Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

THIỀN SƯ TỪ ĐẠO HẠNH CON ĐƯỜNG TÁI SINH

 

 

 

Như Hùng

 

 

 

Tượng Lư ThấnTông -Từ Đạo Hạnh

 

 

 

Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn c̣n đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cơi ḷng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái, khói hương nghi ngút cả ngày lẫn đêm, đượm ngát cả không gian, nối kết từ quá khứ đến hiện tại, tương lai, mở đường dẫn lối cho chúng ta, nhận ra chân lư cao tột của nghiệp quả tử sinh, luân hồi cùng đại nguyện. Cho đến bây giờ lời kinh nguyện cầu, với những câu thần chú liên tục vang vọng trên bến bờ tử sinh mê ngộ, sự bí ẩn linh hiện của những mật ngôn, thi nhau gỏ nhịp phong kín từng lối đi lại của tâm thức, tạo thành năng lực vi diệu phá vở màn đêm tăm tối của vô minh, chuyển đổi nghiệp lực cho từng chúng sanh, trong sự sáng soi rộng mở để tuệ giác bừng lên toả chiếu, một sự ẩn hiện linh diệu vô cùng mà chỉ có công năng tu tập thật sự mới đem lại kết quả. Ta không thể dùng cái tâm dong ruổi để lôi kéo vào những trạng huống bất chợt, không đi qua chặng đường nổ lực tra vấn, bởi lẽ tất cả mọi năng lực được phát tiết ra, là khi ta đào bới vào tận cùng, bằng tất cả sức lực không ngừng nghĩ, cho đến khi hoà nhập vào tận cùng thể tánh, kết nối xuyên suốt từ trong ra ngoài, từ tâm đến cảnh. Cho tới bây giờ bài kệ "có, không" mà người để lại, đẩy bật tâm thức của ta lên tận mây ngàn, chơi vơi trong cơi không cùng vô tận. Con người siêu dị đó là Thiền sư Từ Đạo Hạnh ( 1072- 1116 ) một vị thiền sư nổi tiếng của Việt Nam vào thời nhà Lư, c̣n được nhân dân cung kính với tên gọi Đức Thánh Láng. H́nh tượng được tôn thờ ở chùa Láng, chùa Thầy và chùa Nền tại Hà Nội, lễ hội hằng năm tổ chức vào ngày 7 tháng 3 âm lịch, ngày ngài viên tịch, theo truyền thuyết ngài c̣n là ông Tổ của nghề múa nước rối.

 

1, Dấu chân xưa c̣n đó

 

Thiền Uyển Tập Anh, ghi về sư như sau: " Thiền sư họ Từ, húy Lộ. Cha là Từ Vinh, làm quan đến chức Tăng quan đô án. Nguyên là Từ Vinh trọ học ở hương Yên Lăng, lấy vợ là con gái nhà họ Tăng rồi cư trú ở đó. Ông là con bà họ Tăng đó. Bản tính ông từ nhỏ hào hiệp phóng khoáng, có chí lớn, phàm việc làm lời nói không ai đoán trước được. Ông kết bạn thân với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát là Vi Ất. Ban đêm ông miệt mài đọc sách, ban ngày thổi sáo đá cầu, đánh bạc vui chơi, thường bị cha trách mắng là lười nhác. Một đêm Từ Vinh lén vào pḥng thấy ngọn đèn đă tàn, sách vở chất đống bên cạnh, c̣n Từ Lộ th́ đang tựa án mà ngủ, tay vẫn cầm quyển sách, tàn đèn rơi đầy cả mặt bàn. Từ đó cha ông mới không phải lo nghĩ ǵ nữa. Sau triều đ́nh mở khoa thi tăng quan, ông dự thi được trúng tuyển. Nguyên trước kia thân phụ ông là Từ Vinh có điều xích mích bị Diên Thành Hầu cho là dùng tà thuật xúc phạm đến ḿnh, v́ vậy Diên Thành Hầu nhờ sư Đại Điên dùng pháp thuật đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Thây Từ Vinh trôi đến cầu Quyết th́ bật dậy, chỉ tay vào nhà Diên Thành Hầu suốt một ngày. Diên Thành Hầu sợ hăi sai người đi báo với Đại Điên. Đại Điên đến nơi quát: " Kẻ tu hành giận không quá đêm! " Thây Từ Vinh nghe vậy lại tiếp trôi đi. Ông muốn báo thù cha nhưng không biết cách nào. Một hôm nhân lúc Đại Điên ra ngoài, sư bèn xông vào đánh. Bỗng nghe trên không có tiếng quát: " Dừng lại! Dừng lại ! ". Ông sợ vứt gậy mà chạy. Từ đó ông quyết chí t́m đường sang Ấn Độ cầu học phép lạ để về báo thù cho cha. Đến nước Kim Xỉ ( Miến Điện) gặp đường đi hiểm trở nên phải quay về. Từ đó ông vào ẩn cư trong hang đá núi Phật Tích, ngày ngày chuyên chú tŕ tụng Đại Bi Tâm Đà La Ni , đủ mười vạn tám ngh́n lần. Một hôm sư thấy thần nhân đến bảo: " Đệ tử là Trứ Trấn Thiên Vương, cảm công đức của sư tŕ tụng kinh Đại Bi nên xin đến hầu để sư sai phái ". Sư biết là đạo pháp viên thành, đă có thể báo thù cha. Sư bèn đến bên cầu Quyết, thử ném gậy xuống giữa ḍng nước xiết. Chiếc gậy liền trôi ngược ḍng đến phía tây cầu Tây Dương ( Cầu Giấy ở Hà Nội ) th́ dừng lại. Sư mừng nói : " Phép ta thắng rồi ". Sư bèn đi thẳng đến nhà Đại Điên. Đại Điên trông thấy nói:

 

- Ngươi không nhớ chuyện ngày trước sao?

 

Sư ngước nh́n lên trời, không thấy động tỉnh ǵ, bèn vung gậy đánh. Đại Điên phát bệnh mà chết. Từ đó rửa sạch oán thù, việc đời như tro lạnh, sư bèn đi khắp nơi trong chốn tùng lâm để t́m thầy ấn chứng. Nghe nói Kiều Trí Huyền hoá đạo ở Thái B́nh, sư t́m đến tham vấn. Sư đọc bài kệ hỏi về chân tâm:

 

Cửu hỗn phàm trần vị thức câm ( kim).

Bất tri hà xứ thị chân tâm

Nguyện thùy chỉ đích khai phong tiệm

Liễu kiến như như đoạn khổ tâm.

 

" Lẫn với bụi đời tự bấy lâu

Chân tâm vàng ngọc biết t́m đâu?

Cúi xin rộng mở bày phương tiện

Thấy được chân như sạch khổ sầu."

Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 1

 

Trí Huyền đọc kệ đáp:

 

Ngọc lư bí thanh diễn diệu âm

Cá trung măn mục lộ thiên tâm

Hà sa cảnh thị Bồ Đề đạo

Nghỉ hưởng Bồ Đề cách vạn tầm.

 

" Minh ngọc vang đưa tiếng ảo hyuền

Ở trong vẫn lộ tấm ḷng thiền

Cát sông là cơi Bồ Đề đó

Mà tưởng c̣n xa mấy dặm ngh́n."

Ngô Tất Tố dịch, Văn Học Đời Lư

 

Sư vẫn lờ mờ không rơ bèn t́m đến chùa Pháp Vân thỉnh giáo thiền sư Sùng Phạm. Sư hỏi:

 

- Thế nào là chân tâm?

 

Sùng Phạm hỏi lại:

 

- Thế cái ǵ không phải chân tâm?

 

Sự rạng rỡ, tỉnh ngộ, hỏi lại rằng:

 

- Lấy ǵ làm bảo chứng?

 

Sùng phạm đáp:

 

- Đói ăn khát uống.

 

Sư lạy tạ rồi cáo từ trở về. Từ đó pháp lực như được tăng thêm, duyên thiền càng thêm thuần thục, có thể khiến rắn rết, muông thú đến chầu phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chửa bệnh, không việc ǵ không ứng nghiệm. Có vị Tăng hỏi:

 

Đi đứng nằm ngồi đều là Phật tâm. Vậy thế nào là Phật tâm?

 

Sư đọc kệ đáp:

 

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không

Hữu không như thuỷ nguyệt

Vật trước hữu không không.

 

" Có th́ muôn sự có

Không th́ tất cả không

Có không trăng đáy nước

Đừng mắc có cùng không."

 

Ḥa Thượng Thích Thanh Từ dịch, Thiền Sư Việt Nam

 

Sư lại nói:

 

Nhật nguyệt tại nham đầu

Nhân nhân tận thất châu

Phú nhân hữu câu tử

Bộ hành bất kỵ câu.

 

" Nhật nguyệt tại non đầu

Người người tự mất châu

Kẻ giàu sẵn ngựa mạnh

Bộ hành chẳng ngồi xe."

Ḥa thượng Thích Thanh Từ dịch, Thiền Sư Việt Nam

 

Bấy giờ vua Lư Nhân Tông tuổi đă cao mà không có con nối dơi. Tháng hai năm Hội Trường Đại Khánh thứ 3 ( 1112) ở phủ Thanh Hoá có người tâu: " Vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị, mới lên ba tuổi mà nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của vua, tự đặt hiệu là Giác Hoàng. Phàm mọi việc làm của hoàng thượng, không điều ǵ đứa bé ấy không biết."

 

Vua sai trung sứ vào tận nơi xem xét, thấy đúng như lời tâu, bèn cho đón về chùa Báo Thiên ở kinh đô. Thấy đứa trẻ thông minh dị thường vua có ḷng yêu mến, định lập làm hoàng thái tử. Các quan hết sức can ngăn vua không nên làm như vậy. Các quan lại nói nếu đứa bé quả thật linh dị, tất nên thác sanh vào nội cung rồi sau mới lập làm thái tử được. Vua nghe theo, bèn cho mở hội lớn, bảy ngày đêm để làm phép thoát thai. Sư nghe chuyện tự nghĩ: " Đứa bé nầy dùng phép yêu dị để mê hoặc mọi người, ta nở nào ngồi nh́n để nó lừa dối, làm loạn chính pháp? ". Sư bèn nhờ người chị gái giả làm người đi xem hội, lén đem chuổi hạt do sư đă kết ấn, treo lên rèm cửa. Hội đến ngày thứ ba, th́ Giác Hoàng bổng kêu đau, bảo mọi người: " Ta đă đi khắp hoàng thành, nhưng ở đâu cũng có lưới sắt vây kín. Muốn thác sinh cũng không biết lọt vào bằng cách nào". Vua ngờ sư làm bùa chú để phá, bèn sai quan xét hỏi th́ sư thú nhận. Quan quân bèn bắt sư trói, đem đến lầu Hưng Thánh để triều thần định tội. Lúc ấy gặp Sùng Hiền Hầu đi qua, sư thống thiết giải bày với Hầu về chuyện đó. Sư nói

 

- Qúy Hầu gắng giúp cho bần tăng thoát tội. Ngày sau xin đầu thai để đáp ơn tạ đức.

 

Sùng Hiền Hầu nhận lời. Khi vào triều nghị, các quan đều nói:

 

- Bệ hạ không có nối dơi nên mới cầu Giác Hoàng thác sinh làm con, vậy mà Từ Lộ dùng bùa phép cản trở, xin bệ hạ cho xử chém để thiên hạ hả ḷng.

 

Sùng Hiền Hầu từ tốn tâu rằng:

 

- Giác Hoàng nếu quả có thần lực, th́ dẫu cả trăm Từ Lộ làm bùa chú cũng không làm hại được. Đằng nầy Giác Hoàng lại bị lưới sắt chắn không vào được, thế th́ Từ Lộ cao tay pháp hơn Giác Hoàng. Theo ngu ư của thần, bệ hạ nên tha tội cho Từ Lộ và cho Từ Lộ thác sinh.

 

Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền Hầu. Sư bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền Hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà nh́n. Phu nhân tức giận nói lại với chồng, nhưng Sùng Hiền hầu biết trước nên không căn vặn ǵ.

 

Từ đó phu nhân cảm thấy ḿnh có thai. Sư dặn Sùng Hiền Hầu: " Khi nào phu nhân sắp sinh th́ báo cho bần tăng biết trước". Đến lúc phu nhân sắp sinh Sùng Hiền Hầu cho người đến báo. Sư bèn tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi bảo đệ tử:

 

- Nghiệp duyên của ta chưa hết, c̣n phải thác sinh để tạm giữ ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm thiên tử ở cơi trời thứ ba mươi ba. Nếu thấy chân thân của ta hư nát th́ lúc ấy ta mới thật nhập Niết bàn, không c̣n phải trụ trong ṿng sinh diệt nữa. Các đệ tử nghe nói không cầm được nước mắt. Sư bèn đọc bài kệ rằng:

 

Thu lai bất báo nhạn lai quy

Lănh tiếu nhân gian tạm phát bi

Vị báo môn nhân hưu luyến trước

Cổ sư kỷ độ tác kim sư.

 

" Thu về chẳng báo nhạn theo bay

Cười nhạt người đời uổng xót vay

Thôi hởi môn đồ đừng quyến luyến

Thầy xưa mấy lượt hoá thầy nay".

 

Ngô Tất Tố dịch, Văn Học Đời Lư

 

Nói xong sư trang nghiêm mà hoá, đến nay h́nh xác vẫn c̣n ".

 

Thiền Uyển Tập Anh, ( Anh Tú Vườn Thiền ) Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thúy Nga dịch, trang 197- 203

 

Đạo Hạnh có ba nguớ bạn vừa nho sỹ, đạo sỹ, và nghệ sỹ phường chèo, tuổi thơ của ông trưởng thành trong môi trường hiếu đạo, mối thù giết cha không thể không trả. Từ Đạo Hạnh con của một vị " Tăng quan đô sát " Từ Vinh, một vị pháp sư, một vị Tăng không hoàn toàn xuất gia, có gia đ́nh vợ con. Ông bị giết, thây trôi đến trước nhà Diên Thành Hầu, khi Đại Điên đến mới quát lên rằng ( Tăng hận bất cách túc) " Kẻ tu hành giận không được quá một đêm ". Về phương diện hiếu đạo, ta có thể cảm thông phần nào việc làm của ông, nhưng đứng về luật nhân quả, th́ tất cả mọi tác tạo từ suy tư đến hành động đều bị chi phối bởi luật nhân quả. Đó là chân lư bất di bất dịch, không miễn trừ cho bất cứ cá nhân chúng sanh nào. Chỉ có năng lực tu tập vượt thoát, để cho điều tốt, thiện quả, trí tuệ, an lạc lớn măi, thường xuyên ngự trị, thay thế chuyển hoá điều ác, điều xấu, tham sân si, không c̣n dẫn dắt lôi kéo, xúi dục, cho đến khi nào chúng ta thật sự giải thoát, vượt ra ngoài sanh tử, th́ nó mới không chi phối, c̣n ngoài ra tất cả chỉ là sự vay mượn thế vào, không sớm th́ muộn, kiếp nầy hoặc kiếp sau, ta phải trả lại bằng mọi giá, không có sự ngoại lệ.

 

Sơ tổ Thiền Tông Việt Nam là Khương Tăng Hội ( ?- 280 TL ) cũng có sự liên hệ đến Mật Giáo. " Ngô Tôn Quyền ( 229- 252 TL) thấy ngài thi thố nhiều phép lạ lấy làm tin phục, xây dựng ngôi chùa Kiến Sơ thỉnh ngài ở, từ đây Phật Giáo thạnh hành miền Giang Tả". Thiền không hề xử dụng đến phép lạ, năng lực nầy chỉ có ở những vị tu tập về Mật Giáo.

 

Theo Thiền Uyển Tập Anh, ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Tŕ tại chùa Pháp Vân, đây là cuốn kinh về Mật Giáo, thiền phái nầy có khuynh hướng về Mật Giáo. Thiền sư Từ Đạo Hanh thuộc thế hệ thứ mười hai của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngoài ra ta c̣n thấy một số thiền sư nổi tiếng, đă sử dụng năng lực tu tập để cứu dân giúp đời, trong tinh thần từ bi và giải thoát của Đạo Phật.

 

Thiền sư Vạn Hạnh ( ? 1018 ) thuộc đời thứ 12 thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài chuyên tu tập pháp " Tổng Tŕ Tam Ma Địa ". Ngô Thời Sỹ viết về ngài như sau " có kiến thức cao siêu thần toán, biết trước mọi việc, cũng là tay xuất sắc trong giới thiền". Vua Lư Nhân Tông truy tán công hạnh của ngài như sau:

 

" Vạn Hạnh thông ba cơi.

Thật hợp lời sấm xưa.

Quê nhà tên Cổ Pháp.

Dựng gậy vững kinh vua."

Thiền sư Sùng Phạm (? -1087) thế hệ thứ 11 thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài từng đi du học chín năm ở Ấn Độ, về nước ngài mở trường dạy đạo tại chùa Pháp Vân, trong số học tṛ tham dự có thiền sư Đạo Hạnh. Vua Lê Đại Hành nhiều lần triệu thỉnh ngài vào cung để tham khảo. Vua Lư Nhân Tông làm bài kệ ca tụng ngài như sau:

 

 " Tên Sùng Phạm, nhưng người Nam Quốc

Phật trường về đổ được Tâm Không

Tai dài tướng tốt đoan trang

Hạnh ngôn đúng pháp trăm đường không chê."

Nguyển Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 1 trang 132

 

Thiền sư Tŕ Bát ( ? - 1117) thế hệ thứ 12 thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, cũng học với thiền sư Sùng Phạm tại chùa Pháp Vân, trong bài kệ thị tịch đoạn cuối ngài để lại câu mật ngữ " Án tô rô tô rô tất rị."

 

Không chỉ có bấy nhiêu thiền sư kết hợp Thiền và Mật trong sự tu tập, mà trong suốt chặng đựng phát triển và tồn tại, Mật Tông đă thật sự thấm sâu trong ḷng dân tộc Việt, trở thành một trong ba phương pháp tu tập ( Thiền, Mật, Tịnh ) căn bản của Đạo Phật Việt.

 

" Mật Giáo là giai đoạn phát triển thứ ba của tư tưởng Phật Giáo đại thừa ở Ấn Độ ( giai đoạn thứ nhất là Bát Nhă, giai đoạn thứ hai là Duy Thức). Giai đoạn này bắt đầu từ thế kỷ thứ tư, trở nên hưng thịnh từ đầu thế kỷ thứ sáu, đến giữa thế kỷ thứ tám th́ được hệ thống hóa trong một truyền thống gọi là Kim Cương thừa (Varayana). Từ Kim Cương thừa xuất hiện nhiều hệ thống mật giáo, trong đó có hệ thống Sahajayana mà giáo lư và thực hành rất giống với thiền, nhấn mạnh đến sự quan trọng của thiền tọa, của trực giác bồ đề, và sử dụng những h́nh ảnh cụ thể và những mật ngữ để khai mở trí tuệ giác ngộ.

 

Mật Giáo bắt đầu từ tư tưởng thâm sâu của Bát Nhă đồng thời cũng bắt đầu từ những tín ngưỡng nhân gian Ấn Độ. Về phương diện này, Mật Giáo chấp nhận sự có mặt của những thần linh được thờ phượng trong dân gian, và như thế khiến cho đạo Phật phát triển rộng trong sinh hoạt quần chúng. Ở Giao Châu khuynh hướng này rất phù hợp với sinh hoạt tín ngưỡng và phong tục người Việt, v́ vậy cho nên Mật Giáo đă trở nên một yếu tố khá quan trọng trong sinh hoạt thiền môn.

 

Đứng về phương diện tư tưởng, Mật Giáo là một phản ứng đối với khuynh hướng quá thiên trọng tri thức và nghiên cứu các hệ thống Bát Nhă và Duy Thức. Theo Mật Giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia th́ ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ thành đạo, khỏi phải đi tuần tự từng bước. Sự giác ngộ cũng có thể thực hiện trong giây phút hiện tại. Sự sử dụng thế lực của thần linh, sự sử dụng thần chú, ấn quyết và các h́nh ảnh mạn đà la, có thể hổ trợ đắc lực cho thiền quán hành đạo. Chính v́ khuynh hướng này của Mật Giáo mà Phật giáo đă bao trùm trong mọi tín ngưỡng b́nh dân trong ḷng nó, ở Ấn Độ, cũng như ở Việt Nam.

 

Từ ngữ Tổng Tŕ nguyên là dharani (đà la ni) trong Phạn ngữ, có nghĩa là nắm giữ, duy tŕ và ngăn ngừa. Sách Đại Trí Độ Luận (Mahapra-jnaparanita-sastra) của Long Thọ (Nagarjuna) viết vào thế kỷ thứ hai nói: " đà la ni có nghĩa là duy tŕ và ngăn ngừa, duy tŕ là duy tŕ những thiện pháp không để cho thất lạc, như một cái b́nh nguyên vẹn có thể chứa nước không để nước rịn ra; ngăn ngừa là ngăn ngừa những ác pháp không cho phát sinh, nếu có khuynh hướng tạo tội ác th́ ngăn ngừa không cho tạo tắc: đó là đà la ni ”. Có bốn loại đà la ni, tức là bốn loại tổng tŕ: pháp, nghĩa, chú và nhẫn: Pháp đà la ni là duy tŕ những điều học hỏi về phật pháp, không cho tán thất. Nghĩa đà la ni là duy tŕ yếu nghĩa của các giáo pháp không để cho quên mất. Chú đà la ni là duy tŕ các thần chú không để quên mất. Thần chú là những lời nói bí mật được phát sinh trong khi ngồi thiền định, những mật ngữ này có những hiệu lực linh nghiệm không thể đo lường được. Nhẫn đà là ni là an trú trong thực tướng của vạn pháp không để tán loạn."

 

Nguyễn Lang Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 trang 129 - 130

 

2, Lư Thần Tông hoá thân của Thiền Sư Từ Đạo Hạnh.

 

ly-than-tongThiền sư Từ Đạo Hạnh biết trước sẽ tái sinh trở lại " túc nhơn của ta chưa hết phải c̣n sanh lại thế gian nầy tạm làm vị quốc vương" để gánh chịu nghiệp quả tác tạo, nhờ người bạn đồng tu từ trước mới chửa khỏi chứng bịnh hoá hổ của ḿnh, âu cũng là túc duyên nhiều đời với nhau. Sự tái sanh của Từ Đạo Hạnh mang một ư nghĩa, phải nhận lănh nhân quả mà ḿnh đă gây ra, và cũng để chứng minh lư nhân quả không sai chạy. Việc dùng pháp thuật giết chết Đại Điên, nên thọ mạng Lư Thần Tông ngắn ngủi, chết năm 23 tuổi, việc vua hoá hổ có thể do xử dụng pháp thuật không phù hợp với chánh pháp nên phải bị quả báo như thế. Vua Lư Thần Tông cho xây dựng chùa Láng ở Hà Nội để thờ tiền thân của ḿnh, là thiền sư Từ Đạo Hạnh. 

 

Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua Lư Thần Tông và Thiền Sư Nguyễn Minh Không, cả ba nhân vật lịch sử nầy nối kết lại với nhau, trong sự tương duyên tương hợp, tạo thành những dấu ấn đậm nét, đầy tính kỳ bí không làm sao vén lên nổi. Ở đó là cả một sự kết hợp từ thời gian đến không gian, từ tiểu ngă đến đại ngă, từ con người đến tâm thức, từ quá khứ đến hiện tại, tuôn chảy mịt mùng đến tương lai, ẩn mang một thứ năng lực diệu kỳ, mà tầm nh́n giới hạn của tâm thức ta chưa có cơ may bén mảng đến được. Khi nào cả một vũ trụ mêng mang được tóm gọn trong ḷng bàn tay, uống được ngụm nước đầu nguồn, lúc đó mọi sự mới trở nên linh hiện sáng tỏ.

 

" Lư Thần Tông là con trai của Sùng Hiền Hầu - em trai của vua Lư Nhân Tông, tức là cháu gọi Nhân Tông bằng bác.

 

Có ư kiến cho rằng Lư Thần Tông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Sách Đại Việt Sử kư Toàn thư, quyển III ghi lại việc Từ Đạo Hạnh thoát xác tại chùa núi Thạch Thất năm 1116, ngay trước khi Lư Dương Hoán ra đời. Người xưa cho rằng v́ Lư Nhân Tông không có con nên Từ Đạo Hạnh đầu thai làm con trai Sùng Hiền hầu để duy tŕ sự nghiệp của nhà Lư.

 

Tháng 8 năm 1132, quân Chân Lạp và Chiêm Thành vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái úy Dương Anh Nhị đánh thắng được quân hai nước. Sang năm 1134, hai nước phải đến tiến cống.

 

Tháng 9 năm 1136, tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng lại mang quân vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái phó là Lư Công B́nh đi đánh bại quân Chân Lạp.

 

Vua Thần Tông đại xá cho các tù phạm và trả lại ruộng đất mà đă tịch thu của quân dân trước đó. Ông cũng thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính thay phiên nhau cứ sáu lần một tháng được về làm ruộng. V́ thế, việc sản xuất nông nghiệp của Đại Việt phát triển.

 

Tương truyền năm Thần Tông 21 tuổi (1136), bỗng nhiên mắc bệnh lạ, trên người mọc lông hổ, ngồi xổm chụp người, cuồng loạn, gầm gừ đáng sợ. Triều đ́nh phải làm cũi vàng nhốt Vua trong đó. Khi ấy có đứa bé ở Chân Định hát rằng:

 

 Nước có Lư Thần Tông,

 Triều đ́nh muôn việc thông.

 Muốn chữa bệnh thiên hạ,

 Cần được Nguyễn Minh Không.

 

Triều đ́nh sai quan chỉ huy đi đón sư Nguyễn Minh Không. Đến am, sư cười bảo: "Đâu không phải là việc cứu cọp đó ư?" Quan chỉ huy hỏi: "Sao thầy sớm biết trước?" Sư bảo: "Ta đă biết việc này trước ba mươi năm". Sư đến triều vào trong điện ngồi, lên tiếng bảo: "Bá quan đem cái đảnh dầu lại mau, trong đó để một trăm cây kim, và nấu cho sôi, đem cũi vua lại gần đó." Sư lấy tay ṃ trong đảnh lấy một trăm cây kim găm vào thân vua, nói: "Quí là trời". Tự nhiên lông, móng, răng đều rụng hết, thân vua hoàn phục như cũ. Vua tạ ơn sư một ngàn cân vàng và một ngàn khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa, ruộng này không có lấy thuế.

 

Lư Thần Tông ở ngôi hoàng đế được 10 năm, chỉ thọ 23 tuổi. Kết thúc thời vua Lư Thần Tông, nhà Lư đi vào thời ḱ suy vong".

 

3, Thiền sư Minh Không một con người độc đáo

 

Thiền sư Minh Không (1076 - 1141) c̣n gọi là Lư Quốc Sư, người sáng lập ra chùa Bái Đinh, thuộc đời thứ 12 ḍng Tỳ Ni Đa Lưu Chi.

 

" Sư tên Nguyễn Chí Thành, sanh ngày 14 tháng 8 năm Bính Th́n (1076) tại làng Loại Tŕ, huyện Chân Định, tỉnh Nam Định, thường cùng với Giác Hải, Đạo Hạnh làm bạn thân. Năm hai mươi chín tuổi, Sư cùng hai vị ấy sang Thiên Trúc học đạo với thầy Sa-môn, được phép Lục Trí Thần. Trở về quê, Sư tạo ngôi chùa Diên Phước, ở đó chuyên tŕ chú Đại Bi.

 

Bấy giờ, Sư muốn tạo Đại Nam Tứ Khí (tượng Phật, hồng chung, cái đỉnh, cái vạc) không nệ nhà nghèo sức mọn. Một hôm, Sư suy nghĩ: “Nước Tống ắt có nhiều đồng tốt, có thể dùng đúc được.” Nghĩ xong, Sư thẳng đường sang Bắc triều (Trung Quốc). Trước nhất, Sư ghé trọ một nhà trưởng giả xin mảnh đất bằng chiếc ca-sa để lập Kỳ Viên. Trưởng giả cười bảo: “Xưa kia Thái tử nhà Lương muốn lập Kỳ Viên, khoảng đất rộng đến ngàn dặm, lấy vàng lót đất. Tại sao ông chỉ xin mảnh đất bằng áo ca-sa, chỉ bằng chuồng gà mà làm ǵ?” Đêm ấy, Sư trải chiếc ca-sa khắp mười dặm đất. Trưởng giả thấy Sư có phép thần liền dẫn vợ con ra lễ bái, từ đây cả nhà đều qui y Tam Bảo.

 

Hôm khác, Sư đắp y mang bát chống gậy trước thềm rồng đứng khoanh tay. Vua Tống vào triều, bá quan văn vơ tung hô xong, xem thấy vị Sư già bèn triệu vào, hỏi:

 

- Thầy già ốm này là dân phương nào, tên họ là ǵ? đến đây có việc chi?

 

Sư tâu:

- Thần là kẻ Bần tăng ở tiểu quốc, xuất gia đă lâu, nay muốn tạo Đại Nam Tứ Khí, mà sức không tùy tâm, nên chẳng sợ xa xôi lặn lội đến đây, cúi mong Thánh đế mở rộng ḷng thương ban cho chút ít đồng tốt, để đem về đúc tạo.

Vua Tống hỏi:

- Thầy đem theo bao nhiêu đồ đệ?

Sư tâu:

- Bần tăng chỉ có một ḿnh, xin đầy đăy này quải về.

Vua bảo:

- Phương Nam đường xa diệu vợi, tùy sức Sư lấy được bao nhiêu th́ cho bấy nhiêu, đủ quải th́ thôi.

Sư vào kho đồng lấy gần hết sạch mà chưa đầy đăy, quan giữ kho le lưỡi lắc đầu, vào triều tâu việc ấy cho Vua. Vua ngạc nhiên hối hận, nhưng lỡ hứa rồi, không biết làm sao.

Sư nhận đồng xong, vua Tống sai bá quan tiễn Sư đưa về nước. Sư từ rằng:

- Một đăy đồng này, tự thân Bần tăng vận sức quải nổi, không dám làm phiền nhọc các Ngài tiễn đưa.

Nói xong, Sư bước ra lấy đăy máng vào đầu gậy nhẹ nhàng mang đi. Đến sông Hoàng Hà, Sư lấy nón thả xuống nước sang sông chỉ trong khoảng chớp mắt đă đến bờ.

Về nước, Sư đến chùa Quỳnh Lâm huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương đúc một tượng Phật Di-đà thật cao lớn. Tại kinh đô nơi tháp Báo Thiên, Sư đúc một cái đỉnh. Ở Phổ Loại, Sư đúc một quả đại hồng chung. Tại Minh Đảnh, Sư đúc một cái vạc.

Phần c̣n dư, Sư đem về chùa quê làng đúc một đại hồng chung nặng ba ngàn ba trăm cân, và đúc một đại hồng chung ở chùa Diên Phước Giao Thủy nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, Sư làm bài tán rằng:

Nón nổi vượt biển cả,

Một hơi muôn dặm đường.

Một đăy sạch đồng Tống,

Dang tay sức ngàn ngựa.

 

(Khấp phù việt đại hải,

Nhất tức vạn lư tŕnh.

Tống đồng nhất nang tận,

Phấn tư thiên câu lực.)

Thời vua Lư Nhân Tông kiến tạo điện Hưng Long cả năm mới xong, điện cực kỳ tráng lệ. Bỗng trên nóc có hai con chim cáp đậu kêu to, tiếng vang như sấm. Vua lo buồn chẳng vui, quan chỉ huy thấy thế tâu: “Điềm này chỉ có Minh Không và Giác Hải mới trừ được.” Vua bèn sai ông đi thỉnh Sư, ngày rằm tháng giêng, ông đến trước am Sư. Sư hỏi: “Quan chỉ huy sao đến chậm vậy?” Ông hỏi lại: “Sao Thầy biết trước chức của tôi?” Sư đáp: “Ta cỡi trăng đạp gió chợt vào thành vua, sớm đă nghe biết việc này.” Liền hôm ấy, Sư đến kinh đô, thẳng đến điện Hưng Long, Sư tụng chú thầm, hai con chim lạ ấy nghẹn cổ chẳng kêu, giây lát sau liền rơi xuống đất. Vua thưởng cho Sư một ngàn cân vàng, và năm trăm khoảnh ruộng để hương hỏa cho chùa và phong chức Quốc sư.

 

Đến năm Đại Định thứ hai (1141) Sư qui tịch.

 

 

Tượng Nguyễn Minh Không tức Lư Quốc Sư

 

Hiện nay tại Hà Nội, huyện Thọ Xương trước đền thờ Lư Quốc Sư vẫn c̣n tượng Sư và có bia kư. Dân chợ Tiên Du muôn đời hương khói phụng thờ. "

 

Thiền Sư Thích Thanh Từ, Thiền Sư Việt Nam, trang 141-144

 

4,  Rong chơi trong cơi tử sinh

 

Trong chúng ta, ai rồi cũng phải đi qua chặng đường tử sinh ly biệt, nó đến không hề báo trước, có lúc nhẹ nhàng khiến ta không nhận ra được, có khi dữ dằn khiến ta ngă qụy, nhưng không biết lúc nào cơn thịnh nộ thật sự đến một lần để quật ngă chúng ta? Lúc ấy không c̣n ǵ, ta sẽ phải bỏ tất cả để ra đi, nhưng đi với hành trang, tâm trạng nào trong cuộc sống hôm nay và ngày mai? Đi trong sự dẫn đưa của vô thường sanh tử, đi mà không lo sợ chùn chân lạc lối, không chán chường đau khổ, âu lo bám theo trên từng lối? Đi như là không đi mà là đi, như là có là không, thoạt ẩn thoạt hiện, một sự trở về tuyệt vời của thuở ban đầu, một sự đi tới mà không có đớn đau phủ ngập, không được mất hơn thua, không c̣n đàng trước mịt mờ phía sau bí lối? Một sự trở về uyên nguyên không thấy có kẻ đến đi, thong dong tự tại phổ cập trên từng đường nét, vô thường sanh tử đành chào thua bất lực, trước những con người tự tại giải thoát. Sự có mặt của họ ở trong cuộc đời nầy, chỉ là dừng chân hoá độ, thăm hỏi, vổ về, để rồi sau đó ung dung nhẹ bước ra đi v́ hạnh nguyện độ sanh khác " Thấy được chân như sạch khổ sầu " mà cuộc đời hoá độ của thiền sư Từ Đạo Hạnh đă minh chứng điều đó.

 

Có hai cách để được làm thân con người, một do nghiệp quả dẫn đưa, hai do hạnh nguyện độ sanh nung nấu, trở lại để hoàn thành sứ mạng nào đó, nếu không th́ khó làm thân con người trở lại. Bởi lẽ trong ba cơi sáu đường, chỉ có con người là ở giữa, không sướng quá, cũng không khổ quá, có trí tuệ nhận biết để tu tập thoát ly sanh tử. Chúng ta đang sống, đang trực diện, đang hít thở, có phải đó sự lựa chọn khôn ngoan khi đầu thai, hay là sự đẩy đưa của nghiệp quả số phận, mà chính ta không thể nào cưởng lại được? Ṿng luân hồi với vô lượng nguyên nhân, khiến cho ta có mặt ở nơi này, cảnh ǵới này mà không ở đâu khác, ta làm thân con ngươi mà không phải chúng sinh khác? Dù đến từ đâu, bất cứ nguyên nhân nào, th́ sự có mặt của ta trong cuộc đời nầy là điều không thể phủ nhận, khi đủ nhân duyên, nghiệp lực dẫn dắt, th́ ta có mặt. Trong sự đẩy đưa lắm lúc ta tưởng chừng đau đớn, hoá ra lại có cái may, may ở chổ ta có ư thức, gặp được Phật Pháp, tư duy nhận biết thế nào là phù hợp với chân lư, để từ đó nổ lực tu tập thoát khỏi sanh tử, để không uổng phí một kiếp người.

 

Tử sinh không c̣n là sự thách đố lo sợ, v́ đó là điều tự nhiên biến dạng được vận hành cho một dạng sống khác, nhưng nếu ta sống an lạc trong sự chuyển tiếp tái sinh hoan hỷ tuyệt cùng th́ có ǵ để phải lo sợ đợi chờ. Cánh cửa tử sinh chỉ làm run sợ cho những ai chưa một lần bước qua, chưa một lần đưa nó ra để ngắm nh́n, nhưng với kẻ giác ngộ từ đó thoát ra, vượt trên mọi lư lẽ biến dịch, há không phải vô nghĩa sao? V́ bi nguyện độ sanh " Thầy xưa mấy kiếp lại thầy nay " nên với thiền sư ngoài sanh không có tử, ngoài tử không có sanh, ngoài phiền năo không có bồ đề, tất cả chỉ là tương duyện tương hợp. Mấu chốt của vấn đề nằm ở chổ đạt được giác ngộ, và đạt như thế nào, giác ngộ điều ǵ, và có phải đại nghi là đaị ngộ?

 

Bài kệ thị tịch mà thiền sư Từ Đạo Hạnh để lại:

 

" Thu sang chẳng báo nhạn cùng bay

Cười lạnh trần gian khổ lụy đầy

Nhắn với môn đồ đừng luyến tiếc

Thầy xưa mấy kiếp lại thầy nay ".

Nguyễn Lang dịch, Việt nam Phật Giáo Sử Luận 1

 

Khi nào ta ung dung đi trên sanh tử như đi trên thảm hoa, th́ lối đi về nào mà không đẹp và thơ mộng? Sinh tử không c̣n là vấn đề lo sợ, không c̣n bí ẩn hù doạ, không c̣n nổi chán chường sợ hải nữa. Cái biên giới tâm thức sanh tử cũng chỉ là nhịp cầu nối liền cái nầy với cái kia, giữa hiện thực với phi thực, khi nào ta chưa thật sự nhận rơ th́ vẫn là một trở ngại khiến ta cứ thế mà lo sợ hụt hơi, cứ thế mà phải ra công nương nhờ sự cứu độ của kẻ khác, chứ không tự ḿnh làm chủ và định đoạt. Cái tâm thức sanh tử đó như thế nào khiến ta khủng hoảng, lo sợ đến độ tuyệt vọng mà lúc nào cũng mong thoát ra, mong đạt tới cảnh giới của Niết Bàn, nơi không c̣n tử sinh chi phối? Cười lạnh trần gian khổ lụy đầy "  nó ngang ngữa với câu của Không Lộ thiền sư ( ? 1119 ) " Một tiếng kêu vang lạnh cả trời ". Cả hai đều mở tung cánh cửa tử sinh và giác ngộ trong sự cùng tuyệt, vẫn c̣n là sự tra vấn mănh liệt ở trong ta. Có phải đây là lư lẽ của tương duyên, tương sanh, hể cái nầy sanh th́ cái khác cũng sanh, cái nầy diệt th́ cái khác cũng diệt?. Có sinh nên mới có tử, vậy nếu không sinh th́ lấy ǵ mà tử, không đến lấy ǵ để đi, không phiền năo th́ làm ǵ có niết bàn.? Thay đổi chuyển hoá được khuôn mặt to lớn nầy là phải trông thấy toàn diện đâu là bản chất như thật của nó, và đâu là mấu chốt của vấn đề? " Lẫn với bụi đời tự bấy lâu, chân tâm vàng ngọc biết t́m đâu " .Một dấu hỏi to lớn ta phải vận dụng hết sức lực b́nh sanh, mới mong t́m được câu trả lời thỏa đáng, và chỉ có chính ta mới đủ công năng để hoàn thành.

 

 Sự nhận biết về thực tại, về thế giới mà ta đang lặn hụp, nó không c̣n là điều mù mờ, mà được h́nh thành rơ ràng minh bạch bởi nhân quả, luân hồi, nghiệp lực dẫn dắt. Chính chúng ta phải tự quyết định, điều khiển, và chịu trách nhiệm về sự suy tư tác tạo của ḿnh chứ không ai khác. Chỉ khi nào ta nổ lực vượt ra ngoài sanh tử th́ nó mới không làm hề hấn, c̣n nếu không vẫn phải chi phối tác động bởi luật nhân quả. Vấn đề ta có can đảm hiên ngang nhận lănh những gieo rắc mà ta đă gây nên, có bằng ḷng an chịu không một lời than oán trong sự hoan hỷ? Chỉ có điều bằng ḷng cam chịu ấy, mới khiến cho ta đủ năng lực tự ḿnh vượt thoát, chấm dứt sự tác động, mà không cần trông chờ sự cứu độ nào đến từ bên ngoài, hoặc đến từ quyền năng siêu nhiên nào đó, trong khi trong ta đầy dẫy vô minh, tham sân si, phiền năo lúc nào cũng có mặt chi phối sai sử tác động. Và cũng chính từ sự phải trực tiếp nhận lănh hậu quả, nó c̣n mang một ư nghĩa ngăn ngừa, pḥng bị, tự ḿnh gánh chịu một cách b́nh đẳng với muôn loài. Điều đó giúp cho chúng ta nổ lực hoàn thiện để có được an lạc, hạnh phúc thật sự cho chính ḿnh, và với hạnh nguyện cho và v́ chúng sanh, có như thế ta mới chấm dứt được sự nhận lănh ân huệ từ một tha lực không có thật, chính sự trông chờ và không tưởng đó, đồng nghĩa với việc trao linh hồn cho kẻ khác định đoạt xử dụng, tước đi tự do, nhân cách, sự sống của chính ḿnh.

 

 Sau bao nhiêu thế kỷ con người bị bủa vây bởi sự toàn năng, tối cao, một thời đă thống trị, bức tử, hành hạ, không biết bao nhiêu thân phận con người, v́ sự lầm lỡ, không tưởng mê muội của một số người. Đă đến lúc mặt nạ đó phải được đập vở tháo bỏ, phơi bày sự thật ra trước ánh sáng. Những khoa học gia, những nhà vật lư học, phủ nhận sự có mặt ấy từ lâu rồi, chấm dứt sự đe doạ, ru ngũ về thiên đường và hoả ngục ảo vọng. Ư niệm về một đấng tối cao quyền năng, đă thật sự biến mất, từ lâu rồi, nhưng v́ ḷng tham sân si, họ dựa vào sự nhẹ dạ dễ tin, họ muốn cung phụng bản thân hay muốn hoàn thành điều ǵ đó, lại t́m cách núp bóng, nhân danh đấng vạn năng, để hù doạ ru ngũ dẫn dắt con người đi vào mê lộ, bằng chiếc vé lên thiên đường, hoặc đày xuống hoả ngục. Chúng ta đang ở vào thời kỳ tiến bộ của lư trí và khoa học, hầu như mọi vấn đề có thể t́m hiểu cặn kẻ, và phần nào lư giải được, ta cần nhận biết rơ ràng, ngoài nhân quả do ch́nh ḿnh tác tạo gặt hái, hoàn toàn không do một ai, có đủ năng lực để chi phối thay đổi được nghiệp quả. Sở dĩ điều đó vẫn c̣n tồn tại, là do sự nhận thức của con người c̣n thấp kém, chưa tự ḿnh nổ lực quật khai được chính ḿnh nên cứ măi lo sợ, cúi đầu núp bóng. Một khi bức màn tăm tối được vén mở, đấng mà ta tôn thờ toàn năng vạn năng đó, bổng như bọt biển, chúng ta khám phá nhiều điều thú vị, để tự ḿnh sáng soi thăng hoa cuộc sống, đưa con người xích lại gần nhau, cảm thông hiểu biết một cách rơ ràng minh bạch, tự ḿnh làm chủ, tự ḿnh nhận lănh luật nhân quả, nhưng cũng đừng bao giờ biến ḿnh thành cái hố thẳm, để chôn dấu sự bất hạnh, bằng cách đổ lỗi cho nghiệp quả số phận, như một sự trốn chạy né tránh. Chúng ta phải biết con đường để đi đến an lạc giải thoát là sự đối diện cam go với chính ḿnh, với mọi nghịch cảnh từ nội giới đến ngoại giới, nổ lực liên tục, đánh đổi thân mạng mới mong vượt thoát. Nó không có chổ đứng cho sự yên phận,đầu hàng, phó mặc, ỷ lại núp bóng.

 

6, Bài kệ siêu việt có không

 

Sau khi luyện thần chú báo thù cho cha xong, cơi ḷng ngài thanh thản không c̣n ǵ để vướng bận, ngài tự biết pháp thuật ấy không phải là cứu cánh trong việc thoát ly sanh tử, bởi lẽ nó đến từ sự hổ trợ nào đó, chứ không phải là năng lực như thật, một khi ta xử dụng không đúng mục đích, không phù hợp với chân lư th́ sẽ bị hậu quả trái ngược. Khi nghe Kiều Trí Huyền hoá đạo ở Thái B́nh, ngài đến tham vấn, nói kệ hỏi về chơn tâm, lời giải đáp của Trí Huyền vẫn chưa khiến ngài thấu rơ nguồn cơn, măi cho đến khi gặp được thiền sư Sùng Phạm đang mở trường dạy chúng ở chùa Pháp Vân th́ mọi việc mới trở nên rơ ràng. Cũng câu hỏi đó, cũng con người đó, nhưng giờ đây tất cả vở tung ra, khiến ngài nhận ra bản thể vi diệu của Chân Tâm đang có mặt ở trong ngài tự bao giờ. Từ đó quyết ḷng tu tập không xao lăng, đạo pháp càng thăng tiến, duyên thiền càng chín mùi.

 

Chân Tâm, Chân Như ra làm sao mà thiền sư Đạo Hạnh phải lặn lội t́m kiếm? Không chỉ có mỗi một thiền sư Từ Đạo Hạnh ra công t́m cầu, mà tất cả chúng ta nếu muốn giác ngộ, cũng phải nổ lực truy lùng cho đến cùng. Đó là bản thể, tự tánh, tịch nhiên vô tận bất biến xưa nay, không hề thay đổi biến chất, nó sẵn có trong ta và tất cả chúng sanh, nhưng v́ măi mê rong chơi trong thế giới hổn độn, bị vô minh phủ che không thấy đâu là bến bờ, không nhận ra đường xưa nẽo củ, măi lo vọng động theo tướng theo h́nh, theo phiền năo tham sân si, lúc nhớ lúc quên, lúc say lúc tỉnh, tất cả được ta gom lại chất thành đống, không rơ nguồn cơn, phân biệt đâu là đâu, lẫn lộn, loanh quanh mịt mờ tăm tối. Chỉ khi nào tuệ giác soi chiếu, ta giật ḿnh tỉnh thức nhận ra sự diệu dụng vô cùng không tận của nó, như " đói ăn khát uống " không so đo tính toán chần chờ, một sự vở tung phủ ngập cả càn khôn trong tích tắc của sát na bừng dậy. Điều đó không phải viễn ảnh khiến ta khó ḷng nhận thấy, ở đây và ngay lúc nầy, trong mọi tác động hằng ngày ở chung quanh, thay v́ theo cảnh theo tâm ta xoay vào quán chiếu ở bên trong, không một phút giây xao lăng, cái hiện thực mà ta đang tác động hít thở, cái sự sống mà ta đang chung đụng ấy, chỉ cần b́nh tâm dừng lại soi thấu ta sẽ thấy rơ được cái thực tại linh hiện nầy đang có mặt. Dĩ nhiên ta đừng vận dụng đến sự lôi kéo của vô minh, năo phiền, dẫn đưa của tri thức, phải trang bị sẵn cho ḿnh sự thức tỉnh trên từng suy tư hành hoạt, chúng ta nổ lực thẩm tra hoán chuyển, để cho bản chất sẵn có của Chân Như tự nhiên hiển lộ toả sáng, tất cả mọi tác động từ trong đến ngoài, từ nội giới đến ngoại giới, đều ẩn chứa sự linh hiện tṛn đầy, ta không dùng đến cửa ngơ lư luận biên kiến nhị nguyên, tính toán so đo. Nếu cứ măi làm nhịp cầu để cho tâm thức, dẫn đến sự bày biện sắp đặt sẵn có của vô minh, th́ làm sao ta có thể phá vở được sự khống chế bất tận của nó? Chúng ta măi lo bon chen, bỏ mất bản tâm, để cho vô minh đưa đường chỉ lối, nên cứ măi luân hồi lẫn quẩn trong ba cơi sáu đường, khi nào ta tỉnh thức, nhận biết tỏ tường minh bạch, biết cách đoạn trừ vô minh, trục xuất tham sân si ra ngoài, phủi sạch trần lao, th́ lúc ấy Chân Tâm sẽ hiển lộ tṛn đầy.

 

Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không

Hữu không như thủy nguyệt

Vật trước hữu không không.

 

Dịch nghĩa;

 

" Nhận thế giới là có th́ cát bụi đều có

Nhận là không th́ hết thảy đều không

Có và không ví như trăng dưới nước, nước có

th́ trăng có, nước không th́ hết có bóng trăng

Chớ nên chấp vào "có " " không " là không ".

 

Nguyễn Đăng Thục dịch, Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập 3 trang 50

 

Dịch thơ:

 

Có th́ có tự mảy may

Không th́ vũ trụ này cũng không

Có, không: bóng nguyệt ḷng sông

Cả hai tuy vậy chẳng không chút nào.

Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1 trang 127

 

Bài kệ "Có" " Không " tuyệt vời của ngài, cho đến bây giờ vẫn vang động trong thiền môn, soi sáng trong tận cùng tâm thức, mở ra phương trời sáng tỏ, ở đó không có lẫn lộn mơ hồ níu kéo, mà là sự siêu việt tuôn chảy bất tận trên từng hiện hữu, vượt thoát ra ngoài có không, thong dong trên từng nẽo đến đi vô tận. Nhận thức một cách tinh tường soi thấu, cái có quyện với cái không, cái không quyện với cái có, hai thể ấy bổng nhiên hoà nhập thành một thể duy nhất vượt thoát ra ngoài, không lưu lại dấu, có mà không, không mà có, phá vở mọi ngăn ngại lầm chấp, hiển lộ nên thực thể tṛn đầy chiếu sáng từng bước đi trên lối về giác ngộ, trong sự vượt thoát tối thắng của kẻ uống được ngụm nước đầu nguồn.

 

Truy t́m căn nguyên và ư lực tạo nên những chất liệu tối cần cho hành tŕnh dài lâu của tư tưởng, ta xác quyết đúng mức rằng, sự h́nh thành của một tâm năng tự tại mà hầu hết những thiền sư ung dung qua lại, là nhờ vén mở được thực thể của vũ trụ hợp nhất với con người trong sự cùng tuyệt, gồm những tương quan tác động từ nội tại đến ngoại, từ vị thế nhỏ nhoi của con người đến đại thể bao la không biên giới, giác ngộ và mê mờ, sanh tử niết bàn, tất cả tạo thành chuổi dài liên kết bất tận. Cái tâm để tạo nên để vén mở đó đều phải đi qua quá tŕnh khó khăn phức tạp, phải được khai thác tối đa vận dụng đến tất cả năng lực nội tại tàng chứa sẵn trong mỗi chúng ta, từ phiền năo tử sinh đến thường hằng giác ngộ, những sai sử của ư thức vọng động, kể cả những điều mà trước đó ta ra công truy đuổi, những tên giặc chuyên đưa ta trôi lăn trong triền phược. Nếu nó đă từng gây khổ đau hệ lụy cho ta ,th́ cũng chỉ có chính nó mới khiến cho ta đổi thay bộ mặt ngh́n đời chôn dấu ấy, bằng cách sáng soi làm bạn đồng hành vượt thoát.

 

Khi để tâm vào một điểm duy nhất, dùng tất cả năng lực b́nh sanh liên tục quán chiếu vào tận cùng thể tánh, đến khi lớn mạnh, nó sẽ tức khắc bùng vở. " Để tâm trụ lại một chổ, th́ lhông việc ǵ mà không thành." Tâm là chủ thể của mọi nguồn cơn, dẫn ta trôi lăn trong sanh tử, nhưng cũng đưa ta đến cửa ngơ của giác ngộ, ta có nổ lực quyết chí để hoàn thành con đường tối thượng đó hay không? Những tác động về thực tại đ̣i hỏi ta phải nổ lực liên tục trong từng phút giây hơi thở, trong từng sát na của suy tư, phải sống tỉnh thức trong hiện thực đừng để cơ hội nào cho vô minh phiền năo đến gần. Khi ta thật sự tống xuất được vô minh, dĩ nhiên không phải bằng cách biến nó thành tiêu điểm để ta măi mê trút mọi thứ vào, th́ nó trở thành bạn đồng hành trên con đường trở về mái nhà xưa của Chân Như. Ta phải chuyển hoá đẩy bung lột xác, gột rửa thân tâm để cho tinh tựng trong suốt, không vướng bận th́ mới có được sự an lạc phủ vây. Ư thức minh mẫn trong từng hành hoạt khởi dụng, quật tung hất trọn tất cả, để cho giác ngộ có cơ may châm ng̣i trổi dậy.Sự tiến bộ của một tâm linh, đó là thức tỉnh và an lạc, nội tâm an tịnh không giao động, không bị ngoại cảnh chi phối, tỉnh thức là sự gạn lọc lắng đọng sự vẫn đục nơi tâm thức, lau chùi mài dũa tinh luyện để cho chơn tâm hiển lộ. Lúc nào mà ta chưa nhận chân ra được cái toàn thể tính của không vọng tâm móng ư, th́ ta vẫn măi là kẻ lữ hàng cô độc lang thang trên mọi lối về, bị sai sử dẫn dắt đi vào mê lộ, ru ngũ núp bóng trá h́nh nào đó do vô minh chủ động. Ư lực nào khiến ta có thể tóm thâu được điều nầy, có phải sự tỉnh thức toàn diện liên tục nổi lên, và ngộ là ngộ tức khắc không c̣n đi qua thứ lớp, không có kiểu nửa chừng. Trên b́nh diện đạt được sự an lạc th́ những ǵ ngăn ngại, niú kéo, cho dù sanh tử hay niết bàn, nếu không buông bỏ gạt phăng, th́ vẫn c̣n là một nổi trôi vi tế bám chặt theo ta trên mọi lối. Ta cần phải quật tung sự bí ẩn đó, đẩy nó vào tận cùng không c̣n có cơ hội nào theo đuổi, dù chỉ trong tích tắc, thường sống trong sự tuyệt luân không có biên kiến, nhị nguyên, đôi bờ, đôi ngă. Tâm của ta không thể rờ mó xúc tác thăm hỏi được, nó là bản thể vi diệu mà phần hoạt dụng biểu hiện ra bao trùm lên tất cả, nhưng không có nghĩa tất cả đều do nó tác tạo, mà không có sự soi thấu chăm sóc của ta, không khéo lạc xa ngàn trùng. Làm sao ta nhận biết được đâu là bản thể vô cùng của nó, vượt thoát ra ngoài chân vọng, có không, đạt được cái chân tâm tṛn đầy viên dung vô ngại, bất biến vô tận xưa nay, để từ đó ta thâu tóm nó lại trong cuộc dẫn đưa của vô thường sanh tử.

 

Sự lôi kéo, xúi dục, mời gọi, dẫn dắt của vô minh bám theo ta từng suy tư, từng phút giây, v́ thế tất cả mọi nổ lực trăn trở để hoàn thành, đều phải tác động ngay trong sát na nầy, con người nầy, cảnh giới nầy, giây phút nầy, cho đến khi nào vở tung ra. Lúc ấy ta mới thong dong đi lại mà không hề lo sợ lạc lối, một sự đến đi vượt thoát trong vô cùng không tận, và đâu là lối đi nẽo về không có bóng dáng của " có không ".

 

Hơn nữa, trong văn bản tuân thủ nghiêm ngặt việc kiêng húy chữ (th́) đổi viết thành chữ (th́n) đời vua Thành Thái (1889-1907)[2]; hoặc như chữ (Ba) trong tên chùa (Ba Lăng) ở xă Thượng An Quyết, huyện Từ Liêm xưa là do kiêng húy chữ (Hoa) trong tên chùa là (Hoa Lăng) đổi viết thành (Ba)[3] ... Từ những cứ liệu trên có thể xác định, tác giả Sự tích Thánh Phụ là quan Quang lộc tự khanh triều Nguyễn - Tú tài Măo khoa Nguyễn An Lan, tự là Hải Văn[4]. Niên đại văn bản vào khoảng đời vua Thành Thái (1889-1907) trở về sau, và ḍng niên hiệu ở cuối văn bản ghi là “Đối chiếu với chính bản ngày 25 tháng 9 mùa thu năm Bính Tuất”, nên văn bản được hoàn thành chính xác vào ngày 25/9/năm Bính Tuất 1946.

 

Nội dung thần tích gồm hai phần. Phần một về sự tích Thánh Phụ Từ Vinh ở An Lăng và Phần hai về lai lịch thiền sư Từ Đạo Hạnh. Dưới đây chúng tôi dịch theo nguyên bản Sự tích Thánh Phụ:

Đại vương họ Từ, tên húy là Huệ, tên lúc nhỏ là Đăng Vinh, người trại An Lăng huyện Vĩnh Thuận (tức nay là huyện Hoàn Long)[5], làm quan Chánh Đô sát viện[6] triều Lư. Lúc trẻ theo học thầy Đôn Minh (ở núi Câu Lậu huyện Thạch Thất). Vương bẩm tính thông tuệ dị thường nên được thầy dạy cho các phép thuật bí truyền kỳ lạ, tất cả đều thông hiểu, chuyên tâm nghiên cứu, ngày càng tinh vi, biến ảo khôn lường, phàm có thi đấu không ǵ là không hiệu nghiệm. Sau đó vương cáo biệt trở về nhà cũ (tức nay là chùa Nền là nơi sinh của Thánh)[7], truyền dạy riêng cho con trai là Đạo Hạnh.

 

Thời ấy vua triều Lư tôn sùng Phật giáo, vương bèn dự thi đỗ đầu, được tuyển chọn hậu bổ Chương Đài đạo pháp, hưởng ân sủng của vua ban cho ngày càng nhiều. Thời ấy các nhà vương công, thế tộc, b́nh dân ai có việc cầu đảo th́ vương giúp lập đàn tràng, niệm chú bắt quyết, đều rất ứng nghiệm. Vương vốn có phép ảo hóa nên thường đem ra thí nghiệm, ngẫu nhiên thử cho nhà Diên Thành hầu xem, chẳng ngờ bị Lê Đại Điên ở xă An Quyết[8] cũng là tay kiệt xuất về phù chú, truyền phép thuật cho Diên Thành hầu giết chết vương (ngày mồng 10 tháng Giêng) rồi ném xác xuống sông Tô Lịch. Xác trôi đến bến Hồng Diên thôn Thượng Đ́nh, xă Nhân Mục Cựu, huyện Thanh Tŕ (tức nay là xứ Hàm Long)[9], khi ấy người làng trông thấy, bèn đón xác lên chôn ở bên sông (tức nay là Thánh lăng). Sau khi chôn cất xong, ban đêm thấy thần linh báo mộng, người làng bèn dựng miếu phụng thờ làm Bản cảnh Thành hoàng.

 

Năm Tân Mùi triều Lư[10], thần được sắc phong làm Bảo quốc Anh liệt Diệu cảm Chiêu ứng Thông huyền Hiển thánh Đại vương; lại cấp ruộng là 10 mẫu để cung cấp việc cúng tế giỗ chạp (mỗi giáp canh tác trồng trọt 6 sào ruộng. Ngày giỗ mồng 10 tháng Giêng hàng năm kính lễ mâm xôi, chuối tiêu). Mỗi dịp lễ tết được ân điển của triều đ́nh phong tặng sắc văn, nhưng lâu ngày giấy cũ mất mát không thể ghi chép hết được. Một đạo sắc văn của triều Nguyễn phong làm Dực phù Trung hưng chi thần được cất giữ cẩn thận trong ḥm vẽ rồng sơn son. Hàng năm khi gặp hạn hán, kính rước thánh giá cầu đảo thật là linh ứng. Trải mấy ngàn năm linh thần hiển hách như vẫn c̣n đây!

Vương phu nhân họ Tăng, tên húy là Loan. Chùa Ba Lăng ở xă An Quyết Thượng, huyện Từ Liêm[11]cúng tế bà, hàng năm ngày giỗ là mồng 10 tháng Tư.

 

Tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh

Con trai của vương tên húy là Lộ, tự là Đạo Hạnh, có tiên phong đạo cốt. Thuở niên thiếu thích giao du, hào hiệp phóng khoáng, chí lớn phi phàm, hành động cử chỉ không ai có thể lường được. Đêm th́ mải miết đọc sách, ngày th́ đá cầu thổi sáo đánh bạc, ham sự chơi bời. Cha thường trách con là lười nhác không nghiêm túc. Một đêm bí mật ḍm qua khe cửa, thấy trong pḥng ánh đèn rực rỡ, sách vở chồng chất, Đạo Hạnh th́ gục xuống án mà ngủ nhưng tay vẫn không rời sách, cha ông v́ thế không c̣n lo lắng nữa.

 

Năm sau Đạo Hạnh dự thi khoa Bạch Liên, đỗ Đệ nhất danh (triều Lư có kỳ thi riêng cho tăng đồ tức là khoa này). Nhưng sau đó cha gặp nạn bị giết chết, ông ngày đêm đau đớn xót thương, nung nấu mối thù không đội trời chung, chỉ lo tính việc báo thù cho cha mà chưa có cách nào. Một hôm ŕnh lúc Đại Điên đi ra ngoài, Đạo Hạnh định lấy cây pháp trượng đánh theo cái bóng của y th́ bỗng nghe trên trời có tiếng thét ngăn lại, thế là ông quăng gậy trở về, ḷng càng thêm căm phẫn. Ông bèn rủ bạn là Minh Không và Giác Hải cùng đến Tây Thiên Ấn Độ để cầu phép lạ. Đường đi qua đất rợ Kim Sỉ[12] hiểm trở, muốn quay về th́ bỗng thấy một cụ già chèo chiếc thuyền nhỏ nhàn du trên sông, ba người vái chào cụ già và hỏi đường đi đến Tây Thiên c̣n bao xa? Cụ già đáp rằng: “Đường núi cao hiểm trở không thể đi được, lăo đây có một chiếc thuyền nhỏ có thể giúp đưa qua sông”, bèn lấy cây tiểu trượng chỉ thẳng về Tây quốc[13], trong chốc lát đă đến bờ, Minh Không và Giác Hải theo cụ già lên bờ, c̣n ḿnh Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền đến 3 ngày mà không thấy hai bạn trở lại, không biết tin tức ra sao. Bỗng nhiên thấy một bà lăo, Đạo Hạnh hỏi rằng: “Cụ có nh́n thấy hai người đi cầu đạo pháp qua đây không?”. Bà lăo đáp: “Hai người đă thụ phép lạ của ta và quay trở về rồi”. Ông bèn nói: “Đệ tử chúng con nghe tiếng tôn sư linh dị, phép thuật biến hóa ứng nghiệm vô cùng, v́ thế từ nơi xa đến đây mong được thu nhận dạy bảo, xin muôn phần cảm tạ!”. Bà lăo bèn dạy cho tất cả các phép thuật linh dị, Đạo Hạnh đều lĩnh hội sâu sắc, tự cảm thấy lục trí viên thông, đạo pháp đă thành, bèn cáo từ trở về nhà cũ ở An Lăng, ngày đêm tu luyện t́m cách báo thù. Một hôm tự ḿnh đến cầu An Quyết sông Tô Lịch phóng cây trượng sắt ngược ḍng nước chảy như tên bay, đến cầu Tây Dương[14] th́ dừng lại. Mọi người nh́n thấy đều kinh ngạc báo cho Đại Điên biết. Đại Điên bèn đến bên sông đứng xem, cây trượng lập tức nảy lên đánh vào trán, Đại Điên chết ngay và rơi xuống nước, ông liền dùng phép niệm chú khiến cho xác Điên phóng theo sông Tô Lịch mà trôi đi. 

Việc báo thù đă xong, oán thù xưa đă hết và ḷng trần đă nguội, Đạo Hạnh bèn đến chùa Thiên Phúc ở núi Sài Sơn để tu luyện đạo pháp như trước kia. Từ đó pháp lực càng tăng, ḷng thiền càng chín, có thể khiến cho các giống sơn cầm dă thú đều đến vây quanh hiền lành thuần phục, bấm đốt ngón tay cầu đảo mưa rơi, phun nước trị bệnh, không lúc nào không hiệu hiệm, nhân dân một vùng ngưỡng trông thần hiển linh phù trợ!

 

Ngày trước phóng xác Đại Điên thuận trôi theo ḍng nước đến phủ Thanh Hoa Tràng An (tức nay là tỉnh Ninh B́nh) có một khúc cong như h́nh cái mũ trang sức ở đầu ngựa, hồn của xác ấy liền nhập vào đứa trẻ 3 tuổi tự xưng tên là Giác Hoàng là con của vua. Khi ấy vua Lư Nhân Tông không có con nối ngôi, làm lễ cầu đảo nhưng không hiệu quả. Tháng 3 năm Ất Mùi[15] người ở phủ Thanh Hoa tâu tŕnh lên rằng, ở băi “mũ ngựa” bên bờ biển có một đứa trẻ 3 tuổi linh dị tự xưng là con vua, dung mạo thanh tú đẹp đẽ, thông hiểu mọi sự lư, phàm những việc trong cung vua không ǵ là không biết. Vua Nhân Tông bèn sai sứ giả tới xem quả đúng như lời nói, bèn đón về kinh sư, cho ở tại chùa Báo Thiên. Nhà vua thấy đứa trẻ thông minh nên rất mực yêu quư, muốn lập làm Hoàng Thái tử.

 

Triều thần ra sức khuyên can cho là không thể được và tâu vua rằng: “nếu đứa trẻ kia quả thực là linh dị, tất phải thác sinh ở nơi cung cấm th́ sau mới lập được”. Nhà vua nghe theo, bèn mở đại hội 7 ngày đêm để làm phép thác thai tại chùa Báo Thiên. Từ Đạo Hạnh nghe tin bèn nói rằng: “Đứa trẻ kia là yêu ma quái dị, mê hoặc nhân tâm quá lắm! Huống hồ nó mà thác thai làm con vua th́ nhà ta sao có thể bảo toàn?”. Nhân có chị gái là Từ nương làm thị nữ trong triều, cũng là người túc trực ở thai đàn, ông bèn bí mật đưa cho Từ nương mấy viên ấn phù và tấm bùa chú bảo đặt ở trên rèm. Hội đă qua 3 ngày đêm nhưng Giác Hoàng không thể đầu thai được và lại bị đau lưng, bèn tâu lên rằng: “Khắp biên giới trong nước đều có lưới sắt vây che, cửa khóa mấy tầng, cẩn mật kiên cố, mọi lối đi đều bị chẹn kín, tuy muốn thác thai mà sợ không được vậy”. Lời tâu chưa hết th́ bỗng nhiên ngă lăn ra chết. Vua Nhân Tông rơi lệ thương tiếc, sai người kiểm soát trong ngoài đạo tràng tất cả mọi nơi, quả nhiên t́m được một dải mấy viên ấn phù ở trên rèm. Tra hỏi những người túc trực th́ Từ nương tự nói rằng, có em trai là Từ mỗ bảo đặt lên, c̣n ḿnh không hề biết ǵ về việc ấy. Nhà vua bèn cho gọi Đạo Hạnh đến lầu Hưng Thánh, hội họp các bá quan văn vơ cùng bàn bạc.

 

Triều thần tâu rằng: “Bệ hạ đă không có con nối ngôi nên lập đàn cầu đứa trẻ ấy thác thai, thế mà dám càn rỡ tự ư giải chú, đáng phải luận trọng tội để tạ lỗi với thiên hạ”. Chỉ có hoàng thân Sùng Hiền hầu vốn biết ông là người đắc đạo chân nhân, bèn tâu rằng: “Đạo Hạnh lục trí thần thông, thiên hạ đă biết từ lâu.

 

Thiết nghĩ Giác Hoàng nếu có thần lực th́ Đạo Hạnh làm sao có thể tiêu trừ được. Nay v́ Giác Hoàng mà luận tội Đạo Hạnh th́ có ích ǵ với quốc gia? Huống hồ Đạo Hạnh có thể bay trên không, đi qua biển, niệm chú làm cầu qua sông, dù là hoàn cảnh gian nan nguy hiểm thế nào cũng không hề ǵ. Vả lại bút lực của triều đ́nh, chẳng ǵ bằng sự bao dung để mở rộng ân điển. Hoặc như những lúc cần hô phong hoán vũ gọi gió cầu mưa th́ biết đâu chẳng giúp ích ǵ cho tương lai? Thần cúi xin được khoan xá!”. Nhà vua bằng ḷng và Đạo Hạnh được tha về. Sùng Hiền hầu bèn mời ông về nhà ḿnh để chúc mừng, ông nói rằng : “May được quan nhân cứu giúp mà mỗ tôi được bảo toàn. Một tấm chân tâm ngang tàng, thân này không biết lấy ǵ để báo đáp, nguyện xin được thác thai cung để cảm tạ ân đức lớn”, hầu nghe lời nói hợp ư liền gật đầu đồng ư.

 

Chỉ trong phút chốc, phu nhân của Sùng Hiền hầu ở trong buồng tự nhiên cảm thấy thân ḿnh động đậy như có thai, bèn báo sự việc cho hầu. Hầu đă biết trước điều ấy nên bí mật nói với phu nhân rằng: “Nếu soi trong nước thấy h́nh th́ chân nhân đă nhập vào thai cung của ta rồi, hăy thận trọng đừng sợ hăi nghi ngờ ǵ”. Đạo Hạnh lại nói với hầu rằng: “Nhân duyên kiếp trước được làm nghĩa cha con, nay đă đầu thai làm con nối dơi của hầu, xin từ biệt trở về”, và c̣n dặn thêm rằng: “Đến kỳ sinh nở tất phải đến báo cho biết trước!”. Đến tháng, phu nhân động sản khó sinh, gia nhân báo với hầu, hầu nói rằng: “Cần phải báo gấp cho tôn sư để biết điều tốt xấu”, bèn ruổi xe đến báo cho Đạo Hạnh.

 

Ông được tin liền nói với môn đồ rằng: “Nhân duyên kiếp trước chưa hết, c̣n phải thác sinh làm vua. Nếu thấy thân thể ta bị tổn hoại là thai cung của ta đă thâm nhập vào bùn đất (tức là niết bàn vậy)”. Các môn đồ nghe thế, ai cũng cảm động mà khóc. Ông đọc kệ xong bèn leo lên động, đập đầu vào tường đá, rồi dậm chân lên bàn đá nghiễm nhiên mà hóa (tức nay là động Thánh Hóa trên núi Sài Sơn, dấu vết vẫn c̣n), lúc ấy là giờ Ngọ ngày mồng bảy tháng ba năm Bính Thân đời Lư Đại Khánh năm thứ bảy[16]. Đạo Hạnh nhập vào cơi niết bàn và hóa, ra đời làm con của Sùng Hiền hầu, không dưỡng dục mà ngày càng lớn; không giáo huấn mà thông minh, dung nhan tuấn tú đẹp đẽ, tài hùng biện không ai sánh bằng.

 

Tháng Giêng năm Đinh Dậu[17] vua Lư Nhân Tông mộng thấy thần nhân đọc thơ rằng: “Dục tri vị lai quả, Vu kim kiến thánh hiền. Bất cầu nhi tự hoạch, Chỉ thị đăi tam niên” (Muốn biết kết quả tương lai, Đă thấy thánh hiền trước mắt. Không cầu mà tự có, Chỉ phải đợi ba năm). Trước đó nhà vua chưa có con nối ngôi, việc ban chiếu thư để cầu t́m con đồng tông thừa kế c̣n chưa quyết định. Đến năm Mậu Tuất[18] nhà vua tuổi tác đă hơi cao, bèn ban chiếu thư xuống cho con trai của các em ruột nhà vua là Sùng Hiền hầu, Thành Khánh hầu, Thành Chiêu hầu, Thành Quảng hầu và Thành Hưng hầu vào cung để giáo dục chọn người tài giỏi lập làm Hoàng Thái tử, ông[19] là người được lựa chọn vậy. Khi ấy ông mới lên ba tuổi, thông tuệ minh mẫn, nghe một biết mười, ứng đối tiến thoái không ǵ không hợp ḷng thánh thượng. Vua Nhân Tông vô cùng yêu quư, đặt tên là Dương Hoán và lập làm Hoàng Thái tử, sai Thần Anh nguyên phi làm mẹ nuôi dưỡng. Năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên Phù nguyên niên[20] vua Nhân Tông băng hà, ông lên ngôi (13 tuổi), đổi niên hiệu là Thiên Thuận nguyên niên[21]. Đến năm Bính Th́n[22], thân ḿnh ông tự nhiên mọc nanh vuốt rồi không lâu sau biến h́nh thành hổ, danh y khắp nơi đến chữa bệnh đều không khỏi. Minh Không và Giác Hải nghe tin ông mắc bệnh “kim sang”[23] th́ thấy quả nhiên nghiệm với lời nói trước đây (ngày trước ông cùng với Minh Không và Giác Hải đi học tiên thuật đắc đạo, lúc trở về ông đi lên trước biến thành h́nh hổ để đùa bạn), bèn làm bài ca dao dạy cho trẻ nhỏ hát rằng: “Dục an thiên tử tật, Tu đắc Nguyễn Minh Không” (Muốn chữa bệnh nhà vua, phải t́m Nguyễn Minh Không). Triều thần bèn theo lời trẻ nhỏ hát, sai sứ giả đi t́m. Nghe nói hai vị sư Minh Không và Giác Hải trụ tŕ ở chùa Liêu Thủy, sứ giả cùng binh lính 16 người chèo thuyền đến chùa bái kiến, thiền sư bèn lấy một cái nồi nhỏ nấu cơm và bảo họ rằng: “Bần tăng có ít cơm ăn tạm!”. Quân lính ăn đều no bụng nhưng không thể hết được. Ăn xong th́ hai vị thiền sư theo sứ giả xuống thuyền, Minh Không nói với họ rằng: “Mọi người hăy tạm đi ngủ và nghỉ ngơi, đợi nước triều dâng th́ khởi hành lên kinh”. Thế là mọi người đều xuống thuyền ngủ, thuyền đi như bay, ngày hôm sau đă đến bến Đông, thiền sư bèn gọi mọi người dậy, đă nh́n thấy chùa Báo Thiên, ai nấy đều kinh phục. Hai vị thiền sư theo sứ giả vào cung vua. Khi ấy các bậc danh sư trong thiên hạ ngồi la liệt, thấy Minh Không hèn mọn quê mùa th́ xem thường không thèm đứng lên chào. Minh Không bèn lấy ở trong túi ra một chiếc đinh sắt dài năm tấc rồi dùng tay đóng vào cột điện, đinh ngập sâu vào quá nửa, ông nói với mọi người rằng: “Ai có thể nhổ được chiếc đinh này th́ chữa được bệnh cho vua”. Nói như vậy mấy lần, không có ai dám nhổ. Minh Không bèn dùng hai ngón tay phải mà nhổ, đinh theo tay bật ra, bèn bảo lấy cái vạc lớn, 12 hũ dầu, 100 cái kim và 1 cành ḥe, đốt lửa nấu, rồi sai khiêng ngọc giá đến đàn. Minh Không bảo Giác Hải đốt lửa suốt mấy ngày liền, bèn tḥ tay vào trong vạc dầu đang sôi sùng sục lấy ra đủ 100 cái kim. Giác Hải lại bảo Minh Không làm phép, lấy cành ḥe nhúng vào vạc dầu rồi rắc vảy lên ngọc thể nhà vua, quát to rằng: “Bậc thiên tử tôn quư cớ sao mà lo buồn phát bệnh như vậy?”. Thế là tất cả lông lá, nanh vuốt đều rụng hết, nhà vua lại ở ngôi đế vị như xưa. Khi đó Minh Không có bài kệ rằng: “Kỳ lân đồ hậu mạt, Nguyệt vọng đáo trung thiên” (Kỳ lân dự liệu về hậu thế, Mặt trăng và mặt trời gặp nhau ở giữa trời)[24]. Mọi người không ai hiểu lời nói đó. Đến ngày 26 tháng 9 năm Canh Thân[25] nhà vua thăng hà, miếu hiệu Thần Tông tức là hậu thân của Đạo Hạnh vậy. Ngày ông thăng hà th́ nhà cũ ở chùa Sài Sơn linh khí chấn động[26], dân làng thấy thế kinh sợ lạ lùng đem việc tâu lên, vua nối ngôi liền sai triều quan đến tế lễ, trùng tu miếu vũ, ban phong miếu hiệu, bốn mùa cúng tế. Hàng năm mồng 7 tháng 3 là ngày sinh nhật tiền thân[27], có lệ phụng nghênh thánh giá đến xứ Hương Sơn quán để lạy chầu Thánh tổ. Cũng như chùa Chiêu Thiền ở xă An Lăng huyện Từ Liêm phụng nghênh thánh giá đến lạy chầu Thánh tổ ở Thánh am xứ Hàm Long, thôn Thượng Đ́nh (nếu gặp năm hạn hán th́ rước thánh giá đến chầu lạy Thánh tổ cầu đảo vô cùng linh ứng). Trai gái bốn phương cùng hân hoan dự hội, đây là lễ hội lớn của một vùng vậy! [28]

 

 

Tác giả: Nguyễn Thị Ngân và Nguyễn Thiên Lư

Bài đă đăng trên: Tạp chí Văn hóa Nghệ An

 

 

[1] Nguyên bản 記,附 (An Lăng Từ Thánh Phụ sự tích lược kư, Phụ biên Đạo Hạnh lai lịch) hiện được lưu giữ trong ḍng họ nhà văn Nguyễn Tuân (1910-1987). Qua PGS. Phạm Tú Châu (Viện Văn học) giới thiệu và xin ư kiến đồng ư của con cháu ḍng họ nhà văn, chúng tôi gửi bản thần tích này tới Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2012. Nhân đây chúng tôi xin bày tỏ ḷng cảm ơn sâu sắc.

 

[2] Xem Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ Húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb Văn Hóa, 1997.

[3] Chùa Hoa Lăng ở xă Thượng An Quyết sau đổi là xă An Ḥa thuộc quận Cầu Giấy, huyện Từ Liêm, TP. Hà Nội.

[4] Cụ Tú Nguyễn An Lan, tự Hải Văn là phụ thân của nhà văn Nguyễn Tuân (1910-1987). Quang lộc tự khanh là chức trưởng quan của Quang lộc tự chuyên lo việc cỗ bàn, cung cấp lễ phẩm cho các ngày tế lễ, yến ẩm của triều đ́nh. Sự tích Thánh Phụ (Sự tích về Thánh Phụ Từ Vinh ở An Lăng) do cụ Tú Nguyễn An Lan biên soạn ghi chép về sự tích vị Bản cảnh Thành hoàng thôn Thượng Đ́nh, xă Nhân Mục Cựu (tên Nôm là làng Mọc), huyện Thanh Tŕ xưa, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội.

[5] Phần trong ngoặc đơn trong bản dịch này đều là nguyên chú của tác giả. Trại An Lăng huyện Vĩnh Thuận, nay là làng Láng, phường Láng Thượng, quận Ba Đ́nh, TP. Hà Nội.

[6] Đô sát viện là cơ quan tối cao giữ việc giám sát trăm quan, biện minh oan khuất, phàm có án kiện quan trọng th́ cùng với H́nh bộ và Đại lư tự hội thẩm.

[7] Chùa Nền ở số 1160 Đường Láng Hà Nội.

[8] Nay là thôn Tiền, phường Dịch Vọng, đường Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.

[9] Nay là phường Thượng Đ́nh quận Thanh Xuân, T.P. Hà Nội.

[10] Tức năm 1211 đời Lư Huệ Tông (1211-1224).

[11] Nay thuộc quận Cầu Giấy, T.P. Hà Nội.

[12] Theo Từ nguyên (Dân Quốc nhị thập bát niên 1939), tục của tộc người cổ dùng vàng để trang sức răng gọi là man Kim Sỉ, nay là huyện lị Vĩnh Xương Vân Nam Trung Quốc.

[13] Tây quốc là chỉ đất phát nguyên của Phật giáo.

[14] Nay là khu vực Cầu Giấy Hà Nội.

[15] Tức năm 1115 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[16] Tức là năm 1116 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1127).

[17] Tức năm 1117 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[18] Tức năm 1118 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[19] Tức chỉ Đạo Hạnh lúc này đă đầu thai làm con của Sùng Hiền hầu.

[20] Niên hiệu Thiên Phù Khánh Thọ là năm 1127 đời vua Lư Nhân Tông (1072-1128).

[21] Niên hiệu Thiên Thuận đời vua Lư Thần Tông (1128-1132).

[22] Tức năm 1136 đời vua Lư Thần Tông (1128-1138).

[23] “Kim sang” theo cách gọi của đông y là vết thương do dao kiếm.

[24] Kỳ và lân là hai loại thú thần trong truyền thuyết được coi là điềm lành.

[25] Tức năm 1140 đời vua Lư Anh Tông (1138-1175).

[26] Chùa Thầy ở chân núi Sài Sơn huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây (cũ), nay là xă Sài Sơn huyện Quốc Oai Hà Nội là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh, và nơi ngài hóa gọi là động Thánh Hóa trên núi Sài Sơn.

[27] Tiền thân là thuật ngữ Phật giáo, chỉ thân thế kiếp trước.

[28] Chùa Láng ở phố Chùa Láng phường Láng Thượng quận Đống Đa, T.P. Hà Nội. Chùa Láng c̣n gọi là chùa Cả, tên chữ là Chiêu Thiền tự, do vua Lư Anh Tông là con của Lư Thần Tông xây dựng để thờ vua cha và tiền thân của người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội chùa Láng được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng 3 là ngày hóa và ngày sinh của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày: Ngày mồng 5 tháng 3 rước thánh đến chùa Nền để Thánh thăm lại nơi sinh; ngày mồng 6 rước kiệu đến chùa Tam Huyền ở làng Mọc để Thánh thăm cha; tối mồng 6 rước kiệu Thánh trong chùa Cả ra nhà Bát giác ở sân để Thánh xem lễ; sáng mồng 7 rước kiệu ra cửa Tam quan để chờ các làng như Nhược Công, Mọc nhập cuộc rước Thánh “Đấu thần” với sư Đại Điên ở chùa Duệ Tú; sau đó tới chùa Hoa Lăng ở Cầu Giấy để Thánh thăm mẹ, rồi hoàn cung.

 

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of American Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Khoa HọcTV

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten