Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

 

Văn tế sống vợ

 

Thơ Trần Tế Xương

 

 

 

Con gái nhà ḍng, lấy chồng kẻ chợ

Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ

Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?

Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!

Đầu sông băi bến, đua tài buôn chín bán mười

Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ

Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai

Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ

Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu

Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ

 

Thế mà:

Ḿnh bỏ ḿnh đi, ḿnh không chịu ở

Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.

Hay ḿnh thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng ḿnh ghen?

Hay ḿnh thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà ḷng ḿnh sợ?

Thôi thôi

Chết quách yên mồ

Sống càng nặng nợ

Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay

Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đă lỡ

Ḿnh đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lăng Uyển, Bồng Hồ

Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ

 

 

(Nhà thơ chơi bời pḥng túng, tốn tiền, bà Tú giận doạ tự tử. Nhà thơ nhân đó làm bài văn tế này đùa nịnh, làm lành khéo với vợ)

Nguồn: Thơ Trần Tế Xương, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1998

 

 

 Nguyễn Du

Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ

 

"Văn tế sống Trường Lưu nhi nữ" gồm 98 câu; Là bài văn tế mà Nguyễn Du trách khéo hai nàng con gái Trường Lưu (làng kế bên làng Tiên Điền) đă dứt t́nh với thi sĩ, đi lấy chồng . Lời văn  pha chút bông đùa. Rất có thể đây là câu chuyện có thật trong cuộc đời của các thi sĩ chứ không riêng Nguyễn Du; nó là dấu ấn một thuở phong t́nh của trái tim nhà thơ trẻ được chép lại từ hoài niệm...

 

Dưới đây là toàn bộ văn bản kèm theo chú dẫn.

 

 

 

 

 

Văn tế sống Trường Lưu nhi nữ

 

 

 

 

 

Than rằng:

Chùa Phổ Cứu[1] trăng d́u gió dặt ngỡ một ngày nên nghĩa trăm năm;

Doành Đào Nguyên nước chảy hoa trôi bỗng nửa bước chia đường đôi ngả.

 

Chữ chung t́nh nghĩ lại ngậm ngùi;

Câu vĩnh quyết[2] đọc càng buồn bă.

 

Nhớ hai ả xưa:

Tính khí dịu dàng;

H́nh dung ẻo lả.

 

Rạng làu làu gương đan quế[3] vừa tṛn;

Non mơn mởn đoá hải đường chưa nở.

 

Sắc lông mày, săn môi sáp ai chê rằng xấu mô mồ[4];

Thấp mài tóc cao đường ngôi ta khên đă đẹp cha chả.

 

Tiếng cười tiếng nói nghe cũng hữu t́nh;

Nước bước nước đi thật là vô giá.

 

Tiết dậy mẩy[5] trong năm mười bảy, nghề thú quê giữ mực chân xa[6];

Cuộc làm vui vừa cợ[7] giêng hai, bàn cờ tướng kén vào con mă[8].

 

Khó tột vời mà rất mực hẳn hoi;

Nghề làm ăn chẳng đến điều hèn hạ.

 

Cuốn song gấm một thềm hoa rụng, gieo thoi vàng dệt bức hồi văn[9];

Buông rèm sương nửa chái trăng soi, nắn quay sắt kéo dây nhân quả[10].

 

Rủ rê năm bảy chị em;

Cưu góp ba làng bốn xă.

 

Con người ta được một th́ con gái được th́ ăn được th́ chơi;

Ở đất này khá hiếm chi đàn ông chẳng hề quen chẳng hề lạ.

 

Đêm đêm thường ví hát xôn xao;

Ai ai cũng trầu cau đăi đoă[11].

 

Ả nọ o này[12] đông đúc, gái một th́ gặp tuổi sang xuân;

Anh kia chú nọ ŕnh ṃ, trai ba phủ quyết chơi măn hạ[13].

 

Bướm ong phấp phới, thôi quan th́ dân[14];

Oanh yến ra vào, rộng đường quang sá.

 

Nhất lịch sự là quân phường ngoài Chế[15], những vất ra túi thuốc bông đào;

Đội thế thần th́ quan họ trong làng, cũng mang tới cân ngà quả đá.

 

Đi về thường nhiều kẻ hẳn hoi;

Ra vào cũng lắm người chằng chạ.

 

Trước chái th́ tàng h́nh thuỷ phủ đứng lăm lăm ai biết mô mồ;

Trong nhà th́ thiết phục long vương nằm trập trập h́nh như đống mả.

 

Trai trong làng ŕnh bốn mặt chan chan;

Chó hàng xóm sủa năm canh ra rả.

 

Biết đó những ngày trong trứng, vui chi hơn liễu cợt hoa cười;

Vẻ chi một chút ngoài da, công đâu lại then cài cửa khoá.

 

Ngán đâu lời nói mà lo;

Được thế hăy chơi cho thoả.

 

Buông bè chuối giữa ḍng nước chảy, mặc dù ai chống ngược chống xuôi;

Thả lá ngô[16] trước trận gió nồm, đă lắm kẻ bổ nghiêng bổ ngả[17].

 

Họp chợ xuân nhiều khách văng lai;

Dạo điếm nguyệt phải khi kinh quá.

 

Theo chúng bạn cũng ra điều bất ư, ai dám đâu vác chuông đánh đất Đai Minh;

Gặp chị em chẳng có lẽ vô t́nh, ta cũng phải gánh ngói rao làng Bùi Ngoă[18].

 

Yếm nhuộm điều che trước ngực loè loè;

Câu huê t́nh đọc bên tai xả xả.

 

Quây ngoài sân th́ trong làng chín mười ả, ả ví, ả hát, ả kéo sợi, ả đưa thoi, lại có ả bưng trầu tận miệng, mỹ nữ như hoa;

Léo lên giường th́ quan họ năm bảy ông, ông nói, ông cười, ông ngâm thơ, ông đọc truyện, lại có ông đắp áo trùm đầu, cao bằng măn toạ[19].

 

Thoạt đến đây buổi mới lạ lùng;

Xem chẳng khác người quen suồng să.

 

Tiếp đăi mấy đêm một mực, ḷng bồ đề hỉ xả từ bi;

Xôn xao một khắc ngàn vàng, dàn chẩn tế ba la bát nhă.

 

Ba sinh đành một kiếp hẹn ḥ;

Hai năm được mấy lần chung chạ.

 

Sừng chuốt lược cũng trong đồng đạo[20], trai khôn thầy dái gái khôn bà nàng[21];

Đá tạc bia ai ở dị tâm[22], đất có thổ công sông có hà bá. có thổ công, sông có hà bá.

 

Đến vườn mong bẻ một cành cam;

Giải ḷng ước chẻ hai thanh ná[23].

 

Quả cam chén rượu đăi đằng[24] khi chơi cửa chơi nhà;

Túi vóc khăn là, dặn ḍ lúc buôn mành buôn giă.

 

Ân cần nhiều nỗi thư từ;

Hầu hạ chẳng khuây điếu lả[25].

 

Phụt ngọn đèn trước mặt, đếch sự đời chẳng phải đứa tiểu tâm;

Đùng tiếng lói[26] sau nhà, đéo mẹ kiếp bỗng có thằng đại phá.

 

Ta đă đành rụt cổ như rùa;

Ả cũng chớ vật ḿnh như sả.

 

Giải kết[27] cho ả, mới đến đây ai dám đoạt gia tài;

Hú vía cho tôi, một chút nữa sinh ra ẩu đả.sinh ra ẩu đả.

 

Của thập phương mặc khách thừa lưa[28];

Tội nhất xá xin người xuư xoá.

 

Như có phải quưt làm cam chịu, đă trót th́ trét, sợ chi điều nói tỏi nói hành;

Song cũng là cú kêu ma ăn, đi không về không, chi đến nỗi gieo tai gieo vạ.

 

Ta đă đành mắc tiếng thày lay;

Ả cũng hoá ra người đĩ thoă.

 

Mấy kẻ biết người biết của, gấm mặc đêm nghĩ lại cũng hoài;

Một chốc ra giận ra thù, bạc gần sáng thổ nào dám gá[29].

 

Khoán ước làng cứng nhắc ngô rang;

Nhân nghĩa cũ nát tươm chó nhả.

 

Của là của chó treo mèo đậy, phải giữ ǵn cho lắm, mắt đỏ ḷm nhắm tựa mắt lươn;

Công tiếc công cốc ṃ c̣ ăn, đi chơi nhởi làm chi, mặt trắng phủi trơ như mặt nạ.

 

Tiếng tăm chi đó mặc ai;

Ngày tháng c̣n dài đó đă.

 

Những ngỡ trăm năm trước hẹn ḥ đă chắc, để phụ phàng ba chốn bốn nơi;

Nào ngờ tháng sáu này tệ bạc làm sao, bỗng tống táng một tuần hai ả.

 

Ờ sao mà quên ta được cho đành;

Nói thế mà lấy chồng thực ru tá.

 

Công lênh ấy ai c̣n nhớ đến, cũng cầm bằng ruổi ngựa đường dài;

Mối manh kia ta đă biết rồi, thôi cũng chớ giấu voi ruộng rạ.

 

Thế thời mách chúng ta vậy ru;

Thôi kính hai ả cho rồi cả.

 

Hăy xem những của lạ lùng;

Chẳng trách chi ai một mả.

 

Một chú th́ dắt mũi trâu từ thuở bé, tắc tắc ḥ ŕ[30];

Một anh th́ cắt cỏ ngựa đến tận già, tùng tùng dạ á[31].

 

Ở làm chi một năm thêm một tuổi càng cao;

Khen lắm nhỉ hai ả được hai chồng cũng khá.

 

Thương chắc lấy nỏ được chắc[32], chúng bạn ta như nghé sổ ràn[33];

Chê tôm lại phải ăn tôm, lời nói trước như mèo liếm mỡ.

 

Cha kiếp ḿnh đă ra kiếp lăng nhăng;

Thiệt ḷng ta cũng ra ḷng suồng să.

 

Hựu hà ngôn tại, đă sao th́ vậy, lấy ai cũng đă lấy rồi;

Như tư nhi dĩ, đă thế th́ thôi, nói măi ra điều nói chạ.[34]

 

Ḿnh ở bạc đă ra Dương Tố chi gian[35];

Ta cũng đen chẳng biết Quan Kiệt chi trá[36].

 

Bầu bạn củ rũ đi ngoay ngoảy, chẳng nhớ câu bất diệc lạc hồ[37];

Nợ nần xưa vỗ sạch sành sanh, quên mất chữ vi chiếu dụng giả[38].

 

Đă biết trước yên túc quái tai;[39]

Xem về sau như chi hà dă.

 

Được đó hăy hay rằng đó, mâm son bát sứ mà ăn cơm với nước cà;

Chắc đâu đă hẳn hơn đâu, chăn tằm hái dâu vẫn mặc quần nâu áo vá.

 

Nhất bạc t́nh là thói o Uy;

Chẳng nhân nghĩa ai bằng ả Sạ.

 

Những ngỡ đứt vơng nảy xuống giường bịch cái, chẳng lấy năm th́ cũng lấy ba;

Nào ngờ trèo cao sa xuống thấp ôi cha, tưởng mất một hoá ra mất cả.

 

Đă làm chi thế vội vàng;

Thôi chẳng lo ǵ thong thả.

 

Chi những thói cọc cằn lửa khắc, chó cậy nhà gà cậy chuồng;

Tới khi nhà hơi hởi bén mùi, trâu ăn ló ḅ ăn má[40].

 

Lời thề nguyền dĩ trục thuỷ lưu;

Bức thư văn dụng bằng hoả hoá.[41]

 

Người đến gốc mong bồng quả bưởi, há phải điều chúng bạn vô t́nh;

Con săi chùa lại quét lá đa, thôi mặc kiếp nhà bay[42] bất khả.

 

Gỗ trôi sông không trở lại Lường[43] Dà[44];

Muối bỏ bể cũng thiệt công Lữ Xá[45].

 

Ả về đó bén duyên phải kiếp, chẳng quản điều mặt muội dầu gio;

Ta bây giờ quá lứa lỡ đôi, thôi chẳng khác ḿnh trần trôn trạ[46].

 

Ôi! Nước sông Giang Đ́nh[47];

Nương khoai Phan Xá[48].

 

Dải sông Cài[49] văn vắt nước trong;

Đỉnh Ngàn Hống[50] đùn đùn mây toả.

 

Gương công chúa phá tan từ trước, làm chi những nỗi tá ơm[51];

Nhịp ngọc tiêu[52] đành để lại sau, khôn ước những điều hú hoạ.

 

Nương song cúc[53] sắp hỏi han Ả Tố[54], v́ đâu mà phận hẩm duyên ôi;

Dạo đường Hoè[55] vừa gặp gỡ chàng Tiêu[56], từ đây đă người dưng nước lă.

 

Giận nỗi xưa mồ hôi muối đầm đ́a;

Tưởng nghĩa cũ nước mắt gừng lă chă.

 

Thương v́ nỗi mưa dầm rỉ rỉ, chận chắc với con trâu đực[57], ả cầm đèn, ả đi trước dẫn đường;

Đau v́ khi lửa cháy phừng phừng, tím gan cho cái gà toi, ả vác búa, ả đứng ra lấp sá[58].

 

Tưởng công phu mà chưa đáng đồng tiền;

Nhớ nhân duyên muốn đi cầu ông Tá[59].

 

Nhớ những lúc tắt đèn dạy chuyện[60], dứt câu này nối câu khác trăng ngoài hiên khi tỏ khi mờ;

Tưởng những khi thắp đuốc chơi đêm, ở nhà ngoài vào nhà trong giọt bên chái như tầm như tă.

 

Rầm ŕ thay điếu thuốc trao tay;

Gắn bó mấy hạt cơm dính má.

 

Xẩy nhớ đến lời ăn tiếng nói, cám buồn mặt lợn, tóc trên đầu đếm chẳng hay cùng;

Sực tưởng khi đua sức đua tài, trơ tráo đầu trâu, gan trong bụng găi khôn đă ngá[61].

 

Có công kể mấy nhật tŕnh;

Lúc ấy ghép vào niên phả.

 

Nói sao được đường xa dặm ngái[62], bắt chim trời chi những sự éo le;

Cực những điều kẻ ngược người xuôi, vẻ c̣ đất vẫn ra điều dối trá.

 

Hay chi điều con gái chê chồng;

Chẳng có ai đàn ông ở goá.

 

Ả sang đó bồng con cho sớm, mẹ nằm vơng cha nằm giường;

Ta về đây kiếm chút kẻo già, bà ăn nem ông ăn chả.

 

Sang chợ Vịnh[63] rắp than cùng ả Út, đường đông ăm ắp, thấy mà kinh khăn nhiễu quần điều;

Lên chùa Hương[64] toan tu với sư Viên[65], rũ sạch làu làu, mua chưa được mũ ni áo vá.

 

Ở nhà lâu nghĩ cũng bần thần;

Viếng cảnh cũ muốn làm khuây khoả.

 

Đường cửa Trẹm[66] mỗi ngày một ngại, bóng cây tiếng suối, núi giăng giăng con mắt đă ṃn;

Cḥm bên làng càng tối càng buồn, ngọn khói hạt mưa, trời thâm thẩm mặt người đă nhoá.

 

Hắt hiu gió trúc mưa mai;

Quạnh quẽ bóng chim tăm cá.

 

V́ quan họ nên chúng ta mộ đức, bạn hữu quen c̣n được bao nhiêu;

Vào trong làng hỏi đôi ả Sạ Uy, lứa tác cũ hăy c̣n bao nả?

 

Thăm tận nhà th́ chẳng thấy người quen người thuộc, chua cay thay ăn khế với gừng;

Hỏi đến tên th́ đă gọi mụ nọ mụ kia[67], may mắn bấy trồng sung ra vả[68].

 

Cửa nhà ḿnh đă bưng kín như buồng;

Tiếng tăm ta cũng rửa sạch như đá.

 

Nghĩ cũng phải ăn hơn hờn thiệt, có con có cái, ai nói chi những sự nguyệt hoa;

Toan kiếm nơi đứt nối tối nằm, lạ mặt lạ mày, ai chẳng biết lại chê cỏ dă.

 

Dẫu có ai trẻ mỏ mới lên;

Là những chốn xưa nay chằng bạ.

 

Thú ngưu mă chú xuôi anh ngược, khăn d́ Sàng trầu thuốc đến đâu phần;

Vườn yến oanh cảnh đó người đâu, của ông Đấu gió trăng c̣n đóng khoá.

 

Nhân duyên xưa bẻ ngó ĺa tơ;

Phong cảnh cũ vàng cây héo lá.

 

T́m những chốn tre già măng mọc, hàng thịt nguưt hàng cá, dễ mấy ai cho đáng cải kim;

Dốc một bài xỉ bỏ thủ cầm[69], trâu cột ghét trâu ăn, sợ hàng xóm lại kêu thuỷ hoả.

 

Bẽ bàng mong hỏi ả Kiều;

Thương hại sẽ lừa con Sá.

 

Đầu sông cho đến cuối sông, ở chẳng vừa ḷng roi mây đánh chết, gươm thư hùng tuy rẽ đôi nơi;

Đứt dây th́ lại nối dây, thế nào tát được giếng này mới thôi, hoa tỉ muội hăy c̣n một đoá.[70]

 

Áo đơn đà lây dấu hoa thơm;

B́nh không hăy ngát mùi hương xạ.

 

Vào đất văn vật mang hư danh th́ phải dự pḥng;

Nổi phép vơ biền cứ bản tộc âu là truy nă.

 

Tiếng tăm kia từ trước chẳng mang;

Duyên nợ ấy về sau khôn trả.

 

Nếu trước những trồng bông trồng đậu, hết chuyện tṛ chó chết th́ thôi;

Từ rày đừng yêu trái yêu hoa, mất công ấy voi đâu mà tạ.

 

Nay:

Một nén hương thừa[71];

Ba tuần rượu hả[72].

 

Kể chi những đường kia nỗi nọ, đi th́ đi cho thoát, kẻ đă về kiếp ấy th́ thôi;

Dù chẳng nên nghĩa trước t́nh sau, chờ th́ chờ cho xong, ai đâu có con hoài mà gả.

 

 

 

Chú thích.

1.     Chùa Phổ Cứu: Tích Trương Thụy và Thôi Oanh Oanh chung chạ ở mái Tây chùa Phổ Cứu. Nên chùa Phổ Cứu và mái tây là chỉ nơi trai gái lăng nhăng. Doành = duềnh. Đào nguyên: Suối hoa đào là nơi tiên ở.

 

2.     Vĩnh quyết: Dứt khoát ĺa nhau.

 

3.     Gương đan quế: Chỉ mặt trăng

 

4.     Mô mồ = đâu nào

 

5.     Tiết dậy mẩy = Tuổi dậy th́.

 

6.     Xa = Cái guồng kéo sợi. Tức hai người làm nghề dệt vải.

 

7.     Cợ = cỡ, khoảng.

 

8.     Con mă: Tức trong hội đánh cờ người, họ bắt phải con mă.

 

9.     Bức hồi văn: Chỉ tấm vải.

 

10.   Dây nhân quả: Chỉ sợi vải.

 

11.  Đăi đơa: nghĩa cũng như: có mời qua. Đơa là tiếng đệm. Nếu theo âm Nghệ th́ đọc là: Đại đọa nghĩa cũng như mệt nghỉ. Đọa là Mệt, kiệt sức.

 

12.   Ả = Chị. O = Cô.

 

13.   Măn hạ: ư nói thoải mái, hết cỡ. Ở đây tác giả dùng chữ măn hạ là để đối với sang xuân ở câu trên.

 

14.  Thôi quan th́ dân: Hết quan đến dân.

 

15.  Phường Chế: Phường buôn ở làng Chế dưới chân núi Hồng Lĩnh bên bờ sông Lam(chú của Hoàng Xuân Hăn = HXH). Cân ngà quả đá: Cái gậy (bằng cái ngà voi) và cục đá nhưng tác giả thêm chữ ngà và quả cho có vẻ. Câu này ư nói: Khách hàng xứ th́ sang trọng, lịch thiệp c̣n trai làng th́ cậy thế nên chơi cục.

 

16.  Lá ngô: lá ngô đồng.

 

17.  Bổ ngả = Té ngửa.

 

18.  Đất Đai Minh nghề chuông, làng Bùi Ngơa nghề ngói. Vác chuông đánh đất Đai Minh, gánh ngói rao làng Bùi Ngơa là làm những việc vô ích.

 

19. Cao bằng măn tọa: Bạn sang ngồi đầy nhà.

 

20.  Đồng đạo: Cùng lứa.

 

21.  Trai khôn thầy dái, gái khôn bà nàng = Trai khôn như thầy dái (người đă có vợ), gái khôn như bà nàng (người đă có chồng). Ư nói những người đến đó đều khôn ngoan sành sơi cả.

 

22.  Dị tâm: Khác ḷng.

 

23.  Thanh ná = Thanh nứa.

 

24.  Đăi đằng: Giao tiếp b́nh thường.

 

25.  Lả = Lửa

 

26.  Lói: Quả pháo lớn.

 

27.  Giải kết: Trai gái ràng buộc, gắn bó nhau.

 

28.  Thừa lưa: Nhiều lắm, thừa mứa ra.

 

29. Thổ: Trong đám bạc, người cầm cái gọi là thổ. Những người có tiền nhận bảo đảm ứng tiền cho con bạc vay cũng gọi là thổ. Thổ nào dám gá nghĩa là chẳng ai dám nhận lời thách đánh

 

30.  Tắc, ḥ, ŕ: Tiếng điều khiển trâu, miền Bắc gọi là vắt, họ, riệt.

 

31. Tùng tùng dạ á: Tượng thanh tiếng trống đánh rồi gọi quân lính và quân lính trả lời

 

32.  Thương chắc lấy nỏ được chắc = Thương nhau lấy không được nhau.

 

33.  Nghé sổ ràn = Nghé sổng chuồng.

 

34.  Hựu hà ngôn tai, như tư nhi dĩ: Hai câu chữ Nho đồng nghĩa với 2 câu Nôm theo sau

 

35.  Dương Tố chi gian: Cái gian của Dương Tố cướp vợ Từ Đức Ngôn là công chúa Nhạc Dương khi Trần bị diệt.

 

36.  Quan Kiệt chi trá: Sự dối trá của Quan Kiệt, kỹ nữ đời Đường

 

37.  Bất diệc lạc hồ: Chữ sách Luận ngữ nghĩa là: chẳng vui sao?

 

38.  Vi chiếu dụng giả: Câu cuối các mẫu văn khế thời xưa, ư nói: Theo phép nước làm tờ này để làm bằng

 

39.  Yên túc quái tai, như chi hà dă: Hai câu chữ Nho đồng nghĩa với 2 câu Nôm theo sau

 

40.  Trâu ăn ló ḅ ăn má: Trâu ăn lúa ḅ ăn mạ.

 

41.  Dĩ trục thủy lưu, dụng bằng hỏa hóa: Câu chữ Nho: đă phó nước xuôi, toan dùng lửa hỏa

 

42.  Nhà bay = Nhà chúng mày.

 

43.  Lường: Sông Lường ở Nghệ An (ca dao: Nước sông Lường ai lắng mà trong. Duyên chàng ai tạc cho ḷng em say) có bến Đ̣ Lường sau người Pháp viết thành Đô Lương.

 

44.  Dà: Sông Dà ở Hà Tĩnh.

 

45.  Lữ Xá: Có lẽ là một lang làm muối.

 

46. Trạ: Vật bằng gỗ gắn ở một đầu của cái xa kéo sợi, có lỗ để cắm con suốt quấn chỉ. Khi quấn đủ, người ta lại tháo con suốt đó ra, cắm con suốt khác vào. Trôn trạ là một từ tục.

 

47.  Giang Đ́nh: Đoạn sông Lam chảy qua quê Nguyễn Du.

 

48.  Phan Xá: Tên một thôn ở gần Trường Lưu.

 

49. Sông Cài: Nguyễn Du ở làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân lên hát phường Vải ở làng Trường Lưu huyện La Sơn (nay thuộc huyện Can Lộc), phải đi qua đ̣ Cài

 

50.  Ngàn Hống: Tức núi Hồng Lĩnh.

 

51.  Tá ơm: mập mờ, úp mở

 

52.  Ngọc tiêu: Sáo ngọc.

 

53. Song cúc: Cửa sổ có hoa cúc.

 

54. Ả Tố: Tức Tố Nga, thần xe duyên.

 

55. Đường ḥe: tức giấc ḥe là giấc mơ hăo.

 

56. Chàng Tiêu: bị người quyền thế cướp vợ, gặp vợ không dám nh́n.

 

57. Chận = Chặn. Chận chắc với con trâu đực: Chạy đằng trước để ngăn con trâu đực lại.

 

58.  Sá: tức đường sá. Dùng từ sá để đối với đường ở vế trên.

 

59. Ông Tá: Cũng như ả Út, D́ Sàng, ông Đấu, ả Kiều, con Sá chưa rơ.

 

60. Dạy chuyện: Người hát phường Vải thường phải học thuộc rất nhiều câu để đối đáp với bạn hát. Để có những câu mới và hay th́ họ phải t́m đến những bậc giỏi chữ để học. Đây là Nguyễn Du dạy cho hai cô gái Trường Lưu những câu do ông sáng tác.

 

61. Ngá: ngứa

 

62. Ngái = Xa.

 

63. Chợ Vịnh: Chợ Vinh. Thành phố Vinh trước là Vĩnh An, người Nghệ đọc là Vịnh. Từ thời Pháp thuộc gọi là Vinh.

 

64. Chùa Hương: Chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh.

 

65. Sư Viên: Có lẽ là ông sư ở chùa hồi đó.

 

66. Cửa Trẹm: Tên truông trên đường từ Tiên Điền đi qua chân núi Hồng Lĩnh để lên Trường Lưu, gần làng Kê Treo.

 

67. Mụ: Đại từ chỉ người phụ nữ ở tuổi trung niên. Tuổi thanh nữ th́ gọi là o hoặc ả. Trung niên th́ gọi là mụ. Già th́ gọi là mệ tức bà. Lăo th́ gọi là cố tức cụ. O Sạ, o Uy đă được gọi mụ tức là khoảng 35. Liên hệ với câu 7 khi tác giả lần đầu gặp 2 người: Tiết dậy mẩy trong năm mười bảy, tức họ 17 tuổi th́ từ đó đến lúc này đă trên dưới 20 năm.

 

68. Vả: một loại cây giống cây sung, quả cũng gần giống quả sung nhưng không ăn được.

 

69.  Xỉ bỏ thủ cầm: Bỏ răng lấy đầu, ư nói lựa chọn.

 

70.  Vế sau của câu này, mấy chữ : "thế nào tát cạn giếng này mới thôi" vừa khác ư vừa không có giọng văn tế. Có thể là thất bản trong khâu sưu tầm.

 

71. Hương thừa: hương cháy dở. Rượu hả: Rượu để lâu không đậy, bị nhạt.

 

72. Rượu hả: Rượu để lâu không đậy, bị nhạt

 

http://www.nguyendinhminh.net/index.php/tu-lieu-van-hoc/946-van-t-s-ng-tru-ng-luu-nh-n

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Ca Dao Tục Ngữ

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten