Công đoàn ǵ mà chủ nhật đi chơi hết. Em đợi hơn nửa giờ, chẳng gặp ai.

LAN – Chẳng vội. Lúc nào báo cũng được.

DUNG – Nên báo cáo ngay chị ạ. Công đoàn c̣n theo rơi giúp đỡ ư kiến chứ.

CHỊ NGUYỆN bảo LAN – Cô Lan này, ra chợ xem gian hàng của tôi đi. Không lại bảo biết nhà mà không biết cửa hàng.

LAN – Vâng… đi đi chị.

 

Cả hai cùng ra. Tấn và Dung yên lặng.

 

TẤN – Cô vẫn làm việc?

DUNG – Vâng, tôi làm việc ở Bộ. Ở Bộ bận hơn các cơ quan khác.

 

Yên lặng.

 

TẤN – Tôi mới về hôm qua. Được nghỉ hơn 20 ngày.

DUNG – Chỗ anh công tác, y tế phục vụ có báo đảm lắm không?

TẤN – Cũng khá.

DUNG – Công trường càng cần phải tích cực chống sốt rét mới thực hiện được kế hoạch 56.

 

Lại yên lặng.

 

TẤN – Tôi về cũng có ư định lập gia đ́nh. Thấy chị tôi nói chuyện nhiều về cô. Trong thời gian nghỉ mong được trao đổi với cô.

DUNG – Vâng, … Việc này anh hăy thư thả. Mợ tôi cũng đă biết rồi. Nhưng tôi chưa báo cáo Công đoàn. Tôi định đến nhưng không gặp.

TẤN – Trước hết là chúng ta t́m hiểu nhau đă.

DUNG – Theo ư tôi trước hết là tổ chức cơ quan phải biết đă. Như vậy đảm bảo hơn.

TẤN – Vâng, thế cũng được.

DUNG – Bộ không định hẳn nguyên tắc đó. Nhưng chính bây giờ tôi lại thấy cần phải có tổ chức xây dựng cho ḿnh. Mợ tôi cũng thấy thế là đúng.

TẤN – Tôi cũng không phản đối việc đấy.

DUNG – Như vậy chỉ có lợi mà không ảnh hưởng đến sau này phải không anh? Về điểm này tôi và anh cùng giống ư nhau rồi đấy.

 

TẤN bắt đầu khó chịu – Vâng.

 

DUNG – C̣n khó khăn nữa là tôi với anh công tác không những xa mà lại khác ngành nhau. Ăn ở với nhau rồi khó.

TẤN – Sau này sắp xếp công tác cùng một cơ quan cũng dễ thôi. Cái khó là sợ không cùng một chí hướng, t́nh cảm.

DUNG – Tôi tưởng chúng ta cùng phục vụ cho cách mạng là cùng một chí hướng rồi. Hơn nữa, anh lại là gia đ́nh công nhân, thế càng tốt.

TẤN – Vâng.

DUNG – Tôi về, anh ạ. Tôi báo cáo với Công đoàn rồi lại gặp anh. Đến tối… à tuần này tôi mắc học cả. Có ǵ, lại sáng chủ nhật sau, anh nhé.

 

Lan vào hơi ngạc nhiên.

 

LAN – Dung đă về à? Ngồi đây chơi đợi chị Nguyện.

DUNG – Chị về sau.

LAN – Này, Dung đi đâu vội thế?

 

Dung vẫn đứng cửa.

 

LAN – Anh Tấn nghỉ phép không lâu đâu. Công tác xa ốm yếu xanh lắm, cũng cần tiêm cho khoẻ. Có thuốc sẵn rồi. Dung xem giờ nào tiện, ngày ngày đến tiêm cho anh Tấn.

DUNG nghĩ ngợi – Cũng hơi phiền, chị nhỉ (một lát). Thế chưa tiện đâu. Để em báo cáo với cơ quan đă. Sáng chủ nhật sau, chị ạ…

LAN băn khoăn – Dung, Sao Dung phải để đến tuần lễ sau mới lại được? Dung nghĩ xem: Anh Tấn được nghỉ phép có ít ngày. (Không tiện nói hết ư ḿnh, như nằn ń với em) Dung đến vào buổi tối thôi mà.

DUNG thản nhiên – Tuần lễ này buổi tối em bận mà vấn đề của em với anh Tấn nên nghiên cứu kỹ về mọi mặt… Em không thể làm hơn được. Đến chủ nhật sau chưa muộn. Thôi em về đây, chào anh nhá.

 

Dung ra vội, Lan cũng lúng túng đứng dậy.

 

TẤN – Chị cũng lại định về ?

LAN – Không… không… Phiền quá nhỉ! Hay là, chiều anh lại chơi với mẹ em? Dung có nhà đấy.

TẤN – Tôi không cần tiêm và cũng không cần…

LAN sốt sắng – Cần lắm chứ. Anh cần phải khoẻ. Anh c̣n phải công tác nhiều.

TẤN – Không, tôi không muốn (tha thiết nh́n Lan) Tôi mong cô hiểu…

LAN cảm động – Để tôi bảo Dung.

TẤN – Không, Không! (càng tha thiết) Cô Lan!

LAN thêm lúng túng – Anh bảo ǵ em kia?

TẤN cũng lúng túng – Tôi muốn nói chuyện với cô… cô Lan!

LAN ngượng – Vâng.

TẤN sôi nổi âu yếm – Lan! Biết Lan, tôi thấy mến Lan hơn, tôi không thể…

LAN thẹn nhưng sung sướng – Em không… Ai lại thế bao giờ? Em về đây (bỏ chạy ra cửa).

TẤN – Cô Lan, Lan (chạy vào trong nhà, dắt xe đạp ra, nói với) Anh cho em mượn xe đạp một lát nhé.

 

Đến cửa gặp chị Nguyện về.

 

CHỊ NGUYỆN ngạc nhiên – Chú vội đi đâu đấy!

 

Tấn không kịp trả lời, lên xe hấp tấp. Anh Nguyện cũng vừa ra.

 

CHỊ NGUYỆN – Cô Dung đâu?

ANH NGUYỆN – Ai biết đâu đấy!

CHỊ NGUYỆN – Sao chú Tấn lại đi với cô Lan?

ANH NGUYỆN – Lạ thật! Sao ḿnh lại hỏi tôi? Chú Tấn chọn vợ chứ ḿnh chọn vợ à? Dở hơi lắm! Thôi ḿnh vào khiêng giả lại tôi cái radio ra chữa đây.

 

Hai người cùng cười. Vào phía trong.

 

Màn từ từ khép theo.

 

2-9-56

 

(Trích báo Nhân văn số 2, 30-9-1056)

 

 

*

 

 

Cơm mới (kịch một hồi)

 

Nhân vật:

 

CHUNG: Xă đội trưởng trước Cải cách

TẦM: Em gái Chung 15, 16 tuổi

THUỶ: Cốt cán đă đính hôn với Chung

Cụ CANH: Chở đ̣ ngang cùng ngơ nhà Chung

Bà TƯỜNG: Gọi tắt là mẹ Lớn, cùng ngơ nhà Chung

LỚN: Cốt cán

 

Cảnh: Một làng ven sông. Một bến nhỏ sang ngang. Nhà Chung ở sát sông, một căn nhà gianh một gian hai chái.

 

Bài trí: Cảnh giữa nhà. Bên trái là bếp, bên phải có liếp ngăn sang buồng bên. Đỡ cột hai đầu gian ọp ẹp, thấy hai cây bương to dựng chênh chếch. Đồ đạc cũ kỹ: một giường, một chơng tre. Kê sát vách, một bàn con làm bàn thờ, có bát hương bằng sành, một bát con đựng nước cúng. Quang cảnh lạnh lẽo như đă lâu không người trông nom tới: Lưới vó để cạnh liếp, tranh rách từng mảng lớn, khẩu hiệu trên tường ám khói vàng khè, thúng, sảo lổng chổng ở một góc.

 

Cửa sổ trong nhà nh́n thấy sông. Cửa chính trông ra sân đất. Cổng tre, khóm mía, bụi chuối. Qua cổng thấy băi ngô bát ngát, con đường trong ngơ thoai thoải xuống bến.

 

Màn một - Canh ba. Trong xóm gà gáy rộn lên một lúc rồi im bẵng. Thưa thớt bên kia sông chó sủa vọng sang. Bên ngoài cửa sổ ánh trăng cuối tháng mờ và lạnh. Trong nhà tranh tối tranh sáng.

 

Tầm đắp chiếu ngủ ở chơng. Chung vẫn thức ngồi bó gối rầu rĩ...

 

Tiếng chó bỗng sủa vang. Chung chạy ra nh́n qua kẽ liếp.

 

TẦM (vùng dậy) - Ǵ thế anh?

CHUNG - Im, du kích.

TẦM - Người ta đến bắt anh, anh ơi.

CHUNG - Im đă TẦM. (Nghe ngóng tiếng chó sủa về phía khác, xa dần) Du kích đi tuần đấy. Không có ǵ đâu. Em lên mà nằm đi Tầm.

 

(Tầm lẳng lặng lên chơng đắp chiếu. Chung lại giường ngồi bó gối nh́n trăng sáng ngoài cửa sổ.)

 

CHUNG (thấy Tầm cựa ḿnh) - Tầm ngủ đi chứ. C̣n lâu mới sáng, cố chợp mắt đi lúc nữa Tầm ạ!

 

(Tầm nằm không yên chỗ.)

 

TẦM- Anh này, người ta rủ nhau dỡ khoai non, em cũng dỡ vài luống ở băi nhà.

CHUNG - Sáng lên xin phép đội đă.

TẦM (thở dài) - Xin chả được, gạo cứu đói cũng không thấy họ nói đến nhà ta nữa là. Anh mặc em, tang tảng sáng em lẩn ra băi, không ai biết đâu anh ạ!

CHUNG - Mày làm thế lại thành tội phá hoại sản xuất đấy. Liều thế không được, cứ lên đội xin.

TẦM - Khó lắm anh ạ.

CHUNG - Ừ, mà xin cũng chẳng được đâu. Người ta đang nghi phản động, ai cho. Này tao bảo, chuôm Đồng Sậy tát tối qua, sáng nay ra hỏi sớm khéo th́ kiếm được một bữa. Hôm nay hai mươi mốt, phiên chợ Ngữ đấy, sang chợ mà bán...

 

(Một lát yên lặng)

 

CHUNG (như không yên tâm) - Này Tầm, mày xem kỹ lại xem có cái ǵ khác nữa không?

TẦM (nghe ngóng) - Không có ǵ khác đâu. Cái ǵ hở anh?

CHUNG - C̣n cái ǵ nữa? (băn khoăn) Này Tầm, hôm u mất thế nào? (thấy Tầm ngơ ngác) Ờ... cái hôm u mất ấy, thế nào? Mày nhớ kỹ lại xem, đầu đuôi ra làm sao?

TẦM (trố mắt nh́n anh) - Khổ quá, em kể không biết bao nhiêu lần, anh c̣n cứ hỏi măi. Hôm ấy, quá nửa đêm đi họp về, em vẫn thấy đèn điếu để ở đầu giường. Em cho là lúc tối có ai đến thăm u. Đèn vặn nhỏ li ti bằng hạt đỗ.

CHUNG - Chính mày trông thấy đèn sáng à?

TẦM - Khổ, th́ em c̣n vặn to lên cơ mà. Đèn và điếu ở giường anh (đến chỉ cho Chung xem) ở chính giữa giường này này. Sau em c̣n hỏi u một câu. Không thấy u trả lời. Em nghĩ u mệt ngủ say, em không hỏi nữa, em lăn ra ngủ thiếp đi một mạch. Măi tang tảng sáng cũng bằng giờ này, em gọi u bốn dăm câu không thấy thưa, em mới chạy vào buồng lay u dậy, th́ u đă mất tự bao giờ. Em vẫn đinh ninh u mệt qua quưt thôi, ai ngờ...

CHUNG - Quái lạ, ai đến để đèn điếu ở giường này mới được chứ? Tao chẳng c̣n hiểu làm sao nữa!

TẦM - Nhất định không phải u bị giết. Đội khám đi khám lại có thấy vết tích ǵ đâu?

CHUNG - Khám với xét. Nếu thực có đứa manh tâm giết u, nó không dại ǵ để xác u trong buồng rồi. Nhà ḿnh sát nách bờ sông thế này, nó lẳng ngay xác xuống sông cho mất tích có hơn không?

TẦM - Sao anh không nói rơ với đội thế?

CHUNG - Nói với ai? Bây giờ tao nói ai nghe? Đến trẻ con trong làng cũng chẳng thèm để ư đến nữa là cốt cán với đội. Ở tận đâu đâu đến, biết thế nào chuyện làng người ta. Biết thế nào được người tốt người xấu...

TẦM - Cái anh Lớn ấy mà cũng là cốt cán được!

CHUNG - Cái thằng Lớn lộc ngà lộc ngộc cắn hạt cơm không vỡ ấy biết cái ǵ, thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, chỉ tổ làm nát làng ra. Nhưng chết là ở cái con mẹ nó, con mẹ ranh càn sát ấy nó xúi bẩy (một lát) ấy thế mới chết, những đứa xấu bụng mới được dịp đổ vấy cho tao chủ trương phá tề, dắt Tây về tổng càn vùng này. Đến việc u chết vừa rồi chúng nó vu là âm mưu của địa chủ Quỵnh sai tao làm để bịt đầu mối tổ chức cũ. Đèn điếu và mày vừa kể đấy cũng do tao bày ra thế để đánh lạc hướng nông dân (mặt tức tối). Nào tao là Quốc dân Đảng phản động. Nào là tao cấu kết với thằng Quỵnh giết u. Nói thế mà nghe được!...

TẦM - Khẽ chứ anh.

CHUNG (càng nói to) - Tao không sợ. Tao thế nào cả làng này biết rồi.

TẦM - Vừa chập tối, đội bắt thằng Quỵnh…

CHUNG - Lại rối ren thêm. Cung cách này là sắp bắt lung tung cho mà xem.

TẦM - Bây giờ làm thế nào hở anh?

 

(Tiếng chó lại sủa. Trong nhà im bặt.)

 

CHUNG - Hừ... Du kích lại đi ŕnh. Đêm nào cũng đến ŕnh... Ŕnh cái ǵ mới được chứ! (không b́nh tĩnh nổi) Theo kháng chiến bằng ấy năm giời, bây giờ cũng hoá thành công cốc. Bao nhiêu công lao đổ xuống khúc sông này hết... Đến nước cùng này...

TẦM (hốt hoảng) - Bây giờ, biết làm thế nào hở anh?

CHUNG - Làm thế nào nữa... TẦM mày, bây giờ họ hàng không ai dám chứa mày đâu, mày cũng đừng đi lại nhà ai thêm khổ người ta ra. Nếu tao có thế nào, tao chỉ dặn mày liệu bấm bụng mót mét sống qua ngày, em ạ...

TẦM - Hôm nay cũng vừa đúng tuần bốn chín ngày của u anh ạ.

CHUNG - Ừ.

TẦM - Anh có cúng u không?

CHUNG - Cúng lễ ǵ!

TẦM (buồn rầu nh́n anh) - Thế, thôi hở anh?

CHUNG - Chẳng thôi th́ lấy ǵ mà cúng?

TẦM - Hay là em chạy giật tạm vài bát gạo.

CHUNG - Ai dám dây dưa với nhà ḿnh nữa. Không vay mượn ǵ hết.

TẦM - Hay là em chạy sang sông.

CHUNG (trừng mắt) - Nhà cái Thuỷ ấy à? (thấy Tầm ấp úng) Tao cấm đấy. Không được đi lại nữa.

TẦM - Chị ấy...

CHUNG - Chị ấy làm sao?

TẦM - Không...

CHUNG - U chẳng khen ngoan với hiền hậu nhất làng nữa đi. U chết nó có lai văng thăm hỏi u được câu nào không ? Cũng chẳng lên hàng cốt cán rồi mà. T́nh nghĩa khối ra đấy!

TẦM - Chị ấy ở tận xóm lẻ bên kia sông.

CHUNG - Th́ nó thường sang bên này họp hàng xă đấy thôi. Nhưng từ hôm ấy đến giờ, hàng tháng rồi có dám bén mảng đến đây không? Mà bảo xa xôi cách rách ǵ cho cam. Có điều giờ nó thay đổi rồi. Tao biết lắm…

TẦM - Anh đừng nói. Chị ấy đâu thế…

CHUNG - Không thế mà lại phải trốn tránh. Phải tránh mặt đi. Tránh nhà này là nhà phản động. Nhà tay sai địa chủ.

TẦM - Em nghĩ chẳng lẽ nào.

CHUNG - Đấy mà xem... cũng may mà u tính đợi xong Cải cách mới cưới, nếu không về nhà ta rồi, cơ màu này nó cũng cắt đứt thôi... Tao biết lắm... Thói đời như vậy cả, khi vui th́ vỗ tay vào…

TẦM - Anh để xem thế nào đă. Chưa chi…

CHUNG - C̣n để xem thế nào nữa? Hôm họp Đảng khai trừ tao, nó là cốt cán ngồi lù lù trước mặt tao chớ đâu. Người ta vạch cho tao hằng hà sa số là tội. Toàn là những tội không đâu, mà nó thin thít có dám mở miệng phân trần cho tao được một câu nào. Thử hỏi tao lăn lộn dọc đê với con đường số 5 thế nào, nó ở trong hàng ngũ du kích phải biết rơ hơn ai chứ? Sao nó câm họng? Sao nó về hùa với người ta ăn không nói có cho tao? Bắt t́nh bắt tội tao…

 

(Tầm nín lặng. Bỗng tiếng đập mạnh gọi cửa. Tiếng chó giật giọng sủa vang. Tiếng gọi cửa liên tiếp.)

 

TẦM (như khóc) - Tiếng anh Lớn và du kích…

CHUNG - Cứ ra mở cửa.

 

(Tầm run càng luống cuống loay hoay măi không mở được then.)

 

CHUNG - Việc ǵ phải sợ thế, để tao mở cho.

 

(Cửa mở, Lớn, cao lớn, lộc ngộc vác súng vào. Bóng du kích thấp thoáng đi lại ngoài sân.)

 

LỚN - Sao chậm mở cửa? (Yên lặng) Sao đêm vẫn ŕ rà ŕ rầm chuyện?

TẦM - Có chuyện ǵ đâu?

CHUNG - Không phải dối quanh. (với Lớn) Ŕnh nghe khắc biết rồi c̣n phải hỏi ǵ nữa?

LỚN - Lại sắp sửa ngoan cố! Này, đội cho gọi anh đến văn pḥng ngay. Lên đấy mà ngoan cố…

TẦM - Thôi chết rồi anh ơi!…

CHUNG (cố b́nh tĩnh) - Tầm, em đừng làm rối lên như thế, ở nhà nhớ những điều anh dặn đấy.

TẦM - Khổ thân, anh tôi có làm ǵ đâu cơ chứ?

LỚN - Không làm ǵ à, không làm ǵ mà bà cụ lăn đùng ra chết?

TẦM - U tôi chết thật.

LỚN - Đời thuở nhà ai chết ǵ mà lại tự nhiên thế? Đèn điếu lại xếp đàng hoàng trên giường như b́nh thường có khách đến chơi ấy. Lại c̣n oan lắm hả?

CHUNG - Tầm không phải nói nhiều.

LỚN - À không nói, không nói à? Này đầu đảng thủ mưu thằng Quỵnh bị bắt rồi. Anh là nông dân nên đối xử có khác với địa chủ, không th́ ai cho anh đứng đấy mà lư sự hả?

CHUNG - Tôi không làm, không biết.

LỚN - À thế nào? Không làm, không biết? Tội rành rành ra đấy rồi không nhận cũng tù tội kia mà. Lên đội...

CHUNG (ra cửa) - Nông dân xử ức nhau, mới phải chịu nước này…

LỚN (gọi giật lại) - Ấy, hẵng khoan… C̣n lá cờ tam tài của chi bộ cũ các anh đâu? Mang lên nộp đội.

CHUNG (ngạc nhiên) - Lá cờ nào?

LỚN - Lại sắp ngoan cố. Lá cờ tam tài của chi bộ cũ các anh, chứ c̣n lá cờ nào nữa?

CHUNG - Ô hay, lá cờ nào?

LỚN - Này bảo thật, đừng trí trá nữa. Lá cờ hồi tổng càn, các anh thường treo ở điếm dệ đê đầu làng để họp kín ấy.

CHUNG (mới sực nhớ) - À...

LỚN - À, anh thấy chưa? Cứ tưởng đây không biết hẳn. Không việc nào anh giấu nổi nông dân được đâu. Lần nào họp anh cũng treo cờ Pháp, lần nào cũng bắt chị Thuỷ vác súng đứng gác cho các anh? Có đúng thế không ?

CHUNG - Cái Thuỷ nó tố thế?

LỚN - Tôi hỏi các anh có họp không đă?

CHUNG - Họp... Có họp...

LỚN - À... Thế c̣n chống chế ǵ nữa?

CHUNG - Anh biết ǵ? Đấy là họp chi uỷ bàn kế hoạch đánh Tây. Nhiều lần có cả đồng chí Tường, huyện uỷ đến khai hội.

LỚN - Thế nào anh cũng lư sự được. Họp đánh Tây mà lại treo cờ Pháp.

CHUNG - Anh không biết ǵ thật. Lúc ấy không treo cờ Pháp, Tây nó bắt ráo, vỡ cơ sở như bỡn, tưởng chuyện chơi à? Anh tản cư biết đâu chủ trương của huyện?

LỚN (sừng sộ) - Tản cư. Tản cư th́ không biết hả?...

CHUNG (vẫn b́nh tĩnh) - Hừ... Lúc Tây c̣n, anh tản cư không biết thật đấy. Đấy là mẹo du kích.

LỚN - Cái ǵ? Mẹọ... Mẹo ǵ? Cứ tưởng người ta không biết cả đấy. Đêm qua thằng Quỵnh thú nhận khai nhận hết tội rồi.

CHUNG - Mẹ kiếp thằng Quỵnh. Thằng địa chủ Quỵnh khai láo cũng nghe theo nó à?

 

LỚN - Không lư sự được với anh, tôi chỉ hỏi: Lá cờ đâu?... Nói...

CHUNG - Tôi không biết.

LỚN - Lại không biết? Ngoan cố (tức tối nh́n Chung). Thế anh manh tâm cho địch bắn chết đồng chí Tường huyện uỷ của ta, anh có biết không?

CHUNG (khổ sở) Tôi... Tôi giết đồng chí Tường?... Thế này th́ quá lắm. Đồng chí Tường bị giặc bắn chết trên lưng tôi khi cơng đồng chí bơi qua sông chạy càn.

LỚN - Không nghe anh được, anh mưu mô gớm lắm! Anh chui vào phá Đảng, giết hại các đồng chí Đảng.

 

(Chung lặng người bíu chặt vào khung cửa.)

 

LỚN - Cứ tưởng đây không biết. Anh c̣n mê hoặc cô Thuỷ xóm bên sông. Anh định dụ dỗ lôi kéo người ta vào tổ chức của anh. Cũng may cho người ta chưa lấy phải thứ anh, không lại uổng phí cả một đời người.

CHUNG - Hừ... đến thế này được ư? (quay lại với Tầm). Hôm nay anh đi không chắc được về. Sau này khắc hay em ạ…

TẦM - Anh ơi, có tội t́nh ǵ?

LỚN (ra theo) C̣n thế nào mới là tội nữa?

 

(Tầm khóc định chạy theo anh, bóng mẹ Lớn đứng sẵn ở cửa.)

 

MẸ LỚN (vội ngăn lại) - Chạy đi đâu hở cháu? Làm ầm lên lại khốn bây giờ. Vào đây bà bảo.

TẦM - Khổ thân anh tôi thế này...

MẸ LỚN - Úi giời ơi khổ? Chẳng bù lúc anh mày hạch tao cái giấy tản cư sao chẳng thấy kêu khổ?

TẦM - Lúc này bà nói thế nào mà chả được.

MẸ LỚN - Tao nghĩ nhà mày ruộng nương chẳng có đấy, bây giờ sắp được chia, lại dở dói ra thế này...

TẦM - Anh Chung cháu cũng chẳng có tội t́nh ǵ?

MẸ LỚN - Ấy chết. Anh Chung mày là lắm tội lắm đấy, cháu ạ. Tội tày đ́nh cơ đấy. Cháu có được họp đâu mà cháu biết. Không lẽ nhân dân lại nói sai cho anh mày ư?

TẦM - Bà chỉ nói quá cho anh cháu.

MẸ LỚN - Lại c̣n quá à? Ngay cái chuyện trong nhà này chứ đâu xa, cháu cũng biết đấy.

TẦM - Bà đừng dựng đứng chuyện lên thế!

MẸ LỚN - Dựng đứng à? Gớm chưa! Không dưng ai đám đặt điều cho anh em nhà mày hở? Việc đến thế này rồi. Thú thật với bà đi, bà bảo thằng Lớn nhà bà nó tŕnh bày giúp với đội cho là khắc anh em nhà cháu đỡ tù, đỡ tội.

TẦM - Ô hay, bà lạ nhỉ? Cháu làm ǵ mà cháu lại phải tù tội.

MẸ LỚN - Này chỗ hàng xóm láng giềng, trong họ ngoài làng với nhau cả. Bà bảo thật. Mày khôn ngoan th́ theo lời bà. Mày khờ dại th́ theo anh mày rồi vạ vào thân đấy cháu ạ.

TẦM - Cháu chẳng việc ǵ mà vạ.

MẸ LỚN - À tưởng quí báu lắm đấy. Hoài hơi dạy bảo cái giống anh em nhà mày. (Mẹ Lớn bỏ ra đến cửa. Yên lặng.)

MẸ LỚN (lại quay vào) - Bà nóng bà nói thế thôi. Đấy cháu nghĩ xem cả họ nhà cháu có ai đoái hoài đến anh em nhà cháu đâu. Hay là chỉ có bà cùng ngơ, bà ái ngại t́nh cảnh cháu, bà mới chạy sang chỉ đường vạch lối cho cháu… (Yên lặng đi đi lại lại khắp nhà). Nhà mày lạnh khiếp được... (nh́n bàn thờ) Cái Thuỷ nó cũng không chạy sang chịu tang u mày à?

TẦM - Cháu không biết.

MẸ LỚN - Bà hỏi thế thôi. Nó sắp lấy người khác rồi. Cốt cán nó chẳng thèm lấy đứa phản động giết cả mẹ ấy…

 

(Mẹ Lớn lẳng lặng vào trong buồng. Tầm nín lặng thút thít.)

 

Tiếng MẸ LỚN - Vào đây bà hỏi. (Tầm vẫn không nhúc nhích.) Tầm!

TẦM - Bà hỏi ǵ?

 

(Không thấy trả lời. Tầm lo lắng nh́n mẹ Lớn lục lọi trong buồng. Một lát sau.)

 

MẸ LỚN (bước vội ra, tay cầm một đoạn dây thừng giấu sau lưng đột ngột giơ sát mặt Tầm.) - Tầm, thừng nào đây?

TẦM (hốt hoảng) - Thừng…

MẸ LỚN - Thừng nào?

TẦM - Thừng ấy…

MẸ LỚN - Thừng anh mày lấy định treo cổ u mày hả? Sợ lộ mới vất vội vào gầm giường phải không?

TẦM - Không phải... thừng này... anh cháu mới lấy để thay dây thừng gầu.

MẸ LỚN (trợn tṛn mắt) - Lại c̣n chối à?

TẦM - Khổ quá... thừng này gác bếp, hôm qua anh cháu mới lấy xuống, chưa kịp... bà xem c̣n bồ hóng kia.

MẸ LỚN (tưng hửng vứt thừng vào buồng) – Ờ... thôi được... (lại giường kéo Tầm ngồi bên, vỗ về) - Này, u cháu chết trong buồng này phải không?

TẦM – Vâng.

MẸ LỚN - Ờ thế... Tầm này, cháu nhớ lại xem cái đêm u cháu chết thế nào? Cháu c̣n nhớ chứ?

TẦM - Hôm ấy cháu đi họp về... cháu thấy đèn c̣n sáng.

MẸ LỚN (nhanh nhẩu) - Ngọn đèn đặt kia. Vẫn nhỏ li ti chứ ǵ?

TẦM – Vâng.

MẸ LỚN - Thế th́ đúng rồi. Anh mày vặn đèn nhỏ xuống phải không? (thấy Tầm ngơ ngác)) - Bà biết mà lại... Thế trước khi thằng Quỵnh bảo cháu ra gác anh cháu đứng đâu... Thằng Quỵnh đứng đâu?

TẦM – Cháu... không biết.

MẸ LỚN - Cháu không biết th́ c̣n ai biết nữa... Thằng Quỵnh đè chân có phải không? Anh mày… Đấy, bà biết hết rồi… Cháu cứ nói thật đi.

TẦM - Cháu chẳng biết ǵ.

MẸ LỚN - U cháu chết ngay trong nhà chứ đâu.

TẦM - U cháu mất trong buồng kia.

MẸ LỚN - Ấy đấy, thế th́ c̣n ai giết u cháu nữa hở?

TẦM - U cháu có bị giết đâu? U cháu mất chứ.

MẸ LỚN - Này này, hàng xóm người ta nói răng rắng ra kia, thằng Quỵnh với anh mày hành sự trong buồng. C̣n mày, mày đứng canh cổng ngoài, chỗ khuỷu đường xuống bên sông chớ đâu.

TẦM (hốt hoảng) - Đâu có... cháu... cháu thề có u cháu. (oà khóc) - U ơi, thế này con kêu ai được? U ơi...

MẸ LỚN - Mọi việc đều do địa chủ nó gây nên hết. Anh mày cũng bị mua chuộc mà thôi. Cháu khôn ra cháu nhận đi. Bà bảo thật.

TẦM - Việc ǵ cháu phải nhận.

MẸ LỚN - Ồ cái con bé này…

TẦM - Cháu không làm, sao cháu phải nhận? Cháu biết ǵ? Nhận bâng quơ thế cháu không nhận…

MẸ LỚN (tưng hửng) - Ờ…

TẦM - Cứ ép măi cũng thế thôi, cháu không biết.

MẸ LỚN - Ờ được... Mày ra gan không chịu nhận hở?

TẦM - Ai nói thế nào cứ nói. U cháu biết cho chúng cháu.

MẸ LỚN - Biết thế nào cho chúng mày được. Tao hăy hỏi, trước hôm u mày bị giết, u mày với thằng Chung có xô xát căi cọ nhau suốt nửa buổi không? Ừ... có hở? Chính tao nghe thấy u mày nhiếc anh mày những là: "Đảng cho nó lắm vào, rồi nay họp mai họp để bây giờ ra xóm mà nhận lấy hết tội". Có đúng thế không?

TẦM – Có, u tôi có mắng anh Chung thật.

MẸ LỚN - Ấy thế, anh mày với thằng Quỵnh sợ lộ mới phải giết u mày đi. Mà chính mắt tao thấy lúc đi họp nửa đêm về, mày c̣n quanh quẩn ở khuỷu đường xuống bến kia. Mày gác…

TẦM - Cháu gác bao giờ… Bà đừng nên thế. Hôm ấy đi họp về là cháu ra bến rửa chân rồi về thẳng nhà.

MẸ LỚN - Đội bắt thằng Quỵnh rồi. Anh mày vừa phải gọi đi. Sắp đến lượt mày đấy. Chẳng oan đâu cháu ạ (thấy Tầm nín lặng). Tội ở thằng Quỵnh cả. Khai ra. Đội người ta chỉ đánh thằng đầu sỏ thôi. Cháu khai thật ra. Anh cháu được tha về. Hai anh em lại ăn ở với nhau có hơn không?

TẦM - Cháu không biết.

MẸ LỚN - Cháu dại lắm. Rồi ra, nay mai sắp chia ruộng, nhà cháu ít nhất cũng được răm sào. Cháu tính xem. Cháu bướng bỉnh chẳng tích sự ǵ, mà nay mai đầu thừa đuôi thẹo nông dân cũng chẳng phí của thí cho nhà mày đâu. (một lát) Thế nào Tầm, nghe bà chứ! Bà bảo anh Lớn nhà bà, nó chỉ nói với đội một câu là anh mày được tha về yên trí làm ăn…

 

(Tầm yên lặng. Thuỷ vác súng vào tới cửa. Trong nhà không biết. Thuỷ lẳng lặng ra.)

 

MẸ LỚN - Thế nào Tầm, cháu tôi cũng gan lắm cơ. Nghe bà là hơn.

TẦM - Cháu không có thế. Cháu không nhận. Sao bà lại cứ bắt tội cháu.

MẸ LỚN (nổi nóng) - Mày cứ giỏi cứ gan lỳ măi tao xem nào. Nhẹ không ưa lại muốn ưa nặng à? Anh mày c̣n bám lấy địa chủ, nông dân c̣n đào tận gốc trốc tận ngọn mới đáng đời.

 

(Mẹ Lớn bỏ ra hẳn. Gian nhà vắng lặng. Trăng mờ lạnh ngắt ngoài sân. Tầm rùng ḿnh trông trước trông sau chạy đến nức nở trước bàn thờ. Thuỷ vào không đánh tiếng.)

 

THUỶ (gọi khẽ) - Tầm!

TẦM (giật ḿnh quay lại) - Chị Thuỷ, chị... chị đừng bắt em. Em có làm ǵ đâu?

THUỶ - Tầm, anh đâu?

TẦM - Không, không, em không có tội.

THUỶ (ái ngại) - Tầm, em ngồi xuống đây. Chị đây, chị sang... Anh đâu? Anh bị bắt rồi phải không?

TẦM (ngơ ngác) - Chị...

THUỶ - Chị đây (kéo Tầm đến gần) Ḱa sao Tầm lại nh́n chị thế? Anh đâu?

TẦM - Chị lại c̣n phải hỏi?

THUỶ - Ngồi xuống đây. Em đừng nh́n chị thế. (Tầm vẫn đứng) Ḱa Tầm…

TẦM - Chị c̣n sang đây làm ǵ?

THUỶ - Tại sao em lại thế với chị?

TẦM - Em chẳng làm sao cả. Chị về đi.

THUỶ (lặng lẽ) - Không sao cả, mà em lại đuổi chị về?

TẦM - Em dám đâu đuổi chị. Chị có ngồi đây đến sáng cũng thế thôi. Em có làm ǵ đâu mà em phải xưng ra.

THUỶ - Chị xin em…

TẦM - Mẹ anh Lớn cũng vừa ở đây ra. Bây giờ lại đến lượt chị. Bà ấy doạ dẫm hết lời, em cũng chẳng nói sai. Giờ chị có dụ dỗ cũng vậy thôi. Chị về đi... Anh em có bị bắt cũng tại chị.

THUỶ (rưng rưng nước mắt) - Tầm coi chị đến thế kia ư? Tầm, em giận chị lắm phải không?

TẦM - Em dám đâu giận. Nhà em là nhà phản động mà. Ai thèm đến nữa. Chị là cốt cán chị sang đây làm ǵ cho thêm luỵ chị ra.

THUỶ - Tầm, em đừng nói thế mà tủi chị.

TẦM - Chị vạch, chị tố hết tội anh Chung em rồi c̣n ǵ nữa? (Thuỷ ín lặng) Chị chẳng nghĩ đến những ngày ở hầm ở hố, nắm cơm miếng bánh cùng anh em. Sao chị chẳng thương anh em hở chị?

THUỶ - Tầm, chị van em là hết. Chị chẳng biết nói thế nào. (một lát) Chị chẳng biết nói thế nào thật. Anh Chung bên này khổ th́ bên kia sông, chị cũng chẳng sung sướng ǵ. Chị c̣n biết nói cùng ai.

TẦM (ngờ vực nh́n) - Chị.

THUỶ - Chị mặt mũi nào đặt điều kia tiếng nọ cho anh Chung được. C̣n có vong hồn u kia biết cho chị.

TẦM - Chị... U em không phải bị giết đâu, chị... chị đừng nghi oan cho anh Chung.

THUỶ - Chị biết.

TẦM - Chị biết mà làm sao người ta vẫn vu oan tội cho anh Chung em?

THUỶ (nín lặng) - Chị biết người ta tố điêu cho anh Chung hết cả, nhưng chị không dám nói. Mà chị nói thế nào? Bây giờ động tí ngờ nhau chứ mấy ai dám thực tin nhau. Chị lại là cốt cán... Cốt cán không tố anh nên nông dân đặt vấn đề nghi chị. Chị đành cắn răng phải chịu. Chị chẳng c̣n biết nói cùng ai?

TẦM - U em mất đi, anh Chung lại thế, em nghĩ chị...

THUỶ - Em nghĩ chị thay đổi phải không? Em giận chị. Anh Chung căm ghét chị... Chị cũng chịu vậy thôi (yên lặng). Chị nghĩ, chị ăn ở trước sau như một, thế nào rồi cũng có lúc em rơ cho chị. Anh Chung rơ cho chị.

TẦM (ái ngại nh́n Thuỷ) - Chị...

THUỶ - Hôm u mất, người ta ngăn chị. Thày u chị cấm chị đi lại với bên này. Hôm nay tuần bốn mươi chín u... Chị sang... rồi muốn ra sao th́ ra. Rồi người ta muốn đặt điều ngờ vực chị thế nào th́ đặt, chị cốt là chị ăn ở trước sau phải đạo với u. (một lát) Nhà ta cũng hết gạo rồi phải không?

TẦM - Vâng.

THUỶ (lấy gói khăn vuông đựng gạo) - Đây có mấy bát gạo cơm mới chị mang cho em. Lấy một ít sáng nay cúng u em ạ. Em trút vào giá đi... Lúa sớm bên nhà chị đấy mà. (thấy Tầm ngập ngừng) Em cũng không muốn nhận cho chị à?

TẦM - Sao chị lại cho…

THUỶ - Khổ, đến em cũng chẳng thật tin chị. Chị vẫn là cái Thuỷ bên sông của u đây mà... Em, em cứ nhận cho chị.

TẦM – Vâng. (ôm lấy Thuỷ) Có thế chứ. Em vẫn nghĩ chẳng lẽ nào chị lại chóng quên…

THUỶ - Em đừng bảo với anh là chị đến nhé. Chẳng ích ǵ lại thêm phiền ra. Anh vận hạn thế này, chị chẳng oán trách anh đâu. Oán trách nhau mà làm ǵ kia chứ!

 

(Yên lặng, sáng dần. Tiếng gọi đ̣ bên sông)

 

THUỶ - Có đ̣ sang sông. Để chị về. Tầm đừng nói ǵ với anh nhé!

TẦM - Vâng, chị về. (nước mắt chạy quanh) Từ giờ em chỉ c̣n có một ḿnh.

THUỶ (ái ngại ôm chặt lấy Tầm) - Chị cũng chẳng khác ǵ em. (một lát) Chị không nấn ná được nữa, gần sáng rồi.

 

(Ngoài ngơ, tiếng cụ Canh trả lời khách gọi đ̣.)

 

TẦM - Chị đừng ra vội, gặp cụ Canh mất. (tiếng đẩy cửa) Cụ Canh vào đấy chị ạ (ngần ngại) Chị ... hay chị lánh vào buồng này đă. (Thuỷ vào buồng, tiếng gơ cửa)

CỤ CANH (gọi khẽ) - Tầm… Tầm... Ông Canh đây mà (đẩy cửa vào).

TẦM - Ông, ông sang đây làm ǵ?

CỤ CANH – Tao... tao sang... anh mày bị bắt rồi hở? Tao thấy chó cắn…

TẦM – Vâng. Đội vừa gọi lên văn pḥng. Không biết việc ǵ. Nhà cháu thế, ông c̣n sang đây làm ǵ?

CỤ CANH - Tao ấy à... Tao thấy chó cắn bên mày, tao nóng ruột quá tao liều, tao chạy sang. Mà tao tính tao cứ sang, sợ quái ǵ. Cây ngay chẳng sợ chết đứng. Cùng lắm bắt tao là cùng.

TẦM - Khổ quá, rồi ông cũng bị bắt đấy.

CỤ CANH - Tao nghĩ chán ra rồi, anh mày có tội đếch ǵ đâu mà tao sợ lôi thôi. Tao cứ sang.

TẦM - Nhưng cháu vẫn lo lắm. Ngày đêm anh cháu nơm nớp, kêu ai được hở ông.

CỤ CANH - Tao cũng chẳng biết làm thế nào thật. Nhưng tao nghĩ thời Tây nó bắt, nó gí súng vào ngực anh mày, anh mày c̣n chẳng sợ. Bây giờ là ta với nhau. Truy măi, hỏi măi, không thủ mưu thủ phạm ǵ th́ cũng thôi. Chứ ức nhau đến chỗ chết à?

TẦM - Nhưng cháu vẫn sợ cho anh cháu…

CỤ CANH - Ầy thường cứ đêm đến tao nh́n sông lại xót cho anh mày, giá khúc sông nó biết nói th́ anh mày cũng chẳng đến nông nỗi này đâu. Chẳng lẽ lại chịu khoanh tay à? Cả đêm qua tao nghĩ thời dân chủ với nhau lại tốt xấu nhập nhằng măi thế này được ư?

TẦM - Nhưng gỡ được tiếng cũng c̣n khó lắm ông ạ...

CỤ CANH - Th́ biết làm thế nào? Đến tao biết mười mươi việc anh mày mà tao cũng chẳng dám nói ra.

TẦM - Thế cứ đành thế này măi hở ông?

CỤ CANH - Tao định bụng sang... Bảo anh mày hăy cứ tĩnh tâm lắm mới được. Cây ngay chẳng sợ chết đứng là vậy. Việc đời vẫn thế. Thời Tây chiếm đóng, đen tối tưởng chết tiệt cả, ấy thế mà lại hoà b́nh đấy thôi. Tao chỉ lo anh mày c̣n nông nổi. Đang cái lúc thế này dễ sinh hoang mang, thục mạng làm liều khốn khổ cho ḿnh à... Thế nào dạo này mót mét ra sao hở cháu?

TẦM - Cũng kém lắm. Nhà cháu rau cháo mấy phiên chợ nay rồi.

CỤ CANH - Cũng c̣n khó khăn dăm bữa nửa tháng nữa đấy. Thôi được... hôm nay có mẻ tôm mẻ cá nào tao cho anh em mày. Đùm bọc lấy nhau cho qua ngày vậy. Trước c̣n đói kém gấp mấy bây giờ chứ.

 

(Tiếng gọi đ̣ giục bên sông)

 

CỤ CANH (nói qua cửa sổ) - Lăo sang đây... đợi đấy. Quái thật, anh nào gọi đ̣ cũng giục rối lên. Đă sáng hẳn đâu?

TẦM - Ông nhanh lên nhỡ có ai…

CỤ CANH - Ừ... mà nhỡ tao có gặp ai, tao bảo thẳng tao đến đây, tao có cái đếch ǵ mà sợ liên quan...

TẦM - Ông đừng để gặp ông ạ…

CỤ CANH - Gặp cũng lôi thôi ra thật (nhưng vẫn quanh quẩn ở cửa). Tao cứ nghĩ u mày là mẹ chiến sĩ không điều tiếng với ai. Thằng anh mày cũng vậy. Nào là Tây tra tấn, chó cắn nát mặt, hụt chết mấy lần mới giữ được cơ sở bên sông này chứ hại dân hại nước cái ǵ? Tao chuyên chở đ̣ cho nó đưa cán bộ đưa bộ đội sang sông măi đấy thôi. Anh mày thế nào tao đă rơ. Tao quư nó ở chỗ đấy. Bây giờ đánh đùng cái bảo cắt đứt. T́nh nghĩa con người chứ có ngỡ là gỗ được à? Sau này trong làng xóm sớm tối c̣n có nhau, muối mặt thế trông không được. (Yên lặng ra cửa) Tao cho cái Thuỷ ra nó cũng bạc. Hai đứa nó quấn quít nhau là thế, mà giờ con bé cũng giở mặt ngay được. Từ độ ấy tịnh không thấy nó đả động đến anh mày câu nào đấy!

TẦM (ấp úng) - Không…

CỤ CANH - Không ǵ! Lúc hoạn nạn mới biết bụng nhau thật. Quân tệ bạc đến thế là cùng. Tao chở nó sang sông họp luôn. Tao ghét mặt. Tao cũng chẳng thèm nói. (tiếng giục đ̣ bên sông) Này chẳng may anh mày có làm sao, tao sẽ xin đội với nông dân, trông nom cho mày. Phải b́nh tâm cháu ạ…

TẦM – Vâng.

CỤ CANH - Thôi tao phải xuống bến, chẳng có đ̣ đợi. (vẫn dùng dằng) Mày bảo với anh Chung mày. Ông cụ Canh dặn đi dặn lại phải vững tâm, c̣n có bà con trong làng. Cũng c̣n có người thế nọ, người thế kia, không thể bỗng chốc mất t́nh mất nghĩa hết được... Thôi ông về, không có ai gặp lại đem ra xóm phê b́nh phê biếc om ṣm khổ cả chúng mày.

 

(Cụ Canh hấp tấp ra cổng. Thuỷ lặng lặng trong buồng ra.)

 

TẦM - Cụ Canh không biết có chị ở đây.

THUỶ (thở dài) - Biết làm ǵ? Cả làng có ai coi chị ra ǵ nữa? Chị... Chị c̣n khổ đến đâu cơ chứ?

TẦM - Ḱa chị Thủy…

THUỶ - Cụ Canh chắc biết chuyện chị rồi. (thẫn thờ)? Tầm... Tầm vẫn c̣n tin ở chị chứ. Tầm có ghét bỏ chị không?

TẦM - Ô hay chị Thuỷ, làm sao hở chị?

THUỶ - Chị cực lắm... Có người hỏi chị (oà khóc ôm lấy Tầm), chi bộ đă bằng ḷng, bắt chị phải cắt đứt với anh, bắt chị phải bỏ anh…

TẦM (cũng khóc) - Thế ư chị?

THUỶ - Ừ, thày u chị đă phải nhận giầu người ta. C̣n chị... chị đă quyết rồi…

TẦM - Hay là chị cứ nhận lời cho yên ổn cả chị ạ.

THUỶ - Em bảo chị lấy người khác ư?

TẦM - Không… em không…

THUỶ - Em coi chị thế nào mà lại nói thế. Thày u chị bắt buộc cũng chẳng được. Chị với anh (nức nở) dù anh tù tội chị vẫn đợi... U mất chị không dám sang. Chị không phải với u thật, u biết cho chị. Bên kia sông chị chẳng có ḷng nào khác đâu.

 

(Yên lặng)

 

THUỶ (tần ngần) - Chị về nhé… Biết đến bao giờ lại được sang đây?

 

(Tiếng chó sủa đầu ngơ)

 

TẦM - Có người đấy, chị tắt lối này xuống bến vậy.

 

(Thuỷ bước vội ra. Tầm cũng vội khép cửa lại. Lặng lẽ một lát. Chung ẩn cửa vào ủ rũ hốc hác. Tay cầm tờ giấy trắng. Tầm lo lắng nh́n anh không dám hỏi.)

 

CHUNG (chán nản vứt giấy xuống giường) - Vặn chán rồi bắt tao về kiểm thảo. Đây, bắt tao phải khai vào giấy nhận có giết u.

TẦM - Anh cứ khai thực u chết thế nào.

CHUNG - Th́ tao đă khai cả rồi, ai tin?

TẦM - U chết thật kia mà.

CHUNG - Khổ lắm, nếu thế đă không thành chuyện. Người ta nhất định bảo là có địch giết u mới chết được, mà địch phải ở ngay trong nhà này mới giết u nhanh chóng thế... Vặn tao địch là ai? Chẳng là tao, là mày c̣n ai nữa vào đây. Dồn tao phải nhận tao bóp cổ u, mày gác cổng. Phải khai đúng hư vậy mới nghe.

TẦM - Thế này c̣n căi vào đâu được hở anh?

CHUNG (chán nản) - Vặn tao trước giết đồng chí Tường huyện uỷ, bây giờ giết u chứ c̣n ai nữa (yên lặng thở dài). Chết th́ chết tao không nhận. Nhận liều một cái là bao nhiêu đồng chí khác bị liên quan, bị bắt lung tung cho mà xem.

TẦM - Bà Lớn bà ấy cũng bắt em nhận đúng như vậy.

CHUNG - Mẹ Lớn nó sang đây?

TẦM - Vâng, bà ấy bảo em gác cổng…

CHUNG - Mày nhận cả.

TẦM – Không.

CHUNG - Bây giờ muốn bảo ai là địch chẳng được. Đến mày cũng gác cổng, mày cũng giết u th́ c̣n ra thế nào nữa? Đảng xưa nay vẫn được tiếng là sáng suốt lắm. Sao lại đốn thế này kia chứ? (chán nản) Bảo tao giết đồng chí Tường? Giết u? Đồng chí ra sống vào chết mà quy tội thành địch... Tao cứ nghĩ mà muốn cắn lưỡi chết ngay được. Lớn lên là cầm súng giết giặc, đến bây giờ lại bảo là giết đồng chí ḿnh, giết mẹ ḿnh? (Tầm nín lặng một lát lâu. Chung thấy giá gạo dưới chân giường) Gạo nào đây, Tầm?

TẦM (ấp úng) - Gạo đấy…

CHUNG - Gạo nào? (thấy Tầm ấp úng) của con vợ thằng Quỵnh à? Đă bảo cấm tiệt không dây với địa chủ. Nó mua chuộc đấy. Sao mày lại nhận?

TẦM (vội vă dối quanh) - Không phải.

CHUNG - Thế gạo ấy của ai?

TẦM - Gạo ấy...

CHUNG - Của ai?

TẦM - Của cụ Canh.

CHUNG - Của cụ Canh à?... (chán nản) Cụ Canh c̣n đem cho gạo làm ǵ? (Yên lặng một lát bỗng quay lại) Tầm, mày đem giả gạo cụ Canh.

TẦM - Sao hở anh?

CHUNG - Cứ đem giả gạo đi.

TẦM - Anh đừng giả thế.

CHUNG - Tao bảo cứ đem giả lại.

TẦM - Không phải…

CHUNG - Tao biết cụ Canh thực bụng thương hại ḿnh mới cho gạo lúc này, nhưng rồi vạ lây khổ thân cụ.

TẦM - Không phải cụ Canh...

CHUNG - TẦM cứ đem giả cụ, cụ chẳng giận đâu. Tao bảo đem giả mà lại. Không! Lại lôi thôi cả bây giờ. (Càng giục đưa giá gạo vào tay Tầm) đi... Tầm.

TẦM - Sao lại thế này hở anh?

CHUNG (nh́n em thương hại) - Sao à? Tao chẳng muốn luỵ ai. Tao thiết ǵ nữa.

TẦM (càng ngơ ngác) - Ơ ḱa anh.

CHUNG (như mê sảng) - Tao có làm sao đâu?

TẦM - Anh…

CHUNG (vẫn thế) - Tao c̣n cần ǵ gạo nữa…

TẦM (hoảng sợ) - Anh đừng làm thế anh ơi.

CHUNG (càng giục) - Ơ hay Tầm. Mầy giống u như hệt ấy. Có thế cũng sớn sác lên. Đi nghe anh. Rồi về hôi sớm chuông Đồng Sậy. C̣n lâu mới sáng. Đi... đi Tầm. (Chung khép cửa vào giường ngồi. Tờ giấy trắng kiểm thảo trước mặt. Tức tối xé vụn) - Tội ǵ mới được chứ.

 

(Anh lại bó gối lặng yên, lắng nghe tiếng gà phía xa. Trăng mờ mờ trên sông. Một lát lâu. Thấy tiếng ồn ào bên ngoài. Tiếng gọi cửa. Chung lo lắng bực dọc).

 

CỤ CANH (xô vào trước) – À… Anh Chung đây rồi. Bà vào trong này, ba mặt một lời xem tôi có giấu giếm ǵ không? Vào đây... ôn tồn nói chuyện với nhau. Chẳng nên lắm lời như thế.

MẸ LỚN (sồn sồn vào theo) - Ai lắm lời, gớm chưa? Giá không bắt được quả tang, th́ cụ c̣n già mồm chối căi đến đâu cơ đấy.

CHUNG (ngạc nhiên lo lắng) - Việc ǵ lôi thôi đến cháu thế cụ Canh?

CỤ CANH - Có ǵ đâu? Đầu đuôi thế này. Vừa rồi bà ấy bắt gặp cái Tầm mang gạo. Bà ấy hô hoán giữ cái Tầm mang lên tŕnh đội.

CHUNG - Khổ không, lại thêm tội thêm nợ thế này...

CỤ CANH - Ấy thế là bà ấy làm toáng lên.

MẸ LỚN - Chứ không à? Để tha hồ đi lại thậm thụt nhé!

CỤ CANH (tức quá) - Này, bà chớ thêm chuyện. Tôi bảo thật. Tôi cóc sợ.

MẸ LỚN - Cụ bảo ai?

CỤ CANH - Tôi cóc sợ đứa nào thật.

MẸ LỚN (sồn sồn chạy ra phân bua với ngoài cổng) - Này, này có bà con hàng xóm láng giềng, có bên Đông bên Tây, bên phải bên trái biết cho nhé... Cụ này bao che cho phản động. (Lớn sồng sộc chạy vào. Mẹ Lớn nắm lấy Lớn kéo vào) Ấy đấy, anh vào đây. Làm cho ra nhẽ việc này, nhu nhơ không xong với họ.

LỚN - U để yên xem đầu đuôi ra sao.

MẸ LỚN - Để yên để người ta làm loạn à? Người ta thậm thụt cho nhau gạo. Tao bắt được, mà c̣n gân cổ, chối lấy được kia chứ.

CỤ CANH - Ai chối. Tôi có cho gạo đâu. Không, lại bảo làm có, th́ tôi phải nói. Đến gặp đội tôi cũng nói.

LỚN - Yên, yên, thế ai cho gạo nhà này?

CỤ CANH - Nào tôi biết đâu?

LỚN - Tôi hẵng hỏi cụ, cụ có sang đây không?

CỤ CANH - Có, tôi có sang đây thật.

LỚN - Thế cụ c̣n chối quanh ǵ nữa. Chẳng cụ cho gạo th́ c̣n ai vào đây?

CỤ CANH - Tôi không biết.

LỚN (quay sang Chung) - Gạo của ai?... Nói…

CHUNG - Tôi không biết.

LỚN - Ơ ... (quay sang hỏi cụ Canh) - Cụ có sang đây không?

CỤ CANH - Tôi có sang đây.

LỚN - Ấy thế không cụ cho gạo c̣n ai nữa hở?

CỤ CANH - Nào tôi biết được.

MẸ LỚN - Đấy có anh... mà cụ ấy c̣n chối bai bải Cụ này phải bắt tận tay vay tận trán cụ mới chịu phải không.

CỤ CANH - Tôi không chịu thật. Bà chớ quen thói nạt nộ mẹ chồng, la làng ngă vạ ra đấy được.

MẸ LỚN - Úi giời mày nghe đấy. Thế mà mày chịu được. Mày cứ bắt cả lên đội, tao xem có dám ăn nói thế không nào?

LỚN - Ơ hay, u cứ lặng yên đă có đội xét.

CỤ CANH - Có đội tôi cũng thế thôi, tôi sang đây thật. Tôi nghĩ thương t́nh cảnh anh em hắn. Tôi sang thăm (bảo với Chung). Tự tôi, tôi sang thăm, không dính dáng ǵ đến anh cả. Nếu phải tội, tội tôi, tôi chịu.

MẸ LỚN (lại sồn sồn) - Bao che thậm thụt bao nhiêu lần rồi chứ?

CỤ CANH - Có anh Chung đây. Từ trước tôi có sang không? Hay lần này mới là một. Có thế nào tôi nói thế ấy. Tôi không gian dối. Tôi cóc sợ thật. Đừng có mà gắp lửa bỏ tay người.

MẸ LỚN - C̣n ngoan cố đấy. Thông đồng với nhau đă rơ rành rành.

LỚN - U này, không phải việc u. U làm ǵ mà ầm ầm lên. Việc này đă có bà con nông dân vạch cụ ở xóm... À ... ra tối dân học tập cụ thường viện cớ vắng mặt chở đ̣ đêm là thế. Bây giờ mới vỡ lẽ, cụ tưởng người ta không biết đấy... Ra là mưu mô.

CỤ CANH - Sao lại mưu mô. Ô lạ cái anh này... lại cứ ghép tội liều cho người ta. Tối tôi không họp là tôi mắc việc chở đ̣ với đơm đó đêm thật. C̣n tôi sang đây là tôi tự ư tôi thương t́nh anh em nhà hắn. Sao lại mưu mô?

LỚN - Cụ không biết nhà này là thế nào à? Nhà có án mạng, nhà nông dân đang phát hiện vấn đề. Cụ biết thế sao cụ c̣n cho gạo?

CỤ CANH - Ơ hay, ai cho gạo ? Anh lại cứ đổ diệt cho tôi?

LỚN - Không cụ c̣n ai nữa ? Thế không là liên quan mưu mô th́ c̣n là cái ǵ nữa?

MẸ LỚN - Ra họp xóm xem cụ ăn nói như thế có được không?

CỤ CANH - Đến đâu th́ đến.

LỚN - À được, cụ đừng có trách... Cụ định tự tiện đi lại đây có phải không?

CỤ CANH - Ai tự tiện? Anh đừng có nói sưng sưng ra thế. Đă chắc đâu nhà người ta là nhà phản động? Anh ta có theo Tây theo địa chủ th́ đă chẳng gieo neo chống đỡ cho cả cái làng này. Ḿnh có nghi ngờ, cũng phải xét cả công lao cho người ta.

MẸ LỚN - Công lao. Công lao phá hoại cải cách, công giết mẹ ấy à?

CỤ CANH - Này bà đừng ăn nói hàm hồ. Mắt bà có mục đích rơ ràng không? Không nên buộc án, gán tội cho người ta. Phải để cái phúc cái đức cho con cháu về sau.

LỚN - Cụ bảo ai buộc tội?

CỤ CANH - Tôi nói bằng thật ấy. Nói thật chứ. Tôi bảy mươi tuổi đầu rồi anh có giỏi anh cũng chẳng rơ ngọn ngành cái làng này bằng tôi. Xấu tốt thế nào rồi ra làng nước sẽ biết. Bia miệng để đời kia. Liệu mà cư xử với nhau.

MẸ LỚN (mỉa) - Phải! Liệu mà cư xử với nhau. Để tha hồ tác yêu tác quái trong làng nhé!

CỤ CANH (giận đỏ mặt) - Ai tác yêu tác quái! Bà cứ về bà hỏi mẹ chồng bà xem, ai trèo lên cả bàn thờ bố chồng ăn vạ? Ai trộm gà hàng xóm rồi xắn ngược váy đi rong làng chủi bậy? Ai chứ? Bây giờ thời buổi khác rồi. Bà phải biết điều mới được.

MẸ LỚN (tru tréo) - Này, này cụ định bao che ra mặt phải không? Cụ định chống chọi với cả làng này à? Tôi gọi hàng xóm làng giềng chứng kiến cho cụ hết đường chối căi. (định chạy ra cổng).

LỚN - Ơ hay nhỉ! U cứ làm toáng lên.

MẸ LỚN - Úi giời ơi! Không làm toáng lên không xong với họ. Có đội ở đây, người ta c̣n bốp chát với mày thế. Nay mai đội rút về đoàn th́ người ta c̣n về hùa với địa chủ trấn át mày đến đâu ấy chứ! Rồi của được chia đă chắc trong tay chưa? Rồi mày c̣n làm sao đương nổi việc làng việc nước được nữa hở?

CỤ CANH - Bà chớ nói càn. Bà không vơ đũa cả nắm được. Bà không thể dây cái chuyện địa chủ vào đây được.

MẸ LỚN (lại sồn sồn) - Này, này, lại như cái việc cho trộm gạo vừa rồi ấy. Khéo đánh trống lấp lắm. Vải thưa chẳng che được mắt thánh đâu. Cứ lôi cụ ấy lên đội.

LỚN - Cụ phải lên đội. Thảo nào vụ án măi không ra manh mối là thế.

MẸ LỚN - Có đông đủ bà con nông dân thử xem cụ lấp liếm thế nào? Cứ lôi cụ lên đội xem nào.

CỤ CANH - Đến đâu cũng vậy, cứ thực tôi khai, c̣n cái ǵ chướng tai gai mắt, tôi cứ thẳng tôi nói, tôi cóc sợ đứa nào thật.

MẸ LỚN (át giọng) - Cụ chửi vắt nóc cả làng này có phải không? Đấy mày xem. Gớm chưa!

LỚN (bảo Chung) - Thêm việc này nữa, kiểm thảo thành khẩn đi. Viết vào giấy kia. Sớm lên tŕnh đội ngay. Ngoan cố không được. Muốn sống th́ trông thằng Quỵnh đấy.

CHUNG (đóng sầm cửa theo) - Thế này c̣n sống làm sao được.

 

(Chung thở dài. Vào buồng lấy chiếc thừng treo lên giường, luồn thừng vào xà ngang... Trong xóm gà gáy rộn lên giục sáng. Tiếng trẻ khóc và tiếng ru bên cạnh. Gian nhà Chung lạnh ngắt: bàn thờ trống rỗng, chơng của Tầm bỏ không, chiếc chiếu rơi xuống đất. Nước mắt Chung trào ra. Anh chua xót nh́n cái ṿng thừng trước mặt.)

 

CHUNG (nghẹn lời) - Không thể chết điêu đứng thế này được?

 

(Chung rời tay cắn chặt môi, nước mắt càng ràn rụa. Có tiếng kẹt cửa, Thuỷ vào trông thấy hốt hoảng, chân ríu lại, nước mắt chạy quanh. Chung quay lại vừa giận vừa thương...)

 

THUỶ - Giời ơi! Anh Chung (chạy sô đến giường khóc níu lấy chân Chung). Anh Chung, sao anh lại thế này? Anh không thương ai nữa hở anh?

CHUNG (chua chát) - Thương ai?

THUỶ (vẫn khóc) - Anh nỡ bỏ cái Tầm. Anh nỡ bỏ tôi?

CHUNG (nh́n Thuỷ oán trách) - Thế súng ống đến đây làm ǵ?

THUỶ - Tầm nó bị giữ rồi…

CHUNG - Không phải đến ḍ xét nữa.

THUỶ - Anh Chung... anh nghĩ thế nào anh lại trả gạo kia chứ! Anh chẳng thương tôi!

CHUNG - Thương tôi. Hừ… Đây không cần dụ dỗ, ra ngay!

THUỶ - Tôi xin anh.

CHUNG - Có bắt th́ cứ việc bắt. Tay đây.

THUỶ (khổ sở) - Anh Chung…

CHUNG (không nén nổi) - Thế vác mặt đến đây làm ǵ?

THUỶ (nh́n Chung hờn giận) - Tôi van anh, anh đừng nói thế.

CHUNG - C̣n để nhau điêu đứng đến thế nào nữa chứ?

THUỶ - Anh Chung... Anh chẳng nên nặng lời…

CHUNG - C̣n "anh" được kia à? Không t́nh nghĩa ǵ hết. Ăn ở vói nhau thế là hết nước hết cái rồi.

THUỶ - Anh Chung, anh nói hay nhỉ.

CHUNG - Hay, hay không th́ biết đấy…

THUỶ - Anh đừng làm khổ tôi nữa.

CHUNG - À khổ... ai làm khổ ai? C̣n vác mặt đến đây được. Đây không có tội. Đây không làm ǵ nên tội. Ai phải ai trái, ai ăn không nói có, ai làm t́nh làm tội nhau khắc biết đấy.

THUỶ - Thực anh chẳng rơ…

CHUNG - Thằng này đến chết nữa mới rơ à? Mà thế nào mới là rơ nữa. Điêu toa bạc bẽo, tàn nhẫn với nhau (hất mạnh bát nước trên giường) Con người ta ăn ở với nhau phải như bát nước đầy chứ?

THUỶ (ứa nước mắt) - Ai tàn nhẫn đấy?

CHUNG - Hừ, không tàn nhẫn mà lại tố, mà lại xoen xoét buộc tiếng phản động cho cơ sở cũ. Sao lại dám đặt điều cho cơ sở cũ là phản động bán nước? Sao không nghĩ đến đồng chí Tường huyện uỷ bị giặc bắn chết trên sông này? C̣n sống mà ăn hột cơm ngày nay phải biết nhớ biết thương đến các đồng chí ấy chứ. Sao lại tàn nhẫn chóng quên?

THUỶ - Tôi quên thế nào được. Anh giắt tôi vào du kích…

CHUNG - Thế ai bảo họp chi uỷ treo cờ Pháp là họp phản động. Đứa nào nói. Đứa nào hám danh cốt cán tố sằng?

THUỶ - Anh nói thế mà nghe được. Anh c̣n coi tôi đến thế nào nữa?

CHUNG - Coi thế nào (với con dao ở liếp chạy sô đến phía Thủy. Bỗng ngừng tay). Con dao này chém giặc mà bây giờ tự tay ḿnh chém ḿnh à? C̣n coi thế nào nữa... (tức tối chém mạnh xuống thành giường) Đồ vô ơn bạc nghĩa.

 

(Thuỷ lặng người, nước mắt vẫn ràn rụa ấm ức bỏ ra tới cửa lại quay vào.)

 

THUỶ - Anh nỡ xử tàn tệ với tôi, thế kia ư?... Thôi th́ cũng đành. Anh muốn bỏ tôi cũng được. Anh chỉ cần nói với tôi một câu…

CHUNG - Hừ bỏ... muốn nói chuyện bỏ, muốn cắt đứt. Đây chẳng cần thật.

THUỶ - Anh nghĩ xem. Anh cần ǵ nữa?

CHUNG - Bạc bẽo, đây không cần thật.

THUỶ - Chẳng biết ai bạc bẽo kia đấy (tức không nói được). Với anh tôi đă thế nào rồi!

CHUNG - Đứa nào nói chuyện bỏ. Đứa nào muốn bỏ đấy?

THUỶ - Anh muốn nói thế nào cũng được.

CHUNG (chua chát) - Thằng này bây giờ một ḿnh chịu tội.

THUỶ - Dễ một ḿnh anh khổ. Anh biết đâu, chi bộ bắt tôi lấy người khác, bắt tôi phải cắt đứt với anh. (Thuỷ nghẹn lời) Chuyến đ̣ nên nghĩa, chốc lát không thể bỏ anh. Tôi với anh tuy chưa nên vợ nên chồng... Nhưng sống chết đă có nhau cả rồi đấy… anh… (Chung nín lặng) Bây giờ anh coi rẻ tôi. Tôi c̣n biết sống với ai nữa? Anh c̣n để tôi sống làm ǵ? Ừ... sẵn dao kia anh c̣n để tôi sống làm ǵ? Sẵn dao đấy…

CHUNG (ném dao xuống giường) - Sao lại khổ thế này hở

 

(Thuỷ khóc bỏ ra cửa. Cụ Canh và Tầm ở cổng chạy vào)

 

CỤ CANH - Ấy đấy, cái Thủy. Ra mày mang gạo sang cúng bà cụ. Rơ khổ, nào tao có biết đâu, tao lại cứ ngờ oan mắng mày thậm tệ.

 

(Tầm và cụ Canh vào hẳn. Hốt hoảng trông thấy dây thừng lủng lẳng trên giường.)

 

TẦM (Níu lấy anh) - Sao anh lại... Anh định bỏ em thật đấy thôi anh ơi!

CỤ CANH - Sao mày nghĩ dở thế cháu. Việc ǵ mà chết. C̣n có em Tầm mày, c̣n có cái Thuỷ kia. C̣n có ông đây. C̣n có dân làng người nọ người kia nữa chứ. Ai để mày chết!

CHUNG - Nhưng người ta buộc cho cháu cái tội phản động giết mẹ. Cháu c̣n khổ đến đâu nữa?

CỤ CANH - Vu oan giá hoạ thế nào được? Hôm ấy u mày phải cảm chết. Tao sang tao biết rơ ràng.

CHUNG (Chợt nghĩ) - Thế ông sang để đèn điếu ở giường phải không ông?

TẦM - Cháu họp về c̣n thấy đèn điếu ở giường này này.

CỤ CANH - Khổ thật. Tao để đấy chứ ai.

CHUNG - Chính ông sang chơi tối hôm u cháu mất?

CỤ CANH - Ừ mà lại. Tao đem điếu ra hút. Khi về c̣n vặn đèn nhỏ li ti bằng hạt đỗ cho u mày. Tao đấy. Khổ thật. Họp xóm chẳng dám nói ra. Tối hôm ấy u mày đóng cổng, phải cảm ngă dúi dụi ở chân bụi chuối kia, may có tao xuống bến thấy nằm vật ra đấy mới d́u vào trong nhà. U mày c̣n chuyện tṛ được. Lúc tao về u mày c̣n bảo vặn đèn nhỏ cho cái Tầm nó đi họp về kia mà. Ai ngờ u mày mất lúc nào không biết.

CHUNG - Đúng là u cháu bị cảm lạnh rồi.

THUỶ - Sao ông không gọi em Tầm ngay, may ra c̣n cứu chữa được cho u cháu.

CỤ CANH - Ấy thế c̣n nói ǵ. Lúc ấy bà cụ c̣n tỉnh, bà cụ bảo không phải gọi, ai biết đâu đến nông nỗi này. Tao cứ ân hận măi. Nghĩ chỉ thương u mày chết phải cái lúc này.

CHUNG - Việc rơ ràng như thế mà cháu cứ phải chịu tiếng giết mẹ suốt đời (nh́n thừng tức tối). Cháu không bó tay chịu chết được nữa, không thể để lầm lẫn được măi.

THUỶ (nh́n Chung thương xót) - Đă sống chết có nhau… việc này cháu phải nói mà ông cũng phải nói... Ông phải đứng ra ông nói.

CỤ CANH - Ấy nói chứ. Đến thế này tao nói. Tao phải nói hết với dân làng, với đội. Tâm địa ông con ta ngay thẳng, không lẽ lại chịu ép một bề măi được, chúng mày ạ (bảo với Chung). Mày nghe ông. Cây ngay chẳng sợ chết đứng. Sóng gió này cũng qua giờ thôi. Rồi ra phải có lúc trời quang mây tạnh chứ. (với Thuỷ) Thôi mày ở đây thêm khó ra. Mày ra bến tao cho con đ̣ đưa về rồi tối mày lại sang. Nhất định ông con ḿnh phải làm cho ra nhẽ…

 

(Cụ Canh vội vă ra cửa. Thuỷ nh́n Chung yên lặng dặn ḍ rồi ra theo. Chung bàng hoàng. Một lát lâu. Như vừa thoát nạn, dáng người tỉnh táo hẳn lên, nhanh nhẹn cầm dao trèo lên giường.)

 

TẦM (hốt hoảng) - Ḱa anh.

CHUNG (chém đứt thừng) - Chết thế nào... (cười bảo em) Mày lại sắp sớn sác lên như u ấy thôi. Có gạo mới rồi đấy. Đem thổi cúng u đi. Bây giờ có tù tội cũng cóc cần...

TẦM - Thổi chỗ gạo chị Thuỷ hở anh?

CHUNG - Ừ, c̣n gạo nào nữa...

TẦM (nh́n ra sông) - Anh xem ḱa. Cụ Canh chèo thuyền, chị Thuỷ chị ấy ngồi đằng mũi, trông y như ngày xưa du kích đánh xong bốt Ngà rút sang sông ấy nhỉ?...

 

(Chung yên lặng ra phía cửa sổ. Trời sáng rơ. Ánh nắng ửng hồng. Tiếng nói cười gọi đ̣ rộn ră dưới bến. Một tiếng sáo tha thiết bên kia sông vẳng lại.)

 

Màn từ từ hạ.

 

(Trích báo Văn số 16 và 17 ngày 23 và 30 tháng 8-1957)

 

 

Phần II, chương III : Các nhà văn đứng tuổi: Tố Hữu, Nguyễn Tuân

 

Chúng tôi xếp vào hạng đứng tuổi những nhà văn hiện nay từ 40 đến 55 tuổi, đă có địa vị trong làng văn từ trước ngày kháng chiến. Nhưng căn cứ vào tuổi tác và thái độ chính trị của họ, chúng tôi phải chia họ thành hai phái, mới và cũ.

 

Phái mới gồm những nhà văn xuất hiện từ 1940 đến 1945, hấp thụ được nền giáo dục của Pháp nhưng chưa được hưởng thụ dưới chế độ thực dân. V́ ra đời muộn màng, không bị ảnh hưởng sa đoạ của phong trào truỵ lạc từ 1930 đến 1940, nên họ c̣n giữ được tính nết ngay thẳng, tinh thần đấu tranh không vụ lợi. Tất cả đều tham gia kháng chiến rất tích cực và hầu hết đều là đảng viên cộng sản.

 

Nhưng ngày nay tất cả đă chống lại Đảng, duy có một ḿnh Tố Hữu vẫn trung thành với Đảng. Nhưng dù theo cộng sản hoặc chống lại cộng sản, họ đều là những người hiện nay có một lập trường dứt khoát, không có thái độ mập mờ thụ động.

 

Phái cũ gồm những nhà văn đă xuất hiện từ 1930 đến 1940. Phần lớn là công chức dưới thời Pháp thuộc, như Tú Mỡ (công chức Sở Phi năng), hay Xuân Diệu (công chức nhà đoan). Một số là những người đă dùng ng̣i bút để ca tụng chế độ cũ, như Vũ Ngọc Phan (viết báo Franco-Annamite) hay Hoài Thanh (viết báo Patrie Annamite). Một số nữa là những người đă sống bằng văn chương lăng mạn dưới chế độ cũ như Thế Lữ và Nguyễn Tuân.

 

V́ vậy nên tất cả phái này ngày nay khôgn chống cộng, cũng như ngày xưa họ không chống thực dân. Họ là những người đă được hưởng thụ trong thời tiền chiến nên đă mất hết tinh thần đấu tranh. Đa số hiện nay vẫn làm công chức cho Đảng như ngày xưa họ đă làm công chức cho Pháp. Chỉ có một điều khác trước là ngày nay họ không sáng tác nữa. Thế Lữ có thể coi là điển h́nh cho nhóm này.

 

Một thiểu số có thái độ xu thời như Hoài Thanh, Xuân Diệu ngày nay chạy xung quanh Tố Hữu, cũng như ngày xưa chạy xung quanh Phạm Quỳnh. Nhóm này ngày nay cũng chỉ làm "công chức văn nghệ", không sáng tác, hoặc quên mất sáng tác. Họ là những người mà Phùng Cung mệnh danh là "Con ngựa già của Chúa Trịnh".

 

Một thiểu số nữa có tâm địa bất trắc. Hễ Đảng chiều th́ ca tụng Đảng, hễ Đảng hắt hủi th́ quay ra chống lại Đảng. Nguyễn Tuân và Nguyễn Công Hoan thuộc vào hạng này.

 

V́ những nhà văn công chức đă giải nghệ không sáng tác, nên trong phần này chúng tôi chỉ giới thiệu :

Tố Hữu là nhà văn xưa này vẫn trung thành với cộng sản;

Nguyễn Tuân tiêu biểu cho một bọn văn nhân xoay xở, lúc nịnh Đảng, lúc chửi lại Đảng;

Văn Cao, Trần Duy, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Sỹ Ngọc, Chu Ngọc, Như Mai, là những nhà văn hiện nay dứt khoát chống cộng.

Tóm lại về phương diện tư tưởng th́ những người trước kia đă chống thực dân, th́ nay cũng chống cộng (trừ trường hợp Tố Hữu), c̣n những nhà văn trước kia chịu đựng hoặc phục vụ thực dân th́ ngày nay cũng chịu đựng hoặc phục vụ cộng sản.

 

Một mặt khác, xét về phương diện văn chương thuần tuư, th́ về nghệ thuật viết văn, phái cũ đă nhường chỗ cho phái mới.

 

Những bài chúng tôi trích sau đây chứng tỏ điều đó.

 

 

*

 

 

Tố Hữu

 

Tố Hữu là thần tượng của thi ca cộng sản Việt Nam cũng như Mayakovski ngày xưa là thần tượng của thi ca Liên Xô. Ông là một trong 18 Trung ương Uỷ viên của Đảng Lao động Việt Nam và hiện giữ nhiệm vụ lănh đạo văn nghệ ở Bắc Việt.

 

Tố Hữu sinh ở Huế, học ở trường Khải Định và trong khi đương c̣n là học sinh đă gia nhập Đảng Cộng sản và đă nổi tiếng về văn thơ. Ông bị bắt năm 1939, đầy đi Lao Bảo, cho đến năm 1945, nhân dịp chính phủ Trần Trọng Kim tha các tù chính trị ông mới được thoát khỏi trại giam.

 

Ra khỏi nhà tù, ông về ngay Thanh Hoá hoạt động Việt Minh. V́ dáng người nhỏ nhắn, nên ông thường cải trang làm con gái, lẩn quất ở vùng Sầm Sơn. Ông điều khiển cuộc khởi nghĩa ở Thanh Hoá, và sau này giữa chứ Bí thư Tỉnh bộ. Năm 1947 ông lên Việt Bắc, được bầu làm Ủy viên Trung ương dự khuyết và đến năm 1954 trở thành Uỷ viên thực thụ. V́ là văn sĩ nên Đảng giao cho ông nhiệm vụ lănh đạo văn nghệ.

 

Trong suốt thời gian kháng chiến ông chỉ làm được một số bài thơ ca tụng kháng chiến, ca tụng "Bác Hồ" và "ông Sít-ta-lin". Trong thời gian Sửa sai, ông lánh mặt sang Tàu, măi đến gần đây, sau khi đă đàn áp xong phong trào đối lập, ông mới trở về giữ chức vụ cũ.

 

Để giới thiệu với độc giả lối thơ tán dương lănh tụ rất phồn thịnh trong nền thi ca cộng sản, chúng tôi trích sau đây hai bài thơ đặc biệt nhất của Tố Hữu.

 

Lời thơ của ông rất hay, nhưng v́ ông chuyên dùng ư thơ để ca tụng lănh đạo nên cũng như những loại thơ ca tụng khác, đọc giả cảm thấy tinh thần thấp hèn của người viết.

 

Hiện nay ông có một địa vị tương đương với địa vị của Myakovski năm 1930, nhưng có người tiên đoán rằng, cũng như Mayakovski, ông sẽ tự tử ngày nào không biết. Điều đó có lẽ không đúng v́ con người Mayakovski khác mà con người Tố Hữu khác.

 

 

Bài ca tháng Mười

 

Thuở Anh chưa ra đời

Trái đất c̣n nức nở

Nhân loại chửa thành người

Đêm ngàn năm man rợ

 

Nước mắt, máu, mồ hôi

Đong hàng bát, hàng bát

Bán đổi lấy cơm ôi

Nhạt từng hạt, từng hạt

 

Từ khi Anh đứng dậy

Trái đất bắt đầu cười

Và loài người, từ đấy

Ca Bài ca tháng Mười

 

Những mắt buồn sắp nhắm

Bừng dậy, thấy tương lai

Những bàn tay lại nắm

Cờ đỏ qua đêm dài

 

Những đầu lên máy chém

Nh́n đao phủ, hiên ngang:

"Muôn năm, Đảng Cộng sản!

"Chào Xô Viết Liên bang!"

 

Ơi người Anh dũng cảm

Luỹ thép sáng ngời ngời

Đây Việt Nam tháng Tám

Em Liên Xô tháng Mười!

 

Hoan hô Xta-lin

Đời đời cây đại thọ

Rợp bóng mát hoà b́nh

Đứng đầu ngọn sóng gió

 

Hoan hô Hồ Chí Minh

Cây hải đăng mặt biển

Băo táp chẳng rung rinh

Lửa trường kỳ kháng chiến!

 

(1950)

 

 

Đời đời nhớ Ông

 

Bữa trước mẹ cho con xem ảnh

Ông Sta-lin bên cạnh nhi đồng

Áo Ông trắng giữa mây hồng

Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười

 

Trên đồng xanh mênh mông

Ông đứng với em nhỏ

Cổ em quàng khăn đỏ

Hướng tương lai

Hai ông cháu cùng nh́n

 

Sta-lin! Sta-lin!

 

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu ḷng con gọi Sta-lin!

Mồm con thơm sũa xinh xinh

Như con chim của hoà b́nh trắng trong

 

Hôm qua loa gọi ngoài đồng

Tiếng loa xé ruột xé ḷng biết bao

Làng trên xóm dưới xôn xao

Làm sao, Ông đă... làm sao, mất rồi!

 

Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!

Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương ḿnh thương một, thương Ông thương mười

 

Yêu con yêu nước yêu ṇi

Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!

Ngày xưa khô héo quạnh hiu

Có người mới có ít nhiều vui tươi

 

Ngày xưa đói rách tơi bời

Có người mới có được nồi cơm no

Ngày xưa cùm kẹp giày ṿ

Có người mới có tự do tháng ngày

 

Ngày mai dân có ruộng cày

Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai

Ơn này nhớ để hai vai

Một vai ơn Bác một vai ơn Người

 

Con c̣n bé dại con ơi

Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông!

Thương Ông mẹ nguyện trong ḷng

Yêu làng, yêu nước, yêu chồng, yêu con

 

Ông dù đă khuất không c̣n

Chân Ông c̣n măi dấu son trên đường

Trên đường quê sáng tinh sương

Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng

 

Ngàn tay trắng những băng tang

Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời.

 

(5-1953)

 

(Trích tập thơ Việt Bắc)

 

 

*

 

 

Nguyễn Tuân

 

Nguyễn Tuân là một văn sĩ có tài nhưng thiếu học. Ông là một trong nhữngngười bị sa đoạ trong phong trào trụy lạc từ 1930 đến 1940. Bản tính ông thích ăn ngon, thíchmặc đẹp, thích rượu và thuốc phiện. Trong một bản tự kiểm thảo ông đă tự khoe là có thời ngayng tàng, uống cạn chén rượu là đập tan cốc.

 

Nguyễn Tuân sinh năm 1913 ở Thanh Hoá, con một ông thông phán toà sứ. Ông học tiểu học ở Thanh Hoá, rồi sau ra Hà Nội, chỉ học hai năm ở trường tư rồi bỏ học, chơi bời lêu lổng. Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn từ 1938. Những tác phẩm của ông đều là những tuỳ bút, tả những cảnh ăn chơi của thời xưa hoặc thời nay.

 

Vang bóng một thời, tả những thú ăn chơi thời xưa.

 

Tuỳ bút viết về đời sống truỵ lạc của tác giả.

 

Ngọn đèn dầu lạc, một thiên phóng sự về thú hút thuốc phiện.

 

Trong cuốn Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan đă phê b́nh Nguyễn Tuân như sau: "Nguyễn Tuân là một nhà văn theo thuyết hoài nghi, có khuynh hướng về chủ nghĩa vật chất".

 

Trong thời gian kháng chiến ông cũng bị Đảng phê b́nh là lăng mạn, lập dị, nên trong một cuộc chỉnh huấn năm 1953 ông đă tuyên bố phủ nhận tất cả các tác phẩm trước của ông và hứa sẽ "lột xác". V́ cố gắng lột xác nên ông được "thắt cà vạt đỏ, đi giầy da vàng, đọc đít cua, ăn tiệc nhồm nhoàm và bay đó bay đây".

 

Nhưng sau khi được đi Helsinki về, ông lại thèm ăn và viết bài "Phở" đăng trong báo Văn. Sau đó ông bị Đảng chỉnh và cùng với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân quay trở lại chống Đảng và mưu phản bằng cách dùng tờ báo Văn làm cơ quan ngôn luận của nhóm đối lập.

 

Chúng tôi trích ba bài sau đây của Nguyễn Tuân để chứng tỏ sự thay đổi chính trị của ông qua ba thời kỳ khác nhau: Bài "Phở" để chứng tỏ rằng Nguyễn Tuân suốt đời chỉ chú trọng đến miếng ăn, bài "Phê b́nh nhất định là khó" để chứng tỏ rằng Nguyễn Tuân hễ "cáu" th́ có thể chửi lại Đảng và bài "Tự phê b́nh" để chứng tỏ rằng hễ bị khủng bố là Nguyễn Tuân lại vội vă đầu hàng ngay.

 

Tóm lại Nguyễn Tuân là điển h́nh cho một loại văn nghệ sĩ truỵ lạc, không có lập trường tư tưởng dứt khoát, nhưng có một âm mưu rơ rệt: dùng tài ba để hưởng thụ dưới chế độ cộng sản nhiều hơn dưới chế độ cũ. Một phần nào Nguyễn Tuân đă thành công trong ư định đó.

 

 

*

 

 

Phở

 

Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc, phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh. Ḿnh thành ra lạc lơng vào một thế giới vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây là một ấn tượng giả tạo. Cảnh và người Hen-xanh-ky, ví phỏng đây đó lem nhem đi ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đă khá cao của đoàn đại biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thăi bổ béo; nghi thức lúc ăn thật là trang trọng: đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc này. Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hoà b́nh Thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người b́nh thường thôi.

 

Chúng tôi là mấy anh em trong đoàn đi, mỗi người một công tác chuyên môn, nhưng đều cùng đă gian khổ với nhau trong kháng chiến và cũng là người Hà Nội cả. Quanh hồ khu Ô-ta-ni-ê-mi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh phân tích với nhau xem tại sao ḷng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái ǵ xa xôi lắm. Từ hôm xách va ly ra tàu qua nước này nước khác, thế là mấy tháng rồi; ở nhà đă hoàn thành tiếp quản Hải Pḥng rồi, đất đai miền Bắc giải phóng toàn bộ rồi... Nhưng mà chúng tôi đă kéo cuộc nhàn đàm xoáy vào chuyện ẩm thực và muốn giúp đỡ nhau t́m hiểu v́ đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon. Có người bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thơng một câu: "Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, th́ tớ đả luôn sáu bát!". Tất cả đều rao lên. Th́ ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, v́ xa đất nước, khẩu vị lạc điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ ăn phở nữa. H́nh ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc chung của mấy người. Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc. Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu của tất cả những người Việt Nam chân chính.

 

 

Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần Lan có nhiều cái rất kỳ quặc không. Thịt ḅ rán, lại phết mứt công-phi-chưa ngọt sắt lên trên. Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏi. Cơm lại ướp vào tủ nước đá, ḿnh thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng. Nghệ thuật ẩm thực ấy tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.

 

Phở c̣n là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tuỳ thích. Phở là món ăn b́nh dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt Nam khi c̣n ẵm ngửa, cũng nhiều vị đă nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.

 

Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc tṛ chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. H́nh như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện ḷng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của ḿnh. Phở c̣n tài t́nh ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúy. Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho ḿnh. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những h́nh ảnh b́nh dị để nói lên mùa đông ở Việt Nam, tôi cho không ǵ nên thơ bằng cái h́nh ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát ḿnh, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người t́nh cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.

 

V́ hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác và giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ " xương xẩu" là một tiếng đôi, và chữ "xẩu" chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đă làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đă thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát xẩu. Tôi c̣n được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt giắt mỡ quí giá, nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ṛn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi c̣n nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn. Trong tiểu thuyết Việt Nam trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện "Anh hàng phở lấy vợ cô đầu". Tôi c̣n được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn "đời hồi này như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng". Phở nguội tanh thật là buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay thật! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ "ngưu nhục phấn", và ta đă Việt Nam hoá chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, c̣n chuyển thành một h́nh dung từ: cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật!

 

Đố biết thế nào là mũ phở? Lại cứ phải dựng chân dung những người bán phở gánh chân chính ngày xưa th́ mới tầm nguyên ra được. Những người bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít trong cùng một cái ngơ cụt, mỗi người một "giang sơn nào, anh hùng ấy", người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích người ăn trong phố. Những anh hàng phở "hùng cứ một phương" này lại c̣n thuộc cả nhân số từng hộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đ́nh khách hàng quen của ḿnh. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành-tô vải vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông b́nh khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đă mất cả băng hoặc rách cả bo. Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà h́nh như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ư nghĩa. Không những thế, cái mũ phở ấy, c̣n là một dấu hiệu tập hợp, một cái h́nh thức gây tín nhiệm nữa. Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon th́ chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ c̣n phở xe, phở h́nh tàu thuỷ có ống khói phở, phở quán, phở hiệu. Đồ chơi trẻ con ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển, càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên thái xuống.

 

Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng Ca, phở Tư... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm t́nh quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu: phở Gù, phở Lắp, phở Sứt... cái khuyết điểm trên h́nh thù ấy đă chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà Nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hayy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên người. Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đă thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này. Có lẽ v́ gần với quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như "ông chủ" hiệu hớt tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng. Tôi chưa hề thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn như phở Tôn Thất Khoa ǵ ǵ, hoặc phở Trần Thị Kim Anh ǵ ǵ đó. Cái tên càng độc âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy; cái tên một chữ, gọn như một nhát dao thái xuống thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất Hà Nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ huyênh hoang. Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển th́ tôi không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như "Thu Phong", "Bạch Tuyết", "Nhất Chi Mai" mà vào ăn. Trong nghề phở, nó cũng có những cái nền nếp của nó.

 

Nhưng khoa phở đă có những việc nó đ̣i phá cả những khuôn phép của nó. Theo tôi nghĩ, cái nguyên tắc cơ bản của phở là làm bằng thịt ḅ. Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt ḅ, nhưng đă phở th́ phải là ḅ. Có phải là v́ muốn chống công thức mà người ta đă làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột? Cứ cái đà t́m ṭi ấy, th́ rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn một thứ phở Mỹ miếc ǵ đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải Pḥng và Hà Nội, đă có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con: nhưng đó lại là chuyện khác.

 

Lại c̣n phở ngầu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn. Tên thứ thịt phở này, c̣n gợi lại một thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu li đến thối thịt tím xương. .

 

Lại c̣n phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở ḅ, ăn một vài lần phở gà trong đời ḿnh cũng không sao. Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà Nội mà nhiều người thủ đô không bằng ḷng chút nào. Y bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quư tộc đó, cũng đă khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đă có những bạn lưu dung khen ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ xẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng gị gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đă có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, th́ bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hăy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi. Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng-lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đă dắt sẵn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát ḿnh đă thủ sẵn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuưt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên ḿnh, nó nhầm ḿnh... Bên cạnh tiếng thái tiếng chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe b́nh bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất giây lát ít mùi ét-săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi c̣n đế quốc và bù nh́n, ô-tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà Nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tấm, vàng trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy c̣n mọng lên biết mấy nữa kia.

 

Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như phở Dơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở căn cứ địa, làm ngay trong cơ quan. Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung nhau giết ḅ để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô. Nhưng cứ làm. Những chầu phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp.

 

H́nh như Thạch Lam trước đây cũng có bàn về phở, nhưng vẫn c̣n phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà Nội văn vật. Đầu năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ Phổ Nghĩa, có một hàng phở cho cả húng ĺu, cả đầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối t́m ṭi ấy không thọ, v́ tŕnh độ nhận thức của quần chúng phở không sa đoạ như người chế tạo. Quần chúng vẫn đ̣i hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng c̣n có người cho cả tương tầu lạp-chíu-chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái th́ bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế đấy. Nếu cần bổ th́ cũng có thể uống Pan-tô-cờ-rin Liên Xô hoặc làm tễ thuốc Bắc, c̣n kết quả trông thấy rơ hơn là ăn phở tái. Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái "gu" của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt nhỡn thức tạo h́nh, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành h́nh thù ǵ cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy không hề ǵ với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách: đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí danh nhưng ông đă thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đă đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ṛn, nạm giắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng b́nh tĩnh của một người được tỏ bày cái sở trường của ḿnh trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất hoạ th́ thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, v́ vợ ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà Nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái. "Chặt thái loài có cánh đă khó, mà thái miếng thịt ḅ không xương c̣n khó hơn. Tôi dạy măi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi".

 

Trong số những thắc mắc của một số ông Hà Nội trí thức dở người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xă hội chủ nghĩa, kinh tế phân tán không c̣n nữa, th́ mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra ăn, và như thế th́ nó trương hết bánh lên. Cũng ngay trong hiệu phở, có người đă đập ngay lại: "Thôi, đốt ông đi. Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập ấy đi. Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà Nội, lớn nhỏ, gánh rong, bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt Nam c̣n th́ c̣n phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà Nội này xin trả lời ông là một ngh́n lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy".

 

Cái thế giới phở Hà Nội trước đây h́nh như cũng có những thứ nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học tṛ, ông binh, thày kư sở buôn, ông phán sở toà, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm nghề tự do... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật ngay cái mũ đỏ ra, trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người khách hàng lính đánh thuê đó đă vắt quần lĩnh đó xuống quày hàng thay một thứ trả tiền, rồi ù té chạy... Có những tay giầu sụ nhưng tính nết hấp ĺm, mua bánh ḿ thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây b́nh dân. Có những người đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành, nhưng người ngoài trông vào th́ thấy nó thê lương thế nào ấy. Có những người sống không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng xách chợ đen đủ các thứ, lúc tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả, "việc này mà trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân..."

 

Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đă sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày gị đêm đông tội lỗi trong ngơ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà Nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thứ quà miếng chín trên toàn cơi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.

 

 

Chúng tôi ngồi trên bờ một cái hồ xứ Bắc ở ngoại thành Hen-xanh-ky tưởng nhớ đến một bát phở quê hương, và đối với món ăn đó của dân tộc đáng yêu chúng ta ở Đông Nam châu Á, chúng tôi đă phát hiện những đức tính dồi dào của phở, tự ḿnh cho đó là những cơ sở vững chắc để dựng nên một nền lư luận cho món phở. Sau đó mấy tháng trở về nước, đặt chân lên đất Hà Nội, bữa cơm đầu tiên của tôi là một bữa phở. Về sau này, hay rủ nhau đi ăn phở, tôi được đi sâu vào ư nghĩ của một anh bạn nó đă trở thành một ám ảnh: "Ḿnh khen phở ḿnh là một món ăn ngon, nhưng trước khi khẳng định giá trị dân tộc của phở, có nên tranh thủ thêm ư kiến của bạn bè, quốc tế của ta không? Bạn Liên Xô, bạn Ba Lan, Hung, Tiệp, Đức sẽ có cảm xúc ǵ về món phở Việt Nam? Họ đă có dịp nếm phở chưa? Bài dân ca của ḿnh họ nghe rồi, đất nước ḿnh, các bạn thấy rồi. Nhưng c̣n phải cho bạn ḿnh ‘thấy’ phở nữa, bởi v́ phở cũng là một thứ tiếng hát yêu đời của tất cả những tấm ḷng con người Việt Nam chân chính và b́nh dị". Thế rồi một hôm khác, cũng trong một quán phở nổi tiếng Hà Nội, tôi đă nghe được mẩu chuyện giữa hai nữ sinh một trường phổ thông cấp 3 gần đây: "Phở hiệu này, ăn mê quá. Thế đố chị biết Hồ Chủ tịch và các lănh tụ Đảng có thích phở không? - Làm thế nào mà biết được - Này, nói đùa chứ các cụ mà đến ăn cho hiệu nào, th́ chủ hàng thật là sung sướng vô bờ đấy chị nhỉ!". Hai cô rút túi lấy gương con chiếu lẫn vào hàm răng nhau xem có vướng tí hành tí rau mùi nào không, cười ríu rít như chim đàn nhảy quanh bàn phở. Mẩu chuyện của hai cô học tṛ như giúp tôi hiểu thêm nữa về phở, và giúp tôi nhận thức đến những cái nó quan trọng hơn cả phở nữa.

 

Ít lâu nay, chúng ta hay nói đến thực tế Việt Nam, đến vấn đề thực tiễn Việt Nam, đến những đặc tính của Việt Nam trong mọi điều kiện chuyển ḿnh tiến lên. Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt Nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc. Trong một giọt nước rơi lóng lánh có cả câu chuyện của vầng thái dương; trong một miếng ăn, cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la giầu có tươi đẹp. Tôi thấy tổ quốc chúng ta có núi cao ṿi vọi điệp điệp, có sông dài dằng dặc, có biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt Nam dũng cảm xây đắp lịch sử quang vinh, có những công tŕnh lao động thần thánh như chiến thắng Điện Biên, nhưng bên cạnh những cái đó, tôi biết rằng tổ quốc tôi c̣n có phở nữa. Trong những năn chiến tranh giải phóng, kẻ thù bay trên bát phở, có những bát phở phải húp vội trong đêm tối tăm, quệt ngang ống tay áo mà nhẩy xuống lỗ hầm; có những bát phở bị bom, bánh trương lên mà người ăn không c̣n thấy trở lại một lần nào nữa. Nhớ lại cái hồi tôi về công tác ở vùng sau lưng địch, tôi không thể quên được mấy cái quán phở khuya trên con đê miết lấy vùng căn cứ du kích; những bát phở nóng ăn sau những đêm vượt vành đai trắng và xuyên qua vị trí địch, ăn có một hương vị thật là đặc biệt; sau này nó tổng càn, nó hất hết các quán trên đê, không biết người bán phở đêm đó, có c̣n sống hay đă chết trong chuyến ấy rồi? Lại c̣n cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng Vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là "ông hàng phở của tiểu đoàn". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở; nay hoà b́nh rồi, đồng chí có c̣n sống mà mở phở lại? Nhiều h́nh ảnh phở trong những năm gian khổ đă hiện về. Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người. Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông. Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái-Mèo, những đàn ḅ Lạng Sơn, Thanh Hoá đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước. Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo. Rau cỏ vùng ngoại thành Hà Nội: mở rộng măi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi.

 

Đêm Hà Nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở. Xưa kia phở ông Trưởng Ca bán đến bốn giờ sáng ở đ́nh Hàng Bạc - cái nơi tập trung nhân dân Hà Nội năm đầu kháng chiến để rút ta khỏi ṿng vây địch. Đ́nh cũ không c̣n ông Trưởng Ca nữa, nhưng nay đă có ông phở Sửa sai thay ông mà thức khuya. Người Hà Nội đặt tên đến là hay.

 

Trước đây ông nấu bếp hiệu cao lâu Tàu; rồi ông ra mở phở. Rồi ở quê ông quy nhầm ông, ông phải về quê, giao lại quán phở cho bạn. Nay ông được sửa sai, lại trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miễn thuế cho ông một thời hạn và t́m một chỗ lợi địa thế cho ông mở hiệu. Món quà của ông phở "Sửa sai" càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ. Có thể là cảm t́nh của khách hàng, đối với một người phở quen nay được khôi phục càng làm cho bát phở giải oan có thêm nhiều dư vị nữa. Những bát phở hồn hậu ấy cũng chỉ là một sự đền bù công bằng đối với những người làm ăn lương thiện khu phố đi xem hát về hoặc họp hành b́nh bầu học tập xây dựng vừa xong.

 

(Trích tuần báo Văn của Hội Nhà văn Việt Nam số 1 và 2 ngày 10-5-1957 và 17-5-1957 xuất bản tại Hà Nội)

 

 

 

*

 

 

Phê b́nh nhất định là khó

 

Trong quá tŕnh biểu hiện thực tế ở miền Bắc, tuần báo Văn đă được ông Thế Toàn xây dựng thêm cho bằng một bài luận đăng ở tạp chí Học tập số tháng 7-1957.

 

Ông Nguyên Hồng liền trả lời, (báo Văn số 15) có những câu:

 

"... Sự nhận định của tạp chí Học tập về con người, về sáng tác, thể hiện trong tuần báo Văn không những làm ban biên tập của tờ báo không đồng ư mà cả nhiều quần chúng cũng phải đề ra những câu hỏi: - Tại sao sự nhận thức và thái độ phê b́nh của tạp chí Học tập lại như thế? - Có phải v́ giáo điều, sơ lược, công thức, nên mới có sự nhận thức và phê phán như thế? - Có phải v́ tác phong quan liêu, thái độ trịch thượng và cái lối đao to búa lớn nên mới có sự nhận thức như thế..."

 

(Tôi cũng xin hỏi tại sao ông Nguyên Hồng lại không gọi thẳng tác giả bài đó ra mà nói, mà lại cứ gọi một cách trùm lớp là báo Học tập? Mặc dầu ở đầu bài đă nêu là trả lời bài viết của tác giả Thế Toàn, nhưng bạn đọc vẫn có thể hiểu nhầm.)

 

Tiếp theo đó, trong Học tập số tháng 8-1957, lại có một bài bút kư của hai ông Hồng Chương và Trịnh Xuân An với những câu:

 

"... Chúng ta cũng kiên quyết phản đối thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn và thành tâm sửa chữa, trái lại lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng..."

 

Ấy là thâu tóm ít nét diễn biến của vấn đề. Và dưới đây là một số ư kiến nhỏ của tôi về công việc phê b́nh văn học trên cái cơ sở cụ thể của việc vừa nêu trên.

 

 

Tôi phải nói ngay rằng mười số Văn phản ảnh con người mới lên báo c̣n yếu. Cũng là do tŕnh độ biểu hiện của con người thời đại c̣n thấp mức, c̣n kém đấy thôi. Ấy cứ t́m quanh quẩn chỗ lư do tŕnh độ ấy, cứ xoáy vào đó, th́ giải quyết đúng vào vấn đề, bằng không th́ sẽ lạc mất tính chất khách quan trong việc đánh giá.

 

Trong việc đánh giá, đặc biệt nhất là ba ông Thế Toàn, Hồng Chương, Trịnh Xuân An đă có những "thái độ trịch thượng và lối nói đao to búa lớn". Tôi cũng đồng ư với ông thư kư toà soạn báo Văn về cái nhận xét này. Thêm nữa, cá nhân tôi lại c̣n cảm thấy mấy ông đó đă làm cho người đọc phải hiểu rằng các ông lấy Đảng ra để "doạ" anh em viết bài báo. Dù muốn hay không muốn, hậu quả của cái cách nh́n cách viết của mấy ông là đă tạo ra ấn tượng kia.

 

Hẳn ông Hồng Chương c̣n nhớ một buổi họp mở rộng của toà soạn tuần báo Văn để kiểm điểm báo, mà ông có dự? Có những ư kiến đưa ra để hỏi xem bài của ông Thế Toàn đăng ở Học tập số 7/1954 là tiếng nói chính thức của Đảng, hay đó chỉ là tiếng nói của một người biết bài? Riêng tôi vẫn nghĩ (và có nói ngay lúc ấy) rằng đây không phải là tiếng nói thật sự của Đảng, mà đây chỉ là một bài của một người, và toà soạn đă quên nêu lên đầu bài một vài ư kiến ǵ đó của toà soạn (cái việc này là một chi tiết nhưng rất quan trọng mà người phụ trách tạp chí không thể không thận trọng, nhất là tạp chí của Đảng đều về thấu tới các chi bộ cơ sở). Ông Hồng Chương có trả lời ngay là cũng xin cứ coi nhau như là bạn đồng nghiệp và phê b́nh giúp đỡ lẫn nhau. Kế sau đó ông về rồi cùng ông Trịnh Xuân An cho ra một bài bút kư đăng số 8/1957, quy cho báo Văn đă "đả kích và mạt sát báo chí Đảng". Cái ǵ mà lại có tính cách hăm doạ như vậy? Cứ vào những chứng cớ ǵ mà hai ông quy cho người khác là mạt sát báo Đảng? Các ông há chẳng nhớ câu thành ngữ: "Ai muốn giết con muông của ḿnh th́ quy cho nó là chó dại"? Các ông có nghĩ đến sinh mệnh chính trị của những người đồng chí đồng nghiệp của các ông khi họ bị vu như vậy không? Tôi rất phản ứng với cái "thói phê b́nh có tính chất xuyên tạc và phá hoại có tính cách thô bạo, đàn áp ư kiến đó". Tôi gạch dưới câu này, chính cái câu của đồng chí Trường Chinh trong văn kiện mà hai ông đă dẫn ra trong bài bút kư hai ông c̣n nhắc thêm "chúng tôi đă thu hoạch được sau khi đọc bài nói chuyện ấy". Cũng trong bài bút kư lịch sử của hai ông, sau khi đă gắp lửa bỏ tay người ta như vậy rồi, hai ông c̣n đề nghị: "Anh chị em văn nghệ sĩ chúng ta không nên e ngại phê b́nh, mà nên làm quen với lối phê b́nh thẳng thắn...". Thế này th́ quá quắt quá mất. Có phải bây giờ chữ nghĩa dùng nó khác cả đi rồi không? Có phải v́ một số danh từ và h́nh dùng từ của chúng ta bị lâm vào t́nh trạng lạm phát không? Cái cách làm như vậy, nó thuộc vào loại con người cũ, hay là ta lại cũng gán cho "cái con người mới" để mà tô hồng hoặc bôi đen trát xám? Làm như vậy rồi, mà hai ông vẫn c̣n kêu (cũng trong bài ấy) rằng: "... Cảm thấy phê b́nh một số anh chị em văn nghệ sĩ là một việc "khó quá". Mong rằng các anh chị văn sĩ sẽ hăng hái ủng hộ...". Xin nói ngay rằng bản thân tôi không những không thể ủng hộ được cái cách làm như hai ông đă làm mà tôi c̣n có bổn phận nói toạc ra rằng như thế là không tốt, không hay, không đúng.

Hai ông kêu phê b́nh là khó, có phải tại các ông đă tin vào cái câu của nhà phê b́nh Boa-lô nói rằng: "Phê b́nh là dễ dàng, và sáng tác là chật vật", cho việc ấy là quá dễ dàng mà nay thấy nó đụng phải nhiều thực tế phức tạp (nhất là thực tiễn Việt Nam trên con đường phức tạp gian lao của chủ nghĩa xă hội ở xứ ta) mà các ông rên khó không? Tôi chỉ là một người sáng tác trung b́nh, nhưng tôi cũng thông cảm được với hai ông về cái khó khăn của công tác phê b́nh. Nếu dễ làm, làm không vấp, làm đến đâu cũng là bay là giỏi cả rồi, th́ sao người ta đă lợi dụng được hai ông, đă lợi dụng được chúng ta?

 

Nhân nói đến cái khó khăn của phê b́nh mà những nhà phê b́nh khách quan chúng ta sẽ vượt được lên, tôi muốn nêu ra đây cái vấn đề kỷ luật phê b́nh. Ta mới chỉ nói đến kỷ luật sáng tác thôi mà sao chưa nói đến kỷ luật phê b́nh? Kỷ luật phê b́nh nêu ra đây, là tất nhiên cũng là một thứ kỷ luật tự giác, cũng như mọi thứ kỷ luật lao động, kỷ luật sáng tác, kỷ luật tuyên truyền khác ta vẫn làm.

Phê b́nh thiệt là khó. Theo tôi nghĩ, có khi c̣n khó hơn cả sáng tác (chứ không như Boileau nói đâu) v́ chính bản thân cái công tác ấy, nó rất có tính chất sáng tạo, và nó cần phải được như thế. Làm đúng làm hay, nó có giá trị cả hai mặt; trước hết nó đánh lùi và đánh chết cái hư cái hỏng cái ác, và mặt khác, nó đưa cái tốt lên, nó làm yên tâm và gây hào hứng cho những thiện chí và, nói theo tự vị kinh tế, th́ nó đẩy mạnh lực lượng sản xuất, mức sản xuất và chất lượng sản phẩm. Trong một số khó khăn gây thêm ra do phê b́nh, về mặt tiêu cực củc công tác phê b́nh, gần đây, chúng ta cũng đă có một số kinh nghiệm xương máu nữa kia đó.

 

Theo chỗ tôi biết th́ đă có một số hiện tượng hách dịch đối với văn nghệ phẩm, xuất phát từ một số người phê b́nh cũng như từ một số cán bộ chính trị. Tôi rất đồng ư là văn nghệ sĩ mà nhất là văn nghệ sĩ có tài, cũng cần phải khiêm tốn. Nhưng chung quanh, nhất là những người có trách nhiệm về phán đoán cái này cái kia, đề nghị cũng làm như vậy cho. Tôi tán thành ư kiến là những "sĩ" của các ngành văn nghệ chúng ta chưa có ǵ là ghê gớm lắm đâu, về tŕnh độ tư tưởng, tŕnh độ văn hoá, tŕnh độ nghề nghiệp c̣n phải học cho nát xương ḷi da ra, học cho đến chết mà chắc ǵ đă nắm hết được quy luật của sự sống. Nhưng cũng không nên v́ nó chỉ là "sĩ" của Việt Nam mà đánh giá nó quá thấp quá tồi về khả năng nhậy cảm đối với thực tế quan, cho nó là mít xoài tất trong mọi cảm xúc phiền toái và vĩ đại của thời đại vừa gieo neo vừa lớn lao hiện nay của chúng ta. Trong mọi thực tiễn Việt Nam nói chung các mặt, nếu đă có các tác giả c̣n non nớt, nếu đă có những tác phẩm yếu xoàng, th́ cũng đă có một số cán bộ thực hiện chính trị một cách cũng không cao tay ǵ lắm. Đối với nghệ phẩm, anh đến với nó (nhất là thứ tạo ra ở bản xứ) mà anh tham lam quá đáng hoặc hung hăng một cách không cần thiết, th́ nó biến mất (như là một cái sự ǵ là duy tâm vậy!). Mà như thế rồi kết quả là ǵ? Là thiệt cho cả văn nghệ cả chính trị, và quan trọng hơn nữa, là thiệt ngay cho cái cuộc sống muôn màu một hướng mà chúng ta đang động viên nhau mà phục vụ hết ḷng.

 

Lại vẫn theo tôi nghĩ, cái đạo đức cách mạng lớn nhất của một người phê b́nh cách mạng là đức độ. Không phải đức độ sẽ ảnh hưởng này nọ đến lập trường giai cấp, mà trái lại, cái đức độ bao dung người ấy sẽ làm cho lập trường giai cấp chúng ta trở nên nhuần nhị hơn, mềm mại hơn trong cách làm mà vẫn cứng rắn về nguyên tắc. Đức độ sẽ giúp cho người phê b́nh (dù là lăo luyện hoặc mới viết lỏi) đỡ chủ quan. Mà khuôn vàng thước ngọc của nhận định của phê phán là ǵ, nếu căn bản không là đi từ khách quan mà đặt vấn đề?

 

Kết thúc một số ư kiến của tôi, tôi xin trân trọng gạch dưới một câu trong một đoạn của đồng chí Trường Chinh, ở ngay cái văn kiện các đồng chí Hồng Chương và Trịnh Xuân An đă dẫn ra: "... Chúng ta mong rằng trong quần chúng thưởng thức văn nghệ sẽ gây thành một tập quán mới đón chào và phê b́nh nhiệt t́nh những tác phẩm mới ra đời".

 

(Trích báo Văn số 23 ngày 11-10-1957)

 

 

*

 

 

 

Nguyễn Tuân tự phê b́nh

 

Trước Cách mạng tháng Tám và trước ngày kháng chiến, tôi sống tuyệt đối bằng cảm t́nh, chỉ dựa hoàn toàn vào những xúc cảm bản năng và phản ứng t́nh cảm để đánh giá cái tốt cái xấu cái thiện cái ác. Tôi nghĩ rằng thời kỳ ấy, tôi đă là người của thuyết hư vô và nhiều lúc đă quan niệm một cách nguy hiểm rằng người trí thức chân chính là phải hoài nghi tất cả. Đối với mọi vấn đề đảng phái và hoạt động đảng phái kể cả Đảng ta, lúc ấy, tôi hết sức tránh, nghĩ sai rằng nghệ thuật là ngoài chính trị và c̣n ở trên cả mọi chính trị, mọi hoạt động chính trị. Về những vấn đề lớn thuộc về vận mệnh dân tộc, tôi nghĩ rằng cái biểu hiện yêu nước của tôi ở tôi, tôi chỉ xin khung nó gọn vào vấn đề xây dựng tiếng nói dân tộc mà bản thân ḿnh sẽ cố công đóng góp vào ít nhiều, qua những t́m ṭi sáng tác văn học của bản thân ḿnh. Trước mọi biểu hiện và mọi tương quan với cuộc sống chung quanh, tôi tự cho tôi là một đơn vị. Đối với chủ nghĩa cộng sản, con người duy tâm và tự do vô chính phủ của tôi đă là người tán thành cái thuyết viển vông được làm người cộng sản mà không ở trong tổ chức cộng sản.

 

Về quan niệm nghệ thuật, trước đây tôi là người của phái nghệ thuật vi nghệ thuật, tức là tôi đă chủ trương nghệ thuật không phục vụ chính trị. Một số sách và tiểu thuyết của những tác giả tờ-rốt-skít hoặc có quan điểm tờ-rốt-skít về tư tưởng nghệ thuật, đă ảnh hưởng phần nào đến cái nh́n của tôi đối với Xít-ta-lin, đối với những hoạt động chính trị, và cụ thể là rất có định kiến nghi ngại đối với tổ chức Đảng nói chung trên thế giới cũng như có ở ta. Tôi cho rằng làm chính trị th́ không tránh được thủ đoạn này thủ đoạn khác và trên cái nhận thức sai lệch ấy, tôi càng tách con người văn nghệ ra khỏi bất cứ hoạt động chính trị ǵ.

 

Có thể nói rằng tôi vẫn c̣n kéo dài cái sống phiêu lưu ngay cả sau thời kỳ Cách mạng tháng Tám đă thành công rồi, và sự cải tạo tư tưởng của tôi chỉ mới bắt đầu có từ ngày kháng chiến. Cuộc đấu tranh vơ trang khắp đất nước đă cho tôi những điều kiện khách quan và chủ quan để dần dần uốn nắn lại một cái nhân sinh quan đồi bại ở trong tôi, cụ thể là giải quyết bước đầu cho tôi về các mặt tư tưởng hoài nghi. Trong những năm kháng chiến, công tác và sáng tác của tôi, tuy chưa có là bao nhiêu, nhưng đều chứng minh cái kết quả bước đầu của cuộc cải tạo đó. Và tôi thấy cần phải nói thêm rằng có được cái kết quả ấy, cũng là nhờ ở phần khách quan nhiều hơn là phần chủ quan, và nhất là nhờ có cái phần Đảng d́u dắt cho. Cuộc sống kháng chiến có gian khổ về mặt vật chất và thể xác, nhưng có những thuận lợi khác về mặt trau dồi tinh thần cầu tiến và nhiệt t́nh cách mạng. Tuy chưa được toàn thân toàn ư, nhưng tôi cũng đă gắn bó rất nhiều với Đảng với nhân dân và t́m cái lẽ sống c̣n của bản thân ḿnh trên cái cơ sở tập thể lớn lao ấy. Và mọi băn khoăn cá nhân chủ nghĩa, về căn bản đă được dẹp xuống. Hoà b́nh trở lại đây, điều kiện khách quan đổi khác cả. Cách mạng chuyển giai đoạn đă mấy năm nay, tư tưởng tôi không những đă không chuyển theo kịp mà lại c̣n có những điểm ngoặt trở lại với những nếp cũ của thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám.

 

Cũng như nhiều anh chị em cán bộ khác về làm việc ở thành thị ngay từ ngày đầu tiếp quản, tôi cũng vẫn nói với tôi là đấu tranh hoà b́nh gian khổ phức tạp; phản đế phản phong trong kháng chiến, thế mà c̣n dễ hơn cái giai đoạn cách mạng này nó đánh thẳng vào con người trí thức tiểu tư sản ḿnh c̣n nặng những cái cặn của tư tưởng tư sản. Nhưng đồng thời tôi lại vẫn bảo cả tôi và nhiều người khác cùng một thành phần giai cấp: "Tư tưởng tư sản và lực lượng tư sản ở ta, có ǵ mà làm ghê đến thế?". (Tôi nhớ lại rằng trong hồi phát động quần chúng để cải cách ruộng đất, h́nh như tôi cũng đă kêu rằng giai cấp địa chủ và tư tưởng địa chủ ở ta thực ra có ǵ mà ghê đến thế?)

 

Từ sau hoà b́nh, con người cầu an hưởng lạc ở tôi dần dần hồi sinh lại với cái nếp trước của người thị dân cũ trong tôi, vào những ngày đầu của Cách mạng tháng Tám. Tôi kêu cái này cái khác, đ̣i hỏi cách mạng phải thế nọ thế kia, tiếng kêu phù hợp với cái tiếng nói của chủ nghĩa hoà b́nh của cái số người cho rằng "miền Bắc ta làm mạnh quá, tốc độ chính trị đi gấp đi dữ như vậy, e khó mà tranh thủ được miền Nam". Lập trường tôi bấp bênh, nên tôi mâu thuẫn với tôi: vừa lo ḿnh dồn đẩy nhanh quá, lại vừa sốt ruột cho t́nh h́nh ́ ạch đủ các mặt. Đối với hiện tượng này hiện tượng khác về hộ khẩu, về thị trường của phần kinh tế quốc doanh, về đời sống anh bộ đội phục viên, về mức sống công trường xí nghiệp, về đợt năm của cải cách ruộng đất và đê vỡ, những t́nh cảm tiểu tư sản trong con người động dao của tôi lại vẩn lên rất nhiều oán tiếc hờn dỗi, nó kết lại thành một cái cách nh́n phiến diện để dẫn tới một cái nh́n khác bất công và u uất, bất măn và nghi kỵ. Chuyện trong nước đă thế, nh́n ra cả trong phe trong khối ta, th́ thấy toàn những sự việc và hiện tượng nó vượt qua cái tŕnh độ nhận thức vốn lệch lạc của ḿnh, và vượt quá cái khả năng đánh giá vốn một chiều và cực đoan của ḿnh. Đứng trước những khó khăn mới của cách mạng chuyển mạnh giai đoạn, cái chất hoài nghi cố hữu ở trong tôi đă ngóc dậy rất mạnh nhất là từ sau đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô.

 

Lần lại cái mạch tư tưởng của tôi ngược lên hồi Cách mạng tháng Tám, tôi thấy trong hệ thống tư tuởng của tôi đă có những luồng sóng ngầm nó quật lại nó dội lên, sau một giáp mười hai năm nó bị ch́m xuống. Trong cơn khủng hoảng này, v́ lạc phương hướng mà có lúc tôi đă nói đă nghĩ đă viết ra như là một người không phải là đảng viên. Một đôi khi, c̣n bắt được ḿnh đang thoát ly Đảng trong tư tưởng. Nay giật ḿnh nh́n lại, thấy ḿnh đă có trôi trên cái dốc của quan điểm chủ nghĩa xét lại. Ḷng tin bị sứt vỡ, cho nên đối với sự việc này, sự việc khác, đối với tài liệu này tài liệu khác, hay đ̣i lật ngược lại. Học tập t́nh h́nh thế giới c̣n dễ thông hơn t́nh h́nh trong nước. Nguồn tin chính th́ tiếp thu có điều kiện, các nguồn tin khác th́ nhận và phát đi một cách dễ dàng. Lập trường tư tưởng đă có sự lẫn lộn, cho nên nghiệt ngă với ư kiến của đồng chí, của bạn, cho nên dễ hoà theo với lời xúc xiểm gièm pha tán tỉnh của bọn ác bọn xấu . Cái phần vẩn đục trong con người hoài nghi của tôi đă là một miếng đất thuận tiện cho sự nảy nở của những tư tưởng do các nguồn đối địch gieo vào. Và muốn hay không muốn, trong một số công việc nhất định, tôi đă trở nên một cái b́nh phong cho bọn xấu dùng được.

 

Về phần sáng tác, gần đây tôi đă gặp những khó khăn trong tư tưởng sáng tác, cũng là do bi quan hoang mang tác động và hạn chế cái nhiệt t́nh của người nghệ sĩ cách mạng. Cũng là do cái phương pháp tư tưởng nặng nề về hiện tượng vụn vặt mà không nh́n thấy cái đại thể của cách mạng và cái hướng của sự vật trong quá tŕnh phát triển cách mạng. Cũng là do lẽ này lẽ khác, nhưng cái chính là cái nguyên do ngờ vực. Chính v́ sa sút đă đi vào chỗ lệch, chỗ sai, đă lạc hướng về tư tưởng và lầm lẫn về chỗ đứng của người đảng viên văn nghệ. Tôi đă có xu hướng tách văn nghệ ra khỏi chính trị và đối lập văn nghệ với chính trị. Ví dụ ở tuần báo Văn dưới đầu đề "Phê b́nh nhất định là khó" tôi đă viết: "Nếu đă có những tác giả c̣n non nớt, yếu ớt, nếu đă có những tác phẩm yếu xoàng, th́ cũng đă có một số cán bộ thực hiện chính trị một cách cũng không cao tay ǵ lắm..."

 

Đối với tác phẩm in lại, tôi đă tự tiện gạt đi cái phần chính trị của vấn đề, để chỉ c̣n thấy có phần nghệ thuật. Đề tựa cho tập sách Thạch Lam và vở kịch Kim tiền của Vi Huyền Đắc, tôi chỉ có đề cao tác phẩm và tác giả mà không đứng trên cái quan điểm văn học vô sản của người phê b́nh cách mạng mà vạch ra những nhược điểm khuyết điểm và sai lầm của tác phẩm. In lại tập Vang bóng một thời của tôi, tôi cũng thiếu mất cái trách nhiệm của người tác giả đối với độc giả mà xác nhận thái độ của ḿnh về nội dung tư tưởng của tác phẩm cũ. Thậm chí, c̣n đưa vào sáng tác tất cả các bức bối, cái hờn dỗi với thực tế, ch́ chiết cạnh khoé điều này điều nọ, như ở trong bài "Cây Hà Nội": "Con người ở đây ít chú trọng đến cây... Ở đây, con người đối với con người cũng chưa đủ mức chú trọng, nói chi đến chuyện cây cối... Đôi lúc có nhớ đến người này người nọ th́ ta chỉ quen nhớ những lúc họ đánh đổ hoặc đánh vỡ một cái ǵ...". Thực ra chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chúng ta không bao giờ dạy con người tự ḿnh tách khỏi tạo vật chung quanh và chà đạp hoa cỏ cây cối. Thực ra Đảng ta quan tâm đến tŕnh độ văn hoá cần nâng cao dần cho quần chúng nhân dân, trong ấy mặc nhiên là có cái phần giáo dục thẩm mỹ, dạy con người yêu quí hoa cỏ quả cây và hướng nó vào cuộc sống cần lao của tập thể. Những câu đại để như ở bài "Cây Hà Nội", với cái lối nói ỡm ờ đó, đă phần nào biến mùa Xuân miền Bắc thành ra những cái ngậm ngùi kích động đến những tâm sự sửa sai, tạo thành những cái đơn chiếc và bất công trong cách nh́n ra thực tế sinh động trên đất nước. Cách nh́n không lành mạnh ấy thật là không xứng đáng với bất cứ nhà văn nào muốn đóng góp giấy mực của ḿnh vào cái quyết tâm chung sức xây dựng miền Bắc của mọi người. Cách nh́n và cách viết ấy không giải quyết ǵ cho cuộc sống nặng nề đang cần phải bốc lên đẩy lên. Nó có phần nào đă làm đầu têu cho một số mồm và bút sẵn sàng mượn khéo văn chương để nói cạnh và chửi đổng, móc máy việc này việc khác.

 

Nhưng trong cả một mớ lệch lạc lầm sai của tôi ít lâu nay, cái sai lầm tôi cho nghiêm trọng hơn hết, tức là cái sai lầm của tôi đối với nghị quyết của Bộ Chính trị của Đảng nhận định về t́nh h́nh văn nghệ. Nghị quyết phân tích sâu sắc, tổng kết đầy đủ rơ ràng về sự lũng đoạn của phần tử đối địch trong văn nghệ. Tôi được phổ biến nhiều lần về nghị quyết này, tôi vẫn cứ khăng khăng cho rằng văn học nghệ thuật ta ít lâu nay có vấn đề và đang có những vấn đề cần phải giải quyết sớm, tức là có nghiêm trọng về t́nh h́nh, nhưng không đến nỗi nghiêm trọng đúng như tinh thần và con chữ đă vạch ra trong từng chương mục của nghị quyết. Tại sao phải trải qua hơn ba tháng ṛng học tập liên hệ, phải trải qua rất nhiều khó khăn của diễn biến tư tưởng và qua bao nhiêu công sức của đồng chí và đồng nghiệp giúp đỡ cho mà nay tôi mới nhất trí được với toàn bộ nghị quyết của Đảng về t́nh h́nh văn học nghệ thuật?

 

Chính là v́ tôi đă mơ hồ về lập trường, không phân rơ địch ta, nên không nh́n thấy vấn đề đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực văn học nghệ thuật giữa lúc cách mạng tiến lên đang đánh vào tất cả những cái ǵ dám chống đối và phản lại nó. Chính v́ tôi non yếu và mơ hồ về chính trị, nên không thấy cái mặt chính trị của vấn đề văn nghệ đây. Bản chất cầu an hưởng lạc nghỉ ngơi ở tôi đă làm tôi mờ nhạt về sự tất yếu của cuộc đấu tranh này và quên cả cái tính chất của tổ chức Đảng ta là một tổ chức chiến đấu và đang cần chiến đấu quyết liệt trên mặt trận tư tưởng. (Cuối 1956, đóng cửa Nhân văn. Tôi là một chữ kư trong bản kiến nghị của nhiều anh em văn nghệ sĩ kư ngày 13-12-1956 [1] ; nhưng trong tôi vẫn c̣n phân vân về biện pháp hành chính dùng với Nhân văn. Nay tôi đă thấy rơ là không thể thuyết phục cải tạo tờ báo đó và biện pháp ấy là biện pháp duy nhất). Chính v́ tôi có xu hướng tách văn nghệ khỏi chính trị nên tôi không nhận ra khía cạnh chính trị của vấn đề. Tôi thường c̣n hay kêu là ít lâu nay ta bàn chính trị quá nhiều trong văn nghệ và nên dành th́ giờ để bàn về chuyên môn th́ đúng hơn. Tôi không thấy rằng t́nh h́nh địch ta nghiêm trọng đă như thế, th́ cái yêu cầu cấp bách của văn nghệ hiện nay là giải quyết về chính trị đă, rồi trên cái cơ sở trắng đen đă phân rơ ấy, trong nội bộ nhân dân của văn nghệ, mới thanh thoát được cho sự thảo luận chuyên môn văn nghệ. Không nh́n nhận ra được chỗ sáng suốt của nghị quyết của Đảng về t́nh h́nh văn nghệ bị lũng đoạn, tôi cho cái nguyên chân chính c̣n nằm ở cái chỗ ḷng tin của tôi đối với Đảng. Từ sau hoà b́nh và nhất là từ sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô, ḷng tin của tôi đối với Đảng đă có thêm những màn đen của sự nghi ngờ. Thời kỳ mở phong trào chống chủ nghĩa sùng bái cá nhân cũng là thời kỳ tôi đi sâu vào một bệnh sùng bái khác. Tức là tôi đă tự phụ, tự túc, tự ái, tự đại mà sùng bái cái cá nhân trí thức tiểu tư sản của tôi. Tôi cho là phải phát triển tới cái độ cao nhất về việc suy nghĩ độc lập, lấy tư duy độc lập ra mà làm cái thừa trừ cho cái kiểu mà tôi vẫn gọi là: "Cách nghĩ một chiều của nhiều đồng chí chúng ta". Ngông nghênh với sự phát triển bừa băi đó, tôi đă tự huyền hoặc ḿnh về cái kiến thức bản thân thổi phồng bơm to lên, tự phỉnh nịnh ḿnh đến cái mức bọn ác bọn xấu dùng được ḿnh mà không nhận ra, đến cái mức chỉ thấy có ḿnh mà không thấy phương hướng trong tư tưởng. Qua một lần kinh nghiệm tôi tự phát trên một cái cơ sở cá nhân bấp bênh, nay tôi nghĩ rằng Đảng ta, trên con đường từ nay kiện toàn chuyên chính vô sản song song với mở rộng dân chủ, Đảng ta không những không hạn chế sự nghĩ độc lập của đảng viên và anh chị em trí thức, mà lại c̣n khuyến khích mọi người đóng góp cái phần trí tuệ chân cảm của ḿnh vào cái khối trí tuệ vĩ đại của Đảng. Riêng tôi, qua một trận thử thách vừa rồi, qua cái bài học choáng váng vừa rồi để phân rơ thiện ác trong giới văn nghệ phức tạp, tôi thấy sáng lên cái chân lư này:

Muốn suy nghĩ độc lập, cần phải có vốn phong phú về thực tế đấu tranh, cộng với một căn bản lư luận cách mạng chắc chắn;

Khi ḿnh đă ngờ vực Đảng th́ dễ nghĩ sai và làm sai.

Những cái tôi nói đó, thực ra không có ǵ là mới cả, nhưng riêng với tôi, nó có cái giá trị của một lần "suy nghĩ" vừa đau xót vừa yên tâm, vừa lành mạnh. Viết ra đây cái điều trên, tôi thấy tôi thoải mái trong sự khiêm tốn thành khẩn và càng thấy gần Đảng hơn bao giờ.

 

8-4-58

 

Trích tạp chí Văn nghệ số 12 tháng 5-1958 (xuất bản ở Hà Nội)

 

 

[1]Kiến nghị đ̣i đóng cửa Nhân văn

 

Tiếp phần II, chương III : Các nhà văn đứng tuổi: Văn Cao, Trần Duy, Hoàng Cầm

 

Văn Cao

 

Văn Cao là một người rất đặc biệt. Nhờ có bản năng thiên phú, mà tuy không học ở trường nào cả ông cũng trở thành một nghệ sĩ danh tiếng, hay cả về nhạc, hoạ và thơ. Ông là một thứ nghệ sĩ "nhân dân" mà thời thế đă tạo nên.

 

Nguyễn Văn Cao sinh vào khoảng năm 1920 trong một gia đ́nh nông dân nghèo ở Lạch Trai, gần Hải Pḥng. Bố mất sớm, mẹ chỉ có vài sào ruộng nước mặn. Văn Cao sở dĩ ăn học được ít năm là nhờ có người anh làm gác dan, trông coi nhà máy bơm nước ở bờ sông Hải Pḥng. V́ nhà làm để chứa máy, không phải để cho người ở nên Văn Cao phải học bài và ngủ trên một miếng ván bắc từ chiếc máy điện sang chiếc máy bơm, suốt ngày suốt đêm phải chịu đựng tiếng kêu vo vo không ngớt của hai chiếc máy ở hai đầu giường. Có người nói chính v́ tiếng máy kêu như ve sầu suốt ngày đêm đă gây cho Văn Cao một tâm hồn nhạc sĩ. Điều đó không biết có đúng không, nhưng chỉ biết rằng ngay từ nhỏ Văn Cao đă có khiếu về âm nhạc. Khi c̣n học ở tiểu học, và sau lên trường trung học tư thục Saint Charles, Văn Cao đă nổi tiếng là hát hay.

 

Văn Cao mới học được hai năm ở trung học th́ ông anh mất việc nên phải bỏ học đi kiếm việc làm. Ông xin được một chân điện thoại viên (teléphoniste) ở Nha giám đốc Thương cảng Hải Pḥng (Direction du Port) nhưng làm chưa được một tháng xin thôi v́ tính ngang ngạnh không chịu được thái độ hống hách của "xếp Tây". Gặp được Phạm Duy ở Hà Nội xuống hát ở Cảng, Văn Cao nghe lời Phạm Duy xách khăn gói lên Hà Nội v́ thời bấy giờ chỉ có thủ đô Hà Nội mới có điều kiện nuôi sống văn nghệ sĩ.

 

Lên đến Hà Nội, Văn Cao được bạn bè giúp đỡ, thuê được một căn gác nhỏ, bắt đầu nhận vẽ tranh quảng cáo và sáng tác nhạc. Trong thời kỳ này Văn Cao sáng tác được nhiều bài hát hiện nay c̣n giá trị: bài "Thu cô liêu" và "Đêm xuân" (nhạc của Văn Cao, lời của Đỗ Hữu Ích), bài "Suối mơ" và "Đàn chim Việt" (nhạc của Văn Cao, lời của Phạm Duy), bài "Buồn tàn thu" (do Phạm Duy mang đi phổ biến ở các tỉnh), bài "Đêm sơn cước" và bài "Bắc Sơn".

 

Văn Cao bắt đầu được nổi tiếng từ năm 1943. Hai năm sau xẩy ra nạn đói kém; vùng ven biển là quê hương của Văn Cao bị chết đói nhiều nhất. Bà mẹ Văn Cao phải đi bắt cáy ở các ruộng nước mặn để nuôi các cháu, nhưng chẳng bao lâu cáy cũng không c̣n, v́ mỗi ngày có hàng vạn người đi bắt, nên bà cụ phải bỏ làng mang mấy cháu nhỏ chạy lên Hải Pḥng rồi lên Hà Nội, giữa đường thất lạc mất một đứa cháu lên ba. Giữa lúc ấy th́ một người đồng hương của Văn Cao, tên là Vũ Quư v́ hoạt động cho Việt Minh ở Hải Pḥng nên bị Nhật lùng bắt. Anh ta trốn lên Hà Nội, đến ở nhờ Văn Cao và tuyên truyền cho Văn Cao theo Việt Minh. Văn Cao được giới thiệu để viết bài và vẽ tranh cho tờ báo Lao động là cơ quan của Việt Minh xuất bản ở ngoại ô Hà Nội, đồng thời căn gác của Văn Cao được Vũ Quư dùng làm lớp học để giảng chính trị cho những thanh niên mới gia nhập đoàn thể Việt Minh.

 

Một hôm Vũ Quư đi Việt Bắc về bảo Văn Cao soạn giúp một bài quân ca cho Việt Minh, v́ trường chính trị quân sự của Việt Minh đang cần một bài để xuất quân. Văn Cao nhận lời và làm bài "Tiến quân ca", giữa lúc ngồi trong cửa sổ nh́n ra thấy những xe chở xác chết đi qua. Lúc này ông cũng làm thêm một bài thơ nhan đề "Chiếc xe chết qua phường Dạ Lạc" nói lên nỗi đau khổ của tác giả trước cảnh chết đói của hàng vạn người giữa Hà Nội, không ngớt ăn chơi và đoạ lạc.

 

Báo Lao động đăng bài "Tiến quân ca" và cán bộ Việt Minh ở Hà Nội bắt đầu học hát. Ít hôm sau Văn Cao được Vơ Nguyên Giáp mời lên chiến khu để khen thưởng và ban cho một khẩu súng lục. Về Hà Nội, Văn Cao được giao công tác phụ trách đoàn Thanh niên Xung phong, nhưng hai tuần sau ông bị sốt rét. Giữa lúc đó th́ Nhật đầu hàng Đồng minh và Đại Việt tổ chức cuộc biểu t́nh công chức ở Hà Nội, Việt Minh ra lệnh cho đoàn Thanh niên Xung phong cướp cuộc biểu t́nh của Đại Việt để biến thành cuộc biểu t́nh hoan nghênh Việt Minh. Văn Cao đang lên cơn sốt nên phải giao khẩu súng cho người khác để điều khiển thay ḿnh, tuy nhiên ông cũng ra đứng trước Nhà hát lớn để chứng kiến công việc của bọn đàn em. Hai ngày sau, hết sốt Văn Cao đứng ra đánh nhịp cho đoàn Thanh niên Xung phong hát bài "Tiến quân ca" trong một cuộc biểu t́nh do Việt Minh tổ chức ở Nhà hát lớn. Ngày hôm ấy là 19 tháng 8-1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội.

 

Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền, Văn Cao được cử vào Ban Thường vụ Hội Văn hoá Việt Nam. Lúc này ông làm thêm được bài "Không quân Việt Nam" và bài "Hải quân Việt Nam". Thanh thế của Văn Cao lúc này lên đến tột bực. Ông tái bản những bản nhạc đă làm từ trước và giao cho nhà in Rạng Đông phụ trách ấn loát. Cô con gái ông chủ nhà in phải ḷng nhà "nhạc sĩ Việt Minh" và hai người lấy nhau.

 

V́ phạm tội lấy con gái nhà tư sản nên Văn Cao bị Đảng bỏ rơi. Sau khi tác chiến bùng nổ, hai vợ chồng Văn Cao chạy lên Lào Kay, sau về Tuyên Quang và sau cùng về mở tiệm cà phê ở Phố Yến, thuộc Vĩnh Yên. Cán bộ Đảng nhận thấy gia đ́nh Văn Cao cứ thuyên chuyển dần về mạn xuôi, sợ có ngày Văn Cao bị vợ quyến rũ về Hà Nội, nên ra lệnh triệu Văn Cao lên Đại Từ, giao cho công tác trong Hội Âm nhạc Việt Nam. Trong thời gian này Văn Cao sáng tác được bài "Trường ca Sông Lô" và được kết nạp vào Đảng, được dự lớp huấn luyện dành riêng cho đảng viên và sang năm 1952 được cử sang Mạc Tư Khoa, trong phái đoàn văn hoá do Trần Huy Liệu cầm đầu. Trong dịp này Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là Chostakovitch. Đây là vinh hạnh lớn nhất trong đời của Văn Cao.

 

Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ư thất vọng Liên Xô không phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước th́ cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển h́nh ở Việt Bắc, trong số đó có cuộc đấu tố ông bố vợ Nguyễn Kháng Toàn ở Tuyên Quang, khiến ông nghi ngờ chân giá trị của chủ nghĩa cộng sản.

 

Về Hà Nội sau khi hoà b́nh lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc ở Đài phát thanh Hà Nội, nhưng ông chán nản không sáng tác ǵ hết. Năm 1956 ông tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm, làm những bài thơ chống Đảng như bài "Anh có nghe không" và bài "Những ngày báo hiệu mùa Xuân" mà chúng tôi trích sau đây. Lúc đầu th́ Đảng làm ngơ không vấn tội v́ Đảng không muốn hạ bệ người nghệ sĩ đă có công sáng tác bài "Quốc ca" nên trong năm 1957 Văn Cao vẫn được đề cao. Nhưng qua cuộc chỉnh huấn Đảng khám phá thấy Văn Cao không những chỉ có viết bài chống Đảng mà c̣n bí mật vận động các nhạc sĩ khác chống Đảng, nên sang năm nay (1958) Văn Cao bị đả kích dữ dội và bị đưa đi học tập lao động. Trong tờ Văn nghệ số 14 tháng 7-1958 Xuân Diệu viết một bài nhan đề "Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao" tố cáo Văn Cao là "con người phản phúc hai mặt giả dối như con mèo, là một tên phù thuỷ toan dùng âm binh để chọi nhau với Đảng".

 

Sau đây chúng tôi xin trích bài "Anh có nghe không" và bài "Những ngày báo hiệu mùa Xuân" để các độc giả nhận xét. Theo ư riêng chúng tôi, Văn Cao không phải là phù thuỷ mà chỉ là một con thiêu thân, một con thiêu thân điển h́nh nhất.

 

 

*

 

 

Anh có nghe không

 

(Gửi một nhà thơ xưa đă nổi tiếng)

 

Cửa đóng lại từ chín giờ

Không một cuốn sách chờ đợi

Dù những ngôi sao đang nở trên trời

Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại

 

Tất cả hướng về biển

Bọt cứ tan trên băi cát xa

Mà cửa bể vẫn im ĺm chưa mở

 

Bao giờ nghe được bản t́nh ca

Bao giờ b́nh yên xem một tranh tĩnh vật

Bao giờ

Bao giờ chúng nó đi tất cả

 

Những con người không phải của chúng ta

Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống

 

Chúng nó c̣n ở lại

Trong những áo dài đen nham hiểm

Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người

 

Chúng nó c̣n ở lại

Trong những tủ sách gia đ́nh

Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm

Từng bước chân các cô gái

Từng con đường từng băi cỏ từng bóng tối

Mắt quầng thâm c̣n nhỡ măi đêm

 

Chúng nó c̣n ở lại

Trong những tuổi bốn mươi

Đang đi vào cuộc sống

Như nấm mọc trên những thân gỗ mục

 

Người bán giấy cũ

Đă hết những trang tiểu thuyết ế

Những trang báo ngày xưa

Đang bán đến những trang sách mới

Những bài thơ mới nhất của anh

 

Anh muốn giơ tay lên mặt trời

Để vui da ḿnh hồng hồng sắc máu

Mấy năm một điệu sáo

Như giọng máy nước thâu đêm chảy

 

Chung quanh c̣n những người khôn ngoan

Không có mồm

Mắt không bao giờ nh́n thẳng

 

Những con mèo ngủ yên trên ghế

Trong một cuộc dọn nhà

 

Những con sên chưa dám ló đầu ra

Những cây leo càng ngày càng tốt lá

 

Một nửa thế giới

Một nửa tâm hồn

Một nửa thế kỷ

Chưa khai thác xong

 

Bây giờ không c̣n những tiểng nổ to

Nhưng c̣n những tiếng rạn vỡ

 

Có thể thu hết những khẩu súng phản động

Nhưng vẫn c̣n

Những khẩu súng đưa người tự tử.

 

Anh có nghe thấy không

Chỗ nào cũng có tiếng

Chưa nói lên

 

Những người của chúng ta

Đang mờ mờ xuất hiện

Le lói hy vọng

Trên những cánh đồng lầy

 

Ngh́n năm cũ phủ mất nhiều giá trị

Đốt ngh́n kinh chưa thắp sáng cuộc đời

 

Vào một cuộc đấu tranh mới

Với những người không phải của chúng ta

Anh có nghe thấy không

 

Vào một cuộc đấu tranh mới

Để mở tung các cánh cửa sổ

Mở tung cả cửa bể

Và tung ra hàng loạt hàng loạt

Những con người thật của chúng ta.

 

(Trích Giai phẩm mùa Xuân 1956)

 

 

*

 

 

Những ngày báo hiệu mùa Xuân

 

Nước biển đổ vào quanh Hải Pḥng ngày băo

Làng mạc bồng bềnh trời đất bềnh bông

Ở những ngọn tre xác xơ mốc lên chất muối

C̣n lại ít rơm khô những mái nhà trôi

Những mảnh lưới thuyền ai bay tan tác

 

Xe gạo ngày đêm từ Hải Pḥng về các xóm

Chúng tôi đêm ngày vét nước nối đê

Tưới ngọt lại ruộng đồng, dựng lại từng thôn xóm

T́m lại những nụ cười ở mỗi người sống sót

Lửa đỏ đêm đêm trên băi biển bập bùng

 

Trong những ngày khó khăn chồng chất

Kẻ thù của chúng ta xuất hiện

Những con rồng đất khi đỏ khi xanh

Lẩn trong hàng ngũ

Những con bói cá

Đậu trên những chiếc dây buồm

Đang đo mực nước

Những con bạch tuộc

Bao nhiêu tay chân d́m chết một con người.

 

Đất nước đang lên da lên thịt

Đất nước c̣n đang nhỏ máu ngày ngày

 

Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải

Đă thấy loài sâu nằm tṛn trong cuống

 

Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng

Ṃn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang

Làm rỗng những con người lụi dần niềm hi vọng

Héo dần mầm sáng tạo mất phẩm giá con người

 

Chúng nó ở bên ta trong ta lén lút

Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men

Tôi đă thấy từng mặt, từng tên xâu chuỗi

Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt

 

Hăy dừng lại

Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc

Những tên muốn làm cây to che cớm mầm non

 

Con đường ta đi tự hào lực lượng

Con đường nước nguồn thành sông thành biển

 

Con đường ta đi tự hào duy nhất

Con đường đi trái đất quanh mặt trời

 

("Những ngày báo hiệu mùa Xuân" là một đoạn trong bài thơ dài Những người trên cửa biển của Văn Cao, in trong tập thơ của bốn người: Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, do nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành. Trích Giai phẩm mùa Thu tập II tháng 10-1956) [1]

 

 

*

 

 

Trần Duy

 

Trần Duy tên thật là Trần Quang Tăng, sinh ở Huế vào khoảng năm 1920. Ông học Trường Mỹ thuật Hà Nội trong thời kỳ đại chiến thứ hai, và sau khi Hà Nội bị phi cơ Đồng minh oanh tạc, nhà trường dọn lên Sơn Tây, ông cũng theo lên Sơn Tây. Học chửa tốt nghiệp th́ xảy ra cuộc đảo chính Nhật và tiếp theo là cuộc khởi nghĩa Việt Minh.

 

Trong thời gian học ở Sơn Tây, Trần Duy thân với Phan Kế An, là bạn đồng trường và là con Phan Kế Toại. An là cán bộ Việt Minh, nên tuyên truyền Trần Duy theo Việt Minh.

 

Trong thời gian kháng chiến, ông công tác văn nghệ bộ đội ở Việt Bắc. Về Hà Nội, ông hợp tác với nhóm Giai phẩm và cộng sự với cụ Phan Khôi trong việc xuất bản tờ báo Nhân văn.

 

Những bài nghị luận của ông về chính trị rất có giá trị.

 

Bài “Những người khổng lồ” mà chúng tôi trích sau đây để giới thiệu nghệ thuật viết văn của ông, thuộc vào loại thần tiên mà ông tự đặt ra, để mượn ư nói rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể đào tạo nên những con người có sức khoẻ máy móc, không có tâm hồn. Rút cục những con người “không phải là người” đó chỉ tàn phá và gieo tang tóc khắp mọi nơi, không có khả năng kiến thiết và xây đắp hạnh phúc cho nhân loại.

 

Dùng thần thoại để tŕnh bày một hiểm hoạ đương đe doạ toàn thể thế gian, đó là một sáng kiến rất đặc biệt của ông.

 

 

*

 

 

Những người khổng lồ

(Gửi những người cộng sản chân chính)

 

Tôi xin kể các bạn nghe một câu chuyện cổ. Ngày xưa quả đất chưa có người ở, chỉ toàn là cây cỏ núi đá, sông, hồ biển rộng mênh mông. Thú dữ rất nhiều và ma vương quỷ dữ cũng nhiều. Lúc Thượng đế cho những con người đầu tiên xuống, con người hết sức khổ sở. Đời sống ở quả đất bấy giờ chỉ toàn là nước mắt và oán thán. Tiếng khóc tụ lại thành khí, nước mắt bốc lên thành mây dâng lên tận thiên đ́nh. Ngọc Hoàng lo lắng, đau xót vô cùng. Thiên đ́nh lo âu chẳng kém. Một v́ sao tâu:

 

“Sức người có hạn, mà ma quỷ th́ uy lực vô cùng, vậy nên phái thêm người nhà trời về giúp sức.”

 

Ngọc Hoàng bèn triệu tập hội nghị Thiên đ́nh, ra chỉ thị nặn thêm một đoàn khổng lồ cho xuống hạ giới giúp sức loài người.

 

Thế là chẳng bao lâu, nặn xong lũ khổng lồ, ḿnh cao trăm trượng, tay chân to lớn, sức lực vô địch. Ngọc Hoàng hà hơi sống, lũ khổng lồ cử động, Thiên đ́nh mừng rỡ… Chỉ nay mai hạ giới sẽ chẳng c̣n tiếng khóc và nước mắt.

 

Đoàn khổng lồ xuống hạ giới: bạt rừng lấp bể, nhổ cây như vớt rong, bóp vụn đá như nghiền bột, long trời lở đất. Đoàn khổng lồ vui sướng và tin chắc đă làm vừa ḷng trời và thuận ḷng người.

 

Nhưng một hôm Ngọc Hoàng mở cửa nh́n về hạ giới… Cớ sao tiếng khóc vẫn c̣n?

 

Ngọc Hoàng phán hỏi Thiên đ́nh, Thiên đ́nh ngơ ngác nh́n nhau. Có v́ sao tâu:

 

“Việc hạ giới nên triệu Táo quân về đầu đuôi sẽ rơ.”

 

Mấy hôm sau Táo quân về. Vừa bước tới sân chầu, Táo quân đă vập đầu xuống bệ khóc nức nở. Ngọc Hoàng hỏi:

 

“Táo quân chưa tâu báo, đă khóc lóc, làm loạn cả quần tiên là cớ làm sao?”

 

Táo quân vẫn khóc. Ngọc Hoàng nói:

 

“Táo quân quên rằng quần tiên không có tiếng khóc, và Thiên đ́nh chỉ có tiếng cười và vũ nhạc hay sao?”

 

Táo quân tâu:

 

“Hạ thần vẫn muốn như vậy, nhưng trọng trách của Ngọc Hoàng giao cho hạ thần là sống với loài người, chia vui sẻ buồn với họ, thần nỡ ḷng nào cười múa lúc loài người c̣n tiếng khóc và oán hờn?”

 

Ngọc Hoàng hốt hoảng:

 

“Thế người khổng lồ xuống hạ giới chẳng làm nên ǵ ư?”

 

Táo quân tâu:

 

“Người khổng lồ đă làm đầy đủ sứ mệnh của Thiên đ́nh giao cho là sát phạt ma vương hổ báo, rẫy rừng, khai sông, lấp bể…”

 

Ngọc Hoàng hớn hở:

 

“Thật là tin vui… Nhưng cớ sao khanh c̣n khóc?"

 

"Tâu Ngọc Hoàng, tại v́ loài người c̣n khóc."

 

Ngọc Hoàng chép miệng:

 

"Nhân thế sinh kiếp trầm luân có khác! Buồn cũng khóc, mà vui cũng khóc, ta biết làm thế nào?”

Táo quân tâu:

 

“Tâu Ngọc Hoàng, buồn th́ phải khóc, nhưng mấy khi vui mà lại khóc?”

 

“Thế hạ giới chưa vui ư? Ma quỷ tan rồi, hùm beo quét sạch, rừng núi san bằng, loài người thảnh thơi, chỉ khác Thiên đ́nh ở chỗ chưa được mùa xuân muôn thuở, tràng sinh bất tử mà thôi.”

 

Táo quân trả lời:

 

“Quả thật nhân thế nhờ người nhà trời mà thôi khóc cái hoạn nạn do ma vương quỷ dữ gây ra, nhưng chưa kịp cất lên tiếng cười th́ nhân thế lại bắt đầu buồn về một ít hoạn nạn mới do…”

 

Ngọc Hoàng sốt ruột hỏi:

 

“Do ai gây ra?”

 

“Tâu Ngọc Hoàng… Do chính người nhà trời gây ra.”

 

Ngọc Hoàng và Thiên đ́nh sửng sốt:

 

“Cớ sao?”

 

“V́ người nhà trời bạt núi, khai sông, quên mất loài người bé nhỏ sống gần sông và cạnh núi. Những bản t́nh ca vừa chớm nở, những hoa bướm, những đôi lứa trẻ mới yêu nhau, những t́nh thương nỗi nhớ vừa nhen nhúm, có một số người khổng lồ trông thấy đă xéo bừa lên, giày nát…”

 

Một v́ sao hỏi:

 

“Loài người sống chính nhờ cơm, gạo, khí trời, chứ nhờ đâu t́nh ca, và hoa bướm.”

 

Ngọc Hoàng phán:

 

“Khi ta tạo con người, ta đă thổi vào người chúng cùng với khí nóng và máu, t́nh thương nỗi nhớ, oán ghét giận hờn, tiếng cười và nước mắt… Những thứ ấy sẽ sống đời đời kiếp kiếp với con người. Không tôn trọng những thứ ấy trong con người là không tôn trọng con người…”

 

Táo quân lại tâu:

 

“Vẫn cái số người khổng lồ ấy, không nghe được tiếng khóc, và tiếng cười; Họ nhổ vụt cây chết ma vương hổ báo, nhưng trong khi đánh vung văi sướng tay, loài người cũng chết lây. Xác hoa bướm nằm cạnh xác ma vương hổ báo và xác người!”

 

Ngọc Hoàng đau xót nh́n Thiên đ́nh. Thiên đ́nh im lặng.

 

Một v́ sao tâu:

 

"Nên cho đoàn khổng lồ về để biết tường gốc ngọn."

 

Đoàn khổng lồ về bái yết. Ngọc Hoàng thịnh nộ:

 

"Các người công ít tội nhiều, cớ sao đạp xéo cả lên tính mạng con người?"

 

Đoàn khổng lồ một số ngơ ngác nh́n nhau.

 

Ngọc Hoàng đập bàn:

 

"Sao dám đạp cả lên tâm hồn và cuộc sống con người?"

 

Số khổng lồ ấy càng ngơ ngác nh́n nhau.

 

Ngọc Hoàng vẫn chưa nguôi:

 

"Sao giẫm cả lên lời ca, tiếng cười và hoa bướm dưới trần thế?"

 

Số khổng lồ ấy lại càng ngơ ngác nh́n nhau.

 

Ngọc Hoàng nh́n đoàn khổng lồ:

 

"Và các người không đau xót ư?"

 

Vẫn số khổng lồ ấy ngơ ngác nh́n nhau, nh́n Ngọc Hoàng và Thiên đ́nh… Nhất là những giọt nước mắt của Táo quân.

 

Sao Thái Bạch bước ra tâu:

 

"Cứ xem khí mạo, th́ biết trong số khổng lồ có những người có thể mà không có tâm, không biết tiếng cười và tiếng khóc, thần e rằng phủ tạng họ thiếu một thứ ǵ."

 

Ngọc Hoàng truy hỏi. Nam tào Bắc đẩu cùng với La hầu và Kim tinh xét lại các sổ, đứng ra tâu:

 

"Đoàn khổng lồ lúc được nặn ra, chỉ cốt lấy to, nên hết nguyên liệu để nặn tim, cho nên trong đoàn khổng lồ phái xuống hạ giới có một bọn không tim."

 

Ngọc Hoàng biến thần sắc:

 

Một v́ sao hỏi:

 

"Thiết nghĩ đoàn khổng lồ chỉ đánh ma vương quỷ dữ cần ǵ tim?"

 

Ngọc Hoàng trả lời:

 

"Nhưng ta tạo nên con người, con người đă có óc phải có tim. Loài người của ta cần sống giữa hoa đẹp hương thơm."

 

V́ sao lại tâu:

 

"Nhưng bộ óc to, cánh tay lớn chẳng đủ rồi ư?"

 

Ngọc Hoàng phán:

 

"Nhưng cánh tay lớn của một người không tim sẽ đập nát công tŕnh của bộ óc hắn xây dựng."

 

Khi nh́n về hạ giới, nghe tiếng khóc và nước mắt vẫn c̣n, Ngọc Hoàng chép miệng phán bảo với đoàn khổng lồ:

 

"Hạ giới vẫn c̣n cần các ngươi, v́ quỷ dữ ma vương vẫn c̣n hoành hành; Nhưng các ngươi phải biết yêu quư con người, tôn trọng quyền sống của họ. Quả đất là của con người, và sửa sang quả đất cũng là để cho con người. Làm công việc ǵ mà con người phải khổ, c̣n khổ th́ dù công việc ấy có thành công cũng cẩm như là thất bại. Chỉ có trí óc mà không có tim th́ không thể sống được với loài người."

 

Sau lời chỉ giáo ấy, đoàn khổng lồ lại kéo nhau về hạ giới, lại như cũ, phá núi ngăn sông, tát bể, làm h́ hục kỳ cho quả đất quang đăng mới thôi.

 

Ngọc Hoàng lại mở cửa nh́n về hạ giới: Cớ sao hăy c̣n tiếng khóc? Ngọc Hoàng phán hỏi Thiên đ́nh. Có v́ sao tâu:

 

"Lại xin cho triệu Táo quân về."

 

Táo quân lại lên chầu trời.

 

Ngọc Hoàng hỏi:

 

"Tiếng khóc vẫn c̣n ở hạ giới ư?"

 

Táo thần tâu:

 

"Nhân thế biết lượng lớn của Thiên đ́nh, ăn chay nằm đất để tạ ơn Thượng đế, nhưng vẫn c̣n nước mắt!"

 

Ngọc Hoàng nói:

 

"Ta muốn ngăn những giọt nước mắt ở hạ giới phải làm thế nào?"

 

Táo quân tâu:

 

"Muốn ngăn được nước mắt ở thế gian, th́ trước hết phải biết thu phục được ḷng người."

 

Một v́ sao hỏi:

 

"Thế nào là thu phục được ḷng người?"

 

Táo thần đáp:

 

"Thu phục được ḷng người là phải yêu người. Yêu người là biết được cái vui mà thật vui chung với người, khổ được cái khổ chung với người, đau xót trước cái đau xót của thiên hạ. Việc đáng vui nhưng thiên hạ chưa vui được cũng chớ bắt phải cười. Việc đáng khen, nhưng thiên hạ chưa rơ được cũng chớ bắt phải khen. Dù là ư trời, nhưng chưa được ḷng người, ư trời vẫn sai; dù chưa phải ư trời, nhưng thuận ḷng người th́ vẫn cứ xem đó có là ư trời. Dù việc có hay nhưng cũng đừng cưỡng nhân tâm lúc nhân tâm chưa thuận. Ḷng người lúc đă thuận rồi, không bảo vẫn cứ nghe, muôn người như một xô núi cũng đổ, tát bể cũng cạn. Dù có cấm hát cấm cười, người đời vẫn cứ cười cứ hát… Lúc bấy giờ nước mắt tự nó nó sẽ tan đi."

 

Ngọc Hoàng nh́n các v́ sao. V́ sao ban năy lại hỏi:

 

"Thế nào là cưỡng nhân tâm? Táo thần không hay rằng dụ chỉ của Thiên đ́nh đă xoá bỏ những bất công ở hạ giới?"

 

Táo quân đáp:

 

"Cưỡng nhân tâm không cứ dùng gươm tên mà uy nạt mới cho là cưỡng. Bất công ở hạ giới như nước mạch thấm vào ḷng đất đời đời kiếp kiếp, chẳng phải phút chốc v́ một dụ chỉ mà nó tan đi. Bất công ở hạ giới là con quỷ già luyện kiếp, thiên h́nh vạn trạng, lúc ẩn lúc hiện, lúc to lúc nhỏ, lúc trắng lúc đen, lúc mặc áo cà sa, lúc mặc áo giấy, cười nói như người. Lúc người suy tôn thần thánh th́ nó thành thần thành thánh để được suy tôn, lúc người khiếp sợ ma vương th́ nó thành ma vương để uy nạt, không chừng nó c̣n diện cả hia ngọc, bốt vàng đứng lẫn giữa các v́ sao đây cũng có. Nếu Thiên đ́nh c̣n cho rằng chỉ v́ một dụ chỉ của Thiên đ́nh mà hạ giới xoá bỏ được bất công, th́ tiếng khóc và nước mắt ở hạ giới vẫn cứ c̣n đời đời kiếp kiếp."

 

Ngọc Hoàng nói:

 

"Nhưng ta đă phái người của Thiên đ́nh xuống."

 

Táo quân đáp:

 

"Tâu Ngọc Hoàng, người của Thiên đ́nh phái xuống có kẻ có óc có tim, th́ họ ở đâu hoa thơm và tiếng cười ở đấy. Nhưng cũng có những người thiếu tim!"

 

Các v́ sao hỏi:

 

"Như vậy sẽ có hại ǵ?"

 

"Th́ số người nhà trời thiếu tim ấy sẽ chẳng được ḷng người, ngược lại ḷng thiên hạ, sẽ cưỡng nhân tâm, và sinh linh c̣n đồ thán, hờn oán Thiên đ́nh."

 

Táo quân lại tiếp:

 

"Nước mắt do ma vương quỷ dữ gây ra th́ loài người hợp sức với người nhà trời sẽ diệt được ma vương quỷ dữ. Nhưng nước mắt do người nhà trời gây ra, lẽ đâu loài người lại dám xúc phạm đến Thiên đ́nh mà đụng đến người nhà trời ư? Do đó nước mắt lại ngấm ngầm chảy, tiếng khóc lại càng thầm lặng rền rĩ hơn. Nhưng đáng thương hơn cả vẫn là cái số khổng lồ không tim ấy vẫn tưởng ḿnh đă hoàn toàn mang lại tiếng cười và niềm vui cho hạ giới!"

 

Ngọc Hoàng thở dài:

 

"Ta đă mấy lần phủ dụ…"

 

Táo quân đáp:

 

"Không biết th́ dạy bảo sẽ biết. Không thấy th́ chỉ giáo sẽ thấy. Không quen th́ làm măi sẽ quen… Nhưng không tim th́ sách vở nào, lời lẽ nào, chỉ dụ nào có thể tạo nên t́nh cảm được!"

 

Ngọc Hoàng bóp trán suy nghĩ. Các v́ sao im lặng. Ngọc Hoàng quay hỏi Thiên đ́nh.

 

"Chư khanh nghĩ thế nào?"

 

Các v́ sao tâu:

 

"Đoàn khổng lồ là đạo lính của Thiên đ́nh phái về giúp loài người, nhất thiết không bỏ được; Máu thịt để nặn thành tim cho số khổng lồ ấy cũng chẳng c̣n. Hay là Thiên đ́nh tạo thêm cho hạ giới thật nhiều hoa, nhiều bướm, nhiều tiếng hát, tiếng cười!"

 

Một số khổng lồ bước ra tâu:

 

"Nếu chúng ta làm như vậy chẳng khác nào chúng ta tạo thêm hoa thêm bướm tiếng hát và tiếng cười để cho lũ không tim ấy giẫm nát."

 

Ngọc Hoàng hỏi Táo quân:

 

"Vậy theo ư khanh nên như thế nào?"

 

Táo quân đáp:

 

"Nên làm thêm tim cho số khổng lồ ấy."

 

Thiên đ́nh đồng thanh:

 

“Nhưng cạn sạch nguyên liệu.”

 

Táo quân trả lời:

 

“Nếu có những người khổng lồ đủ tim đủ óc th́ đó là một điều hay, bằng không thà nặn những người nhà trời chỉ bằng con người hạ giới thôi, mà quả tim thật to; Bàn tay tuy có nhỏ, sức khoẻ tuy có yếu, bước đi tuy có ngắn, nhưng nếu nó có tim, nó sẽ sống cùng điệu với loài người, nghe được tiếng thở dài, và thấy được cái mỉm cười của họ, lúc bấy giờ bàn tay nó sẽ không bóp chết loài người cùng ma quỷ, sức khoẻ nó sẽ không đè chết loài người cùng hổ báo núi cây, bước chân nó sẽ không giầy xéo lên con người cùng với t́nh yêu và hoa bướm. Làm được như thế là thuận được với ḷng người, thiên hạ hỗ trợ, th́ mới trọn được ư trời; Và lúc bấy giờ hạ giới sẽ là nơi Thiên đ́nh thứ hai, đầy tiếng cười và vũ nhạc…”

 

Ngọc Hoàng gật gù, nh́n Thiên đ́nh cùng cho lời của Táo quân là phải…

 

Số khổng lồ có tim cũng gật gù nh́n thương hại lũ khổng lồ không tim.

 

C̣n hạ giới th́ hoan hỉ chờ mong ngày Ngọc Hoàng làm thêm tim cho số khổng lồ ấy, nhất là những người mới bắt đầu biết yêu nhau...

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu tập II năm 1956)

 

 

 

*

 

 

Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ

 

Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam có nhận định ở miền Bắc chúng ta chưa thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của nhân dân và đă thảo luận những biện pháp bổ khuyết cần thiết để đề nghị với Chính phủ và Quốc hội.

 

Chúng ta hoan nghênh những nhận định ấy, và hy vọng những biện pháp bổ khuyết cần thiết trên sẽ mang lại cho báo chí văn nghệ đời sống miền Bắc một luồng gió mới... luồng gió tự do dân chủ.

 

Báo Nhân văn đấu tranh cho tự do dân chủ, cũng không ngoài ư muốn nào khác là tự nguyện làm một tên lính tiên phong cùng Đảng và nhân dân chiến đấu cho một mục đích chung.

 

Đấu tranh cho tự do dân chủ là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, v́ nó là một cuộc tấn công quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xă hội.

 

Nó sẽ bị những phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương c̣n quyền hành và thế lực cản trở, xuyên tạc, phá hoại có khi cả bằng những phương pháp đen tối, độc ác.

 

Quần chúng phải là “Bao công” có quyền thực sự kiểm soát mọi công việc của Nhà nước, của cán bộ.

 

Tiêu cực, làm ngơ, thở dài bi quan trong lúc này là một tội lớn đối với lịch sử đối với sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Sống trong một xă hội mà sự tự do đă chính thức được ghi lên giấy trắng mực đen trong Tuyên ngôn Độc lập, trên Hiến pháp, sao tự do vẫn c̣n bị vi phạm trắng trợn ở trên địa hạt tư tưởng, trí thức, và cả trên sinh mệnh xương thịt của con người?

 

Báo Nhân văn ra đời trong những hoàn cảnh đặc biệt. Động cơ nào đă thúc đẩy anh em văn nghệ và trí thức ra tờ báo Nhân văn? Nó được ra đời như thế nào? Và nó đă bị đối xử như thế nào?

 

Báo Nhân văn ra đời tự nguyện làm một trong những tên lính tiền phong, tích cực cùng nhân dân và Đảng, chiến đấu chống những sai lầm lệch lạc, những hủ bại trong tác phong lănh đạo đă vi phạm đến những nguyên tắc căn bản xây dựng Đảng, xây dựng chế độ.

 

Cho nên khi anh em lấy tên cho tờ báo là Nhân văn là do một ḷng nhiệt t́nh đối với chủ nghĩa đối với con người của chế độ. V́ chúng ta cùng thấy rằng không c̣n ǵ cao quư hơn và đẹp đẽ hơn là thực hiện cho kỳ được chủ nghĩa nhân văn trong đời sống con người.

 

Nhưng từ ngày Nhân văn ra đời cho đến nay, nó đă phải trải qua những thử thách, nó bị làm khó dễ nếu không nói là phá hoại.

 

Những hành động phá hoại ấy tuy riêng lẻ, không có một chủ trương nào dứt khoát, nhưng nó thành hệ thống, liên lạc, chứng tỏ rằng nó có chịu một sự chỉ huy.

 

Anh em nghèo, vốn không có, góp tiền với nhau để ra tờ báo. Chật vật lắm tờ báo mới được ra đời. Vừa ra đời th́ những danh từ “phản ứng giai cấp”, “tư sản lợi dụng”, “tiếng nói của tư sản”, “Đế quốc bắc cầu” đă chụp lên đầu anh em những chiếc mũ nguy hại.

 

Trong thời gian tiến hành in báo Nhân văn, vụ điển h́nh về phá hoại là vụ Hoàng Đạo. [2]

 

Hoàng Đạo là ai? Theo lời y tự giới thiệu với một số bạn, th́ y trước là một cán bộ công an, hiện nay là cán bộ công nghiệp, làm giám đốc một xí nghiệp lớn được đặc phái phụ trách theo dơi và chống phá Nhân văn.

 

Hoàng Đạo t́m đến một anh bạn muốn góp tiền vào Nhân văn để đe doạ làm cho anh sợ phải rút lui. Hoàng Đạo lại t́m đến các nhà in dèm pha xui giục làm cho chủ e ngại, thợ hoang mang, đ́nh đốn cả công việc in Nhân văn.

 

Anh em công nhân nhà in X.T. cũng thắc mắc không biết tờ Nhân văn phản động ở chỗ nào và tại sao phản động mà chính phủ không cấm nó, lại phải để cho những kẻ đội lốt danh nghĩa công đoàn vận động phá hoại nó?

 

Chúng tôi tự hỏi: Hoàng Đạo dựa vào một thế lực nào để dám trắng trợn vi phạm đến tự do báo chí, tự do tư tưởng như vậy?

 

T́nh trạng trên tuy có nguy hại, nhưng không nguy hại bằng biện pháp sau đây: một số người lợi dụng t́nh h́nh thống nhất Bắc Nam, gặp bước khó khăn, nhiệt t́nh đ̣i hiệp thương của đồng bào, cán bộ miền Nam.

 

Họ đổ cho Nhân văn đă gây khó dễ cho Đảng trong việc thống nhất Bắc Nam, Nhân văn làm chậm hiệp thương, Nhân văn có tội với miền Nam. Có người lại kư tên trá h́nh mượn tiếng nói của miền Nam đăng ở một tờ báo hàng ngày, vận dụng t́nh cảm để tranh thủ quần chúng và đẩy quần chúng đối lập với Nhân văn.

 

Lịch sử đang đi những bước lớn. Những cái ǵ cản trở phong trào tự do dân chủ, cản trở bước đi lên của dân tộc nhất định sẽ bị gạt ra ngoài.

 

(Trích báo Nhân văn số 4 ngày 5-11-1956) [3]

 

 

*

 

 

Hoàng Cầm

 

Hoàng Cầm sinh năm 1921 ở làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. [4] Xét về tuổi th́ ông thuộc về phái thanh niên, nhưng nếu xét về thành tích th́ ông đáng được xếp vào hạng những văn sĩ đứng tuổi, đă có địa vị trong làng văn từ trước cuộc Thế giới chiến tranh thứ hai.

 

Hoàng Cầm học trung học ở Bắc Ninh, đỗ bằng cao đẳng tiểu học năm 1937 và đỗ tú tài năm 1940. Nhưng ngay từ khi mới học đệ tứ, ông đă dịch cuốn Graziella của Lamartine sang tiếng Việt, lấy nhan đề là Hận ngày xanh. Ông được nhiều người ưa chuộng từ ngày ấy. Tiếp theo ông dịch cuốn Một ngh́n một đêm lẻ, đăng trong tạp chí Tân dân.

 

Hoàng Cầm cũng có viết một cuốn tiểu thuyết đầu tay nhan đề là Thoi mọng, nhưng nghệ thuật chính của Hoàng Cầm là viết kịch thơ. Cho đến ngày nay, Hoàng Cầm giữ địa vị cao nhất trong văn học Việt Nam về ngành kịch thơ, v́ những vở kịch sau đây:

 

Viễn khách, tả một câu chuyện về đời Hồ Quư Ly, đăng trong Tiểu thuyết thứ Bẩy, với bút hiệu là Hoa Thu.

 

Kiều Loan, tả một câu chuyện đời Tây Sơn.

 

Lên đường, nói về thanh niên thờ Nhật chiếm đóng.

 

Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Hoàng Cầm tham gia bộ đội và trở thành bạn thân của Trần Dần, Lê Đạt. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản năm 1951, và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mác-xít về nghệ thuật, ông từ bỏ lối viết kịch thơ. Trong một buổi lễ ở Việt Bắc, trước sự hiện diện của đông đủ anh em văn nghệ sĩ, ông đă lên án những tác phẩm cũ của ông bằng cách "thắt cổ" mấy bản kịch thơ do ông viết, buộc tḥng lọng vào một sợi dây và treo lên cành cây. Lúc bấy giờ ông hoàn toàn tin theo cộng sản và quyết tâm "lột xác" để "theo kịp đà tiến của xă hội hiện thực chủ nghĩa" trong văn chương.

 

Nhưng từ năm 1953, sau khi ông được đi "tham quan" (đi dự nhưng không được tham gia ư kiến) Cải cách ruộng đất, ông nhận thấy thực chất của chế độ cộng sản. Từ ngày ấy Hoàng Cầm trở lại con người cũ và viết kịch thơ như ngày xưa.

 

Năm 1956 Hoàng Cầm hoạt động tích cực trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm và được anh em gọi đùa là "con ngựa chiến". Ông có viết nhiều bài trong Nhân văn để bút chiến với phe Đảng, nhưng về thơ chỉ có hai bài đặc sắc nhất mà chúng tôi trích sau đây để giới thiệu nghệ thuật làm thơ của ông.

Một bài đăng trong Giai phẩm mùa Thu, nhan đề "Em bé lên sáu tuổi" tố cáo việc cộng sản bao vây những gia đ́nh địa chủ để bắt con cái phải chết hết và một bài đăng trong báo Văn là một đoạn kịch thơ, nhan đề là "Tiếng hát", trong đó ông dùng lời Trương Chi để kêu gọi nhân dân hăy nổi dậy đấu tranh chống Đảng.

 

Trường hợp của Hoàng Cầm chứng tỏ rằng một người có tâm hồn nghệ sĩ và thành thật yêu chuộng tự do không thể nào hoà ḿnh được với chế độ cộng sản.

 

 

*

 

Em bé lên sáu tuổi

 

I.

 

Em bé lên sáu tuổi

Lủi thủi t́m miếng ăn

Bố: cường hào nợ máu [5]

Đă trả trước nông dân

Mẹ bỏ con lay lắt

Đi tuột vào trong Nam

 

Từ khi lọt ḷng mẹ

Ăn sữa, ngủ giường êm

Áo hoa lót áo mền

Nào biết ḿnh sung sướng

 

Ngọn sóng đang trào lên

Ai nghĩ thân bèo bọt

Nhưng người với con người

Vẫn sẵn ḷng thương xót

 

Có cụ già đói khổ

Lập cập đi ṃ cua

Bố mẹ nó không c̣n

Đứa trẻ nay gày c̣m

Bỗng thương t́nh côi cút

Cụ nhường cho miếng cơm

 

Chân tay như cái que

Bụng ph́nh lại ngẳng cổ

Mắt tṛn đỏ hoe hoe

Mở nh́n đời bỡ ngỡ

 

“Lạy bà xin bát cháo

Cháu miếng cơm thày ơi”

 

II.

 

Có một chị cán bộ

Đang phát động thôn ngoài

Chợt nh́n ra phía ngơ

Nghe tiếng kêu lạc loài

 

Chị rùng ḿnh nhớ lại

Năm đói kém từ lâu

Chị mới năm tuổi đầu

Liếm lá khoai giữa chợ

 

Chạy vùng ra phía ngơ

Dắt em bé vào nhà

Nắm cơm dành chiều qua

Bẻ cho em một nửa

 

Chị bần nông cốt cán [6]

Ứa nước mắt, quay đi:

“Nó là con địa chủ

Bé bỏng đă biết ǵ

Hôm em cho bát cháo

Chịu ba ngày hỏi truy” [7]

 

Chị đội [8] bỗng lùi lại

Nh́n đứa trẻ mồ côi

Cố t́m vết thù địch

Chỉ thấy một bóng người

 

Em bé đă ăn no

Nằm lăn ra đất ngủ

Chị nghĩ: sau lấy chồng

Sinh con hồng bụ sữa

 

III.

 

Chị phải đ́nh công tác

V́ câu chuyện trên kia

Buồng tối lạnh đêm khuya

Thắp đèn lên kiểm thảo

 

Do cái lưỡi không xương

Nên nhiều đường lắt léo

Do con mắt bé tẻo

Chẳng nh́n xa chân trời

Do bộ óc chây lười

Chỉ một màu sắt rỉ

Đă lâu năm ngủ kỹ

Trên trang sách im ĺm

Do mấy con-người-máy

Đầy gân, thiếu trái tim

 

IV.

 

Nào “liên quan [9] phản động”

“Mất cảnh giác lập trường”

Mấy đêm khóc ṛng ră

Ngọn đèn soi tù mù

Ḷng vặn ḷng câu hỏi:

“Sao thương con kẻ thù?

Giá ghét được đứa bé

Ḷng thảnh thơi bao nhiêu

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu) [10]

 

 

 

*

 

 

Tiếng hát

 

(Trích 2 đoạn trong hồi thứ nhất vở kịch thơ dài Tiếng hát Trương Chi)

 

Nhân vật: (trong 2 đoạn này)

 

MỴ NƯƠNG

HỒNG HOA, nữ tỳ

TIẾNG HÁT TRƯƠNG CHI

 

Cảnh: Một gian pḥng trong lầu Tây nh́n ra sông.

 

Mở màn - Một buổi sớm mùa Xuân. Tiếng nhạc phía trong văng vẳng. Sân khấu vắng một lát rồi HỒNG Hoa rón rén bước ra, tay cầm một bông hoa đỏ, ngắm một lát rồi bỏ vào siêu thuốc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lớp I: HỒNG HOA, TIẾNG HÁT

 

HỒNG HOA      Tiếc quá! Những bông hoa đẹp nhất

Ngắt cụt đi làm thang thuốc! Lạ đời!

Gạn lọc hết tinh hoa trong trời đất

Đă chắc đâu cứu văn đưọc ḷng người

 

(nh́n vào trong)

 

Công nương chừng vẫn ngủ

Ba ngày chẳng nói năng

Tám thày lang chạy chữa

Bệnh mỗi ngày mỗi tăng

 

Bệnh một đàng, các cụ chữa một nẻo

Khuôn mặt công nương ngày một héo

Thày lang dốt nát chỉ nói ṃ

Bốc thang thuốc nào cũng thật to

 

Người bệnh uống vào, mặt nhăn nhó

Thừa tướng lập nghiêm, cấm không nhổ

Nuốt ực đắng cay vào trong người

Nẫu ruột nẫu gan v́ lửa bỏng dầu sôi...

 

(Tiếng hát Trương Chi bên ngoài vẳng lên)

TIẾNG HÁT      Ḥ khoan, núi thẳm sông sâu

Đi cùng thiên hạ chẳng đâu biết ḿnh

HỒNG HOA      Ồ! Tiếng hát...

 

(Hồng Hoa hé rèm nghe ngóng)

TIẾNG HÁT      Ta khao khát phương trời đỏ rực b́nh minh

Đến khi trời mọc, ta vẫn lênh đênh giữa ḍng

Đến đâu bờ bến không cùng

Thuyền đi vô tận, ai hiểu ḷng ta đâu?

HỒNG HOA      Tiếng hát chín mười đêm im vắng

Nay lại về vỗ mạnh bên lầu

Nh́n xuống sông kia, nào có ai đâu?

Phẳng lặng trường giang trắng xoá...

 

Kể từ tiếng hát bốc cao

Đời ở lầu Tây thay đổi cả

Công nương ốm ṛng ră

Đêm đêm nghe băo nổi quanh giường

Riêng ḿnh tôi hầu hạ

Cũng thấy như toà lầu xiêu đổ

Trong đêm dài tăm tối, thê lương

Thừa tướng luôn chau mày giận dữ

Đàn ca tắt rụi bốn chân tường

Vườn Xuân đă tàn hoa nụ

Con chim trong lồng xoă cánh chết đêm qua...

 

C̣n tôi?

 

Ở hầu công nương từ lên mười tuổi

Mắt quen nh́n nhung luạ gấm hoa

Nay bỗng thấy buồn tênh, trơ trọi

Nhớ làng xưa quê cũ mịt mù xa...

Tôi cũng muốn được bay theo tiếng hát

Trở về t́m nghĩa mẹ, t́nh cha.

 

(Nh́n vào trong)

 

Ḱa nếp chăn sóng sánh

Lá màn lay - Chừng công nương đă tỉnh

Bát thuốc này cay đắng lắm, đổ đi thôi

V́ cứ trông người bệnh nuốt từng hơi,

Mặt nhăn nhó, tôi chẳng c̣n muốn sống !

 

(Hồng Hoa đổ bát thuốc vào chậu cây)

TIẾNG HÁT      Thuyền trôi, trôi mấy khúc sông,

Ta đi xa bến biết ḷng ai theo...

HỒNG HOA      (Mỉm cười) Biết ḷng ai theo!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lớp II: HỒNG HOA, MỴ NƯƠNG, TIẾNG HÁT

 

MỴ NƯƠNG     (Ở phía bên trong rèm lảo đảo bước ra, mặt xanh xao tóc xoă.)

 

Hồng Hoa ơi!

Em hăy t́m về đây tiếng hát của người...

Ḷng chị như ḷ than cháy đỏ

Em hăy t́m về đây ḍng sông đang trôi.

HỒNG HOA      Chị đừng ra đây! Gió sông lồng lộng!

Tiếng hát ngoài kia, đâu phải tiếng người!

MỴ NƯƠNG     Có một người hát vang lừng trên sông...

HỒNG HOA      Đó là lời than cây cỏ bốn phương trời

Chị đừng nghe...

Càng nghe, càng nặng bệnh!

Mà... ḷng chị ra sao… Thừa-tướng biết rồi.

MỴ NƯƠNG     Phụ thân ta?…

HỒNG HOA      Tướng công vừa truyền lệnh

Khoá kín lấp cửa lầu, lấp cả ḍng sông

Để không c̣n tiếng hát!

MỴ NƯƠNG     (lo sợ) Có thực không?

Chị van em, em đi t́m tiếng hát!

Giấu tướng công, em lót áo đem về

HỒNG HOA      Lót áo đem về ! Chị nói dễ nghe!

MỴ NƯƠNG     C̣n ḍng sông, chị van em! Đừng lấp!

Hăy khơi ḍng nước uốn đến chân lầu

Để thuyền của chàng dù xa xa tắp

Cũng biết đường t́m đến buộc ḷng nhau

HỒNG HOA      (tinh nghịch) Chàng nào nhỉ? À, công nương phạm tội!

Dám nói đến chàng! - Này, ở bên kia

Thừa tướng vẫn ŕnh nghe sớm tối...

MỴ NƯƠNG     Không em ơi! Chị thức giấc canh khuya

Chỉ thấy mặt phụ thân hiền từ cúi xuống...

HỒNG HOA      (nghiêm trang ) Người đă nghe... Người biết chị say mê

Người giận lắm!... Người sẽ xây kín cửa

Th́ c̣n đâu nữa những chiều Xuân

Chị bước ra hiên, đất trời nghiêng ngửa

Sáng bừng lên v́ nhan sắc tuyệt trần?

C̣n đâu nữa, những sớm mai nắng mọc

Em đứng nh́n chân mây, t́m bóng khói quê hương?

MỴ NƯƠNG     Em đừng mách Tướng công - Này mớ tóc

Rối như ṿ, chị gỡ biết bao xong

Nước xanh mát, ngoài kia, em nhẹ bước

Đưa chị ra chải tóc giữa ḍng sông

Tiếng hát nằm trên tay như giọt nước

Chị uống hết mùa Xuân, mát rợi trong ḷng

HỒNG HOA      Công nương con quan Thừa tướng

Mười chín mùa Xuân khép cánh song

Từ tấm bé chẳng được xa một bước

Nữa bây giờ ốm lả trong pḥng

Gót chân công nương nhón trên nhung gấm

Nhung gấm c̣n êm sước ngón son

Thân quấn lụa the lung linh vàng ngọc

Vàng ngọc lụa the c̣n sợ đau vai tṛn.

MỴ NƯƠNG     Không!

Từ khi tiếng hát lọt qua song

Th́ châu ngọc đă rơi tàn trên đá lạnh

Th́ lụa the nhung gấm

bỗng khô ṛn như lá chiều đông...

TIẾNG HÁT      (lại văng vẳng) Nào người quả phụ trắng khăn tang

Nào đứa em mồ côi khát sữa

Nào ai sống nhục thác oan

Nào ai tan ĺa đôi lứa

Nghe tiếng hát này nguôi dần nổi khổ

Ḍng sông như lụa quấn quanh người.

MỴ NƯƠNG     (muốn xô ra ngoài)

C̣n tiếng hát! Người sẽ không bỏ bến

Người sẽ đến đây ! Em mở cửa, trời ơi!

HỒNG HOA      Chị đi đâu? Cửa ngoài bằng đá tảng

Tiếng hát đẩy được vào

V́ đó là tiếng gọi của trời cao

Của đất rộng, của quê hương tôi hửng nắng

Nhưng c̣n chị…

Phận gái mỏng manh, tay mềm dùng dắng

Hé làm sao cánh cửa khoá lâu đời!

MỴ NƯƠNG     (gan góc) Ta mở được, ta vượt qua tường đá

Ta chạy ra sông! Đi bốn phương trời

T́m tiếng hát... ta đi cùng thiên hạ

Tấm ḷng chàng... riêng ta biết mà thôi...

HỒNG HOA      Công nương lại sắp nói mê nói sảng

Thôi, để em d́u bước chị vào pḥng

MỴ NƯƠNG     (như mê) Pḥng nào đâu! Ta chỉ có con sông

Chàng đến kia rồi! Em hăy trông

Người đi trên mặt nước

Áo đúc màu da trời

Mắt đọng ánh sao rơi

Từng tiếng sóng trầm trầm

Nâng gót chân dồn đến...

Ta gặp người đây! Ngh́n năm ước hẹn

Em Hồng Hoa!... Đừng mách Tướng công!

HỒNG HOA      Em ngỡ chị là người sung sướng nhất

Ai ngờ đâu, chị lại khổ hơn em

Thôi, để em buông rèm

Xoá màu xanh nước sông

Chị đừng mơ ước nữa!

MỴ NƯƠNG     Ta nghe rơ tiếng chàng

Lùa tóc này óng ả

Từng sợi c̣n ngân vang

Chàng ở ngoài sông lạnh lắm

Lầu Tây này cũng giá băng

Tay chàng lửa ấm

Áo xanh bừng nắng điểm trang

HỒNG HOA      Làm ǵ có áo xanh?

Người ấy chắc là nón mê áo tải

Tiều tuỵ thân h́nh

Cũng như em khi c̣n mồ côi bố mẹ

Ĺa quê, hành khất đến đây...

MỴ NƯƠNG     À, không!

 

Áo tải nón mê càng đẹp

Ḷng chị thương, dệt gấm mặc cho người

Cũng như em ngày nay...

À, không, chàng là hoàng tử

Từ nước non xa lạ ghé qua đây

Ta mời lại - Chàng buộc thuyền, ở lại

Chàng hát, ta so dây cung đàn giăng

Ăn ở với nhau chẳng đếm bao năm

Rồi người đón ta lên thuyền

Trôi đi măi, bến bờ xanh triền miên

 

(Mỵ Nương đánh đàn, bỗng dây đứt)

 

Em van chàng! Em lạnh buốt bàn tay

Sao người nỡ bỏ đi?

Gió nổi, thuyền nghiêng đắm

Ai làm nên biệt ly?

 

(đàn rơi)

 

Người chết rồi! Tiếng hát cũng tan rồi

Ai cứu được chàng! Ai cứu được tôi?

 

(Mỵ Nương ngă xuống)

HỒNG HOA      Em biết ngay mà! Mê mê mộng mộng

Bệnh càng tăng. Rồi Tướng-công quở mắng

Tội thân em - Ai cứu sống công nương?

 

Hồng Hoa đỡ Mỵ Nương vào trong. Sân khấu vắng. Một điệu đàn trầm đục. Ngoài xa... một tiếng sáo tha thiết.

 

(Trích báo Văn số 24 ra ngày 18-10-1957)

 

 

[1]Soạn giả nhầm: Đoạn trích này là đoạn 2 trong bài thơ cùng tên đăng trên Nhân văn số 4 ngày 05-11-1956 (talawas).

[2]Hoàng Đạo người trong Nam, trước kia làm công nhân ở xưởng xe lửa Di An, có xu hướng trotskiste, gia nhập nhóm La Lutte. Sau bỏ nhóm La Lutte làm mật thám cho Pháp, lấy vợ Hoàng phái. Hồi khởi nghĩa theo Việt Minh, giữ chức Giám đốc Công an Thanh Hoá. Năm 1949 được biệt phái vào Hà Nội làm agent double, liên lạc với Phan Văn Giáo và Bảo Đại, mưu phá chiếc tàu Amyot d’Inville... Về Thanh Hoá phụ trách điều tra vụ Ba Lăng. Sau Genève phụ trách việc phá phong trào di cư vào Nam. 1956 được biệt phái sang công đoàn để xúi giục thợ in không in báo đối lập.

[3]Bản in trong sách này thực ra là bản rút gọn và bố cục lại của cả hai ḱ của bài viết của Trần Duy đăng trong 2 số Nhân văn cuối cùng: số 4 và số 5 (talawas).

[4]Huyện Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh (talawas).

[5]Trả nợ máu: bị xử tử

[6]Cốt cán: nông dân được Đảng tín nhiệm (chưa phải là đảng viên)

[7]Hỏi truy: tra khảo

[8]Chị đội: Cán bộ phụ nữ trong đội Cải Cách ruộng đất

[9]Liên quan: có liên hệ với địa chủ

[10]Xem toàn văn bài thơ trong Giai phẩm mùaThu tập II. Bản đăng trong sách này có lược bỏ nhiều đoạn (talawas).

 

Tiếp phần II, chương III : Các nhà văn đứng tuổi: Hữu Loan, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc

 

Hữu Loan

 

Hữu Loan năm nay chừng 40 tuổi, quê ở làng Vân Hoàng, huyện Nga Sơn, thuộc Thanh Hoá, con nhà nghèo và hiện nay vẫn sống một cách rất cơ cực ở ngoại ô Hà Nội.

 

Trong thời kỳ kháng chiến, ông công tác văn nghệ trong bộ đội, và sau xin giải ngũ và dạy học ở một trường tư thục trong huyện.

 

Ông bắt đầu được nổi tiếng v́ một bài thơ khóc vợ chưa cưới, chết đuối, nhan đề là "Mầu tím hoa sim".

 

Sáng tác của ông gồm có hai loại: thơ và truyện ngắn. Chúng tôi giới thiệu ông ở đây bằng hai bài có tính cách trội nhất, một truyện ngắn và một bài thơ mới.

 

"Lộn ṣng" là một truyện ngắn kể lại những kư ức ông đă ghi được trong thời gian ông c̣n dạy học ở Thanh Hoá. Hữu Loan muốn dùng h́nh thức tiểu thuyết để ghi lại một khía cạnh của đời sống trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Về phương diện này Hữu Loan đă thành công hoàn toàn v́ người đọc, dù không sống trong vùng kháng chiến, cũng có thể h́nh dung được đời sống tinh thần và vật chất của giới giáo sư và học sinh trong thời kỳ ấy.

 

Bài "Cũng những thằng nịnh hót" biểu dương ư chí bất khuất của tác giả trước những sự bất công và thối nát của chế độ.

 

Hiện nay số phận Hữu Loan ra sao chúng tôi không rơ, v́ không có tài liệu nào nhắc đến ông.

 

 

*

 

 

Cũng những thằng nịnh hót

(Sau khi đọc bài: “Những thằng nịnh hót” của Maiakovski)

 

Dưới thời kỳ Pháp thuộc

Những thằng nịnh hót nghênh ngang

Lưng rạp trước quan Tây

Bắc vợ như thang

Chân trèo lên danh vọng

Đuôi vợ chúng đi

Lọt theo đầu chúng

Bao nhiêu nhục nhằn;

Nhục mất nước muôn phần

Nhục cùng đất nước

với những thằng nịnh hót

 

Một điều đau xót

Trong chế độ chúng ta

Trong chế độ Dân chủ Cộng hoà

Những thằng nịnh c̣n

thênh thang

đất sống

Không quần chùng, áo thụng

Không thang đàn bà

Nhưng c̣n

thang lưng

thang lưỡi

 

Những mồm

không tanh tưởi

Ngậm ṿi đu đủ

Trợn mắt

Phùng mang

Thổi vào rốn cấp trên

“Dạ, dạ, thưa anh…

Dạ, dạ, em, em…”

Găi cổ

Găi tai:

"… anh quên ngủ

quên ăn

nhiều quá!

 

Anh v́ nước

v́ dân

hơn tất cả

từ trước đến nay"

 

Chân xoa

và xoa tay,

Hít thượng cấp

cứ thơm

như múi mít

 

Gọi như thế là

phê b́nh cấp trên

kịch liệt

Gặp cấp trên chủ quan

Mũi như chim vỗ cánh

Bụng phềnh như trống làng:

Thấy ḿnh

đạo đức

tài năng

hơn tất.

 

Như thế là chết rồi:

Quân nịnh

tha hồ lên cấp

Như con ǵ nhà gác lên thang

C̣n muốn lên thủ trưởng cơ quan

C̣n đi đây

đi đó

Lưỡi và lưng

Lắm thằng gian khổ

Chúng nó ở đâu:

Thối thóc thuế

Mục kho hàng

Phong trào suy sụp

 

Nhân dân mất cắp

đang giữa ban ngày

To cánh và to vây

 

Những ai

không

nịnh hót

Đi, mang cao

liêm sỉ con người

Chúng gieo hoạ, gieo tai

Kiểm thảo

hạ tằng

… C̣n quy là phản động!

Có người

đă chết oan

v́ chúng

Vẫn thiết tha yêu chế độ

đến hơi thở cuối cùng.

 

Nguy hiểm thay,

Thật khó mà trông:

Chúng nó nguỵ trang

Bằng tổ chức

bằng quan điểm nhân dân

bằng lập trường

chính sách

 

Chúng nó

c̣n thằng nào

Là chế độ ta

chưa sạch

Phải làm tổng vệ sinh

cho kỳ hết

mọi thằng

 

Những người

đă đánh bại

xâm lăng

 

Đỏ bừng mặt

v́ những tên

quốc sỉ

Ngay giữa những thời nô lệ

Là người, chúng ta

không ai biết

cúi đầu.

 

9-1956

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu tập II)

 

 

*

 

 

Lộn ṣng

 

Hôm nay Tuất nhất định làm cho xong hồ sơ để đưa lên ty giáo dục. Hắn cho là sở dĩ hắn bị biên chế ra khỏi trung đoàn cũng chỉ v́ bản hồ sơ đă làm thật thà quá. Rút kinh nghiệm lần này hắn sẽ làm một tập hồ sơ có thể gọi là căn bản, có tính chất định đoạt đến địa vị công tác của hắn. Không phải măi hôm nay khi cầm bút làm hắn mới nghĩ như vậy mà ngay từ khi mới bước chân vào trường hắn đă bận tâm đến việc này rất nhiều.

 

Nhưng hôm nay đầu óc hắn căng thẳng như tất cả những cái căng thẳng hàng ngày trong gần một tháng nay cộng lại. Hắn biết là hắn sẽ làm một việc nói dối rất đê tiện đối với một đảng viên, nhưng hắn thấy rằng hắn cũng chỉ nói dối một phần nào chứ không hoàn toàn nói dối hẳn. Về tờ khai danh dự tŕnh độ văn hoá hắn sẽ khai là đă học đệ nhất chuyên khoa. Khai là đâu đít-lôm th́ lộ quá mà khai là mới học đệ tứ th́ không oai. Về thành phần xuất thân hắn sẽ khai là công nhân. Hồi ở Đà Lạt hắn chẳng làm công nhân nhà máy gạch là ǵ. Một điểm nữa trong bản lư lịch cũng rất quan trọng là những công tác đă qua. Nếu anh kể toàn những công tác ở những cấp cao th́ anh sẽ bị coi là một người thiếu công tác cơ sở, một người mất gốc và sẽ bị coi như là một người chưa vững về lập trường giai cấp. Nghĩ như thế nên hắn sẽ khai là sau cách mạng hắn làm chủ nhiệm Việt Minh xă.

 

Suy nghĩ đâu vào đấy cả, chỉ c̣n một việc viết vào giấy mà vẫn thấy khó quá. Những câu văn nó cứ lôi thôi không gọn một tí nào. Hắn viết viết xoá xoá hai ba lần. Bỗng nhiên hắn nghĩ đến chữ kư của hắn chưa được oai, thế là hắn xoay ra kư. Hắn kư đầy hàng trang giấy, cũng chưa t́m được một kiểu nào thật là vừa ư. Kư chán đến vẽ. Hắn vẽ những h́nh vuông, những h́nh tam giác béo, gầy, đủ kiểu đủ cỡ, những cặp môi, những đôi mắt của thiếu nữ đă gặp. Vẽ xong hắn lại viết những chữ q, chữ l, chữ c hoa quấn quít quanh chữ t hoa. Khi đă đầy một trang giấy lớn hắn lấy bút xoá đi xoá lại rất kỹ nhất là những h́nh tam giác và những cặp chữ hoa giao nhau. Xoá xong hắn úp tờ giấy xuống bàn xoa xoa và tiếp tục lại kư tên lên mặt c̣n trắng. Lần này hắn viết: “Bí thư chi bộ trường cấp II N.S.” hoặc “Hiệu trưởng trường cấp II N.S.” hay là “Bí thư kiêm hiệu trưởng…” rồi kư tên hắn xuống dưới. Hắn cố ư ngoặc chữ l sau cùng thành h́nh búa liềm và thay dấu ớ bằng h́nh sao năm cánh. Hắn ngắm đi ngắm lại và thấy rất hài ḷng. Hắn nghĩ có lẽ măi măi hắn sẽ giữ kiểu chữ kư rất có lập trường này. Hắn kư tiếp cho quen tay khi kín hết trang giấy hắn lại xoá rất kỹ nhất là những chữ “bí thư”, “hiệu trưởng” và “bí thư kiêm hiệu trưởng”.

 

Tuất có giờ Việt buổi chiều ở lớp V. Họp ở huyện xong hắn đi thẳng về trường. Trên đường đi hắn vẫn c̣n nghĩ chuyện họp với huyện uỷ và hắn rút ra một kinh nghiệm là từ nay dù có viết báo cáo hẳn hoi hắn cũng phải trực tiếp với huyện uỷ th́ bao giờ cũng hơn. Hôm nay nếu không có hắn giải thích từng điểm một, giải thích từng thắc mắc cho huyện uỷ bằng những hiện tượng cụ thể th́ huyện uỷ c̣n mất cảnh giác, chưa chịu thấy rằng tất cả các giáo viên trong nhà trường đều có vấn đề cần phải theo dơi. Này nhé! Thân là bí thư kiêm hiệu trưởng là con địa chủ. Lâu là công an ở khu Hà Nội về nghỉ dài hạn. Chung là học sinh lục quân cũng được nghỉ v́ thiếu sức khoẻ. Quang th́ vẫn thư từ gửi đi gửi về với gia đ́nh trong vùng địch và vẫn nhận đồng hồ, bút máy cả xe đạp cha mẹ gửi ra…

 

Giấy tờ hợp pháp, những giáo viên đó đều có cả, nhưng giấy tờ th́ khó ǵ mà không bịa ra được. Lư do th́ lại càng dễ bịa hơn…

 

Sau việc báo cáo này, hắn thấy huyện uỷ tin hắn hơn. Hắn sẽ làm cho huyện uỷ tin hắn hơn nữa. Trước kia hắn vẫn thành kiến với trường tư v́ hắn thấy khó “tiến bộ” lắm, v́ chưa có việc nên hắn phải làm tạm. Phải làm công tác quần chúng. Nếu được làm công tác Cải cách ruộng đất th́ dễ “tiến bộ” nhất. Nhưng hôm nay hắn cảm thấy là nhất định hắn có cơ làm ăn được. Không ǵ hắn cũng có thể gây được cơ sở để làm đà vọt cho công tác của hắn sau này. Và hắn rút ra một định lư: “Dù ở đâu hễ khéo th́ vẫn cứ làm ăn được”. Và ở đây hắn định sẽ làm ăn to…

 

Khi hắn đến trường, kẻng cũng vừa đánh. Học sinh vào lớp c̣n đang lôn xộn, ồn ào th́ hắn đến. Hắn đi vào bàn đứng thẳng lừ mắt nh́n xuống toàn lớp. Học sinh bàn th́ đứng lên bàn th́ c̣n ngồi, có những chú đang thụi nhau tranh chỗ ngồi, giằng nhau sách vở.

 

Hắn cho là học sinh khinh hắn. Hắn đỏ mắt lên quát:

 

“Đứng lên! Học sinh ǵ đồ thiếu giáo dục.”

 

Vẫn c̣n những bộ phận lộn xộn. Hắn càng gào to:

 

“Đứng lên! Đồ mất dạy!”

 

Tiếng hắn như một nhát dao chém đứt mọi sự tranh chấp. Cả lớp đứng phắt dậy.

 

Hắn hỏi:

 

“Các thầy khác vào các chú có đứng dậy không?”

 

“Thưa có!”

 

Hắn càng tức:

 

“Sao tôi vào không đứng?”

 

“Thưa anh em chúng con không biết!”

 

Câu trả lời làm cho hắn dịu hẳn đi. Anh em giở vở ra chờ đợi.

 

Hắn hỏi anh em:

 

"Hôm trước tôi bận đi họp với huyện, giờ Việt ai dạy thay?"

 

"Thầy Quang ạ!"

 

"Thầy Quang dạy có dễ hiểu không?"

 

"Thưa dễ hiểu lắm ạ!"

 

Hắn lại thấy bực ḿnh.

 

"Tôi dạy có dễ hiểu không?"

 

"Bẩm dễ ạ."

 

Hắn thấy thoả thuê trong người nhưng c̣n muốn biết hơn:

 

"Tôi và ông Quang ai dạy dễ hiểu hơn?"

 

"Bẩm ông Quang dạy dễ hiểu hơn."

 

Hắn gắt rinh:

 

"Làm sao lại như thế?"

 

Một học sinh đứng lên:

 

"Thưa thầy dạy từ đầu đến giờ ba bài rồi, con chả hiểu ǵ cả."

 

Hắn lại gắt:

 

"Sao lại không hiểu, c̣n thiếu bổ óc chú ra mà nhét chữ vào nữa à? Hở?"

 

Hắn lấy sổ tay ra ghi:

 

"Tên chú là ǵ?"

 

"Là Hiếu ạ."

 

"Ở đâu?"

 

"Thưa ở xă Xuân Hoà!"

 

Trong lớp x́ xào lo lắng.

 

Anh học sinh tái mặt:

 

"Thưa thầy, thầy dạy cao quá, tŕnh độ con chưa hiểu được!"

 

Hắn bảo chú học sinh:

 

"Cho chú ngồi xuống."

 

Và dơng dạc:

 

"Dạy mà học sinh dễ hiểu chưa chắc đă là giỏi, đă là đúng. Có khi v́ hiểu biết nhiều nên dạy cao hơn, học sinh kém quá chưa hiểu nổi. Chú Hiếu khi năy nói có đúng. Có những ông giáo gặp được đôi bài dễ hoặc đă học được ở đâu rồi th́ dạy khá. C̣n phải chờ những bài khác. Lại có khi dạy dễ hiểu nhưng mất lập trường. Như thế lại càng tai hại cho học sinh…"

 

Nói chán chê, hắn bắt học sinh đem bài cũ ra, rồi câu nào ông Quang đă dạy hắn đều đem bẻ lại từng câu, từng chữ.

 

Đến chỗ ông Quang giải thích chữ “Huân chương quân công” hắn không giải thích lại nhưng hắn nhất định quân công là sai, phải là quận công mới đúng.

 

Khi ra về học sinh căi nhau suốt dọc đường về hai chữ này:

 

“Quân công đúng!”

 

“Quận công là cái đếch ǵ.”

 

“Thầy Tuất đúng.”

 

“Thầy Quang đúng.”

 

Có chú dẫn chứng cụ thể:

 

“Có lẽ thầy Tuất đúng v́ làng tớ có đền thờ quan quận công đấy!”

 

Một chú khác góp ư:

 

“Thầy Tuất không giỏi sao chuyện ǵ tỉnh huyện cũng giao cho thầy Tuất. Khai giảng, sơ kết thi đua, sơ kết học tập, đều là thầy Tuất. Các thầy khác chả thấy làm được việc ǵ.”

 

Những chú khác căi lại:

 

“Đậu tú tài lại không hơn mới học đệ nhị à?”

 

“Giỏi mà dạy lung tung chả ai hiểu cái ǵ!”

 

Học sinh về hết th́ bốn học sinh Cẩn, Thanh, Cúc, Lai lại gặp Tuất ngay ở lớp. Buổi tối có cuộc họp bất thường do Tuất triệu tập. Đúng nguyên tắc ra th́ bất cứ cuộc họp nào cũng phải thông qua chi bộ. Nhưng Tuất lấy tư cách là chi uỷ viên phụ trách hiệu đoàn, tự ư triệu tập một số anh em thân tín để làm một việc mà hắn cho là có tính chất “cách mạng” trong nhà trường có tính chất “ăn to”. Hắn kéo bốn anh em chị em vào trụ sở hiệu đoàn trong xóm.

 

Hắn hỏi han như lo lắng đến anh em lắm:

 

“Ăn uống ǵ chưa?”

 

“Chưa.”

 

“Tôi cũng chưa, họp xong ta ra chợ ăn cũng được chứ?”

 

Bắt đầu họp hắn tuyên bố:

 

“Trước khi vào vấn đề, tôi muốn nêu lên hoàn cảnh của anh Thanh và anh Cẩn. Hai anh là hai học sinh khá trong trường nhưng cả hai đều là bần cố nông. Ngày nào hai chú cũng phải đi cắt bổi hoặc vào rừng lấy củi bán, buổi sáng để có thể ăn đi học buổi chiều”, và hắn hỏi:

 

“Chúng ta nghĩ sao?”

 

Như sợ có người trả lời mất nên vừa nói xong hắn nói luôn:

 

“Theo tôi th́ nên trích quỹ nhà trường ra phụ cấp cho hai chú đủ ăn, c̣n hai chú th́ từ mai phải lên đây làm việc cho hiệu đoàn. Việc này tôi sẽ chịu trách nhiệm đưa ra chi bộ và hứa là thế nào cũng xong. Ta phải đề cao t́nh yêu giai cấp chúng ta.”

 

Cúc và Lai đều lấy làm kính phục lập trường cao độ của Tuất và thấy tràn trề trong ḷng một thứ t́nh cảm giống như là ái t́nh.

 

Cẩn và Thanh đều rơm rớm nước mắt.

 

Hắn hỏi mọi người:

 

“Anh chị em thấy thế nào?”

 

Cúc và Lai đồng thanh:

 

“Đồng ư nhất rồi c̣n ǵ!”

 

Cẩn và Thanh nghẹn ngào:

 

“Theo ư chúng em th́ không nên. Làm như thế sợ anh em nói cho.”

 

Tuất gạt đi:

 

“Các chú gàn lắm. Có tôi, không lo. Vả lại nhà trường có chế độ học bổng. Có thể coi đó là học bổng thôi.”

 

Hắn nói sang cuộc họp:

 

“Việc chính hôm nay là việc này…”

 

“Việc ǵ đấy anh?”

 

“Bây giờ các anh em làm thế nào thu thập hộ cho những sổ sách ghi danh học sinh của toàn trường ta hai năm trước đây.”

 

“Dễ lắm, cứ lấy ở anh Thân là đủ cả. Anh Thân vừa bí thư vừa hiệu trưởng…”

 

Tuất lắc đầu:

 

“Không được, nhất thiết không được lấy, không nên lấy ở anh Thân.”

 

Anh em không ai hiểu ǵ.

 

Hắn tiếp:

 

“Cần lấy cả sổ sách thu học phí của quản trị nữa.”

 

Thanh phát biểu:

 

“Cái này hơi khó. V́ trong hai năm trước đây nhà trường thay đổi đến 4 người quản trị.”

 

Tuất giơ tay xua xua:

 

“Không khó ǵ hết. Chỉ việc phân công nhau ra đến nhà từng người chơi hay là giả có công việc ǵ đó tuỳ cá nhân phát triển sáng kiến.”

 

Hắn sực nhớ lại:

 

“À quên, c̣n việc này quan trọng nữa, nghĩa là cần ăn cắp cho được những sổ tay của những anh quản trị nữa…”

 

Anh em hơi ṭ ṃ muốn hỏi rơ.

 

Hắn bảo:

 

“Cứ làm đi, sau sẽ biết.”

 

Hắn nhấn mạnh:

 

“Cần nhất là phải giữ bí mật! Không thể nào cho một người thứ 6 biết được.”

 

Xong đó 5 người quay vào bàn kế hoạch và phân công phụ trách, vạch chương tŕnh làm việc, vạch thời khoá biểu và địa điểm để gặp nhau hội ư. Muốn giữ bí mật triệt để, địa điểm không định trước, cứ xong cuộc này sẽ định chỗ họp cuộc khác trong huyện. Thời hạn là trong hai tháng phải làm xong, vừa đi học vừa tranh thủ làm.

 

Tan hội nghị đă muộn lắm. Cẩn và Thanh ở gần ra về. Tuất Cúc và Lai ngủ lại trụ sở. Tuất ngủ giường bên này, Cúc và Lai ngủ giường bên kia.

 

Hai bên nằm nói chuyện chơ sang nhau.

 

Đầu tiên là chuyện t́nh duyên.

 

Hai cô kể trước.

 

Cô nào cũng kể là ḿnh rất đào hoa, hồi làm cán bộ phụ nữ tỉnh, anh nào cũng để ư chết mệt, nhưng hai cô th́ cứ phớt lạnh. Các cậu đâm tuyệt vọng người th́ xin đi công tác B́nh Trị Thiên, người th́ vào bộ đội, người xung phong đi Việt Bắc.

 

Cúc hỏi Tuất:

 

“Anh Tuất có biết Vinh không nhỉ? Vinh ở địch vận ấy mà?”

 

Giọng Cúc như mến tiếc:

 

“Ba năm rồi!”

 

Lai cũng hỏi Tuất:

 

“Anh Tuất có biết Dũng ở tỉnh đội không nhỉ? Dũng cao cao da thật trắng ấy?”

 

Câu chuyện t́nh duyên làm hắn nghĩ tới đời riêng hắn. Suốt mấy năm trong bộ đội, nhất là trong phong trào nhận đỡ đầu bộ đội, anh em được các mẹ nuôi xây dựng gia đ́nh cho rất nhiều. C̣n về hắn th́ ngay cô Chén, con gái bà mẹ đỡ đầu hắn cũng nhất định không chịu lấy hắn mà chỉ nhoen nhoẻn cái mồm nhận là em gái. Rơ thật là sốt ruột. Nhiều người cho là hắn “khô” lắm. Nhưng thật ra hắn chả khô chút nào. Hàng đêm, hàng ngày không mấy lúc là hắn không nghĩ đến chuyện đàn bà. Chỉ có ngoài mặt là hắn hay làm ra vẻ tinh thần cao. Ai hỏi hắn sao không lấy vợ th́ hắn bảo: “Độc lập xong! Cả toàn dân đang kháng chiến, ḿnh nghĩ đến chuyện riêng sao đang!” Và khi hắn làm tổ trưởng ở đơn vị vô phúc có cậu nào xin phép về hỏi hay là cưới vợ, nhất định hắn không cho. Trong cuộc họp hắn c̣n quy cho một cô là “thiếu chịu đựng trường kỳ gian khổ”, “cầu an hưởng lạc”. Nhưng khi bị biến chế trong thâm tâm hắn cũng có phần vui là hắn sẽ có dịp về nhà lấy vợ mà không bị ai quy ǵ cho hắn như hắn đă quy cho người khác. Lúc mới vào dạy, hắn định sẽ kiếm một nữ sinh nào trong nhà trường có đủ những điều kiện tối thiểu là đẹp, có văn hoá lại tự túc được th́ hắn sẽ xây dựng. Nhưng từ khi về trông ngong ngóng hàng ngày cũng chả thêm được cô nào khác ngoài Cúc và Lai. Hai cô này phải cái vừa lùn vừa xấu. Được cái hai cô đều con phú nông có ruộng và ḅ riêng cả. Lấy hai cô này th́ tha hồ mà đi công tác. Lại có hy vọng thỉnh thoảng được tiếp tế tiền, đồng hồ hoặc bút máy. Hắn cũng nghĩ đến cả cô Quư, cô Quyền trong xóm, Quư th́ đẹp nhưng lại đă có một đời chồng, không lẽ trai tân lại lấy thừa. Quyền c̣n con gái, có gánh hàng xén nhỏ nhưng lại kém văn hoá…

 

Hắn nghĩ liên miên.

 

Cúc hỏi hắn:

 

"C̣n anh Tuất từ trước giờ đă có đám nào chưa?"

 

Hắn cũng kể cho hai cô nghe chuyện t́nh duyên của hắn. Đại để giống như chuyện hai cô. Nghĩa là hắn đi đến đâu tất cả con gái đều chú mục đều ve văn hắn. Có cô tán hắn sát sạt nhưng hắn cũng phớt đều.

 

Hắn nhỏm dậy, đánh diêm đốt đèn đưa bức thư của Chén cho hai cô xem. Hai cô ṭ ṃ xúm vào đọc: “… Khi nào đi công tác, mời anh ghé vào chơi, mẹ em và em mong anh lắm…”

 

Khi hai cô đọc xong hắn chậm răi:

 

"Chén mới mười chín tuổi, xinh và ngoan lắm, một hai xây dựng với ḿnh, nhưng phải cai xa quá. Măi phủ Thiệu!…"

 

Sau chuyện t́nh duyên họ chuyển sang chuyện các giáo viên. Hắn hay nhờ hai cô này đi lấy t́nh h́nh giáo viên qua miệng gần 300 học sinh trong nhà trường. Tất cả những chuyện đời tư của mấy ông giáo hắn đều rơ hết. Đến chỗ nào hắn cho là có vấn đề hắn lại vùng dậy đốt đèn ghi vào sổ tay…

 

Quá nửa đêm lâu, ba người mới đi ngủ. Người nào ngáy cũng to, cũng đều nhưng không ai ngủ cả. Tuất đưa tay rờ hai bên giường. Thấy rộng quá và lạnh quá. Bỗng hắn nhớ một hôm hội nghị ở xóm Quyết Thắng, trời bức, Lai xắn quần để ra một cái đùi rất to và rất trắng. Thể khối và mầu trắng của chiếc đùi ám ảnh hắn suốt đêm. Mấy lần hắn định dậy làm một chuyện thật thà với hắn trong đêm nhưng rồi lại thôi. Sáng mai thức dậy người hắn nhọc phờ.

 

Hắn tự chửi là đồ ngu. Nhưng rồi lại tự an ủi:

 

"C̣n chán dịp!"

 

Chiều thứ bảy nào Tuất cũng bắt các giáo viên tự phê. Lần này không khí có vẻ găng nhất. Suưt nữa xẩy ra đánh nhau. Khi tan họp ra về, các giáo viên ông nào ông nấy c̣n tức sôi sùng sục và tiếp tục trao đổi như căi nhau trên đường về:

 

"Dạy mà ức như thế này th́ thôi mẹ nó đi c̣n hơn!"

 

"Từ hồi nó về cái nhà trường này thật là bét như tương."

 

"Kiểm thảo ǵ mà lắm kiểm thảo với! Thà là kiểm thảo về chuyên môn, về tác phong giáo viên đối với học sinh nó lại đi một lẽ, chuyện gia đ́nh người ta, chuyện bếp núc của từng người từ đời cố kiếp cũng móc máy ra để kiểm thảo. Vợ chồng người ta chửi nhau, vợ chồng người ta ly dị, người ta to tiếng với bố vợ th́ động kệ ǵ đến nó."

 

"Bà mẹ tao không cho đồng bào tản cư mượn thùng gánh nước chính tao cũng không biết mà sao nó biết. Kiểm thảo tao th́ kiểm cái ǵ?"

 

"Chuyện riêng của tao hắn đem đi nói xuyên tạc giữa anh em học sinh, hôm nay tao tha giă cho là may!"

 

"Thằng ấy chuyên môn nói xấu anh em để đề cao nó."

 

"Bất cứ lúc nào có thể tự đề cao được, nó đều không bỏ qua."

 

Một người lên tiếng:

 

“A! A! Để tao kể chuyện thằng Tuất tự đề cao! Chúng mày nhớ hôm hắn phụ trách đem học sinh lớp bẩy chuyển thóc thuế lên xă Quyết Thắng đấy chứ.”

 

"Nhớ! Nhớ! Thế nào?"

 

“Tuất về nói rầm nhà rầm xóm là tỉnh và huyện chỉ định hắn chỉ huy nhà trường đi dân công. Thế là cả gia đ́nh hắn cứ tíu tít cả lên làm cơm rượu mời anh em trong xóm đến dự để cho hắn lên đường đi phục vụ.”

 

Họ nhảy lên cười ha hả:

 

"Trời ơi là trời! Đi bẩy cây số mà cũng tiễn với chả tiễn chân!"

 

“Ăn xong hắn đội mũ, lên ba-lô bắt tay mọi người. Ai cũng chúc hắn đi cho ‘chân cứng đá mềm’. Mẹ hắn nh́n theo rơm rớm nước mắt”.

 

Họ lại cười rú lên:

 

"Đúng rồi! Đúng rồi! Hồi ấy hắn trọ lại nửa tháng thật! Ḿnh lại cứ tưởng…"

 

"À ra thế! Kể cũng lắm công đấy chứ!"

 

Họ kể cả những chuyện hắn dạy dốt quân công thành quận công; đến chuyện hắn bê nguyên văn sử Trần Trọng Kim ra dạy: đến chuyện hắn đi hỏi mỗi người một ít để về soạn những bài sử không có sẵn trong sách Trần Trọng Kim.

 

Họ biết cả những chuyện hắn khai gian lư lịch: học đệ nhị khai là tú tài hỏng; làm nhà máy gạch có hai ngày phỏng tay không chịu được phải xin ra khai là thành phần công nhân; mẹ lấy tiền địa chủ về buôn nợ giầu sụ th́ khai là buôn thúng bán mẹt…

 

"Thằng ấy vừa ngu vừa khốn nạn. Hắn khéo ton hót với huyện uỷ đến nỗi, huyện chỉ nghe hắn. Thằng Thân đấu tranh rất nhiều với huyện nhưng cũng chưa đâu vào đâu."

 

"Phải cái Thân liên quan nên nói huyện nào tin."

 

Họ chạy từ chuyện Tuất sang chuyện Cúc và Lai:

 

"Lại c̣n hai cái con trời đánh Cúc và Lai nữa! Hai đứa tính t́nh giống thằng Tuất cứ như đổ khuôn, cứ hơi tư là lập trường tư tưởng là lập trường giai cấp. Tất cả mọi chuyện đều do cái bộ ba ấy phát ra hết."

 

Một ư kiến đề nghị:

 

"Phải cho thằng Tuất lấy một trong hai đứa ấy!"

 

"Ấy một hôm thằng Tuất nó hỏi tao: ‘Giữa Cúc và Lai theo cậu th́ ai hơn?’...”

 

Cẩn, Thanh, Cúc, Lai, dưới sự lănh đạo của Tuất làm việc và họp hành liên miên. Sau hai tháng, Tuất đưa vấn đề ra trước toàn thể chi bộ. Hắn lấy làm măn nguyện kết quả đă thu được và trước khi vào họp hắn đă tuyên bố với anh em chắc ńnh nịch như đinh đóng cột: “chuyến này, ngoài chuyện phải đền hai triệu rưỡi cho nhà trường, Thân c̣n phải tù là đằng khác”. Câu chuyện nổ như quả bom. Anh em ai nghe cũng hoảng. Từ trước, chưa ai hề nghĩ rằng trong nhà trường lại có thể có một vụ án lớn đến như vậy.

 

Ai nấy đều chờ đợi chưa hiểu đầu đuôi ra sao. Thân lại càng hoang mang.

 

Bắt đầu Tuất đưa ra hai điểm:

 

Điểm thứ nhất là suốt trong hai năm, Thân hoặc v́ đi dạy muộn, hoặc về trước giờ, hoăc bỏ giờ không dạy (v́ Thân đau dạ dầy nặng, ốm luôn, nhất là về mùa rét) trung b́nh mỗi ngày bỏ một tiếng, một tháng 24 tiếng, một năm 210 tiếng, hai năm 480 tiếng. Mỗi giờ dạy, học sinh phải trả cho một lô gạo. Như thế là trong hai năm 480 lô gạo học sinh phải trả không cho Thân.

 

Điểm thứ hai là Thân khi cần tiền tiêu vẫn lấy quỹ nhà trường tiêu hàng tháng, khi nào lĩnh lương mới trả lại.

 

Tuất để hội nghị góp ư kiến đưa thêm hiện tượng rồi dơng dạc sơ kết:

 

"Hai hiện tượng này chứng tỏ là đồng chí Thân đă tham ô của học sinh, của quỹ nhà trường, nói chung là đă tham ô."

 

Hắn hất hàm hỏi Thân:

 

"Đồng chí Thân nghĩ thế nào?"

 

Anh Thân đứng lên nhận là đúng.

 

Tuất nêu lên điểm thứ ba mà hắn cho là mấu chốt của vấn đề. Hắn dẫn chứng tổng số học sinh trong hai năm, số tiền học phí là bao nhiêu, tiền chi tiêu hết bao nhiêu, c̣n lại bao nhiêu và tuyên bố:

 

"Số học sinh là thế, thu là thế, chi là thế, vậy th́ v́ lẽ ǵ mà quỹ hụt hai triệu rưỡi? Hai triệu rưỡi đi đâu?"

 

Sau khi anh em thảo luận, Thân phát biểu:

 

"Đồng chí Tuất mới dạy trường tư lần đầu, đồng chí chưa hiểu một số quy luật của nó. Đồng chí không biết rằng mới khai giảng học sinh bao giờ cũng đông nhưng càng ngày càng ít đi, cuối niên khoá có lớp không c̣n học sinh nào; đồng chỉ tưởng cứ có bao nhiêu học sinh là cả bấy nhiêu đều đóng tiền ṣng phẳng."

 

Tuất cắt ngang:

 

"Hai điểm trên đồng chí đă nhận là tham ô, không một lư do ǵ điểm thứ ba đồng chí lại không nhận."

 

Cúc và Lai đều phụ hoạ ư kiến của Tuất.

 

Thân cười khẩy:

 

"Không có một luật lệ nào lại bắt rằng cứ hễ nhận 2 điểm trên là phải nhận điểm dưới."

 

Tuất văng tục.

 

"Tôi khinh hẳn đồng chí. Tôi muốn nhổ vào mặt đồng chí. Bao nhiêu anh em làm việc suốt hai tháng nay, lấy tài liệu đă đủ, không lư là đa số sai mà một ḿnh đồng chí lại đúng."

 

Thân vẫn cười khẩy:

 

"Thường thường đa số đúng, nhưng cũng không phải là đa số lúc nào cũng đúng."

 

Hắn đuối lư:

 

"Hai điểm trên đă nhận th́ điểm thứ 3 phải nhận. Không phải một ḿnh tôi. Đồng chí Cúc và Lai cũng đồng ư như tôi."

 

Hắn lừ mắt nh́n mọi người, nhất là Cẩn và Thanh.

 

Hắn như mở cờ trong ruột khi Cẩn giơ tay nói:

 

"Trong 2 tháng, anh Tuất bảo em với anh Thanh thu thập tài liệu về vụ này, nhưng em thấy đồng chí Thân nói đúng. Nói ǵ ai, ngay như em mà 4 tháng nay chưa đóng học phí."

 

Tuất ức lên đến cổ.

 

Thanh giơ tay xin nói. Tuất nóng ḷng chờ đợi.

 

Nhưng Thanh chỉ nói vẻn vẹn:

 

“Em cũng đồng ư với đồng chí Cẩn.”

 

Tuất như muốn ứa máu mồm. Thân th́ thấy rằng ở đời cũng c̣n nhiều người tốt.

 

Hội nghị bàn căi xôn xao, rất lâu. Sau cùng phía Tuất vẫn là thiểu số. Hắn rất bất b́nh nhưng khi đề ra kỷ luật: “đồng chí Thân thấy ḿnh đă phạm hai khuyết điểm trên đề nghị hạ tầng từ bí thư xuống đồng chí thường” th́ hắn đă thoả măn v́ như thế là cái điểm căn bản hắn đă đạt được. Dù sao hắn thấy c̣n cần tranh đấu để đưa vụ này ra công khai tuyên bố cho toàn thể học sinh biết. Và hắn đề nghị như thế.

 

Huyện uỷ tạm chỉ định Tuất làm bí thư chi bộ. Công việc đầu tiên của hắn, sau khi nhận chức này là bỏ phụ cấp của Cẩn và Thanh. Hai anh phải thôi học. Một thời gian ngắn sau hắn lại được điều đi Cải cách ruộng đất. Hắn cảm thấy rằng số hắn toàn gặp thời. Nguyện vọng của hắn là được đi Cải cách ruộng đất, một công tác quan trọng số một, chỉ có ở đó mới dễ lên cấp, lên chức. Hắn chắc thế nào cũng làm ăn được to hơn. Và hắn thấy trong thời gian ở trường hắn đă chuẩn bị khá tốt cho công tác sắp tới. Nay mai hắn sẽ thêm vào lư lịch hắn, chỗ cột công tác đă qua, công tác bí thư C.B., một công tác cơ sở giá trị vào bậc nhất. Hắn chỉ c̣n mỗi một điều hận là thời gian ở trường hắn chưa xây dựng được gia đ́nh. Nhưng hắn có một ư nghĩ đúng lập trường. “Sau Cải cách ruộng đất vàng thau không c̣n lẫn lộn. Khối chị em bần cố. Nhất định thế nào cũng xong”.

 

Trước khi đi hắn lên chào huyện uỷ và nhấn mạnh với huyện uỷ nên đặc biết chú ư theo dơi các giáo viên; đề cao cảnh giác.

 

Hắn nói:

 

“Tôi chắc chắn thế nào bọn chúng cũng là một tổ địch. Đấy rồi các đồng chí xem. Tôi mà c̣n ở nhà một thời gian nữa th́ thế nào cũng ra chuyện.”

 

(Trích Giai phẩm mùa Đông 1956)

 

 

*

 

 

Sĩ Ngọc

 

Sĩ Ngọc họ Nguyễn, năm nay chừng 43 tuổi, là một hoạ sĩ tốt nghiệp ở trường Mỹ thuật Hà Nội. Ông nổi tiếng về món vẽ chân dung phụ nữ trên lụa. Hồi c̣n là sinh viện, ông kết duyên với một cô bạn đồng học người I-Pha-Nho, có quốc tịch Pháp, yêu nhau v́ nết, trọng nhau v́ tài, nhưng hồi đó chính quyền Pháp ở Đông Dương không công nhận cuộc hôn nhân Việt-Pháp đó và hết sức cản trở, nên cuộc t́nh duyên bị đứt đoạn.

 

Năm 1956 ông tản cư về Thanh Hoá, tham gia kháng chiến trong bộ đội của tướng Nguyễn Sơn, và sau khi Nguyễn Sơn mất chức, ông lui về quây quần với các anh em văn nghệ khác ở làng Quần Tín và năm 1952 ông bị triệu lên Việt Bắc.

 

Sĩ Ngọc là một hoạ sĩ có những nét hoạ rất sắc, và khi ông vẽ ai th́ ông díu đôi mắt lại, méo hẳn mặt nh́n người đó như thôi miên để gột cho hết tinh thần. Điều đó chứng tỏ ông có khả năng tập trung nhận xét đến cao độ. Trong những bài văn ông viết, chúng ta cũng nhận thấy cái thuật ấy và nét bút sắc cạnh mà ông dùng trong hoạ cũng như trong bút chiến.

 

Bài đầu tiên ông viết là bài ông đả kích Trường Chinh và chê ông này dốt mà dám phê b́nh về hội hoạ đăng trong tạp chí Sáng tạo số 4 xuất bản năm 1951 ở Liên khu IV.

 

Hiện nay ông bị xếp vào hạng phản động đầu sỏ và tất nhiên phải đi công trường. Chúng tôi giới thiệu ông bằng hai bài trích sau đây để các bạn đọc thưởng thức cái giọng văn bút chiến của ông.

 

 

*

 

 

Làm cho hoa nở bốn mùa

 

… Tác phẩm nghệ thuật là hoa, nghệ sĩ là người trồng hoa, chế độ là đất.

 

Nhưng không phải có đất rồi là ra lệnh cho hoa nở. Đất phải đập cho nhỏ, phân cho tốt, mưa nắng đều hoà, chọn giống tốt và ươm cho khéo. Phải có bàn tay của người trồng hoa có nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật điêu luyện. Phải để cho người trồng hoa ươm hoa cho nở nhiều lên rồi hăy chọn. Đừng bẫm hoa ngay từ khi chưa mọc. Đừng chỉ thích hoa này hoa nọ. Đừng bắt người giồng hoa uốn cành, bẻ lá theo ư ḿnh. Đừng để cho hoa héo sau khi đă nở. Đừng để các người giồng hoa đói, rét, không có hạt giống không có cuốc xới, không có nước tưới.

 

Đừng chỉ thúc hoa nở khi cần dùng nó tức thời. Hoa phải nở bốn mùa, lúc nào cũng nở.

 

Một tác phẩm nghệ thuật chỉ có kết quả khi nào nó là kết tinh của bộ óc, trái tim của một người nghệ sĩ. Nó không thể nào tốt và nảy nở khi nó bị chỉ huy bởi một bộ óc này một trái tim khác.

 

Trước hết phải tạo cho nghệ sĩ một bộ óc và một con tim có đủ khả năng độc lập để có trách nhiệm với cuộc sống. Ít lâu nay cuộc tranh luận về văn nghệ và chính trị đă làm cho mọi người hiểu rơ vấn đề hơn. Nhưng vẫn c̣n một số người chưa thấu nổi vấn đề trách nhiệm của nghệ sĩ vẫn c̣n đem nhai lại một số lư luận mác-xít: văn nghệ phải phục vụ chính trị, văn nghệ phải có lănh đạo, phải phục vụ công nông binh v.v… Và cụ Mao đă nói, cụ Lê-nin đă nói v.v… Chả nhẽ lại nhắc tới câu điển h́nh của một nhân vật của Vũ trọng Phụng là “Biết rồi khổ lắm nói măi!”. Biết rồi từ bao năm nay những lư luận ấy, biết rồi từ bao năm nay nên hầu hết các văn nghệ sĩ mới tham gia kháng chiến, đă phục vụ công nông binh tự nguyện theo sự lănh đạo của Đảng Lao động. Đề nghị xin nói cái khác. Đề nghị xin nói về cách lănh đạo như thế nào cho văn nghệ phát triển tốt chứ không ai nói là xin thôi đừng có lănh đạo nữa. Sự đ̣i hỏi hiện nay của nghệ sĩ để có một trách nhiệm với xă hội là v́ đă có những quan niệm sai về chính trị lănh đạo văn nghệ. Một người bạn tôi có làm một bức áp-phích cho một cuộc triển lăm của một đoàn thể. Sau khi nhận được ư chỉ đạo, anh bạn bèn đem nhiệt t́nh và cảm xúc của ḿnh với phong trào của đoàn thể ấy mà làm một cái phác thảo để đem cho ban phụ trách triển lăm xem. Ban triển lăm bèn đem cho bẩy cấp thường vụ duyệt. Anh A có ư kiến thêm cái này, anh B lại bảo bỏ và thêm cái khác, anh C bảo nên đổi mầu này th́ hơn, anh Đ bảo nên vẽ theo cái ấy của Liên-xô, anh E bảo nên cho người này giơ tay cạnh người này, anh G bảo nên cho cười, anh H bảo phải thêm cương quyết. Anh bạn tôi thấy các dự kiến của ḿnh đều bị đảo lộn. Phải làm lại phác thảo theo dự kiến của nhiều người khác. Làm như thế đến ba lần, đến khi phác thảo hoàn toàn minh hoạ cho ba bẩy hai mươi mốt lần ư kiến khác nhau kia. C̣n dự kiến của hoạ sĩ th́ hết sạch. Anh bạn thấy bực ḿnh lắm định không làm nữa nhưng v́ muốn phục vụ th́ ít mà vợ con túng thiếu th́ nhiều nên phải làm vậy. Ấy, đại thể cái lôi thôi của việc liên quan giữa chính trị và văn nghệ như thế. Đừng ai nói nữa rằng đó là chuyện tham gia ư kiến cá nhân mà thôi. Không, ư kiến ấy không hề tuyên bố là bắt buộc nhưng không làm theo th́ khó mà làm nổi. Tôi đă phải thôi một số tranh đặt v́ tôi không làm theo được thế nên người ta phải t́m người khác dễ bảo hơn. Những chuyện như vậy là nhiều lắm, thành tác phong phổ biến của cái mệnh danh là chính trị lănh đạo văn nghệ. Nhưng thực ra chỉ là phải theo kiến thức chính trị có hạn định và ư thích chủ quan của một số cán bộ chính trị. Ở gần trung ương c̣n nhẹ, chứ ở các địa phương, c̣n lôi thôi hơn khi mà nghệ sĩ công tác ở một cơ quan đoàn thể nếu không triệt để theo ư kiến của phụ trách, nếu muốn có phần ḿnh vào đó th́ chỉ c̣n cách ngồi kiểm thảo về ư thức tổ chức, tư tưởng tự do vô chính phủ, muốn thoát ly lănh đạo, bị ảnh hưởng nghệ thuật tư sản v.v… luôn có sẵn các loại mũ tiến bộ để bắt người nghệ sĩ phải nghe theo ư ḿnh. Đó là c̣n rây rớt tác phong lănh đạo nghệ thuật của giai cấp phong kiến khi chúng bắt nhân dân làm đền đài và tô điểm cho chúng.

 

Theo chủ quan, tôi chưa hề thấy những bạn đồng nghiệp nào của tôi có ư muốn không phục vụ chính trị, nhưng đều lên tiếng phàn nàn về sự áp chế nghệ thuật của những cán bộ phụ trách ḿnh. Những cán bộ ấy tưởng lầm một cách ngây thơ là cứ bằng lập trường và quyết tâm của họ là cái ǵ cũng xong, cũng biết, cũng lănh đạo được.

 

Muốn lănh đạo cái ǵ cần phải biết cái đó. Đó là tác phong lănh đạo cách mạng. Phải hiểu nông thôn mới lănh đạo được nông nghiệp, phải hiểu thành thị mới lănh đạo được công nghiệp, phải hiểu nghệ thuật mới lănh đạo được văn nghệ. Quan điểm “thành phần chủ nghĩa” đă làm cho một số đông tưởng lầm rằng là thành phần công nông th́ cái ǵ cũng làm được. Họ đă đánh giá sai sự giác ngộ chính trị của người nghệ sĩ và không biết thực tế của Việt Nam về nghệ thuật như thế nào?

 

Không thể cứ áp dụng măi lề lối lănh đạo nghệ thuật trong kháng chiến ở không khí kiến thiết xă hội trong hoà b́nh. Điểm thứ nhất là phải trả nghệ sĩ về cho nghệ thuật. Cần phải mạnh dạn giải phóng họ ra khỏi chế độ, công chức, ăn lương theo cấp bậc, ngày làm số giờ quy định. Cần phải giải phóng họ ra khỏi bộ máy nặng nề biến họ thành những người thư kư thạo công văn, điện văn, giải quyết các việc linh tinh, việc hủ hoá tham ô, việc lănh đạo sinh hoạt. Cần giải phóng họ ra khỏi không khí của bốn bức tường quét vôi của cơ quan, sáng cắp mũ đến sở, tối cắp mũ về. Không thể xếp th́ giờ công tác và sáng tác xé lẻ trong từng ngày, không thể mỗi năm chỉ đi sáng tác có hai tháng. Công tác của họ là ở cuộc sống, nằm giữa cuộc sống, thâm nhập cuộc sống. Không thể thỉnh thoảng mới tổ chức rầm rộ một đoàn đi nông thôn xí nghiệp, cơ xưởng v.v… có diễn văn khai mạc và tiễn biệt. Cần giải phóng họ ra khỏi đầu óc địa vị, cấp bậc quan cách của mọi thứ trưởng ban phó ban. Địa vị của họ ở tác phẩm, ở việc phụ vụ nhiều hay ít.

 

(Trích Giai phẩm mùa Đông 1956)

 

 

*

 

 

Bất măn?

 

Hiện nay đang có một dư luận không đúng về phong trào phê b́nh của báo Nhân văn cho rằng những người viết báo ấy là một nhóm bất măn.

 

Nói chung một số người có thẩm quyền trong giới lănh đạo đang cần tung ta một nhận định nhằm cô lập báo Nhân văn và những người cộng tác của báo ấy. Thậm chí cho phong trào phê b́nh của những người viết ở Nhân văn là phản ứng giai cấp (không nói rơ là giai cấp nào?).

 

Tôi là một người có cộng tác với Nhân văn v́ cho là báo này, trong một phạm vi rộng răi, đă đề cập tới những vấn đề nóng hổi của xă hội, của văn nghệ, nhất là vấn đề phê b́nh lănh đạo văn nghệ đă mở đầu sôi nổi từ đợt học tập tháng tám vừa rồi. Phê b́nh để tiến tới xây dựng một chính sách đúng, đẩy mạnh phong trào văn nghệ như ư muốn chung của quần chúng và của Đảng.

 

Theo tôi nghĩ, trong t́nh h́nh hiện tại, muốn cho uy tín của lănh đạo giữ được và tăng thêm th́ lại càng phải tự phê b́nh thành khẩn. Không nên sợ mất sĩ diện khi cái sĩ diện ấy có hại cho Đảng, đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng. Không nên (dù hữu ư hay vô t́nh cũng không nên) lẫn lộn uy tín của cá nhân lănh đạo với uy tín của Đảng. Nếu uy tín chỉ xây dựng trên sự “không dám nghe” của ḿnh và “không dám nói” của người khác th́ cái uy tín cũng nên vứt đi.

 

Uy tín của Đảng, của người cách mạng là ở chỗ biết nghe và biết sửa.

 

Một số người không hiểu như thế nên cứ t́m cách lẩn trốn sự thực, sợ những lời phê b́nh mạnh, họ t́m cách bịt miệng một số người để cho những người này lại bịt miệng một số người khác nữa... Thực mà nói, nếu những người ở Nhân văn sai, tôi chắc quần chúng bao giờ cũng có đủ sáng suốt nhận định. Họ không dễ bị lừa đâu. Ai dối họ, ai đi ngược lại với quyền lợi của họ, họ đều biết cả!

 

Làm như thế một là khinh quần chúng không biết ǵ hoặc là sợ quần chúng sáng suốt nghe những lời nói đúng sự thật. Làm như thế là không tốt.

 

Nhưng nếu các bạn cứ thấy chúng tôi không bằng ḷng cái này cái khác của thời đại mà muốn t́m một danh từ nào đề chỉ hiện tượng đó th́ chúng tôi không e ngại tiếng “bất măn” đến như nhiều người tưởng.

 

Bất măn! Tại sao không bất măn?

 

Ai thoả măn trước những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất hiện nay? Ai thoả măn với những sai lầm khác như những sai lầm trong chính sách văn nghệ và trí thức chẳng hạn?

 

Tôi dám chắc chắn rằng không phải chúng ta, những người đă tham gia cách mạng, sống chết với cách mạng, những con người của cách mạng. Chúng ta, những con người có nhiệt tâm với nhân dân với xă hội, những con người biết đau xót về những sai lầm tồn tại làm tổn hại đến việc xây dựng miền Bắc, đến công cuộc cách mạng, chúng ta không thể không bất măn với những sai lầm ấy.

 

Chúng ta, những người làm văn nghệ phục vụ cho cách mạng, luôn luôn đ̣i hỏi sự tiến tới không ngừng của xă hội, chúng ta tất nhiên phải bất măn với những lực lượng phản tiến bộ cản trở bước tiến của xă hội. Chúng ta, những người làm văn nghệ và văn hoá muốn cho chuyên môn của ngành ḿnh phát triển để phục vụ cách mạng cho tốt, tất nhiên phải bất măn với những cái sai lầm làm cho văn hoá văn nghệ đáng lẽ phải phát triển hơn nữa, th́ bị ḱm hăm. Bất măn với những cái sai lầm là chính đáng. Chỉ có kẻ nào thoả măn với cái sai kẻ ấy mới là kẻ có tội.

 

Nếu ai nói những người bất măn ấy là phản ứng giai cấp th́ hỏi giai cấp nào phản ứng trước những cái sai lầm có hại cho cách mạng? Thiệt tḥi đến nông dân, đến công nhân, đến trí thức, đến cách mạng, ai thoả măn?

 

Bất măn là chưa thoả măn với thực tế, tất nhiên không phải là muốn quyền lợi cá nhân chúng ta đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân. Chúng ta bất măn với những cái sai lầm, người sai lầm đă làm thiệt hại cho lợi ích của cách mạng.

 

C̣n đối với một số người cho chúng tôi là bất măn v́ địa vị hay v́ quyền lợi vật chất th́ chúng tôi thấy không cần trả lời những con người thấp hèn ấy.

 

(Trích báo Nhân văn) [1]

 

 

*

 

 

Chu Ngọc

 

Chu Ngọc tên thực là Chữ Ngọc Hồ quê ở Vĩnh Yên, năm nay chừng 45 tuổi, là một nhà soạn kịch và một đạo diễn có thực tài.

 

Ông tham gia kháng chiến ở Khu IV và công tác trong bộ đội của tướng Nguyễn Sơn. Đến năm 1950 ông xin giải ngũ và lui về ở trại tập trung văn nghệ ở Cầu Thiều (Thanh Hoá), vừa làm ruộng vừa viết văn. Năm 1953 ông "được" đi chỉnh huấn ở Việt Bắc và năm 1954 được "tham quan" Cải cách ruộng đất ở Thanh Hoá.

 

Trong mấy năm kháng chiến ông sáng tác được một vở kịch có giá trị, nhan đề Cái vơng, trong đó ông chế riễu một tập tục của dân quê là ngăn cấm không cho vợ chồng những người tản cư nằm chung một giường trong nhà của ḿnh. (Bà chủ nhà bắc một cái vơng nằm giữa để canh, hai vợ chồng người tản cư nằm hai bên.)

 

Vở kịch sau khi diễn được vài buổi th́ bị cấm.

 

Vở kịch thứ hai của ông nhan đề là Xông nhà cũng có một số phận tương tự như vở kịch trước.

 

Ở đây chúng tôi xin giới thiệu một vở kịch ngắn của ông, nhan đề là Chúng ta gắng nuôi con. Cũng như trong hai vở kịch trước, trong vở này ông cũng đả phá những cái hẹp ḥi của những người xung quanh thường phạm đến tự do cá nhân và tự do tư tưởng của con người.

 

Điểm khác là ở đây ông không công kích những cái hẹp ḥi của xă hội cũ, mà ông lại chế riễu cái hẹp ḥi của xă hội Bắc Việt năm 1956. Tâm trạng của ông biểu lộ trong câu sau cùng của vở kịch, lời ông dặn ḍ đứa con mới đẻ " Lớn lên con đừng hẹp ḥi con nhé!”

 

 

*

 

 

Chúng ta gắng nuôi con

(Hoạt cảnh)

 

Nhân vật: Chồng 37 tuổi; Vợ: 30 tuổi

 

Đây là một căn pḥng nhỏ của một gia đ́nh cán bộ ở ngoại ô Hà Nội. Bàn, ghế, giường, tủ mỗi thứ một kiểu, mỗi màu, cũ kỹ, rẻ tiền; h́nh như chủ nhà nhặt mỗi thứ một nơi góp lại thành cái cảnh "nội trợ" này.

 

Chồng là một cán bộ, của một cơ quan Trung ương, tuổi ngoài ba mươi, gương mặt hơi hốc hác, da mặt tai tái và hơi khô, mắt ḷng trắng đă ngả vàng, đùng đục. Anh thường bận bộ quần áo công nhân do Mậu dịch bán giá 8.500 đ của nước bạn Tiệp Khắc. Anh nh́n người hoặc nh́n vật thường hay nh́n lâu. Có nhiều lúc như không tin ở đôi mắt nữa, anh dùng tay nắn vào người, vào vật. Đầu hay gật gù. Miệng thỉnh thoảng ho một tiếng.

 

Vợ, trẻ hơn, táo bạo hay nói thẳng, hay lo vặt và thường đem chuyện bực bội ở cơ quan về trút cho chồng, có lúc trút cho cả những đứa con c̣n ngây dại. Quan niệm của chị về cuộc sống: cứ vui, tin tưởng, chẳng tội ǵ gói ghém bực tức lại để thành mớ bề bộn trong ḷng.

 

Chồng: Hay là… liều đến rạp mà xem. Hạng cuối 3 trăm, ngồi sát "ê cờ răng" cũng được.

 

Vợ: Loá mắt chết đi ấy.

 

Chồng: Nhưng c̣n có ghế dựa cái lưng.

 

Vợ: Dựa lưng? Sao mà tư sản thế!

 

Chồng: Tư sản? Thế th́ thôi. Nhưng tả vừa vừa chứ, có thế cũng phải chụp cái mũ mới nghe.

 

Vợ: Chụp sẵn để anh đừng yêu cầu nữa. Từ một trăm ngoài băi tiến tới ba trăm trong rạp, hai vợ chồng mấy đứa con, mất hơn một ngh́n rồi đấy, cuối tháng có thiếu lại ầm lên.

 

Chồng: Ai ầm.

 

Vợ: Anh không ầm nhưng cái mặt anh dài ra c̣n khổ hơn là ầm.

 

Chồng: Ở nhà là ổn hơn hết, ngủ một giấc lại đỡ tổn.

 

Vợ: Th́ xem ngoài băi vậy, mỗi người một trăm thôi.

 

Chồng: Xem ngoài băi! mỏi cổ lắm.

 

Vợ: Em đỡ cổ cho.

 

Chồng: Đừng có khỉ. Với lại buồn ngủ th́ dựa vào đâu.

 

Vợ: Dựa vào em mà ngủ.

 

Chồng: Đă bảo là đừng có khỉ. Chung quanh người ta phê b́nh cho.

 

Vợ: Ai làm ǵ mà phê b́nh. Vớ vẩn.

 

Chồng: Người ta phê b́nh là xem phim có nội dung tốt lại ngủ kia.

 

Vợ: Buồn ngủ th́ cứ ngủ, sao lại lôi thôi thế nữa.

 

Chồng: Ḿnh cán bộ, ngủ như thế là thiếu lập trường.

 

Vợ: Sao lại lập trường ở chổ ngủ ấy.

 

Chồng: Buổi xem phim Chỉ huy chiến hạm anh buồn ngủ quá. Một ông bên cạnh cứ ghé vào tai anh, "Sao lại ngủ, sao lại ngủ, thái độ xem phim nước bạn lạ nhỉ?". Anh cầm mũ đi về, ông ấy theo ra thảo luận, và khuyên anh xem cho hết. Bỏ về giữa chừng là có ư chê phim Liên Xô. Anh đành phải quay vào ngồi cho đến hết.

 

Vợ: Thế anh có nói cho ông ấy biết như thế là mất tự do của người ta không!

 

Chồng: Tự do nào?

 

Vợ: Tự do khen chê.

 

Chồng: Sao lại có cái tự do ấy nhỉ.

 

Vợ: Thế sao anh lại ngủ?

 

Chồng: Ờ ờ.... à… à mấy ngày họp liền rồi liên hoan giữa băi, gió hiu hiu th́ ngủ chứ c̣n sao nữa.

 

Vợ : Phim có hay không?

 

Chồng: Nội dung tốt! Nhưng mà vừa xem vừa phải cắn lưỡi cho đỡ buồn ngủ. Lúc nào chót gật một cái th́ vội vàng chữa bằng cách gật vài cái ra điều là ḿnh thưởng thức. Lúc đó, may quá màn ảnh lại chiếu ngay đoạn ngoài biển khơi, ánh sáng đẹp quá. Ông bạn ngồi bên thấy ḿnh gật gù th́ ông ấy bằng ḷng lắm cũng gật gù nói nhỏ với ḿnh – “Chút nữa ông bỏ về, có phải thiệt không nào!”

 

Vợ: Thế là đêm hôm đó anh về căi nhau với em đấy có phải không?

 

Chồng: Vừa mệt vừa bực ḿnh, về đến nhà vợ lại càu nhàu bảo đi đến đâu cũng chẳng nhớ đến ai, chỉ biết sung sướng lấy một ḿnh.

 

Vợ: Tưởng là không thích phim cơ chứ, gật gù thưởng thức như thế c̣n oan nỗi ǵ?

 

Chồng: Thế em vẫn cho là anh sung sướng lấy một ḿnh ư!

 

Vợ: Ở nhà này anh không sung sướng... th́ em sung sướng vậy. Em sung sướng lắm: cũng công tác, cũng học, cũng họp, lại nuôi con, giặt giũ, thổi nấu... rồi th́ ở nhà phê b́nh đằng ở nhà; ở cơ quan phê b́nh đằng cơ quan...

 

Chồng: Thôi.. thôi... anh sung sướng! Sáng họp, chiều họp, tối học. Về nhà quét cửa, quét nhà, quét cổng, đun nước, tắm cho con, xi con ỉa, đêm ai gọi dậy mở cửa...

 

Vợ: Gớm gian khổ nhỉ! Nông dân người ta c̣n vất vả khối ra kia ḱa.

 

Chồng: Thôi... thôi... biết rồi...! Đi xem vậy thôi. Ngoài băi cũng được. Phim ǵ thế?

 

Vợ: Trẻ con nó bảo đâu... Chỉ huy chiến hạm đấy. Chúng nó bảo buồn lắm.

 

Chồng: Chỉ huy chiến hạm à... Nhưng sao trẻ con lại chê buồn.

 

Vợ: Thấy chúng nó bảo thế.

 

Chồng: Con nó bảo lại mà nghe ư? Lập trường để đâu hử trời!

 

Vợ: Lập trường nào?

 

Chồng: Lập trường bạn, thù. Phim nước bạn mà chê. Coi chừng tư tưởng đấy.

 

Vợ: Tư tưởng làm sao?

 

Chồng: Tư tưởng tư sản chứ c̣n làm sao nữa. Chê phim nước bạn có nghĩa là khen phim tư sản.

 

Vợ: Suy diễn tài nhỉ! Liên Xô có nhiều phim hay, song cũng có những cuốn phim không hay th́ nó chê, không được ư. Biết đâu những phim ấy chính các đồng chí Liên Xô cũng chê ấy chứ lại!

 

Chồng: Hỏng, hỏng... gọi con Thu về đây. Không biết ai xui nó thế, chắc lại luận điệu địch đấy thôi. Nó bắt đầu tuyên truyền vào trẻ con rồi đó. Gọi nó về xem nó chơi với con cái nhà nào, phải đề cao cảnh giác đấy.

 

Vợ: Nó bé, tính nó ngay thẳng, thấy thế nào nó nói thế.

 

Chồng: Chẳng qua là tại em cả thôi. Trẻ con nó biết thế nào là hay và không hay.

 

Vợ: Thôi đừng chủ quan khinh chúng nó. Trẻ con nó cũng biết nhận xét chứ lại.

 

Chồng: Nhưng chúng phải biết đứng về lập trường nào mà nhận xét chứ!

 

Vợ: Lập trường của trẻ con là ăn chơi, yêu nhân dân, yêu lao động... yêu Bác Hồ, Bác Mao... Bác Bun-ga-nin...

 

Chồng: Yêu bác Bun-gan-nin mà chê phim Liên Xô!

 

Vợ: Nó chê phim Chỉ huy chiến hạm nó thích phim Xát-cô đi t́m hạnh phúc chứ nó chê phim Liên xô đâu nào?

 

Chồng: Con hư là tại mẹ, khen chê là phải hướng cho chúng nó. Không thể để cho chúng nó tự do được. Coi chừng ảnh hưởng tư sản đấy.

 

Vợ: Thế anh là tư sản hay tôi là tư sản.

 

Chồng: Người nào cũng có thể là tư sản được cả. Ăn muốn ăn ngon, ở th́ muốn ở rộng, cái ǵ cũng muốn, ước ước ao ao... Cứ đi qua các cửa hiệu Hàng Khay là đứng lại nh́n nh́n, ngắm ngắm... như thế là chớm phải tư tưởng tư sản rồi đấy.

 

Vợ: Những thứ ước ao ấy những người làm cách mạng không được dùng ư?

 

Chồng: Lúc nào tiến sang chủ nghĩa xă hội đầy đủ sẽ dùng.

 

Vợ: Thế lúc đó có gọi những người xă hội chủ nghĩa là tư sản không…

 

Chồng: Ừ... ừ... ừ... Thôi không nói nữa. Đi xem, đi xem...

 

Vợ: Thua rồi à. Thế đi xem phim nào?

 

Chồng: Bất cứ. Miễn là đi xem. Nghĩa là là không ở nhà.

 

Vợ: Có phim Dân chủ Đức, lại ở măi Đại Nam kia. Mấy trăm bạc xe nữa.

 

Chồng: T́m xem có phim nào xem tàm tạm.

 

Vợ: Nghe như có nhiều phim hay các ông ấy c̣n om, để chiếu cho chán những phim tiền cách mạng này đi đă. Giả có phim như Anh gắng nuôi con th́ thích nhỉ.

 

Chồng: Em thích Anh gắng nuôi con lắm à?

 

Vợ: Ừ thích.

 

Chồng: Thế là chết rồi!

 

Vợ: Sao?

 

Chồng: (suy nghĩ một lát) Có vấn đề đấy. Nhận định của tôi đúng rồi.

 

Vợ: Đúng cái ǵ kia?

 

Chồng: Em bị tư sản tấn công thật đấy. Anh gắng nuôi con là phim Nhật.

 

Vợ: Nhật th́ sao?

 

Chồng: Nhật chứ Nhật sao nữa. Một nước phát xít chinh phục loài người. Bây giờ đi với Mỹ, là một nước tư bản đế quốc.

 

Vợ: Thế à?

 

Chồng: Một nước có truyền thống vơ sĩ đạo, rất nhiều anh hùng cá nhân, cho nên tôi kết luận rằng văn hoá của nước ấy là văn hoá tư sản.

 

Vợ: Ghê nhỉ? Nhưng c̣n thiếu.

 

Chồng: Thiếu ǵ nữa?

 

Vợ:Người Nhật... lùn nữa chứ lại. Và lần đầu tiên nhân dân Nhật bị hai quả bom nguyên tử của Mỹ chết mấy chục vạn người.

 

Chồng: Em để yên tôi nói.

 

Vợ: Nói như mọi hôm chứ ǵ. Lại cụ Mác, cụ Lê. Thôi, anh đừng làm khổ các cụ nữa. Lư luận để áp dụng vào thực tế công tác không phải để nói. Anh ăn đă chẳng được mấy hột, nói nhiều quá, phổi nó ráo đi.

 

Chồng: Nhưng mà em không được thích Anh gắng nuôi con.

 

Vợ: Sao anh lại cấm em.

 

Chồng: (Cầm tờ báo Nhân dân đưa cho vợ) Đây này, báo đăng là không cho chiếu lần thứ hai nữa. Anh đọc em nghe nhé.

 

Vợ: (đứng lên) Thong thả em chặn cho con cái gối đă, kẻo nó giật ḿnh.

 

Chồng: “Suốt từ đầu đến cuối bộ phim, người xem chỉ thấy một anh chàng say rượu, cờ bạc, cục cằn, hay đánh nhau, tính nết như một thằng điên”.

 

Vợ: Ư kiến của anh thế nào?

 

Chồng: Anh... anh (gật gù) cũng thấy Mễ Lang như hơi điên, uống rượu, đánh bạc, cục cằn, hay đánh nhau. Đúng đấy.

 

Vợ: Anh nói thật đấy chứ?

 

Chồng: Ừ.

 

Vợ: Sao hôm đi xem về anh khen cơ mà?

 

Chồng: Ai khen?

 

Vợ: Anh chẳng bảo - lâu lắm mới được xem một cuốn phim...

 

Chồng: Nói như thế mà bảo là khen ư?

 

Vợ: Thế ai nói cái xă hội Nhật trong phim ngột ngạt thật. Buôn bán lừa lọc, thằng trùm cờ bạc bịp Liễu Lang lại mở trường dạy học – giáo dục thiếu niên, thực mỉa mai - Chẳng khác ǵ Xuân tóc đỏ của ḿnh.

 

Chồng: …

 

Vợ: Có thế không nào? Mà anh lại c̣n ra vẻ thạo về chính trị, anh phân tích: Đấy cái thằng cờ bạc bịp nó tổ chức đánh bạc rồi nó lại gây ra cuộc ẩu đả - Trong lúc người ta xô vào đánh nhau th́ nó lúi húi nhặt tiền ở chiếu bạc nhét đầy hào bao, để sau này nó thành một thằng mô phạm đúng là cái thằng Mỹ.

 

Chồng: Người ta ví với thằng Nguyễn Văn Mỹ bạn cũ hồi Pháp thuộc, nó giống cái thằng ấy, chứ ai bảo giống đề quốc Mỹ - Bảo người ta đương tố cáo là chẳng có ǵ là chồng viện trợ Mỹ cả, phê b́nh nhà chiếu bóng quảng cáo láo để làm tiền khán giả đấy.

 

Vợ: Thế việc ǵ đến anh mà cũng thắc mắc.

 

Chồng: Ḿnh trót khen ầm lên ở cơ quan, cổ động anh chị em đi xem. Họ chen nhau mới lấy được cái vé. Bây giờ lại… phiền quá thôi, biết cứ đóng cửa ở nhà cho xong, chẳng xem chẳng xung ǵ cả, đỡ bực ḿnh.

 

Vợ: Lúc xem lưỡi cứ tắc tắc như thạch sùng ấy, khen lấy khen để... Anh ngồi cạnh tôi, thấy tôi chưa kịp khen th́ y như anh bực ḿnh cho tôi là chậm hiểu.

 

Chồng: Nhưng bây giờ báo Nhân dân chê, cơ quan của Đảng nhận định cái ǵ là đă nghiên cứu chán rồi. Chắc có điểm ǵ sai lầm nghiêm trọng lắm... mới đề nghị cấm chiếu đấy. Mai đến cơ quan chúng nó lại nhè ḿnh nó truy - Khen phim ǵ chẳng khen lại khen phim Nhật.

 

Vợ: Các đồng chí ở cơ quan cũng khen cả đấy chứ.

 

Chồng: Bây giờ ai c̣n nhận nữa.

 

Vợ: Th́ phim ấy cũng hay đấy chứ, tội ǵ mà sợ.

 

Chồng: Em chỉ được cái nói bướng ở nhà mà thôi. Báo Đảng đă nhận định rồi.

 

Vợ: Ông Lam ở sở Hải quan Trung ương đấy chứ, có phải báo đâu.

 

Chồng: Nào riêng ǵ ông Lam, cả bà Nguyễn Thị Xuân nào nữa đấy cũng viết một giọng như thế...

 

Vợ: Ừ th́ hai người chứ bao nhiêu mà lo - Bao giờ báo Nhân dân viết sẽ hay. Đây là ư kiến bạn đọc cơ mà.

 

Chồng: Đăng lên như thế tức là toà báo đă đồng t́nh rồi đấy. Ḿnh thế nào cũng bị qui là bị tư sản tấn công.

 

(im lặng một lát)

 

Vợ: Ai đă qui mà sợ - Chính phủ cho phép chiếu, nhân dân xem sướng mắt rồi. C̣n chiếu em c̣n đi xem, để ư làm ǵ đến những chuyện hẹp ḥi, vụn vặt ấy.

 

Chồng: Xem th́ có sao, đằng này ḿnh lại khen kia. Bây giờ làm thế nào?

 

Vợ:...

 

Chồng: Thế nào.

 

Vợ: Chẳng biết thế nào cả. Đă rắc rối thế bây giờ không đi xem nữa.

 

Chồng: Chỉ tại em thôi.

 

Vợ: Tại ǵ tôi?

 

Chồng: Em khen lấy khen để...

 

Vợ: Th́ đi qua cửa rạp thấy người ta xếp hàng lấy vé dài ra tận đường ấy, chắc phim phải hay mới đông như thế chứ? Bao nhiêu người khen cả sợ quái ǵ.

 

Chồng: Người ta là nhân dân th́ sợ ǵ. Ḿnh là cán bộ mới phiền.

 

Vợ: Sao lại có cái bà Xuân, với ông Lam nào mà ác thế nhỉ.

 

Chồng: Họ ác ǵ? Lập trường người ta vững mới phê phán như thế chứ! Chắc không phải thành phần ḿnh đâu.

 

Vợ: Phim hay thế mà kêu rức óc lên. Hay là bị bệnh thần kinh th́ có.

 

Chồng: Chẳng biết là cô hay bà nữa, nhưng chắc là cán bộ, nói có vẻ lên lớp lắm.

 

Vợ: Biết địa chỉ ở đâu kéo đến đấu tranh cho một chuyến cho ra lẽ. Phụ nữ mà lại khô thế nhỉ.

 

Chồng: Chắc đâu là phụ nữ.

 

Vợ: Kư là Nguyễn Thị hẳn hoi kia mà chẳng lẽ lại là đàn ông.

 

Chồng: Chưa chắc là đàn ông đâu. Khô hơn đàn ông nhiều.

 

Vợ: Em chắc, không phải là phụ nữ đúng hơn.

 

Chồng: Anh đă bảo không phải nam giới.

 

Vợ: Nam giới đấy.

 

Chồng: Anh không nhận đâu.

 

Vợ: Phụ nữ là phải để ư đến Mễ Lang. Một người chồng cờ bạc, rượu chè, du côn như thế mà thực hiện lời giối giăng của vợ, không đánh nhau nữa, chăm nom con, cố gắng xây dựng tương lai cho con để con khỏi sa vào con đường tối tăm tội lỗi cũ, như thế là người tốt có thuỷ chung đấy chứ!

 

Chồng: Ai người ta rung động làm ǵ những chuyện ngóc ngách ấy. Trái tim người ta đă thành trái tim ái nam ái nữ mất rồi.

 

Vợ: Chán nhỉ.

 

Chồng: T́nh cảm phi nam phi nữ ấy c̣n biết rung động cái ǵ nữa... Mấy cái anh làm phim Nhật ấy cũng tồi. Cho ngay Liễu Lang là địa chủ bóc lột. Cho ngay Mễ Lang là bần cố nông, trong sạch, anh dũng, hữu ái giai cấp, được đội về bắt rễ, cuối cùng đứng lên đấu một trận có phải ông Lam với bà Xuân thích không nào.

 

Vợ: Phim nào cũng thế th́ chán ốm.

 

Chồng: Nhưng mà dễ hiểu em ạ. Đỡ bận óc, chẳng phải suy nghĩ ǵ.

 

Vợ: Nhưng mà Nhật đă cải cách ruộng đất đâu. Mỹ c̣n chiếm đóng cơ mà. Chính phủ Nhật ở trong tay bọn trùm tư bản thân Mỹ kia mà.

 

Chồng: Ừ nhỉ. Thành ra người Nhật chửi Mỹ, phản đối Mỹ cũng vất vả nhỉ.

 

Vợ: Chắc thế cho nên các ông văn nghệ Nhật mới xây dựng lên Liễu Lang để bóng gió.

 

Chồng: Buồn nhỉ, là dân một nước không dân chủ, ăn không được ăn, nói không được nói, rồi cứ phải mượn cái này nói cái khác, làm cho người nước khác phải suy nghĩ mới hiểu th́ mệt quá nhỉ.

 

Vợ: Không suy nghĩ th́ bộ óc, với trái tim để làm ǵ? Ḿnh là người đă từng bị bọn đế quốc nó thống trị th́ ḿnh cũng thông cảm với nhân dân một nước bị chiếm đóng chứ!

 

Chồng: Mấy người viết báo ấy nghĩ được như thế th́ ngày mai ḿnh đến cơ quan đă chẳng làm sao.

 

Vợ: Chẳng việc ǵ đâu.

 

Chồng: Mấy cái ông đại diện tư tưởng ở cơ quan thế nào mà chẳng xoay, chẳng truy ḿnh.

 

Vợ: Đề nghị cho mấy ông đi học để các ông ấy biết dùng bộ óc đi chứ lại.

 

Chồng: Học chưa đủ. Điều cần phải có trước nhất là sự thông cảm. Chúng ta mới thoát khỏi ṿng nô lệ, sao không thương nhau, lại hay dằn vặt hay úm nhau. Mà anh nữa, sao lại không dám chống lại khi họ chụp mũ vào đầu ḿnh.

 

(một lát) - Này em! ḿnh có phải là người nữa không nhỉ?

 

Vợ: Sao anh lại hỏi thế?

 

Chồng: Đầu là đầu của ḿnh hay là đầu của ai?

 

Vợ: Dớ dẩn, đầu chẳng phải là đầu của ḿnh, chẳng lẽ đầu của ai chạy đến gắn vào cổ ḿnh.

 

Chồng: Nhưng c̣n cái chất đặc ở trong kia mà.

 

Vợ: Đầu của ḿnh th́ óc cũng của ḿnh chứ của ai nữa.

 

Chồng: (một lát) Thế th́ thích nhỉ.

 

Vợ: Thế xưa nay anh vẫn thấy bộ óc, trái tim là không phải của anh ư?

 

Chồng: Không... với lại có phải anh nói riêng ḿnh anh đâu.

 

Vợ: Nhưng sao anh lại hỏi về đầu óc như thế mới được chứ?

 

Chồng: Anh hỏi thế để biết rằng lâu nay anh không dùng đến cái đầu này - đến cái bộ ngực này. Ngũ quan của anh chỉ dùng có cái tai, anh chỉ nghe thôi. Và cái cổ để gật. Ḷng anh chắc cũng như ḷng một số người cứ thu hẹp măi lại, cuộc sống t́nh cảm cứ lần lần mất đất. Một bộ phim nêu lên một ư nguyện từ chối một cuộc sống cũ - đánh nhau, bịp bợm, kẻ tiểu nhân như Liễu Lang lại cầm vận mệnh của tương lai, một người tự lực cánh sinh, lao động xây dựng cho lớp người về sau, anh tưởng đó là nguyện vọng của người muốn cách mạng, người tốt chứ.Sao lại phê phán là: chẳng hé mở cho người xem thấy một giải quyết nào - Thế nào mới là giải quyết. Đóng cửa tâm hồn ḿnh lại th́ c̣n thấy được ai hé mở. Có chăng là tự ḿnh phải cởi trói cho tâm hồn ḿnh. (một lát). Khen không dám khen, chê không dám chê. Từ Chỉ huy chiến hạm đến Anh gắng nuôi con anh đă không phải là anh nữa. Bản tâm th́ khen nhưng khi thấy báo Nhân dân chê th́ sợ... Nhân phẩm của anh lâu nay không biết c̣n hay mất.

 

Vợ: Ai cấm chúng ta không được khen chê, Đảng đă chẳng khuyến khích chúng ta mạnh dạn phát huy tự do tư tưởng, nói thẳng, nói thật, nói hết, bày tỏ nguyện vọng để Đảng biết kia mà. Có ai cấm đâu.

 

Chồng: Chẳng ai cấm, nhưng anh có dám tin ở anh đâu. Thành phần của ḿnh nói ǵ ra cũng tự cảm thấy có thể sai được cả - tiểu tư sản bấp bênh lắm. Ở nông thôn th́ lập trường địa chủ, về thành phố dễ bị tư sản tấn công. Một người nói ra như thế, trăm người nói theo, thế là bách khẩu đồng từ, ấy thế là bất cứ một việc ǵ sự tự ti về thành phần cũng ngăn cách giải quyết của anh: Sợ sai em ạ. Đến cả em nữa, em là một người trao xương gửi thịt, ấy thế mà nhiều lúc anh cũng sợ. Anh không dám nói phim hay, phim dở. Vừa rồi anh cũng sợ chúng ta quay lại chỉnh nhau, nên anh tự chỉnh trước. Kể anh cũng hèn thực. Nói dối cả ḿnh, nói dối cả vợ, nói dối cả Đảng. Chỉ ừ ào xuôi chiều, thủ tiêu đấu tranh.

 

Vợ: Không biết ông Lam có cùng một tâm trạng như chúng ta không nhỉ. Em tin rằng ông cũng có thể dối ḷng ông. Em tưởng khi đặt câu hỏi cho cô Tuyết trong phim khi yêu Mễ Lang: Không hiểu yêu v́ nỗi ǵ, yêu v́ hay uống rượu, cờ bạc hay đánh nhau khoẻ. Sao không lật ngược lại vấn đề mà hỏi ngay ở ḷng ḿnh là một người con gái phải làm trong một quán rượu muốn thoát khỏi cái cảnh không ra ǵ ấy để có một cảnh gia đ́nh êm ấm trong sạch yêu một người "không đánh nhau nữa, chỉ biết lo cho con" th́ không xứng đáng hay sao, anh nhỉ. Thông cảm cho nỗi khổ của con người, khó thật.

 

Chồng: Không nói đến ông Lam bà Xuân vội. Nói ngay đến vợ chồng ḿnh đă…

 

Vợ: Th́ ḿnh cũng phải lên tiếng chứ. Tôi không tán thành ư kiến của các ông, các bà kia mà. Sao lại không đấu tranh.

 

Chồng: Anh đương đấu tranh đây, đấu tranh bản thân đă em ạ, không phá tung cái lưới đương vây ḷng ḿnh lại th́ không nói ǵ được cả. Dù đau xót, dù có phải rớm máu cũng phải cố rứt cho được những mắt lưới đương dăng ở cuống họng anh, để anh có thể nói thật được với em là vợ của anh, các đồng chí ở cơ quan, các bạn bè, bà con. Anh phải phá cái hẹp ḥi của anh đă. Xưa nay không nói là để khỏi phiền đến ḿnh, để bảo vệ ḿnh, đó cũng là một khía cạnh của bệnh hẹp ḥi.

 

Vợ: Th́ em vẫn khuyên anh cứ nói kia mà!

 

Chồng: Nhưng mà em có dám nói không? Em dám nói sao không dám nói ở cơ quan. Đem chuyện về nhà to nhỏ với nhau là chưa nói được ở cơ quan. Anh chỉ là chỗ trút thắc mắc của em. Em chẳng thường nói với anh: Thôi mọi chuyện bỏ ngoài tai, nhắm mắt lại, cốt sao có đồng lương nuôi con đă, bao giờ đầy đủ sẽ đấu tranh...

 

Vợ: Em nghĩ thế là khi c̣n kháng chiến... phải đuổi địch và đánh đổ địch đă... Bây giờ kiến thiết rồi.

 

Chồng: Thế à, nếu thế anh sẽ nói, nói hết. Trên sai, anh sẽ nói trên sai, chung quanh sai, sẽ nói chung quanh sai, mà anh sai anh đẩy cao tự phê. Cái ǵ chưa hay th́ nói chưa hay, cái ǵ của ḿnh kém th́ phải học, công tŕnh lao động nào của nhân loại mà tốt đẹp chúng ta phải hoan nghênh. Phải đả phá cái óc "bế quan toả cảng", phải làm bật gốc nó đi.

 

Vợ: Anh nói th́ nói, nhưng phải xây dựng đấy, đừng có nói cho hả, các đồng chí lại hiểu lầm th́ lại khổ vợ khổ con. Em chẳng lạ ǵ kẻ làm sai họ thường hay bảo thủ, họ bám lấy cái sai của họ. Phải coi chừng họ lại đánh những đ̣n ngầm, hoặc bôi nhọ ḿnh bằng cách vu khống th́ khổ đấy....

 

Chồng: Nếu quả việc đời c̣n đến như thế th́ cũng chịu em.

 

Vợ: Chịu à? Thế c̣n em và các con th́ sao?

 

Chồng: Th́ lại quay một cuốn phim...

 

Vợ: Phim ǵ kia?

 

Chồng: Em gắng nuôi con.

 

Vợ: Em gắng nuôi con à.

 

Chồng: Ừ.

 

Vợ: Khiếp! Đâu đến nỗi thế. Có Đảng có nhân dân sao lại có thể như thế được. Với lại anh cũng phải thanh toán sự hoài nghi của anh đi. Mấy cái bài báo đó ai tin kia chứ. Người ta đọc người ta c̣n cười cho là đằng khác. Em có tin đâu nào. C̣n anh, anh có tin không?

 

Chồng: Th́ ai lại lạc hậu đến thế mà em hỏi.

 

Vợ: Thế th́ các đồng chí ở cơ quan, bà con đă xem Anh gắng nuôi con. Ai người ta tin chứ.

 

Chồng: Ừ nhỉ! Suy bụng ta ra bụng người. Cái ǵ dở mà bảo hay ai mà chịu được, cũng như cái hay mà bảo dở th́ dù trời có bảo th́ người ta cũng cười vào mũi trời ấy chứ lại. Huống hồ là hai bài báo ấy...

 

Vợ: Như thế anh phải tin tưởng chứ - Xem thằng con nó ngủ ra sao đây này.

 

Chồng: Nó ngủ ngoan nhỉ (anh bắt chước giọng Mễ Lang). B́nh ơi! con ngoan nhé, con ngoan nhé!

 

Vợ: Khỉ, để con nó ngủ (một lát). Chúng ta gắng nuôi con cho khôn lớn, tương lai của chế độ là phần con ḿnh được hưởng đấy.

 

Chồng: (vẫn tiếp tục) B́nh, ngoan nhé, con ngoan nhé... Lớn lên đừng có hẹp ḥi con nhé!

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu tập III năm 1956)

 

 

[1]Bản đăng lại trong sách này thiếu một số đoạn, xin xem toàn văn bài viết trong Nhân văn số 3 (talawas)

 

Tiếp phần II, chương III : Các nhà văn đứng tuổi: Như Mai

và sang chương IV: Các nhà học giả: Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo

 

Như Mai là bút hiệu của Hoàng Như Mai sinh năm 1918 ở làng Hoàng Mai gần Hà Nội. Là con một gia đ́nh tiểu công chức, ông học từ nhỏ ở Hà Nội, đỗ tú tài năm 1943, sau đó học trường Đại học Luật khoa ở Hà Nội. Học chưa xong th́ cuộc kháng chiến đă xảy ra nên ông phải bỏ dở.

 

Nhưng ngay từ khi c̣n là sinh viên ông đă bắt đầu viết sách. Nguyên là một thanh niên ham mê chủ nghĩa cộng sản, ông dịch cuốn Les Principes du Leninisme từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, và tiếp theo ông viết cuốn Đời sống Lê nin.

 

Cũng trong thời gian đó Như Mai xuất bản một cuốn kịch nhan đề Tiếng trống Hạ Hồi, ngày nay vẫn c̣n giá trị và vẫn thường được nhắc tới.

 

Năm 1946 Như Mai lấy vợ cũng là văn sĩ, hai vợ chồng cùng gia nhập Việt Minh và cùng công tác về kịch. Năm 1948 cả hai vợ chồng được cử vào Nam, hoạt động trong ban văn công của Đoàn quân Giải Phóng Nam bộ trong ba năm. Đến năm 1951 hai vợ chồng được triệu ra Việt Bắc, hoạt động trong ban văn nghệ trung ương cho đến ngày trở về Hà Nội. Suốt trong thời gian kháng chiến hai vợ chồng chỉ đóng kịch, không sáng tác.

 

Về Hà Nội từ năm 1954 đến nay h́nh như ông vẫn sống yên lặng v́ báo chí ở Hà Nội không thấy nhắc đến ông. Nhưng thực sự th́ ông có tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm v́ t́nh cờ đọc bản thú tội của Trần Dần, chúng tôi biết rằng bài "Thi sĩ máy" đăng trong báo Nhân văn số 5 với bút hiệu Châm Văn Biếm chính thực là của Như Mai [1] . Như vậy rất có thể ông có viết nhiều bài khác mà giấu tên, nên chúng tôi không biết.

 

Bài "Thi sĩ máy" là một bài mà ai cũng công nhận là có giá trị. Tuy là một câu chuyện tưởng tượng, nhưng bài ấy cũng nói lên sự thực chua chát trong ḷng người nghệ sĩ sống dưới chế độ cộng sản là một chế độ chủ trương tiêu diệt mọi t́nh cảm và biến con người thành một thứ máy sản xuất mọi thứ theo mẫu đặt hàng của Đảng.

 

Chúng tôi trích bài này để giới thiệu tác giả và giới thiệu cả tâm trạng chung của giới văn nghệ sĩ ở Bắc Việt hiện nay.

 

 

*

 

 

Thi sĩ máy

 

"… Với một chiếc máy sửa đổi đôi chút để nó có thêm trí nhớ và có cả mọt chút lư luận, người ta có thể dùng máy để phiên dịch và để viết văn…"

 

(Trích báo Tổ quốc số 41)

 

 

I. Thế nào là công bằng mà nói ở cơi đời này?

 

Đầu năm 2000… Các báo chí xuất bản đều sổi nổi đăng tin tức quan trọng về máy "viết văn" dưới những đầu đề "giật gân" lớn…

 

Tờ Công thức trong bài xă luận "Nhiệt liệt chào mừng các văn nghệ sĩ máy!" đă giới thiệu như sau:

 

"Nhờ áp dụng những khả năng mới nhất của khoa học điện tử, máy ‘viết văn’ đă hoàn thành thoả măn được nhu cầu văn nghệ ngày một tăng của loài người. Những sáng tác phẩm của nó, vừa kịp thời vừa minh hoạ đúng chính sách, sẽ giải quyết được mọi khẩu hiệu phức tạp của cuộc sống.

 

Mỗi giây đồng hồ máy đó có thể sản xuất được từ 7 đến 8.000 ḍng văn thơ. Nếu dùng sức óc và tâm hồn người th́ phải hàng ngàn văn nghệ sĩ với một tŕnh độ sách vở rất cao, cặm cụi hàng trăm năm mới làm nổi…

 

Do tính chất ‘Nhân văn’ của máy nên ta tạo cho nói cái vỏ bọc ngoài, h́nh dáng một anh chàng: trẻ, khoẻ, đẹp, chỉ khác người ‘thật’ là đứng nguyên một chỗ, không nói, cười, chạy nhẩy, nhất là không yêu đương lăng mạn lôi thôi…"

 

Báo Công thức kết luận:

 

"Chúng ta, những con người ‘thật’, cần hợp tác nhất trí với các người ‘máy’, cần triệt để dùng họ và đội quân văn nghệ sĩ có thể chuyển sang các ngành công tác khác, tăng cường thêm lực lượng kiến thiết thời đại điện tử của chúng ta."

 

Hơn một năm sau cái ngày tin vui đó truyền đi, th́ hàng loạt văn sĩ máy, thi sĩ máy, kịch sĩ máy được tung ra thị trường. Một số cán bộ phụ trách về văn chương sính máy móc ở một số ngành, một số cơ quan xí nghiệp nông trường v.v… thi nhau mua về sử dụng. Ở những nơi đó, nền văn nghệ máy được độc quyền tô lục chuốt hồng cuộc sống b́nh ổn, c̣n lũ văn nghệ sĩ bằng xương, bằng thịt th́ bị gạt ra ngoài.

 

Nhạc sĩ Ảo Huyền được cử đi học lớp "nghiên cứu nghề làm nước mắm"; hoạ sĩ Lập Thể được điều sang Mậu dịch; nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đỡ đẻ. Thi sĩ Mây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói Kiều tán róc về thành phần giai cấp cho những người c̣n đầu óc mê tín dị đoan.

 

Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra chợ giời làm nghề bán văn kiêm bán săm. Săm lốp v́ cần khuyến khích nên được miễn thuế, c̣n văn của Đắng Văn Cay th́ bị liệt vào hàng "vô dụng" và phải chịu thế 4 phần trăm. Rất ít người chịu quẳng tiền ra mua. Đôi ba vị khó tính lại c̣n rỉa rói: "Văn chương anh th́ ra cái đếch ǵ! Không ích lợi bằng chiếc đế dép cao su của tôi nữa kia!". Nhà đạo diễn Kinh Kha được chuyển sang ngành nuôi cá vàng, mỗi khi luyến tiếc sân khấu thường ngắm cá bơi lội rồi tưởng tượng con cá vẩy bạc óng ả này là Điều Thuyền, con cá đen mặt sắt nọ là Bao Công, cặp cá đuôi cờ lồi mắt kia là đôi nhân vật tiểu tư sản...

 

Tóm lại có một bộ phận văn nghệ sĩ bị tơi bời rối loạn. Ai cũng thù ghét lũ người máy mới ra đời kia, nhưng ai cũng chịu thua. V́ cứ công bằng mà nói th́ "máy móc" quả là kịp thời sự, thông kinh sử, lại đúng khuôn phép, "tốt ăn tốt ở" hơn người thực ở cơi đời này.

 

 

II. V́ sao mà "Lăng Quăng" nổi ghen?

 

Ở nông trường tập thể Con Én có nhà thơ trẻ tuổi Linh Quang. Suốt mấy năm liền kể từ ngày nông trường bắt đầu xây dựng, Quang đă làm thơ ca ḥ vè đủ kiểu, khi duyên dáng, khi nghịch ngợm, khi thiết tha yêu đời để phục vụ nông trường. Một vài bài thơ của anh đă được bà con học thuộc ḷng. Nói chung anh làm việc tốt và được cảm t́nh của nhiều người.

 

Nhưng có ưu th́ cũng phải có khuyết. Cái khuyết của anh ta là hay vi phạm luật lệ. Giữa giờ chính quyền nhiều lần anh bỏ đi chơi. Khi th́ đi câu với cụ Hay Rượu để tán ma tán mănh về nhiều cái sự đời. Khi th́ lê la tâm sự với vài gă thanh niên, bàn về những chuyện tương lai trên giời dưới đất. Khi th́ tṛ chuyện với một số phụ nữ ở nhóm giữ trẻ, điều tra cái việc sao đàn bà và con nít lại hay khóc như nhau. Đôi khi c̣n làm thư kư riêng cho vài lăo bà muốn viết thư gửi con cháu công tác ở tỉnh xa. Ngoài ra anh c̣n bừa băi như giấy tờ sách vở không sắp xếp ngăn nắp, tóc không có đường ngôi, áo mặc chuyên môn không cài khuy cổ, sáng tác th́ không có chương tŕnh kế hoạch. Nghiêm trọng nhất là khi yêu cô Duyên, cán bộ cơ xưởng của nông trường, anh không hề có báo cáo trước. Tất cả những điều trên đây là làm cho trưởng ban nội quy Nghiêm Văn Túc, con người rất mực khuôn vàng thước ngọc, phải lấy làm bực ḿnh và chướng tai gai mắt. Túc thường bắt bẻ anh và gọi riễu anh là Lăng Quăng. Cả nông trường về sau cũng quen gọi anh bằng cái tên bị Túc xuyên tạc ấy.

 

Ông chủ tịch nông trường vốn người từng trải, hiểu rơ câu "nhân vô thập toàn", lại biết mến tài nên đối xử với Lăng Quăng rộng lượng. Cũng v́ vậy mà trong khi có một số nơi đă mua sắm văn nghệ sĩ "máy", ông vẫn viện hết lư do này lư do khác để không chịu dùng cái thứ "máy móc" đó. Ông nói: "C̣n khối nơi người ta không có người máy mà phong trào văn nghệ của người ta vẫn lên rầm rầm". Có lúc ông lại phát biểu: "Đồng chí Lăng Quăng vẫn đủ khả năng phục vụ nông trường" hoặc "Văn thơ máy th́ hay làm sao bằng văn thơ người được". Nghiêm văn Túc luôn luôn đối lập với những ư kiến đó, luôn luôn đ̣i nông trường Con Én phải có một thi sĩ máy. Túc th́ chẳng hiểu văn nghệ, văn nghiếc là cái quái ǵ, nhưng chỉ nghĩ một cách sơ lược là: được cái gă "tốt ăn tốt ở" ấy về th́ đỡ phải lao tâm tổn trí đối phó như đối với Lăng Quăng. Phần nội quy ở nông trường tất nhiên sẽ được bảo đảm.

 

Túc đ̣i hỏi nhiều lần mà cứ bị gạt đi, bèn mưu mô vận động một số anh em cùng cánh làm kiến nghị phê b́nh ông chủ tịch là cảm t́nh cá nhân, có tư tưởng bao che hữu khuynh với Lăng Quăng, không có tinh thần cải tiến nông trường, thiếu tin tưởng ở kỹ thuật hiện đại. Bản kiến nghị yêu cầu ông chủ tịch phải cho nông trường sắm ngay một người máy về thay thế Lăng Quăng, nếu không sẽ kiện lên trên. Ông chủ tịch bị dồn vào cái nước không đồng ư không được nên đă quyết định tán thành, nhưng đồng thời ra chỉ thị vẫn để Lăng Quăng làm thơ như trước, chiếu cố đến thành tích của anh ta.

 

Thế là chỉ mươi ngày sau, Nghiêm Văn Túc lên bách hoá tỉnh chọn lọc, đă mua về đuợc một thi sĩ máy, cổ đeo biển đăng kư số 111.

 

Đêm ra mắt của thi sĩ 111 được tổ chức trọng thể. Câu lạc bộ treo đèn kết hoa rực rỡ như những ngày hội mùa. Nam nữ đều ăn mặc đẹp. Trước khi vào bàn tiệc, người ta th́ thào bàn tán rất nhiều về "anh ta", nhất là trong đám đàn bà con gái. Một nữ công nhân lái máy cày khoe khoang: "Các bà chị ạ! Em được xem mặt anh ta hôm mới khiêng về rồi. Sao người giả mà đẹp thế, đẹp hơn người thật chúng ḿnh nhiều. Đôi mắt anh ta lại cứ nh́n em chằm chằm làm em ngượng đỏ cả mặt". Cô Duyên (người yêu của Lăng Quăng) cũng ở trong đám ấy. Muốn tỏ cho mọi người biết tŕnh độ học rộng của ḿnh, cô bèn vanh vách thuật lại những điều đọc được về người máy đăng trong tờ Công thức.

 

Không mộ ai thèm đẻ ư đến Lăng Quăng nữa, Anh thất thểu đi giữa đám đông, chẳng bắt chuyện với ai mà cũng chẳng ai buồn bắt chuyện với. Càng nghe những lời tán tụng thi sĩ máy, ḷng anh càng nặng trĩu buồn phiền.

 

Bước vào tiệc rượu. Nghiêm Văn Túc đạo mạo đọc diễn văn khai mạc với những câu văn vẻ hùng hồn như sau: "Chúng ta hoan nghênh người bạn mới của nông trường và tin tưởng tâm hồn điện tử của anh sẽ truyền hơi sống vào thi ca, ngơ hầu thúc đẩy chúng ta tiến mau trên đường sự nghiệp..." Tán đến con số đăng kư 111, Túc nói: "Nếu đem chiết tự con số đó, chúng ta sẽ được ba con mắt ‘nhất’, nó biểu hiện anh bạn chúng ta có ba điệu trội nhất, ấy là: nhanh nhất, đúng nhất và kỷ luật nhất. Tôi trân trọng đề nghị từ này sẽ gọi tên anh là Ba Con Nhất cho nó… mỹ thuật". Quay sang phía Lăng Quăng, Túc cười đắc chí, kêu gọi Lăng Quăng nên cố gắng noi gương thi sĩ Ba Con Nhất về mọi mặt, nhất là về mặt tôn trọng nội quy. Đọc xong diễn văn, Túc chắp hai tay lên ngực, nghiêm chỉnh ngồi xuống, đảo mắt liếc trộm đám phụ nữ, y thầm nghĩ: mấy cũng có vài cô ả cảm phục cái oai phong lẫm liệt của ḿnh.

 

Tiếp đó, theo đúng nghi lễ, người ta mở tấm vải choàng phủ mặt để Ba Con Nhất xuất đầu lộ diện. Toàn pḥng đứng dậy vỗ tay, nâng cốc, chạm cốc, hoan hô ầm ầm và xuưt xoa khen bộ mặt phỗng của Ba Con Nhất quá là trẻ đẹp. Người ta vặn những nút chữ sau lưng hắn, máy chạy sè sè trong bụng hắn. Đôi mắt hắn lúc sáng lúc tắt, trông tưởng như nhấp nháy, chỉ độ phần mười một giây hắn đă nhả ra ở khe hở con sau gáy một tờ giấy in bài thơ dài đáp từ. Lăng Quăng được chỉ định lên ngâm bài thơ đó. Tiếng ngâm vừa dứt th́ tiếng hoan hô lại ran như sấm, nhiều cô gái nhảy cẫng lên. Một bà mẹ quá xúc động chạy đến chỗ Ba Con Nhất đứng dịu dàng hôn trán hắn. Một thanh niên gỉ tai Lăng Quăng van vỉ mượn bài thơ đáp từ đó để về chép và học.

 

Trong một tiệc rượu, người ta vừa ăn vừa nắc nỏm khen từng chữ từng câu của bài thơ. Mấy cụ ông râu dài trầm giọng láy đi láy lại những câu mà các cụ cho là lư thú nhất như:

 

… Thời đại tươi vui đẹp nắng vàng

Rập rờn cờ đỏ trống khua vang

Bao tay lao động xây tươi đẹp

Phấn khởi nông trường, tiến tiến hăng..

 

Rồi các cụ ho sù sụ làm cho các cụ bà mủm mỉm cười nửa t́nh tứ nửa thương hại. Trong khi ấy Nghiêm Văn Túc thỉnh thoảng lại trang trọng gật gật cái đầu, tỏ vẻ hài ḷng và hả hê đảo mắt liếc phụ nữ…

 

Lăng Quăng th́ im như cá chép, đau khổ ngồi thu nhỏ ḿnh lại trong bàn tiệc, cảm thấy ḿnh bé bỏng quá, tồi tàn quá. Mọi khi trong các buổi hiếu hỉ, anh là cái "đinh". Mọi người tha thiết nài ép anh ngâm thơ. Mọi vỗ tay đều dành tặng cho những vần điệu du dương hay bốc lửa của anh. Mọi con mắt đều đăm đắm rót nh́n vào anh. Mọi đôi môi đều kín đáo trao cười. Than ôi! Thời oanh liệt đó từ nay c̣n đâu nữa!!! Nhưng ai oán nhất cho Lăng Quăng là cô Duyên xem chừng khác ư, suốt tiệc rượu cứ nh́n dán vào mặt Ba Con Nhất, dáng điệu mê mệt, nhiều lần đánh rơi đũa, th́a, cốc hoặc gắp nhầm thức ăn ở đĩa người ngồi cạnh. Lăng Quăng nổi ghen một cách thực thà và choáng váng.

 

 

III. Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất

 

Hàng ngày… hàng ngày vào hai buổi sáng chiều, những bài thơ rút từ sau gáy Ba Con Nhất đều được Nghiêm Văn Túc cho ngâm trước máy phóng thanh. Hết ca tụng "Máy gặt về", "Điện về", "Nước về" lại tả cảnh "Chuồng thỏ mùa xuân", "Cánh đồng mùa hạ", "Hợp tác xă mùa thu". Bài nào cũng mở đầu bằng "Thời đại tươi vui…" Đoạn giữa thế nào cũng có "Cờ đỏ trống khua tay lao động..." Đoạn kết bao giờ cũng có mấy lời kêu gọi "Phấn khởi... tiến hăng..."

 

Nói đến nhiệm vụ th́ sao cũng nhắc nhở "Bỏ ăn bỏ uống một ngày, nhưng không bỏ được máy càng vinh quang". Yêu nhau th́ phát triển măi cái tứ duy nhất là "Yêu nhau dù trọn một đời… Xin đừng đắm đuối mà rơi lập trường".

 

Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất cứ một điệu như vậy, nhạt nhẽo truyền hơi sống vào thi ca, bao trùm mọi câu chuyện, mọi tâm t́nh, mọi cảm nghĩ của cả nông trường… Mọi em bé chăn ḅ học đ̣i Ba Con Nhất cũng ông ổng ngâm nga: "Bỏ ăn bỏ uống một ngày..." Một chiều chủ nhật, Lăng Quăng đi chơi rừng với Duyên.

 

Có bàn chuyện cưới xin th́ bị Duyên chỉnh luôn: "Xem ra đắm đuối lả lơi... Coi chừng kẻo lại đánh rơi lập trường!..." làm cho Lăng Quăng thở dài sườn sượt.

 

Thấm thoát tới hội mùa. Nông trường CON ÉN thu hoạch tốt có tổ chức mít tinh ăn mừng thắng lợi. Chỉ trong nháy mắt Ba Con Nhất đă sản xuất được "Bài ca vụ mùa thắng lợi" ngàn rưởi câu. Nội dung vẫn giống các bài cùng loại này do Ba Con Nhất sản xuất như "Ca làm cỏ thắng lợi", "Ca đi săn thắng lợi", "Ca phát huy sáng kiến thắng lợi", nghĩa là lại vẫn: "Tươi vui… lúa vàng... cờ đỏ hát ca vang... tay lao động... bỏ ăn bỏ ngủ quên sao vụ mùa... phấn khởi tiến hăng… công nông trí kết đoàn v.v…"

 

Nghe xong mọi người lại vô tay một cách hợp thời trang. Mấy cụ râu dài quen lệ lại láy vài câu để các cụ bà mỉm cười.

 

Lăng Quăng lại thấy bực bội trong người, bật dậy như chiếc ḷ xo, đầu ngẩng rất cao, phát biểu: "Sáo đến thế! Nhạt như nước ốc đến thế mà bà con cũng thích được à!…"

 

Nghiêm Văn Túc bèn nổi giận như Chúa thấy quỷ Sa Tăng đả kích vào con chiên của ḿnh, hội ư cấp tốc với một số cán bộ trung kiên để phê phán Lăng Quăng. Một người nói: "Đồng chí Lăng Quăng nặng đầu óc địa vị… thấy thơ của thi sĩ Ba Con Nhất được mọi người yêu thích th́ sinh ra ghen tuông bất măn…" Một người phân tích: "Đồng chí Lăng Quăng nói xấu bạn… phê b́nh thiếu xây dựng, kiêu căng không chịu học hỏi… như thế là tư tưởng phá hoại". Nghiêm Văn Túc quên cả chắp tay lên ngực trân trọng như mọi lần, vội vă lên diễn đàn vận động lư luận kết tội Lăng Quăng coi thường sự thưởng thức văn nghệ của quần chúng và phạm vào chính sách đoàn kết giữa người "máy" và người "thật". Túc đề ra ư kiến tổ chức một cuộc đọ tài văn thơ giữa Lăng Quăng và Ba Con Nhất. Nhiều người giơ tay ủng hộ Túc. Túc nắm chắc phần thất bại nhục nhă của Lăng Quăng và như thế là có cớ để dập vùi anh. Cô Duyên lên diễn đàn xin có ư kiến. Lăng Quăng hồi hộp đợi, tin tưởng ít nhất người yêu của ḿnh cũng sẽ bênh ḿnh. Nhưng không! Bằng giọng cả quyết, cô nói: "Nếu đồng chí Lăng Quăng thua, tôi kiên quyết sẽ cắt đường luyến ái… v́ tôi không muốn lấy chồng tồi, không tiến bộ…"

 

Lăng Quăng mỉm cười chua chát Anh ngẩng cao đầu nhận đọ tài với tên người "giả" đang được mù quáng tôn sùng kia.

 

Ngay sáng hôm sau, toàn thể nông trường nghỉ buổi làm, tới câu lạc bộ chứng kiến một cuộc thi tài văn nghệ "không tiền khoáng hậu".

 

Nghiêm Văn Túc được chỉ định làm trưởng ban giám khảo, ngồi giữa pḥng, hai bàn tay chắp lại đặt giữa ngực, rơ ra dáng nhân vật quan trọng. Bên tả là Ba Con Nhất đứng, ngó bộ kênh kiệu. Bên hữu là Lăng Quăng ngồi thiểu năo. Đầu bài thi như sau: "Tả cảnh trời xuân…" Túc đánh kẻnh báo hiệu bắt đầu. Pḥng họp trở nên im lặng. Chỉ c̣n nghe thấy tiếng ruồi bay vo vo, tiếng máy chạy sè sè và tiếng ng̣i bút kêu soàn soạt.

 

Khốn nạn Lăng Quăng cắn bút măi mới được chưa đầy dăm câu thơ mà Ba Con Nhất đă tuôn ngay một bài thơ 3000 câu. Thế là cuộc thi chấm dứt. Lăng Quăng thua hẳn hoi. Mồ hôi anh vă ra, nét mặt răn rúm lại. Anh được chỉ định ngâm hộ Ba Con Nhất. Giọng anh đau đớn xót xa (giọng của người thất bại chua cay) khiến bà con lầm tưởng anh muốn làm nổi bật lên tâm hồn điện tử thiết tha của Ba Con Nhất và người ta càng vỗ tay ầm ĩ.

 

Bài thơ cũng vẫn quanh đi quẩn lại những câu như:

 

… Rực rỡ vườn xuân, cúc nở vàng

Hoa đào tươi nở báo Xuân sang

Dựng xây nhân loại, tay lao động

No ấm từ đây măi vẻ vang

Nhà máy khói vờn, đà thắng lợi

Công nông trí thức thấy vinh quang

Xuân sang phấn khởi ta đều hứa

Kiến thiết nông trường, tiến tiến hăng!…

 

hay

 

Quên ăn, quên ngủ, chớ quên đời

Chớ quên đất nước, mây trời mùa xuân…

 

Vài cụ râu dài lại làm cái việc thường lệ là nhại lại vài câu lư thú, không quên ho sù sụ để các cụ bà thương hại. Nghiêm Văn Túc đủng đỉnh đứng dậy, ra lệnh bế mạc, rồi rời pḥng thi, mắt không quên liếc ngược đảo xuôi, chắc mẩm thế nào cái dáng điệu quan trọng của ḿnh cũng lọt vào đôi mắt xanh nào đấy…

 

 

IIII. Ba điều đáng chết và ba điều hèn

 

Từ sau cái bữa hỏng thi, Lăng Quăng đă không được Duyên đoái hoài đến nữa.

 

Càng ngày cái vị trí của anh càng bị xuống. Nghiêm Văn Túc lại quất những làn roi phê b́nh tàn bạo vào những sáng tác phẩm của anh, gây thành dư luận rộng răi khiến cho cả nông trường thành kiến với thơ anh đến độ thơ anh làm ra ngâm lên chỉ độ vài khúc là người ta đă nhao nhao kêu tồi, kêu đồi bại, kêu lăng mạn. Có người lại chụp lên dăm cái mũ phong kiến tư sản, tiểu tư sản v.v…

 

Một bữa, muốn đo ḷng người, anh đă là một việc gian dối là kư láo tên Ba Con Nhất xuống một bài thơ mới của anh rồi đem ngâm. Nghe xong, lập tức Túc đứng ra lảm nhảm phân tích làm cho cả nông trường nắc nỏm khen hay. Anh liền nói rơ sự thật là bài ấy chính anh làm th́ một số không tin, cho là anh khuếch khoác, một số khác (trong đó có cả Duyên) th́ lại nói: "Thảo nào, bọn ḿnh nghe xong cũng ngờ ngợ, cảm thấy bài thơ tồi quá…" Riêng Nghiêm Văn Túc th́ đao to búa lớn phê phán anh về cái tội lợi dụng tên tuổi của Ba Con Nhất để được tiếng khen, xúc phạm đến uy tín của lớp người "máy".

 

Lăng Quăng bị chăng chói giữa cuộc sống đầy rẫy thành kiến, bị chung quanh không hiểu ḿnh, bỏ rơi và lạnh nhạt Mà tất cả chỉ tại cái "máy người". Nghiêm Văn Túc và cái người "máy" Ba Con Nhất vô tư vô giác kia, sừng sững yêu quái ở giữa cái nông trường tươi đẹp này. Anh căm phẫn cao độ.

 

Một buổi chiều thoáng thấy bóng Duyên tiến về phía Câu lạc bộ, anh liền theo sau. Duyên vào buồng đặt Ba Con Nhất, bàn tay c̣n đầy dầu máy chứng tỏ cô ả vừa ở cơ xưởng về là vào thẳng đây. Anh đứng nấp sau rem cửa nh́n vào, bỗng thấy Duyên ngoan ngoăn quỳ xuống trước Ba Con Nhất thầm th́ xin một bản t́nh ca. Duyên vặn nút chữ. Tiếng máy sè sè chừng một tích tắc. Ba Con Nhất nhả ra sau gáy một cuộn giấy. Duyên giở ra ngâm nga khe khẽ:

 

… Nghe em! Đừng quên nhiệm vụ

Chớ mất lập trường

Trọn đời anh sẽ yêu em v.v…

 

Ngâm xong, Duyên áp bài thơ t́nh đó vào ngực và ngước mắt đắm đuối nh́n vào đôi mắt nẩy lửa của Ba Con Nhất.

 

Lăng Quăng thấy sôi sục trong tim. Ư nghĩ rùng rợn nẩy ra. Nhất định phải cho vài nhát dao. Anh tḥ tay vào túi lấy ra con dao nhíp, mở cả hai lưỡi loang loáng sáng… và anh tiến vào. Duyên giật ḿnh quay lại, hơi mỉm cười làm anh bối rối. Để lấy can đảm, anh bèn dơng dạc tuyên án: “Cô có 3 điều đáng tội chết. Điều thứ nhất là cô cám dỗ máy làm tổn thương đến đạo đức của máy. Điều thứ hai là cô ăn ở bạc t́nh vô chung vô thuỷ, ấy là tội phản bội. Điều thứ ba là cô giết chết một thiên tài là tôi, phương hại đến cái vốn quư nhất của xă hội là con người.”

 

Duyên b́nh tĩnh đáp lại: “Tôi chết không đáng tiếc, chỉ tiếc là chết bởi tay người hèn. Anh có 3 điều hèn không đáng sống. Điều hèn thứ nhất là anh mang tiếng làm người mà thi văn thơ phải chịu thua máy, điều hèn thứ hai là anh đă ăn cắp cái tên của máy để được tiếng khen, c̣n điều hèn thứ ba là anh định dùng dao hại người tay không, mà người đó lại là người đàn bà con gái…”

 

Lăng Quăng ôm mặt khóc rưng rức và bỏ ra về. Án mạng không xảy ra, chỉ có ḷng anh rớm máu đau thương. (Thực sự Duyên vẫn yêu anh nhưng vẫn phải làm thế nào để giáo dục người yêu.)

 

Mấy hôm sau Lăng Quăng gặp ông chủ tịch, xin rút lui nghề làm thơ, xin được chuyển công tác khác. Nông trường đang thiếu chân quét chuồng ngựa. Ông chủ tịch đă sắp xếp anh vào chân đó, đồng thời cố an ủi khuyến khích anh. Anh làm việc cần cù nhưng đêm đêm vẫn thức khuya tiếp tục làm thơ, những vần thơ ngậm ngùi nói lên:

 

… Những xót xa, những nước mắt khôn nguôi

Những tiếng hát muôn chim,

Những phút trái tim cười

Tôi chắp nỗi buồn vui măi măi

(Dù em chẳng nghe tôi)

Tôi vẫn ca

Lanh lảnh chuyện đời

Ḷng hằng tin: Người sẽ hiểu ḷng tôi.

 

 

V. Đoạn kết rất công thức nhưng cần thiết

 

Số là… dù sao đi nữa th́ máy vẫn chỉ là máy. Khả năng của máy chỉ có hạn. Tâm hồn điện tử của Ba Con Nhất dù được Nghiêm Văn Túc nâng niu đến mấy đi nữa cũng trở nên tầm thường khô cạn và nhạt nhẽo. Nông trường CON ÉN đă bắt đầu ngấy những vần điệu nhai đi nhai lại măi.

 

Những bài về thời sự chính sách của thi sĩ máy từ bài thứ vài ngh́n trở đi được phóng thanh sáng sáng chiều chiều đă làm các bà già buồn ngủ, các ông già bực dọc bứt tóc vặt râu, các con trai bịt lỗ tai, các cô gái thanh xuân th́ nguyền rủa: “Khổ lắm biết rồi, cũ lắm rồi”. C̣n cụ Hay Rượu th́ chếch choáng vài ba tợp rượu xông lại trước mặt Ba Con Nhất mà cà khịa. Nghiêm Văn Túc th́ giở một quyển luật về “chống đánh nhau” ra can.

 

Cuối cùng cả nông trường kiến nghị lên ông chủ tịch đ̣i quẳng Ba Con Nhất vào kho chứa đồ đồng nát. Túc cố kể thành tích của Ba Con Nhất ḥng cứu văn quyền uy của máy. Cả nông trường phản đối Túc quyết liệt, lại c̣n đ̣i quẳng cả cái tủ sách vở chứa trong bụng Túc đi nhân thể. Túc lấy làm sợ hăi, vội vàng chắp hai tay lên ngực, rồi khóc, trang trọng y hệt bậc chân tu thấy mọi gười không hiểu nổi chánh đạo của ḿnh.

 

Sau đó Nguyễn Linh Quang được trả về chức vụ thi sĩ của của ḿnh. Nông trường giao cho cô Duyên xuống chuồng ngựa đón. Cuộc tái hợp diễn ra bao nhiêu mừng mừng tủi tủi.

 

Nông trường trở lại đời sống thực của con người. Bà con lại học thuộc thơ Lăng Quăng, những bài thơ hiện thực xă hội chủ nghĩa, rất “người”, ca tụng t́nh yêu lao động, sáng tạo yêu đất nước và yêu cuộc sống vĩ đại muôn màu muôn vẻ

 

Tin sau cùng: Những sự việc xảy ra ở nông trường CON ÉN đă tương tự xảy ra ở một số nơi khác (từng sử dụng sai lầm người “máy”) và cùng đi đến một kết luận công thức nhưng rất cần thiết như đă kể lại ở trên đây.

 

1956

 

(Trích báo Nhân văn số 5 xuất bản ngày 20-11-1956)

 

 

*

 

 

 

Chương IV: Các nhà học giả

 

Hiện nay ở Bắc Việt có ba nhà học giả, có uy tín trong nước và ngoài nước. Cả ba đều là giáo sư đại học. Đấy là các ông: Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo và Nguyễn Mạnh Tường.

 

Cả ba ông đều tích cực tham gia kháng chiến và hoạt động trong phong trào Nhân văn-Giai phẩm và đều đă bị đuổi khỏi trường đại học.

 

Chúng tôi xin giới thiệu cả ba nhà học giả cùng với những bài văn họ viết đề đấu tranh đ̣i chế độ miền Bắc phải thực hiện tự do dân chủ.

 

 

Đào Duy Anh

 

Ông Đào Duy Anh là một nhà học giả toàn quốc đều biết v́ ông đă có công soạn nhiều bộ từ điển và nhiều bộ sử có giá trị.

 

Thuở nhỏ ông ở Thanh Hoá, lớn lên ông theo gia đ́nh vào Huế học. Xuất thân làm thày giáo và tham gia cách mạng trong phong trào Tân Việt, hồi 1930, sau đó ông quay ra viết sách và xuất bản sách.

 

Trong kháng chiến, ông lui về Thanh Hoá, sống giữa một ngọn đồi hẻo lánh ở gần Sim, và tiếp tục viết sách. Năm 1952 ông bị triệu đi Việt Bắc, nhưng lên tới nơi, ông không chịu nổi khí hậu, bị kiệt dần sức khoẻ, nên đến cuối năm 1953 phải thuê người thồ bằng xe đạp đưa ông về Thanh Hoá. Ít lâu sau ông dạy sử ở trường Dự bị Đại học. Về Hà Nội ông được bổ dạy ở Đại học Văn khoa.

 

Ông là người điềm đạm, trong các buổi họp ông ít phát biểu ư kiến và mỗi khi cuộc thảo luận trở nên gay gắt th́ ông hay lẩn tránh. Tuy vậy gần đây ông cũng đứng hẳn về phe đối lập, viết nhiều bài trong Nhân văn và Giai phẩm lên án chính sách của Đảng. Dù sao ông vẫn là nhà viết sách khảo cứu hơn là nhà viết báo, nên ông vẫn ưa phân tách tỉ mỉ những sai lầm, hơn là công kích để đả phá.

 

Chúng tôi trích mấy đoạn văn sau đây của ông để giới thiệu lối tranh luận khách quan và từ tốn của một nhà sử học, thật là khác hẳn với lối văn bút chiến của cụ Phan Khôi hay là của ông Sĩ Ngọc.

 

 

*

 

 

 

Muốn phát triển học thuật

 

Tôi muốn góp một số ư kiến vào vấn đề xây dựng nền học thuật của nước nhà. Chẳng cần phải thảo luận, ai ai cũng phải thừa nhận rằng nền học thuật của ta hiện nay thấp kém, lạc hậu. Trong sự nghiệp kiến thiết kinh tế và văn hoá để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ theo hướng xă hội chủ nghĩa, công tác học thuật, công tác nghiên cứu khoa học, có một vai tṛ trọng đại, v́ công tác này mà không phát triển th́ không những kiến thiết văn hoá mà cả kiến thiết kinh tế cũng không thể đi xa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thế nào cho công tác ấy đáp ứng xứng đáng được nhu cầu kiến thiết. Nhưng muốn nhận định nhiệm vụ ấy cho đúng đắn, cần phải đánh giá đúng mức t́nh h́nh hiện tại của công tác học thuật.

 

Trong thời kháng chiến, tinh thần mọi người đều căng thẳng hướng về yêu cầu "tất cả cho tiền tuyến", cho nên cái t́nh trạng công tác nghiên cứu khoa học không được săn sóc và người trí thức không được xem trọng, tuồng như chẳng đặt ra vấn đề ǵ. Nhưng từ ngày hoà b́nh trở lại th́ t́nh h́nh khác hẳn. Mọi người, Chính phủ cũng như nhân dân, đều nhận thấy rằng trong sự nghiệp kiến thiết kinh tế và văn hoá, nghiên cứu khoa học là vô cùng cần thiết. Giới trí thức cảm thấy sâu sắc rằng đây là cơ hội để họ có thể đem khả năng chuyên môn ra phục vụ và mọi người đều hi vọng rằng, với sự săn sóc của Chính phủ đối với công tác nghiên cứu khoa học và sự giúp đỡ của các nước bạn, họ sẽ có điều kiện hoạt động dễ dàng, khác với cảnh chật vật gay go của thời kháng chiến. Thế mà quang cảnh nghiên cứu khoa học chưa thấy khởi sắc, công tác học thuật vẫn cứ tiêu điều, giới trí thức lại dần dần mất đà phấn khởi. Chúng ta phải có can đảm nh́n nhận thực tế ấy, thành khẩn nhận ra nguyên nhân th́ mới có thể t́m phương cải thiện t́nh h́nh được.

 

V́ chưa có chính sách cụ thể về vấn đề trí thức cho nên trong quan niệm của người cán bộ chính trị, có khi là người giữ trách nhiệm điều khiển và lănh đạo ở bực cao, vẫn tồn tại cái thành kiến không tin khả năng của người trí thức. Do đó, trong thực tế, người trí thức không được cảm thông nâng đỡ trong yêu cầu chuyên môn của họ, mà trái lại, họ cảm thấy luôn luôn bị người cán bộ chính trị chèn ép.

 

Theo tôi thiển nghĩ th́ công tác chuyên môn căn bản phải do những nhà chuyên môn phụ trách - nếu không có đủ th́ phải đào tạo mà điều ấy không phương hại ǵ cho nguyên tắc chính trị lănh đạo.

 

Trong địa hạt khoa học tự nhiên, sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn như thế cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Trong địa hạt khoa học xă hội th́ mối tệ cũng không kém. V́ khoa học xă hội chịu sự lănh đạo của chính trị trực tiếp hơn cho nên người ta rất dễ nghĩ lầm rằng hễ người có lập trường và năng lực chính trị vững vàng th́ tất có điều kiện căn bản cần thiết để làm công tác về khoa học xă hội. Bởi thế chúng ta thấy không ít trường hợp, hoặc những cán bộ thuần tuư chính trị hoặc những cán bộ chính trị mượn danh hiệu chuyên môn, được cử ra lănh đạo một tổ chức văn hoá hay học thuật. Như thế th́ công tác nghiên cứu khoa học khó ḷng được quan niệm và hướng dẫn đúng đắn. Thái độ quá dễ dăi của người lănh đạo đối với sự nghiên cứu, do tŕnh độ chuyên môn c̣n non gây nên, và thái độ lũng đoạn học thuật do quan niệm hẹp ḥi về lập trường gây nên, có thể tạo thành cái tác phong nghiên cứu hời hợt, thiếu nghiêm túc và chính xác, rất có hại cho công cuộc nghiên cứu chân chính.

 

Tóm lại, chính cái tư tưởng không tin và coi rẻ trí thức đă dẫn đến sự ứng dụng lệch lạc cái nguyên tắc rất đúng đắn về quyền lănh đạo của chính trị, do đó công tác học thuật của chúng ta, về khoa học tự nhiên cũng như về khoa học xă hội, gặp nhiều cản trở mà vẫn bị hăm vào t́nh trạng lạc hậu.

 

Nhưng muốn chấm dứt t́nh trạng ấy, muốn cho học thuật phát triển được th́ không thể làm thế nào khác được là dựa vào cái cơ sở sẵn có, các nhà trí thức chuyên môn Việt Nam, tức là đạo quân chủ lực của công tác học thuật.

 

Do đó vấn đề mấu chốt cần phải giải quyết trước hết để thúc đẩy công tác học thuật tiến lên là vấn đề trí thức.

 

Cái điều kiện cuối cùng, mà không thể thiếu được, để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Ở đây tôi không vạch ra hạn chế tự do tư tưởng nói chung v́ những tác phong quan liêu bè phái, độc đoán là những cái đă tác hại nghiêm trọng trong mọi ngành công tác. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai h́nh thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Đại hội thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô đă tố cáo những tác hại của hai bệnh ấy trong công tác tư tưởng và học thuật, nhất là về khoa học xă hội. Phần lớn các nhà công tác lư luận cũng như các nhà triết học, sử học chỉ là "nhắc lại những khuyến cáo, công thức và đề án cũ mà họ đă lật đi lật lại đủ chiều" (Mi-cai-an). [2] Thậm chí người ta c̣n cho rằng "khoa học xă hội chỉ có thể phát triển nhờ những nhân vật phi phàm, các nhà học giả khác chỉ có việc là chú giải và phổ biến những tác phẩm của các lănh tụ" (Kommounist). [3] Ở nước ta th́ bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại c̣n trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề ǵ, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác-Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ư kiến của Sta-lin hay các lănh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ư kiến ấy, hoặc g̣̣ bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ư kiến ấy. Xin chỉ một cái tỷ dụ gần đây. Như vấn đề phân kỳ của lịch sử Việt Nam và vấn đề h́nh thành dân tộc, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều người nghiên cứu không dám có ư kiến ǵ mới ngoài những điều các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hay các vị lănh tụ đă nói về các vấn đề ấy. [4] Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ư kiến ǵ vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có th́ người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta.

 

Tư tưởng không tự do th́ không thể tự do thảo luận được. Mặc dầu không ai cấm tranh luận - các nhà lănh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận nhưng trong thực tế th́ sự thảo luận đă bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận một vấn đề ǵ, nhiều người chỉ nơm nớp sợ không khéo th́ chệch ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy, công tác học thuật trở thành tṛ xiếc leo dây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang mọi người tự do đi lại, chứ không phải sợi dây căng của người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật. Phải áp dụng chính sách "bách gia tranh minh" mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành đối với công tác nghiên cứu khoa học, cái chủ trương mà ông Lục Định Nhất đă giải thích rằng: "Tự do suy nghĩ độc lập, tự do tranh luận, tự do sáng tác và tự do phê b́nh, tự do phát biểu ư kiến của ḿnh". Về điểm này tôi không thể nói ǵ hơn. Tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng cái tự do chúng ta chủ trương đây, cũng như ư kiến của ông Lục Định Nhất, không phải là tự do theo lối tư sản, mà là tự do dân chủ trong nội bộ nhân dân.

 

Giới trí thức Việt Nam đương chờ đợi một sự giải quyết mạnh bạo và căn bản.

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu tập III năm 1956) [5]

 

 

*

 

 

 

Trần Đức Thảo

 

Trần Đức Thảo, năm nay 45 tuổi là con cụ Trần Đức Tiến, một tiểu công chức ṭng sự tại Sở Bưu điện hà Nội.

 

Lúc ông c̣n học ở trường Lycée Albert Sarraut, ông đă tỏ ra hết sức thông minh. Các thầy dạy ông, nhất là ông Ner đă kêu lên là không chấm nổi bài của ông. Ông đỗ tú tài triết học năm 1935, và năm sau ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale Supérieure ở bên Pháp. Sau đó ông đỗ thạc sĩ về triết học và dạy ở Sorbonne.

 

Ở bên Pháp ông nghiên cứu thêm về triết học, xă hội học, viết nhiều bài trong các tạp chí văn học.

Lúc đầu ông theo chủ nghĩa "Existentialisme" của Jean Paul Sartre, nhưng từ 1946 ông thiên về chủ nghĩa Mác, gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, và viết báo đả kích ông Jean Paul Sartre. Ông này kiện ông tại toà, nhưng toà chưa xử, th́ ông Thảo đáp tầu đi Mạc Tư Khoa, rồi thẳng đường về Bắc Việt (năm 1951).

 

Về đến nhà, ông bị giữ trong một khu rừng hẻo lánh trong chiến khu Việt Bắc và công tác người ta giao cho ông là dịch những truyền đơn địch vận từ tiếng Việt sang tiếng Pháp. Nhà lănh tụ Hồ Chí Minh bảo ông: "Chú đọc sách vở ngoại quốc đă nhiều, nay chú mới về hăy nên học hỏi nhân dân trước đă". Một phần v́ quá nhàn rỗi một phần v́ chán nản, nên mỗi ngày ông ngủ 18 giờ, chỉ thức để ăn và làm việc chừng 6 giờ.

 

Ông Trần Đức Thảo là điển h́nh của một nhà trí thức say mê chủ nghĩa cộng sản v́ nghiên cứu chủ nghĩa ấy trên sách vở. Sự say mê đó đă tiêu tan từ ngày ông bước chân về nước và ngày nay sau kinh nghiệm Cải cách ruộng đất ông đă hoàn toàn tỉnh ngộ.

 

Bài ông viết sau đây phô bày tất cả sự đau xót của ông, tuy nhiên ông là người đầy thiện chí, nên ông c̣n đang cố gắng mang triết lư ra để sửa chữa những "sai lầm" ḥng cứu văn t́nh thế v́ ông vẫn c̣n tia hy vọng trong đáy ḷng là có thể thực hiện được cái lư thuyết cao siêu của ông Marx. Tuy vậy, giọng văn của ông cũng đầy một vẻ bực dọc không kém những người khác.

 

Mặc dầu ông Thảo đă hi sinh địa vị cao quư ở Pháp để trở về nước tham gia kháng chiến, ngày nay ông vẫn bị quy là phản động số một, tay sai của đế quốc.

 

 

*

 

 

 

Nội dung xă hội và h́nh thức tự do

 

Vấn đề tự do và tự do cho ai, tự do đối với ai, tự do để làm ǵ.

 

Tự do của quảng đại quần chúng, đấy là một nội dung chân chính mà chế độ ta thực hiện về căn bản, và có điều kiện để phát triển không ngừng. Nhưng đây tổ chức chúng ta, tuy xét về nội dung là dân chủ thực sự, nhưng lại bị lũng đoạn bởi những bệnh nặng nề: quan liêu, mệnh lệnh, giáo điều, bè phái, sùng bái cá nhân.

 

Đây là một cuộc đấu tranh cách mạng tiến hành trong nội bộ nhân dân, bằng phê b́nh và tự phê b́nh, đặng tranh thủ cho mỗi công dân những điều kiện hoạt động chính đáng và cần thiết để góp phần vào nhiệm vụ chung, chống sự ḱm hăm và lấn át của những phần tử lạc hậu: quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân ở mọi cấp lănh đạo. Phải nói rơ ở mọi cấp lănh đạo, v́ nếu xét đến cá nhân th́ những bệnh ấy c̣n khá phổ biến với mức tiến triển của xă hội ta bây giờ, nhưng có ở cương vị lănh đạo th́ nó mới có điều kiện để gây tai hại lớn cho nhân dân. Những sai lầm nghiêm trọng phạm phải trong Cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức [6] , kiến thiết kinh tế và văn hoá là những dẫn chứng hùng hồn. Những sai lầm ấy th́ nhân dân ở mỗi địa phương và nhiều cán bộ cấp dưới, mỗi người trong phạm vi của ḿnh, từ lâu đă trông thấy rơ, v́ đă phải chịu đựng những tai hại gây ra cho bản thân ḿnh hay chung quanh ḿnh. Mà v́ những sự việc ấy có tính chất phổ biến, vấn đề rút kinh nghiệm cũng không đến nỗi khó lắm.

 

Cụ thể như trong Cải cách ruộng đất, đặc biệt là đợt 4 và đợt 5, nhân dân đă có nhiều ư kiến xác đáng, dựa vào những bài học hiển nhiên của lịch sử Cách mạng Việt Nam, vào lư trí và đạo đức tự phát của người thường dân. Ví dụ như trước những nhận định từ trên đưa xuống về t́nh h́nh nông thôn, thổi phồng lực lượng của địch và mạt sát cơ sở của ta, th́ quần chúng và cán bộ cấp dưới đă có nhiều thắc mắc.

 

Do quá tŕnh thực tế phản đế phản phong, tổ chức kháng chiến của ta tất nhiên là một tổ chức của nhân dân lao động dưới sự lănh đạo của Đảng, và nếu có bao gồm một số phần tử phức tạp th́ những phần tử ấy nói chung cũng đă được giáo dục ít hay nhiều trong thực tiễn đấu tranh, phục vụ nhân dân. Vậy cơ sở ta ở nông thôn trước Cải cách ruộng đất cũng không thể nào xấu đến thế. Nó cần được cải tạo, nhưng không đến nỗi phải đả kích hàng loạt. Mà theo lư trí thông thường của người dân th́ nếu thực sự tổ chức của ta đă bị lũng đoạn nghiêm trọng, thậm chí nếu tổ chức của địch lại "lồng vào tổ chức của ta" th́ làm sao mà chúng ta lại kháng chiến thắng lợi? Đến cấp huyện và cấp tỉnh th́ cái nội dung "chỉnh đốn tổ chức" lại càng quái gở, cuối cùng, theo t́nh cảm tự phát và thương yêu bạn đồng đội, không nói ǵ đến đạo đức và nhân sinh quan cách mạng, th́ cũng không thể nào kết án cơ sở chiến đấu của ta một cách đơn giản, chung chung vô trách nhiệm và khinh con người đến mức ấy. Cụ thể ở mỗi địa phương mà đă đánh tràn lan, th́ tính chất trái ngược, phản t́nh phản lư của các nhận định chung về t́nh h́nh địch và ta đă phát hiện ngay trong việc làm. Nhưng về cơ cấu của bộ máy lănh đạo có hướng một chiều, rất nặng về tổ chức và phương tiện đả thông, cưỡng bách, mà những ư kiến phê b́nh của nhân dân hay cấp dưới th́ lại hoàn toàn để cho cấp trên quyết định có nên xét đến và có thảo luận hay không, cho nên những bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân trong tổ chức lănh đạo đă có điều kiện khách quan để phát triển, đẩy mạnh phong trào đàn áp tư tưởng, phớt qua quy tắc dân chủ, biến những ư kiến chủ quan thành "lập trường" bất di bất dịch. Nhờ những điều kiện ấy mà những phần tử lạc hậu, bảo thủ, đă ngăn cản ư kiến của quần chúng, cản trở việc sửa chữa sai lầm, cho đến lúc tác hại lớn quá, cơ sở đă bị tổn thất nặng nề, chỉnh đốn tổ chức ở huyện và tỉnh phát triển theo một thứ chủ nghĩa nông dân lưu manh hoá. Rơ ràng những phần tử quan liêu bè phái đă lấy thành kiến của họ làm đường lối của lịch sử, biến những sai lầm của họ thành bánh xe vô t́nh của lịch sử. Một bộ máy hùng mạnh, xây dựng để diệt thù, đến lúc không thấy thù th́ lại quay về bạn, lấy bạn làm thù mà đập phá bừa băi.

 

Sai lầm trong Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức là một trường hợp điển h́nh, nhưng thực ra th́ trong mọi vấn đề khác như kiến thiết kinh tế và văn hoá, cũng đă phải chờ cho có tai hạn lớn lao, đồng thời cũng có ánh sáng của Đại hội XX phát động phong trào tự do dân chủ, mới bắt đầu rút bài học kinh nghiệm. Rơ ràng rằng phương pháp phê b́nh thông thường trong nội bộ tổ chức không đủ để sửa sai kịp thời những sai lầm hết sức quan trọng. C̣n những sai lầm tương đối nhẹ hơn hoặc tác hại âm thầm hơn th́ tất nhiên lại càng dễ xuư xoá. Cần phải có sự xây dựng tích cực của nhân dân mới ngăn ngừa được ảnh hưởng của những phần tử bảo thủ, lạc hậu, những ông quan liêu, những ông sĩ diện, những ông bè phái luôn luôn cản trở đường lối quần chúng của Đảng. Nhưng v́ chúng ta c̣n thiếu tập quán tự do, việc phê b́nh công khai tổ chức lănh đạo thường dễ gây thắc mắc. Dù nội dung phê b́nh có đúng chăng nữa, dù kinh nghiệm có cho hay rằng không đặt vấn đề trước quần chúng th́ không thể nào giải quyết kịp thời, nhiều anh em vẫn chỉ chú trọng nhận xét về "thái độ", truy nguyên tư tưởng: thiếu tin tưởng, bất măn, tự do tư sản, thoát ly lănh đạo, thậm chí là bôi nhọ chế độ", "để cho địch lợi dụng!". Những anh em ấy không thấy rằng nhân dân được sự lănh đạo của Đảng th́ Đảng cũng phải được sự xây dựng của nhân dân, miễn là cuối cùng th́ nhân dân thực hiện chủ trương chính sách của Đảng. Mà nếu trong lời phê b́nh có phần "bất măn", th́ có cái bất măn ấy mới sửa chữa được sai lầm, có cái bất măn ấy th́ lănh đạo mới thoả măn được nhân dân.

 

Lănh đạo theo đường lối quần chúng không phải chỉ là ngồi trên mà "t́m hiểu quần chúng". V́ như thế vẫn c̣n là tự ḿnh đặt trên nhân dân, mà người lănh đạo không có quyền tự đặt ḿnh trên nhân dân.

 

Kinh nghiệm Cải cách ruộng đất là một bằng chứng điển h́nh. Không công tác nào đă tập trung chừng ấy phương tiện đả thông và cưỡng bách, bộ máy tổ chức được rèn giũa như một động cơ hiện đại kiên cố, nhưng cũng v́ thế mà không nghe thấy ư kiến phê b́nh của nhân dân rồi đi đến chỗ làm ngược hẳn đường lối chính sách cách mạng, tấn công bừa băi, phá huỷ cơ sở. Chính lúc Trung ương tin tưởng rằng nhờ tổ chức chặt chẽ mà nắm được hết th́ biện chứng pháp của lịch sử đă quay lại vấn đề: tổ chức thoát ly quần chúng, lănh đạo rất yếu, chỉ đạo lung tung.

 

Chúng ta có thể nhận định: vấn đề tự do nhân dân miền Bắc hiện nay cụ thể trước mắt là tự do đối với những phần tử lạc hậu, bảo thủ, quan liêu, giáo điều, bè phái sùng bái cá nhân nằm ở mọi cấp lănh đạo mà cản trở sự phát triển của chế độ dân chủ nhân dân, làm lệch công tác lănh đạo của Đảng, đă gây ra nhiều tổn thất nghiêm trọng cho tổ chức nói chung là ḱm hăm công cuộc kiến thiết miền Bắc, tranh thủ miền Nam. Nhiệm vụ chống những phần tử ấy căn bản là nhiệm vụ đấu tranh với bạn, tiến hành bằng phê b́nh và tự phê b́nh.

 

Trong bản tham luận đọc trước Đại hội thứ VIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng chí Đặng Tiểu B́nh, hiện giờ Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Trung Quốc đă nói: "Đảng không có quyền vượt lên trên quần chúng nhân dân, tức là Đảng không có quyền ban ơn, cưỡng bách, mệnh lệnh đối với quần chúng nhân dân, Đảng không có quyền xưng vương xưng bá trên đầu nhân dân".

 

(Trích Giai phẩm mùa Đông tập I, 1956)

 

 

*

 

 

 

Nỗ lực phát triển tự do dân chủ

 

Trước hết, chúng ta phải nhận định rơ ư nghĩa và nội dung của phong trào tự do dân chủ đương phát triển trong nhân dân. Căn bản nó là phong trào quốc tế, do Đại hội Đảng XX của Đảng Cộng sản Liên Xô phát động, và đương lan tràn rầm rộ trên khắp thế giới.

 

… Nhân dân Việt Nam với sự lănh đạo của Đảng và Chính phủ, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu bè phái, sùng bái cá nhân, chính là thực hiện đường lối cách mạng của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, do Đảng Lao động Việt Nam truyền đạt.

 

… Có anh em lo rằng với tự do dân chủ được phát triển, giai cấp tư sản sẽ “ngóc đầu” lên. Chính như thế là đánh lạc vấn đề. Từ ngày hoà b́nh trở lại, chúng ta mở rộng phạm vi kinh doanh tư sản, chúng ta hô hào họ đầu tư; như thế họ cũng đă được thoả măn một phần khá, mà họ cũng không có đủ sức để làm ǵ khác. Những người có vấn đề phê b́nh là những người lao động trí óc và lao động chân tay, phục vụ nhân dân và trung thành với Đảng, nhưng chưa được điều kiện để phát huy khả năng và phục vụ có kết quả, thậm chí c̣n bị ḱm hăm, chà đạp bởi những phần tử quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân… Cái tự do mà họ muốn phát triển là tự do của toàn dân phê b́nh lănh đạo, v́ lănh đạo chính là lănh đạo của ḿnh, mà có phê b́nh th́ mới xây dựng được một tổ chức hợp lư, bảo đảm những điều kiện cần thiết để mọi công tác được kết quả tốt, để mỗi công dân được góp phần vào nhiệm vụ chung. Cái tự do ấy là quyền của người công dân, nó được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta… Chúng ta phải nỗ lực mở rộng dân chủ, phát triển phê b́nh trong nhân dân. Đảng đă chỉ đường vạch lối, nhưng không thể làm thay: Tự do không phải là cái ǵ có thể ban ơn.

 

Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự do dân chủ trong những nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức Việt Nam có phần trách nhiệm quan trọng. Người trí thức hoạt động văn hoá, cần tự do như khí trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân.

 

Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đă bóc trần những kết quả tai hại của tác phong lănh đạo vi phạm h́nh thức tự do.

 

… Riêng trong công tác văn hoá, một số bộ phận nghiên cứu sáng tác như bộ phận khoa học xă hội, theo báo cáo của đồng chí Mi-cai-an, đă bị hầu như tê liệt…

 

H́nh thức tự do là tự do cá nhân… Cá nhân phục tùng tập thể, nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng và h́nh thức tự do trong phạm vi pháp lư nhân dân là điều kiện để mỗi cá nhân góp phần thực sự xây dựng tập thể. Xét đến t́nh h́nh thế giới mới đây, lư tưởng tự do cá nhân lại là lư tưởng của những ngày tiến tới, lư tưởng của chủ nghĩa cộng sản bây giờ đương bắt đầu trở thành một thực tế lịch sử ở Liên Xô.

 

Những nghị quyết lịch sử của Đại hội đă ảnh hưởng sâu sắc đến các nước dân chủ nhân dân anh em và phong trào công nhân và nhân dân thế giới. Nước ta không thể nào đứng riêng: chúng ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xă hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đă gột rửa những nết xấu của đời Stalin, với nội dung chân chính xây dựng trên kinh nghiệm kiến thiết chủ nghĩa xă hội trên toàn thế giới, trong ấy dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, nhiệm vụ của vô sản chuyên chính là phát triển tự do cá nhân.

 

(Trích báo Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 năm 1956) [7]

 

 

[1]Đính chính: Trong cuốn Tâm trạng giới văn nghệ ở miền Bắc xuất bản đầu năm 1957 chúng tôi nhầm Châm Văn Biếm là bút hiệu của Nguyễn Hữu Đang. Vậy xin đính chính lại là của Như Mai - Mạc Đ́nh.

[2]Phiên âm chữ Mikoyan

[3]Tên một tờ báo

[4]Sử gia Việt cộng là ông Trần Huy Liệu có viết một bài báo giải thích rằng: xă hội Việt Nam bắt đầu h́nh thành từ năm 1930 là năm Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Ông Đào Duy Anh phản đối lư thuyết đó nên ông viết cuốn Vấn đề h́nh thành xă hội Việt Nam, trong đó ông bác thuyết của ông Liệu và chủ trương rằng xă hội Việt Nam đă h́nh thành từ thời Bắc thuộc.

[5]Bài trích trong sách này thiếu nhiều đoạn. Xem toàn văn trong Giai phẩm mùa Thu tập III (talawas).

[6]“Chỉnh đốn tổ chức” là một danh từ mới thay thế cho danh từ “thanh trừng” trong nộI bộ Đảng và trong chính quyền.

[7]Xem toàn văn bài viết trong Nhân văn số 3, bản trích trong sách này không đầy đủ (talawas).

Tiếp phần II, chương IV: Các nhà học giả: Nguyễn Mạnh Tường

 

Nguyễn Mạnh Tường là một người nổi tiếng là thông minh, v́ mới 23 tuổi ông đă đỗ hai bằng Tiến sĩ luật khoa và Tiến sĩ văn khoa. Ông theo học ở trường Albert Sarraut ở Hà Nội, sau đó sang Pháp học ở Montpellier. Sau khi về nước, ông được bổ dạy ở Trường Bảo hộ. Bị bạc đăi ông bỏ nghề dạy, ra làm trạng sư.

 

Năm 1946, ông được chính phủ Hồ Chí Minh cử đi dự Hội nghị Đà Lạt, nhưng v́ xung đột với Vơ Nguyên Giáp, nên không được dự Hội nghị Fontainebleau.

 

Từ 1947 đến 1950 ông làm trạng sư ở khu III. Trong khi bênh vực cho các bị cáo trước toà, ông hay dùng lời lẽ văn hoa để "nói mát" chế độ, nên ông bị chuyển sang ngành giáo dục.

 

Ông bị coi là phần tử "ngoan cố", không chịu "lột xác" nên thường bị đả kích . Có lần cán bộ đặt ra vở kịch nhan đề là Phải hấp lại để lăng mạ ông, nhưng ông không thèm trả lời.

 

Từ 1952 đến 1954 ông dạy ở Trường Dự bị Đại học, và sau ngày đ́nh chiến, ông được về dạy ở trường Văn khoa Đại học ở Hà Nội. Chúng tôi giới thiệu ông Nguyễn Mạnh Tường bằng hai bài của ông. Một bài nhan đề " Vừa khóc vừa cười" để giới thiệu ông Nguyễn Mạnh Tường Tiến sĩ văn khoa, và bài “Những sai lầm trong Cải cách ruộng đất” để giới thiệu ông Nguyễn Mạnh Tường Tiến sĩ luật khoa.

 

 

*

 

 

Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo

 

Lời soạn giả: Ông Nguyễn Mạnh Tường đă đọc bài diễn văn này trong một cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc Hà Nội ngày 4 tháng 10 năm 1956 với tư cách đại diện cho trí thức ở thủ đô.

 

Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức có tính cách "táp nham" mà chính quyền cộng sản thành lập với mục đích để lùa những phần tử "lừng chừng" vào cho tiện bề kiểm soát. Nó là biến thân của Mặt trận Liên Việt ngày xưa mà đă có người gọi là Mặt trận Lờ Vờ, hoặt tệ hơn nữa là: Mặt trận Lông Vịt.

 

V́ tính cách phức tạp của các hội viên mà đa số thuộc các thành phần "bất kham" nên sự kiểm soát của Đảng không mấy khi được chu đáo. Trong mấy tháng mùa Thu năm ngoái, vào lúc chính quyền đương bị dao động, th́ sự kiểm soát đó gần như mất hiệu quả. Đó là lư do khiến luật sư Nguyễn Mạnh Tường có dịp lợi dụng cơ hội và hoàn cảnh đả kích kịch liệt chế độ bằng bài diễn văn này.

 

Bài này không được đăng trên các báo xuất bản ở Hà Nội, nhưng không biết bằng cách nào đă lọt tới Rangoon, sang Paris.

 

Bài diễn văn của ông Tường đă làm rung động thế giới v́ lần đầu tiên có một nhà luật học đứng trên lập trường pháp lư của các nước văn minh lên án chính sách của ông Mao Trạch Đông về chương tŕnh Cải cách ruộng đất đề ra từ 1926 và áp dụng lần đầu tiên ở Hồ Nam. Ngày nay, vừa đúng 30 năm về sau, và dựa trên kinh nghiệm đau xót của Bắc Việt, ông Tường lớn tiếng tuyên bố rằng chính sách đó quá ư dă man, không có mảy may nhân đạo và hoàn toàn trái với các nguyên tắc căn bản của pháp lư mà nhân loại công nhận hàng mấy ngàn năm nay.

 

Ông Tường cũng là người trí thức Việt Nam đầu tiên, sống dưới chế độ cộng sản, mà có can đảm lớn tiếng nói rằng: "Tôi là trí thức", không có tự ti mặc cảm, không "mất khí thế của giai cấp".

 

Nhà văn hào Nga Boris Pasternak trong tác phẩm Bác sĩ Zhivago của ông, cũng nhắc lại một câu thơ của Puchkine: "Ta là tiểu tư sản, ta là tiểu tư sản" để nói rằng thành phần tiểu tư sản không có ǵ đáng hổ thẹn cả. Sự giác ngộ và đoàn kết của cấp tiểu tư sản sẽ chặn đứng và tiêu diệt chế độ cộng sản trong hậu bán thế kỷ hai mươi. Đó là ư kiến chung của giới trí thức sống trong bức màn sắt.

 

 

*

 

 

 

Thưa các quí vị,

 

Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ư kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đă tŕnh bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của ḿnh trước nhân dân và lịch sử nước nhà.

 

Tôi phấn khởi được nghe bản phê b́nh của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng ḷng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, v́ tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đă phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng ḿnh trước kỷ niệm những người vô tội đă chết oan, không phải v́ bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đă hi sinh, có thể nói được, chết với trong ḷng chan chứa nỗi vui sướng v́ chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết v́ địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan v́ các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót v́ chết với một ô danh. Chúng ta đă xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được? Nếu chúng ta duy tâm và tin rằng linh hồn c̣n tồn tại th́ một phần nào ta chuộc lại được tội lỗi của ta. Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy vật. Do đó, cái nỗi khổ cực của họ ta biết rơ rằng bây giờ ta không thể nào thủ tiêu được nữa. Quyền hạn của ta không tới đó. Nhưng cái ǵ ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thía nỗi đau khổ của họ khi họ từ trần là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân.

 

Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép tŕnh bày mấy ư kiến xây dựng. Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, nhưng theo ư tôi các sai lầm này chỉ là biểu hiện điển h́nh và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lănh đạo của Đảng Lao động. Do đó tôi xin được góp ư kiến xây dựng quan điểm lănh đạo của Đảng Lao động.

 

Tại sao tôi lại tin như vậy? Là v́, không những trong Cải cách Ruộng đất chúng ta đă phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đă đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao động, với sự mong đợi của toàn dân. Chúng ta phải kiên quyết không cho các sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đă chết oan.

 

T́nh h́nh nước ta hiện thời ra sao? T́nh h́nh ấy có bi quan không? Đó là vấn đề nhận định thôi. Nhưng cái chủ yếu là ta không nh́n t́nh h́nh ây với con mắt bi quan. Vậy sự thật khách quan như thế nào? Nh́n vào nông thôn, ta thấy hiện thời t́nh trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến. V́ thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng. Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt. Ta chỉ cần đọc lại các bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện giờ ra sao. Nh́n vào các công xưởng, công trường, ta thấy ǵ? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta thấy Chính phủ gửi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, ủy lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đă ban ra. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là giai cấp công nhân đă phải lao động sản xuất hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư luận đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có it ra một doanh nghiệp quốc gia lăng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lăi khổng lồ.

 

Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đă biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lăng phí bao ngh́n triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho ḿnh, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của ḿnh là phải b́nh ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch.

 

Về hộ khẩu th́ cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy tŕ trật tự an ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay đắng của đồng bào Thủ đô trong Đại hội lần thứ ba của nhân dân Hà Nội vừa họp cách đây hai tháng.

 

Nói về chính sách khôi phục kinh tế, ta thấy ǵ? Số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lư ǵ. Trái lại ta thấy tất cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc “chuyển hướng” bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao động v́ vấn đề công nhân, với Sở Công thương v́ vấn đề đăng kư và nguyên liệu sản xuất, với Sở Tài chính v́ thuế khoá đặc biệt. Thuế bổ sung đă đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát. Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tụy trong phố, cũng “được” nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vài thước kiếm thêm tiền độ thân. Hàng trăm, hàng ngh́n công chức cũ về hưu, với gia đ́nh của họ, trước đây sống bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến, chết dần chết ṃn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần uống độc dược để quyên sinh.

 

C̣n như các cán bộ th́ ta có cần nói đến không? Ta cứ trông mặt mũi, quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các pḥng khám bệnh, các bệnh viện, ta liếc mắt nh́n họ ăn uống những ǵ trong bữa cơm, là ta đủ hiểu khổ cực của họ.

 

Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, Hải Pḥng, số phận chính của họ bi đát quá nỗi! Khổ cực nhất cho các anh chị em là không nương tưa đuợc vào một đời sống gia đ́nh đề khuây khỏa trong lúc thảm sầu.

 

Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo Nhân dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội sau Đại hội lần thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng, nh́n nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các vị là các vị đủ hiểu rồi. Quả thực như ông Trường Chinh đă tuyên bố, uy tín của chính phủ, của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ cực? Phải chăng v́ cán bộ của chúng ta non, hẹp ḥi, chưa thấm nhuần lư luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và đ̣i hỏi chính đáng của nó? Phải chăng v́ ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách mạng? Các điều đó là có, ta không hề chối và ta cũng không thể chối căi được. Nhưng nhận định như vậy vẫn c̣n hời hợt. Ta phải đi sâu hơn nữa. Khi trong Cải cách Ruộng đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú đă từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đăi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, th́ ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đă mắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đă phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi tŕnh bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lănh đạo của Đảng Lao động.

 

Do đó, tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm trong Cải cách đă rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, đề đạt mấy ư kiến về vấn đề lănh đạo.

 

 

I. Vấn đề pháp lư trong Cải cách Ruộng đất

 

Ta đă sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, ta có thể tránh được sai lầm ấy mà vẫn bảo đảm được đường lối căn bản của cách mạng không? Tôi giả nhời cương quyết rằng có.

 

Đường lối cách mạng của ta đ̣i hỏi ǵ? Ruộng phải trở về người cày. Điều này rất đúng không ai có thể chối căi được. Nông dân là đại đa số trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định cách mạng không thể nào thành công được nếu ta không thỏa măn nhu cầu thiết yếu và cấp bách của nông dân. Không cần phải là một nhà chính trị cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy. Chỉ cần nh́n lịch sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi.

 

Như vậy về nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải cách Ruộng đất.

 

Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không? Nhất định là không. Nông dân ta trong bao ngh́n năm đă khổ cực dưới chế độ bóc lột phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ bóc lột thực dân. Đồng bào nông thôn ta lầm than như vậy, đă mất hết khí thế con người. Ta cần khôi phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng giậy nắm lấy quyền thế ở nông thôn.

 

Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm này, ông Trường Chinh đă nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai họa làm ta đau khổ hiện thời.

 

Con đường ông Trường Chinh đă đi để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị. Các anh em tôi là những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn và lư luận trên cơ sở chuyên môn thôi, đă trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động và Cải cách được đề ra. Tại sao? V́ giải pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lư, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.

 

Ta muốn ǵ? T́m kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nh́n xa, ta cũng không quên rằng công lư của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch” th́ khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lư mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nh́n thực tế: kết quả sai lầm ta đă phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng th́ là ǵ?

 

Khẩu hiệu của pháp lư th́ khác hẳn: “Thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan”. Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, v́ ta nắm chính quyền, v́ cách mạng ta đă thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm th́ chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ: không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.

 

Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh nghiệm pháp lư của hàng ngh́n năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta có phương pháp để t́m đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội. Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lư nêu lên để đạt mục đích ấy.

 

Một nguyên tắc đầu tiên là không h́nh phạt các tội đă phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? V́ rằng vấn đề bằng chứng khó giải quyết được, tang vật đă mất, nhân chứng có người đă từ trần, có người không nhớ rơ các sự việc họ đă mục kích. Hơn nữa, sở dĩ h́nh luật phạt các tội, là v́ các tội ấy đă xâm phạm vào trật tự xă hội: tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng. Nhưng khi tội đă phạm quá lâu, trật tự xă hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không c̣n đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đă hàn gắn các vết thương. Bây giờ lại vạch chuyện cũ th́ không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo động trong xă hội không cần thiết. Chính xă hội thấy “quên” lợi hơn là “nhớ”.

 

Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân th́ chỉ một ḿnh phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia đ́nh. Nêu trách nhiệm truớc h́nh luật của các người “có quan hệ” với phạm nhân không những là bất công mà lại c̣n gây các sự rung động vô ích trong xă hội. Hơn 400 năm nay không một nước Tây phương nào làm việc đó nữa. Trách nhiệm trước h́nh luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà thôi. Không những thế, về phương diện nhân đạo, th́ các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niên được chiếu cố.

 

Môt nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đă mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rơ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá tŕnh phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lư, sát hợp với kết quả do cuộc điêù tra mang lại.

 

Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho ḿnh, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Ṭa phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở tŕnh độ công an thẩm vấn trong pḥng dự thẩm, buộc tội trước ṭa, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lư lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lư lẽ để minh oan. Cuộc đấu lư diễn ra trong tất cả quá tŕnh điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rơi cuộc đấu lư diễn ra dưới mắt ḿnh. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của ḿnh và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của ḿnh mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho ḿnh được. Khi điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ th́ bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án th́ c̣n quyền chống án lên ṭa trên. Nếu bị kết án tử h́nh th́ lại c̣n quyền xin ân giảm trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá tŕnh truy tố và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước ṭa th́ không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục h́nh đối xử với họ.

 

Theo một nguyên tắc căn bản, không phải v́ một người tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước h́nh luật. Tác hại cho ai th́ chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đă tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành h́nh luật đối với hắn th́ phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui định trong h́nh luật, và h́nh luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn ra trong thời kỳ mà h́nh luật chưa quan niệm là một tội th́ người ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm một tội đă qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại c̣n phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ư thức, có ư chí phạm pháp hay không, hay là vô t́nh mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.

 

Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này th́ có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn giết người vô tội không? Nếu không th́ không thể nào làm khác được. Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở một cương vị chính quyền. Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đ̣i thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta c̣n cố gắng t́m hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.

 

Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc Cải cách ruộng đất của ta, ta sẽ làm thế nào? Thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một ṭa án nhân dân, đặc biệt như ta đă làm với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lư mà ta đă biết. Trái lại, sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ ủy nhiệm toà án nhân dân thường lập các hồ sơ, để ṭa án, với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục điều tra, kiểm tra, lấy cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử. Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật sư làm tṛn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố nhân. Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt tội của nó đă phạm thôi. Ta tin tưởng ở ṭa án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết quả của cuộc thẩm vấn.

 

 

II. Các nguyên nhân sai lầm

 

Theo như tôi nhận định, với chủ quan của tôi, các nguyên nhân sai lầm thuộc hai loại, có loại trực tiếp, nhưng nếu ta phân tích loại này th́ ta sẽ đi tới một loại thứ hai mà theo tôi là những nguyên nhân chính, ta cần chú ư.

 

Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay. Sở dĩ khi nghiên cứu chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lư đưa ra để điều ḥa với giải pháp chính trị, phải chăng là v́ ta không biết giải pháp pháp lư? Nếu không th́ là sự thiếu sót nghiêm trọng của cấp lănh đạo. Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ư đến giải pháp pháp lư là v́ ba lư do:

Quan điểm ta-địch, thù-bạn của ta rất mơ hồ

Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lư

Ta bất chấp chuyên môn

Quan điểm bạn-thù, ta-địch mơ hồ — Các hiện tượng trên trường quốc tế và trong nước rất nhiều và rơ rệt.

 

Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị, người nào bị kết án tử h́nh rồi th́ được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc ghi tên muôn đời.

 

Trong nước ta, qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành h́nh. Ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hi sinh oan. Đối với các nạn nhân này, ta có thể một phần nào hiểu các sai lầm đă phạm, v́ họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đă biết, th́ ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái ǵ mà ta gọi là lư tính không? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hóa, chỉ sử dụng cái lẽ phải của ḿnh thôi, cũng không thể nào hỗn hợp người xấu với kẻ tốt như vậy được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia Cải cách Ruộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế th́ ta sẽ gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến công tố viện của các ṭa án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta-thù, bạn-địch.

 

C̣n ǵ đau đớn hơn là câu ta được nghe “ta đánh cả ta nữa”. Nếu như vậy th́ ta cần phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân dân của các đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chín ấy nói, hoặc không nói, nhưng ta đều hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không phân biệt được bạn và thù. V́ vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.

 

Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù bạn, một ngày kia ta sẽ lại phải khóc trên kỷ niệm của những vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để t́nh trạng ấy tái diễn ra được.

 

Bất chấp pháp luật — Giáo sư Ba Lan Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư pháp, cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công, các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhận các cương vị lănh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lư. Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp sộc sệch, không những không củng cố được chính thể cách mạng, ngược lại, tác hại quá nhiều gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy đuợc uốn nắn kịp thời: hoàn cảnh khách quan đă dạy một bài học cho chủ quan các nhà chính trị, để lănh đạo chuyên môn phải nhập trường học tập, trước non 2 năm, sau 5 năm, để qua pháp lư, phục vụ chính trị và cách mạng.

 

Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đoạn đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đă thu —và dĩ nhiên các thắng lợi ấy vĩ đại— lâm vào t́nh trạng tự măn và bao biện.

 

Nhưng quản trị một nước, đặc biệt một nước đang xây dựng chính quyền cách mạng, nghĩa là một cái ǵ vô cùng mới mẻ và khó khăn, không giống như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng. Hai khu vực hoạt động ấy tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, th́ chẳng sớm th́ muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự măn ấy, các nhà chính trị đă bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lư và tin rằng pháp lư là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, chính pháp lư giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt ḿnh lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính trị sau khi đặt ḿnh lên trên pháp luật, c̣n giữ vững thái độ chân chính, cũng đă gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những cái ǵ có thể làm được, cái ǵ không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rơ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rơ rằng cái ǵ bó buộc ḿnh cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ g̣ bó quần chúng mà không g̣ bó nhà cầm quyền th́ nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết. V́ vậy quần chúng hoang mang: cái ǵ hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà là ảnh hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền, lúc tự đặt ḿnh lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mực, huống hồ là khi nhà cầm quyền sử dụng quyền thế của ḿnh một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đă nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu mà các người sử dụng quyền ấy lại không sử dụng với tinh thần chính sách của lănh đạo, sử dụng một cách lộng quyền th́ kết quả thế nào, hiện thời ta đă trông thấy rơ.

 

Bất chấp chuyên môn — Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ư kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ư kiến th́ các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà chính trị nên chú ư đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.

 

Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một t́nh trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một h́nh ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đă hăm hại người chủ của nó. Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị lănh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và đảng viên tiểu tư sản không lo ngại ǵ bằng sự mất lập trường. V́ vậy, để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti của một giai cấp mất khí thế, quên rằng ḿnh đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đă xẩy ra những sự việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở: khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đă vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ th́ “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh ḿnh có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).

 

Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là v́ chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lư. Chân lư cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy th́ ít ra chính trị cũng hỏi ư của chuyên môn mới là phải. Nhưng không. Chính trị nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc th́ cho rằng chuyên môn là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là một sai lầm nghiêm trọng các người tin như vậy chưa đọc Lenin). Lúc th́ cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở tầng lớp cơ bản, công hay nông, th́ không có đảm bảo v́ thái độ lừng chừng, lập trường lỏng lẻo, dù là 10 năm nay họ đă bước chân vào đường cách mạng và chứng minh nhiệt t́nh của ḿnh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến thiết quốc gia.

 

Theo ư tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đă trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hi sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách ǵ quá đáng đâu? Họ có đ̣i làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui ḷng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đ̣i hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi. Họ đă từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Người trí thức là vốn quí của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ ǵn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nh́n chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng “hiếu hỉ” hay “cười gật” th́ có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai tṛ hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm ǵ không, có quyền nói ǵ làm ǵ không, quần chúng đă biết và miễn tôi giả nhời.

 

Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào, xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đă cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ v́ chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của ḿnh. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ v́ các chính trị viên đưa vào các bệnh viện đă đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có một điều làm ta suy nghĩ: sao măi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu một chính sách cho trí thức? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức để họ mang chuyên môn ra phục vụ nhân dân?

 

Trên đây, tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại c̣n trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em v́ yêu nước đă khắc phục mọi lo sợ do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng ta. Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không t́m cách nào sửa chữa sai lầm ta đă phạm đối với anh em. Ở các công sở t́nh trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đă đưa đến cái danh từ bi đát làm cho ta đau ḷng: “họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết được các anh em, ta lại c̣n có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại c̣n nghi ngờ các anh em. Ta không hiểu rằng làm như vậy, ta bất công với các anh em, ta không tôn trọng lời đă hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt Trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô t́nh ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh em trí thức trong Thủ đô.

 

Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa, ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua chỉ v́ sự lănh đạo của ta thiếu dân chủ, xa ĺa quần chúng.

 

Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đă từng biết. Vai tṛ của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào, các vị đó làm được những ǵ trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nh́n qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy h́nh như không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có “dư luận” không ai chối căi được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy th́ ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối căi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng không có trách nhiệm ǵ trước Quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ. Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủtrong khi lập Hội đồng Chính phủ, v́ các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.

 

T́nh trạng của Quốc hội lại rơ hơn nữa. Mười năm Quốc hội đă thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội c̣n phản ảnh được ư nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đă bị truất quyền cử đại biểu của ḿnh rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng dù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ư đến quyền người dân cử đại biểu của họ th́ nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi ḥa b́nh trở lại, 2 năm đă qua, măi bây giờ trước phong trào quần chúng đ̣i thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ sung Quốc hội.

 

Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. C̣n như các sắc lệnh hay đạo luật th́ thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, th́ ta phải khách quan nhận thấy rằng, với vai tṛ vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.

 

Nói đến Mặt trận th́ t́nh h́nh cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng có lẽ sát t́nh h́nh quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có để nó đóng vai tṛ của nó không? Không. Tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tṛn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của Đảng và Chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là liên lạc “hai chiều” giữa quần chúng và Đảng, Chính phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác, nó có thể là cơ quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ư kiến, thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lănh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lănh đạo và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai tṛ ấy, ta phải “dân chủ” đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ư kiến của quần chúng, dù là các ư kiến trái ngược với nhận định của cấp lănh đạo. Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy. Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong cấp lănh đạo đang say sưa. V́ vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích ǵ cho cấp lănh đạo.

 

Thiếu dân chủ là ǵ? Là xa rời quần chúng, là giam hăm ḿnh vào ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy được?

 

Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi t́m tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ 3 của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ư muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà-nội. Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn v́ cách mạng. Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân. Thế th́ đâu là chân lư? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.

 

Bây giờ sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rơ vấn đề, ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua là v́ chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa ĺa quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào t́nh trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy tŕ một thái độ lănh đạo hẹp ḥi, độc đoán, có khi độc tài. Thái độ một chiều không muốn, không cho phép ai nói cái ǵ trái ngược ít nhiều với ư kiến nhận định, thành kiến của ḿnh. Ḿnh tự phụ, tự hào ḿnh có độc quyền t́m thấy và ǵn giữ chân lư. Đó là tật tự cao tự đại của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta. Trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động, quả thật con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí, khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch. Sở dĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thấy địch, chẳng qua là v́ ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi. Bây giờ ta biết rơ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời th́ trách nhiệm chính là Stalin phải chịu. V́ tự cao, tự đại, tự phụ, tự măn, Stalin không cho phép ai dân chủ với ḿnh, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả thế nào ta đă biết: khẩu hiệu nêu lên, thét lên, gào lên là: đề cao cảnh giác. Và lợi dụng t́nh thế ấy, ta biết Béria đă làm những ǵ, phạm tội ác như thế nào.

 

Nếu không có quyết nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên-sô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải cách, ta chưa mở mắt được, ta sẽ c̣n thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau sót rời bỏ cách mạng. Tuy ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rơ nguyên do của các đau khổ của ta: ta thiếu dân chủ.

 

 

III. Phương hướng sửa chữa các sai lầm

 

Qua lịch sử tranh đấu của quần chúng hai ngh́n năm nay, ta thấy cái ǵ mà nhân bản của loài người đ̣i hỏi thiết tha nhất, đó là một đời sống vật chất tương đối đầy đủ êm ấm, đó là một đời sống tinh thần tương đối ổn định, có đảm bảo và tự do. Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Từ cuộc Cách mạng tư sản Hoa Kỳ cuối thế kỷ 18, Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc Cách mạng xă hội chủ nghĩa của Nga, quần chúng nổi giậy, mang xương máu để giành kỳ được chế độ dân chủ. Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những thành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ và đặt các nước văn minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ. Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện với những thiếu sót quan trọng. Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đă hoàn thành cuộc Cách mạng dân chủ nhân dân và xă hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ 6 của Hội Quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đă lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư bản hay xă hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân chủ, tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dày xéo. V́ vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.

 

Ở nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đă được ban bố. Nhưng qua phong trào phát huy dân chủ mà Chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân dân thủ đô lần thứ 3, các Đại hội Mặt trận Trung ương, Mặt trận Thành, qua thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động, của Chính phủ v.v., nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như Chính phủ xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiều. V́ các thiếu sót ấy, ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách ruộng đất như tôi đă tŕnh bày trên đây. Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết được. Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào ta cũng nơm nớp lo sợ các hành động “lộng quyền” của nhà đương cục, là v́ ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người, đồng thời cả của cấp lănh đạo nữa. Sở dĩ cấp lănh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong Cải cách Ruộng đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và Chính phủ, là v́ người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ư kiến của ḿnh, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ.

 

Do đó, phương hướng sửa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.

 

Một chế độ pháp trị chân chính — Ở đây, chưa phải lúc và chỗ để tôi tŕnh bày ư kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. Ở đây, tôi chỉ muốn tŕnh các quí vị một nhận xét.

 

Đảng Lao động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải cách, phải “tăng cường chế độ pháp trị” của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lănh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rơ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một “bà con nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi tŕng bày ư kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính. Theo ư tôi, th́ vấn đề không phải là tăng cường mà là xây dựng.

 

Một chứng minh khác trong chính sách Sửa sai trong Cải cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lư. Trước hết bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê b́nh và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông” về ư kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng tŕnh bày cả. Riêng về phần tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lư, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để qui định trách nhiệm của người ấy. Trong Cải cách, khi những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi biết là ḿnh oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không phải là phạm các sai lầm khác. Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lư đă nhận định, trên quá tŕnh đi từ lănh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lư. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lư sẽ trả lời trước các ṭa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dơi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lư phát huy, không c̣n ai thắc mắc nữa.

 

Có người hỏi làm thế để làm gỉ? Tôi xin phép trả lời. Làm thế để rút kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm đâu. Chính trị không những lănh đạo pháp lư —đó là đúng— nhưng vẫn lấn át pháp lư, thay thế cho pháp lư, như trong trường hợp ông Hồ Viết Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới c̣n nguy hại hơn nữa. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lư thuộc nhân bản con người văn minh. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp v́ các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lư. Một biện pháp chính trị xuề xoà không thỏa măn được ai. Bằng chứng ở nông thôn, ta được biết t́nh h́nh “căng thẳng”. Phong trào trả thù, tự xử diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. C̣n như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ cần đọc lại báo Nhân Dân. Tuy rằng các anh em kết thúc các bài tường thuật lại đau khổ của ḿnh bằng những lời phấn khởi, nhưng các lời này không làm ta quên được các lời phẫn uất, chua xót, cay đắng mà các anh em nói lại với ta từ đầu bài. Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thổn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ nhắc lại hàng năm bi kịch thê thảm đă diễn ra trong gia đ́nh v́ cuộc Cải cách. Nhân dân đ̣i hỏi các người có công được thưởng và các người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được qui định rơ ràng, dứt khoát. Như thế mới yên được ḷng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấy. Trong chính sách sửa chữa sai lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lư.

 

Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai tṛ của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua bó buộc ta phải xây dựng lại quan điểm “địch” trên cơ sở pháp lư và pháp trị. Các sai lầm nghiêm trọng ta đă phạm bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về địch. Quan điểm ấy linh động quá, “biện chứng” quá, nên ta không biết phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữa. Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo h́nh luật thế nào là địch. Lúc đó ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy tŕ lại trật tự và an ninh ở thôn quê, kiến thiết lại đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe dọa của “lộng quyền”, bênh vực các quyền căn bản và thiết yếu của con người.

 

Tóm lại, nếu chính trị giác ngộ, vui ḷng tôn trọng pháp lư, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lănh đạo pháp lư, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lư và pháp trị th́ nhất định chính trị khôi phục đuợc uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ.

 

Một chế độ thực sự dân chủ — Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ? Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa. Đây không phải là lúc, là chỗ, mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đ̣i hỏi cái ǵ quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có một điều thôi, là được đàm thoại với cấp lănh đạo, được đề đạt lên cấp lănh đạo, ư kiến về các chính sách do cấp lănh đạo xây dựng. Các vị lănh tụ đă bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật. Bằng chứng là điều tôi vừa nhắc lại đây. Trong khi quần chúng có quyền đ̣i hỏi ở một chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có một yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có cái yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi? Là v́ nhân dân thông cảm với cấp lănh đạo phải đương đầu với bao khó khăn. Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có một yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếu. Tôi tin rằng cấp lănh đạo cũng nhận thấy như vậy. Tôi không quên lời của ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao động tại Hội nghị này. Ta nghe thấy cấp lănh đạo thú nhận trước Hội nghị rằng Trung ương Đảng đă phạm sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của các cán bộ đảng viên mà thôi. Ta phải nhận định rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cuộc Cải cách Ruộng đất của ta đă gặp các thất bại cay đắng. Trái với lời ta thường nói, ta đă thiếu dân chủ với nhân dân.

 

Nhân dân nhất định không để t́nh trạng tai hại ấy kéo dài nữa. Tôi xin phép Hội nghị góp một số ư kiến để chấm dứt t́nh trạng đó. Tôi không đặt vấn đề dân chủ nói chung. Tôi chỉ chú ư đến yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ư nguyện của ḿnh. Theo ư tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba giải pháp.

 

1. Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán bộ. Đúng! Không tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ báo cáo trước trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành sự thực với các khía cạnh của nó, với các ưu và khuyết điểm của nó, rất tai hại. Cấp lănh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các động cơ bất chính của cán bộ muốn thi đua thành tích, vưà mị dưới, vừa lừa trên, do đó đưa ra một h́nh ảnh quá hẹp của thực tế. Ta phải tiến tới giải pháp nhận định rằng người nào hữu ư xuyên tạc sự thật v́ động cơ bất chính, có thể bị truy tố về tội giả mạo được.

 

2. Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ư kiến của quần chúng mà họ tập hợp. Từ trước tới nay, ta có thể ví Đảng Lao động như một cây rất to, lá ruờm rà che hết ánh sáng của mặt trời, khiến ngay một ngọn cỏ cũng không mọc dưới chân nó được. V́ vậy, Quốc hội cũng như Mặt trận không thể đóng được vai tṛ của ḿnh. Ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của ta thôi. Các vị đă thấy rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ quốc, chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành chính sách mà thôi. Đó là một nhiệm vụ. Nhưng dù sao chỉ có một chiều. Ta là giây liên lạc giữa các cấp lănh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền liên lạc giữa quần chúng và cấp lănh đạo, nghĩa là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ư kiến thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ta gắn liền lănh đạo và quần chúng, do đó lănh đạo sát hợp với thực tế hơn. Tôi xin phép đặt mỗi vị ủy viên trước trách nhiệm của ḿnh. Chúng ta ủng hộ Chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. Công tác của chúng ta có hai mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về một bên được. Quần chúng không cho phép chúng ta làm như vậy, muốn theo rơi công việc ta làm v́ chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Quần chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự ủy quyền ấy. Ta sử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đ̣i kiểm soát ta.

 

Để đạt mục đích này, tôi xin phép đề nghị: một là mỗi ủy viên phải có nhiệm vụ phản ánh lên Mặt trận ư kiến của quần chúng. Mặt trận phải có nhiệm vụ đề đạt lên cấp lănh đạo những phản ảnh của các ủy viên và báo cho các vị ấy thái độ của cấp lănh đạo giải quyết vấn đề ra sao, sử dụng các phản ảnh ấy như thế nào. Khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép quần chúng đến bàng thính: để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt trận làm và thái độ của các ủy viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy không có quyền tham gia thảo luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi hết số ghế dành cho quần chúng, và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị. Ngoài ra, báo chí, đặc biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc, phải phản ảnh trung thành nội dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham luận của các vị ủy viên.

 

3. Một chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí — Ta phải đề pḥng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các ủy viên Mặt trận không phản ảnh ư kiến của quần chúng. Do đó, ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng nói lên tiếng nói của ḿnh qua báo chí. Có người lo ngại rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng thấy cần thiết có thể bị sử dụng một cách bừa băi. Về điều này ta phải suy nghĩ. Mối lo ngại trên đây xuất phát từ động cơ nào? Nếu là động cơ tốt —nghĩa là do một nhiệt t́nh đối với cách mạng gây ra— ta hoan nghênh. Nhưng ta cũng sẽ trả lời rằng trong một chính thể dân chủ muốn sử dụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm của người sử dụng tự do ấy trước pháp luật. Nếu sử dụng với tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền kêu ca ǵ, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng một cách vô trách nhiệm, ta đă có ṭa án để nghiêm trị. Vậy ta không lo ngại. Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ một động cơ bất chính, nhắm mục đích thủ tiêu các tự do dân chủ, th́ tôi chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay. Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đ̣i các tự do dân chủ.

 

Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại c̣n cung cấp phương tiện để thực hiện các tự do ấy. Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các báo của Chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư nhân, ta giúp đỡ cho các báo ấy giấy và mực in đầy đủ, ta lại c̣n quảng cáo cho các báo ấy là đàng khác nữa. Các cơ quan tuyên truyền, báo chí của ta không bao giờ t́m khó dễ cho các báo ấy, và khi nào các báo đó được hàng vạn độc giả hoan nghênh, ta rất lấy làm sung sướng v́ trong thâm tâm ta, ta là những người dân chủ.

 

Các biện pháp tôi đề nghị trên đây đều nhằm mục đích cống hiến các cấp lănh đạo một nhận thức đúng và sát thực tế mà cấp lănh đạo không có điều kiện biết đến một cách trực tiếp. Sát với thực tế của quần chúng, cấp lănh đạo thông cảm với quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, ủng hộ, mến yêu.

 

Thưa các quư vị,

 

Tôi nói đă quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, v́ biết rằng tôi là một người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân tộc. Các ư kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.

 

Hà Nội, ngày 30-10-1956

 

*

 

 

Vừa khóc vừa cười

 

Lời soạn giả: Bài này, giá không kư tên, độc giả ở Bắc Việt cũng nhận được ngay là của ông Nguyễn Mạnh Tường. Ngoài những kinh điển mà ông thường hay mượn trong cổ học Âu châu, người ta c̣n nhận thấy giọng văn hoa lệ của văn chương Hy Lạp mà ông chịu ảnh hưởng rất nhiều.

 

 

Trong một thiên anh hùng ca sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ XI, thi sĩ tường thuật cuộc chiến đấu anh dũng của hai anh hùng Roland và Olivier, chống lại kẻ thù chung. Hai bạn chí thân giết được nhiều địch, nhưng hai người đều bị thương cả. Đặc biệt Olivier, máu chẩy nhiều, hoa cả mắt không nhận thấy ǵ nữa. Khi Roland lại gần để giúp bạn, Olivier tưởng nhầm là kẻ thù, bổ mấy nhát dao xuống, may không trúng đầu Roland. Anh này bèn dịu dàng lên tiếng: “Tôi là Roland đây mà. Sao anh đánh tôi?”. Olivier xin lỗi bạn: “Mắt tôi hoa, không nhận ra anh nữa.”

 

Khi châu Âu chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư sản, trong thế kỷ thứ XVI, Rabelais kể chuyện Badebec, vợ của Gargantua, vừa sinh con xong, th́ từ trần: “Cái thắc mắc làm cho Gargantua rối trí là hắn không biết nên khóc v́ vợ vừa chết, hay nên cười v́ con vừa sinh”.

 

Đến cuối thế kỷ thứ XVIII, khi Cách mạng 1789 sắp bùng nổ, Figaro, một nhân vật của Beaumarchais, sau khi kiểm điểm t́nh h́nh của xă hội đă thủ tiêu hết mọi tự do, kêu lên: “Tôi vội vàng cười để tránh khỏi khóc oà.” Như thế không đúng.

 

Phải khóc trên cái hiện thời để cười đón cái ngày mai. Dù sao, người trí thức là người vừa khóc vừa cười. Khóc v́ các sai lầm phải chứng kiến trong hiện tại, cười v́ vui với cái mới đang đến. Khóc v́ đau khổ. Cười v́ hy vọng. Khóc hôm nay để cười ngày mai. Trên quá tŕnh từ cái khóc đến cái cười diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng của người trí thức.

 

Người nào chỉ biết hoặc khóc thôi, hoặc cười thôi, không phải là người trí thức.

 

Ta ân cần với người trí thức ưa khóc. Ta phải chiếu cố, nâng đỡ người ta. Người ấy đau khổ v́ các thắc mắc căn bản và sâu sắc. Người ấy thành khẩn. Người ấy không phải là thù, người ấy là bạn. Ta phải kiên tŕ, cố gắng đưa cái khóc của ta biến thành cái cười.

 

Ta dè dặt, có khi ngần ngại, trước người trí thức ham cười. Ta hoan nghênh cái cười chân thật, xuất phát từ đáy ḷng, nẩy nở trên các giọt lệ vừa khô. Nhưng ta khó chịu trước cái cười b́nh phong dùng để che đậy các thắc mắc bản thân mà ḿnh không muốn thú với ḿnh. Ta ghét cái cười dùng để mị trên, lừa dưới, câu các kẻ ngây thơ, biểu lộ một ư chí tôn sùng, ḥng củng cố một địa vị, hay mưu cầu một bổng lộc. Quần chúng cần đề cao cảnh giác để khỏi mắc mưu cái cười ấy. Cấp lănh đạo lại cần cảnh giác hơn nữa v́ cái cười nịnh hót nuôi dưỡng bệnh chủ quan mà cấp lănh đạo thường mắc.

 

Cái cười nguy hại này không nhất thiết biểu hiện bằng sự nhích môi. Nó có thể là linh hồn của một cử chỉ, nội dung của một thái độ. Có người cười bằng cái đầu nó gật, cái lưỡi nó tán thành ủng hộ. Trong bao nhiêu “tả khuynh”, tôi nghe thấy vang tiếng cười ấy.

 

Tôi sợ người trí thức im lặng. Tôi nghi ngờ người trí thức cười. Tôi thương người trí thức khóc. Tôi yêu người trí thức vừa khóc, vừa cười, khóc hôm nay để cười ngày mai, “khóc lên tiếng cười”.

 

TIN vẫn lợi hơn NGHI. Trong mười người ta tin, có thể có một kẻ thù lẻn vào. Nhưng ta vẫn c̣n chín người bạn. Và chín người bạn này sẽ giúp ta t́m ra kẻ thù ấy. Nếu ta nghi cả mười người, khi ta giơ tay, chẳng ai bắt tay ta. Ta không có một bạn nào cả.

 

Đồng ư rằng phải phân chia rơ rệt địch, ta. Nhưng ta phải xác định thái độ của ta đối với địch. Địch mưu hại ta và thực sự gây cho ta nhiều tổn thiệt. Nhưng ta chớ nên buộc cho nó trách nhiệm về các tai hoạ căn nguyên ở sự dốt nát, sai lầm, chủ quan của ta. Theo danh từ khác phổ biến: “như thế không lợi”. Không lợi v́ ta đề cao địch, tỏ vẻ sợ địch. Không lợi nữa v́ gán kết quả sai lầm của ta cho địch, ta không sửa chữa được ǵ, không rút được bài học của kinh nghiệm. Từ trước tới nay, ta chỉ đặt vấn đề: ai là địch, ai là ta? Tôi đề nghị đặt thêm vấn đề: do địch làm, do ta phạm. Điểm trên, đề cao cảnh giác và cho phép ta đề pḥng, hoặc đối phó. Điểm dưới nêu cao tinh thần tự phê và giúp đỡ ta tự xây dựng.

 

Con thỏ sợ đến cả cái bóng của nó. Con sư tử bất chấp mọi thú vật. Ta không phải là sư tử cũng không muốn là sư tử. Nhưng nhất định ta không phải thỏ.

 

Kẻ thù số một của trí thức: bọn chụp mũ. Kẻ thù số một của cấp lănh đạo: các cán bộ chuyên môn “cười”, và bọn vỗ ngực, và cả bọn chụp mũ nữa. Các cán bộ chuyên môn “cười”, dựa vào bọn vỗ ngực trong quần chúng, ru ngủ cấp lănh đạo. Bọn chụp mũ nham hiểm hơn: họ gây thành kiến giữa lănh đạo và quần chúng, họ vô t́nh hay hữu ư xuyên tạc các nguyện vọng chính đáng, các yêu cầu hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp của quần chúng. Họ là Iago xúc xiểm Othello ghen vợ, ghét vợ, giết vợ. Bị bao vây chặt chẽ như vậy, tài nào cấp lănh đạo hiểu biết được sự thật của quần chúng?

 

Có một số người thấy phong trào quần chúng đ̣i hỏi ở Đảng lănh đạo, một chính sách cho trí thức (với các tự do dân chủ và mối quan hệ tốt giữa chính trị và chuyên môn) đă tỏ thái độ “khó chịu” và phản ứng mạnh. Họ nhắm mắt, lắc đầu, chép miệng, thở dài. Không thực sự cầu thị, chưa điều tra nghiên cứu, chẳng t́m hiểu sự thật, họ chỉ biết mang đao to, búa lớn ra doạ nạt, họ là Don Quichotte cầm giáo tiến lên đâm cối xay, họ quên lư luận Cách mạng họ đă học tập. Họ là nàng công chúa quên thời kỳ gặp Thạch Sanh trong hang.

 

“Tích tịch t́nh tang…” Tiếng đàn của Thạch Sanh có nhắc lại được kỷ niệm cũ không? “Hỡi tuyệt thế giai nhân mà tôi yêu với một mối t́nh vô hạn, nàng c̣n nhớ thuở đôi ta gặp nhau trong hang đá không? Đôi ta quyết tâm sống chết có nhau, với nhau. V́ vậy ta thắng kẻ thù, ta sống. Bây giờ thời kỳ gian lao đă qua, nàng trở về dinh cơ huy hoàng, lên xe xuống ngựa. Nàng nỡ ḷng nào quên t́nh duyên cũ?” [1]

 

Tôi muốn thân ái hỏi các bạn đang chép miệng thở dài: “Các bạn là những người Cách mạng. Thái độ của các bạn phản ứng, đối phó (tôi không nói đàn áp) trước một phong trào quần chúng đông đảo, đ̣i hỏi, trên lập trường Cách mạng, những quyền lợi chân chính, thái độ ấy, phân tích, truy nguyên nó, ta thấy ǵ? Tôi run sợ trước kết luận tôi phải tiến tới. Tôi ngừng bút. Tôi nhường lời cho tất cả người cộng sản trên thế giới, trong đó có các đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có các bạn, để các người ấy nhận định về thái độ nói trên, định danh cho nó, gọi nó bằng tên Cách mạng của nó. [2] Để tránh khỏi mang tiếng chụp mũ cho các bạn, tôi dành quyền phán định cho “giới có thẩm quyền”.

 

Tôi chỉ xin nhắc lại rằng trong lịch sử Cách mạng Liên Xô và Trung Quốc, khi giai đoạn kiến quốc tiến vào bước quyết liệt, chính thể Cách mạng không thể nào lănh nhăn được vấn đề trí thức. Cuộc tranh đấu của trí thức Việt Nam hiện thời xen vào khung khổ Cách mạng, phối hợp với phong trào tranh đấu của trí thức trên toàn thể thế giới. Coi nhẹ nó là một sai lầm. Giải quyết nó một cách hời hợt, nông cạn, với tinh thần của người nhớn cho kẹo trẻ con để nó khỏi khóc, là một sai lầm nghiêm trọng. Đối phó với nó, chống lại nó… tôi không tiếp tục v́ tôi tin rằng không một chính thể Cách mạng nào lại hành động như vậy. Bằng chứng là báo Nhân dân trong số 30-9-56 vừa đăng bài của đồng chí Lục Định Nhất đọc ngày 16-5-1956, với sự chậm trễ có 4 tháng thôi. Từ Bắc Kinh tới Hà Nội, đường dài hơn năm ngh́n cây số, tốc độ của sự thật như thế là nhanh rồi. C̣n báo cáo của đồng chí Chu Ân Lai in từ ngày 30-1-1956, tôi không nhờ đăng báo Nhân dân ngày nào. Dù sao, các bạn thấy rơ là Đảng Lao động Việt Nam coi trọng vấn đề, như Trung Quốc từ đầu năm nay, như Liên Xô từ năm 1936. Đảng lại c̣n phát động tinh thần dân chủ trong quần chúng, trong các giới, các cơ quan, và sở dĩ làm như vậy là để thắt chặt liên lạc với quần chúng, đi sát với sự thật của quần chúng, trưng cầu ư nguyện của quần chúng để xây dựng chính sách, lănh đạo có kết quả. Vậy tại sao các bạn lại chép miệng thở dài? lại xuyên tạc ư nghĩa trọng đại, lịch sử của một phong trào quần chúng, mà chính Đảng phát động? Thế các bạn tranh đấu cho ai, phục vụ cái ǵ? Chủ trương của Đảng phát huy dân chủ là một sáng kiến mà toàn dân hoan nghênh. Hạt đă gieo, bây giờ sắp đến lúc gặt hái. Cớ sao mà bạn lại muốn truất quyền của Đảng gặt hái cái mùa màng mà Đảng đă gieo hạt?

 

Nhưng tôi hiểu các bạn. Các bạn là những người tốt. Chẳng qua các bạn chỉ nặng về một số thành kiến mà thôi. Tuy nhiên, các bạn thực sự cầu thị: các bạn cho phép tôi tin như vậy. Phải không, các bạn?

 

4-10-56

 

(Trích Giai phẩm mùa Thu tập III, 1956)

 

- Hết –

 

[1]Nên hiểu nàng công chúa là cán bộ lănh đạo Đảng Cộng sản và Thạch Sanh là giới trí thức kháng chiến .

[2]Tác giả muốn nói: phản cách mạng

Nguồn: Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc. Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hoá xuất bản, Sài G̣n 1959. 318 trang. Nguyệt san Ngày về tái bản, Hướng Việt phát hành. In tại nhà in Lion Press, 3018 Akron Ct, Denver Co. 80231. Bản điện tử do talawas thực hiện.

 

Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc

Phần I

Phần II

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of American Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten