Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

Alaiya

 

 

 

 

 

 

MINH THỊ

Chính Nghĩa là nơi tập hợp tất cả những nhân sinh quan, chính trị quan,  thế giới quan từ nhiều nguồn khác biệt với mục đích cung cấp thông tin đáp ứng yêu cầu tham khảo, điều nghiên của Người Việt Quốc Gia  để nhận rơ những âm mưu, quỷ kế, ngôn từ và hành động của đối phương hầu có phản ứng, đối sách kịp thời. Nội dung các bài viết được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của chúng tôi.

Giấc Mơ Lănh Tụ

 

Sơ lược hoạt động chính trị của TT Thích Trí Quang

[h́nh b́a Tạp chí Times, 22 tháng 4, 1966.]

 

 

Theo Đất Việt 70, trong cuốn “Lịch sử Tranh Đấu Phật Giáo Việt Nam”, Tập 1, trang 172, do Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản năm 1981, tác giả Kiêm Đạt viết: Thương Tọa TTQ là đệ tử của Ḥa Thượng Trí Độ, một trong những nhà lănh đạo Phật Giáo 1966 ở miền Bắc. Thượng Tọa Thích Trí Quang có 3 anh em: Thích Diệu Minh, thành viên trong Mặt Trận Tổ Quốc của CS tại Quảng B́nh năm 1947, hiện đang nắm chức vụ quan trọng tại Hà Nội; Phạm Chánh, một trong những lănh tụ kháng chiến vào 4/6/1947; Phạm Đại, y tá trong quân đội Việt Minh từ 1947.

 

Thượng Tọa Thích Trí Quang xuất gia từ hồi c̣n nhỏ, đệ tử của Ḥa thượng Thích Trí Độ, một vị chân tu nổi danh ở Huế. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế nhưng vẫn liên lạc giúp đỡ các cán bộ kháng chiến.

 

Đất nước chia đôi sau Hiệp định Geneva, Hoà Thượng Thích Trí Độ ra Bắc tập kết theo CS. Thượng Tọa Thích Trí Quang ở lại Huế đọc sách, đánh cờ tướng.

 

Mùa Phật Đản năm 1963, vụ “hạ cờ Phật Giáo” của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm, Thượng Tọa TTQ và Thượng Tọa Thích Thiện Minh lănh đạo phong trào tranh đấu của Phật Giáo đ̣i “Tự Do Tín Ngưỡng”.

 

Tại Saigon, Thượng Tọa Thích Tâm Châu được suy cử làm chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Cuộc tranh đấu ở Saigon bùng nổ mănh liệt. Thượng Tọa Thích Trí Quang cùng Thượng Tọa Thiện Minh rước Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết vào Saigon với mục đích nắm giữ vai tṛ đấu tranh ở Trung Ương.

 

Khi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chấp thuận thương thuyết với khối Phật Giáo, một cuộc họp ở chùa Xá-Lợi dưới quyền chủ tọa của Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết, có Thượng Tọa Thích Trí Quang phụ tá. Thượng Tọa Thích Trí Quang đă đưa ra thành phần của phái đoàn Phật Giáo do Thượng Tọa Thiện Minh làm Chủ tịch, gồm các đại diện của Đại Diện Phật Giáo miền Trung là cốt cán gồm TT Thiện Minh, TT Huyền Quang; Phật Giáo miền Bắc có Thượng Tọa Tâm Châu, Đại Đức Đức Nghiệp; Phật Giáo miền Nam có TT Thích Thiện Hoa.

 

Thành phần phái đoàn thương thuyết với chính quyền đă cho thấy Phật Giáo ít nhiều chịu sự lănh đạo của các vị Tăng miền Trung, nơi phát xuất cuộc tranh đấu chống chính quyền. Ngày 20/8/1963, chính quyền Ngô Đ́nh Diệm vây chùa bắt Tăng Ni và Phật Tử tranh đấu, Thương Tọa Trí Quang trốn vào Toà Đại Sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi xin tị nạn chính trị, được ông Cabot Lodge, Đại sứ Mỹ ở Saigon chấp thuận.

 

Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, trở về chùa Xá Lợi, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đuợc thành lập gồm 2 viện: Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo. Thượng Tọa Thích Trí Quang được cử làm Chánh Thư Kư viện Tăng Thống. Thượng Tọa Thích Tâm Châu được đề cử làm viện trưởng Viện Hóa Đạo.

 

Hồi nầy, khối Phật Giáo được coi là khối mạnh nhất, chính quyền rất nể v́. Khi cuộc chỉnh lư của Nguyễn Khánh bắt giam các tướng đảo chánh ông Diệm là Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính xảy ra th́ khối Phật Giáo im lặng, không một phản ứng. Nguyễn Khánh làm thủ tướng. Khối Phật Giáo tham gia chính quyền với Trần Quang Thuận (một nhà sư Pháp danh Thích Trí Không phá giới lập gia đ́nh) làm Bộ Trưởng Xă Hội, giáo sư Bùi Tường Huân làm Tổng Trưởng Văn Hóa Giáo Dục.

 

Nguyễn Khánh lập Hiến Chương Vũng Tàu. Khối Phật Giáo miền Vĩnh Nghiêm do Thượng Tọa Thích Tâm Giác lănh đạo phối hợp với ban Đại Diện Sinh Viên Việt Nam do Nguyễn Trọng Nho lănh đạo đấu tranh phải tiêu hủy Hiến Chương Vũng Tàu.

 

Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chỉ định ông Trần Văn Hương, Đô Trưởng Saigon làm Thủ Tướng. Nội các của ông Hương bị Phật Giáo tẩy chay. Cuộc tranh đấu Phật Giáo bùng nổ Tại Việt Nam Quốc Tự, Thượng Tọa Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Trí Quang, Đại Đức Hộ Giác tuyệt thực phản đối cuộc đàn áp của chính quyền Trần Văn Hương.

 

Ông Trần Văn Hương bị Nguyễn Khánh lật đổ đưa ra Vũng Tàu cô lập. Một số nhân vật trong Thượng Hội Đồng như ông Trần Văn Văn, Bác sĩ Lê Khắc Quyến cũng bị cô lập. Hồi nầy, tại các tỉnh miền Trung, nhóm Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Tôn Thất Hạnh, v.v... thành lập Ủy Ban Cứu Quốc dưới danh nghĩa diệt Cần Lao, đă gây mâu thuẫn nặng nề với Thiên Chúa Giáo qua những cuộc khủng bố trắng ở Thanh Bồ, Đà Nẵng, cũng như ở một vài nơi khác. Nhóm Cứu Quốc nầy đặt dưới sự lănh đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang đă tạo ra một luồng dư luận cho rằng nhóm nầy là cán bộ nằm vùng của CS, hoạt động theo phương thức đấu tranh của CS.

 

V́ Ủy Ban Cứu Quốc nầy, mâu thuẫn xảy ra trong hàng ngũ lănh đạo; khối Phật Giáo rạn nứt mạnh mẽ. Sự thật, ngay khi thành lập Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đă có sự chia rẽ. Cụ Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, một nhân sĩ uy tín ở miền Nam đă góp công không ít trong cuộc tranh đấu của PG dưới thời cố TT Ngô Đ́nh Diệm, đă nh́n rơ âm mưu của Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thượng Tọa Thích Thiện Minh định thao túng khối Phật Giáo để hoạt động chính trị, nên cụ Mai Thọ Truyền tách Hội Phật Học Nam Việt ra khỏi Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

 

Báo chí Hoa Kỳ cũng như ngoại quốc bắt đầu chú ư đến Thương Tọa Trí Quang nhất là khi người Mỹ thấy rơ những mâu thuẫn giữa Thương Tọa Trí Quang và Thượng Tọa Tâm Châu.

 

Những hoạt động của nhóm Cứu Quốc miền Trung được người Mỹ hết sức chú ư. Những khẩu hiệu đuổi Mỹ, tố cáo Mỹ được giăng ở các chùa chiền miền Trung. Ngoại trừ số người của Ủy Ban Cứu Quốc, báo chí Mỹ c̣n chú trọng đến vị lănh đạo của nó: Thượng Tọa Trí Quang.

 

Thượng Tọa Thích Tâm Châu, Thượng Tọa Thích Tâm Giác cùng với một số Tăng Ni miền Bắc di cư vô Nam đă có nhiều kinh nghiệm với CS không chấp nhận Ủy Ban Cứu Quốc và h́nh thức tranh đấu của Ủy Ban nầy, cũng như các khuôn hội Phật Giáo miền Trung dưới sự lănh đạo của Thương Tọa Trí Quang, nhưng những mâu thuẫn vẫn chưa bùng nổ mạnh mẽ. Măi cho đến năm 1966, Thương Tọa Trí Quang đích thân ra Huế lănh đạo phong trào tranh đấu chống Thiệu-Kỳ. Có được một số quân nhân miền Trung ủng hộ.

 

Phong trào nầy rất rầm rộ, định cướp chính quyền ở mấy tỉnh miền Trung. Những khẩu hiệu chống Mỹ, chống chánh quyền quân nhân được giăng khắp các thành phố Huế, Đà Nẳng, Quảng Nam, Quảng Tín, v.v...những khẩu hiệu sặc mùi CS đă làm cho dân chúng vùng này hốt hoảng.

 

Ủy Ban Cứu Quốc miền Trung hay c̣n gọi là Mặt Trận Nhân Dân Cúu Quốc miền Trung, ngoài Thượng Tọa Thích Trí Quang là đầu năo, c̣n có bác sĩ Lê Khắc Quyến, giáo sư Tôn Thất Hạnh, giáo sư Bùi Tường Huân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân,...

 

Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám Đốc An Ninh Quân Đội kiêm Tổng Giám Đốc An Ninh Quốc Gia, đích thân ra miền Trung dẹp được cuộc “tranh đấu” nầỵ Thượng Tọa Thích Trí Quang được đưa vào Saigon. Thượng Tọa Thích Trí Quang tuyên bố tuyệt thực vô hạn định, đến nằm trong bịnh viện Duy Tân của Bác sĩ Nguyễn Duy Tài ở đường Duy Tân Saigon.

 

Uy tín của Thượng Tọa Thích Trí Quang xuống khủng khiếp kể từ ngày ông ra lệnh đưa bàn thờ Phật xuống đường bị Thượng Tọa Tâm Châu phản đối, rồi đến cuộc tuyệt thực kéo dài đúng 100 ngày; một cuộc tuyệt thực đúng 3 tháng 10 ngày cho thấy Thượng Tọa TTQ làm một việc vừa phản khoa học lại vừa có tính cách bịp bợm, vô ư thức, v́ trên đời không ai có thể nhịn ăn 100 ngày mà vẫn sống, vẫn khoẻ mạnh như Thương Tọa Trí Quang. Sở dĩ Thương Tọa Trí Quang kéo dài cuộc tuyệt thực đến 100 ngày v́ ông đinh ninh rằng chính quyền Nguyễn Cao Kỳ sẽ nhượng bộ những đ̣i hỏi của ông, nhưng tướng Nguyễn Ngọc Loan, chỉ huy ngành Cảnh Sát cũng như Trung Ương T́nh Báo có đầy đủ dữ kiện và yếu tố chắc chắn là Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn ăn uống như thường. Ông tuyên bố tuyệt thực nhưng sự thực ông không tuyệt thực ngày nào hết. Thượng Tọa nằm ở bịnh viện của Bác sĩ Nguyễn Duy Tài là để dưỡng sức chứ không phải để tranh đấu. Sức khoẻ của Thượng Tọa Thích Trí Quang không hề suy giảm nên chính quyền Nguyễn Cao Kỳ không có ǵ mà sợ. Hơn ai hết, chắc Thượng Tọa Thích Trí Quang cũng biết Bác sĩ Tài là một nhà trí thức “vừa đi theo khối Ấn Quang, vừa theo cả chính quyền” nên mọi hành động của ông đều bị biết hết.

 

Sau 100 ngày tuyệt thực, Thượng Tọa Thích Trí Quang trở về chùa Ấn Quang tiếp tục lănh đạo khối Phật Giáo tranh đấu. Thời gian nầy, bỗng nhiên báo chí Mỹ đăng h́nh Thượng Tọa Thích Trí Quang ở ngay trang b́a, nơi dành cho chính khách quốc tế, những nhân vật được cả thế giới chú ư với lời chú thích “Thương Tọa TTQ, một nhân vật đang làm rung chuyển nước Mỹ”.

 

Hàng ngũ Phật Giáo chia rẽ trầm trọng. Khối Ấn Quang lập viện Hóa Đạo riêng do Thượng Tọa Thích Thiện Hoa làm viện trưởng. Thượng Tọa Huyền Quang làm Tổng thơ kư.

 

Thượng Tọa Tâm Châu lập viện Hóa Đạo riêng lấy Việt Nam Quốc Tự làm trụ sợ Viện trưởng viện Hóa Đạo nầy là TT Thích Tâm Châu, Tổng thơ kư là TT Huyền Minh.

 

Sau cuộc Tổng công kích của CS vào Tết Mậu Thân, vào 5/1968, Thượng Tọa Thích Trí Quang và đại đức Liễu Minh bị cảnh sát bắt giữ v́ liên lạc với CS. Măi cho đến 7/1968, nhân một cuộc họp kín ở dinh Độc lập do TT Thiệu chủ tọa, ông Nguyễn Cao Thăng làm phụ tá, một nhà sư thuộc khối Ấn Quang đă đứng lên yêu cầu TT Thiệu trả tự do cho Thương Tọa Thích Trí Quang. TT Thiệu chấp thuận.

 

Thượng Tọa Thích Trí Quang lại trở về chùa Ấn Quang nhường chức Chánh thơ kư viện Tăng Thống cho TT Thích Đức Nhuận. Lập trường của khối Ấn Quang bắt đầu thay đổi khi khối nầy chấp thuận tham gia bầu cử bán phần Thượng Viện VNCH, đưa liên danh Hoa Sen do giáo sư Vũ Văn Mẫu làm Thụ ủy; phía Thiên Chúa Giáo có liên minh Bông Huệ do luật sư Nguyễn Văn Huyền làm Thụ ủy; phía chính quyền có liên danh Mặt Trời do Huỳnh Văn Cao làm Thụ ủy. 3 liên danh nầy đắc cử vào Thượng viện th́ liên danh Hoa Sen của khối Ấn Quang do Vũ Văn Mẫu làm Thụ ủy chia rẽ ngay. Một số nghị sĩ trong liên danh Hoa Sen hầu hết là đệ tử ruột của Thương Tọa Thích Trí Quang như Trần Quang Thuận, Tôn Thất Đính, Nguyễn Duy Tài,v.v... đă đầu hàng Nguyễn Văn Thiệu, chấp thuận Luật Ủy Quyền, luật 007 kèm kẹp báo chí, trao toàn quyền cho TT Thiệu bán miền Nam. Trong khi liên danh Bông Huệ của luật sư Nguyễn Văn Huyền, trừ Trần Văn Hương đi với TT Thiệu để làm phó TT, tất cả các nghị sĩ trong liên danh Bông Huệ đều đoàn kết chặt chẽ quyết tâm tranh đấu chống lại sự độc tài của TT Thiệu.

 

Trong Thượng viện, liên danh Hoa Sen của khối Ấn Quang không làm nên tṛ trống ǵ, không có kế hoạch đấu tranh chính trị trong nghị trường. Măi cho đến năm 1974, khối Ấn Quang bắt đầu đón gió, thành lập “Lực Lượng Ḥa Hợp và Hoà Giải Dân Tộc” do nghị sĩ Vũ Văn Mẫu làm chủ tịch. Lực lượng nầy thành lập sau phong trào Nhân Dân Tố Tham Nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh và nhóm Quốc Gia ở Hạ viện. Lại nữa, trong giai đoạn các Văn Nghệ Sĩ vùng lên đ̣i tự do báo chí và xuất bản, đ̣i hủy bỏ luật 007, “Lực Lượng Ḥa Hợp và Hoà Giải Dân Tộc” của nghị sĩ Vũ Văn Mẫu tỏ ra hùng hổ nên không được báo chí ủng hộ.

 

Sau đó, Viện Hóa Đạo được bầu lại, Thượng Tọa Thích Trí Quang định hất TT Thích Thiện Minh ra khỏi chức Viện trưởng Viện Hóa Đạo, nên trong cuộc bầu cử nầy, phe cánh của Thương Tọa Thích Trí Quang t́m cách loại TT Thiện Minh và TT Huyền Quang. TT Thiện Minh phản ứng quyết liệt, đưa các đệ tử ở Trung Tâm Quảng Đức, trụ sở của Tổng vụ Thanh niên Phật tử đến chùa Ấn Quang trong cuộc bầu lại viện Hóa Đạọ TT Thiện Minh và TT Huyền Quang nhất định chống lại âm mưu của Thượng Tọa Thích Trí Quang. Cuộc bầu bất thành suưt đổ máu, nhưng Thượng Tọa Thích Trí Quang nhất quyết gạt TT Thiện Minh và TT Huyền Quang ra ngoài chỉ v́ các TT Thiện Minh và Huyền Quang không chấp thuận đường lối của Thượng Tọa Thích Trí Quang định đưa Phật giáo vào con đường Chính trị Phi dân tộc, liên kết với CS để thành lập Lực Lượng Thứ Ba thân cộng sản.

 

Tuần lễ sau, khối Ấn Quang bỗng nhiên đưa ra thành phần lănh đạo mới của Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo, trong đó Thượng Tọa Đức Nhuận từ chức Chánh Thơ Kư Viện Tăng Thống, Thượng Tọa Trí Quang thay thế, Thượng Tọa Thích Trí Thủ thay Thượng Tọa Huyền Quang làm Tổng Thơ kư Viện Hóa Đạo.

 

Cuộc tấn công của CS vào Ban-Mê-Thuột, sau đó tràn đến Phú Yên và mấy tỉnh miền Bắc của Quân Đoàn 1. Trong khi CS tràn ồ ạt như thế th́ các Tỉnh Bộ của “Lực Lượng Ḥa Hợp và Hoà Giải Dân Tộc” lại cộng tác với CS để tiếp thu các tỉnh lúc ban đầu, rồi cử đại diện vào Saigon liên lạc với Trung Ương Lực Lượng Hoà Hợp và Ḥa Giải Dân Tộc. Thượng Toạ Thích Trí Quang và giáo sư Vũ Văn Mẫu mừng hí hửng, coi là đă nắm được thời cơ để quật khởi, lănh đạo Lực Lượng Thứ Ba như Hiệp Định Paris quy định. Lối lạc quan tếu của Thượng Tọa Thích Trí Quang và giáo sư Vũ Văn Mẫu đă làm cho miền Nam Việt Nam mất vào tay CS nhanh hơn.

 

Nhưng, việc đến đă đến, ngày 26/4/1975, Thượng Tọa Thích Trí Quang nhận được một bức thư viết bằng chữ Hán của Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, Phó Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, báo tin cho ông biết, “chiếm được chính quyền, CS không dùng ông nữa đâu! Đừng mơ ước, nếu có thể, ông nên ra đi th́ hơn”. Khi đó, Thượng Tọa Thích Trí Quang đă bừng tỉnh giấc mơ làm lănh tụ, nhưng không biết đi về đâu bây giờ? Nhờ vào Mỹ th́ theo những người thân cận của ông cho hay, ông đang uất hờn Mỹ (vụ chống Nguyễn Cao Kỳ năm 1966) nên không chịu. Thượng Tọa Thích Trí Quang đành ở lại Saigon, chỉ có Đại Đức Thích Giác Đức cùng với Thượng Tọa Huyền Vi, Thượng Tọa Thiên Định cùng với một số các vị cao tăng khác di tản. Thượng Tọa Huyền Vi và Thượng Tọa Thiên Định đến Guam là sang thẳng Pháp ở với Đại Đức (nay là Ḥa Thượng) Nhất Hạnh.

 

Sau khi CS chiếm miền Nam VN, Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn ở lại chùa Ấn Quang để “tu học và dịch sách”, không tiếp khách hay làm chánh trị ǵ nữa. Thượng Tọa Thích Trí Quang vẫn không hở môi hay hô hào tranh đấu ǵ nữa mặc dầu Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị chính quyền CS giải tán (1981), mặc cho CS đày ải, chém giết tăng ni, thi hành chính sách độc tài khát máu. Ông không c̣n nói năng ǵ khi lớp lớp sư sải tự thiêu hay bị đuổi ra khỏi chùa. Ông không c̣n đem bàn thờ Phật xuống đường khi thấy số chùa chiền, trước đây được gầy dựng lên thập bội, nay bị giảm sút thập phần khi CS sung công làm nhà chứa kho.

 

Ngày nay, ông và các vị sư khác nhận tiền cúng dường từ Phật tử ở hải ngoại.

 

Cuộc đời chính trị của Thượng Tọa Thích Trí Quang đến đây coi như đă hết. Tất cả những ǵ ông định xây dựng cho cá nhân ông cũng tan biến theo hư không...Cuộc đời như nước trôi qua cầu và không bao giờ trở lại chỗ cũ.

 

Nhưng những người từng bỏ nước ra đi ngày đêm tụng niệm cầu an cho ông...

 

1. Thượng Tọa Thích Trí Quang:

 

Thượng tọa Thích Trí Quang tên thật là Phạm Quang, sinh năm 1922 tại làng Diêm Điền (c̣n được gọi là Nại Hiên hay làng Kẻ Nại) ở phía Tây ngoại ô thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng B́nh. Đây là một làng nổi tiếng có nhiều người hoạt động cho VC. Các cán bộ CS của làng này cũng thuộc vào loại quá khích và sắt máu. Mặt khác, vào năm 1885, khi Phong trào Văn Thân nổi lên, chính dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đ́nh đă tiến vào đốt nhà thờ Sáo Bùn của công giáo ở phía Nam thành phố Đồng Hới, thiêu sống luôn mấy trăm giáo dân ở đó. Số giáo dân c̣n sống sót phải bỏ làng chạy về phía Bắc thành phố Đồng Hới và về sau lập một giáo xứ mới tại đây lấy tên là giáo xứ Tam Ṭa. Sự thù ghét công giáo của dân làng Diêm Điền đă in sâu vào tâm trí của TT Trí Quang từ lúc ông c̣n niên thiếu.

 

Dân làng Diêm Điền chứa chấp du kích VC. Trong thời gian Pháp chiếm đóng Đồng Hới, từ 1947-1954, ít ai dám đi sâu vào làng Diêm Điền, mặc dù làng này ở sát phía Tây thành phố và bên làng có đồn của Quân đội Quốc gia VN trấn đóng.

 

Gia đ́nh ông có 4 anh chị em: Phạm Quang, Phạm Minh, Phạm Chánh và Phạm Đại. Mấy người em của ông chỉ học tới sơ học (lớp 3), đă gia nhập bộ đội Việt Minh từ năm 1946. Phạm Chánh có cấp bậc Trung sĩ, chỉ huy một tiểu đội du kích của VC, đă bị Pháp bắn chết ở Đức Phổ, phía Tây Đồng Hới vào ngày 4/6/1947 khi mới 21 tuổi. Đây là người mà vài sử gia PG gọi là “một trong những lănh tụ kháng chiến”. Phạm Đại là một y tá bộ đội, đă ở lại miền Bắc sau Hiệp định Geneva.

 

Sau khi Phạm Chánh qua đời, vợ của Phạm Chánh từ chiến khu trở về xin cấp giấy phép hồi cư để phụng dưỡng bố mẹ chồng ở Diêm Điền. Thiếu úy Huỳnh Công Tịnh, Trưởng pḥng 2 của Trung đoàn Nguyễn Huệ đóng ở Đồng Hới, đă cứu xét đơn, bắt cô ta làm tờ cam kết không tiếp tục hoạt động cho Việt Minh, rồi cấp giấy phép cho hồi cư, nhưng thông báo cho Trưởng đồn Diêm Điền biết và ra lệnh phải theo dơi v́ đây là một thành phần nguy hiểm. Vợ của Phạm Chánh là một cô gái có nhan sắc, mới về nhà cha mẹ chồng được 2 tuần th́ đă lân la đến khu đồn Diêm Điền đùa cợt và ít lâu sau cô đă bắt bồ được với Trưởng đồn. Thấy hành vi của cô khả nghi như hỏi về t́nh trạng của đồn, theo dơi các cuộc hành quân nên các đơn vị ở đây đă tương kế tựu kế. Vợ Phạm Chánh đă làm nội gián và cô ta đă bị giết khi t́m cách ngủ với Trưởng đồn ngay trong đêm VC tấn công vào đồn này.

 

Trong cuốn “The Lost Revolution” (nxb. Harper and Row, 1965), Robert Shaplen có ghi lại rằng khoảng tháng 5/1964, sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ, người em thứ hai của TT Trí Quang là Thích Diệu Minh, một Ủy viên của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng B́nh, đă cùng với một cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, lén vào chùa Từ Đàm thăm ông. Nhưng thực ra Phạm Minh không có đi tu, có lẽ khi vào tới Huế, Phạm Minh đă mặc áo cà sa và lấy tên là Thích Diệu Minh để dễ trà trộn.

 

Dân làng Diêm Điền chuyên về nghề mộc, làm ruộng và đi làm mướn, không có thành phần khoa bảng, ít ai học hết tiểu học. Giọng của dân làng này hơi ngọng, TT Trí Quang cũng có giọng đó nên ông đă gặp nhiều khó khăn khi nói trước quần chúng. Ông đă cố gắng luyện giọng lại nhưng không như ư muốn. Năm 1954, khi Hiệp định Geneva được kư kết, mặc dù ở ngay ngoại ô thành phố Đồng Hới, có thể di cư vào nam dễ dàng, nhưng đa số dân làng này đă ở lại với VC.

 

Như đa số các tăng sĩ thời đó, học vấn của TT Trí Quang chỉ có hạn. Về Hán học, ông học với các sư, chứ không học với các nhà Nho. Hán học của ông do đó là Hán học của nhà Phật, không phải Hán học của nhà Nho. Loại Hán học này chỉ hướng vào việc t́m hiểu kinh Phật, nên kiến thức tổng quát của ông không nhiều. Về Tây học, ông chưa học hết Trung học Đệ nhất cấp. Thời của ông, đậu diplôme (trung học đệ nhất cấp) không phải là chuyện dễ dàng.

 

Có thể ông chỉ học hết tiểu học (Primaire), v́ ở Đồng Hới cho tới năm 1945 chỉ có trường Tiểu học. Khi vào Huế, ông đă học thêm Hán học và Phật học, chứ không học thêm ở một trường Tây nàọ Về Phật học, ông tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế năm 1943. Nghe ông thuyết pháp và đọc 2 tác phẩm của ông là “Cuốn sách nhỏ của người xuất gia” và “Cuốn sách nhỏ của người tại gia”, người ta có thể thấy là kiến thức của ông không nhiều và không sâu sắc. Trong bài “Địa vị và nhiệm vụ hộ pháp của người Phật tử tại gia”, ông viết:

 

“Cái thành kiến quái gở cho rằng “tôi phải hy sinh sự tự lợi của tôi cho sự lợi tha” cũng sẽ phải tan ră v́ nguyên tắc này, bởi v́ không có sự lợi tha nào đúng nghĩa từ ngữ áy mà thiếu tự lợi tức sự áp dụng Phật pháp trước hết, hay đối lại cũng chẳng có một sự tự lợi nào đúng nghĩa của danh từ ấy mà không v́ mục đích lợi tha tức v́ lợi ích chung mà áp dụng Phật pháp.

 

“Thật là một lỗi lầm đáng khinh bỉ khi một người đă sống trong Phật pháp vô thượng mà không thẳng thắn bộc lộ rạ Họ bảo như thế để moi người thấy ḿnh không cố chấp tín ngưỡng của ḿnh, nhưng họ có biết đâu rằng cố chấp là một việc mà thành thật là một việc khác.

 

Không thành thực bộc lộ tư cách Phật tử của ḿnh th́ làm sao cảm hóa người được. Họ c̣n đi hợp tác với ngoại đạo tà mạ Họ bảo để tỏ tư cách quảng đại của Phật tử, nhưng lời ấy chỉ là che đậy những lư do lấy Đạo làm bàn đạp cho lợi lộc cá nhân của ḿnh mà thôi, chứ Phật tử sao đi hợp tác với ngoại đạo?”

 

Ông cũng có dịch một số kinh Phật bằng chữ Hán ra chữ Việt.

 

Khi VC cướp chính quyền năm 1945, ông gia nhập Mặt Trận Việt Minh. Trong cuốn No More Vietnam, Nixon cho biết là ông đă bị Pháp bắt 2 lần trước năm 1954 v́ hoạt động cho Việt Minh. TT Trí Quang không hề dấu diếm mục tiêu của ông khi ông tuyên bố Giáo hội Phật giáo thích hợp với chế độ CS (He was a disciple of Thich-Tri-Do, the leader of the Communist-dominated Buddhist Church in North Vietnam, and had once said that Buddhism was entirely compatible with communism).

 

Sau khi có lệnh của Việt Minh phải tản cư khỏi Huế vào cuối năm 1946, ông đă về lại Diêm Điền ở Đồng Hới, nơi quê quán của ông, nghỉ lại đây một thời gian ngắn rồi cùng Thích Mật Thể đi ra Vinh. Ông ở Vinh mấy tháng lại quay về Đồng Hới và giữ chức Chủ tịch Ủy ban Phật giáo Cứu quốc Quảng B́nh. Năm 1947, Pháp chiếm Đồng Hới, ông ở Diêm Điền qua cư ngụ ở làng Trung Nghĩa, phía Tây làng Diêm Điền, v́ Diêm Điền quá sát thành phố, rất khó hoạt động. Những địa diểm mà ông thường xuyên lui tới để hội họp với Ủy ban Kháng chiến tỉnh Quảng B́nh là Đức Phổ, Thuận Lư và Phú Quư, các nơi này Pháp chưa kiểm soát hoàn toàn được. Cùng hoạt động với ông có 2 cán bộ nội thành của Việt Minh là Nguyễn Toại ở Đồng Đ́nh và Nguyễn Tịch ở Đồng Phụ Đồng Đ́nh và Đồng Phú là 2 làng nằm ngay trong thành phố Đồng Hới. Nguyễn Toại (thường được gọi là Toại béo) trước làm Nhà Đèn Huế, theo CS tản cư ra Đồng Hới vào cuối năm 1946 cùng lượt với TT Trí Quang. Cả Nguyễn Toại, Nguyễn Tịch và TT Trí Quang đều bị Pháp bắt năm 1947. Trong thời gian hoạt động cho Việt Minh, Nguyễn Toại đă chỉ điểm nhiều thành phần đảng phái quốc gia có lập trường chống CS cho Việt Minh bắt thủ tiêu, nên khi Nguyễn Toại bị bắt, có người đă tố cáo với Pháp về chuyện này, do đó Pháp đă đem Nguyễn Toại ra xử bắn. Nguyễn Tịch trốn được khỏi nhà giam vào ban dêm. TT Trí Quang chỉ bị giam một thời gian rồi được trả tự do. Nhưng ít lâu sau ông bị bắt trở lại v́ Pḥng 2 của Pháp thấy ông vẫn c̣n liên lạc với các cán bộ giao liên của Việt Minh. Sau một thời gian giam giữ, ông được một viên chức thuộc địa của Pháp ở Huế bảo lănh. Ông làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa, nên được thả ra. Nhận thấy không c̣n hoạt động ở Đồng Hới được, ông trở về Huế và chuyên lo Phật sự, nhưng bên trong vẫn bí mật hoạt động cho Việt Minh.

 

Năm 1953, Hồ Chí Minh thành lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh để gây phong trào phản chiến, vận động dư luận quốc tế và quốc nội làm áp lực buộc Pháp ngưng chiến. Ḥa thượng Thích Trí Độ là Ủy Viên Trung Ương của tổ chức nàỵ Thượng Tọa Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy Ban.

 

Sau cuộc di cư năm 1954, TT Trí Quang làm Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học ở Huế. Lợi dụng cương vị này, ông đứng ra lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh, một tổ chức phản chiến do Việt Minh lập năm 1953. Ông đă quy tụ được một số trí thức Phật Giáo thời đó tại Huế như bác sĩ Lê Khắc Quyến, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, ông Nguyễn Văn Đảng, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Mục tiêu của Ủy Ban này là ngụy ḥa, kêu gọi ḥa hợp ḥa giải dân tộc và tổ chức bầu cử ngay để thống nhất 2 miền Nam Bắc. Với t́nh trạng xă hội và chính trị vô cùng xáo trộn của miền Nam lúc dó, HCM tin rằng nếu có bầu cử chắc chắn CS sẽ thắng như năm 1945, v́ họ đă gài lại vô số cán bộ nằm vùng hoạt động tại miền Nam. TT Trí Quang đă làm công tác dân vận đó giúp VC nên nhóm của ông bị bắt. Chức Hội Trưởng Hội Việt Nam Phật Học của ông giao lại cho TT Thích Giác Nhiên.

 

V́ TT Trí Quang đang làm Hội trưởng Hội Phật Học ở Huế nên công an tŕnh nội vụ cho ông Ngô Đ́nh Cẩn giải quyết. Sau khi xem hồ sơ của TT Trí Quang, ông Ngô Đ́nh Cẩn thấy TT Trí Quang là người đồng hương nên quyết định chiêu hồi cả nhóm này. Ông Ngô Đ́nh Cẩn cho TT Trí Quang xem hồ sơ của Pḥng 2 Pháp để lại, trong đó ghi rơ từng trường hợp ông hoạt động cho VC khi ở Quảng B́nh và tờ cam kết của ông không tiếp tục hoạt động cho VC nữa. Sau đó ông Ngô Đ́nh Cẩn nói với TT Trí Quang rằng nếu Thượng Tọa chịu giữ lời cam kết và hợp tác, chính phủ sẽ giúp đỡ cho. Trước cái thế chẳng đặng đừng này, TT Trí Quang đă chấp nhận hợp tác và ông Ngô Đ́nh Cẩn đă dùng TT Trí Quang để nắm khối Phật giáo miền Trung. Nhiều người đă ngăn cản ông Ngô Đ́nh Cẩn về chuyện này, nhưng ông Ngô Đ́nh Cẩn tin rằng ông đă nắm hồ sơ TT Trí Quang trong tay, TT Trí Quang sẽ không dám phản lại ông. Ông Ngô Đ́nh Cẩn đă yểm trợ rất nhiều cho các hoạt động của Phật Giáo tại chùa Từ Đàm để tăng uy tín cho TT Trí Quang và thỉnh thoảng có đến chùa Từ Đàm ăm cơm chay với TT Trí Quang.

 

Chùa Từ Đàm được xây cất từ 1703, đời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu, có tên là Ấn Tôn Tư Đến đời vua Hiến Tổ, hiệu là Thiệu Trị (1841-1847), triều đ́nh cho rằng tên chùa phạm húy nên đổi thành chùa Từ Đàm. V́ được xây cất từ lâu nên chùa bắt đầu hư nát. Ông Ngô Đ́nh Cẩn đă giúp cho TT Trí Quang trùng tu lại nên trông rất mới mẻ, quan khách cứ tưởng như chùa mới xâỵ

 

Bác sĩ Lê Khắc Quyến được cử giữ chức Giám đốc Bệnh viện Trung Ương Huế, mặc dù ông chỉ là Y sĩ Đông Dương (chưa có luận án), không phải là Bác sĩ ngạch Pháp.

 

Ông Nguyễn Văn Đẳng được bổ nhiệm làm Tổng thư kư Ṭa thị chính Đà Nẵng năm 1955 và đến năm 1962 được đưa ra làm tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên kiêm Thị trưởng thành phố Huế. Khi vụ Phật Giáo xảy ra vào tháng 3/1963 ở Huế, ông đang làm thị trưởng ở đó. Ông được coi là một Phật tử thuần thành nên không hề bị đ̣i nợ máu khi ông ra lệnh cho Thiếu tá Đặng Sĩ dẹp cuộc biểu t́nh trước đài phát thanh. Thiếu tá Đặng Sĩ, người thừa hành, bị đ̣i nợ máu, v́ Đặng Sỹ là người Công giáo.

 

Ngày 1/6/1963, cả ông Nguyễn Văn Đẳng lẫn Thiếu tá Đặng Sỹ đều bị ngưng chức và về đợi lệnh ở Bộ Nội vụ. Sau này ông Đẳng được cử giữ chức Đại biểu Chính phủ tại Trung phần. Trong trận Tết Mậu Thân, ông Đẳng bị mất tích. Mọi người đều tưởng ông đă bị giết, nhưng sau 30/4/75 ông trở lại Huế. Điều này làm nhiều người ngạc nhiên về vai tṛ của ông. Hiện ông ở Hoa Kỳ.

 

Dược sĩ Nguyễn Cao Thăng đi theo Việt Minh từ 1945 đến năm 1951 th́ trở về Hà Nội và theo học trường Dược tại Hà Nội. Năm 1954, khi mới di cư vào Nam, ông đă tham gia Ủy Ban Bảo Vệ Ḥa B́nh của TT Trí Quang. Sau khi được chiêu hồi, ông Ngô Đ́nh Cẩn đă nhờ Linh mục Cao Văn Luận giúp NCT lấy xong bằng Dược sĩ rồi giao cho Nguyễn Cao Thăng đứng đầu hăng bào chế dược phẩm OPV tại Saigon để kinh tài cho Đảng Cần Lao. NCT cũng được ông Ngô Đ́nh Cẩn đưa ra làm Dân biểu Quốc hội Lập hiến trong cuộc bầu cử 1957. Khi Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống, NCT lại được chọn làm Phụ tá TT đặc trách liên lạc với Quốc hội. Ông có nhiệm vụ vận động các dân biểu bỏ phiếu ủng hộ các dự luật và các đường lối do Hành pháp đưa ra. Nguyễn Văn Ngân, nhập ngũ khóa 13 Thủ Đức, đang ở Sư đoàn 7, được NCT đưa về làm Phụ tá, có nhiệm vụ xách cặp tiền đi theo và chi tiền cho các dân biểu khi có lệnh của NCT. Khi NCT qua đời, Nguyễn Văn Ngân được cử giữ chức vụ của NCT v́ đă quen công việc.

 

TT Trí Quang chỉ trá hàng ông Ngô Đ́nh Cẩn. Các nhân viên t́nh báo có cho ông NĐC biết TT Trí Quang vẫn tiếp tục liên lạc với VC nhưng ông không quan tâm nhiều. Ông tin ông có thể tương kế tựu kế.

 

Tháng 5/1963, khi có lệnh hạn chế treo cờ các tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, TT Trí Quang đă lợi dụng cơ hội này phát động phong trào Phật Giáo chống chính phủ Ngô Đ́nh Diệm với thủ đoạn và chiến thuật mà VC thường áp dụng (bàn sau).

 

Năm 1964, khi Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất (khối Ấn Quang) được thành lập, TT Trí Quang giữ chức Chánh thư kư Viện Tăng Thống.

 

Sau khi Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc “chỉnh lư” và lên nắm chính quyền, TT Trí Quang đă lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, sau biến thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, trong đó có nhiều đặc công CS nằm vùng lănh đạo 2 tổ chức này. Lực lượng của ông mở cuộc đánh phá Công giáo và các đảng phái Quốc gia, dưới chiêu bài “diệt dư Đảng Cần lao”, đ̣i Mỹ rút quân, ngụy ḥa, gây rối loạn cả miền Nam VN. Lực lượng của ông đă bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan vào tháng 6/1966. Trong cuộc họp báo ngày 7/6/1966, Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận tuyên bố TT Trí Quang là CS nên sẽ bị bắt, nhưng sau đó ông vẫn không bị bắt.

 

Sau 30/4/1975, nhóm Ấn Quang do ông lănh đạo đă tổ chức mừng giải phóng và coi thắng lợi của VC là thắng lợi của Phật Giáo. Nhưng đến năm 1976, Hà Nội giải thể Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhóm ông cũng bị loại theo.

 

Trong cuộc lục soát chùa Ấn Quang của lực lượng an ninh CS vào đêm 6/4/1977, các Ḥa thượng Huyền Quang, Thiện Minh, Quảng Độ và một số tăng sĩ đă bị bắt, nhưng công an không đụng đến ông. Ông chỉ bị quản thúc tại chỗ và mọi việc liên lạc giữa ông với người ngoài không có ǵ khó khăn lắm.

 

TT Trí Quang được coi là người lănh đạo nhóm Phật giáo quá khích và cực đoan trong tông phái Phật giáo Ấn Quang ở miền Trung. Nhiều người nghĩ rằng ông đă sống và hoạt động với VC nhiều năm nên đă học được nhiều kỹ thuật đấu tranh chính trị và thủ đoạn của CS. Nh́n cách điều động các cuộc đấu tranh của ông, người ta thấy ông có nhiều mưu lược. Ông điều hành cuộc đấu tranh của Phật giáo miền Trung đúng phương pháp mà VC thường xử dụng. Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm chỉ ra lệnh hạn chế việc treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo, ông phao tin chính phủ ra lệnh triệt hạ cờ Phật giáo. Trong vụ nổ tại đài phát thanh Huế tối 8/5/1963, Bác sĩ Lê Khắc Quyến, một “đồng chí” của ông, khám nghiệm tử thi các nạn nhân, đă cho ông biết các nạn nhân bị chết v́ một chất nổ bằng plastic cực mạnh, nhưng ông vẫn tuyên truyền kích động, phao tin các nạn nhân bị chết v́ súng bắn, lựu đạn và xe tăng cán... Vừa kư kết xong với Ủy Ban Liên Bộ một thông cáo chung giải quyết vụ Phật giáo, ông tung ngay một “mật điện” giả để hô hoán chính quyền t́m cách không thực thi thông cáo chung và hô hào tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh, v.v...

 

Nhưng một sĩ quan t́nh báo cao cấp của VNCH thời đó đă nói: TT Trí Quang chỉ là ấu chúa, mọi việc trong triều đều do Thái sư và Thừa tướng lọ Thái sư là Vơ Đ́nh Cường, c̣n Thừa tướng là Nguyễn Trực.

 

Thích Trí Quang quê ở Quảng B́nh nên Huế không phải là đất dụng vơ của ông. Ở Huế thời đó lại có quá nhiều thành phần xuất sắc, nên TT Trí Quang nằm trong hạng vô danh tiểu tốt. Khi nhóm TT Thích Thiện Chiếu, Thích Trí Độ, Thích Mật Thể, ...đi tản cư và ở lại Nghệ An theo Việt Minh, một ḿnh TT Trí Quang bị Pháp bắt nên phải từ Quảng B́nh quay lại Huế, vai tṛ của ông mới được chú ư. Sau này ông Ngô Đ́nh Cẩn đă giúp đở tối đa và tạo uy tín cho ông, đưa ông trở lại làm Hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học để nắm khối Phật Giáo Miền Trung, ông mới có chút uy tín. Nhưng mọi lực lượng đều nằm trong tay Vơ Đ́nh Cường.

 

Vơ Đ́nh Cường lănh đạo Ban Huynh Trưởng Cố Vấn Gia Đ́nh Phật Tử, một tổ chức do bác sĩ Lê Đ́nh Thám thành lập tại Huế năm 1944. Năm 1949, bác sĩ Lê Đ́nh Thám được Hồ Chí Minh gọi ra Bắc, Vơ Đ́nh Cường đứng lên lănh đạo tổ chức này và hoạt động cho Việt Minh. Chính Vơ Đ́nh Cường nhận chỉ thị của Khu Ủy Trị-Thiên-Huế, hoạch định các kế hoạch, chiến thuật và thủ đoạn đấu tranh rồi đẩy TT Trí Quang đi theo, c̣n Nguyễn Trực là người điều động.

 

Nh́n chung, TT Trí Quang có những đặc tính sau đây:

 

Độc đoán: Ông muốn thâu tóm mọi quyền hành trong Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và sau này, trong Giáo Hội PG Ấn Quang. Mọi kế hoạch tranh đấu ông chỉ bàn với Vơ Đ́nh Cường rồi bắt các tăng sĩ khác đi theo. Ông xem thường các tăng sĩ người miền Bắc và miền Nam, coi họ là những người không có mưu lược. Có người cho rằng thái độ độc đoán này phát xuất từ các chỉ thị của Khu Ủy mà ông phải tuân theo, ông không thể để cho các tăng sĩ khác lái đi trệch hướng. Trong cuộc đụng độ năm 1966, ông bất chấp lệnh của Viện Hóa Đạo. Ngày 26/3/1966, TT Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, ra thông bạch kêu gọi giữ b́nh tỉnh trong khi thương lượng với chính phủ th́ hôm sau, ngày 27/3/1966, TT Trí Quang lại ra lệnh tổ chức một cuộc biểu t́nh 20,000 người ở Huế để thách đố TT Tâm Châụ Trước t́nh thế này, Viện Hóa Đạo đă triệu tập một phiên họp vào ngày 27/5/1966 và ra thông cáo tuyên bố từ nay Viện Hóa Đạo làm việc theo nguyên tắc “tập đoàn chỉ huy”, với dụng ư cho TT Trí Quang biết ông không thể hành động theo ư riêng. Nhưng TT Trí Quang không hề đếm xỉa đến thông cáo đó, nên ngày 17/6/1966 TT Tâm Châu lại phải ra thông cáo nữa lên án “sự lạm quyền” của TT Trí Quang và một số tăng sĩ khác.

 

Tự phụ: Ông cho rằng chỉ có ông mới có thể lănh đạo cuộc đấu tranh đi tới thành công và những thành quả đều do mưu trí của ông.

 

Cực đoan: ông đưa chủ thuyết “Phật giáo và Dân tộc”. Ông luôn tuyên bố Phật giáo và Dân tộc gắn liền với nhau Vậy muốn cứu vản dân tộc, chỉ có một con đường duy nhất là đưa VN trở lại thời Lư-Trần, Phật giáo là quốc giáo, các Hoà thượng là quốc sư. Để đạt mục tiêu này, ông tuyên truyền cho thuyết Phật giáo siêu việt và độc tôn, và cổ vơ loại trừ Công giáo, một tôn giáo được ông coi là “đạo ngoại lai”, phản lại quyền lợi và văn hóa dân tộc. Hầu hết các tăng sĩ miền Trung gốc B́nh-Trị-Thiên và Nam-Ngăi trong khối PG Ấn Quang lúc nào cũng lặp lại chủ thuyết của ông như những con sáo. Nhưng chính chủ thuyết mà ông đưa ra đă cô lập ông với cộng đồng dân tộc. Ông cũng tỏ ra bất khoan dung đối với các tông phái không muốn chấp nhận uy quyền và chủ trương của ông trong GH PG Ấn Quang. Các vụ đánh phá VN Quốc Tự và Tổng Hội GHPGVN là những thí dụ điển h́nh. 

Tính chuyện mưu bá đồ vương: Ông tin rằng có thể dùng lá bài PG để tiến tới nắm chính quyền miền Nam VN. Trong cuộc biểu t́nh ngày 21/5/1966, người ta thấy một loại truyền đơn thăm ḍ được tung ra ở Huế, Đà Nẵng và Saigon, đ̣i đưa TT Trí Quang lên làm Quốc trưởng và Trần Quang Thuận làm Thủ tướng. TT Thích Huyền Minh cho biết TT Trí Quang muốn thiết lập chế độ quân chủ. Ông cho rằng dù muốn dù không, đất nước này phải có vua mới. Ông muốn biến 17 tỉnh miền Trung thành một vùng trái độn do cựu Hoàng Bảo Đại cai trị và PG là quốc giáo. Trong cuốn “Les forces politiques au Sud Vietnam depuis les accords de Genève” (Các lực lượng chính trị từ sau hiệp định Genève), bà Trần Hoài Trân, giáo sư Đại học Luật khoa Saigon, cho biết giấc mơ của nhóm TT Trí Quang là giấc mơ một nước VN trung lập, độc lập và theo PG, trong một Đông Nam Á trung lập và PG.

 

Cụ Cao Xuân Vĩ kể lại rằng năm 1964, sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm đă bị Hoa Kỳ lật đổ, các Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Thiện Minh và Thích Đức Nghiệp đă từng họp bàn để lập lại tập tục Tế Nam Giao ở Huế như thời Bảo Đại. TT Thích Trí Thủ nói không có vua th́ chỉ cần t́m một người gần nhất trong hoàng tộc mặc áo đứng đó là đủ. Mọi thủ tục khác PG đảm nhận.

 

Ước muốn trở lại thời quân chủ của các tăng sĩ trong nhóm An Nam Phật Học ở Huế không có ǵ khó hiểu. Dưới thời Bảo Đại, ngoài sự khuyến khích của thực dân Pháp, triều đ́nh Huế đă giúp đỡ PG Huế tối đa. Bà Từ Cung, Thái Hậu của vua Bảo Đại, là người bảo trợ cho các chùa và các tổ chức PG ở Huế. Mỗi khi các tăng sĩ hoạt động cho Việt Minh bị Pháp bắt đều được bà Từ Cung bảo lănh cho trở về. Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu hoạt động cho Việt Minh, bị Pháp bắt nhiều lần, nếu không có sự can thiệp của bà Từ Cung, đă bị Pháp đem đi bắn. Được triều đ́nh nhà Nguyễn bảo trợ tối đa, nhóm tăng sĩ trong An Nam Phật Học muốn tái lập chế độ quân chủ và nhờ thế dễ dàng biến PG thành quốc giáo. Như thế, chống Ngô Đ́nh Diệm cũng như các chế độ tiếp theo không phải v́ muốn đem miền Nam tiến đến nền dân chủ, mà là đem quốc gia quay trở lại thời quân chủ. Ông Ngô Đ́nh Diệm là con vật bị tế thần dưới chiêu bài ngụy tạo “chống độc tài”. Tuy nhiên, qua cách thức không tương nhượng v́ lư tưởng khác nhau, nhóm TT Trí Quang đă làm quá đáng, lợi dụng môt tôn giáo để làm chính trị và dám đi đến việc cấu kết cùng VC để mưu đồ riêng. Bảo Đại, trong “Con Rồng Annam” (Le Dragon d'Annam, p. 348), nhận xét về việc “đàn áp PG” như sau:

 

“Khi các sư săi, do Mỹ và tay sai của VC điều động, bắt đầu lao vào những cuộc biểu t́nh, th́ nhà cầm quyền phải đối phó lại. Nhưng Diệm Nhu là người Công giáo, v́ vậy sự đối phó của nhà cầm quyền bị coi là mang màu sắc tôn giáo”.

 

Nhưng khả năng của TT Trí Quang và Vơ Đ́nh Cường có giới hạn. Nh́n qua chủ trương của nhóm ta thấy ông Vơ Đ́nh Cường và TT Trí Quang không am hiểu t́nh h́nh chính trị quốc nội và quốc tế, cũng như những định chế của chính trị sơ đẳng. Họ không thấy được chiến lược và chiến thuật của Hoa Kỳ khi hành động. Sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ, cả 2 vẫn tin rằng sự sụp đổ đó là do công lao của ho. Họ đă không nhận ra rằng chính Hoa Kỳ đă cố t́nh thổi phồng vụ PG để có lư do lật đổ Ngô Đ́nh Diệm và đem quân vào lập các căn cứ quân sự, nên đă thừa thắng xông lên. PG đă bị Hoa Kỳ biến thành công cụ mà không hay biết và cuối cùng bị báo chí. Hoa Kỳ và sách báo thổi phồng lên và đẩy cây cho đi quá trớn, sa lầy rồi bật đèn xanh cho Tướng Nguyễn Cao Kỳ thanh toán và thế giới cũng không hề lên tiếng như trước, lư do là không một quốc gia nào muốn tôn giáo xen vào chính tri.

 

TT Trí Quang biết dùng thủ đoạn nhưng không biết phương pháp tổ chức nên không thể kiểm soát được các phong trào do ông lập ra và các việc ông làm. Trong các phong trào của ông, từ trên xuống dưới không hề có một tổ chức chặt chẽ. Ông tung ra một chiến dịch rồi không biết nó sẽ đi về đâụ Trong các tổ chức của ông, cơ quan nào cũng gài người vào được: Đặc công VC, nhân viên CIA, t́nh báo của cả Tổng nha Cảnh sát lẫn Phủ Đặc ủy Trung ương T́nh báo của VNCH. Về sau, nhất cử nhất động của ông đều bị đối phương bẻ găy.

 

Ông cũng thiếu thận trọng khi dùng người. Bí thư và phát ngôn viên của ông thời kỳ đấu tranh là Đại Đức Thích Nhật Thiện. Thích Nhật Thiện có tên là Lê Mậu Chí, tức Hàn, người Thừa Thiên. Trước 1954, Lê Mậu Chí là công an của Ty Công an Đồng Hới, sau chuyển vào Ty Công an Khánh Ḥa. V́ một vụ dan díu rắc rối với phụ nữ, Chí bị đổi ra Chi Công an Sông Cầu và đến năm 1959 th́ bị cho nghỉ việc. Chí vào Saigon học thêm Anh văn rồi đi tu. Đến năm 1963, khi xảy ra vụ PG, Chí đă thành Đại Đức với Pháp danh Thích Nhật Thiện. TT Trí Quang đă chọn Chí làm bí thư và phát ngôn viên của ông. Chính Chí đă thu xếp và đưa TT Trí Quang qua ẩn náu trong cơ quan USAID Saigon khi cảnh sát lục soát chùa Xá Lợi. Một người thận trọng không ai dám dùng những người có lai lịch như thế làm bí thư khi hoạt động chính trị bí mật.

 

Ông hoàn toàn bị lệ thuộc vào Vơ Đ́nh Cường, “cố vấn chỉ đạo” của ông. Vơ Đ́nh Cường lại nhận chỉ thị của Khu Ủy Trị-Thiên-Huế. Ông không thể hành động ngoài sự chỉ đạo nàỵ Mưu lược mà Vơ Đ́nh Cường bày vẽ cho ông chỉ là những tiểu xảo quá quen thuộc, tuy lừa được một số người nhẹ dạ và các chính khách ấu trĩ, nhưng cơ quan t́nh báo VNCH và Hoa Kỳ đều biết rơ nên đă bẻ găy không có ǵ khó khăn. Vụ lật độ chế độ Ngô Đ́nh Diệm là do Hoa Kỳ trực tiếp hành động, nhóm của ông chỉ là công cụ.

 

Ông không có khiếu xă giao, nên Giáo Hội PG Ấn Quang không dám cử ông tham dự vào các phái đoàn PG đi thương thuyết với chính quyền hay đi dự hội nghị PG quốc tế.

 

Ông cũng thuộc loại người kiêu căng và phách lối khi đắc thắng, nhưng khi thấy t́nh h́nh nguy ngập th́ t́m cách trốn tránh trách nhiệm. Chẳng hạn như vào ngày 26/8/1964, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của ông đốt 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng. Ngày 28/8/1964, Hội Đồng này lại thừa thắng mở cuộc tấn công trường Nguyễn Bá Ṭng và đốt ṭa báo Xây Dựng của Linh mục Thanh Lăng ở Saigon. Trước sự lộng hành này, các thanh niên Công giáo thuộc các giáo xứ xung quanh Saigon mở cuộc tấn công mạnh mẽ đánh trả lại khiến Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bỏ chạy. Thấy t́nh thế nguy ngập, 2 Thượng Tọa Thích Trí Quang và Thích Thiện Minh chạy trốn. Trong một đoạn văn của cuốn Bạch Thư (công bố vào 31/12/1993), TT Tâm Châu kể lại:

 

“Việc TT Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật tử mà TT cư ngụ ở đường Hồng Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậy. Và, sau TT cùng 2 vị tùy tùng trở về Saigon th́ ai cũng biết. Để xác tính về việc này, Đại Đức Thích Quảng Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gởi cho TT Trí Quang ngày 31/12/1973 như sau: “Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chính phủ Nguyễn Khánh, TT đă trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao-Miên. Nữa đường, nghe t́nh thế biến chuyển, TT mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, TT đều dùng h́nh thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc cho các TT khác”.

 

Ông đă từng ở với VC trong những ngày có các cuộc tàn sát đẫm máu các chiến sĩ quốc gia từ 1945-1947. Khi VC chiếm được miền Nam, ông quay lại ngồi thiền, cầu mong được an thân, không bao giờ dám bàn tới chính trị, để mặc cho các tăng sĩ khác và Phật tử tranh đấu với nhà cầm quyền CS. Ông đă biến PG miền Trung thành công cụ của cả VC lẫn Hoa Kỳ, gây phân hóa trầm trọng trong nội bộ của GHPG Ấn Quang và cuối cùng để PGVN rớ vào t́nh trạng bi đát như ngày nay là bị VC quốc doanh hóa hoàn toàn.

 

2. Nay ta điểm qua vài người có liên hệ tới phong trào của TT Trí Quang để t́m hiểu nguyên nhân của tất cả sự việc.

a) Cư sĩ Lê Đ́nh Thám:

 

Có pháp danh là Tâm Minh, sinh năm 1987 tại làng Phú Mỹ, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông thuộc ḍng dơi khoa bảng. Thân phụ ông là cụ Lê Đỉnh, Thượng Thư Bộ Binh dưới triều vua Tự Đức. Ông thông thạo cả Hán Học lẩn Tây học, đậu Đông Dương Y Sĩ năm 1916 và Y Khoa Bác Sĩ năm 1930 tại Đại Học Y Khoa Hà Nội.

 

Năm 1928, BS Thám được đưa đến phục vụ tại Viện Pasteur Huế. Ông là một trong những viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa đứng ra tổ chức phong trào chấn hưng PG tại Trung Kỳ. Ông đă thọ giới với 2 Ḥa Thượng Giác Tiên và Phước Huệ nên rất am tường về Phật Học. Năm 1932, ông đứng ra thành lập Hội An Nam Phật Học ở Huế và ông là Hội trưởng đầu tiên của hội nàỵ Sau đó, ông cùng với TT Thích Mật Khế đứng ra lập Trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm ở Huế vào năm 1934. Trường này đă đào tạo rất nhiều tăng sĩ sau này tham gia Mặt Trận Việt Minh như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Mật Thể. Năm 1940, ông thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục.

 

Chính ông và cụ Đinh Văn Chấp, thân phụ của Thích Minh Châu, đă đích thân huấn luyện cho các thanh niên Phật tự Vơ Đ́nh Cường, “cố vấn chỉ đạo” của TT Trí Quang, cũng xuất thân từ đoàn nàỵ Năm 1944, ông thành lập Gia Đ́nh Phật Tử Hóa Phổ. Đến năm 1951, tổ chức này được đổi thành Gia Đ́nh Phật Tử.

 

Năm 1945, Lê Đ́nh Thám tham gia Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc của Mặt Trận Việt Minh ở Huế và là lư thuyết gia điều hợp chủ nghĩa CS với Phật pháp. Năm 1946, Pháp chiếm Huế, ông và gia đ́nh tản cư về Quảng Nam và giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung bộ ở Liên Khu V của VC gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Tại đây ông tụ họp các thanh niên Phật tử vào Đoàn Phật Học Đức Dục ở Bồng Sơn, B́nh Định, để giảng dạy về “Phật giáo và Dân chủ mới”, coi con đường của PG và con đường của CS Chủ Nghĩa là một, với mục tiêu thúc đẩy thanh niên Phật tử gia nhập Đảng CS và tham gia kháng chiến. Ông cho lập ban nghiên cứu tổng hợp giáo lư PG với chủ thuyết Mác-Lê. Kết quả, Nguyễn Hữu Quán đă tóm lược lại công tŕnh nghiên cứu này trong cuốn “Phật giáo và nền dân chủ mới” phổ biến khắp các tỉnh miền Trung. Ảnh hưởng của cuốn sách này rất lớn lao đối với các tăng sĩ và một số Phật tử ở miền Trung như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Vơ Đ́nh Cường, Tống Hồ Cầm, v.v...

 

Năm 1949, khi HCM quyết định trao Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung bộ lại cho một nhóm người khác, Lê Đ́nh Thám bị gọi ra Bắc và cho giữ chức Chủ Tịch Phong Trào Vận Động Ḥa B́nh Thế Giới để mở chiến dịch chống lại việc Pháp tái lập thuộc địa. Ông phải theo đường Trường Sơn để đến Hà Tĩnh, v́ lúc dó các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị và Quảng B́nh đă bị Pháp chiếm. Năm 1953, khi bắt đầu mở các cuộc tấn công lớn để buộc Pháp nhượng đất, HCM đổi Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh Thế Giới thành Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh. BS Lê Đ́nh Thám cũng được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban này. Năm 1956, ông được Hà Nội cử đi dự lễ Buddha Jayanti tại Ấn Độ với Ḥa Thượng Thích Trí Độ. Trong dịp đó ông đă tiếp xúc nhiều với các tăng sĩ miền Nam đến tham dự lệ Sau chuyến đi này, Hà Nội đă đặt nhiều nghi vấn về lập trường của Lê Đ́nh Thám nên không cho ông làm Chủ Tịch Ủy Ban nữa. Kể từ đó ông dành những ngày thất sủng trong khoảng đời c̣n lại để dịch bộ Kinh Lăng Nghiêm. Ông mất tại Hà Nội ngày 23/4/1969.

 

Trước tiên, BS Lê Đ́nh Thám là một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa được đưa ra Huế để thành lập các tổ chức phục hưng PG tại Trung Kỳ nhằm “hóa giải” phong trào chống Pháp của nhà Nho. Nhưng đến năm 1945, khi Việt Minh cướp được chính quyền, ông theo Việt Minh kháng chiến v́ ḷng yêu nước. Khi ông tỉnh ngộ th́ đă quá muộn. Tư tưởng dung hợp PG với CS và chủ trương khai thác tư tưởng PG theo hướng chủ nghĩa Mác-Lênin của ông đă gây tác hại vô cùng lớn lao trên các tăng sĩ và cư sĩ trong tổ chức An Nam Phật Học ở Huê. Đa số các tăng sĩ và cư sĩ trong hội này đă theo CS. Năm 1956, ông đă bị thất sủng tại miền Bắc và đang tự sám hối th́ một số đồng đạo và môn sinh của ông không hay biết chuyện đó, vẫn tiếp tục con đường ông đă vạch ra nên đem lại nhiều tang tóc cho PG và quê hương.

 

b) Vơ Đ́nh Cường, Nguyễn Trực và Tống Ḥa Cầm:

 

Vơ D́nh Cường sinh năm 1922 tại Sịa, xă Thạch B́nh, Quận Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Học lực trung học đệ nhất cấp, làm giáo viên trường Bồ Đề Huế và xuất bản sách báo PG.

 

Năm 1940, khi BS Lê Đ́nh Thám thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục ở Huế th́ Vơ Đ́nh Cường là một trong các Phật tử đầu tiên gia nhập tổ chức nàỵ Cụ Đinh Văn Chấp và BS Lê Đ́nh Thám là những người hướng dẫn cho Đoàn. Năm 1944, BS Lê Đ́nh Thám thành lập tổ chức Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ, Vơ Đ́nh Cường trở thành một Huynh trưởng Phật tử cốt cán trong tổ chức nàỵ

 

Năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, Vơ Đ́nh Cường tham gia ngay Hội Phật Giáo Cứu Quốc cùng với một số đông tăng sĩ và Phật tử ṇng cốt trong Hội An Nam Phật Học. Hội Phật Giáo Cứu Quốc ở Huế do Thích Mật Thể làm Chủ tịch. Cuối năm 1946, Lê Đ́nh Thám tản cư về Liên Khu V của CS c̣n cụ Đinh Văn Chấp, thân phụ của Thích Minh Châu, về Liên Khu IV. Cả Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục lẫn tổ chức Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ đều giao cho Vơ Đ́nh Cường quán xuyến. Vơ Đ́nh Cường đă chịu ảnh hưởng lớn lao tư tưởng và cuộc đời của BS Lê Đ́nh Thám và cụ Đinh Văn Chấp, cả 2 người này đều chủ trương dung hợp Phật Giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Bác sĩ Lê Đ́nh Thám được cử làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền nam Trung Bộ c̣n cụ Đinh Văn Chấp làm Chủ Tịch Ủy Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác-lê và sau đó làm Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt của CS Liên Khu IV. Vơ Đ́nh Cường quyết tâm đi theo con đường của 2 bậc trưởng thượng.

 

V́ t́nh trạng chiến tranh, các thành phần cốt cán trong Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ tản cư mỗi người một nơi nên tổ chức này phải ngưng hoạt động. Đến cuối năm 1947, khi Pháp ổn định xong t́nh h́nh ở Huế, Hội Việt Nam Phật Học hoạt động trở lại và đặt trụ sở tại số 1b đường Nguyễn Hoàng ở Huế, Vơ Đ́nh Cường và Phan Cảnh Tú vận động tái lập Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ và mượn trụ sở Hội An Nam Phật Học làm nơi sinh hoạt tạm thời. Ngày Chủ Nhật 18/1/1948, Vơ Đ́nh Cường chính thức làm lễ ra mắt tổ chức Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ mới tại chùa Từ Đàm. Tham dự trong lễ ra mắt này người ta c̣n thấy những Phật tử nhiệt thành như sau: Tống Hồ Cầm, Hoàng Thị Kim Cúc, Cao Chánh Hựu, Văn Đ́nh Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Phan Xuân Sanh, v.v... Những người này về sau đều nằm trong Ban Cố Vấn Huynh Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử và Vơ Đ́nh Cư ờng trở thành người lănh đạo. Năm 1951, tổ chức Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ được đổi thành Gia Đ́nh Phật Tử.

 

Vơ Đ́nh Cường cho xuất bản cuốn “Ánh Đạo Vàng” để phổ biến tinh thần Phật Học trong giới Gia Đ́nh Phật Tử, nhưng không có ǵ sâu sắc v́ tŕnh dộ văn hóa tổng quát cũng như Phật học của ông chưa đủ. Đến năm 1950, nhóm học tăng trung học của Phật Học Đường Báo Quốc phải soạn tập “Phật Pháp” cho các thanh thiếu niên học. Nhóm này đều là học tṛ của BS Lê Đ́nh Thám và cụ Đinh Văn Chấp trước đây, trong đó có Minh Châu, Đức Tâm, Trí Không, Thiện Ân và Chân Trị.

 

Sau khi TT Trí Quang từ Quảng B́nh trở lại chùa Từ Đàm, Vơ Đ́nh Cường đă hợp tác với TT Trí Quang phát triển tổ chức Gia Đ́nh Phật Tử, đi về từng xă thiết lập các Khuôn Hội Phật Giáọ Tinh thần của tổ chức này vẫn là tinh thần mà BS Lê Đ́nh Thám đưa ra: dung hợp Phật Giáo với chủ nghĩa Mác-lê, dùng cuốn “Phật giáo và nền dân chủ mới” của Phật Giáo Liên Khu V CS làm cẩm nang. Cả TT Trí Quang lẫn Vơ Đ́nh Cường luôn cổ vơ cho chủ nghĩa CS.

 

Nhân vật thứ hai đứng bên Vơ Đ́nh Cường là Tống Hồ Cầm. Cầm làm nhà in nên đă giúp Vơ Đ́nh Cường kinh tài bằng cách in các sách về Phật Giáo và kinh Phật. Cả 2 đă sống bằng nguồn lợi tức nàỵ Vơ Đ́nh Cường c̣n có một đồng chí là Tôn Thất Dương Kỵ, ông này cũng là một Phật tử cực đoan và thân Cộng. Tôn Thất Dương Kỵ cùng Phạm Văn Huyến và Cao Minh Chiếm giúp Thích Quảng Liên phát động phong trào ngụy ḥa để làm suy giảm tinh thần chống Cộng tại miền Nam VN nên đă bị chính phủ Phan Huy Quát tống xuất ra miền Bắc ngày 19/3/1965.

 

Sau khi hiệp định Geneva được kư kết, VC đă phái Nguyễn Trực đến phụ giúp Vơ Đ́nh Cường. Nguyễn Trực người Thừa Thiên, một đảng viên CS, mang quân hàm Trung úy, tuy học lực thấp nhất trong nhóm, nhưng làm Bí thư chi bộ, có nhiệm vụ thâu lượm tin tức và báo cáo t́nh h́nh cho Khu Ủy Trị-Thiên-Huế, nhận lănh và thi hành các chỉ thị của cơ quan nàỵ Cơ quan t́nh báo cũng như Cảnh sát VNCH có đầy đủ hồ sơ của Nguyễn Trực. Dưới thời Ngô Đ́nh Diệm, Nguyễn Trực đă bị công an bắt giam v́ hoạt động cho VC.

 

Nhưng sau khi Ủy Ban Liên Bộ và Ủy Ban Liên Phái PG kư thông cáo chung, TT Trí Quang đă đ̣i thả Nguyễn Trực ra. Năm 1964, Nguyễn Trực bị cảnh sát bắt trở lại, nhưng TT Trí Quang đă điều đ́nh và bảo lănh về. Dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Trực bị cơ quan An ninh Quân đội bắt một lần nữa v́ vẫn tiếp tục hoạt động cho VC, nhưng TT Trí Quang làm áp lực mạnh và xin bảo lănh, cơ quan An ninh Quân đội đành thả cho y về. Khi các cuộc đấu tranh miền Trung chấm dứt, bộ chỉ huy được chuyển vào chùa Ấn Quang ở Saigon, Nguyễn Trực vào điều khiển nhóm cán bộ nằm vùng tại Đại học Vạn Hạnh. Vơ Đ́nh Cường cũng vào Saigon, ở đường Phan Thanh Giản, Quận 3, khu trước bệnh viện B́nh Dân.

 

Ngày 30/4/1975, Nguyễn Trực xuất hiện với quân hàm Trung úy, súng K54 bên hông, đứng ra điều động Ban Giảng huấn và một số sinh viên Đại học Vạn Hạnh đi ra Ngă Tư Bảy Hiền đón “quân giải phóng”. Sau đó Nguyễn Trực lên làm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Quận 3. Hầu hết Ban Giảng Huấn Đại học kể cả Thích Minh Châu, đều phải đến tŕnh diện Nguyễn Trực và được cấp giấy chứng nhận. Nguyễn Trực cũng là người tiếp thu Đại học Vạn Hạnh. Nhưng năm 1981, Nguyễn Trực đứng ra tổ chức vượt biên để lấy tiền. Nội vụ bị bại lộ, Nguyễn Trực bị truy tố ra ṭa và bị phạt 4 năm tù và sau đó bị loại khỏi đảng. Sau khi Nguyễn Trực đă bị vào tù, một đứa con trai của Nguyễn Trực đă vượt biên lọt, định cư tại California. Sau khi ra tù, Nguyễn Trực ở với 3 người con gái tại Saigon và chờ đứa con trai bảo lănh qua Hoa Kỳ.

 

Trong các biến cố PG miền Trung gây ra từ 1963-1966, Vơ Đ́nh Cường và Nguyễn Trực đă hoạch định mọi kế hoạch và chiến thuật dưới sự chỉ đạo của Bộ Chỉ Huy VC ở Thừa Thiên và đẩy TT Trí Quang chạy theo. Sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, Vơ Đ́nh Cường đă cho biến các Khuôn Hội PG ở Thừa Thiên thành những chi bộ giống như tổ chức của Đảng CS.

 

Vừa nắm quyền, vừa nắm quân, Vơ Đ́nh Cường đă không coi TT Trí Quang ra ǵ. Ông hoàn toàn bị nhóm Vơ Đ́nh Cường bao vây. Khi cơ quan chính quyền hay đoàn thể muốn lấy ư kiến hay thương lượng vấn đề ǵ với TT Trí Quang cũng như các kư giả muốn gặp ông, Vơ Đ́nh Cường đều kiểm soát trước và quyết định cho gặp hay không. Có lần Vơ Đ́nh Cường đă nói thẳng với các nhà báo: “Thích Trí Quang th́ cũng phải qua đây”. Đầu tháng 4/1975, khi VC đă chiếm Đà Nẵng, BS Trần Kim Tuyến và Tướng Nguyễn Cao Kỳ định làm đảo chánh lật đổ TT Thiệu để tổ chức lại quân đội. BS Trần Kim Tuyến có bàn với TT Trí Quang th́ ông đồng ư ngay, với điều kiện sau khi lập chính phủ mới, phải lập Hội Đông Ḥa Giải Ḥa Hợp gồm 3 thành phần như Hiệp định Geneva đă quy định. Thành phần thứ nhất đại diện chính quyền VNCH, thành phần thứ hai đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và thành phần thứ ba là đại diện PG Ấn Quang. Nhưng khi Vơ Đ́nh Cường đến họp chung với một vài nhóm khác th́ Vơ Đ́nh Cường tuyên bố dứt khoát rằng sau khi đảo chánh phải lập ngay chính phủ liên hiệp 3 thành phần, tuyên bố trung lập và người Mỹ phải rút hết khỏi miền Nam. BS Tuyến có nhắc lại ư kiến của TT Trí Quang th́ Vơ Đ́nh Cường trả lời: “Tôi là người quyết định chớ không phải Thích Trí Quang”. Vụ âm mưu đảo chánh này bất thành.

 

Sau ngày 30/4/1975, Vơ Đ́nh Cường và TT Thích Minh Châu đứng lên lănh đạo khối PG Ấn Quang. Ngày 4/6/1977, công an xét chùa Ấn Quang, bắt Ḥa Thượng Thích Huyền Quang, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, và một số tăng sĩ chống đối, Vơ Đ́nh Cường đă đóng vai tṛ chủ lực trong Ban Vận Động Thống Nhất PG để đưa Giáo Hội PG Ấn Quang vào quốc doanh.

 

Vơ Đ́nh Cường được Mặt Trận Tổ Quốc giao cho làm Tổng Biên tập tạp chí Giác Ngộ. Ông đă dùng tờ báo này công kích các tăng sĩ chống lại sự khống chế PG của chính quyền, tấn công các tăng sĩ chống lại việc đưa Giáo Hội PG Ấn Quang gia nhập vào Giáo Hội quốc doanh. Tăng sĩ bị lên án nặng nhất trong vụ này là Ḥa Thượng Thích Trí Độ. Tống Ḥa Cầm là Quản Lư của tạp chí này. Dưới bút hiệu Tống Anh Nghị; Tống Ḥa Cầm đă viết rất nhiều bài yểm trợ nhà cầm quyền CS thành lập GHPGVN để gôm PG về một mối. Năm 1992, Vơ Đ́nh Cường được Đảng cho về hưu và đưa TT Thích Trí Quang lên làm Tổng biên tập thay thế Tống Ḥa Cầm vẫn tiếp tục làm Quản Lư, nhưng cũng đă cho một đứa con trai vượt biên qua định cư tại Hoa Kỳ để pḥng khi bị thất sủng...

 

Trong tờ Bông Sen số 18, ông Trần Tam Nguyên (tức sử gia PG Lư Khôi Việt) đă cho biết trong tang lễ của HT Thích Đức Nhuận, Pháp chủ Giáo hội quốc doanh, qua đời tại Hà Nội vào tháng 1/1994, Saigon có gởi một phái đoàn 26 người đến dự, trong đó có Vơ Đ́nh Cường. Trần Tam Nguyên có hỏi một người bạn “chuyên viên về PG” Saigon: “Tại sao có anh Cường mà không có Thầy Trí Quang?”. Anh này cười và đáp: “Điều này có nghĩa Thầy Trí Quang không có uy tín bằng hay không được tin cậy bằng anh Cường, dưới con mắt Nhà Nước”.

 

Vơ Đ́nh Cường là một thành phần cuồng tín và cực đoan trên 3 phương diện: đề cao PG, phục vụ CS và chống Công giáo. Tất cả hoạt động của Vơ Đ́nh Cường đều nhắm vào 3 mục đích nàỵ Những người thân tín nhất với Vơ Đ́nh Cường đă nói rằng từ năm 1945 đến nay, Vơ Đ́nh Cường vẫn tin rằng chỉ có Phật Giáo và CS mới có thể cứu dân tộc VN. Vơ Đ́nh Cường đă biến thuyết dung hợp PG với CS để cứu nước của BS Lê Đ́nh Thám thành thuyết liên hiệp PG với CS để hóa giải Công giáo. Nhưng cũng như TT Trí Quang, tŕnh độ kiến thức và khả năng của Vơ Đ́nh Cường rất giới hạn, không thể hệ thống hóa được chủ thuyết muốn đưa ra để hướng dẫn hành động, nên đă đi từ cuồng vọng đến xuẩn động và thay v́ cứu PG và dân tộc, đă biến PG thành nạn nhân của chế độ CS và trở thành công cụ cho những mưu đồ đen tối. Phật tử chân chính, cũng như các tín đồ các tôn giáo khác, ngày nay sẽ không c̣n như xưa bị lôi kéo vào những mưu dồ chính trị như trong quá khứ khi người ta dùng tôn giáo để hướng họ qua những mục tiêu chính trị. Hoằng dương đạo pháp để PG được trường tồn: đúng; dùng PG để làm chính trị: sai; đây cũng là lư do của bài báo này.

 

Tại miền Nam trước 30/4/1975, có một số tăng sĩ hoạt động ít nhiều liên hệ với CS như Thích Quảng Liên, Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ, Thích Bửu Phương, Thích Nhất Hạnh, Thích Mật Thể.... Số các tăng sĩ miền Bắc tham gia vào các hoạt động tương tợ như Thích Pháp Dơng, Thích Minh Nguyệt, Thích Huệ Phương, Thích Viên Minh, Thích Không Không, Thích Pháp Tràng, Thích Pháp Long, Thích Huệ Quang...trong các Ủy Ban PG Cứu Quốc ở miền Nam, hoặc các HT Thích Đức Nhuận (Pháp chủ Hội đồng Chứng Minh), Thích Kim Cương Tử (Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương), Thích Tâm Thông (Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương), Thích Tâm Tứ (Phó Tổng thư kư Văn pḥng Trung ương), Thích Tâm Tịnh (Trưởng Ban Trị sự).. trong Giáo Hội PG nhà nước.

 

Ngoài ra c̣n vô số cán bộ CS nằm vùng đội lốt nhà sư mà người ta không biết được.

 

Trương hợp TT Thích Quảng Liên, nguyên Ủy viên Giáo dục vụ trong Tổng Vụ Pháp Sự của GHPG Ấn Quang, là trường hợp cần được t́m hiểu kỹ hơn. Chính ông đă thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, một tổ chức ngụy ḥa của VC tại miền Nam vào ngày 27/2/1965 và làm Chủ Tịch Phong Trào nàỵ Các thành viên của 2 tổ chức đó đă bị chính quyền miền Nam tống xuất ra Bắc hay đưa ra ṭa xét xử và tuyê n án rất nặng, nhưng ông không hề bị liên lụy gị GHPG Thống Nhất đă giao cho ông làm hiệu trưởng Trường Bồ Đề ở Saigon, nhưng khi GH này bể làm đôi, ông chiếm đoạt luôn tài sản của GH, không chịu giao cho bên nào.

 

Ông hợp tác với TT Minh Châu điều khiển GHPGVN (quốc doanh) ở miền Nam. Vào ngày 9/6/1993, nhân ngày húy của TT Quảng Đức, tại Tu viện Quán Âm ở Thủ Đức, ông tuyên bố sẵn sàng làm nhịp cầu để phe PG quốc doanh và chống quốc doanh bắt tay nhau.

 

Những tổ chức và hoạt động ít nhiều yểm trợ cho CS

 

Tổ chức các hội PG Cứu Quốc để yểm trợ CS.

 

Năm 1941, khi Đảng CS Đông Dương lập ra Mặt Trận Việt Minh để chuẩn bị cướp chính quyền th́ HT Thích Trí Độ, Giám đốc Trường An Nam Phật Học ở Huế đă lập ra Hội Phật Giáo Cứu Quốc toàn quốc để tham gia Mặt Trận Việt Minh.

 

Năm 1945, VC cướp chính quyền, HT Thích Trí Độ xuất hiện với tư cách Hội Trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Ương, kêu gọi các tăng sĩ thành lập và tham gia các Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc các cấp.

 

Sau đây là danh sách các tăng sĩ làm Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc cấp tỉnh:

 

Quảng B́nh: Thích Trí Quang

Quảng Trị: Thích Trí Nghiễm, tức Thích Thiện Minh

Thừa Thiên: Thích Mật Thể

B́nh Định: Thích Huyền Quang

Gia Định: Thích Pháp Dơng

Mỹ Tho: Thích Pháp Tràng

Vĩnh Long: Thich Pháp Long

Trà Vinh: Thích Huệ Quang

 

HT Thích Đôn Hậu làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung Bộ, trụ sở của Hội đặt tại chùa Từ Đàm, Huế. HT Thích Minh Nguyệt làm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ, trụ sở đặt tại chùa Ô Môi, xă Mỹ Quư, thuộc chiến khu Đồng Tháp. Ban Chấp Hành Hội gồm có Thích Minh Nguyệt, Thích Huệ Phương, Thích Viên Minh và Thích Không Không.

 

Hội Phật Giáo Cứu Quốc nằm trong Mặt Trận Việt Minh, hoạt động từ năm 1941-1951 th́ ngưng. Ngày 5/3/1951, HCM sát nhập Mặt Trận Việt Minh với Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt, các hội cứu quốc được giải tán và thay thế bằng những tổ chức mới.

 

Hội Phật Giáo Cứu Quốc đổi thành Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất do HT Thích Trí Độ làm Hội trưởng. Một số tăng sĩ được chuyển qua các “Ủy Ban Bảo Vệ Ḥa B́nh”

để mở các chiến dịch chiến tranh tâm lư trong ḷng địch.

 

Các tổ chức ngụy ḥa:

 

Các tổ chức ngụy ḥa này thường được VC thành lập hoặc để vận động phản chiến trong hàng ngũ quốc gia hoặc để yểm trợ cho những yêu sách của VC trên bàn hội nghi Để hiểu rơ hơn về điểm này, ta hăy t́m hiểu sau đây những tổ chức ngụy ḥa chính do một số tăng sĩ hay cư sĩ PG đảm nhiện hay thành lâ .p để yểm trợ cho các chiến thuật của VC.

 

Phong Trào Vận Động Ḥa B́nh Thế Giới:

 

Năm 1949, trong khi chờ đợi củng cố lại lực lượng vừa bị Pháp đánh tan khắp nơi, HCM thành lập Phong Trào Vận Động Ḥa B́nh Thế Giới để vận động dư luận quốc tế buộc Pháp phải thỏa hiệp với chính phủ HCM. Cư sĩ Tâm Minh, tức BS Lê Đ́nh Thám, đă được HCM cử giữ chức Chủ Tịch Phong Trào này, v́ các tăng sĩ PG không ai có khả năng ngoại ngữ và tư thế bằng ông. Nhưng HT Thích Trí Độ được đưa vào làm Ủy Viên Trung Ương của phong trào để chỉ đạo đường lốị

 

Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết:

 

Năm 1953, HCM thay Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh Thế Giới bằng Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh với mục đích vận động dư luận thế giới buộc Pháp phải chấp nhận một giải pháp ḥa b́nh cho Đông Dương. Cư sĩ Lê Đ́nh Thám được chuyển qua làm Chủ Tịch Ủy Ban nàỵ HT Thích Trí Độ giữ chức Ủy viên Trung ương của Ủy ban. TT Trí Quang là người hoạt động tích cực cho Ủy ban.

 

Năm 1954, sau hiệp định Geneva, TT Trí Quang vào Huế làm Hội trưởng Hội VN Phật Học ở Huệ Ông đă lợi dụng cương vị này để cùng một số trí thức PG lập Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh, tại miền Nam. Ủy Ban này mang tính chất ngụy ḥa, tiếp tay cho HCM trong việc kêu gọi ḥa hợp ḥa giải, hiệp thương để tiến tới bầu cử thống nhất 2 miền trong thời hạn 2 năm sau hiệp định Geneva. HCM tin rằng trong khi t́nh h́nh miền Nam đang rối loạn v́ giáo phái, chưa có tổ chức, nếu có bầu cử, nhất định CS sẽ thắng v́ trong những năm kháng chiến chống Pháp họ đă gài vô số cán bộ nằm vùng ở lại để vận động. Phong trào này đă bị Ngô Đ́nh Cẩn ra lệnh bắt chiêu hồi.

 

Ngày 27/2/1965, TT Thích Quảng Liên thành lập Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh và Hạnh Phúc Dân Tộc. Phong trào này là hậu thân của Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Ḥa B́nh của TT Trí Quang lập nă m 1954. TT Quảng Liên là Tổng Ủy Viên Tổng Vụ Pháp Sự của GHPG Ấn Quang. Song song với Ủy ban này, ông cho thành lập thêm một tổ chức thứ hai có tên Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết để phối hợp hoạt động. Cả 2 phong trào đưa ra chủ trương ngụy ḥa, kêu gọi Hoa Kỳ và chính phủ VNCH phải chấm dứt chiến tranh.

 

Ngày 5/3/1965, Tổng Nha Cảnh Sát ra một thông cáo thông báo dân chúng biết Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh, Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh, Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh hay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, v.v... tuy có nhiều danh xưng khác nhau nhưng cùng là một tổ chức do các cán bộ đặc công của CS đặt ra làm suy yếu tinh thần chống Cộng của miền Nam. Cảnh sát đă đưa ra tài liệu của VC nhằm hướng dẫn cách thức thành lập và cổ động cho các phong trào nàỵ Trước những bằng chứng không thể phủ nhận được, ngày 11/3/1965, Viện Hóa Đạo ra một thông cáo nói rằng Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh là do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan ǵ đến Viện Hóa Đạo.

 

Ngày 17/3/1965, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức Chủ tịch của Phong trào.

 

Những người tham gia 2 phong trào này đă bị chính phủ Phan Huy Quát ra lệnh bắt và điều tra. Trước đó, ngày 1/3/1965, chính phủ Phan Huy Quát đă tuyên bố xác định chỉ nói chuyện ḥa b́nh khi nào CS chấm dứt xâm lăng. Ngày 19/3/1965, 3 người thuộc Phong Trào Ḥa B́nh bị trục xuất ra Bắc là BS Thú Y Phạm Văn Huyến*, kư giả Cao Minh Chiếm và GS Tôn Thất Dương Kỵ. Ngày 4/8/1965, Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử vụ những người tham gia Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết do TT Quảng Liên thành lập và làm Chủ tịch, xác nhận hoạt động của 2 tổ chức này có liên hệ với CS, tuyên án 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị tù treo và tha bổng 6 ngườị Nhưng TT Quảng Liên lại không bị bắt hay bị truy tộ Chính sự tránh né này của chính phủ Quát đă làm cho một số tăng sĩ PG miền Trung trong GHPG Ấn Quang tin rằng chính quyền không dám đụng tới họ và họ đă trở thành những thành phần bất khả xâm phạm trong xă hộị Với ư nghĩ đó, nhóm tăng sĩ miền Trung thừa thắng xông lên, gây ra biết bao tai biến nghiêm trọng sau nàỵ Đây cũng là thời kỳ mà người ta gọi là “nạn kiêu tăng”.

 

Phong Trào Ḥa B́nh, mở màn cho cuộc đấu tranh chính trị của CS ở miền Nam:

 

Đồng bào miền Nam VN ai cũng biết rằng CS chiếm được miền Nam nhờ bịp bợm và khủng bố; “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” không đại diện cho ai cả, chỉ là công cụ do CS dựng lên để lừa bịp dư luận trong và ngoài nước, lừa bịp ngay các thành viên của mặt trận này.

 

Từ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” qua “Liên Minh Dân Chủ”, rồi đến “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam VN” đều là những màn tŕnh diễn bịp. Thành viên của 3 tổ chức trá h́nh đó đều là những tên múa rối, bị điều khiển bởi những tên cán bộ CS núp trong hậu trường. Các tổ chức trá h́nh trên là những vở tuồng được soạn sẵn, các đào kép bị phỉnh gạt đưa vào, phải đóng trọn vai của ḿnh, nếu không sẽ bị thủ tiêu.

 

Tuy là thành viên của mặt trận, họ luôn luôn bị ḱm kẹp (VC gọi là bảo vệ), theo dơi, kiểm soát chặt chẽ. Hàng ngày họ nhồi nhét chính trị .

 

Hiệp định Geneva 1954 có điều khoản qui định rằng 2 năm sau, sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tại miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa biết rằng nếu tô? chức bầu cử, miền Bắc sẽ gian lận, và chiến thắng. Hơn nữa, viện lẽ chính quyền quốc gia không kư tên vào Hiệp định Geneva, nên chính phủ miền Nam tự coi ḿnh không bị ràng buộc bởi những điều kiện trong đó. Năm 1956, Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm thông báo cho Chủ tịch Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến ở VN, lúc đó là Đại sứ Ấn độ Christian Menon. Ông này vốn thiên Cộng, đă t́m cách thuyết phục chính phủ VNCH nhiều lần nhưng thất bại. Được tin đó, Hồ Chí Minh thất vọng ra mặt, nhưng ông ta đă có chuẩn bị trước, cài nhiều cán bộ ở lại (từ 3000- 5000 người) ngay khi kư Hiệp định Geneva. CS Bắc Việt phát động một h́nh thức đấu tranh chính trị mới: Đó là nguyên nhân chào đời của cái gọi là “Phong trào đ̣i ḥa b́nh và dân tộc tự quyết” ở miền Nam.

 

Để phát động phong trào này, trước hết, cán bộ CS nằm vùng bắt đầu hoạt động bí mật. Họ móc nối các trí thức ngây thơ, những người kháng chiến cũ đă bỏ họ về thành sau 1954. Cụ thể là Tạ Bá Ṭng, cán bộ trí vận CS tự là Năm Thới, hoạt động bí mật để tạo sự bất ổn trong dân chúng. Để mở đầu, Tạ Bá Ṭng móc nối gia đ́nh bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên là Tổng ủy trưởng Di cư năm 1954, có nhiệm vụ chuyên chở người tỵ nạn từ Bắc vô Nam! Gia đ́nh ông Huyến có một người con gái tên là Phạm Thị Thanh Vân, lại có cảm t́nh với CS. Bà ta kết hôn với ông Ngô Bá Thành nên lấy tên chồng để hoạt động trong hàng ngũ trí thức. Qua sự trung gian của gia đ́nh bác sĩ Huyến, Tạ Bá Ṭng tiếp xúc với hiều trí thức bất măn khác ở miền Nam, nhưng cũng không ưa CS. Tạ Bá Ṭng không bao giờ ra mặt. Từ trong tối, Ṭng chỉ thị cho bác sĩ Huyến, bà Ngô Bá Thành đi móc nối các vị lănh đạo tôn giáo, các nhà báo, nhà giáo có uy tín để lập “liên hiệp hành động” chống sự can thiệp của Mỹ.

 

Giai đoạn này, mục tiêu của CS là phát động một phong trào của dân chúng đ̣i “Ḥa b́nh và Tự quyết”, có lúc báo chí miền Nam gọi là “Phong trào Ḥa b́nh”. Mục đích sâu kín bên trong là yêu cầu chính phủ VNCH thi hành Hiệp định Geneva, tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, để “mọi người dân tự quyết lấy số phận đất nước và thể chế tương lai của VN”. Phong trào này c̣n hô hào tẩy chay người Mỹ can thiệp vào nội t́nh miền Nam VN. Cán bộ CS chỉ đạo phong trào không bao giờ ra mặt, chỉ núp lén để ra chỉ thi Họ t́m một số gương mặt trí thức được quần chúng biết đến để lôi kéọ Những người

lănh chỉ thị của CS mời các bạn bè, thân hữu, vốn chỉ có cảm t́nh với nhau thôi, đến nhà hàng Thanh Thế để ăn cơm. Tới nơi, mới biết họ tổ chức họp báo và ra tuyên ngôn đ̣i hỏi, yêu sách như đă nói trên. Phiên họp vừa mới bắt đầu th́ cảnh sát áp vào bắt đủ mặt (lời ông kỷ sư Hồ Văn Bửu, cựu thành viên của “Mặt Trận Giai Phóng Miền Nam”). Ông Bửu cũng có dự phiên họp này nhưng đă lanh chân chạy thoát. Hôm đó, “Buổi họp báo ngụy trang dưới h́nh thức buổi tiệc” có những người sau đây:

 

Luật sư Nguyễn Long

Bà Ngô Bá Thành

Bác sĩ Phạm Văn Huyến

Kinh lư Đào Văn Nhơn

Hoạ sĩ Đặng Văn Kư

Kỹ sư Hồ Gia Lư

Kư giả Cao Minh Chiếm

Giáo sư Đại học Văn khoa: Tôn Thất Dương Kỵ

 

Sau đó họ bị chính quyền VNCH đưa ra ṭa xét xự Những người trong Ban Chấp hành bị 5 năm tù, những người bị mời ăn tiệc, chỉ mới kư tên bị 6 tháng tù ợ Luật sư Nguyễn Long trong Ban chấp hành bị 5 năm tù

 

Ít lâu sau, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm nhất định đưa 3 ông: Bác sĩ Phạm Văn Huyến, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ và nhà báo Cao Minh Chiếm được gọi là “3 ông ḥa b́nh” trục xuất ra Bắc qua ngă cầu Hiền Lương.

 

Khi hay tin “3 ông ḥa b́nh” bị áp giải qua cầu Hiền Lương, VC đă tổ chức một cuộc mít-tinh để đón tiếp và tuyên truyền. Đây cũng là một cuộc đấu tranh chính trị giữa 2 miền Nam Bắc. Khi “Các ông ḥa b́nh” được cảnh sát miền Nam dẫn độ ra đến sông Bến Hải, có khuyên các ông một lần chót nên xin ở lại để được khoan hồng, nhưng các ông đă lở leo lên lưng cọp rồi, khó xuống được.

 

Cây cầu Hiền Lương lúc đó sơn 2 màu khác nhau: phân nửa phía bên CS sơn màu đỏ, phân nửa bên VNCH sơn màu xanh. Khi 3 ông ḥa b́nh vừa bước qua ranh giới phân chia Nam Bắc, công an VC chạy tới tiếp đón, giành các túi xách của 3 ông để 3 ông rảnh tay đến dự cuộc mít-tinh do CS tập trung dân chúng ở huyện Vĩnh Linh đến để tuyên truyền. Cuộc mít-tinh này gọi là dân chúng tự động họp mít-tinh chào mừng 3 nhà trí thức yêu nước của miền Nam. Về sau, thân nhân của một trong 3 vị ấy (xin giấu tên) nói rằng khi trở lại lấy túi đồ, th́ túi đồ đă bị lục soát, bị mất đi mấy bộ đồ mới.

 

Sau đó, 3 ông ḥa b́nh được dẫn đi thăm viếng các xí nghiệp, nông trường và hợp tác xă ở miền Bắc để tuyên truyền cho chính sách đoàn kết chiến đấu của VC. Số phận của 3 nhà trí thức miền Nam này ra sao?

 

Hết gia đoạn tuyên truyền rồi, cả 3 ông được đưa sang Cam-bốt để tiếp tục làm công tác đánh lừa dư luận dân chúng hải ngoại với đường lối mới, đ̣i “trung lập hóa miền Nam theo chủ trương của Tổng Thống De Gaulle là trung lập hóa toàn thể Đông Dương”. Trái lại, lúc này quốc trưởng Sihanouk không đồng ư sư . có mặt của 3 ông ḥa b́nh trên xứ Chùa Tháp, nên ra lịnh cho cảnh sát mời 3 ông đến yêu cầu rời khỏi lănh thổ Cam-bốt lúc nào thuận tiện nhất. Họ khuyên 3 ông làm đơn lên quốc trưởng Sihanouk, để xin đi bất cứ nơi nào cũng được. Riêng một ḿnh giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ làm đơn xin ra Bắc, được bố trí làm Tổng thư kư Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đ́nh Thảo sau này. Đó là chức vụ hữu danh vô thực, khiến ông chán nản, và bất măn từ đó. C̣n 2 ông Phạm Văn Huyến và Cao Minh Chiếm th́ xin qua Pháp, không bị VC lợi dụng nữa.

 

“Phong trào ḥa b́nh và Tự quyết” của CS bị thất bạị Nó tạm lắng dịu một thời gian chờ cơ hội khác tái sinh dưới một tổ chức khác để rù quến những con mồi ngây thơ khác, đó là Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đ́nh Thảọ)*

 

Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc:

 

Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris vừa được kư kết th́ ngày 31/1/ 1973, một nhân vật khác hiện ra, TT Thích Thiện Minh, đă vội phổ biến một thông bạch tuyên bố thành lập Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc, cử luật sư Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch với nhiệm vụ đ̣i “nghiêm chỉnh thực thi ngưng bắn” và tiến tới lập chính phủ ḥa hợp ḥa giải.

 

TT Thích Mẫn Giác cho biết việc thành lập lực lượng nói trên là do quyết định của Hội Đồng Viện Hoá Đạo theo đề nghị của Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu. HT Thích Trí Thủ, TT Trí Quang và TT Thiện Minh đă yểm trợ mạnh mẽ cho quyết định này? Viện Hoá Đạo GHPG Ấn Quang đă lập lực lượng nói trên để làm ǵ?

 

Điều 12 của Hiệp định Paris dự liệu thành lập tại miền Nam VN một Hội Đồng Quốc Gia Ḥa Giải và Ḥa Hợp Dân Tộc sau khi ngưng bắn. Hội Đồng này gồm 3 thành phần:

 

VNCH, MTGPMN và các thành phần ở giữa. Lúc đầu Hà Nội cương quyết đ̣i Hội Đồng này phải được tổ chức từ trung ương đến địa phương như một chính quyền song hành với chính phủ VNCH. Nhưng sau khi Hoa Kỳ ném bom B52 xuống Hà Nội 12 ngày đêm, Hà Nội mới chịu giới hạn quyền của Hội Đồng vào việc tổ chức bầu cử mà thôi. Hà Nội tin rằng trong 3 thành phần của Hội Đồng, họ sẽ chiếm 2 thành phần là MTGPMN và các tổ chức thân Cộng trong thành phần thứ ba, nên sẽ thắng khi cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại miền Nam. TT Thích Thiện Minh được chỉ thị thành lập “thành phần thứ ba” gồm các tổ chức thân Cộng để tham gia Hội Đồng, đó là Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc nói trên.

 

Thông bạch do TT Thích Thiện Minh công bố đă bị các đảng phái quốc gia và báo chí công kích nặng nề nên lực lượng này không hoạt động được.

 

Các tổ chức gây bất ổn và liên hệ với CS:

 

Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc và Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng:

 

Năm 1964, TT Trí Quang đă cho tái sinh Hội Cứu Quốc trong Mặt Trâ .n Việt Minh dưới danh hiệu Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Sau khi bị lật tẩy, ông cho đổi thành Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng. Mục tiêu của 2 tổ chức này là gây biến động chính trị tại miền Nam để tiến tới cướp chính quyền.

 

Dưới chiêu bài “chống đàn áp PG” và “diệt Cần Lao Thiên Chúa Giáo”, 2 tổ chức trên đă tung hoành từ Quảng Trị tới Saigon, không coi chính quyền và luật pháp quốc gia ra ǵ, nhưng đến tháng 6/1966 th́ bị chính phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan. Sau biến cố Mậu Thân 1968 và nhất là sau 30/4/1975, người ta mới khám phá ra các thành phần chủ lực trong 2 lực lượng này đều là CS nằm vùng như TT Thích Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh), 2 Đại Đức Thích Hạnh Tuệ và Thích Nhất Chí, Hoàng Phủ Ngọc Tường (sẽ nói sau), Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Xuân Huy, Nguyễn Văn Hàm...

 

Dùng Đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hoạt động nội thành cho VC:

 

Viện Đại học Vạn Hạnh được xây cất vào ngày 9/6/1965. Khi hoàn thành, TT Thích Minh Châu dược GHPG Ấn Quang cử làm Viện Trưởng, ông đă biến nơi này thành một căn cứ địa an toàn cho đặc công CS nằm vùng và các tổ chức chống chính phụ Chính nơi đây là địa điểm phát xuất các toán biểu t́nh và bạo động.

 

Ngày 30/4/1975, dưới quyền điều khiển của Ngyễn Trực, họ đă cầm cờ PG ra Ngă Tư Bảy Hiền đón “quân giải phóng”. Các tài liệu của VC xác nhận TT Thích Minh Châu là cán bộ nội tuyến và Viện Đại Học Vạn Hạnh là cơ sở hoạt động nội thành.

 

Nhận chỉ thị của VC để hoạt động:

 

Trong thời Đệ II Cộng Ḥa, nhóm tham mưu của Viện Đại Học Vạn Hạnh vẫn lén lút ra Huế họp với Khu Ủy Trị-Thiên -Huế để báo cáo và nhận chỉ thị hoạt động quấy phá miền Nam. Mỗi lần đi đều bị nhân viên t́nh báo của VNCH theo dơi và chụp h́nh. Các tài liệu này sau đó được thông báo cho Viện Hóa Đạo và Viện Đại học Vạn Hạnh biết kèm theo lời cảnh cáọ Nhưng ít lâ u sau, công việc này lại tái diễn.

 

Các TT Thích Hộ Giác, Thích Quảng Độ và Thích Bửu Phương đă nhiều lần đi Tây Ninh họp với VC. Lần họp tại chùa Từ Vân ở G̣ Dầu Hạ, Tây Ninh, đă bị cơ quan an ninh phát giác. TT Thích Hộ Giác bị Bộ Quốc Pḥng VNCH buộc phải từ chức Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy PG. TT Thích Quảng Độ từ khi du học Ấn Độ về đă có lập trường thân Cộng và hoạt động cho MTGPMN. Chỉ sau 30/4/1975, khi ông cũng như TT Thích Thiện Minh không được tin dùng, ông mới quay lại chống chế độ và bị bắt.

 

Chính quyền miền Nam đă không bắt các vị sư tăng trên đi an trí hay truy tố họ ra ṭa v́ sợ gây hoang mang dư luận và hơn nữa cơ quan t́nh báo không muốn phá vỡ đường dây để dễ theo dơi họ

 

Các h́nh thức yểm trợ các đ̣i hỏi của CS:

 

Ăn rập với các đ̣i hỏi của VC, nhóm Phật giáo miền Trung trong GHPG Ấn Quang đă phát động rất tinh vi nhiều chiến dịch nhằm yểm trợ các đ̣i hỏi của VC. Kẻ th́ dùng bạo lực (TT Thích Trí Quang), kẻ th́ núp dưới lớp áo cà sa để làm nằm vùng (TT Thích Minh Châu), kẻ th́ đem đạo vào chính trị (TT Thích Nhất Hạnh) để ru ngủ quần chúng, kẻ th́ tham dự thẳng vào chính trị để tiến hành việc ḥa giải và ḥa hợp (TT Thích Thiện Minh), kẻ th́ tham gia vào hàng ngũ VC chỉ chờ chực là giao quyền cho VC để gọi là

“ḥa giải” (TT Thích Đôn Hậu). Mỗi người mỗi vẻ, mỗi cách hành động nhưng cùng một chủ trương, tất cả chỉ nhằm phá bỉnh sự chống Cộng của dân miền Nam. Miền Nam tan rả v́ bị phá từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong.

 

Chiến dịch “Việt Nam, Đóa Hoa Sen Trong Biển Lửa”.

 

Ngày 3/6/1966, Đại Đức Thích Nhất Hạnh đang ở Pháp th́ được một nhóm phản chiến của Mỹ mời thăm Hoa Kỳ. Nhân dịp này, ông đă công bố chủ trương 5 điểm của GHPG Ấn Quang như sau:

 

Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức.

Quân đội Mỹ rút lui.

Ngưng oanh tạc Bắc Việt.

Mỹ phải giúp lập chính thể dân chủ và

Tái thiết miền Nam không điều kiện.

 

5 điểm đ̣i hỏi này giống hệt 5 điểm đ̣i hỏi của MTGPMN.

 

Đại Đức Thích Nhất Hạnh quan niệm về “ḥa b́nh và độc lập”: sống chung với CS th́ tất nhiên sẽ có ḥa b́nh và độc lập. C̣n tự do th́ ai cũng biết đó là “tự do trong cái chén”, tức là tự do trong chế độ CS. Khi “ngoại nhân” tức Mỹ -- kẻ gây chiến tranh, chiếm đóng VN và giết đồng bào VN của ông -- đi rồi là tự nhiên ta sẽ có ḥa b́nh, độc lập. Vào 1/11/1966, tin tưởng vào thiện ư của VC -- không phải ngoại nhân, là anh em cùng máu mủ -- ông kêu gọi “ḥa hợp và ḥa giải” với CS.

 

T́nh trạng tổng quát của VNCH vào thời gian 1965 được mô tả qua tài liệu sau:

 

AGGRESION FROM THE NORTH”: STATE DEPARTMENT WHITE PAPER ON VIETNAM

February 27, 1965 (Department of State Bulletin, March 22, 1965)

 

South Vietnam is fighting for its life against a brutal campaign of terror and armed attack inspired, directed, supplied, and controlled by the Communist regime in Hanoị This flagrant aggression has been going on for years, but recently the pace has quickened and the threat has now become acute.

 

The war in Vietnam is a new kind of war, a fact as yet poorly understood in most parts of the world. Much of the confusion that prevails in the thinking of many people, and even governments, stems from this basic misunderstanding. For in Vietnam a totally new brand of aggression has been loosed against an independent people who want to make their way in peace and freedom.

 

Vietnam is not another Greece, where indigenous guerrilla forces used friendly neighboring territory as a sanctuary.

 

Vietnam is not another Malaya, where Communist guerrillas were, for the most part, physically distinguishable from the peaceful majority they sought to control.

 

Vietnam is not another Philippines, where Communist guerrillas were physically separated from the source of their moral and physical support.

 

Above all, the war in Vietnam is not a spontaneous and local rebellion against the established government.

 

There are elements in the Communist program of conquest directed against South Vietnam common to each of the previous areas of aggression and subversion. But there is one fundamental difference. In Vietnam a Communist government has set out deliberately to conquer a sovereign people in a neighboring statẹ And to achieve its end, it has used every resource of its own government to carry out its carefully planned program of concealed aggression. North Vietnam's commitment to seize control of the South is no less total than was the commitment of the regime in North Korea in 1950. But knowing the consequences of the latter's undisguised attack, the planners in Hanoi have tried desperately to conceal their hand. They have failed and their aggression is as real as that of an invading armỵ

 

This report is a summary of the massive evidence of North Vietnamese aggression obtained by the Government of South Vietnam. This evidence has been jointly analyzed by South Vietnamese and American experts.

 

The evidence shows that the hard core of the Communist forces attacking South Vietnam were trained in the North and ordered into the South by Hanoị It shows that the key leadership of the Vietcong (VC), the officers and much of the cadre, many of the technicians, political organizers, and propagandists have come from the North and operate under Hanoís direction. It shows that the training of essential military personnel and their infiltration into the South is directed by the Military High Command in Hanoị In recent months new types of weapons have been introduced in the VC army, for which all ammunition must come from outside sources. Communist China and other Communist states have been the prime suppliers of these weapons and ammunition, and they have been channeled primarily through North Vietnam.

 

The directing force behind the effort to conqueror South Vietnam is the Communist Party in the North, the Lao Dong (Workers) Partỵ As in every Communist statẹ the party is an integral part of the regime itself. North Vietnamese officials have expressed their firm determination to absorb South Vietnam into the Communist world.

 

Through its Central Committee, which controls the Government of the North, the Lao Dong Party directs the total political and military effort of the Vietcong. The Military High Command in the North trains the military men and sends them into South Vietnam. The Central Research Agency, North Vietnam's central intelligence organization, directs the elaborate espionage and subversion effort...

 

Under Hanoís overall direction the Communists have established an extensive machine for carrying on the war within South Vietnam. The focal point is the Central Office for South Vietnam with its political and military subsections and other specialized agencies. A subordinate part of this Central Office is the liberation Front for South Vietnam.

 

The front was formed at Hanoís order in 1960. Its principle function is to influence opinion abroad and to create the false impression that the aggression in South Vietnam is an indigenous rebellion against the established Government.

 

For more than 10 years the people and the Government of South Vietnam, exercising the inherent right of self-defense, have fought back against these efforts to extend Communist power south across the 17th parallel. The United States has responded to the appeals of the Government of the Republic of Vietnam for help in this defense of the freedom and independence of its land and its people.

 

In 1961 the Department of State issued a report called A Threat to the Peacẹ It described North Vietnam's program to seize South Vietnam. The evidence in that report had been presented by the Government of the Republic of Vietnam to the International Control Commission (ICC). A special report by the ICC in June 1962 upheld the validity of that evidencẹ The Commission held that there was “sufficient evidence to show beyond reasonable doubt” that North Vietnam had sent arms and men into South Vietnam to carry out subversion with the aim of overthrowing the legal Government therẹ The ICC found the authorities in Hanoi in specific violation of four provisions of the Geneva Accords of 1954.

 

Since then, new and even more impressive evidence of Hanoís aggression has accumulated. The Government of the United States believes that evidence should be presented to its own citizens and to the world. It is important for free men to know what has been happening in Vietnam, and how, and whỵ That is the purpose of this report...

 

The record is conclusivẹ It establishes beyond question that North Vietnam is carrying out a carefully conceived plan of aggression against the South. It shows that North Vietnam has intensified its efforts in the years since it was condemned by the International Control Commission. It proves that Hanoi continues to press its systematic program of armed aggression into South Vietnam. This aggression violates the United Nations Charter. It is directly contrary to the Geneva Accords of 1954 and of 1962 to which North Vietnam is a partỵ It is a fundamental threat to the freedom and security of South Vietnam.

 

The people of South Vietnam have chosen to resist this threat. At their request, the United States has taken its place beside them in their defensive struggle.

 

The United States seeks no territory, no military bases, no favored position. But we have learned the meaning of aggression elsewhere in the post-war world, and we have met it.

 

If peace can be restored in South Vietnam, the United States will be ready at once to reduce its military involvement. But it will not abandon friends who want to remain freẹ It will do what must be done to help them. The choice now between peace and continued and increasingly destructive conflict is one for the authorities in Hanoi to makẹ”

 

Nhưng Đại Đức Thích Nhất Hạnh lại ra tuyên bố “ḥa hợp - ḥa giải” với công cụ của Bắc Việt, kêu gọi VNCH coi CS như anh em, cho Mỹ là kẻ xâm lăng, gây ra chiến tranh:

 

Statement of the Venerable Thich Nhat Hanh on the Vietnam National Day, November 1, 1966.

 

This is a statement directly ađressed to my brothers in the National Liberation Front (NLF). This comes after my appeal to religious leaders, humanists, and intellectuals of all countries, asking them to denounce all intentions of the United States and the Communist bloc to extend the war in Vietnam.

 

Vietnam National Day has the symbolic value of the co-operation of all Vietnamese, whether they are in the NLF or not, in the struggle against dictatorship, in the spirit of national revolution, in the will of self- determination.

 

I would like to take the opportunity to appeal for the co-operation of all patriotic Vietnamese, which is absolutely necessary in this struggle for peace and national independence.

 

No Vietnamese will refuse this struggle for peace and independencẹ That is why there is no reason for brothers to kill each other.

 

There were vietnamese who have been supporting ThE NLF because they are convinced that the front is fighting for national independencẹ There are many other vietnamese who do not support the front because they suspect that the front may be driving the nation to communisM. This worry is increasing every day, because, as war goes on, as the us

increses its army and weapons, the front has to lean more and more on the communist bloc to be able to cope with the US and thus become more and more an instrument of the communist bloc.

 

I oppose the us because of its violation of Vietnamese sovereignty, and its direct engaging in the killing of VietnamesẸ I also oppose the communist intention to make use of the nationalistic feeling of the Vietnamese people to serve their ideologỵ But i respect all patriotic vietnamese who are sincerely struggling for peace, independence and self-determination above all else.

 

I am calling for my brothers in the NLF to recognize the presence of patriotic, non-Front blocs of citizens who are anti-Communist, but who are also opposing US policy, and seek to establish as soon as possible dialogue, co-operation and unity, beyond ideology, for the common purpose of Vietnamese self-determination. Thus could the Vietnamese people become capable of preventing the manipulation of the Front by the Communist bloc, and effectively stop US interference in Vietnam affairs which violates the principle of self-determination.

 

That dialogue and co-operation between different groups in South Vietnam will certainly result in the establishment and guarantee of genuine neutrality in South Vietnam, eliminating all influences from the American and Communist blocs and realizing the peace that the people of Vietnam so desire.

 

We ask our brothers to act in order to avoid in time the threat of total destruction brought about by the US and the threat of Communism inflicted on us by the Communist bloc. Only the co-operation between non-communist groups and The Front can lead Vietnam out of this dangerous situation.

 

I pray for love to be seen among brothers and for the realization by all Vietnamese that their future and survival does not depend on the US, the Soviet Union, or China, but on the co-operation of the Vietnamese themselves.”

 

Năm 1967, Đại Đức Nhất hạnh cho xuất bản cuố “Vietnam, Lotus in a Sea of Fire, a Buddhist Proposal for Peace” (Việt Nam, Hoa sen trong biển lửa, môt đề nghị ḥa b́nh của Phật giáo,) nói về cuộc tranh đấu của PG từ 1963-1966 và những chết chóc tang thương do Hoa Kỳ và quân đội VNCH gây ra. Ông lên án Ngô Đ́nh Diệm đàn áp PG, Nguyễn Cao Kỳ độc tài quân phiệt và ca tụng HCM là anh hùng dân tộc. Ông tuyên bố MTGPMN do những người quốc gia chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm lập ra chứ không phải do Hà Nội lập ra, nhưng v́ Mỹ đă đổ quân và vũ khí vào VN, nên họ “nghiêng theo khối CS, và càng ngày càng trở thành công cụ của khối CS”, nhưng ở dưới ông lại trích dẫn lời của Lê Duẩn tuyên bố trong Đại hội đảng kỳ 3 (1960) xác nhận “Đảng ta” lănh đạo Mặt Trận.

 

Trong bộ Lịch Sử Đảng CSVN do Nhà xuất bản Sách Giáo khoa Mác-Lê nin ở Hà Nội ấn hành, Hà Nội chính thức xác nhận rằng MTGPMN được thành lập do Nghị Quyết của Đại hội III của Đảng CSVN họp tại Hà Nội vào tháng 9/1960. Đại Đức Thích Nhất Hạnh biết rơ điều đó, nhưng khi làm công tác tuyên truyền cho VC, ông đă cố t́nh bóp méo sự thật để biện hộ cho sự xâm lăng của Hà Nội.

 

Năm 1968, khi ḥa đàm Paris bắt đầu họp, ông được cử làm phát ngôn viên chính thức của GHPG Ấn Quang ở hải ngoại.

 

Đại Đức Nhất Hạnh đă ra hải ngoại năm 1964, thường trú tại Pháp. Nhưng chỉ sau 30/4/1975 một thời gian, tất cả những ai đồng quan điểm với lời kêu gọi của thầy Thích Nhất Hạnh đều thấy ḿnh bị lừa và đa số phải chịu trận, kẻ chết, người bị cầm tụ Thầy đă bắt đầu thối lui, không c̣n làm chính trị nữa, và từ đó lo tu đạo và chỉ lo hoằng dương đạo pháp từ nước Pháp. Đọc những bài ông viết sau 1977, người ta thấy lập trường chính trị của ông đă có nhiều thay đổi.

 

Thầy nói th́ hay lắm. Đạo Phật là đạo tu chứ không phải là đạo trị quốc. Đạo và đời đă bị nhập chung làm một, từ đó đem đến cảnh “nước mất nhà tan”.

 

Thành lập Nhóm Ḥa Giải, sau đổi thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bộ:

 

Sau Đại hội PG kỳ 3 của GHPG Ấn Quang tổ chức tại Saigon ngày 20/ 8/1968, luật sư Trần Ngọc Liễng tuyên bố thành lập Nhóm Ḥa Giải gồm 25 ngườị Nhóm này sau biến thành Lực Lượng Quốc Gia Tiến Bô Ngày 15/11/1969, LS Liễng đưa ra một tuyên bố khẳng định “hướng đi của dân tộc VN là ḥa b́nh trên cơ sở độc lập, tự do và dân chủ”.

 

Tiếp theo, ông kêu gọi thành lập một chính phủ ḥa giải để chấm dứt chiến tranh, triệt thoái quâ n đội ngoại lai ra khỏi miền Nam thật sớm. Các báo ở Saigon hỏi ông tại sao không nói ǵ về phía CS, ông không trả lờị Mục tiêu của bản tuyên bố này là yểm trợ cho các đ̣i hỏi của Bắc Việt tại ḥa đàm Paris.

 

Tuyên ngôn 6 điểm của Phái đoàn PG Ấn Quang:

 

Tháng 10/1970, TT Thích Thiện Minh cầm đầu một Phái đoàn PGVN qua Nhật Bản dự Hội Nghị Thế Giới về Tôn Giáo và Ḥa B́nh họp tại Tokyo từ 16-22/10/1970. Phái đoàn này gồm có TT Thích Thiện Minh, TT Thích Huyền Quang, TT Thích Ḿnh Tâm, Đại Đức Thích Nhất Hạnh (phát ngôn viên) và 2 cư sĩ  Ngô Văn Giáo và Vĩnh Bữụ Tại hội nghị nói trên, phái đoàn đă đưa ra đề nghị 6 điểm của PGVN như sau:

 

Các phe lâm chiến phải bắt đầu xuống thang ngay lập tức để đạt đến một cuộc ngưng bắn toàn diện vào lúc 18 giờ chiều 30 Tết Tân Hợi (tức 26/1/1971).

LHQ sẽ chỉ dịnh một nhóm quốc gia trung lập để họp thành Ủy Hội Kiểm Soát Ngưng Bắn gồm cả đại diện của Quân đội VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN.

Chính phủ VNCH phải phóng thích các tù nhân chính trị, sinh viên, trí thức, tu sĩ và tất cả những người đă bị tạm giam v́ tranh đấu cho ḥa b́nh và chủ quyền của dân tộc.

 

Chính phủ Hoa Kỳ phải chấm dứt t́nh trạng thối nát, độc tài và bất lực ở miền Nam VN bằng cách để cho người Viê .t tự do chọn đại diện đa số dân chúng có bản chất ḥa giải dân tộc, không liên kết và có đủ khả năng để:

 

§ Thương thuyết với chính phủ Hoa Kỳ về thời biểu triệt thoái mau chóng toàn thể quân lực Hoa Kỳ ở VN và những liên hệ ngoại giao, văn hóa và kinh tế giữa Hoa Kỳ và VN.

 

§ Thương thuyết với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN về những thể thức tổng tuyển cử để bầu lên một chính phủ đại diện cho mọi khuynh hướng chính trị ở Nam

§ VN, một cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự giám sát quốc tế, trong đó mọi người VN thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào đều có thể tham dư

 

·    Các chính phủ Hoa Kỳ, Sô-viết, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa và các quốc gia liên hệ khác cọng tác với nhau để chấm dứt đau khổ của người dân Việt bằng cách ủng hộ đề

·    nghị này cho chính người Việt đề ra.

 

·    Các phe lâm chiến tại VN, nhân dân ưa chuộng ḥa b́nh trên thế giới, các giáo hội tôn giáo và các nhà nhân bản cấp thơ `i hành động để thúc đẩy các quốc gia có trách nhiệm về chiến tranh VN chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN, Kampuchea và Làọ

 

Từ các danh từ và văn từ được xử dụng đến nội dung của bản tuyên bố đều giống hệt các bản tuyên bố của MTGPMN. Bản tuyên bố được viết với lối hành văn lập pháp hay quyết định thay v́ nhẹ nhàng của một đề nghị của một tổ chức quô 'c tế về tôn giáo và ḥa b́nh. Sau bản tuyên bố trên, GHPG đă làm mất cảm t́nh của hầu hết các quốc gia trên thế giớị Phái đoàn Đan Mạch đă vặn hỏi tại sao PGVN chỉ đ̣i quân đội Mỹ rút ra mà không đ̣i

tất cả các quân đội ngoại nhập phải rút, trong đó có cả quân đội CS Bắc Việt, Phái đoàn PGVN không trả lời được.

 

Thành lập “chính phủ Phật Giáo” để giao cho VC:

 

Tạp chí Quê Mẹ số 125 & 126 tháng 10-11/1993 đă công bố bản tự thuật của HT Thích Đôn Hậu về cuộc gặp gỡ giữa ông và TT Phạm Văn Đồng năm 1976. Bản tự thuật cho biết vào tháng 4/1975, PG đă thành lập Chính Phủ Phật Giáo Dương Văn Minh để giao miê `n Nam cho CS Hà Nộị Sau đây là phần liên hệ đến vấn đề này được đề cập trong

bản tự thuật của HT:

 

TT Phạm văn Đồng:

 

- Đấy, theo Cụ biết, trong khi người Mỹ đi rồi, Thiệu xuống rồi, PG lại âm mưu lập chính phủ PG, đưa Dương Văn Minh lên làm TT. Lập làm ǵ vậy? Lập chính phủ đó để đánh với Cách Mạng phải không?

 

HT đáp:

 

- Chuyện ấy có, Phật Giáo chúng tôi có lập Chính Phủ. Nhưng thế này. Thưa Thủ Tướng. Chúng tôi đă hỏi các vị trong Viện Hóa Đạọ Các vị cho biết như sau: HT nên nhớ rằng, PG chúng ta không ngu si đến độ lập CP Phật Giáo, sau khi Mỹ đă bỏ miền Nam, Thiệu vơ vét của cải đi rồi. Của cải, thế lực ở miền Nam VN chẳng c̣n ǵ, mà Cách Mạng đă đến bên lưng. Ông DVM cũng không đến nỗi dại ǵ muốn lên làm TT lúc ấỵ

 

Các vị ở Viện Hoá Đạo nói tiếp: PG chúng ta, con sâu con kiến cũng thương, huống ǵ con người! Đă 30 năm chiến tranh, chết chóc đau thương chồng chất. Bây giờ đây nếu

thả lỏng để ông già lụ khụ Trần Văn Hương tuyên bố: “Đánh” ! Thử hỏi cả 2 bên tham chiến chết bao nhiêu người nữa? Muốn hạn chế sự chết chóc và tài sản của đồng bào, nên PG chúng ta phải có chủ trương. Lúc bấy giờ, chẳng c̣n ai lo cho đất nước, ai cũng chạy trối chết, PG đâu thể ngồi như vậy mà nh́n? Nên phải lập CP, đưa DVM lên làm TT. Nhưng không phải lập để đánh với Cách Mạng.

 

Thủ Tướng hỏi:

 

- Vậy tại sao DVM lên, tuyên bố giữ mảnh đất cuối cùng, nếu không phải để đánh với Cách Mạng th́ để làm ǵ?

 

Tôi hỏi Thủ Tướng:

 

- Khi DVM tuyên bố như vậy, về sau có nổ phát súng nào không?

 

- Không.

 

- Như vậy, DVM chỉ tuyên bố thôi, chứ không cốt đánh”.

 

Chính phủ PG nói trên, khi mới nhận chức vào ngày 29/4/1975, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đă ra tuyên bố:

 

- Hoa Kỳ phải rút khỏi VN trong ṿng 24 giờ kể từ ngày 29/4/1975.

 

- Hoa Kỳ phải tôn trọng các quyền cơ bản của dân tộc VN, quyền tự quyết của nhân dân VN và chấm dứt mọi sự dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam VN.

 

Tổ chức mừng giải phóng:

 

Năm Mậu Thân 1968, HT Thích Đôn Hậu đă lên đài phát thanh MTGPMN kêu gọi, “Chư Tăng, Ni và đồng bào Phật tử đoàn kết với nhau, nhất tề đứng lên đánh đuổi Đế quốc

Mỹ và bè lũ tay sai Đế Quốc và bất hợp tác với tay sai Đế Quốc”. Kèm theo HT Thích Đôn Hậu phải kể tới Hoàng Phủ Ngọc Tường.

 

Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện sống ở Huế (1992), có chân trong ban biên tập của tạp chí Sông Hương, cùng với các tạp chí như Tuổi Trẻ, Văn Nghê Đă phổ biến các tác phẩm của những tác giả như Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Lưu Quang Vũ. Nhà xuất bản Văn Uyển (Hoa Kỳ) đă giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường qua truyện ngắn “T́m Ma Phiêu Du Kư” trong tuyển tập Văn Chương Đối Kháng Quốc Nội xuất bản vào tháng 5/1990. Nhưng ông ta là ai và đă làm ǵ?

 

HPNT được về giảng dạy môn Việt Văn trường Quốc Học Huế vào năm 1961, thời ông Đinh Qui làm hiệu trưởng và ông Văn Đ́nh Hy làm giám học, vào thời đó Huế có 2 giáo

sư dạy Việt Văn nổi tiếng, ở trung học đệ nhất cấp có Tôn Thất Dương Tiềm, ở đệ nhị cấp có HPNT, măi đến sau khi trận tấn công Mậu Thân của VC vào thành phố Huế chấm dứt, cơ quan an ninh VNCH mới biết rơ sự liên hệ 2 người này với CS.

 

HPNT trưởng thành tại Huế, có người em ruột tên là Hoàng Phủ Ngọc Phan, gia đ́nh ở Thành Nội, thuộc thành phần trung lưu, sau khi đỗ xong Tú tài hai, Tường được gia

đ́nh cho vào Saigon học Đại học Sư Phạm Triết, ra trường, Tường có luôn bằng cử nhâ n văn chương, mang triết áp dụng vào văn chương, giáo sư HPNT có một lối giảng dạy

rất mới lạ so với các giáo sư Việt Văn khác, chỉ dựa vào các sách của Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Hà Như Chi để soạn bài. Học sinh các lớp văn chương rất mến

mộ ông v́ Tường dạy hay, dù dáng người ốm, cao cỡ 1.6m, nhưng giọng nói rất tốt, giảng bài hấp dẫn, cách phục sức giảng dị, thân t́nh với học sinh, thầy Tường lúc nào cũng có vẻ như một nhà triết học, trở thành thần tượng của giới trẻ lúc bấy giợ HPNT có người yêu tên là HTTN, cũng ở Thành Nội Huế, nữ sinh viên Văn Khoa, nhưng v́ những trắc trở, 2 người không lâ 'y nhau được, về sau, cô này lại là vợ của một trong những người bạn của Tường.

 

Số bạn thân nhất của Tường có thể đếm ở đầu ngón tay: Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Trần Quang Long. Trần Quang Long đă chết, Ngô Kha cũng đă chết, nguyên là giáo sư Việt Văn trường Hàm Nghi Huế, vợ Kha là em gái của Trịnh Công Sơn, cô này đă vượt biển, hiện sống tại Canada và đă tái gia. Trần Quang Long và Ngô Kha đều là những đồng chí của HPNT; năm 1964, Kha và Long lập ra nhóm Quán Bạn, thật ra đây chỉ là địa điểm ngụy trang nhằm để tuyên truyền chống chính phủ, năm 1966, cùng với Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức, năm 1970, Ngô Kha chủ biên tập san Tự Quyết (Ban biên tập gồm có Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Bửu Ư), năm 1971, Ngô Kha chủ biên tập san Mặt Trận Văn Học Dân Tộc Miền Trung, đặt dưới sự lănh đạo của Thành ủy CS Huế, tháng 6/1973, trong một cuộc hành quân của Quân đội VNCH từ Phá Tam Giang đến cửa Tư Hiền, Ngô Kha đă bị bắn chết khi đang t́m cách vượt thoát ṿng vâỵ

 

Sau khi biến động miền Trung chấm dứt vào giữa năm 1966 th́ măi đến tháng 10/1967, chính quyền Thừa Thiên, vị tỉnh trưởng lúc bấy giờ là Trung tá Phan Văn Khoa, mới kết thúc hồ sơ của HPNT và một số giáo sư dạy tại trường Trung học Bồ Đề Thành Nội Huế, liên quan đến những hoạt động cho CS, nhưng viên ty trưởng cảnh sát là Đoàn Công Lập, lại là một cán bộ CS nằm vùng, cho nên án lệnh bắt giữ những người trên chỉ được thi hành một cách lỏng lẻo, trong lúc đó th́ CS đă hoàn tất kế hoạch tổng tấn công Tết Mậu Thân.

 

Hiệp định Geneva năm 1954, một số cán bộ CS tập kết ra Bắc, nhưng số khác được lệnh ở lại để bám trụ, trong đó có Nguyễn Đóa, gốc người Quảng Nam, ra Huế dạy Pháp văn tại trường Bồ Đề Thành Nội vào năm 1955, hiệu trưởng lúc bấy giờ là ông Lê Mộng Đạo, hoàn toàn không hay biết ǵ về việc ḿnh đang điều khiển một trường trung học được xem là trung tâm tổ chức trí vận Trị Thiên và thành phố Huế; Nguyễn Đóa nhận lănh trách nhiệm để xây dựng cơ sở nàỵ Đóa gả con gái cho Tôn Thất Dương Tiềm, được xem là giáo sư có thế lực nhất tại trường này và rất thân cận với tỉnh giáo hội PG Thừa Thiên. Một thời gian sau, Tiềm vào tổ chức, trong tổ chức này c̣n có Vơ Đ́nh Cường, Hoàng Nguyên Cao Tự Phúc (tác giả các nhạc phẩm hay như Đàn Ơi, Xa Rồi), Phan

Văn Vinh, Tôn Thất Dương Kỵ,... Tường lúc bấy giờ c̣n là cậu học sinh hiền lành, trâ `m tư, có khuynh hướng xă hội; trong lớp Tường rất giỏi môn Việt Văn và môn Triết, Tôn Thất Dương Tiềm chú ư, móc nối và tuyên truyền. Năm 1961, Tường được bổ nhiệm về Trường Quốc Học, Tiềm giao cho Tường công tác xây dựng cơ sở trong giới học sinh và sinh viên; qua sự giới thiệu của các thầy ở chùa Từ Đàm, HPNT cùng với Nguyễn Khắc Từ (thư kư của GHPG Thừa Thiên) là bộ năo của tất cả các cuộc xuống đường ở Huế trước ngày 1/11/1963.

 

Năm 1964, lợi dụng t́nh trạng hỗn loạn của nền Đệ II Cộng Ḥa, cùng với một số cán bộ cơ sở như Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đính, Trần Minh Thảo, Trần Duy Phiên...Tường gia tăng hoạt động trong giới trẻ như cho người nằm trong các ban đại diện học sinh, sinh viên, tổ chức các cuộc nói chuyện chống chính phủ, đ̣i trung lập hóa miền Nam VN, người Mỹ phải rút khỏi VN...

 

Cùng với một số giáo sư đại học như Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần...Tường nằm trong Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, do BS Lê Khắc Quyến làm Chủ tịch, tuần báo

Lập Trường là tiếng nói chính thức của Hội Đồng; bài quan điểm, do Cao Huy Thuân phụ trách, có tác dụng rất lớn tại Huế, Miền Trung, ngay tại Saigon và một số tỉnh Miền Tâỵ Cuối năm 1965, đầu năm 1966, Tường giao cho Nguyễn Đắc Xuân và Trần Mậu Tư hành lập Đoàn Sinh Viên Quyết Tự Về sau nhóm của Tường biết rằng Tư là người của 1 đảng phái quốc gia đưa vào nằm vùng trong tổ chức sinh viên này, khi CS tràn vào thành phố Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968, Tường và Xuân đă lùng bắt Tư, Xuân là người đă xử tử Tư bằng cách bắn từng phát một.

 

Đoàn Sinh Viên Quyết Tử được huấn luyện quân sự trong ṿng nửa tháng, được trang bị vủ khí nhẹ, và đặt dưới sự chỉ huy của Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Trần Mậu Tư. Đoàn Sinh Viên này được máy bay quân sự Sư Đoàn I đưa vào Đà Nẵng, thị trưởng của thành phố này là BS Nguyễn Văn Mẫn, người trách nhiệm quân sự ở đây là là Đại tá Đàm Quang Yên đều theo phe chống đối. Chính Tường là người đă tổ chức cuộc tấn công vào 2 làng công giáo Thanh Bồ, Đức Lợi, tạo ra những cuộc đổ máu.

 

Tháng 4/1966, Tường, Ngô Kha và Nguyễn Đắc Xuân thành lập Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức để chống lại quân đội trung ương. Tháng 5/1966, phong trào đấu tranh tại Huế bị

dập tắt, Tường và Xuân “nhảy núi”, riêng những người khác, như Nguyễn Đóa, Trần Minh Thảo chưa bị lộ diện, cho nên vẫn tiếp tục ở lại để xây dựng và phát triển cơ sợ

 

Cuối năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào thành phố Huế về mặt chính trị, Tường đă âm thầm trở lại thành phố này và trú trong nhà Nguyễn Đóạ Sau mấy ngày

thảo luận, Tường lên núị Lần này đi theo Tường có Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, giáo sư Lê Văn Hảo, Nguyễn Đóa và bà Đào Thị Xuân Yến (tức bà Thuần Chi). Tối ngày 29 Tết, theo đài phát thanh Hà Nội, một tổ chức lấy tên là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh được thành lập. Chủ tịch là Lê Văn Hảo, các ủy viên gồm Thích Đôn Hậu, Đào Thị Xuân Yến, Tổng thư kư là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngày mồng 2 Tết, Tường đă có mặt tại Huế, cùng với Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan (em ruột Tường), Nguyễn Thị Trinh (con gái út của Nguyễn Đóa).

 

Theo tài liệu của Chính Đạo qua cuốn “Mậu Thân 68: Thắng hay bại?” th́ “tại khu tả ngạn, dưới quyền Nguyên, các toán an ninh có 2 nhiệm vụ: lùng bắt các sĩ quan, viên

chức cao cấp trong vùng, và bảo vệ một số khuôn mặt chính trị như Thích Đôn Hậu, bà Thuần Chi, Nguyễn Đóa, Lê Văn Hảo” (trang 139), nghĩa là toàn bộ lănh đạo Liên Minh

đều có mặt tại Huế trong cuộc Tổng tấn công.

 

Nhưng Lê Văn Hảo (hiện sống tại Pháp) đă trả lời cuộc phỏng vấn của Trần Nghi, đăng trên Quê Mẹ số 105 & 106 tháng 1/1990:

 

- Ông nghĩ sao về dư luận của đồng bào Huế cho là ông chịu trách nhiệm chính trong vụ thảm sát dân chúng Thừa Thiên - Huế hồi Tết Mậu Thân?

 

- Dư luận đó không đúng. Thứ nhất, lúc quân đội CS đánh chiếm Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước Tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi nói là mời họp và sau đó tôi phải ở lại luôn trên đó, không về lại thành phố lần nào cả. Cùng ở với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trong giới trí thức và văn nghệ sĩ tham gia MTGPMN lúc ấy có Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân là theo bộ đội về Huế và tôi được biết, đă từng ngồi xét xử nhiều người có quan hệ với chính quyền Saigon trong những phiên xử của cái gọi là ṭa án nhân dân. Thứ hai, trên danh nghĩa, tôi là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng

Thừa Thiên - Huế, tuy nhiên trên thực tế, tôi chẳng có tí quyền nào cả. Tôi chỉ là bù nh́n. Mọi quyền hành từ lănh vực quân sự đến chính triđều nằm trong tay các cán bộ cao cấp của CS” (trang 66).

 

Như thế, theo Lê Văn Hảo, trách nhiệm vụ tàn sát dân lành tại Huế một phần do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường và phần khác do các tư lệnh quân sự, chính trị CS như Tướng Trần Văn Quang, Bí thư khu ủy Trị Thiên - Huế, Lê Minh, Bí thư thành ủy Huế, Lê Chương, Tư lệnh Mặt trận Huế. Nhưng dù ai chịu trách nhiệm đi nữa, th́ lịch sử của VN cũng đă ghi đậm nét: chiếm Huế chưa đầy một tháng ( từ 30/1/1968 - 24/2/1968), CSVN đă tàn sát khoảng 7,000 dân vô tộị Họ bị giết bằng đủ kiểu: bị chặt đầu, bị chôn sống, bị mổ bụng... Một thời đại và nhiều thời đại có thể qua đi, nhưng lịch sử th́ không bao giờ bị tảy xóa. Thật là bi thảm cho dân Huế.

 

Ngày 24/2/1968, bộ đội CS bị đánh bật ra khỏi thành phố Huế, tàn quân rút về rừng, trong đó có Nguyễn Đắc Xuân, Phan, Tường...để lại Huế những cảnh chết chóc, tan nát, đau thương. Gia đ́nh Tường ở Huế bị đồng bào oán hờn, căm thù. Người đau khổ nhất là thân phụ của Tường; có lúc ông cụ gần như điên khùng. Tiếp tục đường cách mạng, Tường được đưa ra Hà Nội và rồi trở lại Huế vào năm 1972, móc nối với Trần Quang Long, Trịnh Công Sơn và Ngô Kha để xây dựng và phát triển cơ sở, nhằm mục đích phá hoại chính quyền trong giới học sinh, sinh viên và trí thức. Sau khi Long và Kha chết, người ta không c̣n thấy Tường hoạt động trong vùng này nữa. Ngày 30/4/1975, Tường vào Saigon, trong lần xuất hiện nói chuyện với giới trí thức, người ta thấy có Nguyễn Thị Trinh, Cao Thị Huế Hương (bà con với Cao Huy Thuần). Tường chỉ làm việc ở Saigon một thời gian ngắn, về sau được đưa trở lại làm việc tại Huế.

 

HPNT lớn lên ở Huế, bỏ Huế ra đi vào năm 1966, trở về Huế và ra đi vào khoảng đầu năm 1968 sau khi để lại những giải khăn sô. Một vài nhà biên khảo cho rằng Tường và Hảo là bạn học với nhau, chính Tường là người móc nối Hảo với Tiềm và Đóa. Ngày nay, Hảo tỵ nạn chính trị tại Pháp, c̣n Tường th́ vẫn đi đi về về với núi Ngự sông Hương. Đồng bào cố đô và Tường nh́n nhau mỗi ngày...

 

Vài vần ca dao về Huế:

 

Cầu Trường Tiền, sáu vài, mười hai nhịp Em qua không kịp, tội lắm anh ơi! Bấy lâu ni chịu tiếng mang lời, Dẫu có xa nhau đi nữa, cũng bởi ông Trời mà xa.

 

hay

 

Sông Hương từ thuở uyên đi Nước trôi lặng lẽ tà huy cấm đ̣ Nam B́nh đă dứt đường tơ Hồi chuông Thiên Mụ xa đưa tiếng sầu Bến Thương Bạc, Phú Văn Lâu Sương thu che khuất nhịp cầu Giả Viên C̣n đâu sáu nhịp Tràng Tiền Thời gian gió loạn sô nghiêng vài bờ Cao cao, vời vợi Cột Cờ Ba mươi năm cũ, phất phơ đổi màu Bây giờ c̣n nhớ đến nhau Th́ trao ánh mắt trền cầu rồi qua...

 

hay

 

Ru em, em ngủ cho muồi Cho mẹ đi chợ, mua vôi ăn trầu Mua vôi Chợ Quán, Chợ Cầu Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh Chợ Dinh bán áo con trai Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim...

 

hoặc

 

Chợ Đông Ba đem ra ngoài Giại Cầu Tràng Tiền đúc lại si mon Ơi người lỡ hội chồng con Vô đây gá nghĩa vuông tṛn được không?...

 

Nh́n chung, người ta nhận thấy khi quyết định hợp tác với CS, các nhà lănh đạo PG miền Trung đă có những tính toán sai lâ `m sau đây:

 

- Tưởng rằng có thể dung hợp PG với chủ nghĩa CS. Mới tiếp xúc với chính quyền CS, BS Lê Đ́nh Thám đă cho thành lập ngay một tổ chức có tên là Phật Giáo và Dân Chủ Mới ở Bồng Sơn, B́nh Định, nơi ông làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ, để nghiên cứu tổng hợp chủ nghĩa Mác-Lê và PG. Sau đó, Nguyễn Hữu Quán đă cho ra cuốn “Đạo Phật và Nền dân chủ mới” để khuyến dụ tăng ni và Phật tử hợp tác với CS. Điều này chứng tỏ các tăng sĩ và cư sĩ PG thời đó không am hiểu nhiều về chủ nghĩa CS và quan niệm của CS về tôn giáo. Cuối cùng, đa số đành chấp nhận quan điểm “Phật giáo dưới ánh sáng Mác-Lê” mà TT Thích Minh Châu đang thuyết giảng ngày nay để biến PG thành công cụ của CS.

 

- Không biết ǵ về phương pháp và thủ đoạn của CS nên bị CS lư `a rồi vắt chanh bỏ vỏ. Số phận mà BS Lê Đ́nh Thám, HT Thích Thiện Chiếu, HT Thích Trí Thủ, TT Thích Mật Thể, TT Thích Thiện Minh, TT Thích Quảng Độ...phải lănh nhận chính là do hậu quả của sự lầm lẫn này.

 

- Cho riêng nhóm PG cực đoan miền Trung, tưởng rằng có thể mươ .n bàn tay CS để loại trừ Thiên Chúa Giáo, tách Giáo hội CGVN ra khỏi Vatican rồi diệt dần, sau đó sẽ cùng CS chiếm địa vị đô .c tôn.

 

- Tin tưởng rằng sau khi CS cướp được chính quyền, GHAQ sẽ đư ợc ưu đăi, nên đă coi chiến thắng của CS như của chính ḿnh, nhưng cuối cùng họ đă phải lănh nhận tai họa.

 

Qua kinh nghiệm cho thấy ta không bao giờ nên lẫn lộn giữa đạo và đời và đừng để tôn giáo lôi kéo vào chính trị. Qua hiện tượng “Bác sĩ Lê Đ́nh Thám”, ta thấy ông đă đem PG trộn lẫn với chủ nghĩa CS làm hại biết bao thế hệ đi saụ .

 

Bây giờ ta hăy nh́n về quá khứ để ôn lại chuyện xưa.

 

Bối cảnh

 

Các cuộc tranh đấu của PG kể từ 1963 hầu hết đều phát xuất từ Huế rồi lan rộng ra các tỉnh miền Bắc Trung phần, nhất là ở 2 thị trấn Quảng Trị và Đà Nẵng, rồi tràn nhẹ qua các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngải, B́nh Định..., khi đi vào miền Nam th́ chỉ c̣n cái ngọn. Các cuộc tranh đấu này phát xuất và mạnh ở các tỉnh Bắc Trung Phần v́ những lư do sau đây:

 

- Trước hết, Huế là trung tâm phát triển mạnh nhất của PGVN trong thời kỳ Pháp thuộc. Các nhà nghiên cứu của Pháp nhận thâ 'y rằng phong trào chống Pháp mạnh nhất phát xuất từ Huế, đó là Phong Trào Văn Thân. Phong trào này do các sĩ phu đạo Nho phát động. Sĩ phu đạo Nho bao giờ cũng lấy “trung quân” và “ái quô 'c” làm đầu. Vậy muốn vô hiệu hóa phong trào này, có 2 việc họ tin ràng cần phải làm: (1) tiếp tục duy tŕ triều đ́nh Huế; nhưng vua phải là người của Pháp dựng lên; khi vua đứng về phía Pháp th́ các nhà Nho có ḷng “trung quân” sẽ di theọ (2) Phát triển PG mạnh, đưa sĩ phu vào con dường giải thoát của đạo Phâ .t để vô hiệu hóa tinh thần phục quốc của nhà Nho (đạo Khổng là đạo trị quốc).

 

Việc thiết lập các triều đại nhà Nguyễn đứng về phía Pháp đă được Pháp lo xong ngay từ đầu, việc “Phật giáo hóa Đông Dương” được giao cho Pasquier khi ông trở lại nhận chức năm 1928. Các viên chức thuộc địa cao cấp đă giao phó cho ông làm công việc này. Năm 1932, BS Lê Đ́nh Thám đă lănh trách nhiệm thành lập Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học ở Huê '. BS Thám làm Hội trưởng c̣n HT Thích Trí Độ được đưa từ B́nh Định ra để làm Giám đốc Trường An Nam Phật Học.

 

Các tổ chức PG ở Huế, ngoài việc được Pháp khuyến khích, c̣n có một thuận lợi khác là được triều đ́nh Huế bảo trơ .. Bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại, rất sùng đạo Phật, sẵn sàng làm tất cả để giúp PG phát triển. Rất nhiều học tăng ở Nam và Bắc được gởi tới học ở Trường An Nam Phật Học. Số học tăng thuộc 3 tỉnh Quảng B́nh, Quảng Trị và Quảng Nam về đây học nhiều nhất, v́ các Hội Phật Học ở Quảng B́nh, Quảng Trị và Quảng Nam đều do BS Thám lập rạ Nhưng năm 1945, 2 nhà lănh đạo của Hội An Nam Phật Học và Trường An Nam Phật Học đều đi theo Mặt Trận Việt Minh và giữ chức vụ lớn. HT Trí Độ là Chủ Tịch Trung Ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, c̣n BS Lê Đ́nh Thám trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ. 2 lănh tụ này đi theo Việt Minh đă kéo theo các đệ tử đi theo như Thích Mật Thể, Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Thiện Ân, Thích Minh Châu, Thích Măn Giác, Vơ Đ́nh Cường, Tống Ḥa Cầm,...

 

- Lư do kế là 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên nằm tiếp giáp vơ 'i vĩ tuyến 17 nên VC nuôi dưỡng được nhiều cán bộ nằm vùng và chỉ huy trực tiếp nhóm này. Trong cuốn “Chiến trường Trị - Thiên - Huế trong cuộc kháng chiến” do Nhà xuất bản Thuận Hoá â 'n hành năm 1985, VC cho biết sau khi chương tŕnh tập kết ra Bắc vào năm 1954 kết thúc, họ đă để lại nằm vùng ở Quảng Trị (trái với cam kết trong Hiệp định Geneva) 8,490 đảng viên và ở Huế khoảng 3,000 đảng viên.

 

Chiến dịch “Tố cộng” của TT Diệm đă làm tan tành các chi bộ của CS được thiết lập từ thành thị đến nông thôn. Chính phủ NĐD đă tổ chức tại vùng này tất cả 53,710 lớp tố Cộng với 230,977 người tham dự. Sau các đợt tố Cộng đó, đă có 3,658 đảng viên CS bị bắt. Số đảng viên và những thành phần thân Cộng phải đi học chỉnh huấn lên đến 29,907 người qua 314 lớp học.

 

Khi chiến dịch Tố Cộng được phát động mạnh, các cán bộ CS hốt hoảng chạy rút vào núi hay rút về Bắc. Nhưng sau khi chế độ NĐD sụp đổ, một số đảng viên bị giam giữ được thả ra và số đảng viên tạm rút về Bắc bắt đầu xâm nhập trở lại v́ đây là địa bàn quen thuộc. cũng như thân nhân của họ sống tại đây.

 

Tài liệu trên c̣n cho biết khu Trị - Thiên - Huế có 398 ngôi chùa, 9 Ḥa Thượng, 15 Thượng Tọa, 220 tăng ni và 80,000 Phật tư?. Trước tháng 3/1955, 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Khu Ủy Khu IV CS, nhưng sau đó được sát nhập vào Khu Ủy Khu V. Đến tháng 4/1966, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế được thành lập và trở thành khu biệt lập, trực thuộc Trung ương. Vùng này do Trung tư ớng CS Trần Văn Quang chỉ huy và Lê Tự Đồng, Bí Thư Khu Ủy lănh đạo. Trong các cuộc đấu tranh Vơ Đ́nh Cường, Nguyễn Trực,...đă nhận chỉ thị và kế hoạch của Khu Ủy này và đẩy TT Trí Quang và phong trào tranh đấu đi lên.

 

- Lư do thứ ba là ḷng căm thù Thiên Chúa Giáo đă được Phong Trào Văn Thân ở Huế khơi lên để làm động lực đấu tranh tư ` thời vua Tự Đức qua các đời Duy Tân, tới thời Hàm Nghi, vâ ~n c̣n âm ỉ trong ḷng một số thành phần cực đoan thuộc 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Trong thời kỳ này, người Công giáo đă bị tàn sát, lùng đuổi một cách vô cớ đến nỗi vua Tự Đức phải lên tiếng cảnh cáo Nhóm Văn Thân. Ḷng căm thù đươ .c ấp ủ đă bùng phát trở lại khi được cán bộ CS nằm vùng lợi dụng khơi động lên để làm động lực đấu tranh. Chế độ Ngô Đ́nh Diệm được cán bộ CS nằm vùng và nhóm PG cực đoan miền Trung đồng hóa với Thiên Chúa Giáo khi họ hô hào “diê .t dư đảng Cần Lao”, có nghĩa là diệt Công giáo hay ít ra loại người công giáo ra khỏi chính quyền.

 

Trong bối cảnh như vậy, CS đă tổ chức và điều động được nhóm PG cực doan này đi vào mục tiêu của họ. Sau này, trong Đại hội II của MTGPMN năm 1964, Nguyễn Hữu Thọ đă tuyên bố cuộc đấu tranh của PG tại miền Nam không tách rời cuộc đấu tranh “giải phóng dân tộc”. Tài liệu của VC sau 30/4/1975 cho thấy sau mỗi giai đoạn đấu tranh của nhóm trên đều có bản kiểm điểm tổng kết của Khu Ủy Khu V hay Khu Trị - Thiên - Huế.

 

Pháp nạn 63

 

1.   Ngọn lửa Zippo:

 

Ngày 11/6/1963, vào khoảng 10 giờ sáng, những người qua đường hiếu kỳ dừng chân lại đông đảo ở ngă tư Phan Đ́nh Phùng và Lê Văn Duyệt, Saigon. Phía góc Ṭa Đại sứ Cao-Miên, bên lề đường Lê Văn Duyệt, một nhà sư mặc áo vàng ngồi trong tư thế kiết già lâm râm tụng niệm. Khi cảnh sát hay tin kéo tới th́ 50 nhà sư khác mặc áo vàng vừa gơ mơ vừa tụng kinh bao quanh nhà sư ngồi ở góc đường, làm thành một ṿng tṛn lớn. 2 b́nh xăng nhỏ được đưa đến. Một người đứng đợi sẵn chụp lấy, rưới xăng lên người nhà sư đang ngồi trên lề đường, từ vai trở xuống, rồi mở chiếc quẹt Zippo bật lửa châm ng̣i. Một đám cháy bùng lên cao khoảng 4m giữa tiếng kinh mơ vang rền. Các thông tín viên ngoại quốc được thông báo trước, đă có mặt tại chỗ, vừa chụp h́nh vừa quay phim. Ngày hôm sau, bản tin này cùng với h́nh ảnh được truyền đi khắp nơi trên thế giới.

 

Người bị thiêu là HT Thích Quảng Đức, một nhà sư trụ tŕ ở Chùa Quan Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận, Gia Định, có tên thật là Lâm Văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh, Vạn Ninh, tỉnh Khánh Ḥa. Lúc đó ông được 66 tuổi.

 

Vụ thiêu người này được tổ chức rất hoàn bị. HT Quảng Đức được chở đến địa điểm đă định bằng chiếc xe Austin, đi trên đường Phan Đ́nh Phùng, từ hướng Duy Tân tới. Khi đến góc Phan Đ́nh Phùng và Lê Văn Duyệt, xe giả vờ bị chết máy và ngưng lại, tất cả mọi người trên xe bước xuống, tài xế mở coffre xe trước chống lên và lom khom xem máy, trong khi những người khác đưa HT Quảng Đức đi qua bên kia đường và đặt vào vị thế đă định. Các sư tham dự cũng được chuyển bằng xe tới ngay sau đó, xuống xe và quay một ṿng tṛn xung quanh HT Quảng Đức. 2 b́nh xăng nhỏ được đem xuống và thực hiện đúng kế hoạch đă định. Mọi hành động đều được tiến hành một cách mau lẹ, cảnh sát không ngăn trở kịp. Mục tiêu của vụ thiêu người này là làm áp lực cho những đ̣i hỏi của PG trong các cuộc họp đang diễn ra giữa Ủy Ban Liên Phái PG và Ủy Ban Liên Bộ. Đây là chiến thuật vừa đánh vừa đàm của TT Trí Quang.

 

Khi thiêu HT Quảng Đức xong, người ta thấy chiếc xe Austin mở coffre vẫn đang đậu bên kia gốc đường, phía chợ Đủi. Theo các phóng viên th́ họ nhận ra ngay chiếc xe đó là của Trần Quang Thuận. Những chứng kiến nội vụ ngay từ đầu cho các kư giả biết người chở HT Quảng Đức đến địa điểm chỉ định, rưới xăng và bật lửa đốt vị sư là Nguyễn Công Hoan.

 

Nguyễn Công Hoan quê ở Tuy An, Phú Yên. Cha là cán bộ CS tập kết ra Bắc năm 1954. Về sau, NCH trở thành dân biểu đơn vị Phú Yên thời Đệ II Cộng Ḥa, do PG đưa ra. Mặc dầu đă có vợ con ở Phú Yên, khi làm dân biểu, NCH đă tằng tịu với cô Đoan Khánh, kư giả báo Trắng Đen. Cô này chuyên săn tin ở Thượng và Hạ nghị viện. 2 người lấy nhau và có một đứa con. Sau khi VC chiếm miền Nam, nhiều người thắc mắc không hiểu sao NCH khô ng đi học tập cải tạo như các dân biểu và nghị sĩ khác của VNCH. NCH chỉ dự một khoá chỉnh huấn ngắn hạn mà thôi. Đến năm 1976, khi NCH được Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra làm đại biểu Quốc hội đơn vị Phú Khánh, người ta mới biết NCH là cán bộ nội tuyến của VC. Bỗng dưng đến năm 1980, NCH vượt biên qua Phi Luật Tân, sau đó đến Hoa Kỳ và được HT Thích Nhất Hạnh giao coi sóc Nhà xuất bản Lá Bối ở San José, California. NCH đă đi giao dịch với nhóm Trương Như Tảng, Hoàng Văn Hoan trong khi làm việc ở nhà xuất bản này. Lai lịch của NCH bị báo chí ở San José phanh phuị Bị tố cáo là thành phần phản gián. NCH phải bỏ đi nơi khác. Sau 30/4/1975, NCH và cô Đoan Khánh đă bỏ nhau. Cô Đoan Khánh cũng qua được Hoa Kỳ.

 

Mọi việc thông tin cho các kư giả ngoại quốc đều do Đại Đức Thích Đức Nghiệp và Trần Quang Thuận phụ trách. Đại Đức Đức Nghiệp là mối dây liên lạc chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và PG trong thời gian hoạch định kế hoạch lật đổ TT Diệm. Mọi kế hoạch hành động đều được ông thông báo cho nhân viên Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ.

 

2.   Mổ bụng, cắt cổ tự sát:

 

Trong cuốn “Viêt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử”, HT Thích Tuệ Giác kể lại câu chuyện xảy ra ở Phan Thiết là vào lúc 5 giờ sáng 17/10/1963, Tỳ Kheo Thích Pháp Quảng đi xích lô đến bia đài ở Phan Thiết, đứng quay về hướng Tây lạy ba lạy và niệm Phật chừng 3 phút. Xong phần nghi lễ, ông nằm ngữa xuống đất, gối đầu vào bậc cấp chót của bia đài, lấy thư tuyệt mạng đặt một bên, rồi rút dao ra rạch bụng. Câu chuyện được mô tả nguyên văn như sau:

 

Thầy rạch lần thứ nhất từ trái qua phải cách rún chừng 2 cm. Nh́n lại thấy chưa lủng thấu bụng. Thầy rạch lát thứ nh́ từ hông trái đến rún, lần thứ ba từ rún ra hông phải, lần thứ 4 rồi lần thứ 5, nhưng da cứ dùn lại và đứt ra ngoài. Lần sau cùng, Thầy đưa cao tay đâm xuống chứ không rạch như lần trươ 'c. Nhưng lạ lùng thay da chỉ lún xuống, rạch (rách?) rất ít mà không lủng thấu ruột để Thầy cắt một khúc dâng lên cho Vị Tổng Thống độc tài hầu thức tỉnh ḷng người...

 

Mổ bụng không thành, Thầy quay ngược dao lên cắt cổ, một tay giữ lấy cuống họng, một tay cầm dao cựa mạnh dưới xương quai hàm. Máu vọt nóng cả tay, xịt có ṿi ra mang tai, bắn lên đầu, cuống họng đứt ĺa. Thầy buông dao nằm chờ chết...

 

“Thấy máu không c̣n vọt ra thành ṿi, Thầy đưa tay móc những máu ứ vứt ra ngoài...”

 

Đại Đức Thích Pháp Quảng có tên thật là Lê Tuất, sinh năm 1933 tại B́nh Thuận, tu ở chùa Am Bát Nhă, Quận Ḥa Đa, tỉnh B́nh Thuận.

 

3.   Ng̣i thuốc súng: hạn chế việc treo cờ các tôn giáo:

 

Ngày 7/5/1963, trước ngày lễ Phật Đản một ngày, dân chúng Huế đang sửa soạn mừng lễ th́ cảnh sát Huế nhận được lệnh của Phủ Tổng Thống ra lệnh cho các tôn giáo chỉ được treo cờ tôn giáo trong phạm vi cơ sở tôn giáo mà thôi, ở ngoài các cơ sở này chỉ được treo cờ quốc giạ V́ vậy cảnh sát đă yêu cầu dân chúng bỏ cờ PG phía bên ngoài các cơ sở tôn giáo. đị Lê .nh này được ban hành sát ngày lễ Phật Đản nên được hiểu như là một biện pháp nhằm “triệt hạ” cờ PG. Nhiều tín đồ PG kéo tới gặp ông Nguyễn Văn Đẳng, một Phật tử, Tỉnh trưởng Thừa Thiên, yêu cầu giải quyết. Ông Đẳng nói rằng cảnh sát đă hiểu lầm lệnh của cấp trên nên ra lệnh cho treo cờ lại.

 

Mặc dầu lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo được tạm thu hồi kịp thời, sáng hôm sau, 8/5/1963, trong cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm lúc 6 giờ 30, người ta thấy xuát hiện các biểu ngữ chống chính quyền đă được trương lên. Trong lễ Phật Đản được tổ chức tại chùa Từ Đàm, TT Trí Quang đứng lên thuyết pháp đă phản đối mạnh mẽ quyết định cấm treo cờ PG và yêu cầu thi hành chính sách b́nh đẳng tôn giáo.

 

Tuy quyết định cấm treo cờ tôn giáo ngoài các cơ sở tôn giáo được áp dụng chung cho mọi tôn giáo, nhưng được công bố sát ngày lễ Phật Đản nên được hiểu là có mục đích nhắm vào PG. Thật ra, quyết định hạn chế việc treo cờ tôn giáo của chính quyền không có lư do chính đáng, v́ việc treo cờ tôn giáo khắp nơi không phương hại ǵ đến “sự tôn trọng quốc kỳ” cả. Một nguồn tin nói rằng quyết định hạn chế việc treo cờ này là ư kiến của TGM Ngô Đ́nh Thục ở Huế. Tuy nhiên theo “Bên gịng lịch sử” của Linh mục Cao văn Luận th́ chỉ thị này đă được Ngô Đ́nh Cẩn cản lại cho tới sau Lễ Phật Đản theo lời đề nghị của Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng. Mặt khác, có vài dấu hiệu cho thấy việc hạ cờ Phật giáo Quốc tế vài nơi ở Huế là do vài kẻ phá hoại làm ra để gây khích động. Nhưng dù sao đi nữa đây vẫn là một sự kiện cho thấy chính phủ của ông Diệm đă không thận trọng trong vấn đề này.

 

4.   Những bí ẩn của vụ nổ trước Đài phát thanh Huế:

 

8 giờ tối 8/5/1963, một số đông đảo Phật tử tập trung trước đài phát thanh Huế yêu cầu phát thanh lại các bài thuyết giảng trong lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm vào buổi sáng, nhưng các nhân viên đài phát thanh từ chối v́ trong đó có bài thuyết pháp của TT Trí Quang chống đối chính quyền. Ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên đă phải cùng TT Trí Quang đến đài phát thanh Huế để giải quyết vấn đề. Trong lúc 2 bên đang nói chuyện th́ có tiếng nổ lớn trước đài phát thanh Huế làm số thường dâ n chết, bị thương và 5 binh sĩ bị thương.

 

Hôm sau, các tăng ni ở Huế đă loan báo đi khắp nơi rằng Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh trưởng Nội an kiêm Tiểu Khu Trưởng Tiê?u khu Thừa Thiên đă ra lệnh bắn súng, ném lựu đạn và cho xe tăng cán lên các Phật tử tập trung trước đài phát thanh Huế, máu chảy lênh láng.

 

Trong cuốn “Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử”, HT Thích Tuệ Giác có ghi như sau:

 

“Sau đó Thiếu tá Đặng Sĩ ra lệnh đại bác bắn nhiều phát đạn mă tử. PG đồ hoàn toàn náo động, tiếp đến là lựu đạn cay, lựu đạn nổ và súng trường bắn xả vào PG đồ. Một số chen lấn chạy tháo lui, một số khác chen lấn chạy vào đài phát thanh núp trốn. Ông Tỉnh trưởng kêu gọi ngưng bắn nhưng Bảo An đă không tuân lệnh và c̣n cho xe thiết giáp tuôn chạy vào đám đông. Cuối cùng ông Tỉn trưởng và TT Trí Quang vào đài phát thanh: 15' sau, kiểm diểm lại, chúng tôi thấy đài phát thanh hư hại và cánh cửa bên ngoài, và 3 xe Hồng Thập Tự chất đầy một số đông đạo hữu, máu me đầy người, chạy vào bệnh viện Huế.

 

“4 người bị thương và 8 người bị giết bằng súng, lựu đạn và xe thiết giáp cán. Trong số 8 người chết có 6 Thanh , Thiếu nhi, 2 em bị cán mất nữa đầu, một em bị cán mất đầu, xương sọ bị vụn tan không nh́n được mặt và một em bị mất hẳn đầu”.

 

Trong cuốn III của Bộ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) cũng ghi lại:

 

“Thiếu tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh Trưởng Nội An và Tiểu Khu Trươ?ng Thừa Thiên, huy động lực lượng thiết giáp Bảo An, đại bác quân cảnh, hiến binh và cảnh sát thành phố tới vây quanh đám quần chúng mà họ gọi là đám biểu t́nh...

 

“Thiếu tá Đặng Sĩ ra lệnh bắn đạn mă tử khiến đám đông náo đọng. Lựu đạn cay, lựu đạn nổ được tung vào. Đồng thời súng trường và xe thiết giáp được xử dụng vào việc đàn áp. Lúc đó là đúng 9 giờ rưỡi tối. Tiếng la hét của quần chúng át cả tiếng súng và tiếng đạn.

 

“Một số người ra về nửa chừng nghe tiếng la hét và tiếng súng nổ, đă quay trở lại đá phát thanh để t́m hiểu. Họ bị các xe thiết giáp chận lại. Khi thiền sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng từ trong đài phát thanh ra tới th́ máu đă đổ: 8 ngươ `i đă thiệt mạn v́ lựu đạn và 4 người bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, sọ em nát vụn. Một thiếu nhi khác bị cán mất nửa đầu và một em khác mất hẵn nữa đầu. Xe Hồng thạp tự được gởi tới để mang những người bị thư ơng về bệnh viện...”

 

Cho đến nay, các sử gia PG đều cố t́nh viết theo chiều hướng đó. Chỉ riêng HH Thích Tâm Châu đă tŕnh bày vấn đề một cách dè dặt hơn. Trong cuốn Bạch Thư công bố ngày 31/12/1993, ô ng viết:

 

“Thông lệ, mỗi kỳ Phật Đản tại Huế, cuốn băng ghi lại buổi lễ Phật Đản được cho phát thanh lại trên đài phát thanh Huế vào 8 giờ tối. Năm nay, lễ PD, có đoạn ghi lại lời tranh đấu chống chính phủ, nên đá phát thanh Huế không dám phát. Quần chúng Phật tử quanh vùng Huế chờ đợi phát thanh về PD không được, lũ lượt kéo nhau tới đài phát thanh mỗi lúc một đô ng, chính quyền địa phương lo sợ về sự biểu t́nh, Thiếu tá Đặng Sĩ PHó TT Nội an Thừa Thiên kie>m Tiểu Khu trưởng ra lệnh giải tán. Đột nhiên có tiếng nổ, làm 8 em Phật tử chết và một số bị thương. Do đó trở thành cuộc đấu tranh lớn”.

 

Xem xét tại hiện trường, các nạn nhân bị chết ngay sát góc cửa vào đài phát thanh. Mặt khác, sau khi tai nạn xảy ra, Bửu Thắng, một công an viên gác đầu cầu Trường Tiền, ở phía dưới, gâ `n sát đài phát thanh, có báo cáo rằng anh ta thấy một vệt sáng chạy dài từ sát gốc bên phải đài phát thanh, bay qua trên đầu những người đang tụ tập, xéo xuống trước cửa đài phát thanh, sau đó là một tiếng nổ lớn phát rạ Khi các chuyên viên về vơ khí tới xem hiện trường th́ không lượm được mảnh chất nổ nào. Ở dưới nền nhà, sát góc cửa, có một lổ thủng bằng cái chén. Các cửa kín của đài phát thanh đều bị vỡ, nhưng cửa gỗ vẫn c̣n nguyên vẹn. Các chuyên viên kết luâ .n rằng đây là một chất nổ bằng hơi có sức công phá mạnh.

 

Người đă giải phẫu và khám tử thi các nạn nhân cũng như những người bị thương trong đêm 8/5/1963 là BS Lê Khắc Quyến, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, “đồng chí” của TT Trí Quang, đă ghi trong biên bản rằng không có vết đạn, vết đả thương hay xe cán,...trên cơ thể nạn nhân. Các nạn nhân bị chết hay bị thương do một chất nổ bằng hơi cực mạnh. Ngày 11/7/1963, Ủy Ban Liên Bộ đă thông báo cho Ủy Ban Liên Phái PG kết quả cuộc khám nghiệm và nói rằng các nạn nhân có thể đă bị chết do chất nổ của VC. Nhưng phía PG không chấp nhận lối kết luận này. Trong phần ghi chú ở Chương XXXVIII của Bộ “Việt Nam Giáo Sử Luận”, Tập III, Nguyễn Lang có nói rằng BS Lê Khắc Quyến bị ép buộc nên phải kư biên bản như trên.

 

Sau khi chế độ NĐD bị lật đổ, Ṭa Án Cách Mạng được thành lập để xét xử vụ án Thiếu tá Đặng Sĩ. Trong phiên xử kéo dài từ 2-8/6/1964, các chuyên viên về vũ khí đă xác nhận chất nổ được xử dụng trong đêm 8/5/1963 trước đài phát thanh Huế là một chất nổ bằng plastic cực mạnh, Quân lực VNCH chưa hề được cung cấp. Thỉnh thoảng VC có xử dụng loại chất nổ này, nhưng chưa có loại nào có độ mạnh như vậy. Đồng thời BS Lê Khắc Quyến cũng xác nhận một lần nữa là những điều ông đă ghi trong y chứng thư lúc trước hoàn toàn đúng sự thật. Lần này chắc không ai bắt BS Lê Khắc Quyến nói dối.

 

Ngày 25/10/1963, do lời yêu cầu của Đại Đức Thích Nhất Hạnh, một ủy ban Liên Hiệp Quốc đă đến Việt Nam điều tra về vụ PG. Sau khi điều tra tại chỗ họ cũng xác định rằng các nạn nhâ n bị chết không phải do lựu đạn mà do một chất nổ plastic.

 

Như thế chỉ có Nguyễn Lang và HT Thích Tuệ Giác là những người nói dối.

 

Ngoài ra, các chuyên viên về chất nổ c̣n cho biết ngoài đặc công CS th́ CIA cũng xử dụng loại chất nổ này, nhưng chỉ trao cho các biệt kích trước khi lên đường ra Bắc để phá hoại các công sự và cơ sở quân sự của Bắc Việt mà thôi. Đây là loại vũ khí mà Mỹ chưa giao cho Quân lực VNCH xử dụng tại miền Nam.

 

Trong phiên ṭa xử vụ Đặng Sĩ, chính ông Đặng Phong, Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia Thừa Thiên, đă tiết lộ rằng cuộc điều tra của Cảnh sát sau vụ nổ cho thấy 2 nhân viên của cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ là Scott (người điều hành cơ quan CIA tại Thừa Thiên lúc đó) và Bell (người tổ chức các chương tŕnh đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc ở phía Bắc Trung Phần) có dính líu đến vụ cung cấp chất nổ này. Ông Mullen, Phó Lănh sự Hoa Kỳ tại Huế, đă liên lạc thường xuyên với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm, c̣n ông Elble, Lănh sự Hoa Kỳ tại Huế, thường đi theo các cuộc biểu t́nh của PG và công khai chống NĐD.

 

Nếu Bửu Thắng nói sự thật th́ trái chất nổ bằng plastic đă được châm ng̣i rồi ném ṿng tṛn qua đầu đám biểu t́nh đang đứng trên bậc thềm, và rơi ngay góc cửa ra vào của đài phát thanh. Nếu trái plastic rơi vào một khoảng trống th́ chỉ phát ra tiếng nổ chứ không gây tác hại nào cả. Nhưng khi trái plastic kia rơi vào sát góc tường, xung quanh lại có người đứng chen chúc chật ních, tạo thành sức ép nên mới công phá mạnh như thê '.

 

Các nhà phân tích đều tin rằng chính phủ NĐD, dù có loại chất nổ đó trong tay, cũng không ngu dại ǵ đem ra xử dụng trong trươ `ng hợp này để tự gây họa cho ḿnh. Trên thế giới, người ta chưa bao giờ thấy một cơ quan nào dùng chất nổ plastic để dẹp biểu t́nh. Như thế ai gây ra vụ nổ để giáng tai họa cho chế độ NĐD?

 

Luật sư Nguyễn Khắc Tân, người biện hộ cho Thiếu tá Đặng Sĩ, đă nghiên cứu hồ sơ vụ án Đạng Sĩ rất kỹ. Đặng Sĩ đă nói rằng những điều ghi trong bản cáo trạng của Ṭa Án Cách Mạng là đúng sự thật. Ông cho biết xe thiết giáp được xử dụng là xe thiết giáp bánh cao su chứ không phải xe thiết giáp bằng xích sắt. Ông chỉ ra lệnh dùng ṿi xịt nước để giải tán cuộc biểu t́nh và dùng súng bắn bằng đạn mă tử gây tiếng nỗ để áp đảo tinh thần mà thôi. Không hề có chuyện dùng súng có đạn thật, lựu đạn nổ hay cho xe tăng cán nát đầu các nạn nhân như các tăng sĩ chùa Từ Đàm đă công bố.

 

Không kết tội được Thiếu tá Đặng Sĩ (v́ các hồ sơ, phỏng vấn tại phiên ṭa không có bằng chứng nào để buộc tội) th́ trong phiên ṭa ngày 8/6/1964, Tướng Nguyễn Khánh vẫn ra lệnh cho Ṭa Án Cách Mạng tuyên án Đặng Sĩ chung thân khổ sai và bồi thường cho gia đ́nh nạn nhân 1,300,000 $. Tuy nhiên, trước khi Ṭa Tuyên Án, Chuẩn tướng Albert Nguyễn Cao, đại diện Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, có đến thông báo cho ĐGM Nguyễn văn B́nh, Linh mục Trần Tử Nhăn ở Ḍng Chúa Cứu Thế và gia đ́nh Đặng Sĩ biết đừng quan tâm đến bản án ṭa sẽ tuyên. Ṭa chỉ tuyên để thỏa măn đ̣i hỏi của PG mà thôi. Ông cho biết thêm, trong thời gian ngắn, khi t́nh h́nh lắng dịu, Đặng Sĩ sẽ được trả tự dọ Nhưng Đặng Sĩ đă phải ngồi tù oan đến 3 năm, 8 tháng , 10 ngày mới được phóng thích, v́ đến năm 1967, phong trào PG miền Trung mới được dẹp tan.

 

Lời xác định trước sau như một của BS Lê Khắc Quyến + xác nhận của chuyên viên chất nổ + Ủy ban điều tra LHQ + phiên ṭa của Ṭa Án Cách Mạng vẫn không đủ “nói lên sự thật”. Vậy sư . thật nằm ở đâu? Nó nằm trong 2 cuốn sách của HT Thích Tuệ Giác và của TT Thích Nhất Hạnh.

 

“Khi chính trị đi vào pháp đ́nh th́ công lư ra đi” hay “Khi tôn giáo đi vào pháp đ́nh th́ công lư cũng bỏ chạy”.

 

5.   Tuyên ngôn 5 điểm của PG:

 

Sau biến cố đêm 8/5/1963 th́ PG liền phát động chiến dịch kích động quần chúng để đấu tranh. Ngày 10/5/1963, các nhà lănh đạo PG ở Huế họp tại chùa Từ Đàm và ra một tuyên ngôn gồm 5 điểm như sau:

 

§ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.

§ Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đă được ghi trong Dụ Số 10.

§ Yêu cầu chính phủ chấm dứt t́nh trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.

§ Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo.

§ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải dền tội xứng đáng.

 

Tuyên ngôn này do 5 tông phái sau đây đứng tên: Tổng Hội PGVN, Giáo Hội Tăng Già Trung Phần, Hội PG tại Trung phần, GH Tăng Già Thừa Thiên và Tỉnh Hội PG Thừa Thiên.

 

Nh́n 5 nguyện vọng này của PG, ai cũng thấy việc giải quyết không có ǵ khó khăn:

 

- Quyết định hạn chế treo cờ tôn giáo ngoài cơ sở tôn giáo có thể được thu hồi hay sửa đổi lại dễ dàng. Sau khi xảy ra vụ rối loạn ở Huế, TT Diệm có mời ông Mai Thọ Truyền và 1 linh mục đại diện Ṭa TGM Saigon đến họp tại Dinh Gia Long để thảo luận.. TT Diệm nói rằng trong mọi trường hợp, cần phải dành cho quốc kỳ một vị thế xứng đáng. Vậy phải quy định cách treo cờ như thế nào để quốc kỳ luôn được tôn trọng. Linh mục đại diện Công giáo th́ đề nghị khi treo song song cờ tôn giáo với quốc kỳ th́ nên làm cờ tôn giáo nhỏ hơn chút. TT Diê .m yêu cầu ông Mai Thọ Truyền cho ư kiến th́ ông MTT trả lời ră `ng bên Công giáo làm thế nào th́ bên Phật giáo cũng làm như vâ .ỵ Vấn đề kể như đă giải quyết xong.

 

- Dụ Số 10 ngày 6/8/1950 ấn định thể lệ lập hội do Bảo Đại ban hành chứ không do chính Phủ NĐD. Dụ này có dự liệu rằng sẽ có các thể lệ đặc biệt cho các hội truyền giáo TCG cùng các Hoa Kiều Lư Sự Hội. Dụ này sở dĩ không đề cập đến các tôn giáo khác v́ tại VN, từ trước cho đến ngày ban hành Dụ đó, các tôn giáo khác không lập thành Giáo hội. Đặc biệt, PG lại có rất nhiều tông phái, mỗi tông phái có một lối sinh hoạt riêng, rất khó tiến tới một giáo hội duy nhất. Tổng Hô .i PGVN được thành lập ngày 6/5/1951 tại Huế sau Dụ Số 10 ban hành, cũng chỉ mới dự liệu sẽ thống nhất PG chia làm 2 giai đoạn, chứ chưa thống nhất thật sự. Trong t́nh trạng như thế, Dụ Số 10 của Bảo Đại không đề cập đến PG v́ PG chưa thống nhất thành 1 giáo hội. Riêng TCG đă lập thành 1 giáo hội từ lâu. Riêng GHCGVN được chia thành từng giáo phận, mỗi giáo phâ .n lại được chia thành các giáo xứ có địa hạt rơ ràng. Về phương diện tổ chức nội bộ, Giáo hội La Mă có một bộ giáo luật (canon) chung cho tổ chức giáo hội trên toàn thế giới. Mỗi giáo phận lại có luật giáo phận (directory) dành cho địa phương theo mẫu hướng dẫn của ṭa thánh. Các đơn vị tổ chư 'c này có cơ cấu hành chánh và tài chánh chặt chẽ, nên cần có một quy chế pháp lư để việc điều hành không bị lạm dụng. Các Hoa Kiều Lư Sự Hội cũng đă có cơ cấu tổ chức từ lâu. Do đó, Dụ Số 10 dự liệu sẽ có 1 quy chế riêng cho TCG và các Hoa Kiều Lư Sự Hội. Nếu PG lúc đó kết thành một giáo hội duy nhất th́ Dụ Số 10 cũng sẽ đề cập tới.

 

Tuy Dụ Số 10 có dự liệu như thế, nhưng thật ra 13 năm sau đó, quy chế này vẫn chưa được áp dụng cho TCG. Đúng ra Ủy Ban Liên Phái PG chỉ nên đề nghị làm một quy chế chung cho mọi tôn giáo thay v́ chỉ làm riêng cho TCG như đă dự liệu trong Dụ Số 10 th́ hợp lư hơn, v́ PG cũng đang h́nh thành một giáo hội.

 

Mặt khác, quan niệm quy chế tôn giáo là một thứ “quyền lợi” cũng là một quan niệm sai lầm. Kinh nghiệm cho thấy, sau khi chính phủ NĐD bị lật đổ, một số Giáo phái PG đă vội thành lập Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất, biểu quyết một Hiến Chươ ng vào ngày 4/1/1964, rồi ép buộc Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng phải duyệt y Hiến Chương đó bằng một đạo luật, đó là Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14.5.1964. GHPGVNTN tuyên bố đă d+ợc măn nguyện. Nhưng xét về hiệu quả pháp lư, GHPGVNTN có được hươ?ng quyền lợi ǵ hơn Tổng Hội PGVN bị chi phối bởi Dụ Số 10 không? Chắc chắn là không?. Trái lại, GHPGVNTN đă gặp rất nhiều khó khăn về pháp lư không giải quyết được do các văn kiện đó gây ra và cuối cùng bị vỡ ra làm 2. Trong khi đó, quy chế dành riêng cho TCG dù chưa được ban hành nhưng họ không đ̣i hỏi ǵ cả. Khi CS chiếm miền Nam th́ CS đă t́m cách đàn áp các tôn giáo, kể cả PG. CS dùng thủ đoạn để phá vỡ các tổ chức tôn giáo. Đối với PG, CS đă lập riêng ra GHPGVN (quốc doanh) và dùng nó để nuốt trôi GHPGAQ. Các vị sư tăng miền Trung phái  'n Quang đă bị CS phản bội. Kẻ thù của họ thật ra không phải là TCG mà chính là CS.

 

Hiện nay, ở VNCS đang có một quy chế chung cho các tôn giáo, đó là Nghị Định số 69-HDBT ngày 21/3/1991, nhưng các giáo hội không những không hưởng được “quyền lợi” ǵ do quy chế đó đem lại mà c̣n bị khốn khổ v́ nó. Như vậy sự tồn vong và phát triển của một tôn giáo không tùy thuộc vào quy chế của “đời” ban hành mà chính là tín lư, tổ chức và ḷng tin của tín đồ. Người ta đă đem tôn giáo ra làm công cụ của chính trị mà không lo tổ chức, lo hoằng dương đạo pháp như thời Lư-Trần mà chỉ lo làm chính trị, lo biểu t́nh, thích bạo động, gây hận thù, cư .c doan, cấu kết với CS trong khi ư thức chính trị c̣n quá yê 'u,...rốt cuộc đă làm cho một giáo hội phôi thai phải tan tác. PG phải cần có một vị chân tu chuyên tâm lo phát dương Phật giáo khắp cả VN, biết tổ chức, thương chúng tăng, biết cởi mở để cùng các tôn giáo khác giúp dân tộc tiến tới hoàn thiện, chớ không đưa họ vào ḷ lửa. Vị thiền sư này đang ở đâu?

 

Tóm lại Dụ Số 10 do Bảo Đại ban hành năm 1950 không hề mang màu sắc kỳ thị tôn giáo và không gây ảnh hưởng ǵ tới sự phát triển và tồn vong của PG. Như thế Dụ Số 10 chỉ là một h́nh thức, một quy chế pháp lư để việc điều hành không bị lạm dụng. Trong vấn đề này, PG lại coi đó như là một văn kiện kỳ thị tôn giáo.

 

- Về 3 đ̣i hỏi sau cùng, ta thấy rằng vấn đề yêu cầu để các tăng ni tự do hành đạo và truyền đạo thiếu căn bản thực tế. Trong 100 năm qua, ngoại trừ dưới chế độ CS, người ta chưa hề thấy bất cứ một chính phủ nào tại VN, kể cả dưới thời Pháp thuộc lại đi ngăn cản không cho PG hành đạo và truyền đạo.

 

Trong bài “Dân tộc và Phật giáo cuối thế kỷ 20” đăng trên Bông Sen số 17, sử gia Lư Khôi Việt đă nhận định:

 

“Chính trị VN suốt 100 năm nay, đă dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ư nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đăi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ư nói Công giáo)”.

 

Nhận định của ông không đúng với thực tế. Trong cuốn “Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử” do nhà xuất bản Hoa Nghiêm ấn hành tháng 10/1964, TT Thích Tuệ Giác đă liệt kê vô số thành quả của PGVN đă đạt được từ 1920-1964, và ông kết luận:

 

“Phải nói rằng từ năm 1920 đến hết năm 1956, PGVN thật là một thời kỳ hưng thịnh. Số Phật tử càng ngày càng đông, các tổ chức thanh niên, sinh viên, học sinh Phật tử đều được sắp xê 'p quy củ.

 

“Các vị Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni đều là những vị có học vấn uyên bác, kinh sách đều được in ra rất nhiều, phổ biến rộng răi trong giới Phật tử và những người mộ đạo Phật”.

 

Những thành quả mà PG đă đạt được từ thời Pháp thuộc tới nay đă được các sách vở và báo chí PG tán dương cho thấy sử gia Lư Khôi Việt nói láo. Để t́m hiểu thêm, ta có đi thể đi sâu về vấn đề này.

 

6.   Sự phát triển của PG dưới thời Pháp thuộc:

 

Các tài liệu lịch sử cho thấy dưới thời Pháp thuộc, PG không gặp khó khăn nào trong việc thi hành Phật sự cũng như phát triê?n đạo. Trái lại, chính quyền thuộc địa đă dành mọi sự dễ dàng cho việc phát triển PG đến mức giới nhà Nho phải nghi ngờ rằng Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo là một âm mưu nham hiểm của Toàn quyền Pierre Pasquier nhằm mê hoặc quần chúng bằng đạo Phật.

 

Pierre Pasquier được cử làm Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 4/ 10/1926, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông phải trở về Pháp vào ngày 16/5/1927. Ngày 23/8/1928 ông được cử trở lại làm Toàn Quyền Đông Dương lần thứ haị Ông đến VN nhận chức ngày 26/ 12/1928. Kể từ đó, ở Pháp cũng như ở VN, người ta bàn tán đến kế hoạch “Phục hưng Phật Giáo” của Pasquier. Ng+ời Pháp cũng như nhà Nho tin rằng, để đối phó với phong trào chống Pháp do giới nhà Nho phát động khắp nơi, Pasquier đă khuyến khích Phong trào phục hưng Phật Giáo, giúp đạo Phật phát triển mạnh để thu hút dân chúng, nhất là giới trí thức, chú tâm vào việc nghiên cứu và tu luyện Thiền để họ đừng tham gia các phong trào chống Pháp của nhà Nhọ Sự bàn tán tăng lên khi một vài nhân vật trong chính quyền thuộc địa bắt đầu được nhà cầm quyền Pháp giúp thành lập các hội PG như ông Trần Nguyên Chấn trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, ông Lê Dư trong Hội PG Bắc Kỳ, v.v... Về sau, số sĩ phu và các viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa tham gia vào cà'c Hội Phật Học ngày càng đông, trong số này người ta thấy nhiều nhân vật danh tiê 'ng như Ngô Văn Chương, Phạm Ngọc Vinh, Nguyễn văn Cần, Lê Đ́nh Thám, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc, Bùi Kỹ,...

 

Toàn quyền Pasquier chết trong một tai nạn máy bay vào ngày 15/1/ 1934.

 

Sự phát triển của PG nhờ sự giúp đở của các viên chức thuô .c địa cũng đă được ghi nhận trong báo chí của PG. Tờ Tiếng Chuông Sớm của PG số 1 ra ngày 15/5/1935, khi ban` về t́nh h́nh PG trong nước cũng dă nh́n nhận:

 

“Hiện nay, nhờ thế lực của các quan đại thần và của các bậc thượng lưu, hội đă lan tràn ra khắp Bắc Kỳ, đâu đâu cũng có chi bộ...”

 

Trước sự phát triển vượt bực của PG, Đảng Cộng Sản Đông Dương vội vàng công kích việc phục hưng này. Nghị Quyết Chính trị của Đại Hội Đảng CS Đông Dưong lần thứ nhất, họp từ 27- 31/3/1935 đă đề cập đến vấn đề này như sau:

 

“Cuộc vận động phổ biến và mở rộng tôn giáo như Đại Biểu Hội Nghị Chấn Hưng Phật Giáo ở Bắc Kỳ, lập trường dạy đạo Phật ở Cao Miên, cải lương đạo Phật...là những mưu đồ của đế quốc lấy mê tín che lấp tư tưởng giai cấp tranh đấu, để kéo quần chúng ra khỏi đường cách mạng tranh đấu”.

 

Nghị Quyết của Ban Trung Ương Đảng trong phiên họp từ 6-8/11/1939 c̣n đă kích PG nặng nề hơn:

 

“Đế quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đă t́m cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê hoặc quần chúng. Những hội chấn hưng PG ở Bắc-Nam -Trung do bọn hưu quan và địa chủ cầm đầu co kế hoạch của sở mật thám chính trị bày vẽ”.

 

Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập III, Nguyễn Lang đă ghi nhận nhiều phản ứng về sự phát triển nhanh của PG.

 

Cụ Phan Khôi đă nêu lại các nghi vấn về sự phát triển của đạo Phật đề cập trong tờ Tràng An:

 

“Chúng tôi không chuyên một tôn giáo nào hết. Có người lo nếu PG thịnh th́ VN sẽ trở nên lười, cho nên Pierre Pasquier Toàn Quyê `n là nhà chính trị nham hiểm, kư tên cho mấy hội Phật ở Đông Dương, làm mê họ bằng Phật Giáo. Chúng tôi không phải quan cố Toàn Quyền Pasquier, chúng tôi đâu biết được dụng ư của ngài”.

 

Phan Khôi chưa tin vào dụng ư của Toàn Quyền Pierre Pasquier khi giúp đở phong trào Chấn Hưng Phật Giáo, nhưng ông than phiền PG xứ ta không làm ǵ cả.

 

Cũng trong nỗi lo sợ đó, một số nhân sĩ và nhà báo đă lên tiếng cảnh giác. Trên các số nguyệt san Pháp Am phát hành trong năm 1937, nhiều kư giả đă dặt nghi vấn về phong trào PHPG. Kư giả Quôc Tri hỏi định phục hưng PG để tạo thế lực ứng phó vơ 'i thời cơ hay tạo thế lực cho bọ quen buôn thần bán thánh? Kư giả Đông Giao cho rằng PG chỉ lo cho tương lai, chớ không lo cho hiện tại. Tờ Tràng An th́ lại cho rằng đạo Phật chỉ nên dành cho người già (!).

 

Dù sao đi nữa trong thời kỳ Toàn Quyền Pasquier, Pháp đă dành nhiều sự ưu đăi để giúp đạo Phật phát triển khiến cho giơ 'i Nho sĩ và cả CS cũng ghen tức và họ chỉ trích, dèm pha PG như đă kể trên.

 

Trong khoảng thời gian này, các Hội Phật Học được thành lập khắp nơi và thực hiện được nhiều Phật sự quan trọng:

 

- Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học: do HT Thích Khánh Ḥa và một số cư sĩ thành lập năm 1931. Hội này đă xây một thư viện Phật Học gọi là Pháp Bảo Phương và một Phật Học Đường. Hô .i đi thỉnh Tục Tạng Kinh và Đại Tạng Kinh đem về thư viện.

 

- Long Xuyên Phật Giáo Liên Hữu Hội do các cư sĩ Trần Huệ Dinh, Nguyễn Văn Chân và Đặng Văn C̣n thành lập năm 1932.

 

- Hội An Nam Phật Học ở Huế do BS Lê Đ́nh Thám thành lập năm 1932 và ông là Hội Trưởng đầu tiên của hội này. Tại đây có một Trường An Nam Phât Học ở chùa Trúc Lâm do Lê Đ́nh Thám và Thích Mật Khế thành lập năm 1934, đă đào tạo nhiều tăng sĩ danh tiếng của PG như *Thích Trí Quang, *Thích Thiện Minh, Thích Trí Thủ, *Thích Mật Thể, Thích Thiện Ḥa, Thích Thiện Hoa, *Thích Huyền Quang, *Thich Minh Châu...các *HT Thích Trí Độ và *Thích Đôn Hậu đă từng làm giám đốc và giảng sư của Trường An Nam Phật Học..

 

Các tăng sĩ đă hoạt động cho CS hay có liên hệ ít nhiều với CS. V́ sao?

 

7.   Sự tương quan giữa PG và CSVN:

 

Sự liên hệ chặt chẽ giữa PG và CSVN được t́m thấy dễ dàng trong các tài liệu VC viết sau 30/4/1975, trong các bút kư của một số nhà lănh đạo PG hay sử gia miền Nam VN, trong các tài liệu của Hội nghị Thế giới về Tôn giáo và Ḥa b́nh (WCRP) và Hội nghị Á châu về Tôn giáo và Ḥa b́nh (ACRP), trong “Violations of Human Rights in The Socialist Republic of VN” của Aurora Foundation năm 1989 và trong các tài liệu của các tổ chức bảo vệ nhân quyền khác như Amnesty International,v.v... Sự liên hệ này được t́m thấy ngay cả trên các sách báo của cac tăng sĩ hay cư sĩ PGVN xuất bản.

 

Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo và Tổng Nha Cảnh Sát VNCH trước đây cũng có hồ sơ đầy đủ chi tiết về các tăng sĩ và cư sĩ PG đi theo hay hoạt động cho CS. Riêng các tài liệu liên hệ đê 'n TT Trí Quang và TT Minh Châu đă có lần được đem tŕnh bày cho một vài kư giả ngoại quốc và VN cũng như một số nghị sĩ và dân biểu thân chính quyền tại Quốc hội Saigon trong một buổi họp kín khi những người này nêu thắc mắc về hành động của chính phủ VNCH đối với những hoạt động của PG. Được hỏi tại sao không bắt những người hoạt động cho VC, viên chức tiê 't lộ tài liệu đă nêu 2 lư do: (1) Mọi hành động liên hệ đê 'n tôn giáo đều phải được tính toán một cách thận trọng để tránh những phản ứng bất lợi về chính trị. Chỉ khi nào quá cần mới bắt. (2) Duy tŕ t́nh trạng đó để theo dơi các hoạt động nội thành của CS nhất là trong khối PGAQ. Phá một đươ `ng dây th́ dễ nhưng móc nối lại để theo dơi th́ rất khó.

 

Thử t́m hiểu mánh khoé của HCM. Ngày 19/5/1941, tại Pác-Bó, Cao Bằng, HCM tuyên bố thành lập Mặt Trận Việt Minh (MTVM). Mặt trận này được thành lập căn cứ vào Nghị Quyết của Hội Nghị Trung Ương lần VIII của Đảng CS Đông Dương (CSĐD) họp vào đầu tháng 5/1941. Theo Nghị Quyết này, MTVM sẽ quy tụ CÁC HỘI CỨU QUỐC. Đảng CSĐD được coi là một đoàn thể cứu quốc nên là thành viên của Mặt Trận này và có trách nhiệm lănh đạo Mặt Trận.

 

Trong danh sách các hội cứu quốc của MTVM, người ta thấy có Hội Công Dân Cứu Quốc, Hội Nông Dân Cứu Quốc, Hội Thanh Niên Cứu Quốc, Hội Phụ Nữ Cứu Quốc, Hội Phụ Lăo Cứu Quốc, Hội Nhi Đồng Cứu Quốc,.v.v... Về tôn giáo, người ta chỉ thấy có Hội Phật Giáo Cứu Quốc mà không thấy có Hội Cao Đài Cứu Quốc, Hội Phật Giáo Ḥa Hảo Cứu Quốc hay Hội Công Giáo Cứu Quốc. Tại sao? Sẽ bàn sau.

 

Tháng 8/1945, khi mới cướp được chính quyền, thế lực c̣n yếu, HCM đă t́m cách ve văn các tôn giáo để thu hút các tôn giáo đứng vào MTVM. Nhân dịp lễ Giáng Sinh, lễ Phật Đản hay Rằm Tháng 7, HCM thường gởi thông điệp chúc mừng các tín đồ liên hệ.

 

Mặc dầu được ve văn, các giáo sĩ Công giáo đă không tham gia MTVM v́ biết mặt trận này là của CS. Trái lại, một số đông tăng sĩ PG đă gia nhập MTVM ngay từ khi mặt trận này thành lập và nhất là vào năm 1945 khi MTVM cướp chính quyền. Đa số các tăng sĩ gia nhập MTVM đều là người miền Trung, xuất thân từ Trường An Nam Phật Học ở Huế. Có lẽ họ đă chịu ảnh hưởng của 2 nhân vật quan trọng là HT Trí Độ (Giám đốc Trường An Nam Phật Học) và BS Lê Đ́nh Thám (Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học). Khi VM lên nắm chính quyền, HT Trí Độ được cử giữ chức Chủ Tịch Trung Ương Hội Phật Giáo Cứu Quốc, c̣n BS Lê Đ́nh Thám trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Miền Nam Trung Bộ. Một số tăng sĩ của 2 tổ chức trên đă vào chiấn khu hoạt động cho VM. Một số khác ở lại làm nội tuyến, thành lập những tổ chức ngoại vi nhằm giúp VC đánh bại phe Quốc gia và cùng với VC thiết lập chế độ CS. Nhưng khi hoàn thành sự nghiệp “giải phóng dân tộc”, CS đă quay lại thanh toán PG. Trong khi các tôn giáo khác đă nh́n ra dă tâm của CS ngay từ đầu th́ PG lại không nh́n thấy.

 

Ḥa Thượng Thích Thiện Chiếu:

 

Không biết tên thật, sinh năm 1898 tại Rạch Giá (?), tu ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Ông là người có kiến thức rộng, ở trong Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Chính ông là người đầu tiên đem Chủ Nghĩa CS vào PG và biến chùa Tam Bảo thành căn cứ địa của kháng chiến. Năm 1940, ông đi theo phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa của CS ở Hóc Môn, Gia Định. Đến năm 1942, ông bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo.. Năm 1945, Pháp bị Nhật đuổi, VC cướp chính quyền, ông được đưa về làm Tỉnh Ủy G̣ Công. Năm 1954, sau Hiệp định Geneva, ông theo VC ra Bắc. Củng cố xong miền bắc, HCM không dùng các thành phần tập kết ra Bắc nữa, ông được đưa vào Ủy Ban Xă Hội của Viện Triết Học rồi cho hưu trí. Ông chết tại Hà Nội vào ngày 23/8/1974.

 

Thượng Tọa Thích Mật Thể:

 

Ông có tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1921 tại làng Nguyệt Biều, Hương Thủy, Thừa Thiên. Ông theo học HT Thích Giác Tiên ở chùa Trúc Lâm, Huế. Ông có soạn bộ “Việt Nam Phật Giáo Sử Lược”. Ông thông thạo về Hán học. Về Tây học, ông học chưa tới nơi tới chốn, nhưng nhờ thông minh và chịu tự học, ông có kiến thứ rất khá.

 

Năm 1945, ông gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc và làm Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Thừa Thiên. Ông theo HT Trí Độ hoạt động tích cực cho VM. Nhờ ông và HT Trí Độ cổ vơ, rất nhiê `u tăng sĩ trong Hội An nam Phật Học đă gia nhập Hội PG Cứu Quốc. V́ công trạng của ông, năm 1946 ông đă được CS bố trí làm Đại Biểu Quốc Hội khoá Ị Ông là viên chức cao cấp đầu tiê n của PG tham gia tham gia chính quyền.

 

Khi quân Pháp trở lại chiếm Huế, ông theo VM tản cư ra Đồng Hới rối đến Vinh. Cùng đi với ông có Đại Đức Thích Thiện Mẫn. Trước khi đi, ông tập họp một số tăng sĩ tại chùa Thế Chí ở Đại Lộc, tỉnh Thừa Thiên, dặn ḍ những người này những công việc phải làm. Tham dự cuộc họp này có các Đại Đức Thích Đức Trạm, Thích Mẫn Giác, Thích Thiện Ân và 2 cư sĩ. Những người này sau đó đều trở về Huế. Trong thời gian chô 'ng Pháp, ông làm công tác hậu cần ở Liên Khu IV. Sau Hiệp định Geneva, ông không được CS miền Bắc tin dùng, ông quay lại phê b́nh chế độ nên bị quản chế ở Nghệ An. Nhiều người ơ? Nghệ An vào Nam cho biết ông phải lao động vất vả mới có ăn và chết năm 1961, lúc đó ông chỉ mới 49 tuổi.

 

Thích Mật Thể là người thông minh và ḥa nhă, không có tham vọng chính trị. Ông bị VC lừa nên theọ Khi ông khám phá ra sự gian dối của CS th́ đă muộn.

 

Ḥa Thượng Thích Trí Độ:

 

Ông tên thật là Nguyễn Kim Ba, sinh năm 1895 tại làng Phổ Trạch, An Nhơn, B́nh Định, thọ giới và xuất gia với HT Thích Trí Hải ở chùa Bích Liên, An Nhơn, B́nh Định, sau làm Giám đốc Trường An Nam Phật Học, Huế, và trụ tŕ chùa Trúc Lâm.

 

Ngày 19/8/1941, HCM thành lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, ông gia nhập ngay và làm Chủ tịch Trung Ương Hội Phật giáo Cứu quốc. V́ uy tín của ông trong Trường An Nam Phật Học ở Huế, Đảng Cộng Sản Đông Dương giao cho ông nhiệm vụ tổ chức hội cứu quốc trong hàng ngũ PG trên toàn quốc.

 

Năm 1945, khi Đảng CSĐD cướp chính quyền, HT Trí Độ đứng ra hô hào PG ủng hộ Cách Mạng. Ông dùng tờ Đuốc Tuệ của PG kêu gọi các tăng ni Phật tử tham gia các Hội Cứu Quốc. Đuốc Tuệ số ngày 30/8/1945 đă hô hào:”Tăng ni các hạt mau lập đoàn Tăng Già Cứu Quốc, theo mục đích mà tham gia vào cuộc cách mạng hiện thơ `i”.

 

Ngày 27/5/1946, HCM thành lập Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam để đánh lừa các tôn giáo và đảng phái quốc gia, ông là Ủy Viên Trung Ương của hội này.

 

Năm 1949, HCM thành lập Ban Vận Động Ḥa B́nh Thế Giới và cử cư sĩ Tâm Minh Lê Đ́nh Thám làm Chủ Tịch. Ông cũng nằm trong ban lănh đạo của tổ chức đó.

 

Ngày 5/3/1951, HCM sát nhập Mặt Trận Việt Minh với Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam để thành lập Mặt Trận Liên Việt, ông trở thành Ủy Viên Trung Ương của Mặt Trận Liên Việt.

 

Năm 1953, HCM lập Ủy Ban Bảo Vệ Ḥa B́nh Thế Giới, ông giữ chức Ủy Viên của Ủy Ban.

 

Sau khi chiếm được miền Bắc VN, VC đổi Mặt Trận Liên Việt thành Mặt Trận Tổ Quốc, ông làm Ủy Viên Trung Ương . Năm 1955, VC cho lập Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để quy gồm tất cả các tông phái PG miền Bắc vào Mặt Trận Tổ Quốc, ông là Chủ Tịch hội này từ 1955-1979, tức tới lúc ông qua đời. HT Thích Đức Nhuận (Bắc) là người kế vị ông.

 

HT Trí Độ là một đảng viên Đảng CSVN. Ông luôn luôn tuân hành các chỉ thị của Đảng trong công tác vận đông PG, không bao giờ có hành động tự phát hay sai lệch, v́ thế ông được đảng tín nhiệm. Trong thời gian hoạt động cho VC, ông được chọn làm đại biểu Quốc Hội các khóa 2, 3, 4, 5, 6 và là Ủy Viên Ban Thươ `ng Vụ Quốc Hội. Ông qua đời ngày 24/10/1979 tại Hà Nội, đươ .c Nhà nước ban Huân Chương Độc Lập hạng 3 và Huân Chương Kháng Chiến hạng 2.

 

Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu:

 

Ông tên thật là Diệp Thuần, sinh năm 1904 tại làng Xuân An, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông xuất gia năm 1927 và theo học với HT Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên ở Huế. Về sau ông là Giảng sư của Phật Học Đường Thừa Thiên và là Hội Trưởng Hội An Nam Phật Học.

 

Sau khi HT Thích Đôn Hậu qua đời ngày 23/4/1992, nhật báo Nhân Dân của Đảng CSVN ra ngày 25/4/1992 đă đăng một Tin Buồn của Quốc hội, Mặt Trận Tổ Quốc, Giáo Hội PGVN, Ban Trị Sự Tỉnh Hội PG Thừa Thiên Huế và Pháp Quyền, cho biết những thành tích mà HT đă đạt được trong công tác mà Đảng và Nhà nước giao phó như sau:

 

“HT Thích Đôn Hậu, sinh ngày 17/2/1905 tại xă Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

 

“Đại biểu Quốc hội khoá IV, nguyên Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, nguyên Ủy Viên Hội Đồng Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam, nguyên Phó Chủ Tịch Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh Việt Nam, nguyên Ủy Viên Thường Trực Hội PG Châu Á v́ Ḥa B́nh (ABCP), Phó Pháp Chủ Kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương GHPGVN.

 

“Huân Chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Độc Lập hạng 2, Huy chươ ng “v́ sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân”.

 

“Sau một thời gian bị bệnh nặng, đă được các giáo sư bác sĩ hết ḷng cứu chữa, nhưng v́ tuổi cao sức yếu, HT đă viên tịch tại chùa Thiên Mụ, thành phố Huế hồi 19 giờ 55 ngày 23/4/ 1992...

 

“Là nhà tu hành chân chính và giàu ḷng yêu nước, sau Cách Mạng Tháng 8 năm 1945, HT được mời trụ tŕ tại chùa Linh Mụ, thành phố Huế, giữ chức vụ Chủ Tịch Hội PG Cứu Quốc Trung Bộ kiêm Chủ Tịch Hội Phật Học tỉnh thừa Thiên.

 

“Năm 1947, HT bị thực dân Pháp bắt giữ một thời gian. Sau khi được tự do, HT lần lượt giữ chức vụ Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Học Trung Việt, Giám Luật của Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc, chủ nhiệm báo Liên Hoạ

 

“Từ năm 1963, HT là một trong những giáo phẩm cao cấp PG tham gia đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chế độ độc tài NĐD.

 

“Năm 1964, HT giữ chức Chánh Đại Diện miền Vạn Hạnh và tỉnh Thừa Thiên thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

 

“Từ năm 1968, HT ra vùng giải phóng tiếp tục tham dự sự nghiệp cứu nước và hành dương Phật pháp, HT được cử giữ nhiều chức vụ quan trong (như kể trên).

 

“Từ năm 1975, HT trở lại trụ tŕ chùa Linh Mụ lo việc hoành dươ ng Chánh Pháp và đảm nhận chức vụ Chánh Thư Kư Viện Tăng Thống, tiếp đó kiêm giữ chức Xử Lư Viện Tăng Thống (khi HT Thích Tịnh Khiết viên tịch vào năm 1977). Đầu năm 1980, HT là Cô ' Vấn Ban Vận Động Thống Nhất PG trong cả nước để thành lâ .p GHPGVN (quốc doanh).

 

“Tại Đại Hội Đại Biểu Thống Nhất PGVN tháng 11/1981, HT được chư tôn giáo phẩm và toàn thể đại biểu đại hội suy tôn làm Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh PGVN (quốc doanh)...”

 

Năm 1947, HT Đôn Hậu bị Pháp bắt và tra tấn, định đem đi bắn, may nhờ sự can thiệp của bà Từ Cung nên ông được thả rạ

 

Sau vụ VC tàn sát dân Huế năm Mậu Thân 1968, không ai biết HT Đô n Hậu đi đâu. Bổng nhiên đài phát thanh Hà Nội phát đi lời kêu gọi của HT Đôn Hậu, trong đó có lời phát biểu nổi danh mà ta đă biết ở các phần trước. Ông đă là VC nằm vùng kể từ năm 1963. Sau khi VC chiếm được miền Nam, ông trở lại Huế và giữ chức Chánh Thư Kư Viện Tăng Thống của Giáo Hội Ấn Quang. Ngày 31/1/1979, HT Thích Giác Nhiên, Viện Trưởng Viện Tăng Thống qua đời, HT Đôn Hậu kiêm Xử Lư Thường Vụ Viện Tăng Thống. Với tư cách này, ông đă cùng PGAQ sát nhập vào GHPG quốc doanh năm 1981 và giữ chức Phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật Hội Đồng Chứng Minh của Giáo hội quốc doanh.

 

Đám tang của HT Đôn Hậu được tổ chức rất trọng thể. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước kiêm Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc VN đứng ra làm Trưởng Ban Tổ Chức Tang Lễ. Đến tham dự tang lễ, ngoài LS Thọ c̣n có Nguyễn Quyết, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà nước, Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội, Phan Minh Tánh, Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương, Vũ Thắng, Ủy viên Trung ương đảng và các cấp lănh đạo chính quyền CS địa phương.

 

Các tăng ni ở Huế không muốn CS nhắc đến các chức vụ mà HT Đôn Hậu đă đảm nhận khi làm việc cho CS, nên đă căi qua căi lại, nhưng CS cứ vẫn cho công bố các chức vụ và huy chương của ông.

 

HT Đôn Hậu được coi là người ôn ḥa, chú trọng về việc đạo hơn đời, ăn nói ḥa nhă. Khi thuyết pháp hay tuyên bố, ông không hề xúc phạm các tôn giáo khác hay phe bất đồng chính kiến với PGAQ. Nhưng ông quá nhu nhược nên đă biến thành công cụ tốt của CS. Ông không phải là đảng viên và chỉ hoạt động trong các tổ chức ngoại vi của CS, nhưng ông đă hoàn thành mỹ măn các nhiệm vụ mà Đảng giao phó, kể cả việc đem PGAQ sát nhâ .p vào Giáo hội PG quốc doanh. Ông không hề có lời phản đối nào.

 

Một đoạn sau đây trong thư HT Đôn Hậu gởi nhà cầm quyền CS mà tạp chí Giao Điểm đă đăng cũng đủ thấy vai tṛ của ông trong công tác dân vận của CS:

 

“Kính thưa quư vị,

 

“Trước đây, tại Trường Sơn, khi được đề cử giữ chức Phó Chủ Tịch Trung Ương Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Ḥa B́nh Việt Nam, tôi có tŕnh bày nguyện vọng rằng, khi ḥa b́nh được lập lại, xin cho tôi trở về cương vị một tu sĩ thuần túy và đươ .c cơ quan chấp thuận. Nguyện vọng này cũng đă được Đại Diê .n Ủy Ban Thống Nhất tại Hà Nội đồng ư.

 

“Nhưng sau khi ḥa b́nh trở lại, v́ nhu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, tôi vẫn cố gắng tiếp tục công tác được giao phó bằng cả tâm huyết, và rồi sau đó cố gắng ra ứng cử Đại biểu Quốc hội....”

 

Những chức vụ ông đảm nhận trong chế độ CS cũng như trong GHPGAQ đều là hữu danh vô thực. Trong chế độ CS, ông chỉ thi hành mệnh lệnh của Đảng. Trong GHPGAQ, các TT Trí Quang và Thiện Minh đă mượn danh nghĩa của ông cũng như của HT Thích Tịnh Khiết để làm mưa làm gió. 2 đại lăo HT kia nhiều khi không biết ǵ cả.

 

GHPGAQ vẫn quả quyết HT Đôn hậu làm những công việc trái với quyền lợi của PGAQ là v́ có những cưỡng bức của VC: HT Đôn Hậu đă theo CS lâu năm và hơn nữa một vị đại lăo ḥa thượng như ông không lẽ đành chịu cúi đầu trước cưỡng bức sao?

 

Thượng Tọa Thích Thiện Minh:

 

Ông tên thật là Đỗ Xuân Hàng, sinh năm 1921 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Trường An Nam Phật Học ở Huế vào năm 1943, cùng khóa vơ 'i TT Trí Quang và cũng là học tṛ của TT Trí Độ. Pháp danh đâ `u tiên của ông là Thích Trí Nghiễm.

 

Năm 1945, ông tham gia Hội Phật Giáo Cứu Quốc của HT Trí Độ và giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Quảng Trị. Năm 1946, ông bị Pháp bắt tại Quảng Trị, nơi ông đang hoạt động cho VM. Ông bị quản thúc tại đây tới năm 1947 th́ được thả và trở lại chùa Từ Đàm ở Huế. Từ năm 1948, ông vào hoạt động ở Nha Trang và Đà Lạt. TT Thích Huyền Minh cho biết, trong thời gian này ông vừa hoạt động về Phật sự vừa tham gia các hoạt động của VM. Ông thường đến dự các phiên họp ở vùng VC kiê?m soát. Sau Hiệp định Geneva, ông hoạt động ở 2 nơi Nha Trang và chùa Từ Đàm Huế.

 

Trong Pháp nạn 63 ông là Trưởng Phái Đoàn Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo thương lượng với Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thợ Sau khi TT Diệm bị giết, ông cùng với TT Trí Quang thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc phát động đánh phá ở miền Trung. Đầu 4/ 1966, ông tuyên bố rằng sinh viên Saigon đă nhận 5 triệu đồng của chính phủ để không tham gia đấu tranh với PG. Ngày 13/4/1966 sinh viên 14 phân khoa Đại học Saigon họp báo yêu cầu ông đưa bă `ng chứng, nếu không đưa ra chứng cớ họ sẽ tuyệt thực 48 tiê 'ng đồng hồ để phản dối. Ngày 17/4/1966, ông gởi thơ nói ră `ng ông không tuyên bố như thế, đây chỉ là một sự hiểu lâ `m...

 

Lúc 10 giơ 30 ngày 1/6/1966, khi ông vừa đến trụ sở Tổng Hội Thanh Niên ở đường Công Lư th́ một kẻ lạ mặt ném lựu đạn và ông bị thương nặng. Vụ này không được GHPGAQ làm lớn chuyện như các vụ khác. Theo TT Huyền Minh th́ vụ này chỉ liên quan tới nội bộ, do những tranh chấp về tiền bạc và hành chánh. Điều này chứng tỏ có sự nứt rạn giữa ông và TT Trí Quang. Thông thường TT Trí Quang không từ bỏ bất cứ cơ hội nào để xách động quần chúng, nhưng lần này ông đă không khai thác vụ TT Thiện Minh bị mưu sát.

 

Sau khi các phong trào đấu tranh miền Trung bị dẹp tan, TT Thiện Minh bắt đầu đứng hẳn về lập trường của MTGPMN. Nhưng đô `ng thời sự nứt rạn giữa ông và TT Trí Quang càng trầm trọng. Năm 1968, ông tách ra khỏi tổ chức của TT Trí Quang và thành lập một tổ chức mới là Phật Xă Đảng (tức Đảng Xă Hội PG). Tuy nhiên, đảng này không thu hút được Phật tử v́ miền Nam không phải là địa bàn quen thuộc của ông. Từ năm 1969, ông bắt đầu di thuyết pháp khắp nơi, nhất là các tỉnh miền Tây, tố cáo sư . độc tài và tham nhũng của chính quyền; ông thường tố cáo mà không dẫn chứng rơ rệt các điều ông tố cáo. Chế độ mà ô ng cho là độc tài vẫn để ông được tự do đi đây đó “thuyết pháp”.

 

Ngày 25/2/1969, cơ quan an ninh lục soát Tịnh xá Quảng Đức, nơi TT Thiện Minh cư trú và hoạt động, t́m thấy một số vơ khí, tài liệu tuyên truyền cho VC và nhiều thanh niên trốn quân dịch. TT Thiện Minh bị bắt giữ và bị tuy tố ra ṭa. Trong phiên ṭa 15/3/ 1969, Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng III đă tuyên phạt ông 10 năm khổ sai và 5 năm cấm cố. Khi bản án vừa công bố th́ tại miê `n Bắc, Đài Hà Nội cho đọc một bản tuyên bố của HT Đôn Hậu, nhân danh Phó Chủ Tịch Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Ḥa B́nh, phản kháng vụ bắt giam TT Thiện Minh, kêu gọi Phật tử đứng lên lật đổ chính quyền miền Nam và lập một nội các “ḥa b́nh” để nói chuyện với MTGPMN. Nhờ Viện Hoá Đạo Ấn Quang can thiệp, vào 30/11/1969, ông được thạ Vụ TT Thiện Minh đă cho thâ 'y thế chống Cộng của các chính phủ VNCH đă bị PGAQ phá hoại; họ biết ai là thông đồng cùng VC để dâng miền Nam cho CS, nhưng không thể bắt. Ấy vậy mà PGAQ cứ một mặt cho các chế độ này là “độc tài, tàn ác”... Thật đáng buồn.

 

Hiệp định Paris vừa được kư kết ngày 27/1/1973, TT Thiện Minh đă ra thông bạch tuyên bố thành lập ngày Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc và giao cho LS Vũ Văn Mẫu làm Chủ tịch. Mục tiêu của lực lượng này là quy tụ các thành phần thân Cộng để đưa vào Hội Đồng Quốc Gia Ḥa Giải Ḥa Hợp dự liệu trong Hiệp định giúp VC chiếm đa số trong Hội Đồng.

 

Sau 30/4/1975, ông cùng TT Mẫn Giác tổ chức mừng “giải phóng” ngày 15/5/1975 và lễ sinh nhật HCM ngày 19/5/75. Nhưng sau khi mưu t́m sự thống nhất PG dưới quyền lănh đạo của GHAQ ông bị VC ngăn chặn; ông và một số tăng sĩ khối Ấn Quang quay lại chống đối. Sau vụ lục soát chùa AQ vào 6/4/1977, ông và một số tăng sĩ bị bắt. Lúc đầu ông bị giam ở công an, sau vào khám Chí Ḥa, rồi chuyển tới trại Hàm Tân ở B́nh Tuy và chết trong tù vào 10/1978. VC cho biết TT Thiện Minh chết v́ bịnh viêm năo tại trại Hàm Tân (nhưng vài tờ báo tại Hoa Kỳ th́ nói rằng ông bị tra tấn và chết tại trại thẩm vấn X4 ở đường Nguyễn Trăi Saigon, sau đó được đưa về hoá trang tại trại Hàm Tân; tin này chưa kiểm chứng được). Trước khi TT Thiện Minh qua đời, cụ Cao Huy Đính từ Bắc có ghé thăm và khuyên bảo ông. TT Thiện Minh biết ḿnh sắp chết nên đă than với cụ Đính:”Ḿnh đă lở đưa chúng nó vào th́ ḿnh phải chịu cái quả”. Cụ Đính đă nhờ nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn nói lại như thế khi cụ đến Hoa Kỳ.

 

TT Thiện Minh, xuất thân từ Trường An Nam Phật Học ở Huế, đư ợc coi là một người xuất sắc nhất, vượt xa TT Trí Quang. Ô ng có tài đối đáp mau lẹ nên thường được cử đi thương thuyết hay dự hội nghị quốc tế. Nhưng ông thuộc loại nóng tính và quá khích, có tinh thần PG cực đoan. Khi thuyết pháp hay tuyên bố, ông hay có luận điệu khiêu khích và thách đố. Ông cũng tỏ ra ganh ghét Công giáo.

 

TT Thiện Minh chỉ hoạt động trong các cơ quan ngoại vi của CS và tưởng rằng sau khi chiếm được miền Nam, PGAQ sẽ được ưu đăi và ông sẽ có địa vị ưu thắng. Sau 1975, khi ông nhận ra bộ mặt thật của CS th́ quá muộn.

 

Thượng Tọa Thích Minh Châu:

 

Sau 1975 Thượng Tọa Thích Minh Châu, cựu viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, đang hoạt động rất mạnh trong khối Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, một công cụ của CS. Ông đă gôm nhiều giáo sư hay giảng viên từ các trường Đại Học Saigon để dạy thêm tại các lớp Cao Cấp Phật Học, nhằm đào tạo một thế hệ tăng ni cho chế độ CS. Trong quá khứ, là một điệp viên nằm vùng cho CS, ông đă góp công không ít trong việc phá hoại VNCH. Việc ǵ đă đem 1 con người có kiến thức như thế lún sâu vào cơi ô trọc? Đây là một kinh nghiệm cho thấy khi con người đă bước chân vào cái tṛng CS th́ họ khó mà rút chân ra được. Khi chủ nghĩa CS nhập vào th́ tinh thần Bồ-Tát phải ra đị Thế hệ sau nên nghiền ngẫm để tránh hoạ diệt thân.

 

Thượng Tọa Thích Minh Châu tên thật là Đinh Văn Nam, sinh năm 1918 tại xă Kim Khê, huyện Nghi Lộc, Nghệ An -- cùng tỉnh với quê ngoại của Hồ Chí Minh (HCM được sinh ra và lớn lên tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An).

 

Nói về tính giai cấp th́ Đinh Văn Nam mang tính quí tộc phong kiến v́ xuất thân trong một gia đ́nh khoa bảng. Cha của Nam là ông Đinh Văn Chấp đậu tiến sĩ Hán học của nhà Nguyễn, có lẽ cùng thời với ông Huỳnh Thúc Kháng -- là một nhà nho tài giỏi, thông minh. Ông Chấp có nhiều vợ và 8 người con, theo thứ tự như sau: Đinh Văn Kinh là con trưởng, đến Đinh Văn Quang, Đinh Văn Nam (tức TT Thiện Minh), Đinh Văn Linh, Đinh Văn Phong, Đinh Thị Kim Hoài, Đinh Thị Kim Thai và Đinh Thị Khang. Anh chị em gia đ́nh này rất thông minh, được học cả Hán học lẫn Tây học. Cụ Đinh Văn Chấp c̣n có nhiều vợ thứ.

 

Trong hồ sơ tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia có ghi năm 1940, Nam được bổ làm Thừa Phái tại triều đ́nh Huế. Năm 1945, vua Bảo Đại trao quyền lại cho Hồ Chí Minh, ông Đinh Văn Chấp được Mặt Trận Việt Minh giao cho giữ chức vụ Chủ Tịch Ban Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác-Lênin Nghệ An, sau đó thăng lên chức Chủ Tịch Mặt Trận Liên Việt Nghệ An.

 

Nam có người em ruột là Đinh Văn Linh làm Đại Sứ của Hà Nội tại Trung Quốc, sau làm chủ nhiệm tờ báo Quân Đội Nhân Dân. Linh được Hà Nội đưa vào tiếp thu tại miền Nam khi chính phủ Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.

 

Nam cũng có người em rễ hụt là Trần Điền làm Đại Sứ của Hà Nội tại Cam-Bốt, thời Sihanouk c̣n nắm chính quyền. Cô Đinh Thị Kim Hoài, em của Nam, cho Điền là quê mùa nông dân nên không thích gá nghĩa. Điền không phải v́ thế xấu hổ, trái lại vẫn luôn luôn giữ mọi liên hệ tốt đẹp với gia đ́nh ông Đinh Văn Chấp. Sau này Hoài đă chấp nhận làm bé cho Tướng Nguyễn Sơn, một người hào hoa phong nhă của Mao Trạch Đông đưa về theo yêu cầu của Hồ Chí Minh.

 

Đinh Văn Nam gia nhập Mặt Trận Việt Minh khoảng sau 1940 khi Mặt Trận này vừa được thành lập. Nhóm của ông thường họp tại chùa Cẩm Linh, Diệc Cổ Tự hay trụ sở của Hội Nghiên Cứu Phật Học Trung Kỳ ở trong nội thành của thành phố Vinh. Một tăng sĩ PG đă công khai phản đối việc dùng chùa chiền để làm nơi hội họp bí mật của nhóm nói trên là HT Thích Tuệ Chiếu.

 

HT Tuệ Chiếu tên thật là Trương Thế Giám, trụ tŕ chùa Phước Ḥa, Sầm Sơn, Thanh Hóa, là người thông thạo cả Hán học lẫn Tây học Ông đă đào tạo rất nhiều tu sĩ PG. Ông thường đến dạy cho các tăng ni và Phật tử ở Vinh về Phật học. Ông c̣n mở một lớp “Cours d'Adultes” (lớp dạy cho người lớn) ở Vinh để dạy Pháp văn cho những người lớn tuổi muốn học thêm Tây học. Ông biết chuyện một số người đă dùng chùa và trụ sở của PG hội họp làm chính trị nên lên tiếng phản đối. Ông bị hăm dọa. Các bạn đồng môn với ông là Hà Huy Tập, Trần Văn Tăng đều gia nhập Đảng CS, nhưng ông chống đối quyết liệt. Vào khoảng năm 1947, ông có liên hợp với Linh mục Hoàng Quỳnh ở Phát Diệm thành lập Mặt Trận Liên Tôn để đối phó với những sự khuấy phá và lộng hành của Mặt Trận Việt Minh. Năm 1954, khi Hiệp định Geneva được kư kết, ông liên lạc với các làng Công giáo chung quanh để t́m cách di cư vào Nam nhưng đi không lọt. Trong vụ đấu tố năm 1957, HT Tuệ Chiếu bị chôn sống.

 

Đinh Văn Nam có gia đ́nh năm 20 tuổi. Vợ Nam là Lê Thị Bé, con một gia đ́nh khoa bảng khác ở cùng làng là cụ Lê Văn Miến, vừa đậu Tây học, vừa thông Hán học nên làm giáo sư Hán văn và Pháp văn, sau vào dạy Quốc Tử Giám (đại học của triều đ́nh) ở Huế.

 

Nam ở với vợ được 5 năm, sinh được 2 người con, một trai (Đinh Văn Sương) và một gái (Đinh Thị Phương). Vào 1943, Nam bỏ vợ vào Huế ở luôn, làm thừa phái tại Ṭa Khâm và tiếp tục theo học tại trường Khải Định cho đến khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần. Từ đó Nam ít khi trở về quê thăm vợ con. Vợ ông phải làm việc vất vả để nuôi con. Sau 30/4/1975, Lê Thị Bé từ Bắc được vào Nam thăm chồng do Đảng cho phép. Khi vào th́ TT Minh Châu coi như không quen biết. Sau 10 ngày ở lại, Lê Thị Bé trở về miền Bắc, và từ đó đến giờ không nghe nhắc đến nữa...

 

Năm 1948, Nam vào tu tại chùa Từ Đàm và học ở trường An Nam Phật Học Huế; nhưng những người thân cận với gia đ́nh ông nói rằng ông xuất gia trước khi VM cướp chính quyền năm 1945. Sau khi tốt nghiệp, Nam lấy pháp danh là Thích Minh Châu. Năm 1952, Thích Minh Châu được đưa sang Ấn Độ du học, ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Bihar; đi cùng với ông có Nguyễn Đ́nh Kỳ, nhưng Kỳ ở lại Ấn Độ và chết bên đó. TT Minh Châu trở về VN năm 1964. Khi chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, các tôn giáo nhất là các giáo phái và Phật Giáo muốn phát triển các đại học tự Phật Giáo tại Saigon cũng cần người trong hàng tu sĩ có văn bằng Tiến Sĩ để làm Viện Trưởng. Thích Minh Châu là người được chọn. Thời gian c̣n học ở Ấn Độ, Thích Minh Châu được Ṭa Đại Sứ Bắc Việt ở đây móc nối giúp đỡ, nên ông thường trao đổi, hội họp với nhân viên Sứ Quán Bắc Việt giống như một đảng viên CS. Trong giai đoạn này, VNCH đă cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao với Ấn Độ v́ chính phủ Ấn Độ dưới thời Thủ Tướng Nê-ru rất thiên Cộng.

 

Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đă có nhiều tài liệu chứng minh rằng Thích Minh Châu là người hoạt động cho VC tại Ấn Độ. Những h́nh ảnh qua lại giữa ông và những nhân vật cao cấp Hà Nội tại Ấn Độ kể cả Hồ Chí Minh được trưng ra, nhằm không chấp nhận việc cho Thích Minh Châu về Miền Nam. Sau nhiều lần tranh căi, Tướng Nguyễn Khánh phải nhượng bộ thuận cho Thích Minh Châu về Miền Nam nhưng Viện Hóa Đạo phải cam kết là không để cho Thích Minh Châu hoạt động chính trị nào, nhất là tái hoạt động cho CS.

 

Về làm Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Thích Minh Châu cho lập ngay nhóm CS nằm vùng ngay trong Viện bất chấp lời cam kết của Viện Hóa Đạo. Thượng Tọa Thích Trí Quang đưa Nguyễn Trực chỉ huy nhóm này. Với danh nghĩa là về Huế để liên lạc Phật sự, nhóm này đă không thể qua mắt được các nhân viên t́nh báo VNCH về mọi hoạt động của họ với Khu Ủy Trị Thiên - Huế do Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ đạo (CS Bắc Việt trá h́nh).

 

Thượng Tọa Thích Minh Châu luôn luôn tự hào về ḿnh là không theo một phe phái nào trong sự tranh chấp nội bộ Phật Giáo, nhất là giữa 2 khối Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Nhiệm vụ của ông chỉ là giữ ḷng trung kiên và hành động theo đúng với Đảng CS mà thôi. Ngày 30/4/1975, Viện Đại Học Vạn Hạnh trở thành cơ sở công khai hoạt động “cách mạng”. Những người trong nhóm Nguyễn Trực (lúc này Trực mang cấp Trung Úy VC) đă đón VC tại Ngă Tư Bảy Hiền vào thẳng Viện Đại Học Vạn Hạnh, và cũng từ đó Viện Đại Học này bị xóa tên: Viện Đại Học Vạn Hạnh trở nên cơ sở của Viện Khoa Học Xă Hội TPHCM của VC. TT Thích Minh Châu đă hiện nguyên h́nh là một cán bộ cao cấp của VC. Những thời gian kế tiếp, ông đă cùng với các Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ biến Phật Giáo thành một lực lượng vững chắc của chế độ CS., một danh từ được chào đời để gán cho những tu sĩ thân cộng:”Phật Giáo Quốc Doanh”. V́ công tác, TT Thích Minh Châu không ngần ngại tiêu diệt mọi thành phần đối lập đi ngược lại đường lối của ông như các TT Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Thông Bửu,... Các sự phảng kháng của những TT trên đều được ông báo cáo đầy đủ cho CS. Có lần ông báo cáo đích danh TT Quảng Độ là người phá hoại công cuộc thống nhất PG.

 

Mặc dù HT Thích Trí Tịnh được đưa lên làm Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh, nhưng trong thực tế, HT Thích Đức Nhuận (của miền Bắc, vừa qua đời vào 1/1994) điều hành phần Giáo Hội PGVN (quốc doanh) miền Bắc, c̣n HT Thiện Minh điều hành phần Giáo Hội PGVN miền Nam. HT Thích Minh Châu c̣n làm hiệu trưởng trường Cao Cấp Phật Học ở 716 đường Nguyễn Kiện (tức Vơ Di Nguy nối dài cũ), Phú Nhuận, huấn luyện các tăng ni về Phật học dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lê và cũng là giảng viên thường trực về môn này cho Trường Cao Cấp Phật Học tại chùa Quán Sứ Hà Nội.

 

Ông là một tăng sĩ có uy tín nhất đối với Đảng và nhà cầm quyền CSVN hiện naỵ Mặc dầu đă góp công lớn trong việc làm tan ră Giáo Hội PGAQ, ông vẫn được một số Phật tử của Giáo Hội này quư mến và tôn sùng.

 

Ḥa Thượng Thích Huyền Quang:

 

Theo dơi cuộc đời của HT Huyền Quang, một bài học được rút ra là đối với các vị tu hành, CS đă đưa họ lên một vị thế hữu danh vô thực để làm công tác dân vận nhằm lôi kéo tín đồ theo họ. Một nhà tu hành bị lôi kéo vào thế giới chính trị xảo quyệt của CS nhưng không hành trang cho ḿnh một sự hiểu biết rơ rệt về môi trường này đă đưa ông đi từ thất bại này tới thất bại khác và cuối cùng ông cũng không thoát khỏi bàn tay lông lá của CS; mộng đưa Phật Giáo thống nhất dưới sự lănh đạo của Ấn Quang cũng là hư không.

 

Ông có tên thật là Lê Đ́nh Nhàn, sinh năm 1917 tại B́nh Định. Thủa nhỏ, ông theo học ở Phật Học Đường Lưỡng Xuyên, Trà Vinh, sau về học Phật Học Đường Long Khánh, B́nh Định. Năm 1945, ông gia nhập Hội Phật Giáo Cứu Quốc của HT Trí Độ, giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc B́nh Định, sau đó ông đdược chọn làm Khu Ủy Viên Liên Khu 5 kiêm Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5 từ 1945-1951. Năm 1951, HCM quyết định sát nhập Mặt Trận Việt Minh (trong đó có các Hội Cứu Quốc) và Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam thành Mặt Trận Liên Việt, các hội cứu quốc bị hủy bỏ, trong đó có Hội Phật Giáo Cứu Quốc. V́ thế, TT Huyền Quang bị mất chức Chủ Tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5. Ông không theo kịp sự chuyển hướng chính trị trong đường lối của Đảng nên đă phản đối và bị bắt giam từ 1952-1954 mới được trả tự dọ

 

Trong “Đơn cứu xét nhiều việc” đề ngày 25/6/1992 gởi nhà cầm quyền Hà Nội, HT Huyền Quang nói rất rơ:

 

“Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc Liên Khu 5 cũ (trong Mặt Trận Việt Minh) được thành lập đồng lúc với các đoàn thể cứu quốc khác, sau ngày khởi nghĩa mùa thu 1945, tại các tỉnh: Nam, Ngăi, B́nh, Phú. Sau 6 năm làm việc cứu quốc, như các tổ chức nhân dân khác, đến năm 1951, Mặt Trận Liên Việt Liên Khu 5, buộc chúng tôi mở đại hội tại Bồng Sơn, B́nh Định, để lấy quyết định “chuyển hướng công tác” bằng cách: cắt bỏ 2 chữ cứu quốc và giao hết quần chúng Phật tử qua các tổ chức nhân dân khác. Phật Giáo chúng tôi bấy giờ, sau đại hội trên chỉ c̣n cái tên là Hội Phật Giáo Liên Khu 5 không có quần chúng. Mặt Trận Liên Việt cắt đứt hết mọi liên hệ với Phật Giáo chúng tôi. Tôi chống việc làm đó nên bị bắt giam tại Quảng Ngăi từ 1952-1954”.

 

Mặc dầu đă ở trong vùng CS chiếm đóng tại Liên Khu 5 từ 1945-1954, làm việc và ở tù dưới chế độ CS, ông tỏ ra không am tường nhiều về CS. Ngoài chuyện ông không hiểu tại sao HCM giải tán các Hội Cứu Quốc năm 1951 như đă nói trên, ông c̣n phạm một lỗi lầm to lớn là sau khi VC chiếm được miền Nam, ông và Viện Hoá Đạo Ấn Quang đă vội vàng thương lượng với Hội Phật Giáo VN (quốc doanh) miền Bắc để thống nhất PG 2 miền và tạo uy thế cho Giáo Hội Ấn Quang. Sự vội vàng này đă để lộ cho CS thấy ngay tham vọng của các tăng sĩ trong Viện Hóa Đạo Ấn Quang nên CS đă t́m cách gây mâu thuẫn nội bộ và diệt từng phần. Gom không được Hội PGVN miền Bắc vào Giáo Hội AQ, ông và các tăng sĩ trong GHAQ đă tổ chức Đại Hội Phật Giáo kỳ 7 để củng cố nội bộ và quay lại chống chính quyền. Nhưng CS đă ra taỵ Trong cuộc lục soát chùa AQ của lực lượng an ninh CS vào đêm 6/4/1977, ông đă bị bắt giam cùng với một số tăng sĩ cao cấp khác. Ông đă bị truy tố và đưa ra Ṭa Án Nhân Dân tại Saigon xét xử ngày 8/12/1978. Ông bị phạt 2 năm tù treọ Trong phiên ṭa nói trên, Viện Kiểm Sát CS có đọc lời tự thú của ông khi bị giam ở công an như sau:

 

“Từ trước đến nay, chủ trương chúng tôi là bất hợp tác với chính quyền. Chúng tôi xin xác nhận rằng, trong quá khứ cũng như từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, chúng tôi có những việc làm sai trái với đường lối, chính sách, luật pháp của chính quyền. Những tội lỗi này do chúng tôi gây ra”.

 

Thật là đáng buồn. Trước 1975, không một chính quyền nào, kể cả chính quyền “độc tài gia đ́nh trị + tàn ác + bất nhân + kỳ thị tôn giáo + đàn áp dă man” của Ngô Đ́nh Diệm, lại đan tâm bắt một vị sư phải nói lên những điều này, dù rằng “có những việc làm sai trái”, “bất hợp tác với chính quyền”.

 

Kế tiếp, tháng 11/1981, GHPGVN được thành lập và CS coi như GHAQ đă gia nhập vào giáo hội này, nhưng ông và một số tăng sĩ trong Viện Hoá Đạo đă chống lại việc sát nhập đó. Ông được cử làm Quyền Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thay thế HT Thích Trí Thủ đă di vào GHPGVN nên tháng 2/1982 ông bị bắt và bị chỉ định cư trú tại chùa Hội Phước, xă Nghĩa Chánh trong thị xă Quảng Ngăi.

 

Văn là người (Le style, c'est l'homme). “Đơn cứu xét nhiều việc” đề ngày 25/6/1992 gởi nhà cầm quyền CS của ông đă được cắt xén và trau chuốt cả h́nh thức lẫn nội dung trước khi phổ biến. Nhưng khi được bản sao toàn văn của đơn này đă làm cho một số nhân sĩ PG thất vọng, v́ qua đó người ta nhận ra kiến thức và sự hiểu biết của ông có giới hạn và từ đó đă đưa ông đến những nhận định sai lầm. Ông có tinh thần đố kỵ Công giáo. Bất cứ khi nào có cơ hội, ông đều đưa Công giáo ra để suy tỵ hay mĩa maị Trong “Đơn xin cứu xét nhiều việc”, ông hỏi tại sao Nhà nước quốc doanh hóa PGAQ mà không quốc doanh hóa Giáo Hội Thiên Chúa Giáo? Phải chăng Nhà Nước đă “xem kẻ thù như quư khách” và xem PG là “con nhà nghèo”? Trong dịp lên tiếng tại chùa Linh Mụ ngày 3/5/1992 nhân đám tang HT Đôn Hậu, ông hỏi tại sao các linh mục Công giáo được tự do hành lễ, c̣n ông không được Ban Tổ Chức cho hành lễ ở Huế? Chính sự thiếu hiểu biết và ganh ghét này đă gây những phản ứng không thuận lợi cho cuộc đấu tranh mà ông đang phát động. Ḷng thù hận của ông đă bộc lộ một cách công khai khi viết cũng như khi nói.

 

Trong văn thư số 248 CV/TGCP ngày 25/7/1993 gởi HT Huyền Quang, Ban Tôn Giáo Chính Phủ của CSVN đă trả lời những điểm mà ông khiếu nại bằng những lời lẽ khá gay gắt, nhất là về điểm 1 liên quang tới việc HT Đôn Hậu và Trí Thủ đem GHAQ sát nhập vào GHPGVN. Ban Tôn Giáo kết luận:

 

“Yêu cầu ông nhận rơ lẽ phải và đạo lư, nhận rơ sai lầm khuyết điểm đối với đạo, đối với đất nước, đối với pháp luật để thành tâm sửa chữa và chuyên tâm tu hành v́ sự nghiệp cao cả phụng sự dân tộc và đạo pháp”.

 

Ông đă gặp “thứ dữ”.

 

HT Huyền Quang không phải là đảng viên CS. Trong quá khứ, ông chỉ tham gia các hoạt động ngoại vi của Đảng nên đă không hiểu nhiều về đường lối, chiến lược, chiến thuật và thủ đoạn của CS. Ông bị mang họa do sự thiếu hiểu biết này.

 

8.   Sự phát triển của PG từ thời Pháp thuộc:

 

a.   Thời Pasquier (1928):

 

·    Long Xuyên Phật Học cũng do HT Khánh Ḥa cùng một số cư sĩ thành lập năm 1934 ở chùa Long Phước, Trà Vinh, thu nhận cả tăng lẫn nị

 

·    Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập tại Hà Nội năm 1934 do các HT Trí Hải, Tâm Ứng, Tâm Bảo và một số cư sĩ danh tiếng như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Văn Tố, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Năng Quốc, Dương Bá Trạc, v.v... Cư sĩ Nguyễn Năng Tố được bầu làm Chủ Tịch.

 

·    Phật Học Kiêm Tế Hội do HT Thích Thiện Chiếu thành lập năm 1936 ở chùa Tam Bảo, Rạch Giá. Hội này tuyên bố cổ vơ cho bất cứ học thuyết nào có đủ phương pháp làm cho chúng sanh khổ được vui và kêu gọi hướng dẫn PG đi theo đường lối của Đảng CS Đông Dương.

 

·    Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục do BS Lê Đ́nh Thám thành lập tại Huế năm 1940. Cụ Đinh Văn Chấp, Tiến sĩ Hán học, thân phụ HT Minh Châu, phụ trách giảng dạy về Nho học và Lăo học, c̣n Lê Đ́nh Thám hướng dẫn về Phật học cho thanh niên Phật tử. TT Trí Quang sau này cũng xuất thân từ chỗ này.

 

·    Gia Đ́nh Phật Hóa Phổ cũng do BS Lê Đ́nh Thám lập năm 1944 để giáo dục các thiếu nhi Phật tử. Tổ chức này có một ban hướng dẫn gồm các cư sĩ sau đây: Văn Đ́nh Hy, Đặng Tống, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, v.v... Đây là những thành phần hoạt động tích cực khi phong trào PG miền Trung nổi lên. Vơ Đ́nh Cường là người chủ chốt trong vụ này. Năm 1951, một hội nghị Gia Đ́nh Phật Giáo Phổ được tổ chức tại Huế đă quyết định đổi tên thành Gia Đ́nh Phật Tử.

 

·    Hội Chỉnh Lư Tăng Già Bắc Việt do HT Thích Tố Liên thành lập năm 1949, đến tháng 9/1950 đổi thành Hội Tăng Già Bắc Việt.

 

·    Hội Phật Tử Việt Nam do một số cư sĩ thành lập năm 1949 tại chùa Chân Tiên Hà Nội.

 

·    Hội Phật Học Nam Việt do hai cư sĩ Mai Thọ Truyền và Lê Ngọc Diệp lập tại Saigon năm 1950.

 

·    Phật Học Đường Bảo Quốc do Thích Trí Thủ thành lập năm 1950 ở Huế. Phật Học Đường này thu nhận các học tăng khắp Trung, Nam, Bắc, cung cấp giảng sư cho các Tỉnh Hội Phật Giáo Miền Trung. HT Tịnh Khiết trụ tŕ ở chùa Tường Vân được tôn làm Hội Chủ.

 

·    Giáo Hội Tăng Già Nam Việt do TT Thích Thiện Ḥa và TT Thích Thiện Hoa thành lập năm 1952 tại chùa Ấn Quang, Saigon.

 

·    Hội Tịnh Độ Cư Sĩ Việt Nam do các cư sĩ Huỳnh Văn Đơn, Lữ Huỳnh Anh và Nguyễn Văn Vân thành lập tại Saigon năm 1953.

 

·    Hội Lục Ḥa Phật Tử Việt Nam do các cư sĩ Lê Văn Điền, Phạm Văn Tân và Lê Văn Kiều thành lập tại Gia Định năm 1954.

 

·    Chùa Ấn Quang được HT Thích Thiện Ḥa cho xây cất năm 1949. Đầu tiên đây chỉ là một cái am có tên là Trí Tuệ Am, ở đường Lorgeril (tức Sư Vạn Hạnh), Chợ Lớn, sau gọi là chùa Ứng Quang. Tại đây Phật Học Đường Ứng Quang được thành lập, sau đổi thành Phật Học Đường Nam Việt và chùa Ứng Quang thành chùa Ấn Quang.

 

Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo tại Thừa Thiên bị giảm bớt sau cuộc “Cách Mạng Tháng 8” năm 1945, v́ một số tăng sĩ quan trọng đă đi theo Mặt Trận Việt Minh. Măi đến năm 1951, khi Pháp đă chiếm lại phần lớn Đông Dương và VC đă rút lui vào các chiến khu, việc phát triển PG mới bắt đầu mạnh trở lại.

 

Nh́n Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo nở rộ dướ́ thời Pháp thuộc, chúng ta có thể tin rằng kế hoạch phục hưng Phật Giáo của Pasquier là có thật.

 

b.   Sự phát triển Phật Giáo dưới thời Đệ I Cộng Ḥa:

 

Từ 1955-1963, sự phát triển của PG rất đáng kể, không thua ǵ thời Pháp thuộc. Ngoài các đoàn thể và cơ sở PG được thành lập dưới thời Pháp thuộc vẫn iếp tục hoạt động và phát triển, chính phủ Diệm đă cho phép thành lập rất nhiều tổ chức mới như:

 

§ Hội Linh Sơn Phật Học được thành lập năm 1955 tại chùa Linh Sơn, Cô Giang, Saigon.

 

§ Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam do TT Thích Độ Lượng và Thích Huyền Minh thành lập năm 1955 tại Phan Thanh Giản, Saigon.

 

§ Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam thành lập năm 1955 tại Đề Thám Saigon.

 

§ Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam thành lập tại Đà Nẵng năm 1955.

 

§ Hội Việt Nam Phật Giáo thành lập năm 1957 tại đường Phan Đ́nh Phùng saigon.

 

§ Giáo Hội Lục Ḥa Tăng Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Long Vân, Gia Định.

 

§ Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thành lập năm 1957 tại chùa Kỳ Viên, Phan Đ́nh Phùng Saigon.

 

§ Hội Bồ Đề Đạo Tràng thành lập năm 1957 tại Âm Bồ Đề, Châu Đốc.

 

§ Hội Phật Giáo tại Trung Phần thành lập năm 1957 tại chùa Từ Đàm, Huế.

 

§ Hội Phật Tử Việt Nam thành lập năm 1958 tại chùa Đại Giác, Saigon.

 

§ Giáo Hội Khất Sĩ Ni Giới Việt Nam thành lập năm 1958 tại Gia Định.

 

§ Hội Phật Giáo Quan Âm Phổ Tế thành lập năm 1959 tại Phan Thanh Giản Saigon.

 

§ Hội Việt Nam Phật Giáo Liên Hữu thành lập năm 1959 tại Saigon.

 

§ Hội Từ Thiện PGVN thành lập năm 1959 tại chùa Huệ Lâm, Saigon.

 

§ Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thủy Vĩnh B́nh thành lập năm 1960 tại chùa Ông Mẹt, Vĩnh B́nh.

 

§ Hội Tứ Giáo Phật Học VN thành lập năm tại chùa Tam Bửu Biên Ḥa năm 1961.

 

§ Hội Phật Học Nguyên Thủy Ba Xuyên thành lập năm 1962 tại Ba Xuyên.

 

§ Giáo Hội Cư Sĩ Phật Đường Nam Tông thành lập năm 1962 tại Saigon.

 

§ Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn thành lập năm 1963 tại Saigon.

 

§ Những thành quả mà PG đă đạt được dưới thời Đệ I Cộng Ḥa đă dược Nguyễn Lang liệt kê trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (tập III), trang 304-307 như sau:

 

§ Chỉnh đốn lại Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và đem về đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang.

 

§ Nhiều tu viện, chùa và Phật Hoc. Đường đă được xây dựng như tu viện Nguyễn Thiều ở B́nh Định, tu viện Quảng Hương Già Lam, Chùa Xá Lợi, Phật Học Đường Phước Ḥa ở Trà Vinh, Nhi Học Viện Từ Nghiêm ở Saigon, v.v...

 

§ Mở nhiều khoá huấn luyện tăng ni ở chùa Ấn Quang như khoá Tu Nghiệp Trụ Tŕ và Như Lai Sứ Giả năm 1957, lớp Phật Học Phổ Thông năm 1958. Giáo Hội Tăng Già VN cũng đă thành lập ban giảng sư lưu động năm 1959 để đi huấn luyện tăng ni trên khắp miền Nam VN.

 

§ Các đại hội của Phật Giáo được mở liên tục như Đại Hội Tổng Giáo Hội VN kỳ 2 năm 1956, kỳ 3 năm 1957, Đại Hội Ni Bộ Miền Nam ở chùa Huê Lâm năm 1956, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ 3 năm 1958, Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ 3 năm 1959, Đại Hội Hoằng Pháp Toàn Quốc năm 1960, v.v...

 

§ Các tạp chí Phật Giáo đua nhau ra đời như Phật Giáo Việt Nam, Liên Hoa, Văn Hoá, Từ Quang, v.v...

 

Trong cuốn “Phật Giáo tại Việt Nam”, ông Mai Thọ Truyền cho biết lúc ông Diệm lên cầm quyền, số chùa tại miền nam là 2206 cái. Dướt thời ông Diệm số chùa lên đến 4776 cái, tức là tăng 2570 cái; trải ra cho 43 tỉnh miền Nam, th́ mỗi tỉnh tối thiểu có 59 ngôi chùa mới; chùa cũ và mới cộng lại sẽ cho thấy mỗi tỉnh có trung b́nh 111 ngôi chùa. Trong cuốn “Our Vietnam Nightmare”, Marguerite Higgins ghi nhận rằng chính phủ Diệm đă đóng góp 9 triệu đồng để trùng tu và xây cất chùa chiền. Có tất cả 1295 ngôi chùa đă được trùng tụ Riêng chùa Xá Lợi, ông Diệm đă góp vào 2 triệu đồng và sau đó c̣n cho xử dụng 7 lần tiền đua ngựa để xây cất.

 

Sự kiện mà một tỉnh có tối thiểu 59 ngôi chùa mới và tối đa 111 ngôi chùa chen chúc nhau từ thôn xă này đến làng kia, đó là một biểu tượng của sự tự do tôn giáo phát triển cực mạnh và sung măn vô song. Việc bảo trợ và yểm trợ xây cất chùa chiền là dấu hiệu của một ḷng sùng mộ thành tín đối với tôn giáo của nhà cầm quyền biết tôn trọng tôn giáo của các tôn giáo bạn.

 

Có một điều ít ai để ư là chính TT Diệm là người đầu tiên và duy nhất đă đem lại cho Phật Giáo một màu sắc đặc biệt mà trước đây tôn giáo này không hề có. Ngay từ những năm đầu của chế độ, ông đă lo việc thôi thúc các cơ quan liên hệ phải t́m cách để yểm trợ và tiếp tay với công việc tổ chức Đại Lễ Phật Đản và Rước Ngọc Xá Lợi năm 1956 (17/5/1956) qua các đường phố thật hết sức trọng thể. Số người tham dự đại lễ tại Saigon có tới vài vạn người. Rồi mỗi năm cứ thế tiếp đến 1960, Lễ Phật Đản có tổ chức rước đuốc, xe hoa trên nhiều đường phố. Năm 1961 Đại Lễ Phật Đản được tổ chức ngay tại vận động trường Quân Đội. Năm 1962, LPD được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Tiếp đến là ngày 8/5/1963 tại Saigon, Đại Lễ Phật Đản được tổ chức một cách hết sức trọng thể, đông người tham dự, tuy bầu không khí hơi căng thẳng.

 

c.   Sự phát triển của Phật Giáo thời Đệ II Cộng Ḥa:

 

Sau 1/11/1963, sau khi hạ TT Diệm xong, “làm chủ” đất nước, nhóm PG cực đoan thừa thắng xông lên, làm áp lực buộc chính quyền mới phải tuân theo ư muốn của họ.

 

Mặc dầu quy chế chung cho tất cả các tôn giáo chưa được soạn thảo và ban hành, không coi thể thống quốc gia ra ǵ, GHPGVNTN mới thành lập đă làm áp lực bắt buộc chính quyền phải công nhận bằng một đạo luật Hiến Chương mà Giáo Hội này đă đệ tŕnh, gây nên những rối loạn pháp lư mà chỉ vài năm sau đó, Giáo Hội Ấn Quang đă là nạn nhân của những đ̣i hỏi phi lư đó. Sau đây là những tổ chức PG được thành lập dưới thời “độc tài quân phiệt” Đệ II Cộng Ḥa:

 

§ Viện Cao Đẳng Phật Học được thành lập ngày 13/3/1964, có quyền cấp Cử nhân Phật học, Cao học Phật giáo và Tiến sĩ Phật học.

 

§ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) do 11 tông phái và hội Phật Giáo thành lập ngày 4/1/1964, được duyệt y bằng Sắc Luật số 158-SL/CP ngày 14/5/1964.

 

§ Giáo Hội Thiền Tông Việt Nam được thành lập tháng 11/1964 tại Gia Định.

 

§ Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam do liên phái Phật Bửu Tự, Bửu Lâm Tự, B́nh Ḥa Tự, Long Quang Tự, Chơn Đức Tự và Giác Lâm Tự thành lập tháng 12/1964, tách khỏi GHPGVNTN.

 

§ Phật Hội Pháp Hoa Việt Nam do cư sĩ Nguyễn Trọng Tố thành lập tại Nha Trang năm 1965.

 

§ Phật Hội Lục Phương Tông do 2 cư sĩ Vơ Văn Trọng và Nguyễn Văn Toàn thành lập tại Saigon năm 1965.

 

§ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ do TT Thích Tọa Giác Nhiên thành lập tại Gia Định năm 1966.

 

§ Hội Phật Giáo Phụng Sự Xă Hội do TT Thích Tâm Châu thành lập tại Saigon năm 1967.

 

§ Việt Hàn Phật Giáo Tương Trợ Hội do 2 TT Thích Tâm Châu và Suk Kyung San thành lập tại Saigon năm 1967.

 

§ Giáo Hội Đạo Tràng Thiên Học do tu sĩ Trần Rinh thành lập năm 1968 tại Hóc Môn, Gia Định.

 

Phật Giáo bắt đầu xây dựng những cơ sở to lớn: khởi đầu là Việt Nam Quốc Tự ở đường Trần Quốc Toản Saigon, sau đó là chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Đại Học Vạn Hạnh và các cơ sở khác khắp miền Nam VN.

 

Ngày 24/4/1964, khởi công xây dựng Việt Nam Quốc Tự trên cơ sở đất rộng 45,000 m2. Sở đất này tọa lạc tại một địa điểm khá quan trọng trong thành phố, được chính phủ cho thuê với giá tượng trưng. Tuy gọi là cho thuê nhưng trong thực tế là biếu luôn.

 

Trong cuốn Bạch Thư 31/12/1993, HT Tâm Châu cho biết, để xây cất Việt Nam Quốc Tự, Tướng Nguyễn Khánh đă cúng 10 triệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ cho vay 50 triệu. Số tiền này được giao cho các TT Thích Thiện Ḥa, Thích Thiện Hoa, Thích Trí Thủ và Thích Từ Nhơn, nhưng các TT này giữ tiền luôn, không chịu xây cất chùa. Chi phí xây cất VNQT lúc đó được ước lượng khoảng từ 60-70 triệu đồng VN.

 

Nhưng v́ sự lộng hành của TT Trí Quang trên chính trường miền Nam từ 1964-1966, khối PGAQ bị tan vỡ ra làm hai, các tông phái miền Bắc và miền Nam tách rời khỏi GHPGAQ. Những hậu quả này không phải do chính quyền mà do TT Trí Quang và nhóm PG miền Trung gây rạ

 

9.   Nghĩ sao về 5 điều đ̣i hỏi của Phật giáo?

 

Như thế trong 5 điều đ̣i hỏi của PG:

 

§ Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ PG.

 

§ Yêu cầu PG phải được hưởng một chế độ đặc biêt như các Hội truyền giáo Thiên chúa giáo đă được ghi trong Dụ Số 10.

 

§ Yêu cầu chính phủ chấm dứt t́nh trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ PG.

 

§ Yêu cầu cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo.

 

§ Yêu cầu chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ bị chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền tội xứng đáng.

 

Th́ yêu cầu “cho tăng ni PG tự do truyền đạo và hành đạo” không đúng với thực tế. Sử gia PG Lư Khôi Việt lại đi viết:”Chính trị VN suốt 100 năm nay, đă dành một số phận đen tối, khắc nghiệt nhất cho những đứa con VN ưu tú (ư nói PG) và dành một chỗ ngồi ưu đăi nhất cho những đưá con phản bội xấu xa (ư nói Công giáo)”.

 

Như thế các tăng sĩ chùa Từ Đàm có lẽ đă thưà biết rơ là các điều (1), (2), (4) và cả (5) là không đúng như họ đă tố cáo, nhưng họ vẫn cứ làm to chuyện để có lư do là lật đổ TT Diệm, một chế độ được họ mệnh danh là “chế độ Thiên Chúa Giáo”. Và qua các câu chuyện vừa kể trên người ta thấy động lực đấu tranh chính trị chính là sự tỵ hiềm về tôn giáo mà ra chứ không phải là sự kỳ thị (tôn giáo) ở trong luật pháp hay trong thực tế. Đây là điều mà ta cần nhớ rơ để quay lại khúc phim lịch sử này (“Theo Đỗ Mậu” trong VNMLQHT th́ TT Trí Quang muốn lật độ TT Diệm v́ chế độ này nếu tồn tại chỉ mang chính nghĩa cho CS, c̣n ông chống độc tài quân phiệt v́ chế độ này làm tay sai cho ngoại bang). Mặt khác người ta không ngạc nhiên khi thấy Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đưa ra 5 yêu sách của PG th́ Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ đă chấp nhận một cách nhanh chóng, v́ những đ̣i hỏi đó phù hợp với t́nh trạng thực tế lúc đó của thời cuộc.

 

10. Câu chuyện giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ:

 

TT Thích Tâm Châu đă lập một Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngày 15/5/1963. Ngày 25/5/1963, Ủy Ban này họp tại chùa Xá Lợi ở Saigon, ra tuyên ngôn tuyên bố tranh đấu cho 5 nguyện vọng của PG kể trên. Sau đó là những cuộc biểu t́nh và tuyệt thực xảy ra liên tiếp. Chính phủ đă xử dụng Cảnh sát Dă chiến để ngăn chặn các cuộc biểu t́nh và kiểm soát hoạt động đấu tranh của các chùa chiền.

 

Khi cuộc tranh đấu của PG ngày càng gia tăng, ngày 4/6/1963, một Ủy ban Liên Bộ được chính phủ thành lập để giải quyết các đ̣i hỏi của PG. Ủy Ban này gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương và Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đ́nh Thuần. Ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ họp với Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo lần đầu tiên. Phái đoàn PG gồm có các TT Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Huyền Quang (Thư kư) và Đức Nghiệp (Phó thư kư). TT Thiện Minh làm Trưởng đoàn.

 

Trong khi thương thuyết với Ủy Ban Liên Bộ, Vơ Đ́nh Cường cho áp dụng chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” để đạt thắng lợi tối đạ Các chiến dịch biểu t́nh, tuyệt thực và tự thiêu được phát động khắp nơi. Vụ HT Thích Quảng Đức tự thiêu cũng nằm trong chiến thuật này. Có thể nói trong giai đoạn gây xáo trộn này, PG đă thường dùng các phương thức sau đây: biểu t́nh bạo động quá khích, nổi lửa tự thiêu.

 

Sau khi tin HT Quảng Đức tự thiêu và ngày 11/6/1963 được loan đi khắp thế giới, ngày 12/6/1963 HT Thích Tịnh Khiết từ Huế vào saigon. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ liền mời HT Tịnh Khiết họp với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ, nhưng Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo thấy rằng đưa HT Tịnh Khiết đi thương thuyết không có lợi v́ HT quá hiền lành và ngay thật, nên TT Tâm Châu nói rằng sau 5 ngày tuyệt thực, HT Tịnh Khiết đang mệt, không họp được. Ngày 13/6/63, Phật tử treo cờ khắp nơi. Ngày 14/6/63, 2 Ủy Ban họp lần thứ hai tại Hội Trường Diên Hồng. V́ TT Diệm ra lệnh phải đi đến một thỏa hiệp nhanh chóng, nên 2 Ủy Ban đă họp ngày họp đêm trong suốt 3 ngày liên tục, đến ngày 16/6/63, cả 2 Ủy Ban đă kư kết một thông cáo chung gồm những diểm sau đây:

 

Quy định lại thể thức treo cờ quốc gia và cờ PG Quốc Tế: Cờ PG Quốc Tế khi treo chung được làm nhỏ hơn 1/3 quốc kỳ.

 

Tách các hiệp hội có tính cách tôn giáo ra khỏi Dụ Số 10.

 

Chính phủ cam kết không trả thù những người tham gia cuộc vận động thực hiện 5 nguyện vọng của PG.

 

Bảo đảm quyền tự do truyền đạo của Phật tử.

 

Trừng phạt những người có trách nhiệm trong vụ thảm sát ở Huế và bồi thường cho các gia đ́nh nạn nhân.

 

Thông cáo chung vừa được kư xong th́ Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo vội đưa về cho HT Tịnh Khiết viết vào một chữ KHÁN rồi kư tên vào chỗ dành cho Tổng Thống. Khi Thông Cáo Chung được chuyển qua Phủ Tổng Thống, mọi người nh́n thấy chữ kư của HT Tịnh Khiết ở chỗ dành cho Tổng Thống, đều lắc đầu. Tuy nhiên TT Diệm vẫn cầm viết và phê vào:”Những điều được ghi trong Thông Cáo Chung này đă được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ đầu”.

 

Các sử gia PG cho đây là một thắng lợi của PG. Tất cả nguyện vọng của PG đều được chấp thuận.

 

Một buổi lễ tang dự trù cho HT Quảng Đức ngày Chủ Nhật 16/6/63 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn người; rồi khoảng hàng trăm ngàn Phật tử tham dự bỗng trở thành đám biểu t́nh và bị cảnh sát dàn chào. Xô xát kéo dài 45' trước chùa Xá Lợi. Vụ tự thiêu của HT Quảng Đức chỉ là một chiến thuật của TT Trí Quang, nhưng quần chúng Phật tử quay ḷng căm thù vào ông Diệm; TT Trí Quang muốn dùng quần chúng gây bạo động và khi bạo động càng nhiều th́ ông Diệm càng bị mắc bẫy. Ngay buổi tối hôm đó, Thiết Giáp phải đến tăng cường. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương v́ trúng đạn ở đầu. 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ. 3 ngày sau, 19/6, nhờ cảnh sát, công an nỗ lực kiểm soát nên lễ an táng của HT Quảng Đức diễn tiến không gây thêm đổ máu.

 

11. Tṛ ảo thuật của TT Trí Quang:

 

Sau khi thông cáo chung được ban hành ít ngày th́ nhóm PG cực đoan miền Trung cho phổ biến một “mật điện” nói là mới bắt được. “Mật điện” đó mang số 1342/VP/TT ngày 19/6/63 được nói là do ông Quách Ṭng Đức, Đổng Lư Văn Pḥng Phủ Tổng Thống đánh đị Mật điện được công bố có nội dung như sau:

 

“Để tạm thời làm êm dịu t́nh h́nh và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn Tăng Ni và PG phản động, TT và ông Cố Vấn ra lịnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi nhận hăy theo đúng chủ trương trên và đợi lịnh. Ngay từ bây giờ hăy chuẩn bị cho giai đoạn tấn công mới. Hăy theo dơi điều tra, thanh trừng những phần tử PG bất măn và tŕnh thượng cấp, kể cả các sĩ quan và công chức cao cấp”.

 

Đọc lối hành văn và các từ ngữ xử dụng các công chức chính phủ nhận ra ngay đó là môt mật điện giả. Đây phải là mật điện do VC nằm vùng sáng chế rạ Phủ TT đă ra một thông cáo phủ nhận hoàn toàn bức mật điện này.

 

Sau khi bức điện giả nói trên được tung ra, ông Ngô Đ́nh Nhu hiểu rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đang cố tạo lư do mới để tiếp tục xách động đấu tranh nhằm lật đổ chính phủ. Lư do mới đó là “chính phủ không thi hành nghiêm chỉnh thông cáo chung”, do đó cuộc đấu tranh mới cũng gồm đủ cả biểu t́nh, tuyệt thực và tự thiêu như trước.

 

Rất bực ḿnh trước thủ đoạn này ông Nhu t́m cách lật lại thế cờ. Ngày 20/6/1963, ông yểm trợ cho HT Huệ Tâm lập Giáo Hội Phật Giáo Cổ Sơn Môn, rồi giúp HT Thích Nhật Minh lập Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy để ủng hộ chính quyền. Ông cho thương phế binh biểu t́nh trước chùa Xá Lợi vào ngày 23/7/1963 tố cáo những kẻ lợi dụng tôn giáo gây rối loạn chính trị. Ông thuyết phục ông Đoàn Trung C̣n, Hội Trưởng Trung Ương Phật Giáo Tịnh Độ Tông, lên án những kẻ lợi dụng danh nghĩa PG phá rối trật tự công cộng. Các tỉnh trưởng miền Trung giúp ông bằng cách thuyết phục một vài tông phái PG khác như Phật Giáo Lục Ḥa Tăng Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần, gởi kiên nghị ủng hộ đường lối của TT Diệm và tố cáo Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang phá hoại an ninh trật tự trong nước. Đến giai doạn quyết liệt, ông ra lệnh lục soát các chùa và bắt những lănh tụ PG chống đối. Nhưng ông không đề pḥng nổi mạng lưới mà cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ đang tung ra đàng sau biến cố đó.

 

12. Sự can thiệp của Hoa Kỳ:

 

Hoa Kỳ đă quyết định lật đổ TT Diệm kể từ năm 1960, khi TT Diệm từ chối lời yêu cầu của Phó TT Johnson cho Hoa Kỳ đem quân đổ bộ vào miền Nam và thiết lập các căn cứ quân sự.

 

a.   Âm mưu của Hà Nội:

 

Trong bài diễn văn đọc khai mạc Đại hội đảng lần thứ 3 vào tháng 9/1960, HCM tyên bố công cuộc cải tạo XHCN tại miền Bắc coi như đă hoàn thành trên căn bản. Giai đoạn tới là giai đoạn “giải phóng miền Nam”. Sau đó, Đại hội 3 ra Nghị Quyết tuyên bố:

 

“Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đ́nh Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam”.

 

Thi hành quyêt nghị này, Hà Nội cho lập tại miền nam một tổ chức bù nh́n được mệnh danh là MTGPMN do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Trong lễ ra mắt ngày 20/12/1960, MTGPMN đưa ra bản tuyên ngôn rập y khuôn của Nghị Quyết trên, có đoạn như sau:”Đánh đổ chế độ thuộc địa trá h́nh của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài NĐD, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân chủ”.

 

Một chiến dịch được gọi là Đồng Khởi được phát xuất từ Bến Tre và lan rộng ra cả miền Nam VN. Trước t́nh thế này, TT Diệm yêu cầu T Kennedy viện trợ quân sự và kinh tế cho miền Nam VN để chống lại sự xâm lăng của CS.

 

b.   Đ̣i thiết lập các căn cứ quân sự:

 

Ngày 5/5/1960, trong một cuộc họp báo, TT Kennedy tuyên bố rằng t́nh h́nh NVN đang nguy ngập và nếu cần, ông “sẽ cứu xét đưa quân đội Hoa Kỳ đến VN để chống lại các cuộc tấn công của CS”. TT đưa ra lời tuyên bố này khi chưa có lời yêu cầu của TT Diệm.

 

Ngày 9/5/60, một phái đoàn của PTT Johnson đến miền Nam trong 4 ngày để quan sát và hội đàm với TT Diệm. Trong cuộc hội đàm ngày 12/5/60, có sự hiện của Đại sứ Nolting, Johnson đề nghị để quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam, nhưng TT Diệm tỏ ra do dự. Ông nêu ra điều 19 của Hiệp định Geneva 1954 để có lư do ḥa hoăn. Điều này quy định:”Kể từ ngày hiệp định này bắt đầu có hiệu lực, cấm không được lập một căn cứ quân sự ngoại quốc nào trong vùng tập hợp nào của đôi bên; 2 bên cam doan rằng vùng thuộc về họ không tham gia một liên minh quân sự nào và không bị xử dụng để gây chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược”.

 

Phó TT Johnson tỏ ra không bằng ḷng về sự từ chối này.

 

Ngay sau đó, trong ngày 12/5/60, Đại sứ Nolting đă gởi cho Ngoại trưởng Dean Rusk một báo cáo mật như sau:”Tướng Mc Garr và tôi có mặt tại cuộc thảo luận giữa ông Diệm và PTT Johnson về việc đưa lực lượng Mỹ vào VN. Ông Diệm đă nói với PTT rằng ông ta không muốn quân chiến đấu Hoa Kỳ dến VN, trừ trường hợp miền Bắc công khai đưa quân xâm lược”.

 

PTT Johnson vừa rời VN vào ngày 13/5/60 th́ 2 ngày sau TT Diệm đă gởi ngay cho TT Kennedy một văn thư sau:”Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu văn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất của quư quốc, một sự yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng”. (“Hồ sơ mật Dinh Độc lập”, Nguyễn Tiến Hưng).

 

Qua văn thư này, rơ ràng TT Diệm đă gián tiếp bác bỏ việc đưa quân đội Mỹ vào VN. Washing ton không hài ḷng về sự từ chối này nên chỉ viện trợ nhỏ giọt khiến Quân đội VNCH không đủ sức đẩy lui toàn bộ cuộc xâm lăng của CS. T́nh h́nh quân sự ngày càng xấu đị

 

Các nhà phân tích nói rằng Hoa Kỳ muốn cho t́nh h́nh quân sự trở nên xấu hơn để chính phủ Diệm phải yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân và cho thiết lập các căn cứ quân sự

 

c.   Cái bẫy sập được đưa ra:

 

Biến cố PG là một cơ hội tốt để Hoa Kỳ thực hiện ư định lật đổ chính phủ Diệm. Ông Lê Văn Dư, Trưởng ty Công an Thừa Thiên cho biết có những sự liên hệ chặt chẽ của các nhân viên Ṭa Lănh sự Mỹ ở Huế với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm. Những lần đầu, các cuộc gặp gỡ đều có sự có mặt của ông Dự Các lần sau, các viên chức Lănh sự tự liên lạc lấy. Ông có cho công an theo dơi. Chính nhờ sự khuyến khích của các nhân viên t́nh báo Hoa Kỳ, TT Trí Quang mới càng ngày càng làm mạnh hơn.

 

Để có lư do hành động, TT Kennedy đă gởi 2 đặc sứ qua VN cùng lúc để điều tra vụ PG. 2 đặc sứ nay là Trung tướng Krulak và Tham vụ Ngoại giao Mendenhall. 2 người làm bản phúc tŕnh khác biệt nhau khiến TT Kennedy lúng túng. Tháng 10/1963, Kennedy gởi Tướng Ẹ Landsdale, cố vấn chính phủ Diệm trước đây, để điều tra thêm. Landsdale làm báo cáo là nên thương lượng với chính phủ Diệm là tốt hơn cả. Nếu lật đổ TT Diệm t́nh h́nh sẽ trở nên khó khăn hơn. Báo cáo này làm Kennedy giận dữ. Ông cần một báo cáo nói phải thay TT Diệm để dễ giải thích với dư luận Mỹ hơn. Từ đó, TT kennedy không muốn nói chuyện với Tướng Lansdale nữa.

 

d.   Âm mưu chống đảo chánh và đảo chánh:

 

Để thực hiện cuộc đảo chánh này, Washington nghĩ ngay đến Cabot Lodgẹ Ông sinh năm 1902 tại Nahant, Massachussetts và chết năm 1985, tốt nghiệp Harvard năm 1924, từng là nghị sĩ và ứng cử viên Phó TT năm 1960. Ông đang ở Honolulu th́ được lệnh sang Saigon vào ngày 22/8/1963 thay thế Đại sứ Nolting. Ngày 22/8/63, Lodge tŕnh ủy nhiệm thư lên ông Diệm.

 

Khi Lodge đến th́ TT Diệm đă biết là Hoa Kỳ quyết định tổ chức đảo chánh, nên ông Nhu đă vạch kế hoạch đối phó, trong đó có cả kế hoạch tổ chức cuộc đảo chánh giả gọi là Bravo I để lừa các tướng dịnh đảo chánh và bắt giữ. Kế hoạch này giao cho Tướng Đính, Tư lệnh Quân đoàn 3. Nhưng Đính theo phe đảo chánh nên kế hoạch bị hỏng.

 

Sau khi tŕh ủy nhiệm thư xong, Lodge liên lạc ngay với Trung tá Lucien Conein, Trưởng cơ quan CAS (CIA) của Mỹ tại VN thời đó. Conein sinh ở Pháp, đă từng nhảy dù xuống VN năm 1944 trong tổ chức t́nh báo của Mỹ nên quen biết nhiều với các tướng lănh VN. Tướng Trần Văn Đôn là bạn của Conein trong 18 năm quạ Đôn lúc đó là Quyền Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, thay thế Đại tướng Lê Văn Tỵ đang được chữa bịnh ung thư tại Mỹ. Conein đă móc nối với các tướng Đôn, Khiêm, Minh, Kim để thuê làm đảo chánh.

 

Trong cuốn “Our Endless War Inside VN”, Đôn kể lại rằng hôm 2/10/63 khi lên đường đi Nha Trang ông thấy Conein theo ông ra tận máy baỵ 2 người hẹn gặp nhau ở Nha Trang và chiều hôm đó gặp nhau bàn về chuyện đảo chánh. Ngày 5/10/63, Conein gặp Tướng Dương Văn Minh để bàn về việc này. Minh muốn có bảo đảm về sự ủng hộ của Mỹ trong việc đảo chánh. Lần thứ hai vào ngày 10/10/63, Conein gặp Minh để hỏi về chi tiết cuộc đảo chánh. Trong cuộc gặp này, Minh yêu cầu mọi liên lạc giữa Mỹ và VN liên hệ tới đảo chánh phải qua Minh.

 

Trong khi Conein và các tướng lănh VN hoạch định kế hoạch th́ Lodge giả làm áp lực đ̣i ông Diệm phải loại bỏ ông Nhu và bà vợ. Ông cho biết nếu không làm thế th́ Mỹ sẽ ngưng viện trợ. Lodge cũng chỉ thị khuyến khích PG gia tăng bạo động.

 

Này 10/9/63, bà Nhu dẫn một phái đoàn đi dự Hội Nghị Quốc Tế Nghị Sĩ tại Nam Tư và nhân tiện qua Âu Châu “giải độc”. Ngày 25/10/63, Lodge gởi cho George Bundy, Phụ tá đặc biệt của TT Kennedy đặc trách về an ninh một bản báo cáo rằng CAS “vẫn thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của tôi. Tôi đă đích thân chấp thuận mỗi cuộc họp giữa Đôn và Conein, người đă thi hành mệnh lệnh của tôi xuất sắc trong mọi trường hợp...”

 

e.   Một tṛ chơi nguy hiểm?

 

Trước t́nh thế này, ông Ngô Đ́nh Nhu đă t́m cách thương lượng với Bắc Việt để loại ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đă mời Maneli, Trưởng phái đoàn Ba Lan trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đ́nh chiến để nhờ liên lạc với Hà Nội qua Đại sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề nghị mở cuộc tiếp xúc giữ 2 bên. Bắc Việt chấp nhận ngaỵ Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đă xác nhận điều này. Trong cuộc gặp gỡ, 2 bên đồng ư tái lập trước tiên về liên lạc bưu điện và sau đó về giao thương để tiến tới thống nhất đất nước trong ḥa b́nh. Sau cuộc tiếp xúc đó, ông Nhu cố ư tiết lộ nội dung cuộc tiếp xúc cho báo chí biết để ngầm thông báo cho Washington.

 

Song song với sự tiết lộ của ông Nhu, TT De Gaulle lên tiếng kêu gọi lại bỏ “ảnh hưởng ngoại quốc” ra khỏi VN, c̣n HCM lên tiếng nói rằng một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa thuận.

 

Thật ra, trong năm 1963, Lodge đă đưa ra một kế hoạch 3 giai đoạn để Hà Nội và Saigon có thể nói chuyện với nhaụ Manelli là người làm trung gian giữa Saigon - Ṭa Đại sứ Pháp - Hà Nội. Ông Nhu đă hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại pḥng đọc sách của ông (“War of the Vanquished”, Mieczyslaw Maneli). Chuyện này Mỹ biết rơ.. Nhưng hành động độc lập của ông Nhu kỳ này đă làm Washington tức giận hơn. TT kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến hành cuộc đảo chánh nhanh chóng hơn.

 

Theo “Việt Nam 30 năm máu lửa” của Cao Thế Dung, nxb Alpha 1991, tr. 597, th́ tới nay chưa có một văn kiện hay tài liệu khả tin nào về vụ ông Ngô Đ́nh Nhu toan tính thỏa hiệp với HCM ngoại trừ cuốn “War of the Vainquished” của Mieczlaw Maneli đă kể trên, và một số bài báo chỉ căn cứ trên một số nhân vật và thiếu chứng cớ.

 

f.    Từ chủ động tới công cụ:

 

Qua các sự kiện của lịch sử trong giai đoạn này, ta thấy mục tiêu tranh đấu của nhóm PG cực đoan miền Trung đưa ra chỉ là mục tiêu giả. Những điều mà họ phản kháng không có căn bản vững chắc. Mục tiêu thật sự chính là lật đổ ông Diệm, c̣n vụ Pháp nạn 63 chỉ là một chiêu bài. Chính Hoa Kỳ đă khởi xướng và chỉ huy cuộc đảo chánh. Mỹ muốn thay thế ông Diệm từ 1960 v́ ông Diệm không đồng ư cho Mỹ đổ quân vào VN và thiết lập các căn cứ quân sự. Vụ PG là cơ hội tốt để Hoa Kỳ khai thác để thực hiện chính sách xâm nhập Đông Nam Á. Người ta không ngạc nhiên khi thấy cả báo chí lẫn chính phủ Mỹ đă cố t́nh thổi phồng vụ PG như một cái cớ để biện minh cho chủ trương lật đổ ông Diệm. Cuộc đảo chánh tuy do các tướng VN thực hiện, nhưng Lodge đă ra lịnh cho Conein đứng ra tổ chức và chỉ huy từ đầu. Chính Lodge là người đưa lịnh cho Minh hạ sát TT Diệm và ông Nhụ Sau khi đảo chánh xong, các tướng lănh VN đều được lănh tiền thù lao (Conein th́ cho rằng số tiền này là để cho các tướng đảo chánh có phương tiện thoát thân nếu đảo chánh thất bại).

 

Về phía VC, Khu Ủy Trị - Thiên - Huế nh́n nhận rằng trong cuộc đấu tranh chống ông Diệm này, v́ phong trào bị đẩy lên quá nhanh họ không đi theo kịp nên đă bị dẫn đi trật hướng. Sự đẩy nhanh này là do bàn tay của Mỹ mà VC không đoán trước được. Bản kiểm điểm đă viết như sau:

 

“Cuộc đấu tranh với quy mô lớn nhất nổ ra quyết liệt từ ngày 5/8/63 lôi cuốn hàng vạn quần chúng, có một số tầng lớp trên và binh sĩ ngụy tham gia, đă tiến hành mít-tinh làm cho địch phải dùng súng đạn, kể cả đạn đại bác để đàn áp. Phong trào đấu tranh nhanh chóng bùng lên, thu hút hàng chục vạn người từ thành thị đến nông thôn khắp cả tỉnh đấu tranh quyết liệt với địch trong 3 tháng liền. Nhưng do “lănh đạo của ta không đi kịp quần chúng, tổ chức không đi kịp phong trào” nên bọn cơ hội đầu hàng trong giới cầm đầu PG lái di lệch hướng.

 

Cuộc đấu tranh này tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh cách mạng của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động ở thành thị, nông thôn chống lại chính sách chiến tranh tàn bạo của Mỹ-Diệm.

 

Phong trào đấu tranh quần chúng dưới danh nghĩa “phong trào PG” ở Huế đă mở đầu cho phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ ở các thành thị miền Nam và đă đẩy chế độ Mỹ-Diệm từ trạng thái không ổn định đi đến t́nh trạng khủng hoảng nghiêm trọng, kể cả những nơi mà chúng coi là dinh lũy cuối cùng” (“Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng”, Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).

 

Về phía PG, TT Trí Quang và các lănh tụ PG khác thuộc chùa Từ Đàm ở Huế đă đi từ thế chủ động qua thế bị động, trở thành công cụ của Hoa Kỳ lẫn VC. Sau này khi Mỹ hết xử dụng lá bài PG, họ đă bật đèn xanh cho Tướng Kỳ dẹp bỏ. TT Trí Quang trong khi đó vẫn nghĩ rằng báo chí và chính phủ Mỹ tiếp tục ủng hộ PG như trước, nên đă đánh điện kêu cứu.

 

Sau khi chính phủ Diệm bị lật đổ, các lănh tụ PG chùa Từ Đàm tin rằng sự “nổi dậy của PG” đă làm cho chính phủ Diệm bị sụp đổ, nên say men chiến thắng, gây nhiều biến loạn tiếp theo gây đau thương cho chúng tăng và cho cả đất nước miền Nam tự dọ

 

Đ̣i nợ máu, diệt Công giáo, ngụy ḥa và cướp chính quyền

 

3 năm sau khi chế độ NĐD sụp đổ, từ 1964-1966, được gọi là “3 năm xáo trộn”, 3 năm kinh hoàng của miền Nam VN. Đây là thời kỳ có lúc gần như không c̣n chính quyền nữa, nhóm PG cực đoan miền Trung phát xuất từ chùa Từ Đàm Huế, hành động dưới danh nghĩa Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, rồi Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nắm quyền sinh sát trong tay, muốn bắt ai th́ bắt, muốn phá chỗ nào th́ phá, muốn đốt nơi nào th́ đốt, muốn giết ai th́ cứ ám sát, tự tung tự tác trong cơ quan công quyền, nơi trường học, trên đường phố... Tổ chức này đă bắt cả Tỉnh trưởng Quảng Nam và Quận trưởng Hoà Vang đem đi giam v́ không chịu theo phe của họ.

 

Nhóm này tin tưởng rằng, khi họ “lật đổ” được NĐD, một chế độ chống Cộng vững mạnh tại miền Nam, th́ họ có thể làm bất cứ cái ǵ họ muốn mà không một chính quyền nào dám cưỡng lại. Say men chiến thắng, họ đă đưa ra nhiều yêu sách buộc chính quyền phải thực hiện ngaỵ Trước hết đ̣i một “quy chế đặc biệt” cho PG, rồi đ̣i “diệt dư đảng Cần Lao TCG”, đ̣i đưa các nhân vật PG lên nắm chính quyền, đ̣i cả những điều mà Bắc Việt và MTGPMN vẫn lải nhải trên đài phát thanh hàng ngày: Quân đội miền Nam và Hoa Kỳ phải đơn phương ngưng chiến, Mỹ rút, thành lập chánh phủ liên hiệp, trung lập và không liên kết, v.v... Khi những đ̣i hỏi phiêu lưu này không được thỏa măn, họ phát động những chiến dịch lôi PG vào vừa bằng chiến tranh chính trị, vừa bằng bạo động và quân sự để cướp chính quyền. Các vụ bạo động này càng dữ dội gấp 10 lần dưới thời ông Diệm, đưa tới những bi thảm cho cả PG đồ lẫn đất nước đến nổi các sử gia PG ít ai dám mô tả lại đầy đủ.

 

Một biến cố bất ngờ:

 

Sau khi tiếng reo ḥ ngày 1/11/63 chưa dứt th́ một biến cố khác xảy rạ Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lịnh Phó Quân đoàn I cho biết rằng sau khi nghiên cứu kỹ, ngày 29/1/64, ông và Tướng Nguyễn Khánh, Tư lịnh Quân đoàn I và Bộ tham mưu Quân đoàn I vào Saigon hợp với Tướng Dương Văn Đức làm cuộc “chỉnh lư” lật đổ nhóm tướng lănh làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Cuộc “chỉnh lư” này thành công khá dễ dàng. Tướng Thi cho biết nhờ Mỹ ủng hộ nên Tướng Khánh mới dám hành động như vậy.

 

Tướng Khánh tuyên bố trên đài phát thanh: “Từ 3 tháng nay, t́nh h́nh suy sụp về mọi mặt, chính quyền tỏ ra bất lực và phản cách mạng, một số người chạy theo thực dân và CS, nên một lần nữa Quân đội lại phải can thiệp”.

 

Các nhà b́nh luận cho rằng Mỹ để Tướng Khánh hành động như vậy v́ các lư do:

 

§ Các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 chỉ có khả năng đạp đổ chứ không có khả năng cầm quyền.

 

§ Mỹ lo sợ nhóm PG cực đoan miền Trung là một nhóm có lập trường chính trị mù mờ, có nhiều tham vọng và bị CS lũng đoạn, có thể dựa vào các tướng lănh thân họ để gây rối loạn và đưa miền Nam vào một một hướng đi khác. Vậy cần phải loại bỏ các tướng lănh đó đi và giao quyền hành lại cho một nhóm khác có khả năng cầm quyền và có thái độ thân Mỹ hơn. Tài liệu của Pentagon cho biết sau khi cuộc “chỉnh lư” hoàn tất, Lodge đă gởi một báo cáo cho Washington nói rằng khuynh hướng theo chủ trương trung lập của 2 tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn chưa rơ rệt, nhưng khi họ đă củng cố được chính quyền, có lẽ họ sẽ tán thành giải pháp trung lập của Pháp. Lodge cho biết, Đại sứ Ư D'Orlandi đă lưu ư 2 tướng Đôn và Kim (vẫn c̣n giữ quốc tịch Pháp), từng là phụ tá của De Lattre de Tassigny và hoạt động đắc lực cho Sở Mật thám của Pháp trong quá khứ, cho nên dư luận về chủ trương trung lập hóa miền Nam có thể đúng. Ông viết tiếp:

 

“Sau hết, tại nước này hiện nay, it khi có chuyện một cuộc bầu cử là một phương cách hữu hiệu, thích hợp để hoàn tất một vấn đề quan trọng. Để làm những chuyện quan trọng ở đây, phương pháp truyền thống là xử dụng sức mạnh có kế hoạch, có suy nghĩ kỹ càng. Điều mà Tướng Khánh đă làm không làm cho người VN ngạc nhiên... Tuy nhiên, một số người VN đă nói với các nhân viên trong bộ tham mưu của tôi rằng ông Minh là người tốt, thay thế ông ta là tội nghiệp.

 

“Vấn đề thiết thực phải đặt ra là Tướng Khánh có khả năng không? Liệu ông ta có đáp ứng dược một số hành động góp phần vào nỗ lực chống Cộng hay không? Cho đến nay, có bằng chứng cho thấy ông ta có khả năng, ông ta không chấp nhận một sự chậm trể nào...

 

 

“Nếu Tướng Khánh có khả năng th́ việc ông lên cầm quyền có thể đem lại cho đất nước này một Bộ tư lệnh chỉ có một người duy nhất thay v́ một Hội đồng Quân nhân. Chúng ta có những điều chúng ta cần ở VN”.

 

Vào tháng 3/64, TT Johnson đă chỉ thị cho Lodge phải đánh đổ ư tưởng trung lập. Ông yêu cầu chuyển mối quan tâm này cho Tướng Khánh và hỏi ư kiến về một kế hoạch chung để chấm dứt ư tưởng trung lập hóa này tại Saigon cũng như ở Washington và Paris.

 

Quan điểm của Lodge rất quan trọng. Nó cho thấy quan niệm của Hoa Kỳ về một chính quyền cần có tại miền Nam. Chính quyền này không có nơi các tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1/11/63 nên Hoa Kỳ đă đi t́m nơi khác. Tướng Khánh là người họ tin tưởng.

 

Trước biến cố bất ngờ ngày 30/1/64 do Tướng Khánh tạo nên, các nhà lănh tụ PG đi từ ngơ ngác đến lo âu, không biết phải phản ứng ra saọ Nhưng thấy thái độ ḥa hoăn và mị dân của Tướng Khánh, họ lại tiếp tục lấn lên.

 

* Tiễn đưa “ân nhân”:

 

Khi biến cố “chỉnh lư” ngày 30/1/64 chưa hết gây bàng hoàng trong hàng ngũ nhóm PG đấu tranh th́ họ lại phải tiễn đưa một “ân nhân” ra đị Ngày 23/6/64, Lodge tuyên bố từ chức. Ngày 28/6/64, ông mặc áo gấm màu xanh có h́nh chữ Thọ và chít khăn xếp theo y phục cổ truyền VN, rời phi trường Tân Sơn Nhất. Ra tiễn đưa Lodge, có cả hàng ngàn tăng ni và Phật tử cầm cờ Việt, Mỹ vừa vẫy vừa hoan hô náo nhiệt. Các tăng ni và Phật tử hôm đó không thể biết được rằng người mà họ đang hoan hô nồng nhiệt, sau này sẽ trở lại chỉ huy chôn vùi phong trào đấu tranh của PG. Trước khi lên máy bay, Lodge đă nói với các kư giả:”Khi từ giả VN, tôi chỉ có ân hận có mọt điều là không cứu sống được ông Diệm”. Không ai tin được câu nói đó của một nhà ngoại giao đầy thủ đoạn như ông. Tướng Dương Văn Minh đă kể rằng trước khi làm đảo chánh để lật đổ TT Diệm, Lodge đă nói với ông:”Nếu để ông Diêm lưu vong th́ bất cứ một Đại tá nào cũng có thể đảo chánh để đưa ông Diệm về”. Tuy nhiên, lời tuyên bố của Đại sứ Lodge trước khi rời VN đă làm nhóm PG đấu tranh khó chịu.

 

Tướng Maxwell D. Taylor đă được cử làm Đại sứ tại VN thay cho Lodgẹ

 

Đ̣i nợ máu:

 

Trong bộ “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”, Nguyễn Lang (HT Thích Nhất Hạnh) đă nhận xét:

 

“Sự hạ sát TT Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cuộc Cách Mạng 1/11/1963. Dù có ra lịnh hay không ra lịnh, các tướng trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về không thực hành được lời hứa bảo đảm được tính mạng hai người. Cái chết của họ đă kéo theo cái chết của hai vị Thiếu tá Nhung và Nghĩa. Nhưng đă hết đâu. Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi dây oan được cắt đứt”.

 

Thật ra cái chết của TT Diệm và ông Nhu không phải là “một điều đáng tiếc” như Nguyễn Lang viết, mà đây chỉ là màn đầu của một chiến dịch đ̣i nợ máu. Nhóm TT Trí Quang bắn tiếng cho các tướng lănh biết:

 

§ Những người sau đây phải đền tội: Ngô Đ́nh Cẩn, Phan Quang Đông, Đặng Sĩ, Dương Văn Hiếu, Hoàng Trọng Bá, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái.

 

§ Các “dư đảng Cần Lao”, phải rời các chức vụ và các vị trí then chốt trong chính quyền. Dư đảng Cần Lao ở đây được hiểu là những người theo CG và khi nói “diệt dư đảng Cần Lao” th́ phải hiểu là diệt Công giáo và các phần tử không đồng chủ trương của nhóm PG cực đoan miền Trung.

 

§ Các nhân vật PG được mệnh danh là “các tướng Cách Mạng” (Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Đỗ Mậu,...) phải nắm các địa vị then chốt trong chính quyền...

 

Những đ̣i hỏi này được lặp đi lặp lại thường xuyên trên các báo chí PG, trong các cuộc biểu t́nh và tuyên ngôn tuyên cáo của nhóm TT Trí Quang. Nhưng Tướng Minh c̣n do dự. Ông hiểu rằng những chuyện này không thể làm được. Sau vụ hành quyết 2 anh em ông Diệm-Nhu do lệnh của Conein qua tay Tướng Mai Hữu Xuân th́ có nhiều sự bất b́nh trong hàng ngũ các tướng lănh v́ họ không được có tiếng nói trong biến cố quan trọng đó. Nhiều người trong họ cho đó là hành động quá đáng và không cần thiết. Tướng Đôn đă chỉ trích Tướng Minh về việc không thông báo cho ông biết lịnh của Lodge và Conein. Do đó Tướng Minh đă không dám đáp ứng đ̣i hỏi củ TT Trí Quang.

 

Nhưng ngày 30/1/64, Tướng Khánh đă làm cuộc “chỉnh lư”. Khánh vốn là người được TT Diệm nâng đở đặc biệt và không tham gia trực tiếp vào cuộc đảo chánh ngày 1/11/63. Để chứng tỏ rằng ông không bênh vực “dư đảng Cần Lao”, việc đầu tiên mà ông nhận thấy cần phải làm là đưa các “dư đảng” này ra xét xử.

 

Trước hết, Tướng Nguyễn Khánh đă chỉ thị cho ông Nguyễn Văn Mầu, Bộ trưởng Tư pháp, phải nghiên cứu cách nào để có thể tuyên án tử h́nh ông Ngô Đ́nh Cẩn và những người liên hệ. Sau khi nghiên cứu, Bộ Tư pháp thấy rằng nếu áp dụng bộ Hoàng Việt H́nh Luật th́ không thể tuyên án tử h́nh những tội vớ vẫn như bắt người trái phép, đả thương, bức tử, tống tiền, v.v... Vậy th́ c̣n một cách là làm một đạo luật mới quy một số hành vi của các nhân vật chế độ cũ vào tội cố sát, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia và dự liệu quy định mới này có “hiệu lực hồi tố” (retroactive effect). Một nguyên tắc của h́nh luật là luật h́nh chỉ áp dụng cho các hành vi xảy ra kể từ ngày ban hành luật chớ không áp dụng cho các hành vi xảy ra trước ngày đó. Sự quy dịnh như trên là trái với nguyên tắc căn bản của h́nh luật. Nhưng “cách mạng” không cần phải tuân theo một nguyê tắc nào cả. Bộ Tư pháp đă làm đúng theo yêu cầu của Tướng Khánh. Sắc luật số 4/64 ngày 18/2/64 thiết lập Ṭa Án Cách Mạng được ban hành, trong đó có điều khoảng dự liệu luật này có hiệu lực hồi tố. Sau đó, Tướng Khánh đă ra lịnh bắt giữ và điều tra tất cả những người bị các Tỉnh Hội Phật Giáo tố cáo là “dư đảng Cần Lao”. Số người bị câu lưu lên đến 267 người. Tướng Khánh cho đưa ngay những người có tên trong danh sách mà TT Trí Quang đ̣i nợ máu ra trước Ṭa Án cách Mạng. Sau đây là vụ án của Phan Quang Đông và Dương Văn Hiếu.

 

Vụ Phan Quang Đông:

 

Ngày 26/3/64, Ṭa Án Cách Mạng họp ở Huế để xét xử PQD về các tội cố sát, bắt giam trái phép, sách thủ tiền tài và lũng đoạn kinh tế, các tội phạm này liên hệ đến 19 nạn nhân trong thời gian từ 26/10/55 - 1/11/63. Nhưng vụ quan trọng nhất là vụ khách sạn Morin ở Huế.

 

Năm 1957, PQD, nhân viên của Sở Nghiên Cứu Chính Trị (một cơ quan đặc vụ và t́nh báo), thấy ông Nguyễn Văn Yến, một tiểu th+ơng và ông Nguyễn Phương, một nhà thầu khoán, không có tài sản bao nhiêu nhưng đă đứng ra mua lại toàn bộ khách sạn Morin của Pháp, một khách sạn lớn nhất ở Huế lúc đó, liền cho mở cuộc điều trạ V́ các đương sự không chứng minh được nguồn gốc tài sản đă bỏ ra mua và một số bằng chứng cho thấy các đương sự có liên hệ đến nhân viên t́nh báo của Pháp, nên PQD đă bắt và điều tra về việc hoạt động gián điệp cho Pháp. Khi đang tiến hành điều tra thêm th́ Nguyễn Phương đă nhảy lầu tự sát. Đầu năm 1963, gia đ́nh các nạn nhân đă đệ đơn TT Diệm cứu xét. Ông Diệm giao cho Đại tá Đỗ Mậu, Cục Trưởng An ninh Quân đội điều tra nội vụ. Đỗ Mậu rất kỵ Ngô Đ́nh Cẩn nên không dám tự ra Huế điều tra nên bán cái cho đàn em là Đại úy Phạm Bá Thích, Trưởng Ty Anh ninh Quân đội Huế ở Huế. Nhận được chỉ thị của Đỗ Mậu, Thích nhờ Đại úy Nguyễn văn Minh, sĩ quan phụ trách về an ninh của Cẩn giúp đỡ. Cẩn gọi Thích vào và sau khi biết là do TT Diệm chỉ thị điều tra nên Cẩn bảo Đại úy Thích điều tra một cách vô tư v́ đây là lịnh của TT. Cẩn cũng ra lịnh PQD phải cung cấp tất cả tài liệu mà Đại úy Thích cần. Một bản phúc tŕnh cho biết việc liên hệ với gián điệp Pháp là có căn cứ. Bản phúc tŕnh được Đỗ Mậu tŕnh lên TT Diệm và sau đó vụ này không c̣n nhắc tới nữa.

 

Dù rằng có bút tích của Đỗ Mậu nhưng ông ta cố tránh né không chịu trách nhiệm. Nhưng khi Tướng Ngyuyễn Khánh đă chỉ thị làm một đạo luật vi phạm nguyên tắc của h́nh luật để xử tử h́nh PQD và Ngô Đ́nh Cẩn th́ mọi sự tranh luận về pháp lư và bằng chứng của tội phạm cũng bằng thừa. PQD bị tuyên án tử h́nh ngày 28/3/64.

 

Vụ Dương Văn Hiếu:

 

Ngày 23/6/64, Ṭa Án Cách Mạng tại Saigon lại xét xử vụ Dương Văn Hiếu, Tư lịnh Cảnh sát Đặc biệt và các cộng sự viên là Nguyễn Thiện Dzai, Nguyễn Tư Thái và Phan Khanh.

 

Ông Dương Văn Hiếu là người phụ trách công tác phản gián để t́m bắt các cán bộ CS nằm vùng. Năm 1958, trong một cuộc hành quân tại Quảng Ngăi, Trung doàn 4 của Sư đoàn 1 đă phát hiện 1 tài liệu bí mật của VC chôn giấu và cho cơ quan mật vụ của BS Trần Kim Tuyến biết. Dương Văn Hiếu được cử đi và ông khám phá đó là một tài liệu ghi khóa mật mă của VC. Hiếu cho làm bản sao, chôn lại chỗ cũ và cho pháo binh bắn vào để phá dấu vết đào bới. Nhờ vậy VC không nghi ngờ các khóa mật mă của họ đă bị khám phá.

 

Dùng các khóa mật mă bắt được, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của Hiếu đă giải mật mă hàng trăm văn kiện liên lạc giữa VC và nhờ đó phát hiện hàng trăm cán bộ nằm vùng của VC từ Quảng Trị tới Saigon. Trong các nhân viên cao cấp của VC bị bắt có Cao Đăng Chiếm, Huỳnh Văn Trọng, Trần Ngọc Hiền,... Nhóm TT Trí Quang đă có nhiều hồ sơ tố cáo Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đă bắt giam người trái phép, trong đó có vụ lớn nhất là vụ Nguyễn Văn Đạt ở Huế. Các lănh tụ chùa Từ Đàm quả quyết Đạt đă bị bắt oan, nhưng hồ sơ t́nh báo cho thấy Đạt chính là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên của VC. Có nhiều cán bộ VC hoạt động dưới quyền của Đạt đă làm tờ tự thú và xin trở về với chính phủ VNCH. Về sau, bịnh sốt rét của Đạt tái phát nặng, cơ quan an ninh đă cho Đạt về với gia đ́nh và giúp cho phương tiện cứu chữa.

 

Mặc dù có những tài liệu minh chứng các hồ sơ do các tăng ni chùa Từ Đàm đưa ra tố cáo về việc bắt giam trái phép đều liên hệ đến đặc công CS nằm vùng, ngày 25/6/64 ṭa tuyên án Dương Văn Hiếu, Nguyễn Thiện Dzai và Nguyễn Tư Thái khổ sai chung thân và Phan Khanh 10 năm khổ saị

 

Hậu quả của các bản án này là các nhân viên t́nh báo và an ninh ở miền Trung không c̣n dám bắt các cán bộ nằm vùng hoạt động trong các tổ chức PG nữa nên t́nh h́nh miền Trung đă trở nên rối loạn liên tục.

 

Các nhân viên t́nh báo cao cấp nói rằng TT Trí Quang cương quyết loại trừ tất cả những nhân chứng biết rơ và nắm trong tay hồ sơ hoạt động cho CS của nhóm ông. Những người có tên trong danh sách đ̣i nợ máu của ông đều là những nhân chứng biết về sự liên hệ của ông với VC, trong đó Ngô Đ́nh Cẩn và Phan Quang Đông là 2 người biết nhiều chi tiết nhất. Tuy 2 nhân chứng này đă chết, nhưng cơ quan t́nh báo của VNCH và CIA đă lưu trữ đầy đủ hồ sơ hoạt động của nhóm này.

 

Về chiến dịch “diệt dư đảng Cần Lao”, VC cho biết:

 

“Hoạt động của ta từ sau hồi Diệm đổ diễn ra mạnh mẽ, đă kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên cả 3 vùng, từ rừng núi đến đồng bằng, thành phố, tới giới tuyến giáp ranh vùng sâu.

 

“Trên cơ sở phong trào đấu tranh quần chúng, công tác xây dựng thực lực cách mạng cũng phát triển mạnh: Ở Thừa Thiên cơ sở chính trị đă tăng 40% so với năm 1962, phong trào thanh niên ra vùng giải phóng tham gia cách mạng ngày một nhiều.

 

“Phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh, nổi lên là những cuộc đấu tranh của sinh viên, học sinh và nhân dân lao động đ̣i trừng trị những tên ác ôn đầu sỏ có nợ máu với dân như tên Đỗ Cao Trí, đ̣i hạ bệ tên Nguyễn Quang Trung, tỉnh trưởng Quảng Trị. Cuộc đấu tranh đ̣i xử tội tên Ngô Đ́nh Cẩn và Phan Quang Đông có tới 5 vạn người tham giạ Khi Nguyễn Khánh ra Huế bị quần chúng la ó, ném guốc, dép phải bỏ về Saigon” (“Chiến trường Trị -Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng”, Thuận Hoá, 1985, t. 80-81).

 

Sau vụ PG miền Trung bị dẹp tan vào tháng 6/1966, uy lực của TT Trí Quang không c̣n nữa, chính phủ đă kư sắc lịnh ngày 31/10/66 giảm án khổ sai của các đương sự bị Ṭa Án Cách Mạng kết án xuống c̣n 5 năm khổ sai rồi qua năm 1967 trả tự do hết.

 

Thanh toán Công giáo và các đảng phái chống Cộng dưới danh nghĩa diệt trừ “dư đảng Cần Lao”:

 

Sau khi chế độ NĐD sụp đổ, TT Trí Quang cho lập ngay Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc, phát xuất từ Huế, để tiếp tục cuộc “đấu tranh”. Như chúng ta đă thấy, mục tiêu chiến lược của ông không phải là chống đàn áp PG; nghĩa là PG chỉ là con cờ của ông. “Chống đàn áp PG” chỉ là chiến thuật. Do đó, khi mục tiêu chiến thuật này được thỏa măn, ông tạo mục tiêu mới ngay và xử dụng PG để đạt tới mục tiêu mới này. Mục tiêu chiến thuật mới đó là “diệt dư đảng Cần Lao”. Như đă nói, coi là “dư đảng Cần Lao” tất cả mọi người theo Công giáo và bất cứ tổ chức nào chống hay không đồng quan điểm với ông. Về sau, các khẩu hiệu của nhóm PG cực đoan miền Trung ghi rơ “diệt dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo”. Phải diệt xong CG và các đảng phái quốc gia chống Cộng mới có thể cướp chính quyền, v́ đó là các đối thủ có thể ngăn chặn hoặc phá vỡ kế hoạch tiến công của ông. V́ thế, mới ra quân, ông và nhóm của ông đă chỉ thị cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc chĩa mũi dùi thẳng vào CG và các đảng phái quốc gia chống Cộng. TT Trí Quang không lường trước được phản ứng của CG, các đảng phái và các Phật tử chân chính, nhất là các tông phái miền Bắc và miền Nam.

 

a.   Tạo lư do mới:

 

Để xách động Phật tử đứng lên diệt “dư đảng Cần Lao TCG”, ngày 3/8/64, TT Thích Thiện Minh dẫn một phái đoàn Phật tử đến gặp Tướng Nguyễn Khánh, đưa hồ sơ tố cáo tại các địa phương “dư đảng Cần Lao” đang “đàn áp PG” ở Quảng Nam và Đà Nẵng: bắt bớ Phật tử ở Duy Xuyên, đốt nhà ở Phước Tuy, sát hại Phật tử ở An Thạch, v.v... Sau khi điều tra, ban điều tra thấy rằng những người bị bắt đều là cán bộ CS nằm vùng tổ chức phá rối.

 

b.   Đánh phá các cơ sở CG:

 

Áp đảo được chính quyền địa phương, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại miền Trung quay mũi dùi tấn công thẳng vào CG. Các nhân viên CG trong các cơ quan công quyền bị phân biệt đối xử. Nhiều người bị bắt, bị cất chức hay bị đổi đi xạ Các giáo xứ thường bị khiêu khích và đe dọa. Khi thấy nhóm PG miền Trung này quá lộng hành, các giáo xứ này đă liên kết để đối phó.

 

Ngày 26/8/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc bất thần ra lịnh tấn công 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, đốt sạch nhà cửa, giết 11 người và gây thương tích cho 42 người. 2 giáo xứ này đă trở thành một băi tha ma, nhà thờ và tượng ảnh bị đập nát, những cột nhà đen nám chơ vơ giữa đống tro tàn... Tướng Nguyễn Chánh Thi tuyên bố cứu trợ nhưng không cho bồi thường, viện lư do vụ thiệt hại này không phải lỗi của chính quyền. Ông cho điều tra qua loa rồi xếp luôn hồ sợ Người điều khiển cuộc đốt phá và chém giết “kiểu phong trào Văn Thân” này là Hà Xuân Kỳ và Phan Xuân Huỵ Nhờ chỉ huy vụ chém giết và đốt phá này Huy được nhóm TT Trí Quang đưa ra làm dân biểu đơn vị Đà Nẵng. Cũng trong ngày đó, các giáo xứ tại Qui Nhơn cũng bị đánh phá nặng nề, nhưng dân làng đă tự cứu lấy ḿnh.

 

Được tin cầu cứu từ Đà Nẵng và Quy Nhơn, ngày 27/8/64, khoảng 2000 giáo dân các xứ di cư đă đến bao vây Bộ Tổng Tham Mưu ở Saigon đ̣i gặp Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, yêu cầu giải quyết vụ Đà Nẵng và Quy Nhơn, đ̣i phải có biện pháp đối với các tổ chức gây rối. Cuộc xô xát xảy ra làm 4 người bị bắn chết và 11 người bị thương. Một toán đến Đài phát thanh đọc bản Tuyên ngôn chống Cộng và chống trung lập. Tại đây có một cuộc xô xát với học sinh Nguyễn Trường Tộ. Viện Hoá Đạo và Ṭa Giám Mục đă đứng ra yêu cầu tín đồ giữ b́nh tĩnh và giữ ḥa khí.

 

Ngày 28/8/64, Hội Đồng Nhân dân Cứu Quốc vây trường CG Nguyễn Bá Ṭng, đập phá nhà in của trường, đốt phá ṭa báo Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lăm. Hay tin này một số thanh niên CG di cư đă đến giải vây. Lực lượng Nhảy Dù được huy động đến để giàn xếp. Kết quả có 2 người chết và 48 người bị thương.

 

Ngày 29/8/64, Viện Hoá Đạo ra tuyên bố không muốn nhúng tay vào các vụ bạo động này nữa v́ các nguyện vọng của PG đă được thỏa măn th́ bị TT Trí Quang và các Phật tử theo ông ở Huế phản ứng mạnh mẽ, nên ngày 1/9/64, TT Tâm Châu lại ra thông báo khác yêu cầu chính phủ phải dứt khoát với “các nhóm người phá hoại của chế độ cũ”. Yêu cầu chính phủ đừng chụp mũ các Phật tử tranh đấu là du đăng để bắt bớ. Ông dọa là nếu đến ngày 27/10/64 không giải quyết th́ sẽ cho lịnh bải thị và bải khóa.

 

Để đáp lại, ngày 8/9/64 linh mục Hoàng Quỳnh, chủ tịch Khối Công Dân Công Giáp, gởi cho Tướng Nguyễn Khánh một thư ngỏ yêu cầu chính phủ quan tâm đến các vụ tấn công các cơ sở CG trong những ngày vừa qua, yêu cầu điều tra và giải quyết một cách vô tư các vụ tấn công các giáo xứ ở Đà Nẵng và Quy Nhơn. Nếu chính phủ không văn hồi được an ninh th́ các giáo xứ CG bắt buộc phải đứng ra tổ chức tự vệ.

 

Ngày 21/9/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc cho lịnh tấn công Đài phát thanh Quy Nhơn và lùng bắt “dư đảng Cần Lao”. Ngày 27/9/64, TT Trí Quang và nhóm của ông ra lịnh mở các cuộc lùng bắt “du đảng Cần Lao” tại Huế và các tỉnh Trung phần.

 

Ngày 25/9/64 Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Saigon lại hô hoán rằng “dư đảng Cần Lao” đang thuê ḷ rèn Lâm Hiệp Thành ở Xóm Củi rèn hàng ngàn con dao để chống cách mạng. Nhưng Phái Đoàn Viện Trợ Hoa Kỳ ra thông cáo nói rơ là số dao này do Phái Đoàn đặt ra để cung cấp cho Phủ B́nh Định & Phát Triển phát cho nông dân chớ không phải cho “dư đảng Cần lao”.

 

Từ khi các giáo xứ CG bắt đầu tự tổ chức để bảo vệ chính họ th́ Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc không c̣n lộng hành như trước nữa. Về vụ này các nhóm CG thân Cộng như Lư Chánh Trung, Nguyễn Đ́nh Đầu, Nguyễn Văn Trung, Trương Bá Cần,...đă phản đối chủ trương tự vệ, nhưng các giáo xứ nghe họ th́ chắc đă tan hoang như Thanh Bồ và Đức Lợi.

 

c.   Vụ Linh mục Cao Văn Luận:

 

Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế, là cái gai mà TT Trí Quang muốn nhổ ngay từ đầu, nhưng ông không dám nhổ ngay v́ Linh mục Luận là người có công lớn trong việc xây dựng lên Viện Đại học Huế, ông lại được hầu hết các giáo sư và sinh viên yêu chuộng v́ tính t́nh ḥa nhă, có tinh thần phục vụ tích cực và bất vụ lợi... Trong thời gian PG đấu tranh lật đổ ông Diệm, ông không đứng về phe chính phủ. Nhưng sự hiện diện của ông lúc này gây trở ngại cho cuộc đấu tranh cướp chính quyền mà TT Trí Quang đang phát động v́ Linh mục Luận không đồng ư đưa chính trị vào đại học. Ngoài ra, TT Trí Quang không muốn có một người CG nắm địa vị quan trọng trong Viện Đại học Huế, nhất là khi người đó là một linh mục. Viện Đại học Huế phải trở thành của PG. V́ thế, khi đă làm chủ được t́nh h́nh ở Huế và đa số các tỉnh miền Trung, TT Trí Quang liền ra lịnh cho các giáo sư thuộc phe ông trong Viện đại học dứt điểm vụ này. Trước hết, nhóm này cho xuất bản tờ tuần báo Lập Trường để triển khai chủ trương của nhóm, cổ vơ cho đường lối của TT Trí Quang và công khai chống chính phủ.

 

Ngày 18/9/64, một số giáo sư và sinh viên họp tại Viện Đại học yêu cầu Linh mục Luận từ chức để khỏi làm trở ngại cho chiến dịch bài trừ “Cần Lao” của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc. Một số sinh viên không đồng ư quan điểm của một số giáo sư nên đă làm kiến nghị phản đối. Một giáo sư đại diện cho phe PG đấu tranh trả lời rằng Linh mục Luận giống như một “ung thư” phải cắt để khỏi làm tê liệt thân thể. GS Lư Chánh Trung, tuy ủng hộ PG, nhưng cũng bất b́nh. Ông viết:

 

“Cái “ung thư” Cao Văn Luận đă mọc từ trong bào thai của Viện Đại học Huế. Nó đă khai sinh và làm cho trường thành bào thai dó. Cái “ung thư” đó đă lê cái thân già đi khắp cùng trái đất, xin tiền, kiếm người, khẩn khoản mời mọc từng người về giúp Viện Đại học Huế, không phân biệt chính kiến, địa phương, tôn giáo. Và kết quả sau 7 năm trời xem cũng “được” lắm chứ. Cái trường Y Khoa của BS Quyến, nếu không có niềm tin tưởng, cái gàn ĺ và công vận động của Cha Luận, làm sao thành h́nh? 

...

 “Thực ra các anh đă “cách chức” Cha Luận v́ Cha không dồng ư với các anh về mặt chính trị. Như vậy Viện Đại học Huế đă biến thành một đảng chính trị rồi. Và ai không đồng ư với các anh đều là “ung thư” phải mổ phăng đi chọ..”dễ làm việc” có phải vậy không?

 

“Các anh đ̣i hỏi dân chủ. Đ̣i hỏi dân chủ bằng cách bắt đầu độc tài, độc đoán; bắt đầu khệnh khạng huênh hoang; bắt đầu làm chủ chân lư, 'xếp ṣng cách mạng' “ (“Ba năm xáo trộn”; Lư Chánh Trung; Nam Sơn, 1966; t. 108-112).

 

Tại Saigon, ngày 27/9/64, “Lực lượng Sinh viên Học sinh bảo vệ Giáo dục thuần túy” tập họp và biểu t́nh trước Viên Hóa Đạo yêu cầu “đưa chính trị ra khỏi học đường”. Hội Đồng Chỉ Đạo Sinh Viên Học Sinh Saigon họp ra quyết nghị chống việc các tổ chức chính trị xen lấn vạ học đường và lôi cuốn sinh viên vào các cuộc phiêu lưu chính trị. Các tổ chức này bị phe PG cực đoan tố cáo là tay sai của “dư đảng Cần Lao”.

 

d.   Đánh tất cả những ai không đồng chủ trương:

 

Sau khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị cất chức Tư lịnh Vùng I v́ dung dưỡng phong trào ngụy ḥa và sự lộng hành của nhóm PG cực đoan miền Trung, TT Trí Quang thấy thế dựa bị mất, đă mở cuộc phản công Hội Đồng Quân Lực và tiến tới cướp chính quyền. Trong chiến dịch mới này, TT Trí Quang không tha bất cứ tổ chức nào ông coi là “phản động”, không đứng về phe của ông.

 

Về phía các đảng phái, người ta thấy chỉ có nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng thuộc hệ phái Nguyễn Tường Tam do Nguyễn Tường Hiếu lănh đạo đă theo nhóm TT Trí Quang, c̣n đa số các đảng phái khác hoặc đứng ngoài cuộc chiến hoặc chống lại. Về phía báo chí, ngoại trừ một vài tờ báo của PG, hầu hết các báo không đồng ư về đường lối của TT Trí Quang. Các tông phái PG miền Nam rút ra khỏi phe đấu tranh như Hội Phật Học Nam Việt, Tổng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam... Ngay cả các tăng sĩ miền Bắc trong Viện Hóa Đạo cũng thường xuyên phản kháng. Trước t́nh trạng này, TT Trí Quang vẫn không xét lại hành động của ông mà c̣n ra lịnh tấn công bất cứ tổ chức hay cơ quan nào không chấp nhận chủ trương của ông.

 

Ngày 6/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đến đập phá ṭa soạn báo Sống của Chu Tử, đốt xe đạp đậu trước và tố cáo báo này là tay sai “dư đảng Cần Lao”. Ngày 8/4/66, Nghiệp đoàn Kư giả ra thông báo phản đối.

 

Ngày 9/4/66, VNQDD Đà Nẵng đă ra thông cáo tố cáo Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đă phá trụ sở của họ và bắt đi các đảng viên.

 

Ngày 10/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng Đà Nẵng có trang bị súng tiểu liên và lựu đạn đă đến vây đánh giáo xứ Tam Ṭa, nhưng nơi đây đă tự vệ vững chắc. Ngày 28/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ném lựu đạn vào nhà cha xứ Tam Ṭa.

 

Ngày 16/4/66, vào sáng sớm, ông Chu Tử (Chu Văn B́nh), chủ bút nhật báo Sống, vưa ra khỏi nhà th́ bị bắn nhiều phát. Ngày 17/4/66, nhiều đoàn thể, tổ chức, giáo sư và sinh viên Luật khoa, Tổng hội sinh viên Saigon và Đà Lạt, các luật sư, nhà văn, nhà báo đă lên án vụ ám sát Chu Tử.

 

Ngày 21/4/66, VNQDD họp tại Ṭa Đô Chánh Saigon tố cáo các vụ đàn áp đảng viên tại Đà Nẵng, chê chánh quyền bất lực và quyết định tự vệ bằng vơ lực. Cùng ngày VNQDD Quảng Ngăi biểu t́nh chống khủng bố và bạo động.

 

Ngày 24/4/66, giáo dân Saigon, Thủ Đức và Đà Nẵng biểu t́nh chống khủng bố và bạo động, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Cabot Lodgẹ

 

Ngày 27/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ám sát ông Phan Thuyết, Bí thư VNQDD Đà Nẵng.

 

Ngày 2/5/66, trong khi các đảng viên VNQDD và thanh niên làm lễ truy điệu ông Phan Thuyết th́ tại Đă Nẵng đám tang của ông Thuyết bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đi xe Jeep xă súng bắn làm 2 người bị thương nặng.

 

Ngày 7/5/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng ra lịnh cấm bán ở Huế và Đà Nẵng các nhật báo Chính Luận, Tự Do, Thời Luận và Tiền Tuyến v́ cho rằng các báo này là của “dư đảng Cần Lao”.

 

Ngày 14/5/66 tại Saigon, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng đă ám sát ông Nguyễn Chữ, một đảng viên VNQDD khi ông lên tiếng tố cáo các vụ bắt bớ đảng viên và phá trụ sở đảng tại Đà Nẵng.

 

Ngày 26/5/66, sinh viên Tô Lai Chánh, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên saigon bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt cóc v́ Chánh và Tổng hội quyết định không tham gia vào cuộc nổi loạn của PG. Trước đó, Chánh và các sinh viên đă tuyệt thực phản đối và yêu cầu TT Thiện Minh chứng minh điều TT nói là sinh viê đă nhận tiền của chính phủ. Đến ngàu 30/5/66, Chánh được thả.

 

Ngoài ra, cùng lúc TT Trí Quang đi khai chiến với các tông phái PG khác. Ngày 29/5/66, ông Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt, phải viết văn thư yêu cầu Ṭa Đô Chánh Saigon cho nhân viên công lực đến bảo vệ chùa Xá Lợi.

 

Ngày 2/4/66, trong cuộc biểu t́nh trước Đài phát thanh Saigon, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng hô to “Đả đảo Thích Tâm Châu” và “Hoan hô Hồ Chí Minh”.

 

Ngày 3/6/66, TT Trí Quang công khai lên án chính sách ôn ḥa của TT Tâm Châu khiến TT Tâm Châu và Hộ Giác tức giận từ bỏ các chức vụ trong Viện Hóa Đạo.. TT Tâm Châu đă phải chạy ra Vũng Tàu hay vào Trung tâm Nhu đạo ở Quang Trung để trốn v́ sợ bị ám sát.

 

 

Qua vài sự kiện trên, người ta bắt đầu thấy rơ rằng nhóm PG cực đoan miền Trung đă đi từ việc chụp mũ “dư đảng Cần lao” đến tố cáo là “tay sai chính quyền”, rồi khủng bố, bắt giam, bắt cóc, ám sát, chiếm cơ quan công quyền, v.v... Họ đă dùng bất cứ phương tiện nào để đạt mục đích. Từ từ dân chúng bắt đầu chán ghét và họ mạnh dạng lên án. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng trở nên rối loạn, không c̣n kiểm soát được, mở đường cho chính quyền thanh toán.

 

Cướp chính quyền

 

Sau khi đă thỏa măn tiếng kêu đ̣i nợ máu của nhóm TT Trí Quang xong, Tướng Nguyễn Khánh nghĩ đến củng cố địa vị.

 

Hiến chương Vũng Tàu:

 

Vốn là một quân nhân thuần túy, Tướng Khánh không có kinh nghiệm về chính trị và nhất là không biết ǵ đến thủ đoạn và chiêu bài của CS, nên lầm tưởng rằng đưa những người mà nhóm của TT Trí Quang đ̣i nợ máu ra xử bắn và bỏ tù là có thể lấy ḷng của nhóm PG cực đoan miền Trung. Ông không hiểu rằng “diệt dư đảng Cần Lao” chỉ là mục tiêu bề ngoài (biểu kiến), một chiêu bài để kích động quần chúng. Mục tiêu tối hậu là cướp chính quyền tại miền Nam VN. V́ thế, sau khi đưa Ngô Đ́nh Cẩn và Phan Quang Đông ra xử bắn (cùng ngày) và tuyên phạt khổ sai các thành phần bị đ̣i nợ máu trong danh sách của TT Trí Quang, Tướng Khánh tưởng rằng ông đă được PG ủng hộ nên thừa thắng xông lên và kết quả thật là thảm hại.

 

Ngày 16/8/64, Tướng Khánh cho triệu tập Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng (HĐQĐCM) tại Vũng Tàu để công bố một bản Hiến Chương mới. Theo đó, sẽ có một Quốc hội lâm thời gồm 100 hội viên dân sự và 50 hội viên quân sự do HĐQĐCM chỉ định. HĐQĐCM vẫn là cơ quan quyền lực tối cao. Và hội đồng này đă chỉ định Tướng Khánh làm Chủ tịch VNCH.

 

Nhiều người tin rằng tác giả của bản Hiến Chương trên là Nghiêm Xuân Hồng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng của chính phủ Nguyễn Khánh. Hồng là một luật sư có tư cách đàng hoàng, được nhiều người yêu mến, nhưng về phương diện chính trị, ông được xếp vào loại những nhà lập thuyết, hoạch định đường lối và chính sách theo “luận”, mang tính chât mờ mờ ảo ảo, chứ không theo thực tế.

 

Hiến Chương vừa được công bố th́ bị chống đối ngaỵ Các đảng Đại Việt (BS Nguyễn Tôn Hoàn), Dân Chủ Xă Hội (Nguyễn Bảo Sơn) và VNQDĐ (biệt bộ Nguyễn Tường Tam) lên tiếng công kích trước nhất, sau đó là Tổng hội Sinh viên Saigon và khối Công giáo. Tướng Khánh nh́n lại nhóm PG đấu tranh miền Trung th́ nhóm này cũng chống đối luôn. Sinh viên Saigon là giới làm áp lực mạnh nhất đ̣i Tướng Khánh phải thu hồi Hiến Chương và thành lập chế độ dân chủ.

 

Ngày 26/8/64, sau 10 ngày ban hành Hiến Chương, HDQDCM tuyên bố thu hồi Hiến Chương và thiết lập các cơ chế dân chủ. Quân đội quay về cương vị quân sự của họ. Tạm thời thành lập Ban Lănh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực gồm Tam Đầu Chế: Dương Văn Minh - Trần Thiện Khiêm - Nguyễn Khánh. Chính phủ Nguyễn Khánh tiếp tục đảm nhiệm chức vụ nhưng phải tổ chức Quốc Dân Đại Hội trong ṿng 2 tháng.

 

Không c̣n chính phủ:

 

Lợi dụng cơ hội này, TT Trí Quang tuyên bố không chấp nhận cơ chế tạm thời nói trên và hô hào loại bỏ chế độ độc tài quân phiệt. Miền Trung gần như không c̣n chính phủ nữa. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc do TT Trí Quang điều động đă nổi loạn khắp nơi và làm chủ t́nh thế ở các tỉnh miền Trung, thay chính quyền cai trị. Ngày 3/9/64, Tướng Dương Văn Minh và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh đă bay ra Huế trấn an phong trào PG. Lư Chánh Trung viết bài “Loạn để trị” trên tờ T́m Hiểu số 2/10/64 mô tả giai đoạn này như sau:

 

“V́ rằng từ mấy tháng nay, nhất là từ cái ngày Hiến Chương Ô Cấp (Vũng Tàu), “thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lư” bị đập đổ, ngươi dân miền Nam đă nếm được cái thú vị của tự dọ Tự do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấu. Muốn ǵ cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng trận. Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều “thiện chí” bằng cái chính quyền này: xum xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa ḷng tất cả mọi người.

 

“Nhưng tội thay, không làm ai vừa ḷng cả.

 

“Nhưng c̣n chính quyền nữa đâu mà nói ! Ai cầm quyền hiện nay tại miền Nam? Người Mỹ trả lời: Ông Nguyễn Khánh, rồi “Ban Lănh Đạo Lâm Thời Quốc Gia và Quân Lực”. Dưới Ban Lănh Đạo Lâm Thời có một chính phủ xử lư thường vụ” trong 2 tháng (chỉ c̣n 1). Trong chính phủ này, có một ông Phó Thủ Tướng đă bôn đào, 2 ông Tổng Trưởng đă chấp nhận từ chức. Dưới nữa ta có các Tổng Giám Đốc, Giám Đốc, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, v.v... Tất cả guồng máy hành chánh vẫn nằm đó, công chức cuối tháng vẫn lănh lương dều đều. Nhưng chính quyền, ôi chính quyền, mi ở nơi nao?

 

“Ở Huế có cái Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng (rồi Cứu Quốc) mà thành phần chủ yếu là một số giáo sư đại học. Hội đồng này đă cực lực phủ nhận tam đầu chế Minh-Khánh-Khiêm. Thế rồi người ta thấy ông Minh và ông Oánh lẽo đẽo ra Huế để “thỉnh ư” Hội Đồng đó. Hội Đồng thương thuyết tay ngang với Chính Phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, những Hội Đồng tương tự được thiết lập và người ta đă chứng kiến những tấn bi hài kịch của những người “dư đảng Cần Lao” đến đầu thú nơi ông Tỉnh th́ được ông Tỉnh gởi qua Hội Đồng, đến Hội Đồng th́ được trả về Tỉnh.

 

“Thế th́ ai cầm quyền trên đất nước này? Và dựa vào đâu những cái Hội Đồng đó dám tự xưng là “nhân dân”? Dân nào mà cử các ông ấy?”.

 

Chính trong thời gian này, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của TT Trí Quang đă thiêu rụi 2 giáo xứ Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẵng, tấn công các cơ sở ấn loát và báo chí của CG tại Saigon. Nếu không có sự đối kháng của Khối Công Dân CG (của linh mục Hoàng Quỳnh), các tổ chức CG tự vệ tại các giáo xứ th́ nhiều tang thương chắc đă xảy rạ

 

* Thủ Tướng Trần Văn Hương:

 

Ngày 8/9/64, Tướng Khánh ban hành Quyết định số 7/BLDQGQL thành lập Thượng Hội Đồng Quốc Gia với nhiệm vụ soạn thảo Hiến Chương, triệu tập Quốc Dân Đại Hội, tổ chức các cơ cấu quốc gia, cố vấn cho chính phủ và Ban Lănh Đạo Quốc Gia Lâm Thời Quân Lực. Thượng Hội Đồng này gồm đại diện của các tôn giáo và một số nhân sĩ. Về phía PG có Mai Thọ Truyền, Ngô Gia Hy, Lê Khắc Quyến, Nguyễn Xuân Chữ, HồDDắc Thắng, Nguyễn Đ́nh Luyện và Tôn Thất Hanh.

 

Sau đó Tướng Khánh nghĩ đến giáo sư Trần Văn Hương. Ông là người miền Nam, thanh liêm, đă từng chống ông Diệm và được giới PG miền Nam ủng hộ. Ông rất cương quyết, không nhượng bộ những hành vi phi pháp và bạo động. Cũng như đa số dân miền Nam, ông không đồng ư lối đấu tranh của TT Trí Quang. Người ta dùng ông để chống lại nhóm PG cực đoan miền Trung.

 

Ngày 9/9/64, Trần Văn Hương được cử làm Đô Trưởng Saigon thay thế Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm. Tuy là Đô trưởng nhưng ông được xếp ngang hàng như một Tổng trưởng.

 

Ngày 13/9/64, Trung tướng Dương Văn Đức và Thiếu tướng Lâm Văn Phát kéo quân về Saigon - Gia Định chiếm đóng một số trụ sở quan trọng như đài phát thanh, Phủ Thủ tướng...rồi lên tiếng đả kích Tướng Khánh là hèn nhát và mị dân. Tướng Đức nhân danh “Hội Đồng Quân Dân Cứu Quốc” tuyên bố văn hồi trật tự bị phá hoại và uy quyền quốc gia đă bị miệt thị. Tướng Đức nói không có đảo chánh mà chỉ biểu dương lực lượng. Ngày 19/9/64, Tướng Đức và các sĩ quan theo ông bị cất chức. Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc của TT Trí Quang lại lộng hành hơn trước.

 

Ngày 20/10/64, Hiến Chương Lâm Thời được ban hành. Theo Hiến Chương này th́ Quốc Dân Đại Hội có quyền lập pháp và cử Quốc Trưởng. Thủ Tướng do Quốc Trưởng chọn và phải được Quốc Dân Đại Hội chấp thuận.

 

Ngày 24/10/64, Thượng Hội Đồng Quốc Gia tuyển nhiệm ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng VNCH theo Hiến Chương ngày 10/10/64. Tướng Nguyễn Khánh đệ đơn từ chức Thủ Tướng và từ giả chính quyền để trở về quân đội. Ngày 31/10/64, giáo sư Trần Văn Hương được cử giữ chức Thủ Tướng.

 

Do sự đ̣i hỏi của mọi giới, ngày 13/11/64, Thủ Tướng Hương tuyên bố trước Thượng Hội Đồng Quốc Gia là chính phủ cần phải tái lập uy quyền quốc gia, tách rời chính trị và tôn giáo, đưa tôn giáo ra khỏi chánh trị. Lệnh dẹp các cuộc biểu t́nh và nổi loạn được ban hành ngay sau đó. Tướng Khánh được cử là Tổng tư lịnh quân đội.

 

Để đối phó với thái độ cứng rắn của Thủ Tướng Hương, TT Trí Quang ra lịnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc biểu t́nh khắp nơi đả đảo chính phủ. Ngày 24/11/64, TT Tâm Châu gởi văn thư yêu cầu Thượng Hội Đồng Quốc Gia có thái độ với ông Hương. Ông Hương ra lịnh đóng cửa các trường học cho đến khi có lịnh mới và tuyên bố không lùi bước và sẽ dùng mọi cách để tái lập trật tự và uy quyền của quốc giạ Có 228 người biểu t́nh và gây rối bị bắt.

 

Ngày 29/11/64, Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tổ chức đưa đám tang học sinh Lê Văn Ngọc bị chết trong cuộc biểu t́nh ngày 25/11/64. Cảnh sát khám thấy chiếc xe NDG.228 trong đoàn hộ tang có chở vơ khí liền bắt giam một số người. Các cuộc biểu t́nh và bải khoá lại được tổ chức liên tục. Chính phủ ra lịnh đàn áp thẳng taỵ Các TT Tâm Châu, Trí Quang, Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác bắt đầu tuyệt thực. Viện Hoá Đạo đóng cửa ngưng hoạt động.

 

Tuy đă giao quyền cho chính quyền dân sự, ngày 18/12/64 Tướng Khánh lại cho thành lập Hội Đồng Quân Lực và ngày 20/12/64 Hội Đồng này tuyên bố bất tín nhiệm và giải tán Thương Hội Đồng Quốc Gia v́ cho rằng Thượng Hội Đồng bị một số tướng lănh có óc bè phái, bị mua chuộc, gây chia rẽ hàng ngũ quốc giạ Một số thành viên của Thượng Hội Đồng bị lưu giữ.. Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Hương vẫn được tín nhiệm.

 

Tướng Đôn kể rằng khi đến Đà Lạt th́ Tươ”ng Khánh than phiền là Thượng Hội Đồng gồm các tay chân thân tín của Dương Văn Minh và họ đă chống lại tất cả những quyết định của ông. Ông sẽ về Saigon để bắt tất cả “những tên phản động” đó. Thật vậy, Thượng Hội Đồng gồm nhiều đại diện của phe TT Trí Quang như Lê Khắc Quyến, Ngô Gia Hy, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Đ́nh Luyện, Hồ Đắc Thắng..., phe này luôn luôn t́m cách phá quấy chính phủ Hương khiến chính phủ này không làm ǵ được.

 

Tướng Khánh và Mỹ:

 

Thấy cảnh tượng Thượng Hội Đồng Quốc Gia bị thanh toán như trở bàn tay, ngày 20/12/64, Đại sứ Hoa Kỳ lúc đó là Tướng Maxwell D. Taylor đă mời Tướng Khánh và một số tướng trẻ tới nhà Tướng Westmoreland. Trong bữa tiệc này, về phía VN người ta thấy có các Tướng Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang. Về phía Mỹ có Đại sứ Maxwell D. Taylor và phụ tá của ông là Alexis Johnson. Tướng Taylor đă nói với các tướng Việt Nam:”Đêm nay, tại nhà của Tướng Westmoreland, tôi nói rơ cho các anh rằng Hoa Kỳ không c̣n muốn dung thứ cho những âm mưu gây ra t́nh trạng bất ổn nữa”. Tướng Taylor tỏ ra khó chịu về việc bắt giữ các thành viên của Thượng Hội Đồng mà không hề hỏi ư kiến của ông tạ Ông nói nếu t́nh trạng này kéo dài th́ Hoa Kỳ phải nghĩ đến việc cắt viện trợ

 

Tướng Khánh tỏ ra tức giận về những lời nói bộc trực của Taylor. Hôm sau, ông tuyên bố với báo chí:”Thà thanh bạch trong độc lập c̣n hơn tủi nhục trong nô lệ ngoại bang”. Sau đó, ông ra lịnh phóng thích vợ của Huỳnh Tấn Phát, một lănh tụ cao cấp của MTGPMN, rồi gởi cho Huỳnh Tấn Phát một bức thư dề nghị liên hiệp. Ngay 28/1/65, Phát phúc thư, ca tụng Tướng Khánh có tinh thần bất khuất, không chịu áp lực của đế quốc và thực dân, và đề nghị Tướng Khánh cùng các bạn của ông tham gia MTGPMN. Tướng Khánh ngây thơ về chính trị đến mức không hiểu được MTGPMN chỉ là công cụ của Hà Nội hay sao và Huỳnh Tấn Phát chỉ là một tên hữu danh vô thực trong Mặt Trận, làm sao quyết định được việc ông đề nghị? Cho đến nay, ông vẫn c̣n cho rằng nếu lúc đó ông không bị lật đổ th́ “MTGPMN đă về với ḿnh rồi và đă có ḥa b́nh lâu rồi !”. Tầm vóc của Tướng Khánh c̣n quá bé nhỏ, thua Ngô Đ́nh Nhu xa lắc, nên Bắc Việt không muốn nói chuyện.

 

Mượn gió bẻ măng:

 

Lợi dụng sự căng thảng giữa Tướng Khánh và Mỹ, Hà Nội đă chỉ thị các đặc công CS nằm vùng tấn công thẳng vào Mỹ và lập các tổ chức ngụy ḥa. TT Trí Quang và Vơ Đ́nh Cường liền ra lịnh cho Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc hành động. Ngày 22/1/65, đoàn biểu t́nh kéo tới Ṭa Đại sứ Mỹ ở đường Hàm Nghi, đưa cao các biểu ngữ “Hăy để cho dân tộc Việt Nam tự quyết” và đả đảo Mỹ can thiệp vào nội bộ của VN. Sau đó, đoàn biểu t́nh kéo tới đập phá thư viện Lincoln ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ, trước Ṭa Đô Chánh Saigon. Khoảng 100 người bị bắt. Thủ Tướng Hương phải xin lỗi Ṭa Đại sứ Mỹ (thư viện Lincoln là tài sản của Hoa Kỳ) và đọc một bài hiệu triệu quốc dân ư thức trách nhiệm trước t́nh thế, tránh bạo động và lên án “lũ lưu manh cạo đầu rồi mặc sắc phục tăng nị..” và “những tṛ khỉ của chúng”.

 

Quân đội quay trở lại:

 

Ngày 27/1/65, Hội Dồng Quân Lực ra tuyên cáo nói rằng Quân Đội đă trao quyền lại cho một chánh quyền dân sự, nhưng t́nh thế ngày càng rối ren hơn nên Quân Đội buộc ḷng phải đứng ra lănh trách nhiệm lịch sử. Hội Đồng ủy nhiệm cho Tướng Khánh giải quyết các cuộc khủng hoảng và tổ chức Quốc Dân Đại Hội. Thủ tướng Hương chấp nhận từ chức. Hạ được ông Hương, PG coi như đạt được thắng lợi.

 

Được tin Quốc Dân Đại Hội được thành lập, khối PG tỏ vẻ phấn khởi. Nhóm TT Trí Quang tin rằng nếu tổ chức Quốc Dân Đại Hội, phe của ông sẽ nắm đa số và quyết định mọi đường lối của quốc giạ Viện Hóa Đạo đưa ra một thông cáo tuyên bố ngưng các cuộc biểu t́nh và ra lịnh trở lại sinh hoạt b́nh thường. Các lănh tụ PG tự động chấm dứt tuyệt thực.

 

Hôm 28/1/65, Hội Đồng Quân Lực ban hành quyết định lưu nhiệm Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và cử Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh quyền Thủ Tướng.

 

TT Trí Quang họp báo phân trần: PG không muốn chính quyền dung thứ những phần tử xấu thuộc chế độ cũ và đừng coi PG là CS. PG không chống Mỹ nhưng PG không muốn bị hiểu lầm. Ông muốn tỏ thái độ ḥa dịu để dành nổ lực đạt tháng lợi tại Quốc Dân Đại Hội.

 

Bất thần Không quân Mỹ ném bom miền Bắc ngày 7/2/65 và những ngày kế tiếp. Hành động đột biến này của Mỹ là yếu tố thứ hai khiến TT Trí Quang phải ngưng tranh đấu để xét xem những diễn biến mới của t́nh h́nh và đợi chỉ thị.

 

Ngày 15/2/65, Tướng Khánh, nhân danh Hội Đồng Quân Lực, ban hành quyết định tuyển ông Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng và BS Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Chiều hôm đó Thủ Tướng tŕnh diện thành phần chính phủ, trong đó Trần Quang Thuận làm Bộ trưởng Xă hội, Bùi Diễm làm Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng. Chính phủ này được coi là chính phủ PG, nên TT Trí Quang không chống chính phủ nữa.

 

Ngày 19/2/65, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Thiếu tướng Lâm Văn Phát và Nguyễn Bảo Kiếm tổ chức đảo chánh dưới danh nghĩa Lực Lượng Bảo Vệ Dân Tộc, đ̣i Nguyễn Khánh từ chức và trao quyền lại cho dân sự. Cuộc đảo chánh bất thành. TT Tâm Châu lên đài phát thanh kêu gọi Phật tử ủng hộ Hội Đồng Quân Lực. Tướng Thi cho rằng cuộc đảo chánh này do Đại sứ Maxwell Taylor xúi dục.

 

Kể từ khi Tướng Khánh chống lại Đại sứ Taylor, các tướng lănh nhận thấy phải thay Tướng Khánh mới được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng chưa có cơ hội. Nhân dịp có đảo chánh, Tướng Khánh đang lẫn tránh ở Ba Xuyên, Hội Đồng Quân Lực họp và quyết định cử Trung tướng Trần Văn Minh làm Tổng tư lịnh Quân đội thay cho Tướng Khánh và bổ nhiệm ông làm Đại sứ Lưu động.

 

Mở mặt trận mới: ngụy ḥa

 

Khi đă có một chính phủ PG, TT Trí Quang không chống chính phủ nữa mà mở mặt trận mới: đ̣i Mỹ ngưng chiến tranh. Chiến dịch này nhằm chống lại việc Mỹ ném bom Bắc Việt và mở rộng hành quân ở miền Nam.

 

Ngày 27/2/65, TT Thích Quảng Liên, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục, tuyên bố thành lập Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, yêu cầu chấm dứt chiến tranh VN và rút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam.

 

Nhận ra đây là một phong trào ngụy ḥa do các cán bộ CS nằm vùng giựt dây, các đảng phái quốc gia và đoàn thể tôn giáo khác đă phản ứng mạnh mẽ, yêu cầu chính phủ Quát có thái độ dứt khoát với các tổ chức ngụy ḥa. Ngày 1/3/65, chính phủ Quát vội vàng tuyên bố: Chỉ nói chuyện ḥa b́nh khi CS chấm dứt xâm lăng. VNCH cương quyết chống lại sự xăm lăng của CS để bảo vệ tự dọ Hôm sau, Pentagon tuyên bố tiếp tục dội bom Bắc Việt để ngăn chặn sự đem quân vào Nam của Bắc Việt. VNCH và Ṭa Đại sứ Mỹ ra một thông cáo chung giải thích rằng phải oanh tạc các cơ sở quân sự ở Bắc Việt v́ các cơ sở này yểm trợ cho cuộc xăm lăng miền Nam.

 

Mặc cho những lời giải thích trên, chiến dịch của PG đ̣i ḥa b́nh vẫn được đẩy mạnh, các truyền đơn ngụy ḥa được răi khắp nơi. Khi chiến dịch này lên cao độ, đă có những cuộc tự thiêu đ̣i ḥa b́nh: Thích Giác Thành tự thiêu sau Viện Hoá Đạo v́ thấy cảnh tang tóc của chiến tranh; Ni cô Thích Huệ Thiên đổ xăng vào người toan tự thiêu tại chùa Từ Vân Gia Định, nhưng được cứu thoát. Ni cô cho biết bà muốn tự thiêu v́ thấy những đau khổ do chiến tranh gây ra, v.v...

 

Phong Trào “bảo vệ ḥa b́nh” đă gây khó khăn cho chính phủ Quát. Ông ra lịnh cho Tổng nha Cảnh sát có biện pháp mạnh. Ngày 5/3/65, Tổng nha Cảnh sát ra thông cáo cho đồng bào biết phong trào ngụy ḥa do VC giựt dây tuy có nhiều tên khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là: làm suy yếu tinh thần chống Cộng của quân dân miền Nam và gây mâu thuẫn trong hàng ngũ quốc giạ Sau đây là những tên khác nhau của tổ chức này:

 

§ Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh

 

§ Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết

 

§ Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng

 

§ Lực Lượng Học Sinh Chống Chiến Tranh

 

§ Phong Trào Bảo Vệ Ḥa B́nh và Hạnh Phúc Dân Tộc,.v.v...

 

Điều chắc chắn là TT Trí Quang đă thành lập Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, c̣n TT Quảng Liên thành lập Ủy ban Vận Động Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết.

 

Do dư luận phản ứng mạnh mẽ, ngày 11/3/65, Viện Hoá Đạo phải ra thông cáo tuyên bố: Ủy ban Vận Động Ḥa B́nh do TT Quảng Liên thành lập với tư cách cá nhân, không liên quan ǵ đến Viện Hoá Đạo. Dựa vào thông cáo này, Bộ Nội vụ công bố danh sách 358 người đă kư tên vào kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh: 3 luật sư, 5 bác sĩ và dược sĩ, 5 kỹ sư, 11 kư giả, 20 giáo viên, 22 công chức, 64 buôn bán, 78 lao động, 24 sinh viên, 77 học sinh, v.v... Ngày 17/3/65, TT Quảng Liên tuyên bố từ chức chủ tịch phong trào. Cảnh sát liền được lịnh bắt một số nhân vật quan trọng. Ngày 19/3/65, 3 người thuộc Ủy ban Vận Động Ḥa B́nh bị trục xuất ra Bắc qua cầu Hiền Lương và họ được CS Bắc Việt đón rước rềnh rang: GS Tôn Thất Dương Kỵ, BS Thú Y Phạm Văn Huyến (thân phụ bà Ngô Bá Thành), và kư giả Cao Minh Chiếm.

 

Dù đă bị cảnh cáo như vậy nhưng các tổ chức ngụy ḥa vẫn tiếp tục hoạt động. Một tổ chức có tên Khối Quốc Gia Chống Cộng được thành lập. Khối này gồm đại diện của Cao Đài, Phật Giáo Ḥa hảo, Công Giáo và Tổng Giáo Hội Phật Giáo hợp thành. Ngày 2/6/65, do Trung tướng Nguyễn Thành Phương hướng dẫn, Khối đă đến gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu yêu cầu phải thành lập một chính phủ quốc gia chống Cộng và chống trung lập thật sự, giải tán chính phủ Quát v́ có nhiều thành phần thân Cộng trong chính phủ này đă bảo trợ cho các tổ chức ngụy ḥa. Một Ủy Ban Liên Tôn mới thành lập ra thông cáo tố cáo chính phủ Quát âm mưu ban hành một quy chế hạn chế quyền tự do tôn giáo.

 

Phong trào chống chính phủ Quát nổi lên khắp nơi. Trước t́nh thế này Tổng nha Cảnh sát yêu cầu những người kư tên trong bản kiến nghị của Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh phải ra tŕnh diện.. Không chịu nổi áp lực, ngày 11/6/65, Quốc trưởng Sửu và Thủ tướng Quát đều từ chức, trao quyền lại cho Quân Đội. Các tướng lănh thành lập Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia, ban hành Hiến chương mới và cử Tướng Nguyễn Cao Kỳ thành lập chính phủ.

 

Ngày 24/8/65, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đưa các thành phần của Ủy Ban Vận Động Ḥa B́nh và Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết ra trước Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận xét xử. Trong dịp này, nhiều bằng chứng được dưa ra cho thấy nhóm này đă thực sự hoạt động cho CS. Kết quả ṭa tuyên phạt 3 người khổ sai hữu hạn, 12 người bị án tù treo và tha bổng 6 người. Nhưng chủ chốt là TT Quảng Liên th́ không bị truy tố.

 

Khi t́nh h́nh miền Nam gặp khủng hoảng trầm trọng và đang lúc PG miền Trung đang đẩy mạnh chiến dịch ngụy ḥa th́ Hoa Kỳ đưa Cabot Lodge trở lại làm Đại sứ thay Maxwell Taylor. Ông đến tŕnh ủy nhiệm thư ngày 25/8/65. Các nhà quan sát biết rằng kỳ này Lodge đến không phải là để “cứu PG” như lần trước, mà là để thanh toán con bài tôn giáo mà Hoa Kỳ đă lỡ dựng lên để làm chiêu bài lật đổ TT Diệm năm 1963. Số phận con bài PG cực đoan miền Trung coi như đă bị định đoạt.

 

Ngày 20/10/65, Edgar Hoover, Giám đốc CIA tuyên bố CS đang xúi giục biểu t́nh chống chính sách Mỹ tại VN và gia tăng các hoạt động phản chiến.

 

Bằng chứng về hoạt động của CS dưới danh nghĩa các phong trào đ̣i ḥa b́nh ngụy tạo đă quá rơ khiến TT Trí Quang không chối căi được. Ông đành chịu im tiếng để cho chính phủ Nguyễn Cao Kỳ hành động. Nhưng ông chuẩn bị thời cơ để mở một cuộc tấn công mới nhằm cướp chính quyền.

 

Ng̣i thuốc súng:

 

Khi bị đánh tại miền Nam, nhóm PG này quay về vùng I v́ nơi đây có Tướng Thi che chở.

 

Qua việc chính phủ Quát bị lật đổ và các phong trào ngụy ḥa bị dẹp tan, nhóm TT Trí Quang nhận ra rằng các tôn giáo và đảng phái quốc gia là những lực lượng có thể phá vỡ các kê hoạch của ông, trước tiên là ông phải tấn công vào họ dưới danh nghĩa “diệt dư đảng Cần Lao”. Các tông phái PG miền Bắc và miền Nam tách dần ra khỏi Giáo hội là một thiệt hại lớn, làm cho lực lượng đấu tranh yếu hẳn đị Để bù lại, nhóm này đă cố gắng củng cố lại lực lượng ở các tỉnh miền Trung, nhất là trong hàng ngũ quân nhân và sinh viên. Nhóm đă biến các Khuôn Bộ PG thành những Chi Bộ PG giống hệt như tổ chức của Đảng CS.

 

Nhắc lại, Đại tá Nguyễn Chánh Thi lưu vong mới trở về được 2 tháng th́ được bổ nhiệm làm Tư lịnh phó Quân Đoàn I, dưới quyền của Tướng Khánh. Ông nhận chức vào ngày 14/12/64. Chính trong hoàn cảnh này ông đă hợp tác với Tướng Khánh làm cuộc “chỉnh lư” ngày 30/1/64. Ngày 14/11/64, Tướng Thi được Tướng Khánh cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Tôn Thất Xứng. Tướng Minh và Tướng Khánh đều hiểu rơ tính ngang bướng của Tướng Thi nên muốn đẩy ông đi một vùng xa xôi cho êm chuyện. Vả lại, miền Trung là vùng của TT Trí Quang, một người hay sinh sự. Phải có một tướng ngang bướng như Tướng Thi mới ứng phó được. Nhưng khi nắm được Tư lịnh vùng I kiêm Đại biểu chính phủ tại miền Trung, Tướng Thi đă dựa vào lực lượng PG tại đây để củng cố tư thế và địa vị, c̣n TT Trí Quang dựa vào Tướng Thi để tổ chức cơ cấu địa phương, triển khai phong trào ngụy ḥa và bài Mỹ dưới mọi h́nh thức. Sự kiện này làm các tướng VN và Hoa Kỳ bực ḿnh.

 

Không thể kéo dài t́nh trạng trên, ngay 11/3/66, Hội Đồng Tướng Lănh và Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia đă họp 5 tiếng đồng hồ liên tục tại Bộ Tổng tham mưu và công bố cho Tướng Thi nghỉ phép đi chữa bịnh mũi tại Hoa Kỳ. Ngày 13/3/66, Hội Đồng Tướng Lănh lại tái họp bỏ phiếu với 32 thăm thuận và 4 thăm trắng cho Tướng Thi nghỉ việc. Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, Tư lịnh sư doàn I, được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Thị

 

Khi thấy con gà quan trọng của PG bị loại, Hội Đồng Viện Hóa Đạo họp khẩn cấp và công bố lập trường 4 điểm:

 

§ Các tướng lănh có công với “cách mạng” phải được trở lại quân đội.

 

§ Các tướng lănh trở về cương vị quân sự.

 

§ Lập chính phủ đoàn kết.

 

§ Bầu cử quốc hội.

 

Mục tiêu thực sự của bản tuyên bố này là đ̣i hỏi phải đưa các tướng PG trở lại chính quyền. Các cuộc biểu t́nh lại được phát động để yêu cầu thỏa măn nguyện vọng của PG. Nhưng nhân lễ nhận chức Thị trưởng Đà Lạt của bà Nguyễn Thị Hậu vào ngày 19/3/66, Tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố các cuộ xuống đường hay đ́nh công băi thị chẳng ảnh hưởng ǵ tới chính phủ cả. Để đáp lại thách đố này, nhóm TT Trí Quang ra lịnh đ́nh công và băi thị khắp các tỉnh miền Trung, nhất là ở Huế. và Đà Nẵng. Sinh viên và học sinh ở Huế biểu t́nh chống Mỹ. Ṭa Lănh sự và các cơ quan của Mỹ tại Huế phải đóng cửa đề pḥng phá hoại.

 

Ngày 14/3/66, Đại tá Sam Wilson và ông Ted Britton đến hỏi Tướng Thi rằng nếu đưa ông trở lại Đà Nẵng th́ ông có thể ổn định t́nh h́nh không; Tướng Thi nói không chắc. Ngày 15/3/66, 2 Đại tá Phạm Văn Liễu và Nguyễn Ngọc Loan đưa Tướng Thi ra Đà Nẵng. Ông kêu gọi đồng bào hăy b́nh tĩnh nhưng TT Trí Quang không để ư tới chuyện đó. Vụ cất chức Tướng Thi chỉ là cái cớ để phát động đấu tranh trở lại mà thôi, mục tiêu chính là tiến tới nắm chính quyền.

 

Ngày 25/3/66, Tướng Kỳ tuyên bố các vụ lộn xộn miền Trung đă gây trở ngại cho việc tiếp tế cho dân chúng và vận tải quân nhụ Sau đó ông lại tuyên bố sẽ dùng biện pháp mạnh để đối phó nếu các vụ lộn xộn tràn lan.

 

Ngày 27/3/66, trong khi khoảng 20,000 người biểu t́nh ở Huế, Linh mục Hoàng Quỳnh của Khối Công Dân Công Giáo đă đ̣i hỏi phải lập chính phủ dân sự nhưng không muốn có bạo động. Ông cho rằng tổng tuyển cử ngay lúc này chưa thuân lợi. PG Ḥa Hảo, một số đảng phái chính trị và tổ chức sinh viên tại Saigon ra tuyên bố muốn tiến tới một chế độ dân chủ nhưng chống lại các vụ bạo động.

 

Mặc cho những lời tuyên bố và phản kháng trên, phong trào chống Mỹ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh cùng lúc ở Huế và Saigon. Tại Huế cũng như tại Saigon, ngườita thấy các đoàn biểu t́nh đưa cao những biểu ngữ:

 

§ Down with US Obstruction

 

§ We want Independence

 

§ Nước VN của người VN

 

§ Người Mỹ gây rối cho nhân dân VN,...

 

TT Trí Quang cho rằng 2 Tướng Thiệu và Kỳ dám chống lại PG là do có Mỹ đứng đàng sau nên phải chống Mỹ.

 

Ngày 5/4/66, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố muốn các vụ lộn xộn tại VN phải sớm giải quyết. Các lănh tụ tôn giáo và chính trị nên hội ư với nhau để sớm có Hiến pháp dân chủ. Hoa Kỳ không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của VN. Mọi giải pháp đều do người VN quyết định.

 

Phối hợp chiến tranh chính trị với chiến tranh quân sự:

 

Tại Huế và Đà Nẵng, nhóm TT Trí Quang đă phối hợp với một số cán bộ VC nằm vùng, các chính khách hoạt đầu và một số Phật tử cực đoan làm nồng cốt chỉ huy và thúc đẩy một cuộc nổi loạn cướp chính quyền, trong số này người ta thấy:

 

- Vơ Đ́nh Cường (cán bộ CS)

 

- Ngyễn Trực (cán bộ CS)

 

- Hoàng Phủ Ngọc Phan (cán bộ CS)

 

- Hoàng Phủ Ngọc Tường (cán bộ CS)

 

- Tống Hồ Cầm (cán bộ CS)

 

- Bùi Hữu Giao

 

- Nguyễn Tường Hiếu (VNQDĐ hệ phái Nguyễn Tường Tam)

 

- Thái Đ́nh Quang

 

- Thái Doăn Trinh

 

- Hoàng Phúc

 

- Hoàng Thị Như Mai

 

- Lê Văn Hảo

 

- Hoàng Ngọc Giàu (cán bộ CS)

 

- Lê Tuyên

 

- Ngô Văn Bằng

 

- Ngô Kha (cán bộ CS)

 

- Hà Xuân Kỳ (cán bộ CS)

 

- Tống Nhạn

 

- Phan Hàm (cán bộ CS)

 

- Tư Đồ Minh

 

- Nguyễn Văn Mẫn,

 

- Bửu Tôn...

 

Mọi kế hoạch hành động đều do Vơ Đ́nh Cường và Nguyễn Trực soạn thảo theo chỉ thị và hướng dẫn của Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy và Tư lịnh Quân khu Trị Thiên - Huế của CS.

 

Ngày 1/4/66, Trung tướng Phan Xuân Chiểu đă ra Huế để dàn xếp các vụ lộn xộn th́ bị TT Trí Quang ra lịnh bắt làm con tin, không cho trở về Saigon. Tướng Thi kể lại rằng chính ông đă can thiệp để Tướng Chiểu được thả rạ Sau đó, các lực lượng quân đội theo phe TT Trí Quang đứng lên cướp chính quyền ở Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam, hô hào dân chúng vơ trang chống Thiệu - Kỳ. Tại Quảng Trị và Quảng Ngăi, quân đội c̣n giữ được.

 

Ngày 2/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng cho vây Đài phát thanh Saigon, hô khẩu hiệu “Đả đảo Thích Tâm Châu”, “Hoan hô Hồ Chí Minh”.

 

Ngày 3/4/66, Tướng Kỳ họp báo tuyên bố coi như Huế và Đà Nẵng đă mất vạ tay CS. BS Nguyễn Văn Mẫn, Thị trưởng Đà Nẵng, đă ra lịnh đ́nh công băi thị chống chính quyền trung ương và dùng công quỷ tổ chức biểu t́nh. Chiến dịch bài Mỹ được phát động để ly gián giữa VNCH và Đồng Minh nhằm cô lập VNCH. Tướng Kỳ cho biết sẽ đưa quân đội đến giải tỏa Đà Nẵng.

 

Đại tá Đàm Quang Yêu, Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà đă đứng hẳn về phía TT Trí Quang. Ông huấn luyện quân sự, cấp vũ khí cho các thanh niên Phật tử và tổ chức họ thành những đơn vị chiến đấu. Một số binh sĩ theo ông bỏ ngũ gia nhập lực lượng này. Nhưng Đại tá Yêu là một sĩ quan có tŕnh độ kiến thức thấp, tính t́nh nông nỗi, nóng nảy nên không đủ khả năng làm được việc ông đang làm.

 

Hoa Kỳ ra lịnh tản cư các cơ quan của họ ra khỏi thị xă Đà Nẵng. Đại tá Yên cho thiết lập các công sự chiến đấu ở các chùa tại Đà Nẵng và hô hào dân chúng dùng mọi phương tiện để chống lại “quân đội Thiệu - Kỳ”. Trong khi đó, Tướng Kỳ ban hành quyết định cất chức BS Nguyễn Văn Mẫn và cử Trung tá Mă Sanh Nhơn, Tỉnh trưởng B́nh Long làm Thị trưởng Đà Nẵng.

 

Ngày 5/4/66, Tướng Kỳ đích thân dẫn 2 tiểu đoàn Dù ra Đà Nẵng hội đàm với Thiếu tướng Chuân và lên tiếng kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ. Khi Tướng Kỳ về Saigon th́ các tiểu đoàn Dù được chuyển tạm vào căn cứ Chu Lai của Hoa Kỳ ở Quảng Tín, gần sát Đà Nẵng. BS Nguyễn Văn Mẫn và khoảng 400 binh sĩ kéo đến lập một căn cứ pḥng thủ tại chùa Phổ Đà. Khi máy bay lượn trên thành phố răi truyền đơn kêu gọi đồng bào hợp tác với chính phủ diệt trừ các cuộc nổi loạn bị CS giựt dây th́ chuông của chùa Phổ Đà, Tĩnh Hội, Vĩnh Hội, Phật Học, Phổ Thiên, Giảng Đường, Vu Lan...được khua lên inh ỏi. Sau đó là tiếng trống, thùng thiếc, phèng la, mơ...kêu vang cả thành phố.

 

Trong lúc t́nh h́nh Đà Nẵng căng thẳng th́ TT Tâm Châu tuyên bố trước khoảng 10 ngàn Phật tử rằng ông vẫn chủ trương tiếp tục đấu tranh ôn ḥa và đ̣i trong 3 tháng phải có chính phủ dân cử và Quốc Hội. Ông sẵn sàng lănh những viên đạn của những kẻ quá khích. Một cuộc thương lượng giữa chính phủ và Viện Hóa Đạo được xúc tiến nhanh chóng và có kết quả. Để đổi lại, chính phủ hứa sẽ không bắt bớ những người nổi loạn có vơ trang và rút quân khỏi Đà Nẵng. Đại hội Phật giáo Thế giới đang họp tại Tích Lan đă lên tiếng ủng hộ lập trường của TT Tâm Châu. Ngày 9/5/66, Ḥa Thượng Tổng thư kư Hội Tăng già Tích Lan đă gởi cho TT Tâm Châu một văn thư khen ngợi và tỏ ư hoan hỷ khi biết TT đă tránh được cho PG một cuộc chiến tranh với chính phủ. Nhưng ngược lại, việc này đă làm cho TT Trí Quang nổi giận. TT Trí Quang công khai chỉ trích Viện Hóa Đạo và tuyên bố không chấp nhận kết quả do Viện Hoá Đạo công bố, đ̣i bộ ba Thiệu - Kỳ - Có phải ra đị

 

Ngày 8/4/66, TT Thích Thiện Minh tuyên bố lập “Ủy Ban Tranh Đấu Chống Chính Phủ” v́ các tướng lănh, nhất là Tướng Thiệu, đă không giữ lời cam kết. PG sẽ chống đến cùng, dù phải đổ máu. Khi TT Thiện Minh công khai tuyên chiến với chính quyền th́ TT Trí Quang tuyên bố ngược lại. Ông kêu gọi Phật tử tạm ngưng các cuộc đấu tranh ở Huế và Đà Nẵng để đợi chính quyền giữ lời hứa. Lời kêu gọi này làm cho TT Thích Thiện Minh bực tức vô cùng.

 

Giữa 2 TT Trí Quang và Thiện Minh luôn có sự đối nghịch nhau, khi trống đánh xuôi th́ kèn thổi ngược. TT Trí Quang lo sợ TT Thiện Minh cướp công đầu sau khi cuộc đấu tranh đem lại thắng lợi nên t́m cách gạt tất cả các tổ chức của TT Thiện Minh sang một bên. Mặc cho những chỉ thị ngược lại của TT Trí Quang, ngày 19-20/4/66, TT Thiện Minh mở các cuộc thuyết pháp liên lục tuyên bố PG đang bị khiêu khích, có thể có đảo chánh trong tuần tới, trừ khi chính phủ chấm dứt mọi hành động chống đối PG.

 

Ngày 9/4/66, Tướng Tôn Thất Đính được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Nguyễn văn Chuân. 2 tướng Thiệu và Kỳ đă nhờ Tướng Đính giải quyết vụ miền Trung v́ tin rằng Tướng Đính là con gà của PG có thể làm công việc này được. Nhưng khi đến Huế, Tướng Đính lại theo phe TT Trí Quang và chửi 2 tướng Thiệu - Kỳ giữa ba quân.

 

Ngày 17/4/66, Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắt giữ ông Nguyễn Hữu Chi, Tỉnh trưởng Quảng Nam và ông Quận trưởng quận Ḥa Vang v́ những người này không theo TT Trí Quang. Tại Đà Lạt, Lực Lượng này lại bắt giữ Đại úy Quân vụ Thị trấn, đốt quân xa và đuổi đánh Quân cảnh. Quân đội phải nổ súng.

 

Khi thấy nhóm PG cực đoan quá lộng hành, Khối Công Dân Công Giáo và các tổ chức đảng phái không c̣n im lặng được nữa, họ đă lên tiếng phản đối một cách mạnh mẽ. TT Thích Liễu Minh thuyết pháp tại Viện Hóa Đạo, khen ngợi thiện chí của chính quyền và yêu cầu Phật tử ngưng bạo động, ngưng đ̣i ḥa b́nh v́ “chưa đúng lúc”. Khối Công Dân Công Giáo biểu t́nh ở Đà Nẵng, Thủ Đức và Saigon chống các cuộc bạo loạn ở miền Trung, tố cáo chính phủ nhu nhược và đả đảo Đại sứ Cabot Lodgẹ Tổng Hội Sinh Viên Saigon lập Ủy Ban Bảo Vệ Tổ Quốc và Dân Quyền, chống lại các vụ lộng hành ở miền Trung.

 

Ngày 21/5/66. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang cho tung ra tại Huế, Đà Nẵng và Saigon một loại truyền đơn thăm ḍ. Truyền đơn kêu gọi đưa TT Trí Quang ra làm Quốc Trưởng và Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng. Truyền đơn này đă cho thấy rơ mục tiêu và tham vọng của nhóm bạo động. Các cuộc náo loạn tại Huế, Đà Nẵng và Đà Lạt lại tiếp tục.

 

Bỗng nhiên báo chí Mỹ mở chiến dịch ca tụng TT Trí Quang như là một lănh tụ chính trị lỗi lạc của VN, có thể trở thành Quốc Trưởng.. Mục tiêu của chiến dịch này nhằm thúc đẩy các lực lượng đấu tranh vơ trang tiến xa hơn một chút nữa, gây náo loạn và bất măn trong quần chúng để Tướng Kỳ có lư do xử dụng quân đội đánh dẹp. TT Trí Quang và nhóm của ông không ư thức được chiến dịch thâm hiểm này nên thừa thắng xông lên. Đại tá Yên, Tư lịnh Biệt khu Quảng Đà, một đệ tử của TT Trí Quang, đă phối hợp các lực lượng Phật tử do ông huấn luyện và các binh sĩ bỏ ngũ thành những đơn vị chiến đấu, chiếm thành phố Đà Nẵng, biến 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà thành 2 căn cứ vơ trang chống chính phủ.

 

Ở Huế, một lực lượng quân sự do Bửu Tôn thành lập đă thu nạp được một số binh sĩ và thanh niên Phật tử lên đến 2 tiểu đoàn. Bửu Tôn là Huynh Trưởng Gia Đ́nh Phật Tử ở Huế, không biết ǵ về quân sự nhưng được TT Trí Quang và Vơ Đ́nh Cường tin cậy nên giao cho chỉ huy lực lượng vơ trang. Lực lượng này làm chủ t́nh h́nh ở Huế, ban hành mọi mệnh lệnh và muốn bắt ai giam cũng được. Bửu Tôn đă nhiều lần đem quân tấn công các giáo xứ CG tại quận Phú Vang v́ cho rằng các giáo xứ này thân chính quyền. Các giáo xứ trên phải tổ chức tự vệ để cứu lấy ḿnh v́ Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Sư đoàn trưởng Sư đoàn I và Trung tá Trần Văn Khoa, Tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế, không dám đá động đến lực lượng của Bửu Tôn. Tướng Nhuận chỉ cho một tiểu đoàn của Sư đoàn I vào Huế để bảo vệ các cơ sở của Hoa Kỳ.

 

Cũng như tại Huế, các giáo xứ CG tại Đà Nẵng phải tự động vơ trang để tự vệ v́ chính quyền đă nằm trong tay Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng. Lực lượng này đă nhiều lần tấn công giáo xứ Tam Ṭa trong thành phố Đà Nẵng nhưng bị đẩy luị Thỉnh thoảng lại xảy ra các cuộc giao tranh trong thành phố Đà Nẵng giữa lực lượng của TT Trí Quang và toán tự vệ CG. Các toán tự vệ này đă mở rộng pḥng tuyến ra các đường Thống Nhất, Quang Trung, Nguyễn Hoàng, Trần Cao Vân, Khải Định, Gia Long, Đống Đạ..để bảo vệ các giáo xứ Thạch Gián, Tam Ṭa, Thanh B́nh, Thanh Bồ và Đức Lợi. Đường dọc theo biển đều do các tự vệ CG tuần tra nên rất an toàn. Thỉnh thoảng nhóm tự vệ CG phải mở thế công để áp đảo tinh thần làm cho lực lượng của TT Trí Quang không dám bung ra xa, nhờ vậy giáo dân sống an toàn.

 

Ngày 30/4/66, Đại sứ Lodge tuyên bố trở về Mỹ để thảo luận về t́nh h́nh VN. Các giới quan sát cho rằng số phận của nhóm PG cực đoan miền Trung đă gần kề.

 

Ngày 15/5/66 trong khi Cảnh sát mở cuộc lục soát các trung tâm phát xuất những vụ náo loạn tại Saigon như trụ sở Thanh Niên Phật Tử, Tổng Liên Đoàn Lao Động... TT Thiệu thông báo các cuộc hành quân tái lập an ninh trật tự ở Đà Nẵng đang tiến hành. Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao được cử thay thế Thiếu tướng Tôn Thất Đính làm Tư lịnh Quân đoàn Ị

 

Nghe Tướng Cao được cử làm Tư lịnh vùng I, phe PG cực đoan miền Trung phản ứng mạnh mẽ v́ Tướng Cao vừa là CG vừa là vị tướng trung thành với TT Diệm. Đây là thành phần mà TT Trí Quang t́m diệt. V́ thế khi nhậm chức tại Đà Nẵng, người ta thấy không có chỗ nào an toàn cho Tướng Cao cư ngụ. Ngày 17/5/66, khi Tướng Cao lên máy bay Hoa Kỳ đi thị sát Quân đoàn I th́ Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức trong lực lượng đấu tranh của PG đă xă súng bắn nhưng không trúng. Xạ thủ trực thăng Hoa Kỳ đă dùng đại liên bắn lại khiến Thức chết tại chỗ và 6 binh sĩ khác bị thương.

 

Khi trở lại Saigon, Tướng Cao cho biết nếu không có các cố vấn Mỹ trong Quân đoàn đi sát hai bên th́ có lẽ ông bị ám sát rồi. Trong những ngày ở lại Đà Nẵng, ông tá túc trong căn cứ Hoa Kỳ và đi quan sát chiến trường bằng trực thăng Hoa Kỳ. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, sẽ chỉ huy các lực lượng Cảnh sát Dă chiến đánh chiếm các vị trí trong thành phố Đà Nẵng. Nhiệm vụ của Tướng Cao là để chống lại lực lượng PG, nhưng ông bất tuân thượng lịnh và quyết định thương lượng. Tướng Kỳ muốn chấm dứt vai tṛ của Tướng Cao để đưa một tướng khác đến.

 

Trong vụ này, Tướng Cao có 2 lầm lỗi lớn khi nhận đi làm Tư lịnh vùng Ị Thứ nhất là ông không nhận ra dụng ư của 2 Tướng Thiệu - Kỳ. Hoa Kỳ đang cố t́nh gài cho phong trào PG miền Trung đi quá trớn rồi diệt chứ không muốn thương lượng dây dưa. Thương lượng với nhóm này chỉ mang hậu họa, v́ bất cứ lúc nào họ cũng đưa ra mục tiêu mới để nói ngược và làm ngược dễ dàng. Trong khi đó Tướng Cao chỉ muốn đàm không muốn đánh, tức là đi ngược lại chủ trương của Mỹ và 2 tướng Thiệu - Kỳ. Thứ hai là ông tin tưởng rằng ḿnh có thể thương lượng với nhóm PG cực đoan miền Trung. Ông không ư thức được rằng TT Trí Quang và nhóm của TT Trí Quang là những thành phần cực đoan, không bao giờ chấp nhận nói chuyện với ông v́ ông vừa là CG vừa là thân tín của TT Diệm. Ông thuộc vào loại “dư đảng Cần Lao” gộc đang bị TT Trí Quang t́m diệt th́ làm sao có thể nói chuyện với nhau được. Nếu cần người thương lượng th́ 2 tướng Thiệu - Kỳ đă t́m người khác rồi. Ông trở về Saigon an toàn là cả một sự may mắn.

 

Xác chết của Thiếu úy Nguyễn Trọng Thức được dưa về Huế và được rước đi trên đường phố để kích động Phật tử và binh sĩ nổi loạn.

 

5 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến được chở bằng phi cơ ra Đà Nẵng đă mở cuộc hành quân chớp nhoáng tái chiếm thành phố Đà Nẵng, đài phát thanh và làm chủ t́nh thế. Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang rút về đóng trong 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến kéo tới vây chùa Phổ Đà đ̣i thả 17 binh sĩ bị bắt. 14 binh sĩ được trả về với đầy đủ vơ khí.

 

Kêu cứu Hoa Kỳ:

 

Khi t́nh h́nh bắt đầu nguy ngập, ngày 15/5/66, từ Huế, TT Trí Quang đă gởi một điện văn nhờ TT Johnson can thiệp. Ông vẫn tin rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ PG như thời kỳ chống chính phủ Diệm. Trong điện văn ông kêu gọi “Chính phủ Hoa Kỳ cần t́m cách ngăn chặn cuộc đàn áp Phật giáo”. Ngày 17/5/66, TT Johnson đă tuyên bố với báo chí là chính phủ Hoa Kỳ sẽ ủng hộ Quân đội VNCH để quân đội này có vai tṛ trọng yếu trong chính phủ tương laị Ông kêu gọi Quân lực VNCH chấm dứt nhanh chóng các vụ xâu xé nội bộ để lo CHỐNG CỘNG VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ TỪNG BƯỚC. Sau đó Ngoại trưởng Rusk đă thông báo cho TT Trí Quang biết Hoa Kỳ không thể can dự vào các vấn đề thuộc chủ quyền của VN và cũng không nhúng tay vào các vụ đàn áp đối lập của Tướng Kỳ. Ông khuyên nên tập trung nổ lực vào việc chống Cộng.

 

Ngày 20/5/66, TT Trí Quang lại lên tiếng kêu gọi TT Johnson can thiệp gấp. Ông yêu cầu Thủy quân Lục chiến Mỹ có hành động, nếu không sẽ cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng phá phi trường Đà Nẵng. Không nghe Hoa Kỳ trả lời ǵ, ngày 22/5/66 ông ra lịnh cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng bắn phá phi trường Đà Nẵng. 1 phi cơ Hoa Kỳ bị hư hại và một số binh sĩ Mỹ bị thương. Nhiều phi cơ phải bay đến các căn cứ khác. Các căn cứ quân sự Mỹ được lịnh nổ súng nếu bị tấn công.

 

Dùng áp lực quân sự không kết quả, ngày 25/5/66, TT Trí Quang lại lên tiếng yêu cầu TT Johnson và Quốc hội Mỹ ngưng yểm trợ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.

 

Đà Nẵng được giải thoát:

 

Tướng Dư Quốc Đống được phái tới Đà Nẵng để chỉ huy chiếm lại thành phố. Ngày 18/5/6, Tướng Kỳ đă yêu cầu Viện Hóa Đạo kêu gọi các tăng sĩ ở Đà Nẵng đừng chứa chấp các lực lượng đấu tranh trong chùa hoặc rời khỏi 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà gấp.

 

Ngày 20/5/66, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra lịnh cho các Tướng Thi và Đính phải ra tŕnh diện đồng thời đ̣i hỏi Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, Tư lịnh Sư đoàn I, phải dứt khoát tư tưởng, không thể đứng ở giữa được.

 

Ngày 22/5/66, cuộc tấn công vào 2 chùa Tỉnh Hội và Phổ Đà bắt đầu. Chỉ trong 1 thời gian ngắn, khoảng 600 binh sĩ và thanh niên Phật tử ở trong chùa Phổ Đà và các vùng lân cận đă ra đầu hàng; 30 nhà báo bị bắt giữ làm con tin đă được cứu thoát. Tại chùa Tỉnh Hội, các binh sĩ và thanh niên Phật tử cũng buông súng; 4 phóng viên của UPI và AP được giải thoát. Hơn 1,000 khẩu súng các loại được t́m thấy trong chùa Tỉnh Hội và 30 xác chết đă śnh thối. BS Nguyễn Văn Mẫn bị bắt đưa vào Saigon. Báo cáo sơ khởi cho biết có 76 người chết. Thiếu tướng Đính theo một số tàn quân chạy ra Huế.

 

11. Huế kháng cự vô vọng:

 

Thanh toán xong Đà Nẵng,lực lượng Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến tiến ra Huế bằng đường bộ qua đdèo Hải Vân. Lực lượng của Bửu Tôn phục kích 2 bên quốc lộ 1. Bửu Tôn cho thành lập 1 “Tiểu đoàn Quyết tử” lấy tên là Tiểu đoàn Nguyễn Trọng Thức để cố thủ Huế. Trung tá Trần Văn Khoa đem chừng 1,000 quân trung thành chính phủ về đóng ở Quận Hương Thủy. Khi các đơn vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến tiến vào Huế th́ Tiểu đoàn Quyết tử bỏ súng chạy. Quân đội chiếm thành phố dễ dàng.

 

Ngày 31/5/66, Tướng Hoàng Xuân Lăm được cử làm Tư lịnh vùng I thay thế Tướng Huỳnh Văn Cao. Trung tá Trần Văn Khoa đem quân trở lại Huế, công bố lịnh giới nghiêm và yêu cầu Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của TT Trí Quang đem vũ khí tới nạp. Bửu Tôn đầu hàng và đem 520 vơ khí các loại ra nạp. An ninh Huế được tái lập. Bộ Tư lịnh Sư đoàn I rút khỏi Huế.

 

12. Lá bài chót: Đem bàn thờ Phật xuống đường:

 

Khi mặt quân sự hoàn toàn thất bại, ngày 6/6/66 TT Trí Quang ra lịnh cho Phật tử đem bàn thờ Phật xuống đường và phát động chiến dịch tự thiêu:

 

§ Ni cô Thích Nữ Thanh Quang tự thiêu ở chùa Diệu Đế (Huế).

 

§ Cô Hồ Thị Châu tự thiêu ở Viện Hoá Đạo.

 

§ Nữ sinh Nguyễn Thị Vân tự thiêu ở chùa Thành Nội, Huế.

 

§ Ni cô Thích Nữ Bảo Luân tự thiêu ở Viện Hoá Đạo.

 

§ 1 em học sinh 15 tuổi tự thiêu ở Quảng Trị...

 

TT Trí Quang tin rằng Quân đội không dám đụng đến bàn thờ Phật và chiến dịch tự thiêu sẽ làm thế giới rúng động như năm 1963, nhưng ông đă lầm, thế giới vẫn ngậm câm. C̣n về phần quân đội, Tướng Kỳ ra lịnh cho Cảnh sát Dă chiến và Thủy quân Lục chiến xúc tất cả các bàn thờ ở Huế cũng như ở Saigon. Ngày 3/6/66, phát ngôn viên của Ṭa Đại sứ Hoa Kỳ tại Saigon lên tiếng xác định: Đang có chiến dịch bạo động và tự thiêu nhằm áp lực chính phủ Mỹ can thiệp vào nội bộ của VN, nhưng chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục giữ thái độ bất can thiệp như cũ.

 

Xử dụng mọi phương thức không đem lại kết quả, TT Trí Quang đành ngồi tuyệt thực. Trong khi đó, TT Tâm Châu dẫn một Ủy ban Phật giáo mới thành lập gồm 6 người đến Dinh Gia Long gặp Ủy ban Lănh đạo Quốc gia để thương thuyết. Ông yêu cầu Phật tử ngưng các cuộc đấu tranh để cùng chính quyền tổ chức các cơ cấu dân chủ, nhưng ngược lại 2 TT Thiện Minh và Trí Quang đều phản đối. Ngày 17/6/66, An ninh Quân đội đă bắt vợ của GS Lê Tuyên cùng một số sinh viên tranh đấu ở Huế và đưa TT Trí Quang lên máy bay về Saigon cho ở Bịnh viện Duy Tân của BS Nguyễn Duy Tài để “chữa bịnh và bảo vệ”. Ngày 22/6/66, GS Lê Tuyên (hiện nay ở Mỹ) ra tŕnh diện và bị bắt đưa vào Saigon.

 

Kết quả cuộc tái chiếm Huế: 7 binh sĩ bị thương, tạm giữ 190 quân nhân ly khai, 109 công chức và 35 cảnh sát tham gia Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng.

 

Tướng Thi cho biết trong cuộc đánh chiếm Đà Nẵng và Huế nói trên có 242 người chết và bị thương.

 

Ngày 26/6/66, TT Trí Quang “tuân lịnh Đức Tăng Thống” đă ngưng tuyệt thực.

 

Ngày 27/6/66, Tướng Kỳ họp báo tại Huế nói: Công nhận “được làm vua , thua làm giặc”, nhưng không công nhận “được làm vua, thua th́ ḥa”.

 

GS Lê Tuyên bị bắt tại Huế ngày 21/6/66 đă tuyên bố trong cuộc họp báo rằng TT Trí Quang mới là người chủ động, ông chỉ là người thừa hành mà thôi.

 

13. Một vụ truy tố và xét xử kỳ lạ:

 

Măi đến ngày 19/12/67, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị bể ra làm hai, nội bộ tranh chấp nhau, không c̣n khả năng khuấy phá nữa, vụ nổi loạn tại miền Trung mới được đưa ra xét xử trước Ṭa Án Mặt Trận Thủ Đô và vùng III Chiến Thuật. Có tất cả 26 bị cáo được đưa ra ṭa, trong đó có Đại tá Đàm Quang Yêu, Đại tá Nguyễ Văn Mô, BS Nguyễn Văn Mẫn và GS Lê Tuyên. Các bị cáo bị truy tố về tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội phản nghịch chiếu theo các điều luật sau đây:

 

§ Điều 4 đoạn Dụ số 47 ngày 21/8/56

 

§ Điều 1 đoạn 1 và điều 11 Luật số 10/59 ngày 6/5/59

 

§ Điều 59-60 Bộ H́nh Luật Canh Cải.

 

Hồ sơ nội vụ và bản cáo trạng cho thấy tội phạm của các bị cáo quá hiển nhiên, không có ǵ phải tranh luận. Các luật sư chỉ căi chày căi cối giúp vui cho phiên ṭa mà thôi.

 

Luật sư Vơ Văn Quan kể lại chuyện ông biện hộ cho BS Nguyễn Văn Mẫn:

 

“Tôi vô khám Chí Ḥa tiếp xúc với BS Mẫn sau khi đă xem hồ sơ tại Pḥng Lục Sự của Ṭa Án Quân Sự ở bến Bạch Đằng. Tôi không được quen với BS Mẫn và trong vụ này tôi liên lạc với TT Trí Quang nhiều hơn là với ông, nên tôi không c̣n nhớ h́nh dáng của BS Mẫn. Một chuyện đặc biệt này tôi c̣n nhớ rơ. Lần đó, BS Mẫn rất dè dặt trong khi bàn luận với tôi. Tôi nói với ông rằng phương pháp làm việc của tôi là nhờ thân chủ làm một tờ mémoire kể đầy đủ chi tiết về những sự kiện đă xảy ra và những lư lẽ mà thân chủ muốn tôi căn cứ vào để biện hộ. Như vậy tôi có tài liệu cần thiết để nghiên cứu và thảo luận với thân chủ về chiến thuật sẽ cùng nhau xử dụng trước Ṭa. BS Mẫn dè dặt bảo tôi ông cần suy nghĩ có nên làm một tờ tŕnh bày trường hợp của ông để giao cho tôi hay không. Tôi thông cảm rằng đối với ông dầu sao tôi cũng chỉ là một người lạ, một luật sư không phải do ông hay người nhà của ông chọn, tức nhiên ông ngần ngại không dám tiết lộ những bí mật của ông. Ông đồng ư để rồi bàn việc này lại với “Thầy”.

 

“Tôi điện thoại đến nhà Giao (tôi không biết số điện thoại của Thượng Tọa, dầu biết, tôi cũng không gọi tới v́ chắc chắn điện thoại bị công an nghe lén). Tôi nhờ Giao thuật chuyện này lại với TT. Mấy hôm sau, Giao đem đưa cho tôi lá thơ gởi cho BS Mẫn, vắng tắt có mấy chữ:

 

“Anh Mẫn,

 

Làm Mémoire đi.

 

Ông già.”

 

“Nét chữ cũng rắn rỏi như cái mệnh lệnh. Chừng đó tôi mới biết rằng trong giới thuộc hạ của ông (TT Thích Trí Quang) tiếng lóng để ám chỉ ông là “Ông Già”.

 

“Tôi trở vô khám Chí Ḥa đưa lá thư -- cái mệnh lệnh -- cho BS Mẫn. Ông liền hẹn tôi hôm sau sẽ có tờ mémoire ngaỵ “Ông Già” oai thật !

 

“Phiên Ṭa xử các bị can trong vụ gọi là biến động miền Trung này cũng rất náo nhiệt, phóng viên quốc nội và quốc tế đều theo dơi khá đông. Một diễn tiến tôi c̣n nhớ là TT Trí Quang nhờ tôi đưa một văn thơ của ông cho ông Chánh Thẩm. Để chắc chắn rằng nội dung văn thơ ấy được phổ biến, TT tuyên bố sẵn sàng ra Ṭa khai rơ về những việc đă xảy ra tại miền Trung và đảm nhận tất cả trách nhiệm v́ chính ông lănh đạo cuộc tranh đấu ấy.

 

“Dĩ nhiên Ṭa không mời TT Trí Quang ra làm nhân chứng để ông không dùng phiên Ṭa làm diễn đàn chánh trị. C̣n truy tố ông, nếu “họ” dám th́ đă lam` từ lâu.

 

“Dầu sao, tôi cũng xử dụng lời lẽ trong văn thư đó trong sự biện hộ của tôi.

 

“Được Ṭa trao lời, tôi tŕnh bày đại khái như saụ

 

“Điều hiển nhiên là các bị can tranh đấu đ̣i phải thành lập Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội này thảo Hiến Pháp làm nền tảng pháp lư cho các cơ quan lănh đạo quốc gia thành h́nh sau một cuộc bầu cử. Không ai có thể bảo đảm rằng đ̣i hỏi ấy là yêu sách không chánh đáng, bất hợp pháp. Chính những người t́m cách lẫn tránh, không chịu đáp ứng sự đ̣i hỏi ấy, mới là người hành động bất chánh...

 

“Nếu đó là một cái tội th́ tại sao TT Trí Quang, người lănh đạo sự tranh đấu ấy, người đă gởi văn thư xác nhận phân minh trước Quí Ṭa rằng ông lănh đạo sự tranh đấu, lại không bị truy tố?

 

“Người lănh đạo, kẻ chủ mưu, không bị truy tố th́ tại sao những người chỉ có đi theo sự lănh đạo ấy lại bị truy tố?

 

“Tôi xin Quư Ṭa tha bổng bị can” (“Nghề hay nghiệp”, LS Vơ Văn Quan, Đặc san Luật khoa số 5/8/93, tr. 44/45).

 

Những điều LS Quan nêu ra để biện hộ như mục tiêu tranh đấu là chánh đáng, hay tại sao không truy tố người chủ mưu...đều không phải là những yếu tố luật định có thể gỡ tội hay giảm khinh cho các bị cáo. Tướng Lê Quang Vinh (Ba Cụt) đă bị truy tố và xét xử về các tội tương tự. Nhưng ai cũng biết rằng Ṭa Án Quân Sự Mặt Trận là một ṭa án chính trị, không xử theo luật mà xử theo lệnh nên LS Quan mới đưa chính trị vào pháp đ́nh để giởn chơi với Ṭa. Kết quả, ngày 22/12/67, sau khi nghị án, Ṭa tuyên án phạt 2 Đại tá 10 năm khổ sai, 1 sĩ quan và BS Mẫn 10 năm tù ở. 21 bị cáo được tha bổng. Chỉ ít lâu sau, BS Mẫn và các sĩ quan nói trên được ân xá, nhưng không trở lại binh nghiệp nữa.

 

Sự kiểm điểm thành quả từ phía VC

 

Sau khi nêu lên những thắng lợi thu được của PG miền Trung do TT Trí Quang, và Vơ Đ́nh Cường trực tiếp lănh đạo từ 1964-1966 đă bị thất bại, Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên - Huế đă làm một bản kiểm điểm về những thành quả thu được và những khuyết điểm đưa đến thất bại. Tài liệu này được in trong cuốn “Chiến trường Trị - Thiên - Huế trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng” do ban Tổng Kết Chiến Tranh Chiến Trường Trị - Thiên - Huế biên soạn, nhà xuất bản Thuận Hóa ở Huế xuất bản năm 1985.

 

Những thắng lợi thu dược:

 

Bản kiểm điểm mở đầu bằng phần nhận định tổng quát như sau:

 

“Thắng lợi của cuộc đồng khởi cuối năm 1964 và đầu năm 1965 đă giáng một đ̣n nặng nề vào quốc sách “ấp chiến lược” của địch đánh dấu một sự thất bại trong “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Trị - Thiên - Huế”.

 

Về phần thắng lợi:

 

“Ở thành phố Huế,dấy lên một phong trào đấu tranh chống Mỹ của quần chúng khá sôi nổi và quyết liệt, cùng với phong trào ly khai của Sư đoàn 1 ngụy. Phong trào đă kéo dài trong 3 tháng 4,5,6/1966. Quân chúng xuống đường đ̣i ḥa b́nh, chống chiến tranh với khẩu hiệu đ̣i lật đổ Thiệu-Kỳ. Cả Huế vùng lên, học sinh băi khóa, tiểu thương băi chợ, công chức băi việc, quần chúng tổ chức tuần lễ tẩy chay quân Mỹ. Cuộc đấu tranh đă h́nh thành một mặt trận rộng răi, thành phong trào liên minh hành động có tính cách bạo lực chống Mỹ và tay sai giữa nhân dân lao động và Sư đoàn 1 ngụy, đ̣i ly khai khỏi ngụy quyền Saigon. Sinh viên Huế lập đội sinh viên quyết tử, học sinh lập đội xung kích, giáo chức tổ chức lực lượng chống đàn áp. Hằng trăm sinh viên được điều động đi học quân sự, các chị tiểu thương chợ Đông Ba, nữ sinh Đồng Khánh đi làm cứu thương tiếp tế cho quyết tử quân, v.v...”

 

Nguyên nhân thất bại:

 

“Trong tháng 5/66 cả thành phố Huế hầu như hổn loạn, ngụy quân ngụy quyền bị tê liệt. Nhưng do tương quan lực lượng không cân xứng và sự lănh đạo trực tiếp của ta chưa đủ mạnh, địch đưa quân đến đàn áp khốc liệt và d́m phong trào vào bể máu. Các đơn vị ly khai đầu hàng, lực lượng PG tan ră, cơ sở của ta trong phong trào một số bị bắt, một số rút vào bí mật. Phong trào kéo dài được 96 ngày.

 

“Trong cán bộ lănh đạo, một thời gian dài có tư tưởng hữu khuynh rất nặng. Do tư tưởng hữu khuynh nên trong lănh dạo thiếu tinh thần tấn công mạnh mẽ và liên tục, chưa mạnh dạn phát động chiến tranh nhân dân, giành thắng lợi từng bước, và tiếp tục tiến công địch, đập tan mọi phương sách đối phó của chúng, kiên quyết đưa phong trào tiến lên”.

 

Xét về nguyên nhân thất bại, phần thứ nhất bản kiểm điểm nói đúng, nhưng phần thứ hai có tính cách cường điệu. Với lực lượng Quân dội VNCH thời đó, không một tổ chức chiến tranh nhân dân nào do các Khu ủy phát động có thể tồn tại được, nhất là khi cuộc chiến tranh (nhân dân) đó bị đa số lên án (v́ đem nhân dân làm bia đỡ đạn). Lúc đầu TT Trí Quang lấy “dư đảng Cần Lao TCG” làm chiêu bài kích động Phật tử, nhưng chiêu bài đó về sau trở thành một đối lực không vượt qua nổi. Chiến tranh nhân dân bao giờ cũng chỉ là phương tiện phá rối hay tạo điều kiện cho một biến cố xảy rạ Coi chiến tranh đó như là một yếu tố quyết định thắng lợi là sai lầm.

 

Sự tương quan giữa các tôn giáo khác và CSVN

 

Sự tàn sát và tiêu diệt các đảng phái quốc gia và tôn giáo đối kháng để giữ địa vị độc tôn truyền bá chủ nghĩa CS là mục đích chính của CS qua các cuộc chiến tại Việt Nam. Do đó, bắt đầu từ năm 1946, nhất là năm 1949 khi HCM bắt liên lạc được với quân của Mao Trạch Đông, nhiều người yêu nước đă bỏ hàng ngũ Việt Minh. Để mở rộng tầm ảnh hưởng qua mỗi thời kỳ đó, CSVN đă nương theo các chiêu bài như chống Pháp cứu nước, rồi kế đó chống Mỹ cứu nước nhằm gôm tất cả dưới một mái nhà CS. Do biết mưu đồ này, các tôn giáo và đảng phái dần dần đă quy tụ về phương Nam và vào năm 1954 họ đă thành lập một quốc gia VN mới không CS tức là VNCH, dưới sự trợ giúp của Mỹ .

 

Lịch sử đă cho thấy có nhiều tôn giáo chống CS rất mạnh mẽ. Khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945, có một số chức sắc và tín đồ của Phật Giáo Ḥa Hảo (PGHH), Cao Đài và Công giáo đă tham gia Mặt Trận Việt Minh (VM) với tư cách cá nhân hơn là tập thể v́ lầm tưởng đó là một lực lượng chống ngoại xâm thực sự theo đúng ư nghĩa v́ một quốc gia VN tự do và hạnh phúc. Nhưng khi họ nhận ra được bộ mặt thật của Đảng Cộng sản Đông Dương th́ đa số đă từ bỏ ngay VM.

 

Tại sao các tôn giáo Cao Đài, PGHH và Công giáo không tham gia Việt Minh?

 

Trước hết VM chỉ là mặt nổi của Đảng CS Đông Dương. Các nhà lănh đạo của các tôn giáo đều nhận thức rằng chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa vô thần, không dung hợp với các tôn giáo. Nếu cần phải có sự liên kết với các tôn giáo chống xâm lăng, CS chỉ liên kết trong giai đoạn mà thôi. Chính Mác đă từng nhận định:

 

“Tôn giáo là hơi thở của tạo vật quằn quại, là trái tim của thế giới không trái tim, là tinh thần của thời đại không tinh thần. Nó là thuốc phiện của dân chúng”.

 

Mác c̣n tuyên bố:

 

“Xóa bỏ tôn giáo, một thứ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là đ̣i hỏi hạnh phúc thật sự của nhân dân”.

 

Nghĩa là Mác cho rằng tôn giáo chỉ là một hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân. Vậy phải hủy bỏ tôn giáo đi, nhân dân mới có hạnh phúc thực sự.

 

Ngoài chủ trương đó, với sự tráo trở khôn lường và phản trắc, Đảng CS Đông Dương đă làm cho các tôn giáo trên dứt khoát với VC.

 

Sau khi HCM cướp chính quyền vào tháng 8/1945, t́nh h́nh trong nước rối loạn, bên trong các đảng phái quốc gia chống đối mạnh mẽ v́ cho rằng CS đă cướp công của họ, bên ngoài Pháp đang mở cuộc tấn công để chiếm lại Đông Dương. Trong t́nh thế này, HCM đă giả vờ thỏa hiệp với các đảng phái quốc gia và các tôn giáo để rảnh tay thương lượng với Pháp. Ngày 1/1/1946, HCM thành lập Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân lâm thời với HCM làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó và một số bộ đă được dành cho các đảng phái quốc gia, nhưng CS vẫn kiểm soát được chính phủ mà không nhượng bộ bao nhiêu cho họ.

 

Ngày 6/3/1946, HCM kư Thỏa ước Sơ bộ với Pháp để làm kế hoăn binh. Thỏa hiệp xong với Pháp, HCM quay lại thanh toán các đảng phái quốc gia và các tôn giáo với sự trợ giúp của Pháp. Có 2 vụ tàn sát quy mô nhất:

 

- Đó là vào đêm 27/6/1946. HCM ra lịnh cho bộ đội và công an tấn công các cơ sở tôn giáo và đảng phái được xếp vào loại phản động trên toàn quốc, giết hoặc thủ tiêu các lănh tụ cán bộ của các tổ chức này. Con số bị giết tại chỗ hoặc thủ tiêu lên khoảng hàng ngàn người. Vũ Hồng Khanh chạy trốn qua Trung Hoạ

 

- Vụ tàn sát đêm 19/12/1946 c̣n khốc liệt hơn. Ngày 18/12/1946, Bộ Tư lịnh Pháp thấy có nhiều chuyện bất thường trong việc điều quân của VM tại Hà Nội. Nhiều chướng ngại vật được dựng lên trong thành phố, các đơn vị Tự Vệ được tập trung và bố trí nhiều nơi, t́nh h́nh trở nên nghiêm trọng. Bộ tư lịnh Pháp liền ra mật lịnh cho các kiều dân Pháp tập trung vào các khu vực gần trại lính Pháp để dễ bảo vệ, đồng thời gởi thư cho Hoàng Hữu Nam phản đối thái độ khiêu khích của các toán Tự vệ. Vào khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, HCM ra lịnh nổ súng trên toàn thành phố Hà Nội, vừa tấn công đồn Pháp vừa lùng bắt các lănh tụ và cán bộ các đảng phái và tôn giáo. Số người bị giết kỳ này c̣n cao hơn lần trước.

 

Sau vụ này, đa số các sĩ phu và các tín đồ tôn giáo đă rời bỏ hàng ngũ VM và Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam, nhưng các tăng sĩ PG vẫn c̣n tiếp tục ở lại trong tổ chức Hội PG Cứu Quốc.

 

Diệt xong hầu hết các thành phần được coi là phản động trong các tôn giáo và đảng phái, HCM quay lại ve văn tín đồ các tôn giáo để thu hút họ tham gia Mặt Trận Việt Minh. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Mở Rộng của Đảng CSĐD họp từ 15-17/1/1948 có ghi rơ về chính sách tôn giáo vận của Đảng như sau:

 

“Phải đi sâu vào các tầng lớp quần chúng Công giáo, Cao Đài, Ḥa Hảo, gây cơ sở tổ chức, đặt những h́nh thức tổ chức thấp như “hội cầu nguyện cho các chiến sĩ”, “hội cầu nguyện cho nước độc lập”, v.v... Cải thiện đời sống cho đồng bào có đạo, kéo họ khỏi ảnh hưởng chính trị của bọn đội lốt tôn giáo làm bậy.

 

“Về tuyên truyền nên dựa vào những điều dạy trong thánh kinh mà cổ động nhiệm vụ cứu nước, phải phát hành một cuốn sách gồm những tài liệu, tranh ảnh, nêu sự tàn phá của giặc Pháp đối với đồng bào có đạo. Vạch cho giáo dân thấy rơ kháng chiến th́ sống, khuất phục th́ chết, tham gia tổ chức là có quyền lợi thực tế. Đặc biệt chú ư không đụng chạm đến tôn giáo, tín ngưỡng của giáo dân.

 

“Trong số cha cố, tu sĩ cũng có nhiều tầng lớp, nhiều xu hướng khác nhaụ Chú ư lớp tông đồ hay kẻ giảng (cathéchiste) đời sống thường khổ sở, có thể gần gũi và đào tạo thành cán bộ tốt. Đối với những cha cố có tinh thần yêu nước hay trung lập, nên đưa vào Ban Chấp Hành Liên Việt, “Hội ủng hộ kháng chiến”. Đối với những phần tử phản động, chính sách đoàn kết một chiều là sai, phải thẳng tay trừng trị những hành động khuấy rối và chia rẽ giáo dân, chia rẽ dân tộc”. (“Lịch sử Đảng CSVN”, nxb Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 206-207).

 

Nhưng rồi sau khi giành lại được chính quyền, Đảng CSVN lại trở mặt ngay, quay lại đàn áp thẳng tay các tôn giáo. Hà Nội có lần gởi khoảng 200 công an qua Tiệp Khắc học về cách thức khống chế các tôn giáo và cho ấn hành cuốn “Chũ Nghĩa Vô Thần Khoa Học” do một số giáo sư biên soạn để làm kim chỉ nam cho các cán bộ và công an cách thức khống chế các tôn giáo. Do các thủ đoạn tráo trở này mà các đảng phái quốc gia và tôn giáo kể trên đă không đứng chung hàng ngũ với CS.

 

Tương quan giữa Phật Giáo Ḥa Hảo và Cộng sản Việt Nam:

 

Phật giáo Ḥa Hảo (PGHH) là đạo Phật được Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ cải biến cho phù hợp với tín đồ và môi trường của miền Nam VN. V́ đạo được khai sáng tại xă Ḥa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nên ông gọi là PGHH. Về giáo lư, PGHH lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản. Đây là 1 trong 84,000 pháp môn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng để cho các tín đồ tu tại gia biết con đường giải thoát.

 

Khi t́nh h́nh thế giới biến động, ngày 10/3/1945, ông Hồ Văn Ngà thành lập Đảng Việt Nam Quốc Gia, quy làm một 2 đảng Nhân Dân Cách Mạng và Việt Nam Quốc Gia lại. Ngày 14/8/1945, theo lời kêu gọi của ông Ngà, Đức Huỳnh Phú Sổ đă cùng các ông Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch, v.v...đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Ngày 22/8/1945, lực lượng Việt Minh (VM) cướp chính quyền ở Hà Nội th́ tại miền Nam, lực lượng của VM chưa có tên ǵ nên Nhật đă giao chính quyền Nam Kỳ lại cho ông Trần Văn Ân, Chủ tịch Hội Đồng Nam Kỳ.

 

Ngày 24/8/1945, Tổng Bộ VM cử Cao Hồng Lĩnh và Hoàng Quốc Việt từ Hà Nội vào Nam tăng cường cho Mặt Trận VM tại Nam Bộ và lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Ngày 7/9/1945, nhóm Đệ Tứ (Trostkyite; nhóm này chủ trương chống Pháp và nhóm CS Đệ Tam của HCM) và các đảng phái Quốc gia đứng lên chống lại Lâm Ủy Hành Chánh, Trần Văn Giàu phải mở rộng cơ quan này, cho Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch. Một cuộc biểu t́nh của PGHH được tổ chức tại Cần Thơ đả đảo Lâm Ủy Hành Chánh của VM và ủng hộ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Cuộc đối kháng giữa các đảng phái quốc gia và CS bắt đầu.

 

Ngày 13/9/1945, công an của VM do Lư Huệ Vinh cầm đầu đi lục soát xóm Thơm lùng bắt các ông Vũ Tam Anh, Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng Tường và Bùi Quang Chiêu. Trước đó, vào ngày 9/9/1945, Trần Văn Giàu đă cho công an VM vây trụ sở của Việt Nam Độc Lập Vận Động Hội để bắt chủ tịch của hội này là Đức Huỳnh Phú Sổ, nhưng không bắt được ông.

 

Ngày 16/9/1945, quân Pháp trở lại chiếm Saigon, tuyên bố không chấp nhận Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu, đuổi Lâm Ủy Hành Chánh ra khỏi Dinh Gia Long. Trần Văn Giàu phải nhờ các ông Trần Văn Thạch, Huỳnh Văn Phương và bà Hồ Vĩnh Kư (tức Nguyễn Thị Sương) đứng ra lập Ủy Ban Ngoại Giao để thương lượng với quân dội Đồng Minh, nhưng không kết quả. Ngày 24/9/1945, các đảng phái quốc gia, trong đó có giáo phái PGHH, đứng lên sát cánh với VM hô hào chống Pháp. Trong khi Lâm Ủy Hành Chánh rút về chợ Đệm th́ các đảng phái quốc gia lập Ủy Ban Phong Tỏa Saigon gồm có Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà và Kha Vạn Cân. Ngày 27/9/1945, Dương Văn Giáo thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Quốc để tổ chức kháng chiến. Chính phủ này lại bị VM chống đối mạnh mẽ.

 

Trước sự chống cự của các đảng phái quốc gia và VM, Pháp đă thương lượng với các đảng phái quốc gia và đề nghị hưu chiến để t́m một giải pháp tốt đẹp. Cuộc hưu chiến bắt đầu từ 1/10/1945. Lợi dụng t́nh trạng đang hưu chiến để thương lượng với Pháp, Trần Văn Giàu cho công an và bộ đội VM bao vây trụ sở và tư gia của các lănh tụ đảng phái quốc gia, bắt các ông Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang Vinh, Bùi Quang Chiêu. Một số bị hạ sát ngaỵ Các đảng viên của Đệ Tứ như Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phạm Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phạm Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái, v.v... đều bị VM bắt và đem ra chôn sống ở Ḷng Song thuộc tỉnh B́nh Thuận. Cuộc chiến giữa các đảng phái quốc gia và VM đă thực sự bắt đầu. Riêng PGHH đă lập các khu kháng chiến tại miền Tây để chống cả Pháp lẫn VM.

 

VM lợi dụng ḷng yêu nước của Đức Huỳnh Phú Sổ và của đồng bào, kêu gọi liên minh để kháng chiến. VM chiêu dụ một số người có uy tín của PGHH tham gia VM như Sư thúc Mười Trí (tức Huỳnh Văn Trí), anh em kết nghĩa với Đức Huỳnh Phú Sổ. Ngày 16/4/1947, VM giả vờ mở đại hội cao cấp của Ủy Ban Hành Kháng Nam Bộ tại Đốc Vàng, mời Đức Huỳnh Phú Sổ tới phó hội. Đức Huỳnh Phú Sổ đă cùng với 4 cận vệ đi thuyền tới điểm hẹn, th́ đột nhiên nghe súng nổ hàng loạt. Ông bị ám hại; 3 cận vệ của ông bị đâm chết; chỉ người lái thuyền nhảy được xuống nước bơi qua bên kia sông nên thoát chết.

 

Sau khi Đức Huỳnh Phú Sổ bị ám sát th́ Mười Trí xuất hiện tại Thánh Địa như muốn thay thế Đức Huỳnh Phú Sổ làm Giáo chủ. Người ta loan tin “Đức Thầy vân du một thời gian, sẽ trở lại”, trong thời gian chờ đợi, có vẻ Mười Trí sẽ là “Quyền Giáo chủ lănh đạo PGHH”. Nhưng âm mưu này của VM không thành v́ trong Giáo hội này c̣n có nhiều người như Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt. Mười Trí lại bị mọi người nh́n bằng con mắt xoi mói nên không dám ở lại, phải đi vào mật khu của VM. Sau hiệp định Geneva năm 1954, Mười Trí đă tập kết ra Bắc, trở lại miền Nam sau 30/4/75 và đă qua đời tại Saigon vào năm 1989.

 

Ám hại xong Đức Huỳnh Phú Sổ, VM cho bộ đội và công an đi lùng bắt giết các lănh tụ và cán bộ trung kiên của PGHH. Có khoảng 12,000 tín đồ PGHH đă bị thanh toán trong giai đoạn này. Riêng tại thôn Phú Thuận, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, người ta đă khám phá thấy 3 hầm chôn tập thể trên 300 người. Nhưng lực lượng PGHH đă được tổ chức lại để chống CS.

 

Sau ngày 30/4/75, CS triệt hạ toàn bộ cơ sở của PGHH, từ trung ương đến địa phương. Tất cả tài liệu kinh giảng của Giáo hội bị tịch thu, bắt dẹp bỏ h́nh Đức Huỳnh Phú Sổ tại nơi công cộng và tư giạ Một số lớn chức sắc và tín đồ của PGHH đă bị giết, bị tuyên án tử h́nh, án tù hay quản thúc tại giạ Vài vụ thanh toán điển h́nh:

 

- Những chức sắc và tín đồ bị án tử h́nh: Nguyễn Văn Phụng, Nguyễn Đê, Huỳnh Văn Lầu (cựu Dân biểu Quốc hội), Nguyễn Văn Bảo, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Văn Oanh, Lê Chơn T́nh, Nguyễn Văn Coi, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Văn Út, Tô Bá Hộ (có thể bị tử h́nh hay tù chung thân). Riêng Nguyễn Thành Long, Hội trưởng Hội PGHH quận Cái Răng, Cần Thơ đă bị bẻ cổ chết.

 

- Tù chung thân: Nguyễn Văn Đấu, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Trên, Trần Văn Dũng.

 

- Bị đưa đi cải tạo và chết trong tù: Phan Bá Cầm (Tổng bí thư Việt Nam Dân Chủ Xă Hội Đảng), Thiếu tướng Lâm Thành Nguyên (tự Hai Ngoán), Trịnh Quốc Khánh (tự Chín Lễ), v.v... Riêng cụ Trần Hữu Duyên, sau một thời gian cải tạo đă được tha về, năm 1992 bị bắt lại và bị phạt 10 năm khổ sai khi ông vừa được 70 tuổi.

 

Tương quan giữa Đạo Cao Đài và Cộng sản Việt Nam:

 

Đạo Cao Đài được chính thức thành lập vào năm 1926. Người sáng lập là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, ṭng sự tại Phú Quốc. Ông là người rất tin giáng khẩu của các thần linh và thường dùng bàn xoay để tiếp xúc với thế giới vô h́nh. Một hôm, ông tiếp xúc được với một vị tự xưng là Cao Đài và vị này cho ông được tôn thờ dưới h́nh một con mắt. Được thuyên chuyển về Saigon, ông cùng với một số bạn bè thường cầu cơ và được Đức Cao Đài giáng đồng dạy cho biết những triết lư tu và sống đạo.

 

Ngày 7/10/1926, ông Ngô Văn Chiêu đă cùng 28 người ra tuyên ngôn chính thức lập đạo Cao Đài và xin Thống đốc Nam Kỳ cho phép hoạt dộng chính thức. Đơn được chấp nhận. Ông Lê Văn Trung được bầu làm giáo chủ đầu tiên của đạo này.

 

Sau khi được thành lập, đạo Cao Đài đă bị Đảng CSĐD lên án nặng nề và chụp mũ tôn giáo này là công cụ của thực dân Pháp.

 

Trong Nghị quyết của Đại biểu Đại hội lần thứ 1 của Đảng CSĐD họp từ 27-31/3/1935, CS nhận định như sau:

 

“Cuộc vận động phổ biến và mở rộng tôn giáo như: Đại biểu Hội nghị Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, lập trường dạy Phật học ở Cao Miên, cải lương đạo Phật, khuếch trương đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, cuộc tuyên truyền của một bộ phận bọn lănh tụ Cao Đài giả bộ cổ động phản đế và cho rằng đạo Cao Đài là Cộng sản chủ nghĩa ḥa b́nh (?), là những mưu mô của đế quốc lấy mê tín che lấp tư tưởng đấu tranh giai cấp để kéo quần chúng ra khỏi cách mạng tranh đấu “ (“Lịch sử Đảng CSVN”, nxb Sách Giáo khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 124).

 

Một Nghị quyết của Ban Trung ương đảng khác lại viết về đạo Cao Đài như sau:

 

“Quần chúng có ít nhiều tinh thần phản đế (quốc) theo đạo Cao Đài và Phật giáo khá cao, nhất là sau những năm khủng bố 1930-1931, đạo Cao Đài ở Nam Kỳ kéo được một số đông tín đồ, nhưng nhờ thực tế thức tỉnh và nhờ phong trào dội lướt lên của một số quần chúng theo các đạo ấy đă dần dần nhận rơ con đường đoàn kết tranh đấu để đ̣i quyền lợi, đă có một số ra khỏi đạo Cao Đài. Đế quốc chủ nghĩa Pháp rất xảo quyệt, đă t́m cách lợi dụng những trào lưu tôn giáo để mê hoặc quần chúng. Những Hội Chấn hưng PG ở Nam-Bắc-Trung do bọn hưu quan và địa chủ cầm đầu có kế hoạch của cơ quan mật thám chính trị bày vẽ. C̣n bọn lănh tụ Cao Đài lúc trước phần nhiều bị bọn tay sai Nhật mua chuộc và lừa gạt quần chúng tín đồ theo ảnh hưởng thân Nhật. Từ khi đế quốc Pháp dự vào chiến tranh, v́ t́nh h́nh căng thẳng và v́ đế quốc Pháp t́m cách mua chuộc, phần nhiều lănh tụ Cao Đài lúc này đă trở nên tay sai đế quốc Pháp, hô hào tín đồ ra đầu quân giúp “mẫu quốc”, che đậy sự tráo trở đầu hàng đế quốc Pháp của chúng bằng câu:”Đi lính để quay mũi súng đánh Tây”. Tóm lại, bọn lănh tụ Cao Đài là bọn có bản tính phản động, đ̣n xóc hai đầu, tùy theo cơ hội hoặc làm tay sai cho đế quốc này, hoặc bán ḿnh cho đế quốc khác, c̣n quần chúng tín đồ Cao Đài th́ có ít nhiều tinh thần phản đế, nhưng c̣n nhiều mê tín thần bí nên bị bọn lănh tụ xỏ lá lừa gạt” (“Lịch sử Đảng CSVN”, nxb Sách Giáo Khoa Mác-Lênin, 1978, tr. 124).

 

Mặc dù Đảng CSĐD nhận định như trên nhưng thực tế không phải thế. Đạo Cao Đài về sau trở thành một tổ chức chống Pháp và chống CS mạnh mẽ nhất của miền Nam VN. Họ có cả một tổ chức quân đội rất vững mạnh. Trong một đại hội Cựu Chiến sĩ Cao Đài được tổ chức tại Anaheim, Caifornia từ 1-3/1/1993, cụ Đặng Quang Dương đă tŕnh bày về Quân đội Cao Đài như sau:

 

“Tại sao Cao Đài là một tôn giáo mà lại có quân đội? Nh́n vào lịch sử đen tối của đất nước thời bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa Pháp, con ngươi mất hết quyền công dân, ngay cả bản thân cũng phải đóng thuế, th́ làm sao tín đồ Cao Đài ngồi yên được, cho nên có sinh hoạt chính trị và tổ chức quân sự. Để bảo vệ tính mạn tín đồ Cao Đài và để bảo vệ quốc gia dân tộc, quân đội Cao Đài tổ chức các Trung đội lưu động hành quân gom dân về các châu vi đạo, các Trung đội lưu thủ bảo vệ các châu vi đạo để đồng đạo được tự do tín ngưỡng. Đồng thời quân đội Cao Đài cũng lập chiến khu Núi Bà Đen, chiến khu Bù Lu để chống lại bọn thực dân.

 

“Năm 1954, chiến tranh Đông Dương kết thúc, một đại hội Cán Bộ Việt Nam Phục Quốc Hội, một đoàn thể chính trị của người Cao Đài, được triệu tập tại Trường Thiếu Sinh Quân Cao Đài, sau 3 ngày hội thảo, đại hội khẳng định:”Bắc chống Nga Hoa, Tây ḥa Âu Mỹ, Nam liên kết bằng hữu Á Châu”, một lập trường rất đứng đắn của tín đồ Cao Đài thời bấy giờ” (Phi Loan, “Phóng sự Đại hội cựu Chiến sĩ Cao Đài, Tập san Đại Đạo Phổ Thông, số 1, 4/1993).

 

Đảng CSĐD đă không thuyết phục được các lănh tụ Cao Đài gia nhập VM v́ giữa Cao Đài và chủ nghĩa CS có một sự khác biệt không dung hợp được: một đàng vô thần và một đàng hữu thần. Bộ mặt tráo trở của các lănh tụ Đảng CSĐD đă bị các lănh tụ và tín đồ đạo Cao Đài nhận diện nên không những không tham gia vào các hội cứu quốc của VM mà c̣n cương quyết chống lại. V́ vậy, CS đă t́m mọi cách tiêu diệt Cao Đài. Nói một cách khác, đối với CS, thuận là sống, nghịch là chết.

 

Trong 2 năm 1945 và 1946, có trên 10,000 chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài bị tiêu diệt, điển h́nh nhất là các mồ chôn tập thể 4,000 giáo hữu của đạo này tại Quảng Ngăi và mồ chôn tập thể tại Trà Cao, Tây Ninh.

 

Sau khi chiếm được miền Nam VN, CS cho ngay một Trung đoàn chiếm đóng Ṭa Thánh Tây Ninh và phong tỏa các vùng phụ cận, lục soát toàn bộ khu vực này. Sau đó, CS đă bắt đi các chức sắc quan trọng của đạo Cao Đài như Phối Sư Trần Quang Vinh, Chánh Phối Sư Thượng Nhă Thanh, cựu Thiếu tướng Trần Tấn Mạnh và 25 vị chức sắc khác đưa đi cải tạo. Phối Sư Trần Quang Vinh đă chết trong tù. CS đă giấu xác của ông không cho thân nhân và tín đồ nhận về.

 

Tiếp đó, CS cho bỏ vũ khí vào đằng sau Điện Giáo Tông rồi mở cuộc lục xét bắt Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và những người cư ngụ trong nội thành Ṭa Thánh Tây Ninh, truy tố họ về tội tàng trữ vũ khí bất hợp pháp và tổ chức chống chính quyền, rồi đưa ra xét xử trước Ṭa Án Nhân Dân được thiết lập tại sân vận động Long Hoạ Hàng ngàn tín đồ đă vây sân vận động và khóc, CS không thể xét xử được v́ thanh thế của ông đối với dân chúng quá caọ Cuối cùng, CS đă đưa ông về quản thúc tại gia nhưng buộc Hội Đồng Chưởng Quản phải giáng xuống hàng Đạo hữu. Hiền Tài Hồ Thái Bạch, con của Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, bị bắt trong vụ Mặt Trận Phục Quốc tại Saigon năm 1984 và đă bị xử bắn với Trần Văn Bá và Lê Văn Quân vào ngày 8/1/1985.

 

Mặt Trận Tổ Quốc của CS huyện Ḥa Thành đă đưa Trương Ngọc Anh về tuyên bố giải tán Giáo hội Cao Đài và thành lập một Hội Đồng Chưởng Quản mới đặt trực thuộc quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc Huyện với dụng ư giáng xuống cấp huyện. Tất cả các cơ sở của Giáo hội này được đặt dưới quyền quản trị của Ban Quản Lư Nội Ô Ṭa Thánh.

 

Các chức sắc và giáo hữu của đạo Cao Đài chống lại việc giải tán đă bị bắt giam và truy tố về tội chống đối. Sau đây là các vụ điển h́nh:

 

- Tại Đà Nẵng và Quảng Nam: Năm 1975: phạt Nguyễn Hoàng Diệu 10 năm tù. Tháng 11/1976: kết án tử h́nh Phạm Ngọc Trảng, Nguyễn Thành Điểm và Đặng Ngọc Liêm; phạt từ khổ sai chung thân đến 7 năm tù: Nguyễn Minh Quan, Cao Tường Xuân, Lư Thành Trọng, Châu Thị Mỹ Kim, Trần Văn Bảo, Lê Ngọc Minh, Phạm Thàn Phước, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Văn Đời, Nguyễn Thành Minh, Đỗ Trung Trực, Trần Văn Phi, Nguyễn Tấn Phụng, Phương Văn Được, Ngô Văn Trạng và Tạ Tài Khoán. Năm 1978: Nguyễn Phú và Mai Văn Căn bị 3 năm tù. Năm 1979: Trần Ngọc Thành và Nguyễn Văn Bảy bị hành quyết.

 

- Tại Saigon: Trong phiên xử ngày 7-8/12/1979 của Ṭa án Nhân dân Saigon, những nhân sĩ và đạo hữu Cao Đài sau đây bị tuyên án về tội tham gia mặt Trận Giải Phóng Việt Nam: Tử h́nh: Ngyễn Văn Mạnh và Lê văn Nho; chung thân khổ sai: Trần Minh Quang, Đinh Tiến Mậu, Nguyễn Thái Dùng, Đoàn Văn Bạch. Một số bị án từ 10-20 năm.

 

- Tại Tây Ninh: Trong phiên xử ngày 10-11/12/1979 các đạo hữu sau đây bị tuyên án v́ tham gia Mặt Trận Nhân Dân Phục Hưng Quốc Gia Việt Nam: tử h́nh: Nguyễn Thanh Liêm, Huỳnh Thanh Khiết, Hồ Hữu H́a và Lê Tài Thượng; chung thân khổ sai: Nguyễn Anh Dũng (tức Phan Đăng Chức), Trương Phước Đức, Nguyễn Ngọc Đệ, Vơ Văn Thắng. Một số đạo hữu khác bị án từ 3-20 năm tù.

 

Trên 35 cơ sở tôn giáo của đạo Cao Đài tại miền Nam đă bị tịch thụ Năm 1989, CS tuyên bố tịch thu luôn Thánh Thất Cao Đài Hà Nội ở số 29 Lư Thường Kiệt, Hà Nội.

 

Như vậy, với chỉ một vài hàng tường thuật như đă tŕnh bày, chúng ta đă thấy rất rơ CS, người từng xưng hô với thế giới và những người trẻ tuổi tại VN rằng họ là những người chống Pháp, chống đế quốc, đă từng hy sinh ra tù vào khám v́ giấc mộng “giải phóng dân tộc”, nhưng khi “giải phóng dân tộc” rồi th́ CS c̣n tàn ác gắp trăm ngàn lần thực dân Pháp, v́ chính họ đă uống máu, sát phạt, thủ tiêu, đày ải, cấm cố người dân Việt của họ chỉ v́ tin vào “đấu tranh giai cấp” hăo huyền.

 

Tương quan giữa Công giáo và CSVN:

 

a.   Khởi đầu bằng ve văn, mua chuộc:

 

Khi t́nh h́nh CG miền Bắc đang gặp khó khăn th́ vào ngày 1/10/1945, linh mục Lê Hữu Từ được Vatican cử đến nhận chức Giám mục giáo phận Phát Diệm. Nhân ngày tấn phong 29/10/1945 của ông, HCM đă gởi một phái đoàn chính phủ đến tham dự kèm theo một thư chúc mừng như sau:

 

“Thưa Ngài,

 

“Mừng Ngài v́ cuộc tấn phong này đă chứng tỏ một cách vẻ vang đạo đức của Ngài.

 

“Mừng đồng bào CG, v́ từ nay các bạn đă được một vị lănh đạo rất xứng đáng.

 

“Đồng thời mừng cho nước ta v́ tôi chắc rằng Ngài sẽ lănh đạo đồng bào CG noi gương hy sinh của Đức Chúa mà hy sinh phấn đấu để giữ ǵn quyền Tự do và Độc lập của nước nhà.

 

“Kính chúc Ngài được luôn an mạnh “ (“Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 44).

 

Mặc dầu có những lời ve văn và chúc tụng trên, Giám mục Lê Hữu Từ hiểu rằng cần phải chuẩn bị để ứng phó với t́nh h́nh mới. Ông cho lập Ủy Ban Quân Chính, Liên Đoàn Công Giáo VN và VN Công giáo Cứu quốc. Phạm Văn Đồng hay tin liền về Phát Diệm một tuần lễ để nghiên cứu, theo dơi và xoa dịu t́nh h́nh. Ông Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đă kư nghị định số 52/BNV ngày 6/4/1946 cho phép thành lập Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam. Tổ chức này lan rộng mau lẹ trên toàn quốc.

 

Ngày 25/1/1946, nhân lễ bế mạc tuần tĩnh tâm của giáo phận Phát Diệm, HCM xuất hiện đứng trước đồng bào CG và hô to:”Đức Chúa muôn năm !”. Sau đó HCM tuyên bố mời Giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn cho chính phủ.

 

Ngày 24/12/1946, HCM gởi một thông điệp tới đồng bào nhân ngày lễ Giáng sinh bày tỏ sự mong ước nước nhà được tự do và độc lập như sau:

 

“Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đă ra đời. Cả đời người chỉ lo cứu độ dân, hy sinh cho tự do, b́nh đẳng.

 

“Trong lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng mong cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái với ḷng bác ái của Đức Giêsu...” (“Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, nxb Sự Thật, 1956, tập I, t. 111).

 

HCM c̣n đi xa hơn nữa trong tṛ ảo thuật ve văn này. Cuối năm 1947, HCM ra lịnh tiêu thổ kháng chiến, nhưng đồng bào CG Phát Diệm và Bùi Chu không tuân hành. Ngày 20/12/1947, HCM về huyện Nho Quang, tỉnh Ninh B́nh và mời Giám mục Lê Hữu Từ đến dùng cơm trưa với ông ta và các Bộ trưởng trong chính phủ. Trong dịp này, HCM đă xin chịu phép rửa tội. Giám mục Lê Hữu Từ kể lại:

 

“Cơm xong, họ mời tôi lại cái ghế phản (đi-văng) có đặt sẳn 2 cái gối để tôi cùng ông Hồ nói chuyện nằm nghỉ trưa. Nằm sát bên ông, ông Hồ nói chuyện rỉ rón thân mật hết sức. Bỗng nhiên ông nắm chặt tay tôi và bằng một giọng run run ông nói: “Xin cụ làm Béptêm (rửa tội) cho tôi để tôi cùng làm con Đức Chúa”. Nghe thế tôi phải hết sức cầm ḿnh ở b́nh tĩnh cho khỏi phát cười và nói:”Thật là vô cùng quư giá và bất ngờ cho tôi, tôi rất lấy làm sung sướng, nhưng v́ là việc rất can hệ, cần phải biết đủ các lẽ đạo và nhiều điều kiện phải dự trước, nên để sau sẽ tính” (“Giám mục Lê Hữu Từ và Phát Diệm, 1973, tr. 160-161).

 

b.   Thanh toán (1946-1954):

 

Bên ngoài ve văn như thế, nhưng bên trong HCM đang chuẩn bị để thanh toán, v́ HCM biết rằng CG và CS không bao giờ dung hợp được. Sau biến cố đêm 27/6/1946 đă nói ở trên, VM bắt đầu cho công an bắt giữ hoặc bắt cóc những thành phần CG hoạt động tích cực cho các tổ chức CG tại mỗi địa phương.

 

Trên toàn quốc, có 3 vùng đông giáo dân tập trung được VM chú ư là Nghệ An (137 giáo xứ), Nam Định (117 giáo xứ) và Ninh B́nh (32 giáo xứ). Nghệ An thuộc giáo phận Vinh, nằm trong vùng kiểm soát của VM nên không thể vơ trang tự vệ được. Các giáo xứ đó chỉ có thể đối kháng thụ động, không cho VM chi phối vào các hoạt động của giáo phận và giáo xứ. Giáo phận Bùi Chu ở Nam Định và giáo phận Phát Diệm ở Ninh B́nh nằm trong vùng tranh chấp giữa 2 bên nên HCM t́m cách lôi kéo 2 giáo phận này theo VM. Cả 2 giáo phận này đă phải đối phó một cách khôn khéo để sống c̣n. Khi không thuyết phục được, HCM ra lịnh tấn công.

 

Từ tháng 10-12/1946, VM cho mở cuộc hành quân vào một số giáo xứ thuộc giáo phận Phát Diệm gọi là cuộc hành quân “vây bắt côn đồ”. Cuộc hành quân này đă bắt đi khoảng 5,000 người cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Những người bị bắt bị đưa về giam ở huyện Nho Quan, đồn điền Ria và sau đó chuyển về trại giam Đầm Đùng ở Thanh Hoá. HCM đă cho phục kích mưu sát “Đức cha cố vấn” (GM Lê Hữu Từ) 3 lần, nhưng ông đă thoát nạn.

 

Trước t́nh trạng này, 2 giáo xứ trên không c̣n cách ǵ khác hơn là lập các tổ chức tự vệ được đặt dưới quyền điều khiển của một Tổng bộ chỉ huy tự vệ Bùi Chu - Phát Diệm.

 

Phát Diệm thành lập một khu an toàn để bảo vệ giáo dân và các cơ sở của giáo phận. Đa số dân tập trung ở huyện Kim Sơn đều phải trông nhờ vào sự bảo vệ và giúp đở của các tổ chức tự vệ Phát Diệm. Huyện này có 40 xă, 32 giáo xứ, gồm các tổng Hồi Thuần, Quy hậu, Hướng Đạo, Như Tân và Phát Diệm với dân số khoảng 150,000 người. Khu An Toàn Phát Diệm được thành lập nằm trong một vị thế địa dư rất thuận lợi cho việc pḥng thủ: 3 mặt được bọc bởi 3 con rạch ngăn cách các giáo xứ Phát Ngoại, Phú Vinh Trung và Lưu Phương. Toà Giám mục và Nhà Chung nằm ở giữa. Tính đến tháng 2/1947 đă có khoảng 60,000 người tản cư về vùng Phát Diệm. Riêng thị xă Phát Diệm đă phải chứa khoảng 30,000 người. Tại nơi đây các giáo dân đă đùm bọc lấy nhaụ

 

Tổ chức Công Giáo Cứu Quốc trở thành một lực lượng chống cả VM lẫn thực dân Pháp. Họ đă cho người vượt biên để t́m mua vũ khí. 2 giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu cũng đă liên lạc được với Hoà Thượng Thích Tuệ Chiếu ở Thanh Hóa và Thượng Tọa Thích Tâm Châu ở Ninh B́nh để thành lập Mặt Trận Liên Tôn chống Cộng.

 

Pháp đă thuyết phục Giám mục Lê Hữu Từ để cho Pháp đem quân đến bảo vệ khu Phát Diệm, nhưng ông từ chối. Ngày 22/11/1947, Pháp cho máy bay đến bắn phá khu Phát Diệm, bắn đạn vào Nhà Chung để uy hiếp tinh thần đồng bào CG. Cùng một lúc, VM cho bộ đội vây các xă Văn hải, Phúc Nhạc và Mưỡu Giáp, bắt di 695 người, trong đó có 13 người bị hành quyết ở núi Cánh Diều. Bị tấn công từ 2 phía, khu tự vệ Phát Diệm vẫn đứng vững.

 

Ngày 29/2/1948, Chủ tịch Mặt Trận Việt Minh Tỉnh Bộ Ninh B́nh cho triệu tập buổi họp liên tôn để trấn an dư luận về các vụ bắt bớ vừa quạ Ôg nói rằng VM không chủ trương diệt tôn giáo và “có một vài hiểu lầm tại nơi nọ nơi kia là do hạ cấp làm”.

 

T́nh trạng căng thẳng kéo dài đến ngày 16/10/1949 th́ Pháp bất thần đem quân chiếm Phát Diệm.

 

Sau này Linh mục Hoàng Quỳnh có viết trên tạp chí Đời Sống ngày 22/12/1953 cho biết rằng trong thời gian chiến đấu chống CS có khoảng 5,000 thanh niên CG bị VM bắt giam ở các trại Đầm Đùng, Yên Lai và Kim Tân.

 

Bị Pháp phỏng tay trên ở Phát Diệm, VM gặp khó khăn khi mở các cuộc tấn công vào các giáo xứ. VM quay qua tấn công các vùng khác, đặc biệt là trận Phú Ninh ở Bùi Chu vào tháng 11/1949. Bộ đội và công an VM đă bắt hết các thanh niên trong giáo xứ, chiếm nhà thờ và nhà cha xứ. Ngày 19/11/1949, Pháp mở cuộc hành quân đi ngang qua vùng này, dân làng Phú Ninh mới được giải thoát. Từ việc đó ta thấy ngay là chính VM, với bản chất là CS tàn bạo, đội lốt “cách mạng”, chứ không phải là “yêu dân tộc, đồng bào ruột thịt” đúng nghĩa đă làm cho dân chúng cảm thấy là họ sống an toàn hơn dưới “bàn tay của thực dân”. Trong thời gian chống cả VM và Pháp, khu Phát Diệm cũng đă che chở nhiều nhân vật quan trọng giúp họ thoát khỏi sự sát hại của VM như Ngô Đ́nh Diệm, Ngô Đ́nh Nhu và Trần Văn Chương.

 

c.   Ngăn cản và đàn áp cuộc di cư:

 

Theo điều 14, đoạn b của Hiệp định Geneva ngày 20/7/1954 th́:

 

“Trong thời gian kể từ khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực đến ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có những thường dân ở một khu thuộc quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở vùng giao cho bên kia, th́ nhà chức trách của khu trên phải cho phép và giúp đỡ sự di chuyển ấy”.

 

Trong Lời Tuyên Bố Cuối Cùng ngày 21/7/1954, ở đoạn 8 có nói:

 

“Phải triệt để thi hành những điều khoản trong hiệp định đ́nh chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mạng và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở VN tự do lựa chọn vùng ḿnh muốn sống”.

 

Lúc đầu th́ CS cho di cư khá dễ dàng. Sự ra đi của người CG Bắc Việt phát xuất từ nguyên nhân sâu xa là họ ư thức rằng không có tự do tôn giáo dưới chế độ CS, do đó họ quyết tâm ra đị Về sau, số người bỏ làng vào Nam ngày càng đông, CS thấy rằng nếu việc này tiếp tục diễn ra có thể làm suy yếu tiềm năng và kinh tế của miền Bắc nên đă dùng nhiều biện pháp dă man để ngăn chặn. Nạn nhân chính dĩ nhiên là đa số người CG Bắc Việt. Sau đây là vài trường hợp điển h́nh:

 

- Vụ Ba Làng: khoảng 8,000 giáo dân biểu t́nh truớc nhà thờ Ba Làng đ̣i được quyền di cư, đă bị bộ đội và công an CS xả súng bắn thẳng vào làm vô số người chết.

 

- Vụ Trà Lư: Khoảng 2,000 giáo dân ra một cồn cát ở bờ biển Trà Lư đợi tàu đén đón đị Khi nước thủy triều dâng lên, mọi người bắt đầu xôn xao th́ bộ đội ở trong bờ xả súng bắn ra khiến nhiều người bị chết, xác trôi dạt trên sóng. Tiếng kêu cứu vang một vùng. Tàu Le Capricieux và một vài tàu khác trông thấy đă đến cứu dược 1,445 người. Khoảng 600 người bị ch́m dưới bể.

 

- Vụ Cửa Ḷ: Cửa Ḷ là vùng duyên hải nằm cách Hải Pḥng khoảng 300 km, nhưng giáo dân không đi được v́ bộ đội và công an canh gác rất kỹ. Nhiều đám cháy được dựng nhiều nơi để đánh lừa bộ đội lo chữa cháy, nhơ đó 1,156 đă đi thoát.

 

-Những vụ đàn áp từng toán, từng gia đ́nh hay từng cá nhân, có khi nghiêm trọng nhưng không thể kể hết. Sau 30/4/1975, người ta được biết có nhiều nguời Bắc di cư năm 54 đứng ra tổ chức việc ra đi năm đó đă bị công an xử phạt từ 12-20 năm khổ saị

 

Kết quả là đă có khoảng 860,206 người di cư vào Nam và được chia ra như sau: Công giáo với 677,389 người, trong đó có 1,041 người theo đạo Tin Lành. Phật giáo với 182,817 người.

 

Cùng với việc ngăn chặn sự ra đi này Phạm Văn Đồng tới gặp Giám mục Trịnh Như Khuê yêu cầu ông viết một bức thơ kêu gọi giáo dân ngưng việc vào Nam, nhưng ông đă từ chối.

 

 

Giáo hội Công giáo miền Bắc từ 1954-1975

 

Sau chuyến di cư 1954, số giáo dân c̣n lại sau “bức màn tre” chỉ c̣n khoảng 750,000 người với 254 Linh mục và 7 Giám mục, chia làm 10 giáo phận. Ngoài ra Đức Khâm sứ Ṭa Thánh Jean Dooley đă quyết định ở lại với Giáo hội CG miền Bắc.

 

CS đă ban hành nhiều biện pháp rất tinh vi để khống chế giáo hội này. Trước tiên họ cho ban hành một quy chế tôn giáo để giới hạn hoạt động của giáo hội. Để chuẩn bị dư luận cho việc công bố quy chế này, CS triệu Nguyễn Mạnh Hà, cựu Bộ trưởng trong chính phủ VM, một tín đồ CG, từ Pháp về, đồng thời mời 2 linh mục và 1 giáo hữu Ba-Lan qua Hà Nội để “giải độc” trong giới CG. Phái đoàn Ba-Lan này tuyên bố:”Bên Ba-Lan chúng tôi có 26 triệu dân th́ những 26 triệu dân là CG, chúng tôi đến giúp anh chị em VN để theo gương chúng tôi là kư kết một cái ǵ đó với chính phủ cho dễ thở, không th́ sẽ như Giáo hội Trung hoa”.

 

Sắc lệnh về tôn giáo:

 

Ngày 14/6/1955, HCM ban hành Sắc lệnh số 234/SL về “Tự do tôn giáo” . Tuy đă chuẩn bị dư luận trước, nhưng khi sắc lệnh này vừa được công bố trên nhật báo Nhân Dân ngày 15/8/55 th́ gặp ngay phản ứng mạnh mẽ của giáo hội CG miền Bắc v́ các quyền tự do sống đạo và truyền đạo trong khoảng 100 năm nay không c̣n nữa. Chỉ Linh mục Vũ Xuân Kỹ và một nhóm linh mục ly khai với giáo quyền mới ủng hộ sắc lệnh trên. Sắc lệnh quy định:

 

§ Không được giảng đạo ngoài phạm vi nhà thờ. Cấm nói về tôn giáo trong các hội quán.

 

§ Khi thuyết giảng trong các nhà thờ, giáo sĩ phải giảng về ḷng yêu nước, nghĩa vụ công dân, sự phục tùng chính phủ và các đạo luật ban hành, ngay cả các đạo luật bài tôn giáo.

 

§ Cho phép tôn giáo mở trường tư thục, nhưng phải dạy theo chương tŕnh của chính phủ. Chỉ có thể dạy thêm giáo lư cho các học sinh muốn học.

 

§ Các linh mục không được vào bịnh viện, trừ khi chính bịnh nhân xin đích danh.

 

§ Tài sản của GH do nhà nước quản lư. Các giáo sĩ chỉ được cấp một ít đất đai để sinh sống.

 

Chương tŕnh giáo dục mà chính phủ bắt phải theo bao gồm cả môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin và các bài cổ vơ chủ nghĩa vô thần và bài xích tôn giáo.

 

Cũng trong khoản đầu năm 1955, CS cho tổ chức đại hội các người CG “yêu tổ quốc và ḥa b́nh” tại Hà Nội và ép buộc 16 linh mục từ các địa phận về tham dự. Đại hội c̣n gởi thư cho Đức Giáo hoàng xin thẳng tay trừng trị “bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc”. Các hội nghị tương tợ cũng đă được tổ chức tại Hà Đông, Sơn Tây và Nam Định.

 

Riêng tại Hà Nội, CS mời hàng giáo phẩm tới thảo luận về sắc lệnh tôn giáo. Trong hội nghị này cùng có sự tham dự của ông Ngô Từ Hạ và một số giáo dân “cấp tiến” khác. Tuy nhiên hàng giáo phẩm tới tham dự đă không lên tiếng ủng hộ sắc lệnh, cũng không chịu đi biểu t́nh và kéo chuông như CS dự trù.

 

Nhóm CG “cấp tiến” trên do CS thành lập dưới danh hiệu “CG yêu tổ quốc, yêu ḥa b́nh” với thâm ư dùng phong trào này để thôn tính CG; nhóm này do Ngô Từ Hạ và Linh mục Vũ Xuân Kỹ cầm đầu. Chính nhóm này đă tổ chức những cuộc tiếp đón phái đoàn CG quốc doanh Tiệp Khắc qua thăm GH miền Bắc do ông Rostielo Petra cầm đầu. Petra nói rằng khi người CG thực hiện các kế hoạch của nhà nước và Mặt Trận Tổ Quốc, chính là thực hiện “lư tưởng Công giáo”. GM Trịnh Như Khuê không cho phép các linh mục trong phái đoàn này làm lễ cho giáo dân mà chỉ cho phép làm lễ riêng ở nhà thờ Cửa Bắc. Thái độ này làm CS tức giận. Vào dịp lễ Giáng sinh kế đó, CS bắt các nhà thờ đọc thông điệp của HCM nguyền rủa đế quốc.

 

Thành lập tổ chức CG quốc doanh:

 

Giáo sĩ đầu tiên của CG đă tham chính trong chính quyền CS là Linh mục Nguyễn Bá Trực. Ông thuộc giáo phận Hà Nội và là một trong 3 linh mục VN đầu tiên được đưa qua La Mă và Pháp học lấy bằng Tiến sĩ.

 

Linh mục Trực tham gia kháng chiến từ 1945, được chọn làm đại biểu Quốc hội. Khi Pháp chiếm Bắc Việt, ông theo VM vào chiến khu và được cử làm Quốc vụ khanh của chính phủ HCM, có nhiệm vụ liên lạc giữa chính phủ và CG. Ông đă nhiều lần được HCM giao cho nhiệm vụ tiếp xúc với GM Lê Hữu Từ ở Phát Diệm để giải quyết những vấn đề liên hệ đến khu tự trị này. Nhưng ông không đủ uy thế để thương lượng nên nhiều lần HCM phải đích thân dến. Sau linh mục Trực c̣n có 2 linh mục nổi tiếng khác đă cộng tác với CS, đó là linh mục Vũ Xuân Kỹ và Nguyễn Thế Vịnh. LM Vịnh sinh năm 1909 ở xứ Văn Hải, Phát Diệm, chịu chức LM năm 1936. Đầu tiên ông được bổ nhiệm coi sóc giáo xứ Hướng Đạo, rồi đến Phương Thượng và Quảng Phúc thuộc giáo phận Phát Diệm. Năm 1947, khi VM rút vào chiến khu, ông đă đi theo tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được HCM giao cho việc phụ trách công tác Công giáo vận ở trong cũng như ngoài nước.

 

Sau khi chiếm được miền Bắc, HCM cũng muốn biến GHCG miền Bắc thành một GHCG Tự Trị như ở Trung Cộng, nhưng sau nhiêu lần thăm ḍ, HCM thấy rằng miền Bắc vẫn c̣n có Khâm sứ Ṭa thánh, 7 Giám mục, 254 linh mục và 750,000 giáo dân. Đa số giáo dân ở vào những khu tập trung, được tổ chức rất chặt chẽ, có tinh thần chống Cộng mạnh nên việc đối phó không dễ dàng như Phật giáo. Kinh nghiệm của khu tự trị Phát Diệm trong thời kỳ kháng chiến bắt buộc HCM quyết định chỉ lập một tổ chức song hành để quấy phá GHCG tại đây.

 

Vào đầu năm 1955, Mặt Trận Tổ Quốc, hậu thân của Mặt Trận Liên Việt, đă quyết định cho triệu tập một Đại hội Đại biểu Công giáo vào ngày 11/3/1955 tại Hà Nội để thành lập môt tổ chức liên kết người CG iền Bắc. Các đại biểu tham dự đại hội do Mặt Trận Tổ Quốc quyết định. Các LM Nguyễn bá Trực, Nguyễn thế Vịnh, Vũ Xuân Kỹ, Hồ Thành Biên (miền Nam tập kết) và ông Ngô Tử Hạ đă vận động tích cực cho việc tổ chức Đại hội. Sau 2 ngày thảo luận, Đại hội đă quyết định thành lập “Ủy ban liên lạc Công giáo yêu tổ quốc và ḥa b́nh” và bầu LM quốc doanh Vũ Xuân Kỹ làm Chủ tịch, LM Hồ Thành Biên làm Phó chủ tịch. 3 LM quốc doanh khác làm Ủy viên trung ương của Ủy ban. Nhiệm vu chính của Ủy ban là hô hào giáo dân tham gia tích cực vào việc thực hiện các kế hoạch của chính phủ. Tuy được nhà nước yểm trợ nhưng ủy ban này không làm được tṛ trống ǵ cả v́ bị giáo dân tẩy chaỵ

 

Sau khi lập xong tổ chức CG quốc doanh nói trên, CS coi các GM miền Bắc như không có nữa, họ tiếp xúc thẳng với từng LM và kết hợp hoạt động qua Ủy ban Liên lạc CG. Năm 1960, LM Phạm Hân Quynh đă lên tiếng chỉ trích các hành động chia rẽ này của CS và ông đă bị công an cho đi cải tạo và quản thúc suốt 30 năm.

 

Xiết chặt ṿng kiểm soát:

 

Cũng trong năm 1955, CS cho triệu tập một Hội nghị CG Toàn quốc thứ hai tại Hà Nội, trong đó có 16 LM bị chỉ định phải đến tham dự. Trong hội nghị này, Mặt Trân Tổ Quốc đă đưa thỉnh nguyện thư gởi Đức Giáo Hoàng yêu cầu “trừng trị bọn lợi dụng tôn giáo để phục vụ đế quốc”. Thỉnh nguyện thư này mở màng cho việc đàn áp các giáo sĩ và giáo dân có tư tưởng đối kháng với chính sách tôn giáo của CS và bị họ lên án là “tay sai đế quốc”.

 

Trước tiên, CS hạn chế sự di chuyển của LM nên những giáo xứ không có LM thường không có nghi lễ tôn giáo cho giáo dân. Giáo dân nào muốn dự thánh lễ phải đi rất xa, có khi phải nghĩ lại dêm. Các giáo xứ ở Quảng Yên, Ḥn Gay và Cẩm Phả có khoảng 40,000 giáo dân nhưng không có LM nào. Suốt năm này qua năm khác, giáo dân không được dự thánh lễ, kể cả các ngày lễ lớn như lễ Giáng sinh hay Phục sinh.

 

Tại những nơi có LM, CS cố t́nh sắp xếp các giờ lao động hay hội họp trùng với các giờ kinh hay giờ lễ để giáo dân không tham dự được.

 

Năm 1956, CS bắt đầu trục xuất dần các LM thừa sai ngoại quốc. Sau 1954, có khoảng 20 LM thừa sai đă t́nh nguyện ở lại với giáo dân miền Bắc. Số LM này lần lược bị gọi đến và ra lệnh phải rời VN. Đầu năm 1959, Đức Khâm sứ Jean Dooley đang đau nặng, cũng đă bị trục xuất qua ngă Nam Vang. Đến năm 1960, việc trục xuất các linh mục thừa sai coi như hoàn tất. Sự thiếu thốn LM trở nên trầm trọng.

 

Đến giai đoạn hai, CS bắt đầu thanh toán các trường tư CG. Bỗng dưng các học sinh không CG từ các vùng kế cận đến ghi tên học trường CG rất đông. Nhiều trường rất mừng khi thấy hiện tượng này, không ngờ đó là âm mưu của CS. Sau khi dồn được một số đông học sinh không CG vào các trường này, công an hướng dẫn cho những học sinh này đứng ra tố cáo LM hiệu trưởng và gây hỗn loạn. CS lấy lư do ổn định học đường, đă đứng ra quản lư trường CG. Vụ gay cấn nhất là vụ trường Dũng Lạc ở Hà Nội do LM Nguyễ Văn Vinh làm hiệu trưởng. Khi CS tuyên bố quản lư trường này, ông đă gởi một văn thư phản đối đi khắp nơi. Sau vụ này, LM Vinh bị đưa di học tập cải tạo ở trại Quyết Tiến (c̣n gọi là trại Cổng Trời) thuộc Hoàng Liên Sơn, sát biên giới Trung Quốc và ông đă chết tại đây.

 

Xong vụ trường tư CG, CS từ từ chiếm đoạt các tài sản của giáo hội CG, kể cả nhà thờ. Một giáo dân già đă kể lại rằng khi muốn lấy nhà thờ của giáo xứ ông, CS đă cho làm cạnh nhà thờ một kho lúa lợp sơ sài. Một hôm trời mưa to gió lớn, mái kho lúa bị trốc, CS xin cha xứ cho họ tạm gởi lúa vàp phần nữa dưới nhà thờ trong khi chờ đợi sửa kho luá lại. LM chánh xứ đă đánh chuông kêu giáo dân tới giúp đưa lúa vào nhà thờ. Nhưng khi đưa lúa vào nhà thờ xong, bọn cán bộ đă cho chận phân nữa nhà thờ làm luôn kho lúa và dẹp kho lúa của họ. Bằng những thủ đoạn tinh vi tương tự, CS miền Bắc cướp dần các tài sản c̣n lại của giáo hội này.

 

Sau khi tước đoạt tài sản xong, CS tiến tới việc phân tán các giáo xứ dông đảo, bằng cách buộc họ di xây dựng các nông trường tập thể. Thời gian ở nông trường kéo dài năm này qua năm khác khiến giáo dân phải xin làm nhà tại nông trường và đưa gia đ́nh tới ở luôn. Đặc biệt, CS chú ư tới thành phần ưu tú trong giáo xứ, họ t́m mọi cách để đưa các thành phần này ra khỏi giáo xứ, kể cả cho những “công ăn việc làm tốt” để gài bẫy và làm áp lực để nạn nhân phải di chuyển nơi khác.

 

Quỳnh Lưu (Nghệ An) nổi dậy:

 

Trong thời gian Pháp chiếm đóng VN, các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nằm trong vùng VM kiểm soát nên các giáo xứ thuộc các tỉnh này bị kềm kẹp gắt gaọ Sau hiệp định Geneva, giáo dân các giáo xứ trong vùng CS kiểm soát không thể di cư được. Bị xiết chặt quá lâu, lợi dụng CS tung ra “nghị quyết sửa sai” trong đợt “Cải cách ruộng đất”, vào đầu năm 1956, giáo dân thuộc các xă Vạn Kim, Quang Trung, Minh Châu, Tân Nho, Diễn Tân, Diễn Đức, Diện Đông, Diện Nguyên, Yên Trung, Đức Vinh, Hồng Thăng và Đại Gia ở Nghệ An đă mở hội nghị tỏ bày bao nỗi uât ức và phẫn nộ của họ ṛng ră trong 10 năm trường. Đại hội đă đưa ra 4 yêu sách sau đây:

 

§ Trả lại tất cả các linh mục đang bị bắt bớ giam cầm.

 

§ Trả lại xác các linh mục đă bị hành quyết hoặc thủ tiêu.

 

§ Trả lại các tài sản của giáo phận, giáo xứ bị xung công hay tịch thụ

 

§ Đền bù xứng đáng danh dự của các giáo sĩ đă bị nhục mạ hay bị vu khống.

 

Kiến nghị này được thành lập 5 bản gởi cho Vatican, HCM, Ủy hội Kiểm soát Đ́nh Chiến và Chính quyền miền Nam.

 

Đến ngày 9/11/1956, khi hay tin Ủy hội Kiểm soát Đ́nh chiến sắp đi qua Cầu Giát, hàng ngàn giáo dân kéo ra nằm ở trên quốc lộ 1, đưa hàng bao bố đơn thỉnh nguyện xin được di cự Sau đó, họ tập trung tại làng Cẩm Trường mở hội nghị. Bộ đội và công an kéo đến giải tán, 2 bên xô xát nhau, chết khá nhiều.

 

Sáng ngày 13/11/1956, giáo dân thành lập những toán nghĩa quân vơ trang tập họp tại Quỳnh Lưu, kéo đi biểu t́nh biểu dương lực lượng. Khoảng 3,000 thanh niên ở Ba Làng, Do Xuyên và Nông Cống ở Thanh Hóa bí mật kéo vào yểm trợ. Thanh niên các vùng khác cũng kéo tới cứu viện. Trước t́nh thế này, HCM ra lịnh cho Văn Tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hoá, Phủ Quỳ và Đồng Hới vây đánh, và Quỳnh Lưu ngập ch́m trong máu lửa. Nghĩa quân không kháng cự nổi phải chạy vào rừng. Bộ đội tiến vào làng bắt cả đàn bà và trẻ con dẫn đi để tra khảo từng người xem ai chủ xướng vụ nổi loạn này. Các linh mục Hậu và Đôn thuộc xứ Cẩm Trường và Song Ngọc bị đưa về giam tại Hà Nội.

 

Tính đến năm 1960, ở Bắc Việt chỉ có 300 linh mục, nhưng họ phải chăm sóc cho khoảng 750,000 giáo dân. Tính trung b́nh, mỗi linh mục phải trông coi 1200 giáo dân tại địa phận Vinh, 7000 tại địa phận Hải Pḥng, 6000 tại Bùi Chu và 10000 tại Thanh Hoá.

 

Giáo hội “thầm lặng”:

 

Tuy CS đă áp dụng nhiều biện pháp tinh vi để vô hiệu hóa các sinh hoạt của GHCG và làm tiêu hao dần giới tu sĩ và hàng giáo phẩm, nhưng không thể xóa bỏ các tổ chức của giáo hội này dược, CS chỉ lập được “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước” cho hoạt động song song mà thôi.

 

Tuy nhiên do chính sách làm tiêu hao GHCG, trong ṿng 20 năm, CS đă làm sụt giảm số tu sĩ và giáo sĩ xuống thấp tới mức độ báo dộng: tổng số linh mục ở miền Bắc là 277 vị, gồm cả 30 LM được phong “chui”, không bằng số LM của giáo phận Saigon gồm trên 300 vị. Thídu.: Tổng giáo phận Hà Nội có 300,000 giáo dân nhưng chỉ có 25 LM, Hải Pḥng có 150,000 giáo dân chỉ có 16 LM trong đó có 7 vị trên 60 tuổi, Bắc Ninh có 100,000 giáo dân với 46 giáo xứ chỉ có 5 linh mục và 12 nữ tụ, Phát Diệm có 112,000 giáo dân chỉ có 22 LM, Bùi Chu có 300,000 giáo dân chỉ có 27 LM và 21 LM “chui” chưa được CS công nhận.

 

Nhà cầm quyền CS hy vọng rằng trong ṿng 15 hay 20 năm nữa khi số giáo sĩ già nua đă qua đời, giáo dân lúc đó như rắn mất đầu, giáo hội này đương nhiên sẽ tan ră.

 

Thời kỳ căn thẳng nhất của GHCG miền Bắc là giai đoạn từ 1970-1975. Năm 1970, khi Quân đội VNCH mở cuộc hành quân qua Cambodia, nhà cầm quyên CS miền Bắc sợ Quân đội VNCH có thể bất thần tấn công miền Bắc nên đă một mặt ra lịnh cho công an đưa đi cải tạo gần hết các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lănh dạo, mặt khác họ đột nhiên khuyến khích và lại c̣n cung cấp phương tiện cho các giáo xứ tổ chức các nghi lễ tôn giáo linh đ́nh.

 

Tóm lại, thái độ của GHCG miền Bắc cũng như giáo dân trong giai đoạn này, ngoài cuộc tranh đấu mănh liệt của đồng bào Quỳnh Lưu, là âm thầm chống đối bằng cách không hợp tác và âm thầm chịu đựng.

 

Giáo hội Công giáo: Thời kỳ CS chiếm được miền Nam

 

Sau khi chiếm được miền Nam vào ngày 30/4/1975, CS Hà Nội đem ngay chính sách tôn giáo đă từng thi hành tại miền Bắc từ 1954-1975 vào áp dụng cho miền Nam. Có thể chia thời kỳ này làm 2 giai doạn: 1975-1989 và 1989 cho tới naỵ

 

Giai đoạn 1975-1989:

 

10 năm đầu (1975-1985) được CS gọi là giai đoạn “chuẩn bị tiến lên XHCN” và 4 năm sau (1985-1989), CS gọi là giai đoạn “tiến lên XHCN” hay giai đoạn “cải tạo”.

 

Giai đoạn “chuẩn bị tiến lên XHCN”.

 

Trong giai đoạn này, CS chủ trương thanh toán ngay 3 thành phần sau đây: các phần tử đại điền chủ, tư sản mại bản và các tôn giáo; tịch thu tất cả tài sản của 3 thành phần này và trao cho “nhân dân làm chủ”, “nhà nước quản lư” thực tế là biến thành cơ sở quốc doanh.

 

Đại cương kế hoạch đánh phá các tôn giáo được tóm lược như sau:

 

§ Bắt bớ hoặc cô lập hóa các lănh tụ tôn giáo và các tu sĩ có uy tín, khả năng, có ảnh hưởng lớn với tín đồ.

 

§ Đóng cửa hoặc tịch thu các trụ sở, các cơ sở văn hóa, xă hội, y tế, tài sản của các giáo hội.

 

§ Lập các giáo hội quốc doanh hoặc các Ủy ban Yêu nước bên cạnh các tôn giáo và dành cho những giáo hội hay Ủy ban này nhiều đặc ân, đặc quyền, với mục đích kiểm soát, lũng đoạn các tôn giáo.

 

§ Lập các mạng lưới công an chuyên theo dơi các hoạt động tôn giáo, gài người vào các tôn giáo để báo cáo các hoạt động của các giáo hội hoặc rỉ tai, gây phân hóa, nghi kỵ trong nội bộ.

 

Đối với CG, CS t́m cách cô lập giáo hội này với bên ngoài và làm khó dễ những vị lănh đạo cao cấp và có uy tín.

 

Trước hết, CS ra lịnh cho “Ủy ban Đoàn kết CG Yêu nước” mới được thành lập dứng ra tổ chức “Phong trào quần chúng” biểu t́nh đ̣i trục xuất Đức Khâm Mạng Ṭa Thánh Henri Lemaitre và Đức ông Trân Ngọc Thụ (hiện là bí thư riêng của Đức Giáo Hoàng John Paul II), bí thư của ngài. Để làm việc này, CS đă giao quyền cho 2 linh mục Huỳnh Công Minh và Trương Bá Cần, mà họ đă móc nối được trong thời gian 2 ông này được Giáo hội CGVN cho đi du học ở Pháp, tổ chức và dùng “Phong trào quần chúng” trên để yêu cầu trục xuất 2 vị trên. “Phong trào quần chúng” gồm 7 tổ chức sau đây: Thanh niên Công giáo Đại học, Công giáo Xây dựng Ḥa b́nh, Thanh lao công, Liên đoàn Sinh viên Công giáo, Công giáo và Dân tộc, Nhóm Liên tu trẻ và Đoàn Sinh viên Dự tập Ḍng Chúa Cứu Thế. Đa số các tổ chức này mới được thành lập, mỗi tổ chức chỉ có vài người.

 

Trước hết, họ cho phổ biến một bức tâm thư tố cáo Đức TGM Henri Lemaitre trước đây đă yểm trợ cho chính sách “thực dân mới” của Hoa Kỳ và cho chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, tố cáo các Khâm sứ Ṭa thánh đă can thiệp quá nhiều vào vấn đề nội bộ củ VN và tuyên bố “Giải thoát các GM miền Nam VN khỏi áp lực xâm lấn của Khâm sứ Ṭa thánh là giúp giáo hội VN được trưởng thành”. Ngày 2/5/75 họ biểu t́nh đ̣i Đức Khâm sứ phải ra đị Ngày 14/5/75, một đoàn biểu t́nh do Đoàn Phú Khánh đứng đầu, đă xâm nhập Ṭa Khâm sứ đường Hai Bà Trưng trèo lên nóc nhà hạ cờ Ṭa thánh xuống và căng biểu ngữ đ̣i Khâm sứ phải cút đị Họ đẩy Đức Khâm sứ, một linh mục phụ tá người Ba-lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi Ṭa Khâm sứ. Linh mục Huỳnh Công Minh chụp h́nh c̣n linh mục Thanh Lăng (lúc này chưa thức tĩnh) phát bản cáo trạng tố cáo 5 đời Khâm sứ Ṭa thánh can dự vào vấn đề nội bộ của VN.

 

Trong thời gian từ 5/5/75 - 4/6/75, các nhóm trên đă tiếp xúc với Đức Khâm sứ để đe dọa và nói nếu không rời VN, họ sẽ có những “biện pháp đáng tiếc”.

 

Ngày 3/6/75, các nhóm này đến khuấy phá Ṭa Khâm sứ một lần nữa, họ khuấy phá cả vào lúc ban đêm. Nghe tin này, các thanh niên giáo xứ Bùi Phát kéo tơi định can thiệp, nhưng khi mới kéo tới cầu Trương Minh Giảng th́ bị bộ đội xả súgn bắn thẳng vào, một người chết và nhiều ngươi bị thương. Linh mục Vũ B́nh Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt sau đó.

 

Ngày 4/6/75, Bộ Ngoại giao Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam đă mời Đức Khâm sứ Henri Lemaitre tới yêu cầu ngài phải lánh khỏi VN trong một thời gian càng sớm càng tốt. Ngày hôm sau, Đức Khâm sứ đă phải rời VN.

 

Trục xuất Đức TGM Nguyễn Văn Thuận:

 

Trước 30/4/75, theo đề nghị của Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, ngày 25/4/75, Vatican đă bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận, đang là GM Nha Trang, làm Tổng GM hiệu ṭa Vadesitana, Phụ tá Tổng GM Saigon với năng quyền kế vị Tổng GM Saigon. Ngày 12/5/75, TGM Nguyễn Văn B́nh cho phổ biến thông báo sự bổ nhiệm nói trên. Được tin này, một số LM thân Cộng đă đến bao vây TGM Nguyễn Văn B́nh và Phó TGM Nguyễn Văn Thuận đang có mặt tại Chủng viện Thánh Giuse ở đường Cường Để để chất vấn và yêu cầu Phó TGM Thuận từ chức. Nhóm linh mục này gồm có Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đ́nh Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lăng, Nguyễn Quang Lăm và Hoàng Kim.

 

Trước đó, ngày 8/5/75, nhóm linh mục nói trên đă gởi TMG B́nh một văn thư yêu cầu hoăn công bố việc bổ nhiệm TGM Thuận. Kư tên trong văn thư này có các linh mục Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Ḥa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghị.

 

Ngày 13/5/75, một toán “sinh viên CG” nằm trong tổ chức đ̣i trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre đă xâm nhập Ṭa TGM Saigon, căng lên 3 biểu ngữ như sau:

 

“Nguyễn Văn Thuận, GM của ai?”

 

“V́ quyền lợi của GHVN, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức”

 

“Không có ḥa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui”

 

Ngoài ra, nhóm này cũng gởi lên Đức Khâm sai, người mà họ đang yêu cầu “cút đi”, một thỉnh nguyện thư tố cáo GM Thuận là một GM chống Cộng, thuộc ḍng dơi chống Cộng cực đoan, đă tổ chức Phong trào Công lư và Ḥa B́nh để huấn luyện cán bộ chống Cộng và góp phần thành lập đảng Nhân xă, hậu thân của đảng Cần Laọ Họ lên án GM Thuận là thành phần chống Cộng thâm tín nhất, quy mô nhất và hữu hiệu nhất... Theo họ, trong tinh thần ḥa hợp hiện nay, khi “Mỹ-Thiệu và tay sai đă dẫm lên nhau chạy trốn, sự bổ nhiệm một GM chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho GH mà c̣n cho cả dân tộc VN”. Họ đ̣i TGM Thuận phải từ chức để “tránh cho GH và dân tộc VN những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm”.

 

Sau khi hội kiến với nhóm chống đối để thông cảm không thành công, ngày 7/6/75, TGM B́nh đă gởi thông cáo cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân cho biết:”Tôi đă hết sức ôn ḥa và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng t́nh trạng ấy chưa khả quan hơn”. Sau đó ông kêu gọi:”Tôi kêu gọi tất cả quư cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Ṭa thánh La Mă”.

 

Ngày 8/6/75, TGM B́nh cũng gởi cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTGPMN yêu cầu 3 điểm sau:

 

§ Triệt để thi hành Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với chính phủ.

 

§ Chấm dứt chiến dịch tuyên tryền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của GHCG VN.

 

§ Chận đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận, v́ việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lịnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường đưo.c, về đối nội cũng như đối ngoại, cho quốc gia dân tộc.

 

Nhưng câu chuyện căi qua căi lại này rồi cũng phải kết thúc. Chiều ngày 15/8/75, tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), Ủy ban MTGPMN TPHCM tổ chức cuộc họp gồm 350 đại diện các ḍng tu nam nữ và giáo xứ để nghe họ tŕnh bày về trường hợp TGM Thuận. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố chính quyền Cách mạng quyết định đưa TGM Thuận về lại Nha Trang, nơi đương sự cư trú trước 30/4/75 với lư do sự hiện diện của đương sự gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.

 

Ngày 15/8/75, CS bắt TGM Thuận nhưng không đưa về Nha Trang mà đưa ông ra Vĩnh Phú. Sau một thời gian bị giam giữ, nhờ sự can thiệp của các tổ chức quốc tế và Vatican, ông được đưa đi quản thúc tại giáo xứ Giang Xá cách Hà Nội khoảng 20 km cho đến ngày 21/11/1988 th́ được phóng thích, nhưng đặt trong t́nh trạng quản chế. Năm 1991, ông bị cưỡng bức xuất ngoại và hiện nay ở La Mă. CS cương quyết không cho ông về kế vị TGM B́nh hay làm TGM bất cứ nơi nào ở VN.

 

Thanh toán những tu sĩ có uy tính hay có “nợ máu với nhân dân”:

 

Song song với việc trục xuất Đức Khâm sứ Ṭa thánh Henri Lemaitre và TGM Nguyễn Văn Thuận, CS thanh toán các linh mục có khả năng chống đối chính phủ.

 

Linh mục Hoàng Quỳnh:

 

Khi c̣n ở Phát Diệm, ông đă từng giữ chức Tổng tuyên úy Thanh niên, Cố vấn chỉ đạo Chiến khu Công giáo Phát Diệm, Phó chủ tịch Ban chấp hành Mặt trận Công giáo Cứu quốc và Tổng chỉ huy Tự vệ, nên thường được gọi là cha Tổng. Vạ Nam, ông coi giáo xứ B́nh An ở Chợ Lớn. Năm 1964, khi có các rối loạn do Hội đồng Nhân dân Cứu quốc miên Trung gây ra, ông được bầu làm Chủ tịch Khối Công dân Công giáo để đối phó với t́nh h́nh. Tính t́nh ḥa nhă, không bao giờ khích bác ai, nhưng rất cương quyết. Ông đă giúp khối Công giáo đương đầu với nhiều hoàn cảnh khó khăn. Với một người có thành tích như vậy, CS không bao giờ để cho tự do khi họ chiếm được miền Nam. Năm 1976, sau vụ Vinh Sơn, công an đă bắt linh mục Hoàng Quỳnh giam vào khám Chí Ḥa với tội danh là thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân. Ông bị bọn cán bộ quản lư trại giam đánh chết năm 1979 tại khám Chí Ḥa rồi đem xác di chôn lén.

 

Linh mục Trần Hữu Thanh:

 

Ông và Nguyễn Trân cùng nhau sáng lập Phong trào Chống tham nhũng dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu và phát động phong trào này khắp miền Nam. Ông là linh mục Ḍng Chúa Cứu Thế và là nhà hùng biện của GHCGVN. Ông có tài diễn thuyết rất hấp dẫn và sâu sắc. Chính ông là người đă viết bộ “Cẩm nang của người CG d+ới chế đô CS”, đem huấn luyện cho các cán bộ CG 2 năm trước ngày CS chiếm miền Nam. Rút kinh nghiệm về các biện pháp mà CS áp dụng tại miền Bắc, ông hướng dẫn giáo dân phương cách để có thể tồn tại khi phải sống dưới chế độ CS. Công an bắt ông giam vào khám Chí Ḥa sau khi chiếm được miền Nam; sau đó đưa ông ra quản chế tại miền Bắc.

 

Linh mục Đinh B́n Định:

 

Ông là một linh mục trẻ, có kiến thức rộng, trông coi giáo xứ Tân Sa Châu ở Q3, Saigon. Ông có tài tổ chức quần chúng thành hàng ngũ để đối phó với mọi biến cố. Ông cũng là Phó Chủ tịch Phong trào Chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Mặc dầu ông có kư tên vào thỉnh nguyện thư yêu cầu TGM Thuận từ chức, nhưng sau đó ông vẫn bị công an bắt đi cải tạo 10 năm. Ông nói rằng ông chỉ chống tham nhũng chứ chưa có hàng động ǵ chống Cách mạng và không hiểu tại sao CS đă giam giữ ông lâu như thế. Thực ra CS giam ông chỉ v́ họ biết ông là người có tài tổ chức và có uy tín với giáo dân. CS đề pḥng khi có những sự bất măn v́ các chính sách mới của họ và ông có thể sẽ đứng lên tổ chức giáo dân chống chế độ; do đó họ bắt ông trước để trừ hậu họa. Sau khi t́nh h́nh đă ổn định, họ đă thả ông rạ

 

Gần như giáo phận nào cũng có các giáo sĩ bị giam giữ trong t́nh trạng tương tợ như trên. Tính chung, đă có hơn 200 linh mục bị đưa đi học tập cải tạo, trong đó có 139 linh mục tuyên úy. Khoảng 15 linh mục đă chết trong các trại tù. Riêng linh mục Trần Học Hiệu bị xử tử tại Biên Ḥa.

 

Năm tháng thăng trầm:

 

Như đă biết, ngay sau ngày 30/4/75, các linh mục tuyên úy bị ảnh hưởng đầu tiên trong chiến dịch tiêu diệt tôn giáo qua các trại tù mệnh danh là “học tập cải tạo”. V́ thế, dù quản giáo cấm nghiêm nhặt các vụ đọc kinh, làm lễ, vẫn có những buổi lễ cầu nguyện âm thầm trong giờ ngủ, lúc lao động và ngay cả trong các nhà cầu. Vẫn có những buổi làm lễ giữa linh mục tuyên úy và người tù “con chiên” trong những khoảnh khắc của bóng tối.

 

Những kẻ hả hê về một cuộc chiến thắng bất ngờ càng nghênh ngang hơn nữa. Sau khi CS trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre vào 5/6/75, Giám mục Seitz và các linh mục, tu sĩ ngoại quốc đều bị mời khéo “về thăm gia đ́nh” kể từ ngày 12/8/75. Trước t́nh thế này, giáo hội âm thầm chuẩn bị nhân sự cho tương lai với các cuộc phong chức gấp rút 6 giám mục trong số này có Giám mục Nguyễn Văn Thuận như đă kể trên.

 

Từ 15-20/12/75, 21 Giám mục miền Nam hội họp có sự tham dự của cán bộ CS và đưa ra bản thông cáo chung, có đoạn: “Đồng bào sẽ thấy ta sát cánh với họ trên đường xây dựng quê hương... Người tín hữu phải coi như có bổn phận và vinh dự được đem niềm tin của ḿnh vào việc làm chứng cho nước giàu, dân mạnh”. Bản thông cáo này cho thấy rơ CS muốn chứng minh sự hậu thuẫn của CGVN. Nhưng chẳng bao lâu, ngày 13/2/76 vụ nhà thờ Vinh Sơn nổ ra làm chấn động giáo dân Saigon.

 

Vụ Mặt Trận Phục Quốc: vụ này thường được gọi là vụ Vinh Sơn v́ xảy ra tại khu nhà thờ Vinh Sơn ở Q3, Saigon. Một nhóm giáo sĩ và giáo dân đă thành lập một tổ chức chống Cộng có tên là Mặt Trận Phục Quốc, đặt trụ sở phía sau nhà thờ Vinh Sơn. Liên hệ đến vụ này có các linh mục Đỗ Văn Nghị, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Văn Chức và ông Nguyễn Việt Hưng. 2 linh mục Nguyễn Quang Minh và Nguyễn Văn Chức bị án khổ sai chung thân, c̣n linh mục Đỗ Quang Nghị bị án tử h́nh; ông bị bắn tại Thủ Đức ngày 15/3/78. Khoảng 200 linh mục bị bắt sau đó. Nỗi lo sợ bao trùm khắp nơi, nhiều linh mục đă chuẩn bị sách nguyện và quần áo để ra đi bất cứ lúc nào bị “gơ cửa”.

 

CS tiếp tục khủng bố tinh thần giáo dân bằng những buổi học tập chính trị dành cho các linh mục, tu sĩ ở tất cả các địa phận, đặc biệt là ở miền Nam. Các vị thừa sai và tu sĩ ngoại quốc c̣n lại đều bị trục xuất vào tháng 6/76. Nhằm mục đích vừa tạo “t́nh thân” vừa răn đe sự “lệch lạc chính sách”, trong 2 tháng 8-9/76, Phạm Văn Đồng gặp Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê, Đức cha Trịnh Văn Căn, Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền và Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh.

 

Vụ Việt Tiến: Vụ này xảy ra ở khu nhà thờ Fatima, B́nh Triệu vào năm 1977 nên thường được gọi là vụ Fatimạ Một số giáo sĩ và giáo dân tổ chức chống lại các sự vi phạm quyền tự do tôn giáo của CS. Linh mục nhạc sĩ Huyền Linh bị phạt chung thân khổ sai, c̣n linh mục Vơ Văn Bộ bị phạt 15 năm tù và được trả tự do vào năm 1992.

 

Ngày 20/9/77, VNCS được chấp nhận gia nhập LHQ. Gần 2 tháng sau, CS liền thách thức bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bằng Nghị quyết 297/CP, ngày 11/11/77, công khai chỉ định những giới hạn tự do tín ngưỡng, mở đầu cho những vụ đàn áp tôn giáo. Đây là một nghị quyết ấn định những biện pháp gắt gao nhằm kiềm chế và vô hiệu hóa các tôn giáo. Nghị quyết này chỉ cho phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự chính thức, hoạt động ngoài các cơ sở này bị coi là truyền giáo bất hợp pháp, những người hoạt động sẽ bị đưa đi cải tạo dài hạn. Các hội đoàn tôn giáo như Đạo binh Đức Mẹ, Thiếu nhi Thánh thể,...đều bị cấm hoạt động. Các tu viện không được nhận tuyển sinh mới v́ không cho vào “hộ khẩu” của tu viện. Mọi việc phong chức, thuyên chuyển các giáo sĩ đều đặt dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của CS.

 

Trong tháng 4/77, qua 2 bài phát biểu, Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền của địa phận Huế đă thẳng thắn tố cáo “Sau 2 năm, ngươi CG thấy tự do tôn giáo chỉ có trên văn bản (qua 5 sắc lệnh và thông tư về tôn giáo), c̣n các hoạt động bị hạn chế, các khẩu lệnh đi ngược lại. Người CG làm ǵ cũng bị nghi ngờ, chèn ép”. Ông c̣n dùng ngay cả câu nói mị dân của HCM để lật mặt CS:”...Không diệt được th́ chỉ có cách là tôn trọng tự do tín ngưỡng để đồng bào cùng nhau xây dựng đất nước về mặt vật chất. C̣n tín ngưỡng th́ ai chọn tôn giáo nào tùy sở thích, đừng đụng tới. Như vậy mới thoải mái và đoàn kết được... Có người nói Hồ chủ tịch thường căn dặn cán bộ trí thức rằng “lao động trí óc mà không lao động chân tay, hoặc lao động chân tay mà không bồi dưỡng trí óc th́ là một con người bán thân bất toại”. Câu nói đó rất chí lư sáng suốt. Th́ cũng vậy, con người chỉ thoải mái về vật chất mà không thoải mái về tín ngưỡng th́ cũng là con người bán thân bất toại. Nhưng không phải tự do họ muốn, mà là bị ép buộc bán thân bất toại. Như thế ích lợi ǵ cho tổ quốc”.

 

Cho đến ngày 5/11/77, nhân dịp qua Vatican họp Thượng hội đồng, Tổng Giám mục Nguyễn văn B́nh mới có thể nói lên ưu tư của GHCGVN về tương lai mà con người phải sống với chủ thuyết CS. Ông có nói đến một số cơ sở của giáo hội bị trưng dụng, nhất là các trường đạo, như các viện đại học Đà Lạt và Minh Đức, Giáo hoàng chủng viện, Ḍng Chúa Cứu Thế ở Đà Lạt, Nha Trang; hệ thống các trường mẫu giáo, tiểu học và trung học trên toàn quốc; các bịnh viện, cơ quan từ thiện... Một số cơ sở tịch thu được giao cho Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước sử dụng để hoạt động song song với tổ chức của giáo hội trong khắp nước. Ủy ban này được đặt dưới quyền điều khiển của Mặt Trận Tổ Quốc, một cơ quan dân vận của Đảng CSVN. Trong t́nh trạng đen tối đó, Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê qua đời ngày 7/11/78; gần một năm sau Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn được tấn phong chức vụ này.

 

Vụ Mặt Trận Liên Tôn: Vụ này do linh mục Ḍng Chúa Cứu thế Nguyễn Văn Vàng chủ động. Ông là một nhà hùng biện nổi danh của GHCGVN. Ông đă lập chiến khu Phụng Thiên ở vùng Phương Lâm và Gia Kiệm vào năm 1979. Nhờ tài thuyết phục của ông, rất nhiều người theọ Nhưng do phản gián của CS len lỏi vào, chiến khu của ông bị phá vỡ, ông bị kết án khổ sai chung thân và chết tại Hàm Tân, B́nh Tuy, năm 1989.

 

Tháng 9/79, Ban Tôn giáo của CSVN phổ biến một tài liệu mật cho các cán bộ đảng cao cấp ở địa phương có tiêu đề “Trách vụ của chúng ta đối với GHCG” dài 19 trang đánh máy và chia ra làm 8 mục. 2 mục đầu tiên xác định “bạn - thù”:

 

Bản tính và t́nh trạng CG tại VN bị coi là “bộ phận của Giáo Hội hoàn vũ, có đầu năo ở Vatican, gồm một nhóm bóc lột có tầm hoạt động lớn, luôn luôn gắn liền với đế quốc phản động”.

 

Trách vụ của đảng CS đối với GH ở VN nhằm “cải cách và biến đổi GH dần dần trở thành một tổ chức tôn giáo trọng chính sách và luật pháp, được thúc đẩy bởi ḷng ái quốc, gần gũi nhà nước và XHCN. Sách lược là phân loại 4 nhóm để đối xử khác nhau: nhóm tiến bộ, nhóm chủ trương thích ứng, nhóm chưa dứt khoát lập trường và nhóm phản động”.

 

5 mục c̣n lại là chính sách đối với từng bộ phận sinh hoạt của giáo hội.

 

Từ ngày 24/4 - 1/5/80, 33 Giám mục toàn quốc họp lần đầu tiên và chính thức thành lập Hội đồng Giám mục VN (HDGiám mụcVN), đưa ra một bức thư chung khá dài nói về đường hướng mục vụ “đi trong ḷng dân tộc”. Thư nhắn nhủ với từng trách nhiệm của giáo dân, tu sĩ, linh mục... Từng câu từng chữ đều được viết rất thận trọng, nhưng ư nhấn mạnh đến việc đoàn kết người trong đạo, kêu gọi giáo dân dạy giáo lư ngay trong gia đ́nh “nếu bên ngoài có thay đổi”... Từ tháng 5/80, CS cho phép nhiều Giám mục sang Vatican để chứng tỏ “sự ưu đăi CG”, nhưng chỉ 2 tháng sau, CS đem cha Nguyễn Văn Vàng và một số cha Ḍng Tên bị bắt đem ra ṭa về tội thành lập Mặt Trận Liên Tôn.

 

Vụ Đắc Lộ: Trung Tâm Đắc Lộ thuộc Ḍng Tên tọa lạc ở 161 đường Yên Đỗ (nay là Lư Chính Thắng), Q3, Saigon. Đây là một trung tâm khá lớn mà CS muốn chiếm từ lâu, nhưng chưa có cơ hội. Trung tâm này có phát hành một tờ báo nhỏ in Ronéo, có tên là Đạo Nhập Thế, do linh mục Lê Thanh Quế chủ biên. Tờ báo hướng dẫn cách sống đạo của người CG trong giai đoạn mới chớ không trực tiếp chống chính quyền. Những người đi phổ biến tờ bà'o có ông Nguyễn Văn Hiển và nhiều sinh viên. Công an biết ông Nguyễn Văn Hiển là một thành phần có tinh thần chống Cộng nên cho 2 mật báo viên vốn là người quen biết của ông Hiển từ trước, trong đó có một người tên Mai, đến xin tham gia phổ biến tờ báo để theo dơi. V́ 2 người này đều là CG, một người xuất thân từ trường Taberd, nên được ông Hiển tin cậy. Một thời gian sau, 2 người này xúi ông Hiển nên lợi dụng việc phổ biến tờ báo, thuyết phục các giáo sĩ và giáo dân tổ chức vơ trang chống Cộng, dùng cơ sở Đắc Lộ làm bản doanh hoạt động, họ sẽ t́m mua vơ khí và cung cấp chọ Có lần họ đem vơ khí đến giao cho ông Hiển, nhưng ông không nhận. Trước mặt 2 tên này, ông Hiển chưa làm ǵ khác hơn là phê b́nh chế độ CS. Những lời phê b́nh này đều được 2 mật báo viên cung cấp đầy đủ cho công an. Sau khi dụ dỗ ông Hiển và những người liên hệ vơ trang chống đối không xong, 2 tên nội tuyến này đă đem một số tài liệu hô hào chống Cộng để nhờ ông Hiển phân phối cùng một lúc với tờ báo Đạo Nhập Thế.

 

Khi hay tin rằng các tài liệu chống Cộng đă được đem vào Trung Tâm Đắc Lộ để phát một lần với tờ báo, ngày 12/12/80, công an tràn vào lục soát khắp nơi, nhưng không bắt được tài liệu phản động nào. Tuy vậy, công an vẫn bắt linh mục Nguyễn Công Đoan, Giám Tỉnh Ḍng Tên tại đây, LM lê Thanh Quế, chủ biên tờ báo, và các LM trong Trung Tâm như Khuất Duy Nguyên, Đỗ Quang Chính và Hoàng Sĩ Quư. Ông Hiển và những người liên hệ đều bị bắt.

 

Khi đối chất với 2 tên mật báo tại công an, ông Hiển đă bác bỏ tất cả những lời tố cáo của 2 tên này và công an cũng không đưa dược bằng chứng cụ thể nào để buộc tội. Các LM bị bắt đă khai rằng họ không biết ǵ đến hành động của ông Hiển và 2 tên mật báo viên kiạ Nhưng cuối cùng tất cả đều bị truy tố ra ṭa về 2 tội chính: âm mưu lật đổ chính quyền và tuyên truyền đầu độc dư luận chống phá chế độ. Trong phiên ṭa ngày 29/6/82, các cuộc đối đáp qua lại khá gây cấn: ông Hiển yêu cầu Viện Kiểm Sát Nhân Dân xuất tŕnh bằng chứng ông đă âm mưu lật đổ chế độ, nhưng Viện Kiểm Sát đă trả lời:”Bằng chứng không quan trọng bằng cái đầu óc của anh”. LM Lê Thanh Quế nói ông không biết ǵ về các việc ông Hiển và 2 nhân chứng đă làm và nếu bảo có âm mưu lật đổ chính quyền th́ xin ṭa đưa ra bằng chứng và hậu quả. Ṭa trả lời rằng, “Tội của bị cáo không phải là tội h́nh mà là tội chính trị nên không cần bằng chứng và hậu quả. Nếu phải chờ bằng chứng và hậu quả th́ chế độ đă bị lật đổ mất rồi”.

 

LM Nguyễn Công Đoan đă bị truy tố về tội hỗ trợ cho LM Lê Thanh Quế phát hành báo chí bất hợp pháp. Ông tŕnh bày rằng tờ Đạo Nhập Thế đă có trước 30/4/75, chỉ hướng dẫn về giáo lư, không đề cập đến chính trị. Nếu bảo rằng chống đối chế độ, xin hăy cho bằng chứng.

 

Kết quả ṭa của CS vẫn tuyên án ông Hiển khổ sai chung thân. LM Lê Thanh Quế 15 năm tù giam, LM Nguyễn Công Đoan 12 năm tù giam, LM Đỗ Quang Chính 5 năm tù giam và LM Khuất Duy Linh 4 năm tù treo và 5 năm thử thách. Toàn bộ cơ sở Đắc Lộ bị tịch thu và hiện nay được dùng làm cơ sở của ṭa soạn báo Tuổi Trẻ.

 

Ông Nguyễn Văn Hiển bị đưa ra giam ở trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Yên. Đây là một trại khổ sai được dối xử tàn tệ nhất tại miền Nam VN. Đến năm 1991 v́ quá già yếu, ông được chuyển về trại Z30A ở Xuân Lộc và đă chết tại đây vào ngày 22/11/1992. Ông Hiển xuất thân từ Đại chủng viện Huế, đă dành cả cuộc đời tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo, xă hội và chính trị, nhưng cuối cùng ông đă bị CS lừa và chết trong tù. Lúc c̣n bị giam ở Saigon, ông bị tra tấn dă man và bị biệt giam liên tục cho đến ngày xét xử.

 

Sau khi thanh toán tờ Đạo Nhập Thế, công an bắt luôn ông Vũ Huy Bá, hiệu là Xuân Huy, vào ngày 8/9/81 về tội xuất bản bất hợp pháp tờ Sống Đức Tin và kết án ông tập trung cải tạo 5 năm. Ông Xuân Huy đă dùng tờ Sống Đức Tin để phê b́nh sự hướng dẫn lệch lạc về giáo lư của tờ báo CG quốc doanh là tờ “Công giáo và Dân tộc” của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước. Nhóm này đă yêu cầu công an bắt ông. Sau khi ra tù, ông cùng gia đ́nh được đi định cư tại Mỹ năm 1993 và ông đă viết cuốn “Đức tin đại thắng” nói về các vụ đàn áp CG tại VN.

 

*

 

Tới đây, ta tạm dừng lại việc theo dơi những diễn tiến theo năm tháng để t́m hiểu về ư nghĩa của những “quy chế tôn giáo” và việc “đoàn ngũ hoá giáo sĩ cũng như thiết lập giáo dân quốc doanh” để biết mưu độc của CS ra saọ

 

Sửa đổi và xiết chặt quy chế tôn giáo

 

Như đă được tŕnh bày ở trên, sau khi chiếm được miền Bắc, ngày 14/6/55, HCM đă cho ban hành Sắc lệnh số 234/SL về Tôn giáo. Tuy gọi là Sắc lệnh về Tôn giáo nhưng nội dung Sắc lệnh nhắm vào CG, v́ lúc đó Phật giáo chưa tổ chức thành giáo hội. Các tăng sĩ PG đều bị tập trung vào Hội Phật giáo VN Thống nhất do Ḥa Thượng Thích Trí Độ làm Hội trưởng và đặt dưới quyền chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, nên không cần quy chế nào khác. GHCGVN không nằm trong hệ thống chỉ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc nên bị chi phối bởi Sắc lệnh về Tôn giáo. Khi chưa quen với chế độ CS, các linh mục nhận thấy rằng Sắc lệnh này tước đoạt mất quyền tự do hành đạo và truyền đạo nên đă công khai chống đối.

 

Điều 3 của Sắc lệnh dự liệu:

 

“Các nhà truyền giáo ngoại quốc dưới sự chấp thuận của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa có thể dạy tôn giáo ḿnh như những người truyền giáo VN và phải tôn trọng luật pháp nước VNDCCH như những người ngoại quốc khác”.

 

Điều 6 cho phép các tôn giáo mở các trường huấn luyện để đào tạo những người đảm nhiệm các giáo vụ. Điều 9 cho phép tôn giáo mở các trường tư thục và việc giảng huấn nhưng phải theo chương tŕnh nhà nước đưa rạ Các trường tư CG có thể dạy thêm giáo lư cho học sinh nào muốn. Điều 13 quy định rất hấp dẫn:

 

“Chính quyền dân sự không can tiệp vào nội bộ tôn giáo. Những liên hệ giữa GHCGVN với Ṭa Thánh La Mă là vấn đề nội bộ”.

 

Đây chỉ là bánh vẽ đưa ra để lừa dối tín đồ của các tôn giáo. Mặc dù quy luật đuy định như vậy, trong thực tế CS đă dần dần khống chế GHCG miền Bắc về mọi phương diện. Đến năm 1957, HCM ban hành Sắc lệnh số 102/SL ngày 20/5/57 về việc lập hội và bắt các đoàn thể tôn giáo muốn hoạt động phải theo quy chế lập hội này.

 

Năm 1975, khi mới chiếm được miền Nam th́ CS cũng đă đưa Sắc lệnh ngày 14/6/55 vào rêu rao ở miền Nam để chứng minh cho các tín đồ các tôn giáo thấy rằng dưới chế độ CS cũng có tự do tôn giáo. Nhưng sự rêu rao này đă gây những hậu quả tai hại. Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh đă viện dẫn Sắc lệnh nói trên để chống lại việc CS phát động chiến dịch yêu cầu hủy bỏ quyết định bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Phó Tổng Giám mục Saigon. V́ thế, chỉ một thời gian ngắn sau, CS đă xiết chặt các sinh hoạt tôn giáo lại bằng Nghị quyết 297 ngày 11/11/1977. Bằng một quyết định hành chánh đơn giản, CS đă thay đổi cả một văn kiện pháp quy của chính họ là Sắc lệnh ngày 14/6/1955. Nội dung Nghị quyết 297 gồm những điểm sau đây:

 

§ Những hoạt động tôn giáo ngoài các cuộc hành lễ thông thường đều phải xin phép. Muốn tổ chức các lớp giáo lư, các cuộc hành lễ đông người từ nhiều nơi đến tham dự, các cuộc hội họp về tôn giáo chung cho nhiều nơi...phải có giấy phép của chính quyền.

 

§ Chỉ được giảng đạo trong phạm vi cơ quan của tôn giáo và khi giảng đạo phải động viên tín đồ làm nhiệm vụ công dân, chấp hành chính sách và luật pháp của nhà nước. Không được tuyên truyền chống chế độ XHCN, gây chia rẽ và tuyên truyền mê tín dị đoan.

 

§ Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo phải có sự đồng ư của chính quyền.

 

§ Giáo hội TCG được phép quan hệ với Vatican về mặt tôn giáo, nhưng phải tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc giạ

 

§ Ruộng đất của các tôn giáo được để lại sau khi cải tạo có thể giao cho hợp tác xă quản lư và hưởng mức lời từ 25-30% tổng số thu hoạch.

 

Đến năm 1991, CS lại ban hành Nghị định số 69-HDBT ngày 21/3/1991 điều chỉnh lại quy chế tôn giáo. Nội dung của Nghị định này không khác Nghị quyết 297 bao nhiêu, nhưng quy định tổng quát hơn nên phạm vi áp dụng rộng răi hơn, nhiều chi tiết áp dụng được quy định tỉ mỉ hơn. Đại lược nội dung Nghị định gồm các điểm chính sau đây:

 

§ Chỉ dược phép sinh hoạt tôn giáo tại các nơi thờ tự được công nhận và chương tŕnh sinh hoạt phải đăng kư trước hàng năm.

 

§ Việc đào tạo các nhà tu hành phải được nhà nước cho phép, xem xét về nhân sự, kiểm tra việc dạy và việc học.

 

§ Việc phong chức cho các giáo sĩ phải được sự chấp thuận của Hội Đồng Bộ Trưởng.

 

§ Việc bổ nhiệm và thuyên chuyển các nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cấp chính quyền liên hệ.

 

§ Các ḍng tu hay các h́nh thức tu tập thể chỉ có thể hoạt động sau khi có giấy phép của Hội Đồng Bộ Trưởng.

 

§ Các cá nhân hoặc các tổ chức tôn giáo muốn nhận viên trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Hội Đồng Bộ Trưởng.

 

Nhà cầm quyền CS đă hành động bất chấp hệ cấp pháp lư: Dùng Nghị quyết là một quyết định hành chánh để sửa đổi một văn kiện pháp quy là một Sắc lệnh, rồi sau đó dùng một văn kiện lập quy ở cấp thấp là một Nghị định để thay thế một văn kiện cấp cao là một Sắc lệnh. Điều nay cho thấy khả năng về pháp lư của CS rất thấp và CS nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ cái ǵ mà họ thấy cần, nên bất chấp cả yếu tố pháp lư do chính họ đặt rạ.

 

Sau khi Nghị định nói trên được ban hành, các tôn giáo bị khống chế hoàn toàn.

 

Thành lập cơ cấu CG quốc doanh để lũng đoạn GHCGVN

 

Lập đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh:

 

Nhận thấy tổ chức “Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà b́nh” không gây được ảnh hưởng ǵ đối với GHCG miền Bắc trong suốt 20 năm, CS Hà Nội muốn có một cơ cấu mạnh mẽ hơn.

 

Công việc đầu tiên của CS Hà Nội là củng cố một đội ngũ giáo sĩ và giáo dân quốc doanh mạnh. Nhận thấy một số đông LM và giáo dân “cấp tiến” đứng ra đ̣i trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre, CS rất phấn khởi. Tại mỗi tỉnh, CS kêu gọi thành lập một Ban Liên Lạc Công Giáo để giải quyết những vấn đề giữa CG và chính quyền và đưa một số giáo sĩ có uy tín vào, với mục đích về sau biến các tổ chức này thành một giáo hội tự trị (tách rời Vatican). Nhà cầm quyền CS không cần biết đến Hội Đồng Giám Mục và các Giám mục giáo phận. Một số giáo sĩ được mời lầm tưởng họ chỉ đóng vai tṛ liên lạc giữa chính quyền và CG. Về sau, đa số các giao sĩ này đă nhận ra âm mưu thành lập GH tự trị. và họ đă rút luị Một số khác, sau một thời gian hợp tác, đă nhận ra bộ mặt thực của CS nên quay lại chống đối chế độ.

 

Tại miền Bắc, các LM sau đây đă tham gia “Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Hoà b́nh”: Vũ Xuân Kỷ (đă qua đời), Nguyễn Thế Vịnh (đă qua đời), Hồ Thành Biên, Phạm Quang Phước và Vơ Thành Trinh. Tại miền Nam, số LM tham gia “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước” lúc đầu khá đông như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đ́nh Bích, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Bá, Nguyễn Bảo Tụng, Nguyễn Thiện Ư, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Viết Nam và Mai Hùng. Trong thời gian tranh đấu đ̣i trục xuất Đức Khâm sứ Lemaitre và băi chức Giám mục Thuận, các LM sau đây cũng tham gia: Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Lăng, Nguyễn Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Hoàng Kim, Đinh B́nh Định, Nguyễ Quang Lăm, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thiện Toàn. Các LM này về sau không tham gia nhóm LM quốc doanh. 2 LM Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan c̣n quay lại chống CS nên bị quản chế một thời gian khá dài. LM Đinh B́nh Định th́ bị đi cải tạo 10 năm, c̣n LM Nguyễn Quang Lăm bị công an bám sát cho đến khi qua đời năm 1993. 2 LM Nguyễn Viết Thọ và Nguyễn Ngọc Lan đă xin từ bỏ chức LM và trở về lập gia d́nh

 

Về phía giáo dân, những thành phần sau đây đă tham gia tích cực vào các tổ chức Công giáo quốc doanh cả ngoài Bắc và trong Nam: Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Dông Ngân, Đỗ Văn (tức Đỗ Hữu Nghiêm), Nguyễn Đ́nh Đầu, Vũ Duy Giang, Phạm Ngọc, Trần Huỳnh, Nguyễn Thành Cung và Lư Chánh Trung. Trong số này có 2 thành phần hoạt dộng tích cực hơn cả là Nguyễn Đ́nh Đầu và Lư Chánh Trung.

 

a.   Nguyễn Đ́nh Đầu:

 

Sinh năm 1920 tại Hà Nội, con của một nhân viên lao công quét trường. NĐD có 2 người em là Nguyễn Đ́nh Rễ và Nguyễn Thị Hồng. Lúc c̣n nhỏ, NĐD được học Tiểu chủng viện Hoàng Nguyên, Kẻ Sơ, Hà Nam, thuộc giáo phận Hà Nội. NĐD mới học tới Đệ Lục (sixième) th́ xuất, rồi sau đó vào học trường Bách Nghệ Hà Nội, chưa có Tú tài. Thời đó, Phong trào Thanh niên Lao Động CG (JOC) đang phát triển mạnh ở VN, Nguyễn Mạnh Hà làm Hội trưởng Phong trào toàn quốc, c̣n NĐD làm Hội trưởng Phong trào ở Hà Nội.

 

Ngày 19/8/45, VM cướp chính quyền. Ngày 23/8/45, HCM công bố ngay thành phần chính phủ lâm thời tại Hà Nội. Trong chính phủ này, người ta thấy Nguyễn Mạnh Hà giữ chức Bộ trưởng Kinh tế. NĐD được Nguyễn Mạnh Hà giới thiệu làm Tổng Giám đốc Nha Lao động toàn quốc, dưới quyền của Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiếu.

 

Ngày 2/3/46, HCM lập chính phủ liên hiệp với các đảng phái quôc gia, Nguyễn Mạnh Hà không có tên trong thành phần chính phủ nữa. Lê Văn Hiến qua làm Bộ trưởng Tài chánh, Nguyên Văn Tạo, 1 đảng viên cao cấp khác, giữ chức Bộ trưởng Lao động. NĐD tiếp tục làm Tổng Giám đốc Tổng nha Lao động. Bị loại ra khỏi thành phần chính phủ, Nguyễn Mạnh Hà bỏ qua Pháp. Khi Pháp chiếm lại Bắc Việt, VM rút vào chiến khu, NĐD ở lại Hà Nội. Năm 1951, nhân một chuyến đi tham quan ở Pháp, NĐD được Nguyễn Mạnh Hà bảo lănh cho ở lại Pháp học xă hội học ở một trường tư, không cần bằng Tú tài. NĐD không đậu bằng cấp ǵ.

 

Lúc ở Pháp, NĐD ở một căn pḥng trên lầu 5 của một ngôi nhà ở số 32 rue de Richelieu, Paris 1er. Nơi đây là chỗ hội họp của những người lưu vong muốn dành độc lập cho quê hương. Những thành phần đến họp gồm cả những ng+ời theo CS hay không theo CS như Hoàng Xuân Hăn, Nguyễn Quốc Định, Trương Công Cừu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Thoại, Trần Hữu Phương, Trần Thông, Bửu Lộc, v.v... Nhóm học Đại học Louvain ở Bỉ như LM Nguyễn Quang Lăm, Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung...cũng đến họp nơi đây. Các nhóm trên hoạt động riêng rẻ nhưng có cho xuất bản tờ tạp chí Thống Nhất để nói lên quan điểm chính trị của nhóm, nên được gọi là Nhóm Thống Nhất. Riêng nhóm của Đảng CSĐD có kết nạp đảng viên, tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt thường xuyên.

 

Ngày 25/6/54, do sự vận động của ông Ngô D́nh Luyện và nhóm Nguyễn Mạnh Hà, giáo sư Hoàng Xuân Hăn đă thuyết phục được Quốc trưởng Bảo Đại kư sắc lệnh số 38/QT ngày 25/6/54 ủy quyền cho ông Ngô Đ́nh Diệm lập chính phủ với toàn quyền về dân sự và quân sự. Nhóm Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Đ́nh Đầu, Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung (đă được con bảo lănh sang Canada năm 1995), LM Nguyễn Quang Lăm...định về tham gia chính phủ nhưng bị Ngô Đ́nh Nhu gạt ra v́ nghi nhóm này thân Pháp. Nguyễn Mạnh Hà quay trở lại Pháp, nhưng NĐD, vốn không lấy được bằng cấp ǵ, đă thúc giục Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và LM Nguyễn Quang Lăm phải trở về và chờ cơ hội. Những người này đă trở về VN năm 1956, cho xuất bản tờ tuần báo Sống Đạo nên thường được gọi là “nhóm Sống Đạo” hay “nhóm Cấp Tiến”. Tờ “Sống Đạo” có khuynh hướng chống chính phủ và thiên về đường lối XHCN. 2 LM Nguyễn Ngọc Lan và Trương Bá Cần từ Pháp về cũng gia nhập nhóm Sống Đạo. Lư Chánh Trung phụ trách biên tập, nhưng NĐD vẫn nắm hầu bao và quyết định đường lối của tờ báo.

 

NĐD về nước được một thời gian th́ ông Đào Văn Tập qua đời. NĐD cặp bồ với bà Đào Văn Tập. để chiếm dụng nhà in của bà này và sống bằng nghề ấn loát và xuất bản. Về sau NĐD cưới em của cựu Thủ tướng Bửu Lộc, một người giàu có, và về ở nhà vợ, góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực.

 

NĐD vẫn thường xuyên liên lạc với nhóm cán bộ trí vận của CS đang hoạt động ở Pháp hay đă về nằm vùng tại miền Nam và nấp sau tờ tuần báo Sống Đạo để hoạt động. Tờ Sống Đạo cũng như tờ “Công giáo và Dân tộc” sau này, đă cố gắng dùng Thánh Kinh để bênh vựa cho Chủ nghĩa Cộng sản.

 

Nguyễn Đ́nh Đầu là một tên chuyên đâm bị thóc thọc bị gạo để gây mâu thuẫn trong hàng ngũ CG và tuyên truyền ngụy ḥa. Khi CG biểu t́nh lên án những vụ bạo loạn tại miền Trung do CS giựt dây, NĐD soạn sẳn một văn thư chống lại Khối Công Giáo và chạy đi thuyết phục một số LM và giáo dân kư vào. Trong cuốn sách “30 tháng 4” do nxb TPHCM ấn hành năm 1985, kư giả Vơ Trần Nhă của VC cho biết NĐD là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay CS. NĐD có chân trong “nhóm Trí Việt”, gồm một số đặc công CS nằm vùng, hoạt động dưới danh nghĩa “đ̣i thi hành hiệp dịnh Paris”. Ngày 29/4/75, NĐD đi với Nguyễn Văn Diệp (cựu Bộ trưởng Kinh tế) và và Đinh Bá Thi vào trại David ở trong phi trường Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn VC cư ngụ ở đó để báo cáo t́nh h́nh và nhận chỉ thị về việc vận động Dương Văn Minh đầu hàng. Đinh Bá Thi dùng mật hiệu để được phái đoàn VC trong Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên mở cửa cho vào. Sau này Đinh Bá Thi được cử làm Đại sứ VC tại LHQ đầu tiên, nhưng một thời gian sau đă bị thanh toán bằng một tai nạn xe cộ trong một chuyến về VN.

 

Sau khi VC chiếm được miền Nam, bên ngoài NĐD không giữ chức vụ ǵ quan trọng, nhưng bên trong NĐD đă đứng ra tổ chức và giựt dây các chiến dịch chống phá GHCG. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Henri Lemaitre, đ̣i băi chức Tổng Giám mục Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Ḍng Đồng Công...đều có bàn tay của NĐD thúc đẩy phía saụ Với âm mưu thâm độc, chính NĐD đă soạn thông cáo của Ṭa Tổng Giám mục Saigon lên án vụ Ḍng Đồng Công rồi cầm lên yêu cầu Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh kư tên vào, nhưng Tổng Giám mục B́nh không chịu kư th́ NĐD đă lấy con dấu của Ṭa Tổng Giám mục đóng vào rồi gởi cho các báo VC yêu cầu công bố.

 

b.   Lư Chánh Trung:

 

LCT sinh năm 1929 ở Trà Vinh, theo đạo CG vào khoảng 1949 và năm 1950 được cho qua Bỉ học Đại học Louvain, một đại học CG, ở cách xa thủ đô Bruxelles khoảng 30km. LCT học rất giỏi, nhưng khi mới lấy xong Cử nhân Tâm lư học và Cử nhân Chính trị học, đă vội theo Nguyễn Đ́nh Đầu về nước năm 1956 với ư định tham chánh, nhưng không được Ngô Đ́nh Nhu dùng nên rất bất măn với chế độ Ngô Đ́nh Diệm và quay lại tán dương đường lối của CS. Khi ở Bỉ và Pháp, LCT cũng nằm trong Nhóm Thống Nhất của Nguyễn Mạnh Hà và bị chi phối bởi Nguyễn Đ́nh Đầu.

 

Tuy chưa có bằng Tiến sĩ nhưng rất thông minh, vượt hẳn Nguyễn Văn Trung và các bạn đồng khóa thời đó, nên được coi là lư thuyết gia của nhóm và là linh hồn của tờ tuần báo Sống Đạo. LCT có tài viết lách rất điêu luyện, có thể bẻ ng̣i bút đi theo hướng nào cũng được. Đọc những bài của LCT ca tụng HCM sau ngày 30/4/75, nhiều người phải sửng sốt về tài phất cờ theo chiều gió của người viết. Khó t́m được tại miền Nam một người viết “bài ca con cá” điêu luyện như thế.

 

LCT có người em là Lư Chánh Đức, làm Giám đốc Nha học liệu tại Bộ Quốc gia Giáo dục VNCH, đă xin cho LCT làm Công cán Ủy viên của Bộ này. Về sau, LCT được bổ làm Giám đốc Nha Trung học Công lập. LCT cũng được mời dạy triết học tại Viện Đại học Huế và Đà Lạt.

 

Tuy có tŕnh độ kiến thức cao và vững vàng, tính t́nh ḥa nhă, nhưng bước đường sự nghiệp của LCT rất lận đận, có khi không lo nổi miếng ăn. Nhiều người cho rằng nếu LCT đừng nghe Nguyễn Đ́nh Đầu, lấy xong bằng Tiến sĩ rồi trở về, có lẽ sẽ gặp được nhiều thuận lợi hơn. LM Cao Văn Luận là người đă nâng đỡ LCT rất nhiều, nhưng dưới 2 chế độ Cộng ḥa Miền Nam, LCT chưa t́m được chỗ đứng thoải mái, luôn bận tâm về sinh kế nên thường tỏ ra hận đời. Sự bất măn của LCT xuất hiện rất rơ trong cái lối viết lúc nào cũng có tính châm chọc và chua cay của ông. Vốn là 1 giáo sư Triết, tôn thờ Mounier và Karl Jasper, LCT đă nh́n vấn đề chính trị VN dưới lăng kính của một triết giạ Trong bài “Trên đường cùng đi” trên báo Đại Dân Tộc số 17 ngày 4/6/72, ông viết:

 

“Đối với tôi, vấn đề rất giản dị: dầu cho cuộc chiến hôm nay được giải thích cách nào, thực tế vẫn là có 2 phe cùng là người Việt đang chém giết nhau, mỗi phe được một hoặc hai siêu cường yểm trợ tận t́nh về mọi mặt.

 

“Tôi là người đứng “bên này” và từ lâu tôi đă nghĩ rằng lối thoát duy nhất cho cuộc chiến hiện nay là phải tạo dựng cho “bên này” một chính quyền tốt, độc lập với ngoại bang, có đủ nội lực và tự tín để gặp gỡ và làm ḥa thật sự với “bên kia”.”

 

Nghĩ sao làm vậy, khi CS chiếm được Saigon là ông đi theo CS, viết bài tán dương HCM và đảng CSVN. Ông được chọn làm Đại biểu Quốc hội khóa VI năm 1976 và các khóa tiếp theọ Khi vụ Vinh Sơn xảy ra, ông có viết một bài phê b́nh đăng trên báo “Công giáo và Dân tộc” số 55 ngày 18/7/76, lên án những người tham gia như sau:

 

“Hạng người như thế xin đừng gọi là người mà tội cho con người, xin đừng gọi là người VN mà tội cho dân tộc VN. Cũng xin đừng gọi là CG mà tội cho GHCG”.

 

Gặp lại LCT vào thập niên 1980, người ta có thể thấy nơi ông h́nh ảnh của một người đă thấm đ̣n và chán nản. 2 vợ chồng ông làm lụng vất vă vẫn không đủ ăn, mặc dù trên ngực có gắn cái nhăn hiệu “đại biểu Quốc hội”. Có lẽ trong hoàn cảnh đó ông mới nhận ra rằng “những người không đáng là người, không đáng là người VN” chính là những người CS chứ không phải là những người tham dự vào vụ Vinh Sơn. Những người mà ông mơ ước “làm ḥa” đă cùng ông biến VN thành một quốc gia g nhèo, không dân chủ, không tự do, không nhân quyền, và đă vùi lấp cuộc đời c̣n lại của một triết gia như ông.

 

Về phía giáo sĩ có 2 linh mục miền Nam được CS tín nhiệm, đó là LM Huỳnh Công Minh và LM Trương Bá Cần. 2 LM này đă được LM Nguyễn Đ́nh Thi, một cán bộ VC nằm vùng ở Pháp, móc nối khi c̣n du học ở Pháp.

 

LM Huỳnh Công Minh:

 

Huỳnh Công Minh là một đảng viên nồng cốt của Đảng CSVN trong công tác Công giáo vận. Trong kỳ bầu cử Quốc hội khóa VI năm 1976, ông được chọn làm đại biểu. Trong phiên họp ngày 7/7/77, sau khi Lê Duẩn đọc Báo Cáo Chính Trị, ông đă lên đọc một bài tham luận đúng sách vở của đảng:

 

“Báo cáo chính trị làm hho tôi thêm xác tín rằng mẫu con người mới, mẫu xă hội mới mà Quốc hội sẽ đề ra để toàn dân ra sức thực hiện trong giai đoạn lịch sử này chẳng những không có ǵ mâu thuẫn với tôn giáo, với tín ngưỡng chân chính, trái lại c̣n rất phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô Giêsu.

 

“Báo cáo chính trị làm cho tôi càng xác tín thêm nữa rằng con người mới, xă hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chú Kitô Giêsu măi mơ ước, con người mới đó, xă hội mới đó không thể có được, không bao giờ có được nếu không có Đảng Lao Động VN, đội tiên phong của giai cấp công nhân lănh đạo và tổ chức.

 

“Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu CNXH, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng CG mà đại bộ phận là nhân dân lao động, với đại gia đ́nh VN, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay saị” (Thông tấn xă VN, 7/7/77)

 

Cũng giống như TT Thích Minh Châu, LM Huỳnh Công Minh là một người được huấn luyện về nghiệp vụ đàng hoàng, lúc nào ông cũng tỏ ra hoà nhă và khiêm tốn, không bao giờ bênh vực công khai chế độ CS khi thuyết giảng hay khi nói chuyện với các giáo sĩ và giáo dân. Ông chỉ kêu gọi phải hợp tác với phường khóm. Ông không giữ chức vụ ǵ quan trọng trong tổ chức CG quốc doanh, nhưng trong thực tế ông nắm hết mọi quyền hành trong tổ chức này. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển các giáo sĩ và các hoạt động của GHCGVN đều được chuyển cho ông cứu xét và đề nghị nhà cầm quyền CS th́ mới chấp nhận. Ông luôn thi hành đúng mọi chỉ thị của đảng.

 

LM Trương Bá Cần:

 

Là Tiến sĩ Sử học ở Pháp. Ông điều hành tờ tuần báo Công giáo và Dân tộc, dùng tờ báo này để bênh vực XHCN và vận động người CG thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên báo Công giáo và Dân tộc Xuân 1982, ông viết:

 

“Từ lâu, trước ngày giải phóng, tôi xác tín không có con đường thứ ba giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩ xă hội. Do đó, chấp nhận CNXH, đương nhiên tôi chấp nhận sự hợp tác với những người CS.

 

“Ngoài ra, kinh nghiệm trong 5 năm qua ngày càng thuyết phục tôi rằng sự lựa chọn CNXH là tốt nhất. Riêng tôi, hằng ngày tôi sống trong sự hợp tác giữa người CS và người CG. Tôi xác tín rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc. Nhưng hợp tác có nghĩa ǵ? Đối với tôi, điều kiện tuyệt đối là có sự kính trọng nhaụ Không chỉ là sự dung thứ cho người khác tồn tại. Nhưng tôi lập lại sự kính trọng, mà người ta chỉ kính trọng cái mà người ta thừa nhận là có giá trị. Tôi thấy rằng những người CS kính trọng chúng tôi. Về phía chúng tôi, chúng tôi đă học được rất nhiều. Chúng tôi đă học biết những giá trị thật của CNXH. Đó là một lư tưởng cụ thể, phục vụ người khác”.

 

Vào khoảng 1989, suy nghĩ của ông hơi thay đổi nhưng chưa ai chắc điều đó có phải thật hay giả. CS đă nhờ ông viết lại lịch sử GHCGVN để biện minh cho chế dộ. Có lần CS nhờ LM Phan Phát Huồn viết lại bộ Việt Nam Giáo Sử, nhưng khi LM Huồn hỏi tại sao không nhờ LM Trương Bá Cần th́ CS trả lời, “Linh mục viết người ta mới tin. Trương Bá Cần viết người ta không tin !”.

 

Nh́n chung, ngoài 2 LM Minh và Cần ra, các LM quốc doanh khác không đóng vai tṛ ǵ quan trọng. Các LM Phan Khắc Từ, Trần Thiện Cẩm, Vương Đ́nh Bích,...chỉ là loại chạy cờ, có việc ǵ CS say th́ làm.

 

Đa số các linh mục và trí thức CG thiên tả như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lư Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lăng...đều là những người tốt nghiệp về thần học và triết học ở Pháp hay Bỉ, nên thường nh́n các vấn đề chính trị và xă hội của đất nước dưới lăng kính của triết học. Họ dùng Tâm và Lư để phân tích và xác định con đường mà đất nước phải chọn. Họ không có thói quen quan sát các sự kiện đang diễn ra rồi dùng Trí để phán đoán và chọn con đường thich hợp nhất. Mỗi khi thấy con đường họ tưởng là đúng, đă có nhiều nguy hại trong thực tế, họ quay ngược trở lại và tấn công thẳng vào con đường mà họ từng cổ vơ. Bằng bài báo “Dấm chua mật đắng” trong cuốn “3 năm xáo trộn”, nhóm Sống Đạo đă khuyến cáo các tổ chức của người CG đứng lên chống lại sự lộng hành của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc miền Trung do CS giựt dây. Nhưng khi nhận ra được những tệ hại của chế độ CSVN, họ không hề đưa thêm má bên kia cho CS đánh mà trái lại đă mạt sát chế độ CS bằng những lời lẽ chua cay hơn những người thường. Sau đây là một mẫu chuyện ngắn giữa công an và Nguyễn Ngọc Lan, được NGL ghi lại trong cuốn “Nhật Kư 1990-1991”:

 

“Ông có di thăm linh mục Chân Tín không?

 

- Làm sao tôi đi được?

 

- Như ông viết qua báo chí đó: Duyên Hải bây giờ đang bị sốt rét như dịch. Người ta đang bảo là Nhà nước khéo chọn chỗ để đày linh mục Chân Tín đó.

 

- Linh mục Chân Tín năm nay bao nhiêu tuổi?

 

- 71.

 

- Thôi, tôi gặp ông Lan chỉ có vậy.”

 

Trước đây, 2 linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan đă có lập trường khuynh tả hoàn toàn, nhưng sau khi sống với chế độ CS một thời gian, họ nhận ra CNXH không tốt đẹp như họ tưởng, họ đă quay lại chống chế độ một cách mạnh mẽ. Với những thành phần này, không thể coi họ là thành phần quốc doanh, nhưng những nhận định sai lệch của họ về chính trị, xă hội và tôn giáo một đôi khi rất tai hại. Đi vào chính trị, triết gia luôn bị đánh bại một cách thê thảm. Thân phận của họ cũng giống như thân phận của một triết gia đi qua sông mà người Tây phương thường đem ra chế giễu:

 

Triết gia hỏi ông lái đ̣:

 

- Ông có biết làm toán hông?

 

- Tôi không biết.

 

- Thế là ông đă mất một phần tư cuộc đời rồi !

 

Một lúc sau, triết gia lại hỏi câu thứ hai:

 

- Ông có biết viết không?

 

- Tôi không biết.

 

- Thế là ông mất nửa cuộc dời rồi !

 

Thuyền đến giữa sông, triết gia hỏi câu thứ ba:

 

- Ông có biết đọc không?

 

- Tôi không biết.

 

- Thế là ông mất ba phần tư cuộc đời rồi !

 

Khi triết gia vừa dứt lời th́ sóng gió lớn nổi lên; ông lái đ̣ liền quay lại hỏi triết gia:

 

- Ông có biết bơi không?

 

- Tôi không biết.

 

Ông lái đ̣ lắc đầu:

 

- Thế th́ ông mất cả cuộc đời rồi !

 

Trong buổi nói chuyện trên đài phát thanh vào ngày 26/10/1939, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đă nói:”Người cấp tiến là người hai chân đă được trồng chặt vào khoảng không”.

 

Khi các triết gia nói trên nhận được sự thật th́ đă quá muộn, phương cách để cứu văn không t́m thấy dễ dàng ở trước mắt. Nhưng dù sao họ cũng c̣n có thể quyết định quay trở lại. Những thành phần gia nhập Đảng CS như các linh mục Nguyễn Đ́nh Thi, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh th́ không c̣n đường trở lại nữa: hoặc tiếp tục đi trong sai lầm hoặc chết. Kỷ luật Đảng không bao giờ dung tha thành phần phản Đảng.

 

Mặt Trận Tổ Quốc luôn t́m cách đề cao vai tṛ của các linh mục quốc doanh, nhất là vai tṛ của linh mục Huỳnh Công Minh. Mọi việc phong chức, bổ nhiệm và thuyên chuyển giáo sĩ cũng như các h́nh thức sinh hoạt tôn giáo đặc biệt đều phải có đề nghị của linh mục này mới được nhà cầm quyền chấp thuận. Hôm 10/7/89, Hồng Y R. Etchegaray ghé thăm Saigon, báo Saigon Giải Phóng loan tin ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ tịch UBNDTP đă tiếp Đức Hồng Ỵ Cùng tham dự cuộc tiếp tân này có “Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh và Giám mục giáo phận Saigon Huỳnh Công Minh”. Bản tin trên đă làm mọi giới CG bất b́nh. Nhiều người đă gọi điện thoại phản đối báo SGGP và yêu cầu Tổng Giám mục B́nh đính chính. Báo SGGP ngày 13/7/89 đăng một cột nhỏ cải chính nói “Linh mục Huỳnh Công Minh là linh mục chánh sở nhà thờ chánh ṭa Saigon chứ không phải Giám mục giáo phận Saigon như đă loan tin”. Qua bản tin cố ư đăng sai đó, mọi người đều thấy rơ ư định của CS muốn đưa linh mục Huỳnh Công Minh làm Giám mục giáo phận Saigon.

 

Tuy được sự hỗ trợ của Mặt Trận Tổ Quốc, các linh mục quốc doanh viết hay nói ǵ cũng không ai nghẹ Đi đâu họ cũng bị giáo dân xa lánh. Linh mục quốc doanh c̣n lo sợ các biện pháp kỷ luật của Ṭa Thánh Vatican. Năm 1992, trong văn thư số N4708/92/RS ngày 20/5/92 gởi cho Giám mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Angelo Sodano đă yêu cầu Hội Đồng Giám mụcVN lưu ư các giáo sĩ về “Tuyên ngôn của Bộ Giáo Sĩ về những hiệp hội và những phong trào mà các giáo sĩ không được tham gia” công bố ngày 8/3/82 với mục đích nhắc nhở các linh mục không được tham gia vào các tổ chức CG quốc doanh. Tuyên ngôn này nói rơ:”Ai hành động trái với lịnh cấm hợp pháp của thẩm quyền GH có thể bị phạt một cách chính đáng, kể cả phạt vạ, chiếu theo các điều phải tuân giữ theo luật”.

 

c.   Thành lập Giáo hội Công giáo Việt Nam Tự trị không được, quay lại thành lập “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước”:

 

Năm 1980, Hà Nội quyết định bước qua giai đoạn mới gọi là “giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân”. Trong giai đoạn này, CS cho áp dụng các biện pháp để quốc hữu hóa tất cả tài sản của các nhà tư bản lớn và địa chủ để đưa vào quốc doanh, ép buộc các nhà tư bản hạng trung hợp tác kinh doanh với chính phủ CS. Đây là một h́nh thức mượn vốn và tay nghề của tư nhân để xây dựng các cơ sở kinh doanh và sản xuất, rồi đưa vào hợp tác xă hay biến thành công ty quốc doanh trong giai đoạn kế tiếp. Song song với các biện pháp kinh tế, CS cũng tiến thêm một bước thứ hai trong việc đưa tôn giáo vào quốc doanh. Chữ “quốc doanh” được Hà Nội dịch ra tiếng Anh là “state-run”, tức do nhà nước điều hành. Dân chúng đă dùng chữ này để chỉ các tổ chức do chính phủ điều khiển.

 

CS muốn tiến tới “quốc daonh hóa” CG trước cả PG. Đầu năm 1980, Ban Tôn giáo chính phủ và Mặt Trận Tổ Quốc đă đưa linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Chủ tịch “Ủy ban Liên lạc Công giáo Yêu Tổ quốc và Ḥa b́nh”, từ Hà Nội vào Saigon tổ chức một hội nghị CG mở rộng vào ngày 5/1/80. Hội nghị này dă đi đến quyết định thành lập “Ủy ban Vận động Công giáo” nhằm tiến tới việc thành lập một Giáo hội Công giáo VN tự trị tách rời khỏi Vatican. Xong CG rồi, ngày 12/2/80, CS mới cho lập “Ủy ban Vận động Thống nhất Phật giáo”. Nhưng về phía CG, CS đă gặp rất nhièu khó khăn v́ không kêu gọi được một Giám mục nào tham gia vào Ủy ban, c̣n hầu hết giáo sĩ và giáo dân th́ tỏ ra e dè.

 

Tháng 11/81, CS đă h́nh thành được một Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhờ sự hợp tác chặt chẽ của các Ḥa Thượng Thích Minh Châu, Thích Quảng Liên và nhất là có sự đồng thuận của Ḥa Thượng Thích Đôn Hậu, Xử lư Thường vụ Viện Tăng thống và HT Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá đạo GHPGVNTN hệ phái Ấn Quang. Nhưng về phiá CG, CS đă hoàn toàn thất bại.

 

Trong một bản phân tích t́nh h́nh các tôn giáo tại miền Nam năm 1981, Tổng cục An ninh của CS đă nhận định rằng 2 tôn giáo Cao Đài và Ḥa Hảo chỉ là 2 giáo phái chính trị nên phải giải tán. Về phía PG, bản nhận định nói rằng việc kiểm soát không có ǵ khó khăn, v́ PG không có tổ chức chặt chẽ và trong những năm “kháng chiến” Đảng đă gài được nhiều cán bộ nồng cốt vào bên trong để hoạt dộng. Những thành phần chống đối đă bị loại bỏ hoặc cô lâp. Vậy có thể tiến tới thống nhât ngay mà không gặp trở ngại nào. Riêng về phía CG, bản nhận định cho biết GHCG là một GH được tổ chức rất chặt chẽ, gồm những người lănh đạo và cán bộ có kiến thức, giáo dân đều đă được huấn luyện thuần thành. Bản phân tích cho biết riêng giáo phận Saigon có khoảng 40 linh mục có bằng tiến sĩ hoặc tương đương và phân rơ lập trường, thái độ của từng nhóm cũng như cách đối phó. CG có Hội đồng Giám mục là một cơ quan lănh đạo tập thể, rất khó dùng ảnh hưởng của một vài cá nhân để chi phối. CG lại có hậu thuẫn của Vatican và các nước CG Tây phương nên nếu hành động không khôn khéo th́ có thể gây hậu quả bất lợi. Bản phân tích đề nghị dùng nhiều biện pháp để khống chế và làm tiêu hao dần giáo hội này như đă áp dụng tại miền Bắc từ 1954-1975: T́m cách cô lập các giáo sĩ và giáo dân có khả năng lănh đạo, lưu lại một thời gian lâu dài khoảng 200 giáo sĩ đang bị giam giữ trong các trại cải tạo cho đến khi t́nh h́nh ổn định, hạn chế chặt chẽ việc phong chức, bổ nhiệm các chức sắc mới thay thế những chức sắc đă qua đời, cô lập và phân tán các ḍng tu, v.v...

 

Mặt Trận Tổ Quốc đă nhiều lần mở cuộc thăm ḍ để thành lập một Giáo Hội Công Giáo VN tự trị, nhưng đă bị cự tuyệt. Các giáo sĩ và giáo dân được mời họp để hỏi ư kiến đều trả lời rằng chỉ có Hội đồng Giám mục mới có quyền quyết định được điều đó. Ngay các linh mục quốc doanh cũng không ai dám công khai ủng hộ đề nghị của CS. Cuối cùng, CS đă quyết định tạm thời tiến tới việc thống nhất các tổ chức CG quốc doanh trong khi nghiên cứu lại làm sao để đ^'i phó với CG để thành lập một GHCGVN tự trị, tức là nằm dưới sự điều khiển của CS.

 

Ban Tôn giáo Chính phủ đă giao cho linh mục Nguyễn Thế Vịnh của miền bắc đứng ra thành lập một tổ chức CG quốc doanh thống nhất. và một dại hội đă được triệu tập tại Hà Nội từ 7-10/11/83. Biết linh mục Vịnh không đủ thẩm quyền và uy tín để triệu tạp một hội nghị như vậy nên Mặt Trận Tổ Quốc đă đứng ra hành động. Mặt Trận tại mỗi địa phương đă chỉ định các thành phần tham dự đại hội. Trong dại hội người ta thấy có 299 “đại biểu” thuộc 32 tỉnh trong nước, trong đó có 142 linh mục, 11 tu sĩ và 146 giáo dân. Để làm cho Đại hội đi đến thành công, Hà Nội phải đưa Huỳnh tấn Phát, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc, đứng ra lănh đạo đại hội. Đặng Thành Chơn, chuyên viên về khống chế tôn giáo của Ban Tôn giáo CS cũng có mặt để theo dơi từng diễn biến của đại hội. Trong đại hội, đại diện chính quyền CS cũng như một số đại biểu c̣ mồi đă nhấn mạnh khá nhiều về “vấn đề CGVN” với gợi ư nên tiến tới việc tuyên bố tách rời GHCGVN ra khỏi Vatican v́ GHVN đă trưởng thành. Chuyện này đợc bàn tán nhiều sau Đại hội nên tờ Công giáo và Dân tộc phải lên tiếng xác nhận “không có vấn đề tự trị”.

 

Đại Hội đă quyết định thành lập “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước” và đề cử linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ tịch. Đại hội cũng chấp thuận một bản Điều lệ và một bản Nghị quyết do Ban Tôn Giáo CS soạn sẵn. Điều 2 của bản Điều lệ ghi rơ:

 

“Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước VN là một tổ chức thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc VN, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật của nước CHXHCNVN và Cương lĩnh của Mặt Trận Tổ Quốc VN”.

 

Điều 3 của bản Nghị quyết đă nói về vai tṛ của phong trào CG Yêu nước như sau:

 

“Đại hội cũng nhận định: vượt qua những gian lao thử thách, dưới sự lănh đạo của Đảng CSVN và Chủ tịch HCM vĩ đại, với sự quan tâm giúp đỡ của Mặt Trận Tổ Quốc VN, phong trào CG Yêu nước đang lớn mạnh. Yêu nước là truyền thống vẻ vang của dân tộc VN, là đ̣i hỏi thiêng liêng của t́nh thương Kitô giáo, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người dân VN. Trong thời đại ngày nay, nội dung yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xă hội và phải gắn liền nghĩa vụ yêu nước với nghĩa vụ đấu tranh cho ḥa b́nh và công lư trên thế giới”.

 

Linh mục Nguyễn Thế Vịnh làm Chủ tịch được 6 tháng th́ mất. Giám mục Bùi Chu Tạo cho biết những tháng cuối cùng của cuộc đời, linh mục Vịnh thường tỏ ra hối hận về sự lầm lẫn của ông trong việc tham gia Đảng CSVN, và rồi việc tới phải tới, những ngày trước khi qua đời linh mục Vịnh đă xin chịu các phép bí tích. Một nhân vật khác là linh mục Hồ Thành Biên đă thay thế linh mục Vịnh.

 

Tại Saigon, “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước Việt Nam” đă được cấp một biệt thự ở số 15 đường Tú Xương, Q3, để làm văn pḥng thường trực và sinh hoạt. Cũng giống như nhóm người đào tạo ra nó, Ủy ban chiếm pḥng hội của Trung tâm CGVN ở đường Trần Quốc Toản làm nơi hội họp. Ủy ban cũng định chiếm dụng nhà sinh hoạt của giáo xứ Tân Định để làm cơ sở ấn loát và phát hành báo chí, nhưng bị kháng cự lại nên không chiếm được. Ủy ban có một tờ tuần báo là tờ “Công giáo và Dân tộc” do linh mục Trương Bá Cần làm chủ nhiệm. Ủy ban dùng tờ báo này để kêu gọi giáo dân hợp tác với chính quyền. Trong 1 bài phhỏng vấn dành cho báo Eglises d'Asie, Giám mục Nguyễn Minh Nhật, Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN, đă trả lời bằng tiếng Pháp về trường hợp của “Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước” và tờ “Công giáo và Dân tộc” như sau:

 

“Ủy ban thủ một tờ báo CG duy nhất tại miền Nam VN. Tuy nhiên tờ này hay tờ kia (ở Bắc) đều đă được coi như là những cơ quan của chính phủ. Những bài viết trong tờ báo luôn bênh vực chính sách của chính quyền và thường công kích GH. Họ không có ư kiến đứng đắn về GHVN...

 

“2 trong những người đại diện (của Ủy ban) đă gởi cho tôi một lá thư trong đó họ than phiền họ đă bị cả chính quyền lẫn hệ cấp thẩm quyền CG coi như một công cụ kiểm soát của chính quyền. Tôi đă trả lời họ rằng những sự nghi ngờ đó có căn cứ. Họ đă mất sự tin tưởng của người CG”. (Nguyễn Ngọc Lan, “Nhật kư 1990-1991, Tin, Paris, 1993, tr. 236-237).

 

Tuy được sự trợ giúp của Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy ban trên không hoạt động ǵ được, v́ giáo dân cũng như giáo sĩ chỉ biết Hội đồng Giám mục VN chớ không cần biết Ủy ban này.

 

Với chỉ thị của Ṭa Thánh Vatican cấm các giáo sĩ không được tham gia vào các tổ chức tôn giáo quốc doanh, vai tṛ của Ủy ban cũng sắp cáo chung, v́ các giáo dân tham gia ủy ban không có ai có uy tín hay khả năng điều hành nó.

 

Tiếp tục đánh phá Công giáo:

 

Năm 1985, khi quyết định tiến tới giai đoạn mà CS gọi là “Tiến lên Xă hội chủ nghĩa”, CS quyết định đưa các ngành tư doanh c̣n lại vào hợp tác xă hay biến thành công ty quốc doanh. Tại Saigon, Q3, nơi c̣n nhiều cơ sở tư doanh nhỏ, đă được chọn làm thí diểm. Song song với biện pháp kinh tế, CS cũng quyết định đi thêm một bước nữa trong việc khống chế CG.

 

Khoảng 200 công an đă được huấn luyện tại Tiệp Khắc về tôn giáo vụ được đưa vào miền Nam, phân phối cho các thành phố Đà Nẵng, Biên Ḥa, Đồng Nai và Saigon là những nơi có nhiều giáo dân tập trung. Tại Saigon, huyện Thủ Đức đă được chọn làm thí điểm v́ nơi đây c̣n một số đông các cơ sở ḍng tu và các giáo xứ miền Bắc di cự Trong năm 1986, một số ḍng tu ở Thủ Đức như Đức Bà Truyền Giáo, Đồng Công...đă được lệnh phân chia ra nhiều “hộ” nhỏ, mỗi hộ không quá 10 người. CS sẽ cấp những căn nhà riêng biệt cho các “hộ” này tiếp tục đời sống tu tŕ. Các cơ sở của các ḍng c̣n lại sẽ được đặt dươi quyền quản lư của nhà nước. Vụ đánh phá Ḍng Đồng Công năm 1987 cũng nằm trong chiến dịch xé lẻ các ḍng tu để diệt dần.

 

Năm 1986, CS lại triệu tập một Đại hội Toàn quốc “Những người Công giáo Việt Nam Xây dựng và Bảo vệ Ḥa b́nh” lần thứ 2 tại Hà Nội để h́nh thàn một GH Thiên Chúa Giáo VN tự trị, tách rời khỏi Ṭa thánh Vatican như năm 1983, nhưng vẫn thất bại, v́ các giáo sĩ và giáo dân tham dự đại hội vẫn trả lời như trước: Vấn đề tự trị hay không tùy thuộc vào quyết định của Hội đồng Giám mục, họ không có thẩm quyền.

 

Sự phản ứng của CS Hà Nội về việc Ṭa Thánh Vatican quyết định phong thánh cho 117 vị chân phước tử đạo tại VN ngày 19/6/1988 cũng rất quyết liệt. Linh mục Trương Bá Cần đă viết nhiều bài phân tích cho rằng việc phong thánh là sai lầm. Nguyễn Đ́nh Đầu hô hào tẩy chay phong thánh. Hội đồng Giám mục VN bị đả kích nặng nề v́ đă kư đơn xin phong thánh. Nhiều cuộc họp hay hội thảo để phản đối quyết định phong thánh đă được triệu tập, nhưng đa số giáo dân và giáo sĩ đều cho rằng việc phong thánh là chính đáng. Cuối cùng Hà Nội đành bó taỵ

 

Nhưng không may cho Đảng CSVN là cuộc đổi tiền vào tháng 9/1985 đă đem lại những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, kinh tế suy sụp hoàn toàn, bắt buộc Đảng CS phải đổi mới để sống c̣n. Sự khống chế CG cũng được nới rộng ra để khỏi bị lên án khi kêu gọi đầu tư và vay mượn tín dụng ngoại quốc. Nhà cầm quyền Hà Nội vẫn tin rằng CG là nguồn ngoại tệ đáng kể v́ có sự giúp đỡ của Vatican và các tổ chức CG quốc tế. Tuy nhiên sự nới rộng này chỉ có ảnh hưởng đến một số sinh hoạt giới hạn như cho phong thêm một số linh mục, đồng ư cho bổ nhiệm một số giáo phẩm vào các chức vụ đă bị khiếm khuyết từ lâu, cho in một số sách Thánh Kinh... Đặc biệt, người CG không c̣n bị xếp vào công dân hạng 6 như trước nữa. Một vài lănh vực đại học và cơ quan công quyền đă thu nhận giáo dân. Tuy nhiên, nhà cầm quyền CS vẫn tiếp tục gây nhiều khó khăn cho việc bổ sung từ hàng Giám mục trở lên. Ngày 25/8/1993, nhà cầm quyền CS đă bác bỏ quyết định của Vatican cử Giám mục Huỳnh Văn Nghi làm Giám Quản Giáo Phận (Diocesan Administrator) Ṭa Giám mục Saigon và cũng không cho Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận trở về nhận chức Tổng Giám mục Saigon khi Tổng Giám mục Nguyễn Văn B́nh từ nhiệm v́ lư do già yếu. Trước đây, khi Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Tổng Giám mục Giáo phận Huế qua đời ngày 8/6/88, Hà Nội cũng không cho Vatican cử người thay thế. Đó là những âm mưu của CS làm tê liệt guồng máy lănh đạo của GHCGVN. Nhưng GH này vẫn tiếp tục hoạt động b́nh thường là nhờ có Hội đồng Giám mục, do đó âm mưu của CS không ảnh hưởng nhiều. Ngày 15/4/1991, Hội đồng Giám mụcVN đă gởi đến Tổng Bí Thư Đảng CSVN một Bản Góp Ư đề cập đến 2 vấn đề quan trọng sau: