Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Sử Việt Thời Thổ Tả

 

Tạ Chí Đại Trường

 

H́nh như đây là lấy từ một phần tên sách của một nhà văn danh tiếng,

thôi th́ mượn tạm để thay thế ư tưởng của một blogger về t́nh h́nh (dịch)

“Giới học thuật sử học bằng tiếng Việt bị chết” để thấy đỡ bi quan hơn.

– TCĐT

 

 

Một gói viện trợ gây bội thực

 

 

Nhận diện

 

Lịch sử thường được coi đáng tin cậy nhất là khi ghi nhận vào lúc, và thời nó xảy ra. Mức độ nhận định th́ tuỳ thuộc vào kiến thức thời đại chuyển tiếp vào người ghi chép. Thế mà không phải ai cũng đủ khả năng đi vào những ngóc ngách chuyên biệt của các diễn tiến. Bởi vậy cho nên cách giải mă lịch sử vẫn phải luôn luôn xảy ra theo với đà tiến bộ của con người, riêng biệt là theo với kiến thức về bản thân, xác thân con người cụ thể. Về phương diện này th́ nền y khoa mới của phương Tây có ưu thế khi muốn xét lại các sự việc xảy ra trong lịch sử Việt Nam liên quan đến nó, không những v́ sự tiến bộ chung mà c̣n v́ các phương thức, kĩ thuật tiếp cận xác thân con người đă tách biệt với truyền thống phương Đông nên cách giải thích sự việc có đà đem lại mới mẻ trong nhận định. Sự tự tín của tác giả và những lời giới thiệu nồng nhiệt dành cho quyển sách Lịch sử nh́n lại dưới góc độ y khoa (Nxb. Văn hoá Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh 2012) của bác sĩ Bùi Minh Đức (BMĐ) dễ tiếp tay cho những người chờ đợi những khám phá như thế.

 

BMĐ là một bác sĩ, không phải chung chung mà là bác sĩ chuyên khoa, không những từng được học tập và giảng dạy trong nước mà c̣n ở ngoại quốc, từ Đông sang Tây, như ta thấy liệt kê thành tích học tập, tác nghiệp đầy cả trang b́a 4 quyển sách, với bức h́nh tươi tắn mà không để lẫn lộn nghiệp vụ. Và cũng giống như các bậc thức giả ngày xưa, tác giả không dừng lại ở chuyên ngành của ḿnh mà c̣n đem dàn trải kiến thức qua các lănh vực văn hoá, ngôn ngữ như được thấy nơi mục “Sách cùng một tác giả”, ở đó, quyển Từ điển tiếng Huế viết “dâng mẹ” năm 2001 mới có 500 trang được khai triển thành 1000 trang (2004) rồi 2000 trang chia hai tập Thượng, Hạ (2009). Cũng không nên tưởng đó là những thú vui ngoài ngành, tác giả đă coi ḿnh là chuyên gia thật sự ở các lănh vực đó, v́ như ở công tŕnh này, trong lúc thường hay tự xác nhận “là bác sĩ y khoa…”, hay nhấn mạnh hơn: “là bác sĩ y khoa ngày nay…” th́ ông cũng thêm: “Là một nhà nghiên cứu lịch sử…” Cho nên, Giáo sư sử học Phan Huy Lê khen ông “là một nhà y học uyên bác… có cả một tấm ḷng đối với quê hương đất nước, có vốn trí thức liên ngành rộng lớn… vận dụng vào lịch sử, giải thích một số hiện tượng lịch sử Việt Nam liên quan đến y học”. C̣n Giáo sư Bác sĩ Tiến sĩ Nguyễn Đ́nh Hối th́ đi xa hơn, gọi “Ông (BMĐ) là người đầu tiên phối hợp môn Y khoa với môn Lịch sử thành môn ‘Y học lịch sử’” – cái tên ghép gượng ép không đủ xác định một ngành học nhưng cũng cho thấy tâm t́nh thán phục đối với tác giả.

 

Có thể nh́n lại quyển sách để xem tham vọng của tác giả đi đến đâu.

 

Nghiên cứu bao gồm 20 đề tài, có từng nhóm/bài khác nhau khi “nh́n dưới góc độ y khoa” can thiệp vào sự kiện. Có đề tài để tác giả phô trương kiến thức của ḿnh là nhóm bàn về sinh hoạt t́nh dục Lí Trần, của Minh Mạng, về cái chết của Quang Trung… Tuy nhiên ngay trong tập nhóm này chúng ta cũng thấy có bài chỉ là “cái cớ” để ông đem chuyên môn y khoa của ông vào, như nói chuyện Nguyễn Du chết v́ dịch tả (mà ít ra lại không chịu nêu chứng dẫn), để bàn chuyện chữa bệnh dịch tả trong bệnh viện hay kể kinh nghiệm dịch tả ở xứ Huế của ông. Cũng như trong 33 trang về “Cái chết của Hoàng tử Cảnh với những hệ luỵ bi đát” chỉ có 2 trang nói về cái chết đó, mà lí do chính v́ bệnh đậu mùa th́ ai cũng biết rồi! Chuyện ông muốn “t́m cớ” để làm nhà nghiên cứu lịch sử ở đây th́ sẽ bàn sau. Bài “Tam ban triều điển” dành độ mươi ḍng cho ông Hoàng Diệu mà ông này th́ tự-ḿnh-thắt-cổ chớ không thấy vua ban đâu cả. Cũng theo chiều hướng đó mà càng “ít độ y khoa” hơn th́ thấy trong bài bàn về nhân vật Trần Hữu Lượng, và để có thể xếp BMĐ vào hàng ngũ bàn sử, là nhận định về Trần Thủ Độ so sánh với Machiavelli, vốn chính danh mà nói th́ đề tài thuộc lănh vực chính trị học chứ không phải của sử học! Cho nên ngờ rằng v́ ít “vốn liếng” nên phải kéo dài ra: Bảy bài về Lí Trần có thể gom vào hai/ba bài là nhiều nhất, nếu muốn cho ông Trâu Canh đứng riêng biệt.

 

Tác giả tŕnh bày phương pháp làm việc, cho thấy các bài viết của ông là theo cách các “bài khảo cứu khoa học (có chú thêm tiếng Anh: Scientific Papers) thường được báo cáo tại các hội nghị y khoa ngày nay”. Chi tiết công việc được viết ra rơ ràng, không ai dám bảo tác giả làm việc không khoa học nhưng đem điều đó vào chung một quyển sách, chuyển sang ngành sử th́ phát sinh nhiều điều khó biện minh, và bất tiện. Không lẽ ngành sử không có được một phương thức làm việc khoa học “coi được” hay sao mà phải viện dẫn đến mẫu báo cáo y khoa? Tác giả cho rằng các chi tiết khoa học và những luận cứ đưa ra đều có “đầy đủ tính thuyết phục đối với các đồng nghiệp trong y giới” nhưng ta không thấy được một nhận định riêng biệt nào của giới y khoa cả. (Điều dễ hiểu là bài tŕnh bày “theo dạng báo cáo tại các hội nghị y khoa” chứ không phải chính thức tŕnh bày như một luận án lấy bằng y khoa để có giới chuyên môn lên tiếng). Đă thế h́nh thức dàn bài theo mẫu mực “y khoa” của nhiều bản văn riêng rẽ, đem gộp in vào sách khiến có nhiều chỗ dư thừa, lặp lại, ví dụ phần tham khảo của từng bài dàn trải tổng cộng hơn 33 trang nếu góp lại cuối tập, chỉ cần độ mươi trang là quá đủ. Có thể là tác giả không thấy điều bất tiện này, nhưng đó lại cũng là một chứng cớ làm việc không khoa học, không cần phải đem chuyên môn sâu xa ra chận lối chê trách. Chuyện chuyên môn khó khăn cao cấp đôi khi cũng có thể bàn như chuyện thường ngày mà không sai lạc lắm. Cũng giống như đầu bếp chỉ nên đưa món ăn cho người ta thưởng thức, nói qua loa làm quà th́ được chứ không cần phải giải thích dài ḍng. Độc giả chỉ cần xem ông tŕnh bày kết quả nghiên cứu có chấp nhận được hay không chứ không cần biết ông phải loay hoay khổ cực như thế nào qua các ḍng về phương pháp, tham khảo, mở, kết lặp đi lặp lại trong các trang sách, dù có mang chữ Anh chữ u cũng vẫn có dáng như một luận văn ở nhà trường trung học.

 

Ít bột mà ráng th́ khó gột nên hồ

 

Khi không bị loá mắt v́ các tấm bằng chuyên môn y khoa phô bày ở đây th́ dễ nói chuyện hơn. Ông BMĐ đă chọn vị trí làm việc ở một lănh vực mà ông tưởng ḿnh có thẩm quyền, như ông khoe đă từng đọc kĩ Đại Việt sử kí toàn thư nên “hầu như thuộc nằm ḷng các sự kiện lịch sử (Việt Nam)”. Thế mà sách ông đầy các lỗi sơ đẳng nhất của một người đọc sử b́nh thường, chưa nói đến của một sử gia. Và chính điều này lại làm khó cho người đọc muốn t́m ở sách ông một lời khen lấy ḷng, chỉ v́ hàng đống sai lầm từ thấp đến cao làm đổ cả mọi lập luận nấp sau các từ ngữ, kiến thức chuyên ngành của ông. Hăy từ bậc thấp nhất.

 

Không biết ông học sử Việt theo cách “thuộc nằm ḷng” ở đâu mà cho “Tiền quân Nguyễn Văn Thành” bị Gia Long giết chết c̣n “Trung quân Nguyễn Văn Thiềng” th́ lại bị Minh Mạng giết (trang 243, 286). Ta có thể ngờ ông không biết đó là MỘT người tên Thành, gọi theo lối kị huư là Thiềng, được chuyển từ vị trí chỉ huy Tiền quân qua Trung quân (một dạng lên chức), tuy nhiên trong sách cũng thấy ông dẫn tên Nguyễn Văn Thiềng từ Trương Vĩnh Kư, nghĩa là ông đă viết và nhớ loạn xạ! Ảnh hưởng từ chứng cớ kị huư đối với các nhân vật Huế quan cách, vương giả được tŕnh bày khiến cho người theo dơi sách ông, tưởng rằng phép kị huư chỉ mới có từ đời Nguyễn mà thôi! (trang 289: “Mỗi khi nghiên cứu về tiếng Huế, các học giả (?) thường gặp phải nhiều trường hợp tên huư của các vua chúa trong vương triều nhà Nguyễn…”) Lại có tên một sử quan là Phạm Phu Tiên, có chuyện Quốc sử quán triều Nguyễn in Đại Việt sử kí tiền biên. Có nhớ lộn từ “nhập Tống” thành “nhập Trần”. Đang nói chuyện Trần HỮU LƯỢNG thấy Việt sử tiêu án chép chuyện NGƯU LƯỢNG liền tương ngay vào sách (trang 196-197)! Đọc (sử) kĩ mà không kĩ nên BMĐ cứ cho Lí Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh mười mấy năm không con để có cớ lôi y khoa giải thích về bệnh dậy th́ sớm (nhảm), về ẩn ức t́nh dục của bà, của các nhân vật liên hệ… trong lúc thật ra bà này đă có con tên Trịnh chết ngay khi vừa mới sinh.

 

Đáng lẽ phải dừng ở đây để khỏi nói tiếp về quyển sách kinh hoàng này, nhưng lỡ rồi… Không biết trong các thèse/thesis y khoa của BMĐ tŕnh ở các trường Đại học danh tiếng Đức, Mĩ có dẫn lời phán của ông/bà Thầy Nước Lạnh nào không chớ khi bàn về sử Việt ông lại dẫn sách loạn xà ngầu, từ chính sử tới “bên lề chính sử” (một tên sách của Đinh Công Vĩ – thấy ở nơi khác là có bằng tiến sĩ), tới sách loại giải trí của Trung Quốc dịch khỏi cần xin bản quyền, rồi tiến đến Truyện Tàu “Di miêu hoán chúa”, truyện kiếm hiệp Kim Dung, văn chương sáng tác Người lữ hành lặng lẽ… Sách cơ quan nghiên cứu in cũng được, sách của hội đoàn tản lạc (Hội Ái hữu Tây Sơn B́nh Định) cũng xong! Đánh đồng tất cả v́ ông không biết đến nguyên tắc lựa chọn độ tin cậy của tư liệu dẫn chứng. Và điều này th́ gần như là của cả trong nước bây giờ, chỉ nhắc ở đây v́ phải bàn đến ông mà thôi.

 

Sử chính thức xưa gần như chỉ có quyển Đại Việt sử kí toàn thư (gọi tắt là Toàn thư) để người sau, cả đến bây giờ, cứ coi như là nơi chứa tài liệu căn bản trưng dẫn chứ không phải là thứ để bàn luận. Cho nên mỗi khi nhắc lại sự kiện xưa th́ người ta chỉ chép lại Toàn thư, đôi khi xê xích vài chữ cho có vẻ “sáng tạo”, hay có nổi hứng thêm th́ tán rộng tràn lan. Ông BMĐ không cần biết Toàn thư chép về Lí Chiêu Hoàng như sau: “con gái thứ của Huệ Tông. Huệ Tông không có con trai nối, lập làm hoàng thái tử để truyền ngôi [lúc mới 7/8 tuổi]… Chiêu Hoàng trêu chọc hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng… vốc nước té ướt (Trần) Cảnh, lấy khăn ném cho Cảnh…” Ông thích sách của Ngô Th́ Sĩ hơn. Mối liên hệ “con nít” giữa Trần Cảnh và Chiêu Hoàng được Ngô Th́ Sĩ chép lại trong sách Đại Việt sử kí tiền biên của ông ta, tưởng tượng cảnh họ “cùng ở với nhau như vợ chồng”, rồi lại có thêm lời bàn cho là của Ngô Sĩ Liên (1479): “Chiêu Hoàng bảo Cảnh làm voi ngựa, ḿnh cưỡi lên trên, Cảnh lấy hai tay đỡ lấy, sớm gió đêm trăng…” Đoạn văn xứng đáng như của một loại sách porno c̣n làm dáng mắc cỡ ngày nay đó, thật ra là của Ngô Th́ Sĩ (1726-1780) mà người dịch 1997 (trang 314) không có chút suy nghĩ, vẫn giữ tên Ngô Sĩ Liên nhưng nội dung thêm thắt đó đủ cho BMĐ khai thác ép buộc cho lí thuyết dậy th́ sớm của ông gán vào con người đoán là “xấu người, thấp bé, mặt mày đầy mụn…” có tên Chiêu Hoàng “mới 8 tuổi mà đă biết quan hệ t́nh dục (?) rất sớm… (có thể phải) mang thai (?) sớm”. Phải có dữ kiện hấp dẫn của Ngô Th́ Sĩ đưa ra, ông mới có thể dàn trải hơn hai trang định bệnh, chữa bệnh với chi tiết sex sinh động trên khách hàng giả tưởng của ḿnh. Với sự thiên ái không cần đến nguyên tắc chung về độ tin cậy của tư liệu như thế, ông BMĐ nhất quyết cho rằng giữa 3 quyển sử xưa, ông chỉ cần nêu quyển Tiền biên mỗi khi nêu tên sách tham khảo thôi. Ông đă theo đúng nguyên tắc tự đề ra đó trong tất cả những bài về các triều đại Đinh, Lê, Lí, Trần, tuy đôi khi lơ đăng cũng nhét Toàn thư vào.

 

Nhưng nói đúng ra cái lối vơ vào dẫn chứng lịch sử như thế cũng hợp với tính chất con người thường ngày của ông BMĐ. Trước mặt chúng ta là một ông già nhà quê lẩm cẩm, than văn đạo đức suy đồi, tỏ ḷng thông cảm với lỗi lầm của bà Dương hậu “về phương diện lễ giáo (lấy hai chồng)”, rồi thắc mắc tại sao vấn đề loạn hôn của họ Trần “đi ngược đạo lí luân thường của nước Việt Nam ngày xưa như thế mà lại có thể bành trướng qua nhiều đời như vậy, nhất là hiện tượng này lại xảy ra trong hoàng tộc mà đáng lẽ ra họ phải là tấm gương sáng cho thần dân noi theo…” May thay sự khờ khạo (?) tội nghiệp của ông cũng có người chia sẻ, như khi ông dẫn nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân (trang 250-251). Cho nên chắc ông không ngờ rằng nhiều suy luận của ông, nếu đem bàn tán trong pḥng mạch có thể ảnh hưởng đến sự phán xét của bệnh nhân muốn nhờ ông chữa trị. Biết được tỉ lệ tử vong của bệnh nhân đậu mùa là khoảng 20%, mà Hoàng tử Cảnh lại đă chết nên ông có kết luận là Cảnh “đă nằm trong tỉ lệ 20% tử vong này”! Về Minh Mạng: “Với một số nhiều bà vợ (và nhiều con) như vậy, vua… chắc chắn không thể là một người liệt dương (Impotent) hay là một người có tính đồng t́nh luyến ái (Homosexuel)…” Đây là loại lí luận có dáng như câu quả quyết : “Trước khi chết th́ anh ta c̣n sống”, loại vérité de la Pallice (?). Cũng như về trường hợp Tự Đức, BMĐ có lập luận: “Nhà vua không phải là người ‘lănh cảm’… không phải là người không có ‘hứng khởi t́nh dục’ v́ nếu không, nhà vua đă ‘nạp phi’ đến 5 bà đưa vào Nội cung để làm ǵ?” Loại lí luận ngớ ngẩn này có rất nhiều trong sách, kể măi không hết.

 

Bột/hồ và liên ngành, sáng tạo

 

Thật ra th́ không phải chỉ v́ bản thân ông BMĐ không đủ “bột”. Ông chỉ có quá nhiều tự tín để cho rằng ḿnh đă thành công trong lănh vực y khoa với bao nhiêu văn bằng trường trại quốc nội, quốc tế trưng dẫn, th́ quay sang phía sử tất là… dễ ợt! Ông quên câu “Rừng nào cọp nấy”. Thế mà, “bột” thiếu lại ở chính ngay ngành sử, sử Việt.

 

Đă nói, sử xưa của ta có thể nói là chỉ gói trọn trong một quyển sách để người sau có thấy ngắn th́ kéo dài nó ra – để rồi lại sẽ thành tư liệu lịch sử. Ở trên ta đă dẫn ra trường hợp Lí Chiêu Hoàng, ghi ở hai quyển sử có phần của Ngô Sĩ Liên (thế kỉ XV) và Ngô Th́ Sĩ (thế kỉ XVIII). Cho nên đúng là may mắn cho ông BMĐ có thêm Tiền biên dài ḍng hơn Toàn thư để ông có đà tán rộng hơn chuyện Dương hậu, cha con Lê Hoàn. Ông đỡ cực nhọc hơn với triều Nguyễn để có thể đem chuyện xứ Huế vào, cho đến khi có sách vở người Pháp th́ có thể nói là ông được rảnh tay, chỉ lo chuyện chuyển dịch thôi (“Chân dung những người Pháp thuộc địa”).

 

Thế mà khi t́m đề tài ở sử Việt để phục vụ chuyên môn của ḿnh, ông BMĐ lại chỉ sa đà vào những trường hợp đă từng được gợi ư theo “phong trào”, thời thế như vấn đề của ông Quang Trung nói măi không hết sự oai hùng, vấn đề của các nhân vật triều Nguyễn tuy đưa ra dưới khía cạnh bệnh tật lại rơ ràng không thoát khỏi sự ràng buộc với những đôi co nặng nề về triều đại xứ Huế này trong nền chính trị sử cận hiện đại. Như vấn đề sex (h́nh như có công của người viết những ḍng chữ này) gợi từ sinh hoạt lạ lùng của họ Trần, từ “bài thuốc Minh Mạng”… Tất nhiên với căn bản kiến thức của ông về sử Việt như đă nói th́ điều này cũng là dễ hiểu. Sự hấp dẫn của t́nh dục học khiến ông mê mải trong ba triều Lê Lí Trần mà quên không hỏi thăm đề tài thời thượng “phi vật thể” là câu chuyện Người đẻ (100) trứng Âu Cơ, nếu khéo khai thác th́ từ chuyên ngành Phụ khoa cũng có thể nói đến t́nh dục, lan qua dân tộc học, folklore, tán rộng đôi co với mấy cái đầu bư trên bờ sông Seine nữa . Không thể trách ông quên lửng không khai thác vụ “thượng mă phong” của Lê Thái Tông để tranh căi với các cuộc hội thảo quốc gia, từng đề quyết có âm mưu hăm hại công thần, bôi xấu danh tiết của bà vú già Nguyễn Thị Lộ… Lê Thánh Tông được sử ghi “bệnh nặng v́ nhiều phi tần”, với chi tiết về “chứng phong thũng”, có bà vợ bôi thuốc độc “vào chỗ lở”, vậy mà không được BMĐ khai thác thêm trường hợp có thể là lậu, tim la hấp dẫn này. Giá như chịu khó một chút ông có thể thấy tiếp theo, chuyện lại-cái của ông hoàng tử con Lê Hiến Tông, để bàn về đề tài đồng tính thật thời thượng trên toàn thế giới mà Việt Nam cũng đang bị lôi cuốn theo cho khỏi mang tiếng lạc hậu. Sao không khai thác thêm trường hợp “lưỡng tính” mạnh mẽ của Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát, cho vang danh thêm tiếng Huế y khoa? Cũng có thể bàn về ông Lê Văn Duyệt với chứng cớ hơn người khác, v́ có bản vẽ để lại trong Lăng Ông Gia Định, không lầm lẫn vào đâu được…

 

“Bột gốc” không đủ nên ông phải tán rộng, phải đặt giả thiết về những “ẩn số tâm lí và t́nh cảm của Dương Thái hậu” với những nghi vấn “Phải chăng… phải chăng…”, để giải quyết những “bí ẩn… trong thâm tâm” bà hoàng… kéo dài tới chuyện so sánh lạc lơng, vô duyên với bà Kennedy của thế kỉ XX, chỉ với lí do đồng dạng là hai bà First Lady cùng có hai đời chồng! Rồi có đà, khi phân tích tâm lí của những người đàn bà họ Trần, lấn chuyện t́nh dục từ đàn bà qua đàn ông, BMĐ tuôn chảy chuyên môn về cơ thể học, t́nh dục học đủ gây thích thú cho những bậc trưởng thượng sống đời nghiêm túc, lần đầu tiên biết tinh trùng đực, tinh trùng cái chạy đua làm sao, lần đầu tiên nghe chuyện rách cổ tử cung… Ông BMĐ cũng đă đề pḥng phản bác về sự phô trương chuyên môn của ḿnh trong Lời nói đầu: “Thực chất những bài biên khảo của chúng tôi là những bài nghiên cứu khoa học và v́ vậy đă được tŕnh bày với khá nhiếu chi tiết y khoa nên có thể không được hấp dẫn cho lắm đối với các độc giả ngoài y giới”. Ông hơi lo xa nhưng người đọc tuy có thích thú vẫn nghĩ rằng ông đă quá dài ḍng, nếu không làm việc thừa thải là khoe khoang th́ cũng chỉ v́ đă t́m được cách nói cho đầy những trang sách. Điều đó hiện rơ, đầy trong các trích văn sử của ông.

 

Toàn thể chuyện thay đổi triều đại Đinh Lê, chuyện cung đ́nh của họ, vốn chỉ có một hai trang giấy trong sử cũ được BMĐ viết thành các mục “Theo ḍng lịch sử”, “Thân thế bà Hoàng hậu”, “Bà hoàng họ Dương…”, “Vài con số về năm tháng liên hệ với Dương hậu”, “Vể bệnh tâm thần của Lê Đại Hành”, tất cả được nhắc (phải nói là “chép”) chép đi chép lại trên 60 trang của ông BMĐ. Chưa đủ, ông Lê Đại Hành c̣n được nói thêm kèm với chuyện ông con, cũng vẫn bấy nhiêu sự kiện chép không thừa một chữ của sử xưa. Chuyện họ Trần nằm trong 6 bài viết c̣n hành hạ độc giả hơn. Hết sách Việt qua sử Tàu. (Không biết có nên coi các loại như Mười đại hoàng đế Trung Quốc, Mười đại mưu lược gia Trung Quốc là “sử” hay không?) Trong 33 trang viết về Hoàng tử Cảnh chỉ có 2 trang dành cho chuyện bệnh hoạn như đă nói, c̣n lại là chép của sử quan Nguyễn, của sách Tây thực dân, của Trương Vĩnh Kư, lôi ra luôn hiệp ước Versailles, chỉ để kết tội Minh Mạng lúc c̣n là Hoàng tử Đảm nhiều lần đứng hầu cha, “đă có ư núp sau màn nghe rơ” trong các tướng ai là người chống đối việc lên ngôi của ḿnh. Chuyện Minh Mạng thẳng tay diệt trừ vợ con Hoàng tử Cảnh theo một âm mưu cho là có nguồn gốc từ thời Gia Long c̣n là Nguyễn Ánh, được BMĐ (và NĐX) diễn giải tội trạng một cách ngờ nghệch, không tưởng là của tác giả mới vừa bàn về những người đàn bà “dậy th́ sớm” kiểu Lí Chiêu Hoàng, về hứng thú t́nh dục ở người đàn bà thay đổi phối ngẫu, được gán cho Lí Thuận Thiên. Rốt lại chỉ có thể nghĩ rằng BMĐ ưa viết tiểu thuyết lịch sử dựa trên mớ kiến thức y khoa của ḿnh, cốt để quyển sách dày thêm. Nhưng điều “nghĩ xấu” này không thể được những người giới thiệu sách đồng ư.

 

Từ ước vọng chuyên môn của ḿnh, ông Phan Huy Lê nói đến một hướng giải quyết liên ngành của BMĐ cho các vấn đề sử học Việt Nam. Chuyện này th́ đă được khai thác từ những năm 1960, có hồi rầm rộ cho rằng đă đem đến thành công khi dùng khảo cổ học để vẽ ra diện mạo ông Hùng Vương. Tất nhiên có những người không chịu “cho rằng…”, chỉ v́ đă nghĩ khác về vấn đề liên ngành. Một điểm cần thiết khi ngành sử nhờ cậy những chuyên môn khác, nhất là các ngành khoa học thực nghiệm, là để cốt làm sáng tỏ, trong đó có việc chấn chỉnh sai đúng, những sự kiện mà sử quan, sử gia nhiều văn vẻ không đủ khả năng giải thích, chứ không phải lấy oai phong của các ngành kia để biện minh giúp cho các ông viết sử nọ. Không thể thấy kết quả C14 có các con số 4000, 2500 (bỏ qua các sai số) th́ đủ xếp hiện vật vào thời Hùng Vương của Ngô Sĩ Liên hay của tác giả Đại Việt sử lược rồi từ gán ghép đó, lại vẽ lên một “Thời đại Hùng Vương” rực rỡ, ví dụ với trống đồng có thể được ban phát cho các chư hầu Đông Nam Á! Giá cứ như bây giờ đúc tượng Cha Rồng Mẹ Tiên để tiêu bớt những đồng tiền ngứa ngáy, cứ xin bằng cấp UNESCO về rước sách, tung bùa yểm, làm lễ hội buôn thần bán thánh dựa dẫm vào tinh thần truyền thống “Việt độc đáo / riêng biệt” đang thúc đẩy lên cao vút, th́ cái vui may ra có thể thay thế được nỗi ấm ức phải nhận các ông, bà tổ trời ơi đất hỡi.

 

Ông BMĐ không biết cái vấp váp quyền uy này nhưng có lẽ theo thói thường, cũng tưởng là đang làm chuyện liên ngành tương tự, với uy thế kiến thức khác. Kết quả là, không nhắc lại các vẽ vời đă nói, ông không biết đến các kiến giải mới ngay ở sử học về một số giai đoạn lịch sử Việt Nam, ví dụ ở đây là chuyện Lí Trần, nên cứ theo những lời kể lể, phê phán của Ngô Sĩ Liên, Ngô Th́ Sĩ – nhất là của Ngô Th́ Sĩ, cùng những ba hoa phụ hoạ tiếp nối để dồn cho độc giả những ǵ là Tâm thần học, Sinh lí học, Khoa học hành vi, Khoa học Thần kinh, máy fMRI, làm MRI, phép đo lường LH, FSH… có chú thêm chữ “Tây” khó đọc đến kinh khiếp. Ông có thể căi lại rằng ông đă phân trần trước rồi nhưng nếu cho là ông không loè chữ, không t́m cách cho dày sách th́ cũng là mắc lỗi đăng trí, lạc đề khi sa đà trong lănh vực y học khi đang nói về sử (tiếp theo cái sa đà khắp nơi khắp chốn khác, mà ở một bài luận lớp dưới th́ bị chê là “lạc đề”). Cũng vào khoảng 1960, có người đă dùng sinh vật học để giải thích các phát hiện hươu trắng hươu đen ghi nhiều trong thời Lí nhưng rơ ràng chúng ta không thấy họ sa đà nói chuyện phân loại của Carl Linnaeus, chuyện ngao du của Ch. Darwin, nếu bây giờ th́ có thể bắt quàng sang chuyện DNA, lấy mitochondrial DNA đi t́m bà Êvà, bà Âu Cơ chứng minh cho lí thuyết Kim Định như có “học giả” Việt kiều đă làm…

 

Mỗi ngành có cái trọng tâm của nó, và cả nguyên cớ, mục đích tạo dựng chuyên ngành đă khiến chúng không thể nào đứng chung lộn mà không “chỏi” nhau. Lập một ngành “y học lịch sử” (?!) riêng, đặt ông BMĐ làm kẻ khai sáng, như ư của ông Giáo sư Bác sĩ Tiến sĩ nọ nhớ loáng thoáng chuyện tách khỏi biologie và chimie để lập bio-chimie chẳng hạn, là chuyện quá phận. Cho nên c̣n ở liên ngành th́ đó là “mượn”, là nhờ cậy chứ không thể để “lấn”, chủ khách phải rành rẽ phân định. Nếu không thể có chi tiết riêng biệt về trường hợp đậu mùa của bệnh nhân (Hoàng tử) Cảnh th́ không thể lôi ông hoàng ra để chẩn mạch, tiêm ngừa hay đề nghị chữa trị trong một bài sử được. C̣n muốn làm nhà nghiên cứu lịch sử để xét vấn đề truyền ngôi sau Gia Long, như “phát hiện” lớn lao dễ sợ của BMĐ th́ tách riêng ra một bài khác, nhập chung trong một bài e rằng vi trùng bệnh đậu mùa có thể lây lan sang Minh Mạng không biết chừng.

 

Đối tượng có trách nhiệm của bác sĩ là người bệnh mang những y chứng tổng quát, hiểu theo nghĩa xuất hiện ở mọi thành phần nhân loại, không phân biệt chủng tộc, thời đại… để người thầy thuốc bất cứ từ đâu cũng chữa trị được miễn là có đúng khả năng. Trong khi đó những ông hoàng bà chúa, quan quyền mà ông BMĐ lôi ra khảo tra bệnh trạng lại là những con người cụ thể, sống có nơi chốn, ăn ở vào những thời đại riêng biệt, có vài lời khai bệnh ấm ớ lại được “vẽ” qua các ông bà nhân viên tha hồ phóng bút kiểu Ngô Th́ Sĩ. Với những đối tượng như thế, ông bác sĩ tiến sĩ chuyên ngành BMĐ lại ném lên ḿnh họ những bộ sách toàn thư y khoa, những khảo chứng chuyên biệt nhất, với lỉnh kỉnh những máy móc lớn nhỏ tối tân nhất… kèm theo những than văn đạo đức ngờ nghệch, bệnh nhân chịu sao cho thấu? Cho nên phải có vài lời ngăn chặn v́ chỉ sợ ông theo cái đà “thành công” của Từ điển tiếng Huế mà thừa thắng xông lên. C̣n cấp thời, trong trường hợp sử Việt bị nhồi nhét đến bội thực này th́ h́nh như có một cách chữa nhanh chóng, là cho mửa ra.

 

Phải không, bác sĩ?

 

 

17-4-2013

 

Ghi Chú:

 

* Bài đă đăng trên Xưa & Nay số 431, tháng 7 năm 2013, có chút lệch lạc không tránh khỏi v́ t́nh thế trong, ngoài. Duy thấy có điều cần đính chính: “mấy cái đầu BƯ bên bờ sông Seine” được thêm dấu nặng thành: “… đầu BỰ…”. Sai, “đầu bự” là “đầu to”, “đầu bư” là “đầu ngốc” tuy to đầu cũng có thể là ngốc nghếch!

 

 

 

 

 

Gia phả ở Việt Nam và dấu vết “phong trào” bây giờ

 

 

 

 

Gia phả viết bằng chữ Hán của các ḍng họ lớn Việt Nam đă xuất hiện hàng loạt (2006) trên kệ sách theo “Chương tŕnh Nghiên cứu Gia phả Việt Nam của Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất và chủ tŕ, cộng tác với Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO), Đại học Paris VII (Pháp), Đại học Alberta (Canada)”. Chúng tôi không được biết công việc đă đi đến đâu ngoài 8 bản dịch và chú thích cẩn thận được ghép chung trong Tủ sách Gia Phả Việt Nam do Nhà xuất bản Thế Giới ấn hành. Vị trí địa lí của cơ quan chủ tŕ nghiên cứu chắc đă khơi dậy trong tiềm thức những người đảm trách công việc về sự chính thống xưa cũ nên đă khiến cho họ phổ biến gia phả của tộc Nguyễn Đàng Trong mà không t́m đến gia phả họ Trịnh tương đương, dù rằng đă có bản in chữ quốc ngữ trước 1945 của ông Trịnh Như Tấu (Trịnh gia chính phả, được Nxb. Từ điển Bách khoa in lại 2008). Tất nhiên đă có sự yếu kém v́ là sách soạn (1933) bởi người có Tây học, viết bằng chữ quốc ngữ kèm theo các bản vẽ ngô nghê, với tài liệu thú nhận không những lấy từ các chính sử mà c̣n từ cả Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim nữa nhưng dấu vết trước thời làm Chúa hẳn có thể c̣n đâu đó như chứng tỏ nơi một khuôn in ở đầu sách, như ông Hoàng Xuân Hăn đă ghi lại từ các bản nôm, Hán. Họ Trịnh không phải chỉ gồm những người làm Chúa mà c̣n các người ở các ḍng thứ phái cũng đă có ghi trong sách của ông Trịnh mà các dấu vết riêng tư, nếu được chú ư t́m ṭi th́ cũng có thể dùng khai thác trong bộ sử chung như bất cứ tài liệu từ ở đâu khác. Vả lại dạng h́nh chữ quốc ngữ cũng không phải là thứ nên bị coi nhẹ. Chúng tôi đă từng thấy gia phả của nhà Thân Trọng viết bằng chữ quốc ngữ, có những chi tiết không ghi trong các bộ Thực lục, Liệt truyện.

 

Ngoài các phổ biến của cơ quan nghiên cứu, rải rác cũng thấy các xuất hiện của tư gia, tư nhân từ trường hợp Nguyễn Hữu tộc gia phổ (Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh 2003) cố vươn liên hệ với ḍng tộc trị v́ nước, đến trường hợp gia phả tộc Nguyễn Bá ở Quảng Trị, may là có in ấn (2002) và nhắc nhở mới được biết đến tên…

 

Vấn đề nghiên cứu gia phả Việt Nam được tiến hành nghiêm túc đă xuất hiện trước 1975 ở Miền Nam với ông Dă Lan Nguyễn Đức Dụ (Gia phả, khảo luận và thực hành, 1970) thấy được tái bản mở rộng toàn quốc với bản in 2010. Sách có dẫn một vài gia phả mà ông sưu tầm hay tập họp được. Có vẻ v́ gia phả dù sao cũng mang tính cách riêng tư mà người Việt Nam th́ chưa quen với sự bày tỏ nơi công cộng nên khó có chuyện khai thác cho tính cách chung. Thật ra đôi khi chỉ v́ tính cách riêng tư đó mà các gia phả thường chi chú trọng đến lề lối dương danh, nghĩa là chỉ ghi chép những điều tốt, thành đạt của các nhân vật trong ḍng, giới hạn vấn đề ghi chép không lan qua đến những tiếp cận bên ngoài gia đ́nh, gia tộc nên không thể cung cấp được nhiều thông tin như mong muốn.

 

Bởi v́ mục đích sơ khởi của gia phả trong dân gian là để ghi nhớ ngày cúng giỗ, một dàn trải cụ thể của tục thờ cúng tổ tiên từ ư thức kết nối ḍng họ qua thời gian, trong chừng mực một đời người phải chu toàn. Điều đó thể hiện rơ ràng ở việc bất cứ gia phả nào cũng có chuyện ghi thế thứ, đôi khi không ghi ngày sinh mà lúc nào cũng phải có ngày, tháng chết. Không cần năm, bởi v́ chỉ cần làm việc xác nhận ghi nhớ một ngày, tháng nào đó trong năm là đă đủ căn bản cho công việc cốt yếu. Bởi vậy đối với những ḍng họ nhỏ, chi phái riêng biệt các ghi chép thường không nhiều, và các “gia phả” này có các tên riêng là Phổ ư, Mục lục, tờ Tông chi, có khi vỏn vẹn gom trong vài ba trang giấy, chỉ giở ra lúc rối rắm từ cuộc sống làm quên cả ngày cúng giỗ!

 

T́nh h́nh phát sinh ra các h́nh thức ghi chép ḍng họ như thế là do chênh mực phát triển của các ḍng họ nói riêng mà cũng cho thấy mức độ phát triển của tập đoàn, quốc gia chứa chấp các ḍng họ đó. Cho nên từ dấu vết gia phả của các gia đ́nh thành đạt có những thành viên hoạt động lan ra ngoài xă hội (phần lớn là làm quan, làm tướng) được ghi chép nhiều, nâng cấp ḍng họ đem lại dồi dào nội dung cho gia phả, ta có thể nghĩ là trong những thời yên b́nh, thịnh vượng gia phả đă được ghi chép nhiều hơn – và tất nhiên cũng sẽ thất thoát nhiều hơn trong các cơn biến loạn tiếp theo đó, như ảnh hưởng Cách mạng văn hoá ở Trung Quốc những năm 1960 trên Miền Bắc với việc thiêu huỷ sách vở xưa, phá nhà thờ họ, chuyển dịch mồ mả… Chứng thực trước mắt là phong trào liên kết ḍng họ t́m về cội nguồn, với những thiện ư nhiều cấp bực, lẫn lộn tính ranh ma cơ hội, do từ nguồn gốc những xáo trộn chiến tranh dẫn đến những phát triển đột biến thời b́nh đă gây ra sự đảo lộn thứ bậc xă hội mà người ta tranh thủ bồi đắp cho ḍng họ, cho cá nhân của ḿnh. Từ đó h́nh thành phong trào viết gia phả, viết lại gia phả với những sản sinh phức tạp mới, không chỉ dẫn đến sự hoài nghi trong hiện tại mà c̣n gợi ư gây thắc mắc với cả những thành quả xưa. Trong khi ở trung ương chỉ có chương tŕnh nghiên cứu gia phả th́ ta gặp ở Tp. Hồ Chí Minh một Trung tâm nghiên cứu và Thực hành gia phả nữa.

 

Các “chuyên gia” viết gia phả phồn tạp đến mức có lúc thấy loáng thoáng ở những quảng cáo trên báo chí, sau đó lại lẳng lặng biến mất cùng nhịp với phong trào viết lịch sử Đảng bộ Cộng sản xuống tận cấp xă phường, rầm rộ đến những năm 1990, chứng tỏ có sự liên hệ, tuy là không đồng đẳng, giữa hai phong trào. Các tay thợ viết gia phả đôi khi chỉ là những “sử gia” của phường xă, nhân tiện kịp thời sử dụng chút chữ nghĩa ế ẩm của ḿnh trong thời đại kinh tế thị trường hé mở, theo một cơ hội may mắn mà chính họ cũng biết là không thể kéo dài. Bởi vậy khi chương tŕnh viết lịch sử Đảng bộ cấp cơ sở bị băi bỏ v́ tổn phí quá nhiều th́ họ cũng biến mất tăm, chỉ c̣n lại những kiên tŕ thấy ở các ḍng họ lớn trên đường mở rộng thu tóm những “chi phái”, hay ở những ḍng nhỏ cố chen chân vào các tập họp có danh sẵn, nhân đó cố t́m một vị trí lịch sử cho các nhân vật hiện đại của ḿnh. Các nhân vật này, trong thế núp lén làm “cách mạng”, thay tên đổi họ soảnh soạch (như ông Nguyễn Cơ Thạch vốn họ Phạm, ông họ Nguyễn lấy họ Hồ mà người con oan khuất lại mang họ Vũ) khiến cho những người ngoại cuộc phải ngỡ ngàng khi nghe đính chính.

 

Khuynh hướng chung là sự “bao chiếm” ḍng họ, dựa trên lí lẽ những đổi thay vai tṛ trong lịch sử khiến có sự tản lạc của các thành viên nay mới có cơ hội gom góp lại. Ở đây thấy có sự cḥng chéo của ư thức bao chiếm và dựa dẫm. Một người họ Mạc đă dựa vào lời “những bà con tự nhận nhau qua lai lịch của gia phả (?) hay lời trăn trối của tổ tiên” để cho rằng các họ kê khai như Vũ, Phạm, Hoàng, Thái, Huỳnh… đều là gốc tử họ Mạc Hải Dương phải tản lạc v́ mất quyền làm vua. Sự dẫn giải như thế h́nh như bắt nguồn – hay đồng dạng, không cần thiết lắm, từ/với một bài trên báo hàng ngày Hà Nội Mới, dẫn đến ngầm ư cho rằng ông ta thuộc ḍng chính phái, không đếm xỉa ǵ đến việc những người có các họ kia có chịu tuỳ thuộc vào ông hay không. Có một cách thâu tóm giản dị hơn, là dựa vào tên gọi chắc nịch biểu diễn bằng Hán tự hay chữ Việt quốc ngữ. Cứ cùng một họ Dương là có thể kể từ Dương Đ́nh Nghệ hồi thế kỉ X qua đến các ông Dương trong sử kí Lí Trần Lê Nguyễn, cuối cùng đến ông Dương-nhà-ḿnh, là có thể thấy ḿnh thuộc vào một ḍng họ truyền đời cả ngàn năm. Chuyện này cũng không hẳn là mới bởi v́ thấy Ngô Th́ Nhậm, nhân bênh vực việc ông bạn Đặng Tiến Đông có gia phả móc nối họ Đặng với danh tướng Trần Hưng Đạo, liền kéo dài họ Trần lên đến viên tướng Trần Bá Tiên (503-559) có mặt trong cuộc tranh chiến với Lí Nam Đế, trở về Bắc lên làm vua hai năm ngắn ngủi nhưng cũng được ghi là một triều đại Trung Hoa!

 

Trường hợp họ Lí, ngoài sự bám víu họ Nguyễn, dựa vào sử cũ ghi việc đổi họ theo lệnh Trần Thủ Độ, mới đây c̣n níu kéo thêm dấu vết cho là đă truyền ḍng qua xứ Cao Li xa xôi (nay là Đại Hàn) với một nhân vật hoàng phái tên Lí Long Tường, trốn nạn quốc phá gia vong đến xứ sở mới vào năm 1226. Chuyện gia phả mơ hồ nhưng được gợi ư tin cậy càng lúc càng sít sao hơn v́ mối liên hệ mỏng manh xa xưa, nay nhờ các biến chuyển thời sự đă nối kết lại gần hơn. Chắc cũng có ảnh hưởng từ chính sách Đại Đông Á của người Nhật đang chiếm lĩnh Triều Tiên / Đại Hàn, và mon men, rồi cuối cùng đặt chân lên Đông Dương nên một học giả Hàn Quốc đă nghiên cứu gia phả ḍng Lí này (1936), viết lên (1943) để câu chuyện xuất hiện trên báo chí Việt ngữ đương thời. Chiến tranh 1956-75 và công cuộc làm ăn của người Đại Hàn trên đất Việt Nam khiến cho một sự kiện vốn chỉ có thể coi là giai thoại lại trở nên là lịch sử thiết thân của hai nước, và quan trọng hơn, là của hai ḍng tộc, để có hậu duệ chi phái đời thứ 35 về dự lễ giỗ Tổ (8-4-2009) ở Đền Đô (Bắc Ninh), dọn đường cho hậu duệ chính phái đời thứ 26 viếng Việt Nam năm sau. Và cũng dựa vào đó mà người ta đă gộp hai chi phái Lí Long Tường vào vị trí “Việt kiều” ở Đại Hàn!

 

Sự phát triển của đất nước sau chiến tranh khiến có việc xây dựng nhà thờ Tổ, làm lăng mộ bạc tỉ, khuếch đại tăm tiếng ḍng họ bằng công tŕnh văn hoá theo kiểu đặt gỉải thưởng sử học, như con cháu Phạm Thận Duật đă làm đều đặn, gần như ôm hết các luận án tiến sĩ quốc gia, khôn ngoan không chừa cả những luận án đắc thời đắc thế. Yếu kém hơn một chút, người ta nêu tên ḍng họ bằng cách thu xếp các bài viết về một hai nhân vật trong ḍng, có căn cứ trong quá khứ (quan triều), có uy thế trong hiện tại (chiến sĩ cách mạng có bằng liệt sĩ, lẵng hoa của nhân vật đương quyền) đủ chút dạng “nghiên cứu”, công cán đem vào làm Phụ trương cho một tạp chí chuyên ngành, kết nối theo một kiểu quảng cáo không đến nỗi lộ liễu lắm. Bởi v́ nếu vẽ vời quá quắt th́ sẽ gặp phản ứng tai hại, như chuyện nhân vật Phan Vân ở Nghệ An được tộc họ thêm thắt công trạng cứu nước, xin được nhà nước công nhận nhà thờ là Di tích lịch sử quốc gia, gây kiện tụng suốt mười năm, rốt lại bị băi bỏ, để thêm một dấu vết nhỏ về thời Thổ tả! Những tộc họ đă làm chủ nước đă có Ngọc phả của ḿnh nên chỉ phải gạt ra các trường hợp xu phụ, như Tôn nhân phủ của Nguyễn đă đối xử với phái họ Nguyễn Hữu muốn mon men vào làm dân tôn thất. Sự thất bại của những người này có nguyên nhân v́ lẽ quá ôm đồm. Họ níu ông Nguyễn Bặc ở đời Đinh th́ cũng không gây thắc mắc ǵ lắm nhưng cố bám ông Nguyễn Trăi có danh tiếng truyền đời đặt làm ông Tổ mà lại quên ghi ông Nguyễn Phi Khanh (cha), chứng tỏ có sự xu phụ lộ liễu. Họ không biết đến Nguyễn Anh Vũ, người con lạc loài sống sót sau cơn gia nạn chỉ được Lê Thánh Tông cho làm huyện lệnh (1464) hạng bét trong quan trường, mà lại gán cho con cháu Nguyễn Trăi các chức tước trùm trời, rồi cũng không đọc sử Nguyễn để thấy Tự Đức chê Nguyễn Trăi như thế nào mà dám ghép vào ḍng vua! Mưu toan tự nâng cấp, kết tụ lâu dài có thể bất ngờ trông thấy ở trường hợp ông Tố Hữu vốn tên Nguyễn Hữu Lành có khi đă được coi là “Tôn thất” Lành, và câu chuyện đày đoạ tác giả Cây táo ông Lành hẳn là có duyên do sâu kín từ sự kiêu ngạo hoàng phái kia kết hợp với nỗi run sợ phạm huư chuyển qua thời đại “xă hội chủ nghĩa”.

 

Khôn ngoan hơn, các ḍng họ đồng tự dạng với ḍng làm vua, khi không có bằng cớ chắc chắn, đă né tránh, để chừa chỗ cho những ḍng họ mang tên có thể lộn ṣng được với các “nhân vật lịch sử” có dịp lấy làm căn cứ bao chiếm địa vị cao cấp sâu vào tận quá khứ xa. Ví dụ nhân vật mang tên quen thuộc: Cao Lỗ không cần được hiểu với nội dung “cao thô” từ dạng h́nh Đá của cái “tên” kia, chỉ cần nắm bắt từ dạng h́nh “quốc ngữ” C-A-O, không đếm xỉa ǵ đến họ Đô nếu nhắc tên Đô Lỗ cũng có ghi trong sử sách. Cái họ được chọn lựa theo thành kiến, thói quen đó trở thành một họ riêng biệt, từ đó bao chiếm các họ Cao kết hợp theo những nguồn gốc khác, ôm luôn cả ông Lư CAO Sơn để một nhóm có họ Cao ngày nay đứng ra tổ chức lễ tôn vinh ông tổ (đá!) nhà ḿnh. Lập luận liên hệ của một nhân vật họ Mạc nói trên cũng là một trường hợp t́m cách bao chiếm từ một ḍng họ thất thế mà các cuộc hội thảo quốc gia mới đây chỉ đủ để làm công tŕnh sử học theo thời mà không có đủ thời gian để làm tăng nhân số ít ỏi đang thấy trước mắt.

 

T́nh h́nh kết nối ḍng họ như thế rơ ràng là có chen vào những toan tính không phụ thuộc vào chừng mực ham muốn kiến thức b́nh thường. Loại chen lấn núp bóng đi t́m sự nổi trội, danh vọng tập thể, cá nhân bên ngoài xă hội như thế đă có tác động ngược đến những nghiên cứu ở các lănh vực khác. Hội thảo “Thế kỉ XXI nh́n về nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản” gặp trở ngại về phần in ấn v́ lời đồn: Hội thảo để bào chữa cho Phan Thanh Giản với đề nghị xây dựng đền thờ, là do (cựu) Thủ tướng Vơ Văn Kiệt muốn đề cao họ Phan (gốc) của nhà ḿnh. Thật ra th́ sự gán ghép cũng bắt nguồn từ sự thật loan truyền, là có tay chân một số nhà lănh đạo đă t́m cách kết nối chủ ḿnh với một ḍng họ, nhân vật tăm tiếng nào đó trong lịch sử, càng xưa càng tốt. Cựu Thủ tướng Phan Văn Khải được loan truyền là con của Tổng bí thư Phan Đăng Lưu, c̣n Chủ tịch Trương Tấn Sang th́ không dừng lại ở ḍng Phó Tổng trấn Gia Định Trương Tấn Bửu mà c̣n được cho là có gốc tận xứ Nghệ của chính quyền nông dân Tây Sơn! Ai sống ở xa Phú Thọ hoặc Thăng Long, không thể t́m cách kết nối với bộ tướng Hùng Vương th́ phải t́m cho ra một ông tổ trên vùng “cái nôi của dân tộc” đó mới hợp với tinh thần thống nhất của thời đại. Điều ghép nối ngang ngược nhất đă xảy ra với một Giáo sư Đại học Tp. Hồ Chí Minh, người dẫn bằng cớ lung tung để chứng minh ông Nguyễn An Ninh trên xứ Mười Tám thôn Vườn Trầu danh tiếng, buộc phải có các ông tổ bà con với Đoàn Thị Điểm, Lê Hữu Trác của nhà Lê Trịnh, theo thời gian chuyển đổi từ Đoàn qua Nguyễn, trở lại Đoàn rồi qua Nguyễn lần nữa theo một nguyên tắc chỉ có ông học giả có bằng cấp quốc tế (giả) và tác phầm đầy kệ sách kia hiểu được mà thôi. T́nh h́nh mối “loạn” kết nối ḍng họ dẫn đến loạn gia phả như thế đă khiến ông Phan Huy Lê phải lo lắng cho tương lai sử học nước nhà khi các sử gia lớp sau phải đứng trước hàng đống gia phả mới kết tập, “sáng tác” mà không biết đúng sai ở chỗ nào.

 

 

Bách tính và những cái “họ” mang dấu vết Trung Hoa, bản xứ

 

Ngày nay đọc sách chữ quốc ngữ, người ta dễ lăng quên rằng có cả một nền tảng văn hoá Trung Hoa vẫn đứng sau các biểu hiện sinh hoạt chính trị, xă hội của Việt Nam, tất cả đều từng được ghi chép bằng thứ chữ riêng biệt của Trung Hoa, quen gọi là chữ Hán. Cũng như Nhật Bản, Triều Tiên / Đại Hàn, các tên họ dù là đọc theo âm bản xứ nhưng cũng đều có thể biểu hiện bằng Hán tự. Họ, tên của Chủ tịch Triều Tiên, Tổng thống Đại Hàn biểu diễn bằng Hàn ngữ (Han goul) ghi âm La tinh: Kim Jong Un, Park Geun Hye đều có thể viết ra chữ Hán để người Việt thấy các âm Hán Việt: Kim Chính Ân, Phác Cận Huệ trên báo chí ta. Lịch sử Triều Tiên có các ông vua Thái Tổ, Thái Tông… đọc loáng thoáng tưởng như là các ông vua Việt có lúc qua cai trị nơi đó – cụ thể hơn, họ có ông Lí Thái Tổ mở triều đại Lí năm 1392, sau ông Lí Thái Tổ / Công Uẩn đến gần 300 năm! Bởi vậy không lấy làm lạ là các họ Việt dù từ nguồn gốc nào cũng có dạng của “bách tính” Trung Hoa, từ gốc của quan lại cai trị thời thuộc địa, của đồng tộc họ di cư về sau đă đành mà từ trong núi sâu hoang dă ra lị sở “văn minh” cũng có thể mang dạng chữ Hán như vậy. Và sự xuất hiện của chúng là theo quan niệm truyền ḍng vay mượn của Trung Hoa, đi theo với sự du nhập các yếu tính văn minh khác. Gia phả do đó được kết thành theo lối kết tập truyền thống phụ hệ của Trung Hoa: quan niệm Tông phả.

 

Không nên để lậm sâu vào những tranh chấp ngữ nghĩa, việc phân biệt gia phả của Việt Nam và tông phả ở Trung Hoa nơi đây chỉ dừng lại ở độ dày mỏng thời gian và mức độ lan rộng của sự ghi chép về các tộc người được cho là cùng chung huyết thống mà thôi. Tất nhiên là cũng có những ḍng họ đi trực tiếp từ phương Bắc xuống và do ư thức kết nối tông phả lâu đời, con cháu khoe là đă giữ được mối liên hệ ấy qua ghi chép, như họ Vũ Mộ Trạch đất “tiến sĩ” của Hải Dương. Nhưng cũng phải phân biệt những người mang chung một “họ” mà di chuyển ở những thời điểm khác nhau, ví dụ họ Lí của con cháu Lí Công Uẩn không thể xếp chung với các người có họ Lí ở Chợ Lớn ngày nay, những người họ Lí đó trong tầng lớp b́nh dân Trung Hoa đông đến nỗi thấy có thành ngữ Trương Tam, Lí Tứ trong tiểu thuyết chương hồi. Cũng vậy, họ Hoàng vốn gốc quư tộc của lớp thiểu số Nam Trung Hoa (“hoàng” chỉ màu vàng, đặc biệt dành cho vua, người chủ tể) thấy rất rơ quanh các chúa Trịnh, nếu có bà con đi trước vào Nam phải mang họ Huỳnh v́ kị huư Nguyễn Hoàng th́ sẽ không nhận ra nhau, không nhận cả những Huỳnh… nhập cư từ thế kỉ XVI ở Đàng Trong – không nhận, không những v́ dạng họ đă khác mà c̣n v́ ngay nơi cỗi gốc cũng đă khác xa. Con đường của cái “họ” ṿng vèo như thế nên lối kết hợp “họ” theo cùng dạng h́nh Hán tự (hay chuyển qua quốc ngữ) như đă thấy là làm việc sai lầm, nếu không nói là soán đoạt.

 

Mặt khác, qua sự kết nối ḍng họ, người Việt c̣n cho thấy những dấu vết mang tính Đông Nam Á từ xa xưa của ḿnh. Đó là sự liên hệ mà sách vở Trung Hoa cũng ghi nhận, là theo lối “Phụ tử liên danh”. Nói giản dị là người con lấy tên cha làm họ để con cái lại lấy tên ḿnh làm họ cho chúng. Và cứ thế mà tiếp nối.

 

Bằng chứng lịch sử là ở cái xứ của tiểu thuyết Kim Dung quen thuộc, đất nước Đại Lí có họ Đoàn v́ nước Nam Chiếu mà họ kế tục đă theo Trung Hoa, bỏ tục Phụ tử liên danh (Chiêm Toàn Hữu, bản dịch 2004). Về chứng cớ dân tộc học c̣n thấy ở người Miên (Đinh Văn Liên 2005), cho nên “Bác” Pot đi làm cách mạng, giấu tên Saloth Sar nhưng khi lộ ra ở bực cao quyền bính th́ nổi lên các anh chị Saloth Roeung, (Sa)Loth Soung, Saloth Chhay, Saloth Nhep, tất cả đều là con của một ông có tên riêng Saloth. Trên trường chính trị Đông Nam Á là các nhân vật quen thuộc: Aung San Suu Kyi con của anh hùng Miến Aung San, Tổng thống Megawati Sukarnoputri là con của (cũng) Tổng thống Sukarno, người giành độc lập cho Nam Dương. Cho nên chớ tưởng “Hai Bà” nổi dậy có “uy danh động đến Bắc phương” là có họ xuyên suốt của “con cháu Hùng Lạc tướng quân”. Cho đến nửa sau thế kỉ XX, ông Nguyễn Duy Hinh (Văn minh Lạc Việt 2004) c̣n thấy trên vùng đất tổ Mê Linh đó, con cái lấy chữ lót của cha làm họ của ḿnh theo một cách thức khá rắc rối, rơ là bằng chứng của một thói tục “phụ tử liên danh” lệch lạc chỉ v́ đă phải trải qua bao nhiêu thế kỉ chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa. Báo chí của đầu thế kỉ XXI vẫn c̣n lôi ra bàn tán về t́nh trạng lạ lùng làm rắc rối công tác hộ khẩu này mà không thấy chuyên viên nào nhảy vô t́m hiểu cặn kẽ thêm, cứ theo thói quen ngạc nhiên một chút rồi lại vẫn măi măi bất động, bằng ḷng với quá khứ như đă thấy. Cũng nên lưu ư về trường hợp thừa kế nhà ở (và nuôi dưỡng cha mẹ) qua người con út, thấy ở Nam Bộ và vài vùng ở Quảng Nam, không biết có nguồn gốc văn hoá từ đâu…

 

Quan niệm truyền ḍng theo lối Trung Hoa đă ngăn chặn những tính chất riêng biệt phải có của dân Việt khi tách rời thành một nước độc lập. Đă nói khuynh hướng hướng thượng khiến người ta cố t́m cách ghép ḿnh vào một nhân vật, một ḍng họ danh giá. Trước mắt bây giờ là một số bộ tộc phía tây các tỉnh Trung Bộ lấy họ Hồ, họ Phạm của Chủ tịch, Thủ tướng nước. Cho nên họ Nguyễn của ḍng có người-làm-vua nay tràn ngập đến nỗi người Mỹ đă lấy Nguyễn làm tiêu biểu cho họ Việt Nam, c̣n ở Australia th́ có người dự đoán là độ mươi năm nữa họ Nguyễn sẽ đè bẹp họ Smith để lên đứng đầu bảng xứ này. Và trong trường hợp văn minh Trung Hoa ngự trị th́ không ước vọng nào cao hơn là ghép họ ḿnh với một ḍng vua – không được th́ quan quyền xứ Tam Hoàng Ngũ Đế. Trường hợp Ngô Th́ Nhậm là một dẫn chứng trong lúc chưa có thể kiểm tra xem Hồ Quư Li thật có ông tổ thuộc đời Ngũ Đại không, bởi v́ từ dấu hiệu thế kỉ X đó ông ta đă không bằng ḷng, lại muốn níu kéo lên đến thời hồng hoang của Trung Quốc, cho đến vua Thuấn, hơn cả Thuấn với tên nước: Đại Ngu.

 

Tổ chức chính trị bậc cao đặt ra vấn đề kiểm tra dân số th́ phải có sổ bộ ghi chép cho nên ví dụ họ Đinh ở Việt Nam, xuất hiện từ xưa trên đất Bắc hay là bây giở ở phía tây Quảng Ngăi, không cần phải là con cháu ông Đinh Bàng Đức thời Tam Quốc. Có một họ Đinh tại chỗ, dù không hẳn là người “Việt” theo dạng h́nh ngày nay nhưng cũng dễ cho những người không họ bám víu cầu cạnh “bắc quàng làm họ”. Chỉ rủi ro là ḍng tộc từng làm vua được tôn xưng là “hoàng đế đầu tiên” (Tiên Hoàng) mà phúc lộc không dài nên ít người theo, khác với các họ Lí Trần tiếp nối thu phục những người ḍng Thái cũ hay mới cho mang vào sử sách triều đại các họ Trịnh, Thân (hay những họ ẩn khuất khác) để tiếp tục truyền ḍng xa đời đến ngày nay, không có ai dám bảo là không-Việt hết. Họ Lê xứ Thanh Hoá, một thời chưa chen vào tranh chấp quyền bính trên cao nên không bị tận diệt, chèn ép, cứ giữ danh vị sàn sàn mà cao cấp ở địa phương, đủ cho người ta ngưỡng vọng mong được cùng họ với ông Lê Cốc, Lê Lương của thế kỉ VII, X, XI, kéo theo những tập họp Thái từ phía tây tràn qua phân tán trong vùng với các ông chúa “mường” lớn nhỏ: Lê Lai, Lê Lợi…

 

Danh vọng dài lâu nhưng sức bung cựa quậy trên vùng chật hẹp của các họ danh giá sẵn khiến họ Lê không đủ hấp dẫn bằng họ Nguyễn thênh thang trên hơn nửa đất mới chiếm vừa rộng, vừa mới mẻ lại không đối thủ, dễ tạo hấp dẫn hơn. Sự hội nhập của các ḍng thù nghịch (Mạc, Trịnh) hay đồng hương tuy có tạo ra các cấp bực thân, sơ với các chữ lót “phúc”, “hữu”, “cửu” nhưng không ngăn được các kẻ ở ṿng ngoài quyền bính lạm dụng: một ông chủ buôn nguồn nào đó ở Phú Yên đặt tên con là Nguyễn Phúc Long, để ông con b́nh yên tung hoành trên núi, chỉ hoảng hốt bỏ chữ lót “phúc” khi về đầu quân Gia Định! Nhát nhớm th́ chỉ mượn một họ Nguyễn rồi chen chữ đệm “văn” cho con trai, “thị” cho con gái cũng thấy đủ là gần gũi. Chuyện anh em Tây Sơn với bà mẹ được gán tên Nguyễn Thị Đồng là bằng cớ nổi trội nhất. Họ Nguyễn đă đi vào ḍng quư tộc Chàm c̣n sót lại là do các ông Chúa ban phát cho kẻ phục vụ ḿnh, hơn là cứ t́m theo dấu vết lăng mạn (tội nghiệp) của công chúa Huyền Trân xưa. Kẻ thừa thải khác chưa kịp đủ tự tin lăn lưng vào họ vua th́ chờ được ban các họ Việt, biểu hiện trên giấy má sổ bộ bằng Hán tự hay chữ quốc ngữ ngày nay. Thử kể những người danh tiếng: Sơn Ngọc Thành, Thủ tướng Cambodge 1945, quấy đảo chính trường Chùa Tháp các năm 1950; Sơn Ngọc Minh, có mặt trong Bộ đội hải ngoại thời Kháng chiến Nam Bộ, làm thủ lănh Issarak cho Việt Minh nên chết khuất lấp sau khi bị Pol Pot tranh đoạt quyền bính; Ieng Sary, Ngoại trưởng Kampuchea Dân chủ, có cái tên Kim Trang từ ngày ở Trà Vinh, ít được biết hơn. Và có những người mang họ mới theo một cách t́nh cờ của phong cách thư lại thật suôn sẻ tự nhiên: đó là các nhân số chưa có họ, chỉ được gọi theo “tên” mà trở thành mang họ Danh! Có thể suy đoán rằng đây là những người cùng đinh mạt hạng trong tập họp Khmer trên đất Nam Ḱ, mang họ mới của thời Pháp thuộc trong sổ bộ chữ quốc ngữ, theo ngôn từ cửa quyền quen thuộc: danh (tên) Bên, danh (tên) Xary…

 

Nguồn gốc thư lại dính dấp với sự dễ dăi ngôn từ của họ Danh khiến ta suy nghĩ về một họ khác, xưa hơn, của tập họp người tiếp xúc sớm hơn với các triều vua Việt: họ Phan của người Chàm xưa và Việt nay. Lại cũng là chuyện đă nói nhiều lần rồi. Không phải chỉ là suy đoán vẩn vơ khi nói rằng các họ Phan thấy trong sử sách Lí Trần – cả Lê, cho thấy đó là những người Chàm tù hay hàng binh, nô lệ chiến tranh. Và cũng không nên v́ sự tự tôn của người thời nay mà chùn bước trong lập luận. Những kẻ thấp kém trên đất bị buộc phải sống đó không cần họ, chỉ gọi tên trống không là đủ. Cả đến các ông chủ ruộng trên tấm bia 1210 chỉ có một ông họ Nguyễn, c̣n bao nhiêu là mang một cái tên cộc lốc. Với thế kỉ XI, XII quan quyền Lí Trần nhận ra các nô lệ kia là người khác nước, khác chủng tộc rơ rệt nên phải thêm cho họ một yếu tính xác định: phiên Ma Lôi, phiên Lân… Gọi “phiên” v́ mượn một ư niệm định hướng dân tộc có nguồn gốc Trung Hoa để chỉ toán người trước mắt, cũng cho là thuộc nước nằm phía tây Thăng Long. Cũng không biết tại sao “giống người phiên” lại chuyển qua âm “phan” của một họ người – hay lại cũng chỉ v́ nhu cầu hành chính? Lí lẽ của suy luận có chút tự tin nhờ bằng cớ của Lê Quư Đôn về tên gọi của những người Sách cao cấp ở Đàng Trong, các “phiên” chịu thuế ở đó đă có dáng mang họ Phan, không để lại ngập ngừng, thắc mắc khi được chuyển qua dạng quốc ngữ ngày nay. Điều đáng chú ư là từ sự phát hiện tên tộc họ này, phối hợp với những chứng cớ vững chải từ sử sách các triều đại Lí Trần Lê mà ta thấy bộ phận người Chàm đă cắm rễ sâu trong vùng vẫn thường được coi là cái nôi của người Việt, một quan niệm gốc gác kiêu ngạo địa phương đă ăn sâu vào tâm trí cả ở tầng lớp trí thức, dẫn đến sự hiểu biết lệch lạc trong tiến tŕnh lịch sử tiếp theo. Các tù binh xây đền tháp của Lí đó, các người trong thôn Bà Già tiếp đón Trần Nhật Duật kia, có bao nhiêu người ra đi trong ḍng người Nam tiến tiếp nối, như truyền ngôn mơ hồ ở các gia đ́nh phía Nam, mà cụ thể là trong gia phả họ Ong/Ung của làng Phong Lệ quận Cẩm Lệ Tp. Đà Nẵng?

 

Ư kiến nhắc lại, cho rằng chính các tù binh đó đă ngân nga những câu lục bát đầu tiên (h́nh như người nêu vấn đề trước hết là Vơ Phiến, và phụ hoạ tiếp bên ngoài là ông Trần Ngọc Ninh, Viện trưởng Viện Việt học California) đă bị một người ngày nay phản đối gay gắt nhưng không trưng ra bằng cớ nào ngoài sự tự phụ là người ấy quá yêu “đất/nước/người Việt”. Bởi v́, tuy cũng vẫn chỉ là giả thuyết, nhưng rơ ràng các văn loại mà người Việt học từ đất Trung Hoa để thi cử, ngâm vịnh… không có thứ nào thu xếp vần điệu theo lối sáu tám cả. Trước 1945 có người mày ṃ lôi ra vài câu lục bát của Dịch, Thi lạc lơng trong kho tàng văn thơ đồ sộ của Trung Hoa (“lục tam hàm chương khả tŕnh / Hoặc ṭng vương sự vô thành hữu chung”) nhưng không thể giải thích v́ sao có ông trạng nguyên hay ông nông dân hay chữ nào đó lại moi móc được ra để nối tiếp đặt văn thơ truyền đời. Bây giờ th́ học giả Việt đă chứng minh lục bát Việt không phải chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVI nhưng có thể sớm hơn, vào trước thế kỉ XV (Hoàng Thị Ngọ 2011), và tất nhiên cũng được ngầm hiểu là sáng tạo của “người Việt”. Đề xuất của ông Vơ Phiến có thể coi như một loại ư nghĩ bất chợt / xuất thần mỏng manh theo kiểu chuyện trái táo của Newton nhưng nếu đặt trong khung cảnh của các phát hiện về ảnh hưởng của tù binh Chàm như đă thấy, và kết hợp với khám phá của học giả Việt, th́ sự xác nhận h́nh như trở thành có cơ sở vững chải hơn. Cuối thế kỉ XIV có sự chuyển ép cấm nói tiếng Chiêm Lào để dân tộc thuần hoá hơn (1374). Điều đó nhất định phải gây ra t́nh trạng chuyển hoá dứt khoát từ đám hậu duệ tù binh vốn đă Việt hoá nhiều rồi. Lục bát được sinh thành tại chỗ, từ đám con cháu tù binh Chàm, vốn sẵn có cách ngâm nga sáu tám của ḿnh (?) đă đem chuyển sang tiếng Việt học hỏi được, học theo một tiến tŕnh tự nhiên, hay cho giống người để khỏi bị tiêu diệt khi thấy vẫn c̣n khác người trong vị thế mong manh. Và tất nhiên văn nhân Việt cũng theo đó mà tập tành một văn thể mới, không từng thấy trong kinh sách chữ Hán học được. Tất nhiên giả thuyết này vẫn thật khó chấp nhận đối với những người tự măn với cái gốc Dân tộc Lớn, Dân tộc Chiến thắng, cố che lấp sự biếng lười trí thức để bằng ḷng với những giải đáp có sẵn.

 

Những tù binh cũ đă chuyển hoá chỉ có thể nhận ra dưới mắt nhà nghiên cứu khi có ông quan Tây làm việc ở Nghệ An chụp được tấm h́nh một nhà họ Chế áo dài khăn đóng để so sánh với các ông ḱ mục trên xứ B́nh Thuận, nơi vẫn c̣n sự hiện diện của tộc Chàm. Tuy nhiên ngay trên vùng đất làm nô lệ, khi dạng h́nh cụ thể đă có sự phân biệt khác đi, dấu hiệu gốc tích vẫn c̣n ẩn khuất trong tập tục, tín ngưỡng khó xoá bỏ bởi sự linh thiêng thường làm chùn tay tập đoàn thắng thế. V́ thế có những tên Phan Thị Lương… của các nơi thờ nơ nường, có chùa Bà Đanh / Bà Banh, miếu Bà Chúa Ngựa trên vùng châu thổ, có thần Phan Đà trong một đền thờ Nghệ An…

 

Rơ rệt hơn, là ở trên những vùng “xôi đậu” chủng loại, nơi căn bản của người bản thổ, nhất là đối với những người quyền chức địa phương cũ mà ngay cả vua quan Chàm Việt cũng phải t́m cách liên kết, dung dưỡng một chừng mực. Với thời gian người bản thổ sẽ chuyển hoá theo thời, học được cách viết gia phả theo các vọng tộc mới, với một số kiến thức mới tiếp thu. Bản gia phả nhà họ Phan ở hai làng Đà Sơn, Đà Li thuộc quận huyện Tp. Đà Nẵng được h́nh thành dưới tác động thời gian như thế chứ không hẳn là “một bản phổ chí nói về quan hệ Việt-Chăm” (Vơ Văn Thắng, dẫn theo Hồ Trung Tú: Có 500 năm như thế, 2012) theo cách suy nghĩ gượng gạo về một thứ tinh thần “chuộc lỗi” mà không phải phạm huư đối với khuynh hướng chính thống về quan niệm “dân tộc thống nhất” ngày nay. Ḍng họ Phan đó rơ ràng c̣n vướng víu với quá khứ xa nên c̣n nhớ lịch sử chung của tập đoàn họ, từ đất nước rộng lớn co rút lại nơi khu vực chật hẹp trên đất Quảng Nam. Họ cho thấy dấu vết là của một thủ lănh địa phương trong chính quyền cũ (“ngă thị Chiêm chủng”), đă giữ được một chừng mực quyền thế trên chính quyền chiến thắng mới để hoà nhập được trong nền văn hoá mới. Cho nên khi họ viết gia phả vào đời Gia Long với chữ Hán, lúc đă có ư niệm về một khoảnh đất Việt Thường với ông vua Lạc – chưa thấy ông vua Hùng, th́ phải lộn xộn nhập chung chuyện ḍng họ nhà ḿnh cùng với các họ Trần Hồ Lê… Đ̣i hỏi làm ǵ một sự tŕnh bày hợp lí cho một trường hợp phải uốn ḿnh theo các ẩn khuất của hiện thực sống? Dấu vết các Ông/Ung, Ma, Trà Chế c̣n lại cho thấy khởi đầu gốc Chàm của họ, như trường hợp họ Trà của thôn Đồng Dương (Indrapura cũ) nay c̣n chiếm đến 40% hộ dân ở đấy. Tuy nhiên, điều ta không biết là khi các ḍng tộc này mang tính phụ hệ rơ rệt như trong tính chất gia tộc Việt Trung th́ mức độ huyết thống của họ đă biến đổi ra sao, như sẽ bàn sau đây.

 

H́nh như triều đại Tây Sơn đem lại sự đảo lộn lớn lao trong suốt chiều dài Nam Bắc đă khiến cho vùng đất kinh đô Chàm cũ mất các dấu vết bản thổ, giống như tên Vjaya đă chuyển hoá lạc loài thành Phú Đa, tên của một khúc sông, một làng xóm, ngôi chợ. Tuy nhiên bức h́nh vẽ người lính Tây Sơn năm 1793 ngay trên đất Quảng Nam xa đă cho thấy dáng dấp Mă Lai, Chàm không sai chạy. Các họ Trà, Man(g) c̣n thấy lẻ tẻ qua những người b́nh thường, đôi khi t́nh cờ nổi bật như lúc phong trào t́m nhà cổ mới lộ ra các ông họ Ma ở Phú Yên, chủ nhân những ngôi nhà lá-mái đặc trưng của dân giàu có trong vùng.

 

Trường hợp cúng Việc lề cho thấy một cách “viết” gia phả riêng của những tập đoàn không biết chữ (Hán), không rơ là của di dân Việt hay dân bản thổ chuyển hoá. Ông Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc sở Văn hoá, Thông tin và Du lịch Quảng Ngăi có nhắc đến lối cúng này trong tỉnh của ông nhưng không thấy đưa ra chi tiết. Bản thân chúng tôi trước 1975, biết nó có ở Nam Bộ, về sau thấy một hai tác giả dẫn ra trong tập họp Nam Bộ, đất và người, cũng không nhiều chi tiết lắm, có lẽ v́ không nhiều gia đ́nh theo mà cũng có lẽ v́ thời thế đổi thay quá nhanh làm mai một một hiện tượng bên lề. Đó là lối cúng giỗ của vài gia đ́nh cùng họ hay khác họ không ở gần nhau nhưng nhận ra bà con v́ cùng một lối làm mâm cúng với một loài cá, một cách tŕnh bày món cúng riêng biệt… Và chứng cớ này cũng cho thấy gia phả là một yếu tố văn hoá mới (Trung Hoa) chồng chất lên quan niệm thờ cúng tổ tiên bản xứ, nó làm sáng tỏ sự liên hệ nhiều đời bằng văn bản, theo một trật tự thế thứ vốn là mơ hồ trước kia.

 

Vậy là nói tóm lại, tính chất tông phả vay mượn của Trung Hoa dẫn đến sự kết nối, h́nh thành các ḍng họ Việt Nam hiện nay đă bác bỏ mọi ư định t́m ra một “tên” ḍng họ “thuần Việt”. Tất nhiên không thể ngăn cản người nào cố công cùng sức đi làm việc ấy, và khi có quyền lực th́ có đủ tay chân để lập ra một chủ nghĩa huyết thống tập thể, lập ra chủ thuyết về sự tinh thuần, cao cả của ḍng giống Việt buộc mọi người phải theo. Nhưng ngay cả ở cội gốc, ở quan niệm tông phả của Trung Hoa cũng đă có sự thiếu sót trong sự kết nạp các thành phần làm nên một ḍng tộc. Không phải người nào cũng được ghi chép như nhau. Được chú ư nhất là các nhân vật thuộc ngành Trưởng, và là người nam. Gia phả mang tính phụ hệ, chỉ giữ lại cái “họ” của thành phần nam. Ngưởi nữ được ghi theo chồng, cả theo con, với những chi tiết tối đa gán ghép theo ư nghĩa phục vụ kia, nghĩa là ngoài những điều khoản căn bản phải theo th́ những thuộc tính của người nữ được thêm là từ sự liên hệ với người nam gần gũi: công dung ngôn hạnh không có, không cần thiết cũng được nêu ra, chức tước ân thưởng về mặt xă hội được nhận lănh từ người cha, người chồng, người con.

 

“Nữ nhân ngoại tộc” nên khi về bên chồng cũng không có được vị trí một nửa thành phần phối giống như họ đă đóng góp. Trong một thế hệ, người nam chỉ đóng góp một nửa, cái họ anh ta mang khi truyền cho con chỉ có giá trị đúng 50%, thế mà trước nhân quần (Việt, Trung) nó vẫn là 100%. Người ta đă không tính đến yếu tố thời gian và không gian trong sự cách biệt thế thứ. Thử nghĩ mươi đời sau, giá trị cái tên nó đại diện thật sự c̣n được bao nhiêu? Cái ǵ đă thành thói quen th́ trở thành b́nh thường, sự chiếm hữu lâu ngày trở thành chính đáng là vậy. Người ta đă không thấy, không nhận ra dấu vết soán đoạt cái “tên” của ḍng họ trong gia phả. Người ta đă để quy ước xă hội lấn át thực tế, quên dấu vết “huyết” thống trong sự thành tạo nên con người. Vua chúa châu Âu cũng lưu ư đến tính chất này nên tuy cho phụ nữ cũng được kể vào vị trí thừa kế (Bà Hoàng Elisabeth II) nhưng chỉ mới đạt công b́nh dứt khoát khi có quyết định cho con của cặp Hoàng gia William và Kate dù là gái cũng vẫn giữ địa vị số Một đối với các anh em tiếp nối. Sự bất công về h́nh thức ưu thế nam có thể được tạm điều chỉnh một lần khi có sự giao tiếp với các tập đoàn theo mẫu hệ. Ví dụ khi người trai Việt lấy vợ Chàm th́ con theo họ mẹ, và có lẽ v́ thế mà ta thấy c̣n có các họ Ông, Trà, Chế… khuất lấp trên các vùng Chàm cũ. Chỉ khi tính đến yếu tố nữ để ghi nhận th́ sẽ gặp những người bà con bất ngờ, như ông Tổng thống Hoa Ḱ có nửa máu da đen lại có thể t́m được 400 người bà con từ phía mẹ, trong một ngôi làng heo hút nơi xứ đảo Ireland của châu Âu da trắng! (Và cũng để ghi nhận thành kiến: Sao với với một nửa máu da trắng, ông Tổng thống vẫn bị coi là Da đen?)

 

Có lẽ tính chất Đông Nam Á của khu vực, tồn tại ít nhiều suốt thời gian lịch sử của dân Việt đă phá hỏng một phần sự ràng buộc vào quan niệm phụ hệ của gia phả. Bởi v́ có những người nữ, sự kiện nữ nổi bật trong lịch sử dân Việt. Coi chuyện thần thoại như là tượng trưng th́ cũng có bằng cớ Năm mươi người con theo Mẹ lên núi lập triều đại vua Hùng, trong lúc 50 người con theo cha xuống biển th́ lặn mất tăm. Khuất lấp nhưng với tinh thần khoa học mới th́ thấy dấu vết ḍng mẹ đè nặng trên sự truyền ngôi của các triều đại, không những khi c̣n yếu ớt, thô thiển như Ngô, Đinh, (tiền) Lê mà cả đến các thời lập được cơ sở vững chắc như Lí, Trần, Hồ. Sử chính thức không ghi nhưng không phải là chuyện tưởng tượng về các bà trong làng xóm quản lí kinh tế gia đ́nh, nuôi chồng con ăn học, cả đến khi chồng làm quan với mức lương c̣m cơi. Tính chất bất toàn của gia phả theo quan niệm phụ hệ dẫn đến sự bất công đối với người nữ, đă được ông Phan Khôi nêu ra theo bằng chứng gia đ́nh: bà cố của ông tái giá, dựa vào sinh kế nhà chồng mới, nuôi con chồng cũ học hành đỗ đạt, với chức tước hưng vượng cả nhiều đời sau đó cho những người họ Phan của ông mà vẫn bị nhà chồng cũ bỏ bài vị, không cho cúng giỗ! Bây giờ, thoát khỏi ảnh hưởng của quan niệm Tây phương đă gây nên sự bất măn kia của ông Phan Khôi, xă hội Việt Nam trở về với “truyền thống” cũng cho thấy bóng dáng người phụ nữ năng động xưa. Tuy các nhân vật nữ trong chính quyền chỉ làm việc tô điểm cho một chính quyền Đực đến mức thô bạo nhưng nấp sau các công cuộc “làm ăn”, “chạy mánh”, kể cả ở các tập đoàn kinh doanh đều có bàn tay những người phụ nữ tháo vát. Rồi như minh chứng cho sự chèn ép của xă hội, những người nữ chống đối hiện nay cũng nổi bật lên, chịu đựng nặng nề quyền uy sấm sét của những người cầm đầu đất nước đang lúng túng níu kéo quyền lực. Đă có sự dọ hỏi về số người nữ bị tù dày về chính trị ở Việt Nam hiện nay, cho thấy là họ có số lượng vượt lên mọi nước trên thế giới, kể cả nơi những nước Hồi Giáo có đàn bà đi ngoài đường trùm kín từ đầu đến chân như những bóng ma.

 

Tông phả, địa vực và ư thức bản thân (identity)

 

Sự phân tích về phần giá trị cái tên, h́nh dạng chữ dành cho một “họ”, với sự cấu thành phức tạp của gia phả, thường th́ vẫn không làm sa sút mối liên hệ, nhất là về mặt uy danh, của một người được mang tên ḍng họ đó. Người ta vẫn hănh diện về t́nh trạng “con ông, cháu cha…”, và nếu cần th́ trưng gia phả, bịa gia phả như ta đă thấy. Sự nghiên cứu đi sâu vào các ngóc ngách của tâm tư có thể bị coi là những kẽ vạch không xứng đáng nhưng cũng là chỉ ra các khía cạnh ẩn giấu nhân bản của những con người thật với đời sống thật, chưa bị biến đổi v́ danh lợi tự thân hay v́ cách nh́n của kẻ khác chen vào.

 

Họ Đặng của Đặng Tiến Đông có ông tổ Đặng Huấn nhả nghèo, lạc mất mả tổ (“thiên táng”), làm lính hầu mà bị làng từ chối cấp ruộng, nhảy qua nhảy lại trong biến loạn, nhờ đó níu kéo thông gia với chủ tướng cần kẻ phụ giúp nên được Phan Huy Chú bất đắc dĩ ghi chép vào sử sách. Trong đà thăng tiến, người trong ḍng đem ghép với một ông họ Trần thất thế có lẽ phải cải đổi thành họ Đặng, nên nối kết được với danh tướng Trần Quốc Tuấn. Gia phả sau đó lại dày thêm v́ Đặng Tiến Đông gặp bước ngoặt lịch sử Tây Sơn diệt Lê, đă củng cố sự nối kết kia. Gần giống như nhóm Nguyễn Hữu của Nguyễn Hữu tộc gia phổ, nhân dịp Ngô Đ́nh Diệm lật đổ Bảo Đại (1956) đă tự xác quyết ḿnh thuộc ḍng chúa chính tông, xoá bỏ sự phủ nhận của Tôn Nhơn phủ nhà Nguyễn đối với họ (1918) bởi v́ Nguyễn Hữu (cũng như Nguyễn Cửu) chỉ là ghi nhận sự liên kết ban đầu của họ Chúa mà thôi. Họ Phan Hà Tĩnh th́ sau thời làm “phiên”, “thủ lĩnh (một) Nghệ An trại chủ”, đỗ đạt, bỏ chữ lót “văn” (một anh trai nào đó) thành Phan Huy… đổi đời trên vùng đất quyền hành mới, nối kết với hệ thống thần thuyết nơi đây, cho ông tổ làm “bộ tướng của Tản Viên Sơn Thánh” (rể Hùng Vương). Ư thức nâng cao ḍng họ đi theo sự thăng tiến quyền hành nơi khu vực chiếm đoạt mở rộng, điều đó thấy rơ trong việc họ Lê từ đất rừng Thanh Hoá, bản thân Mường Thái, khi chiếm đất Thăng Long, lại nhận ông tổ Hùng Vương mang dấu ấn thần thoại Nam Trung Hoa của tập họp “người Việt” từng có nhiều triều đại trên vùng đồng bằng, qua nhiều thế kỉ đă tuần tự học tập cách tổ chức chính quyền theo phương Bắc, nhuần nhuyễn các thần thoại, huyền thoại sáng tác, pha chế từ các tay danh sĩ, sử bút Thiên triều. “Cung cũ của Lạc Vương” ghi nhận thời Minh thuộc ở Phú Thọ, mà nay được gọi là của Hùng Vương đó, có thể cũng là của một thủ lănh Tày trong vùng, là di duệ của những ḍng Thái lấn sang đông từ những thế kỉ trước. Họ Nguyễn rủi ro tụt hậu trong thời gian, khó t́m cho ông thần Tống Sơn Đại vương của ḿnh một huyền thoại trên đất đă chật người, đầy sự kiện ghi chép cụ thể, nên dù đă có người làm vua, tột đỉnh đương quyền, chỉ có thể gượng gạo đẩy vào gia phả nhà ḿnh một ông Nguyễn Bặc, thân tướng của vua Đinh – c̣n hơn là bằng ḷng với một ông Nguyễn Kim mà mồ mả không biết t́m nơi đâu, hẳn v́ đă theo tục Bỏ mả của thời c̣n trên núi rừng.

 

Tuy nhiên sự thất thế đó của họ Nguyễn-làm-vua cũng cho thấy quan niệm tông phả đă có đà chuyển biến mở rộng từ khuôn khổ gia đ́nh, gia tộc ra đến địa vực dân nước. Nhà Nguyễn phải dần dần rời bỏ quan niệm gốc gác từ “Ô Châu” để nhận ông vua Hùng làm tổ, đổi sự chính thống riêng rẽ lấy quyền uy chiếm đóng trên đất An Nam của họ Lê, chịu đựng sự “thông thái” của đám sĩ phu đất Bắc đem truyền thống Quốc tổ ba trăm năm của họ vào thời mới, như một dấu hiệu đầu hàng mà không phản bội chúa cũ. Cái đà đó đă khiến những người dân Việt Nam trên vùng đất cổ Việt, trong thời người Pháp chiếm đóng, vốn không mặn mà với họ Nguyễn cầm đầu chỉ c̣n lại một ông vua Nguyễn bù nh́n, nên thấy không c̣n vua mà c̣n nước, cái nước vẫn có ông tổ Hùng Vương tiềm ẩn sự chính danh của họ Lê trong sử sách. Người ta kêu gào đ̣i lại đất nước Bốn ngàn năm của con cháu Rồng Tiên, của ông vua Hùng Ngô Sĩ Liên giả định, lấy tính cách thần thánh của quá khứ làm nên ḱ tích thời hiện đại. Lấy quá khứ làm hiện tại, những người “mở nước” sau 1975 xây đền vua Hùng khắp đất nước, ở những nơi như Sài G̣n trước 1945 ông ta vẫn c̣n nằm trong một điện phủ. “Nếu nói gia phả là bộ sử của một nhà th́ cuốn Hùng Vương ngọc phả (đang để ở đền Hùng Phú Thọ) quả thật là cuốn phả của cả dân tộc Việt Nam ta”. (Lời ông Phan Duy Kha tán dương ông Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thọ, Viện trưởng viện Nghiên cứu Tôn giáo, Uỷ viên Hội đồng Di sản Quốc gia, người “phát hiện” cuốn Ngọc phả kia).

 

Thời mới mang lại kiến thức mới, và sự lợi dụng – lạm dụng, mới. Có người cũng biết cuốn Ngọc phả kia không phải là sử, vặn vẹo th́ cũng thành sử buộc người ta theo nhưng không mấy thuyết phục bằng thành quả khoa học. Thế là thuyết DNA (mtDNA) được đem ra chứng minh về Người Hiện Tại xuất phát từ châu Phi, tất cũng có thể đem áp dụng vào trường hợp lâu đời của ông tổ Hùng Vương vậy. Việc t́m liên hệ ḍng giống xa đời qua thử nghiệm DNA bây giờ trở thành một tṛ chơi không tốn nhiều tiền lắm. Tạp chí National Geographic sẵn sàng làm việc đó với một số tiền, thêm chút công khách hàng quẹt nước miếng vào cục bông gởi cho họ, là xong! Chắc bằng cách tương tự, Oprah Winfrey, nhân vật điều hành talk show nổi tiếng của truyền h́nh Mĩ, đă t́m ra gốc gác bà con đang sống trong góc rừng Tây Phi nào đó. Một nhân vật họ Trịnh cũng từng đưa ra kết quả thử nghiệm lấy được từ một vài người trong ḍng nhưng không thấy có dẫn giải xa hơn từ các mă số quái dị đối với người thường đó.

 

Một nhóm Việt kiều Úc từng đưa luận thuyết Bắc tiến DNA của ḿnh lên mạng toàn cầu, trên báo giấy để chứng minh sự cổ xưa của nền văn minh Việt, xưa hơn của người Hán, do đó chứng minh chuyện Âu Cơ, Lạc Long là điều khả thể. Người trong nước thấy có ngoại viện khoa học mới liền ghép thêm với các kiến thức khoa-học-làng-nhàng-cũ, khai triển sơn phết cho lí thuyết “Việt vào Tàu trước” của Kim Định, được cho lăng quên (hay không biết?) tính chất chống cộng, để âm thầm phát triển ḍng kiến thức sử b́nh dân sau 1975, hợp với bản chất đă làm nên chiến thắng của chế độ. Những kiến thức về nhân học, khảo cổ học, cổ địa lí, khám phá DNA chắp vá được trộn chung với cổ sử kí, truyền thuyết làm thành một màn tân cổ giao duyên, Đông Tây hoà hợp được người có chuyên môn (?) đem ra “hù và doạ”, kẻ nắm bắt chữ qua quưt “gồng và nổ”, đi đến một kết luận cho là không thể nào bác bỏ được: “Trước đây chúng ta thường nghĩ rằng truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc là hoang đường huyền hoặc và huyền thoại Rồng Tiên chỉ là sự hư cấu để điểm tô cho ḷng tự hào dân tộc th́ ngày hôm nay, tất cả đă sáng tỏ qua các công tŕnh nghiên cứu, những kết quả khoa học thuyết phục nhất… Thực tế… xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại và Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại”. Cứ ôm lấy tin tưởng về một bộ “huyền sử Việt”, một quá khứ Việt huy hoàng như thế để có thể tự an ủi là chỉ có thế mới là người Việt, mới giữ được “phần quê hương trong máu xương”…

 

Sự mê muội trong thành kiến, sự hoang tưởng học thuật bù đắp cho hoang tưởng chính trị bị găy đổ, nay đă đến hồi “hết thuốc chữa”, khó có cách nào khuyên người ta trở lại nh́n sự vật theo con mắt b́nh thường, của người thường. Nói ǵ đến việc chứng minh vấn đề theo thành quả khảo cứu chứ không phải theo sự dắt dẫn của định kiến, “mượn màu son phấn” khoa học để đạt mục đích riêng của ḿnh? Cứ đọc sách thường th́ cũng biết được ông Hùng Vương từ đâu mà có, chuyện Rồng Tiên và con cháu ngụp lặn trên hồ Động Đ́nh đă bị Ngô Th́ Sĩ thế kỉ XVIII thắc mắc ra sao… Và do đó cũng có thể nghĩ rằng dân tộc Việt chỉ có thể xuất hiện trong thời Bắc thuộc theo một tiến tŕnh khá đơn giản của sự kết tập số đông và tổ chức xă hội như chúng tôi từng đề nghị (Bài sử khác cho Việt Nam). Có người hănh diện về việc chỉ dân tộc Việt mới có ông tổ là con người chứ không phải là thần như các dân tộc khác. Họ không thấy chính đó lại là bằng cớ dân Việt sinh thành ngay trong thời đại có sử, mới có ông tổ là một thủ lănh địa phương! Sử gia Việt Nam muốn “khá” lên một chút phải thoát sự huênh hoang vô cớ, và cố gắng vượt ra khỏi cái ṿng kim cô Bách Việt của đám thư sử phương Bắc. Ông Đỗ Ngọc Giao (27-5-2012) nhẹ nhàng đặt câu hỏi: “Phải chăng một ai đó, ở một chỗ nào đó trong cái hành lang dài mờ tối kêu bằng quá khứ, đă lầm lẫn?” May mắn là ông đưa ư kiến ḿnh lên mạng toàn cầu: “Chuyện những Thục Phán, Triệu Đà, Hai Bà Trưng, Lạc Việt, Bách Việt… không ăn nhập ǵ tới người Việt Nam ngày nay”, nên ông chỉ thấy “thực là khó” (khó ăn khó nói) mà khỏi gặp phản ứng mạnh mẽ từ những người “yêu nước” như chúng tôi đă phải chịu đựng nhiều lần. Cái “khó” kia không đến từ chuyên môn mà từ cả một quyền lực sử học thật sự trùng trùng của quần chúng và cả chính quyền ngày nay.

 

Tuy nhiên khi đẩy vấn đề tông phả đến mức vượt thời gian, đi vào chốn chữ nghĩa trừu tượng như vậy cũng khiến người ta lạc vào chỗ xa lạ với nhân tính b́nh thường. Một người Việt Nam ngày nay (người của tộc đa số) thấy ḿnh được ông Đỗ Ngọc Giao ghép vào nhóm cái ǵ mà hg O-M175 th́ cũng dửng dưng như khi thấy con số nhóm C-M217 của một anh Chàm giả định. Và điều này chỉ khác đi khi một cô Chăm H’roi của thời xưa xưa một chút, mang gùi lặn lội qua đèo Mang Giang An Khê, đi hỏi chồng ở xóm nhà bà Bùi Thị Xuân chẳng hạn. Các con số ảo không thể thay thế được một tiếp cận nhân t́nh. Cho nên hẳn là một người họ Trịnh khi đọc các con số về DNA của cũng một người họ Trịnh đưa ra, chắc là để dương danh ḍng họ, anh ta cũng không thấy ḿnh “thêm Trịnh” một chút nào. Ngược lại, nếu ai v́ thấy có sự liên hệ theo bằng chứng lịch sử của họ Phan với những người Chàm, người thiểu số phía tây Miền Trung ngày nay mà đề nghị, ví dụ, một ngựi họ Phan Quảng Nam đi thử DNA xem có dính phần nào với các tộc Giẻ, Triêng, Rục, Bà Na, Gia Rai… chẳng hạn th́ sẽ bị mắng chửi là đă làm nhục con cháu Phan Châu Trinh, các lănh tụ Cộng Sản Phan Thanh, Phan Bôi!

 

Con người là một động vật toàn cầu, hiện diện khắp nơi khắp chốn trên mặt đất này. Họ di chuyển liên miên, cá nhân và tập thể, thường gặp nhất là theo sự thúc đẩy của sinh kế và bị thù địch xua đuổi. Và họ phải thích ứng với nơi ở mới, mau hay chậm là do cân bằng giữa sự níu kéo nơi quê cũ và sự hấp dẫn trên đất nương thân. Chính điểm này đă khiến cho ảnh hưởng về sự nối kết t́nh cảm thân thuộc của gia phả, tông phả bớt phần kiến hiệu trên cá nhân hoặc trên một tầng cấp thế thứ trong ḍng. Khi Mông Cổ tiến chiếm, người Tống bỏ chạy sang Trần, có kẻ thề “làm ma đất Việt” nhưng cũng có người đồng hành theo quân Nguyên trở về, trong đó có con của người thà chết trên đất lưu vong kia. Đọc An Nam chí lược của Lê Tắc tưởng chừng thấy h́nh ảnh xưa lặp lại trên nhóm người lưu vong ngày nay. Ông ta gắn bó với chủ Trần nên t́nh cảm kết nối với đất cũ chỉ ẩn náu trong bộ sách kia, trong khi Hồ Nguyên Trừng không thân thuộc, th́ tỏ bày tha thiết hơn trong bộ Nam ông mộng lục. Đă bám rễ nhiều nơi đất mới với quyền chức cao, Trịnh Hoài Đức đi sứ, không nhớ Phúc Kiến mà bồi hồi vọng về Gia Định. Nói ǵ đến Hồ Quư Li đ̣i có trăm vạn quân để chống phương Bắc! Cho nên không cần phải gắng công t́m ra “tiểu sử” chứng minh dấu vết gốc tích Lí Công Uẩn nằm đâu đó gần Thăng Long, để cải chính sử Việt nhận ông có gốc đất Mân, che giấu sự hổ thẹn không cần thiết. Giống như họ Trần cũng phát xuất từ đó, tuy không hẳn gốc Hoa Hạ nhưng theo học giả ngày nay, là thuộc tộc Đản sinh sống dọc bờ biển, trên đất Việt có tên Giao Chỉ Đản, và h́nh như c̣n bà con nghèo là tộc người Ngái, Đản Gia Lăo lạc loài trên đất Quảng Ninh bây giờ.

 

Có thể thấy cùng trường hợp đó với Benigno Aquino, Tổng thống đương nhiệm của Philippin đang tranh giành biển đảo với Trung Quốc. Họ Aquino cũng như họ của cựu Tổng thống Ferdinand Markos (1917-1981) đều có gia phả chứng thực xuất phát từ Phúc Kiến nhưng họ hành động không phải chỉ hời hợt như chủ nhân một đất mới mà đích thực là đă gắn liền tâm cảm với Tổ quốc thật trong hiện tại của họ. Các nhân vật Trung Nam Hải không thể viện dẫn gia phả mà trách họ phản quốc, “quên ông bà tổ tiên” chẳng hạn, hay lấy đó để chiêu hồi họ, lôi kéo xa rời dân Phi, đám dân biết rơ ḿnh đă bầu một tổng thống Phi chứ không phải một chú Con Trời xa đời! Cũng như vậy khi nh́n qua ḍng vua đang làm chủ đất Thái Lan, với cái tên mang âm vận đă trở thành xa lạ nơi cỗi gốc, gắn liền t́nh cảm thiết thân với thần dân “đất của người Thái”, th́ chỉ có anh sử gia ṭ ṃ mới biết được rằng ông vua đầu ḍng, bạn kết thề với Nguyễn Hữu Thuỵ, ông Chakri / Rama I đó (1737?-1809) chỉ có 50% là Thái – như trường hợp Tổng thống Obama với xứ Mĩ ngày nay! Dân Turk sống trên mảnh đất Á Âu hẳn chỉ dành cho nhà sử học nói một hai câu về thời tung hoành trên sa mạc Trung Á với cái tên Trung Hoa Đột Quyết thôi. Và con cháu Lí Long Tường, nếu quả thật thuộc ḍng họ Lí Đại Việt, nay về thăm “bà con”, chỉ là biểu lộ chút t́nh cảm lăng mạn của một chuyến du hành, chứ c̣n được bao nhiêu máu huyết lúc ra đi, c̣n thấy có tí ti tâm cảm nào là người Việt? Cho nên chính sách bài Hoa những năm 1978 là của những người mang tâm thần hoảng hốt v́ sống thường trực với sự phản trắc trong băng đảng, hơn là của đầu óc những người biết ḿnh đang cai trị một đất nước có dân chúng không thể phân chia phe phái theo cách giản dị: Ta và Địch. Hăy nghe nhà văn Ngự Thuyết ghi nhận trong một buổi gặp gỡ đồng hương Vĩnh Châu. Từ cái huyện cùng trời cuối đất của tỉnh “Bạc Liêu nước đục lờ đờ / Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu” đó, những người vẫn chưa nói sơi tiếng Việt mà đă phải phiêu bạt ở Anh, Pháp, Úc, Canada, trong buổi hội ngộ trên đất Mĩ đă giành micro vang vang tiếng hát nghẹn ngào: “Biết bao giờ trở lại Việt Nam thăm đồng lúa vàng… Việt Nam ơi, đất nước tôi…”

 

Cuộc sống là hiện thực, người ta sống với con người thật của ḿnh, với thời đại, với khung cảnh quen thuộc chung quanh cho nên sự kết nối của con người cũng phải chịu ép ḿnh theo những quanh quất phức tạp của cuộc sống đang diễn ra trước mắt . Dân Nam Bộ không cần biết đến những phê phán về Phan Thanh Giản, vốn phải chịu ảnh hưởng những lệch lạc v́ không gian xa cách, v́ thời gian làm đổi thay quan điểm. Họ chỉ nhớ đến vị tiến sĩ đầu tiên làm hănh diện toàn vùng, chỉ biết công ông (cùng Nguyễn Tri Phương) tổ chức khai khẩn đất đai, là đại diện vua đi sứ xa chuộc đất, và tự xử khi để mất đất, nêu gương trung nghĩa cho thời đại, nên không quan tâm đến gốc tích Minh Hương, theo nghĩa một-phần-Việt, của ông. Cũng như trước muôn vàn tiếng khen sùng bái Chu (Văn) An kết nối, kéo dài từ trong sử sách đến các ngôi trường lấy tên ông đă đào tạo ra những nhân vật quyền bính đầy uy tín ngày nay, giá như ai có thấy vị học giả nào cho biết rằng ông ta có một nửa máu “Tàu” th́ hẳn họ cũng không bớt ḷng kinh trọng, hay có khi không biết chừng lại c̣n mắng chửi tên học giả khốn nạn kia nữa. Một họ Lê ở Thanh Hoá thờ ông tổ là Vũ Nhân Chính được một nhà nghiên cứu khám phá ra là có thể phát sinh từ một nhân vật chống Lê Trịnh đă tẩu thoát (Vũ Trác Oánh 1741), thế mà con cháu không v́ nhân vật lịch sử vang danh kia mà bỏ ông tổ thường ngày của ḿnh, chỉ v́ danh tiếng lịch sử xa lạ không bù đắp được sự thiết thân truyền đời được nhắc nhở hàng năm trong các dịp cúng giỗ. DNA ngày nay đă được các cặp vợ chồng hoài nghi cuộc sống, đem dùng để thử nghiệm xem con cái đích thực là của ai, thế mà gia đ́nh cựu Tổng bí thư Hà Huy Tập khi bốc mộ, vẫn chỉ tin ở xác nhận của các nhà ngoại cảm, niềm tin gần gũi với thời đại, với cuộc sống hiện tại của họ hơn là các mă số mơ hồ lấy từ pḥng thí nghiệm. Câu chuyện cái răng heo trở thành một phần đầu của liệt sĩ Phùng Chí Kiên không làm mờ danh tiếng của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng, người từng “t́m ra” mộ Lí Thường Kiệt, từng nói chuyện” với anh em Tây Sơn hai lần trên đất B́nh Định. Trái lại, con cháu Mạc Hà Tiên dù bằng cách thử DNA (nói điều tôi không thông thạo) ví dụ cho thấy gần gũi với Mạc Dương Kinh hơn là với các ḍng khác, th́ họ cũng có sự hănh diện riêng, không v́ danh tiếng làm vua nhiều đời của nhóm kia mà bỏ rơi vị thế tuỳ thuộc họ Nguyễn của ḿnh. Nói ǵ đến khuyến khích O. Winfrey bỏ danh vọng trên đất Mĩ, rời ngôi biệt thự hàng nhiều chục triệu đôla để mơ tưởng lăng mạn về khu rừng Phi Châu có h́nh bóng ḿnh cầm gậy chọc lỗ bỏ hạt, moi củ…

 

24-6-2013

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Hoàng Hải Thủy

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten