Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

Những ngày cuối cùng ở việt nam và phép lạ bị lăng quên

 

Đinh Từ Thức ♦ 3 b́nh luận ♦ 21.10.2014

 

 

 

 

Last Days in Vietnam là bộ phim tài liệu mới nhất về những ngày cuối cùng trước khi VNCH tan ră vào 30 tháng Tư, 1975. Trước đây đă có hai bộ phim tài liệu với nội dung tương tự: The Fall of Saigon và The Lucky Few. Bộ phim mới này đă gây tiếng vang trước khi được phổ biến rộng răi.

 

Last Days in Vietnam do Rory Kennedy, con gái út của Bộ Trưởng Tư Pháp và Nghị Sĩ bị ám sát Robert Kennedy, sản xuất cho hệ thống PBS, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nam VN rơi vào tay cộng sản. Bộ phim này mới được chiếu ra mắt tại một số rạp ở California, và Washington DC vào tháng 9 và đầu tháng 10, 2014, và sẽ được cho chiếu rộng răi vào tháng Tư, 2015. V́ nội dung tương tự, có người tưởng lầm đây là một trong hai bộ phim cũ được chiếu lại. Thật ra, The Fall of Saigon do Michael Dutfield sản xuất cho Discovery Channel đă ra đời từ 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất Sài G̣n. C̣n The Lucky Few do Hải Quân Hoa Kỳ (US Navy) sản xuất năm 2010, vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam VN, ghi lại vai tṛ của hộ tống hạm USS Kirk trong cuộc di tản của toàn thể hạm đội VNCH từ Sài G̣n tới Philippines.

 

“Hậu sinh khả uư”, tuy cùng là những tài liệu và nhân vật thật, nhưng bộ phim mới nhất có những ưu điểm so với hai bộ phim trước. Về mặt kỹ thuật, Last Days in Vietnam được chiếu ở rạp, với màn ảnh lớn và âm thanh tốt, làm tăng cảm giác của người xem. Về nội dung, tuy cũng là phim tài liệu như hai bộ phim trước, nhưng phim này “có đầu có đuôi” như một cuốn phim truyện. Xem xong, ngoài những h́nh ảnh đặc biệt, có khi lần đầu tiên được thấy, cuốn phim c̣n để lại trong ḷng người xem những điều đáng suy nghĩ, về danh dự, về trách nhiệm, và t́nh người.

 

Từ hoà b́nh không danh dự…

 

Cuốn phim đă bắt đầu bằng h́nh ảnh và tài liệu về kết quả Hội nghị Hoà b́nh Paris 1973: Chấm dứt chiến tranh trong danh dự. Nhưng những người kư tên vào Hiệp Định, và những người long trọng hứa bảo vệ hoà b́nh bằng mọi giá đă coi thường danh dự của ḿnh. Sau khi quân chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam, và sau khi Tổng Thống Nixon phải từ chức v́ vụ Watergate, chiến tranh tiếp diễn tàn ác hơn trước khi có hiệp định hoà b́nh.

 

Frank Snepp, một cựu nhân viên CIA xuất hiện trong phim, nói Hiệp Định Paris là một ‘tuyệt tác mơ hồ” (masterpiece of ambiguity), hàm ư văn bản Hiệp định Hoà b́nh thiếu rơ ràng, khiến cộng sản Hà Nội có thể gia tăng chiến tranh, chiếm trọn miền Nam trong hai năm. Nhận định này không chính xác. Với Cộng Sản, những người theo cơ hội chủ nghĩa, khi đặt bút kư vào một thoả hiệp, là nắm lấy một điểm tựa đề chờ cơ hội, bất chấp văn bản thoả hiệp rơ ràng hay mơ hồ. Dù văn bản thiếu rơ ràng, khi cơ hội chưa tới, họ vẫn có thể chờ. Khi Nixon từ chức vào năm 1974, và Quốc Hội Hoa Kỳ bác yêu cầu tháo khoán 722 triệu Mỹ kim cuối cùng đă hứa viện trợ cho Sài G̣n, là cơ hội trời cho, Hà Nội không c̣n sợ Mỹ trừng phạt, dù hiệp định hoà b́nh rơ ràng hay không, họ vẫn tăng tốc cuộc chiến chiếm trọn miền Nam. Bằng chứng là Hiệp Định đ́nh chiến Genève 1954 đă quy định rơ ràng các viên chức thuộc chính quyền Quốc Gia phải vào phía Nam, và phe Việt Minh phải tập kết ra phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng, lănh đạo hàng đầu của cộng sản như Lê Duẩn, đă cố t́nh vi phạm Hiệp Định ngay khi nó mới được bắt đầu thi hành, đă lên tầu cho mọi người thấy, rồi nửa đêm trốn ở lại, đặt cơ sở cho cuộc chiến sau này.

 

Với những người cộng sản, và đôi khi cả những người không cộng sản, danh dự chỉ là cái vỏ bọc cho cơ hội.

 

Chỉ hai năm sau khi Washington và Hà Nội đạt được “hoà b́nh trong danh dự” tại Paris, bản đồ VN dưới vĩ tuyến 17 đă bị nhuộm đỏ trong nháy mắt, đưa tới hồi kết không thể tránh: Mỹ rời khỏi Việt Nam. Nhưng ra đi như thế nào, vào lúc nào, và với ai, là điều không đơn giản.

 

Đến trách nhiệm của người đi

 

Quân Mỹ chiến đấu đă rút hết khỏi VN từ sau Hiệp Định Paris, tuy vậy, vẫn c̣n lại mấy ngàn người Mỹ là nhân viên ngoại giao, các chuyên viên kỹ thuật, kiến thiết, doanh nhân, ngân hàng…. Mỹ có trách nhiệm đưa hết người Mỹ về nước, và trách nhiệm cả với những người Việt đă tin tưởng, cộng tác, hay làm việc cho Mỹ. Vào tháng Tư, tin t́nh báo cho biết quân cộng sản cố lấy Sài G̣n để mừng sinh nhật HCM vào ngày 19 tháng 05, 1975. Mỹ cố gắng hoàn tất việc ra đi vào cuối tháng Tư. Ngược ḍng với những người đôn đáo cố gắng ra đi, có những người từ ngoại quốc liều lĩnh quay lại Sài G̣n, như cựu đại uư bộ binh Mỹ Stuart Herrington, cố gắng xoay xở đưa bạn bè hoặc thân nhân người Việt ra đi. Có bốn kế hoạch ra đi đă được dự trù: đầu tiên là máy bay thương mại, thứ nh́ là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thuỷ, cuối cùng là máy bay trực thăng ra Hạm Đội số 7.

 

Các kế hoạch trên đă không thể thực hiện như dự tính. Những ngày cuối tháng Tư 1975, có tới năm ngả di tản khỏi Sài G̣n:

 

1- Đi theo ngả DAO, diễn ra trong mười ngày cuối cùng của tháng Tư, dành cho nhân viên quân sự người Mỹ, người Việt và thân nhân hoặc những người quen biết. Đây là cuộc di tản sớm nhất, kín đáo nhất, do một số giới chức quân sự Mỹ chủ trương, không qua sự đồng ư chính thức hoặc dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền VNCH. Có người đă dùng chữ “lậu” (black-ops) để chỉ ngả ra đi này, bằng máy bay quân sự Mỹ, lúc đầu là máy bay vận tải C-141 và C-130, từ Tân Sơn Nhứt tới căn cứ không quân Mỹ Clark Airbase ở Philippines. Sau khi Tân Sơn Nhứt và khu DAO tại đây bị pháo kích sáng sớm 29-04, trực thăng được sử dụng để chở người ra Hạm Đội 7. Rất ít h́nh ảnh được phổ biến cả từ nơi đi và nơi đến của ngả di tản này.

 

2- Đi theo ngả Toà Đại Sứ Mỹ. Đây là cuộc di tản ồn ào nhất, lộ liễu nhất, và được chú ư nhiều nhất, bắt đầu từ sáng 29, chấm dứt sáng sớm hôm 30 tháng Tư, sẽ nói thêm.

 

3- Đi bằng tầu Hải Quân VNCH, rời Sài G̣n tối 29, tập trung ở Côn Sơn ngày 30 tháng Tư, tới căn cứ Hải Quân Mỹ ở Subic Bay, Phi Luật Tân, ngày 07 tháng Năm, sẽ nói ở cuối bài.

 

4- Một số cá nhân hoặc nhóm, một ḿnh hoặc cùng với thân nhân đi bằng trực thăng loại nhỏ Huey của VNCH, một số không đủ nhiên liệu bay xa, được cho đáp xuống hộ tống hạm Mỹ USS Kirk, hoạt động gần đất liền hơn Hạm Đội 7. V́ không đủ chỗ chứa, 13 trực thăng sau khi đáp đă bị đẩy xuống biển. Số đông hơn đủ nhiên liệu bay tới Hạm Đội 7, gần 20 tầu, dưới quyền chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, xếp hàng chờ đợi cách Vũng Tầu khoảng trên ba chục cây số. Tướng Nguyễn Cao Kỳ tự ḿnh lái trực thăng chở Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đáp xuống Blue Ridge. Một quân nhân Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ kể lại, nh́n lên trời lúc đó, trực thăng tị nạn đông như đàn ong về tổ. Có 5 chiếc bị đụng bể khi đáp, mảnh vỡ bay tứ tung, xuưt gây tai nạn. Một chiếc rớt xuống biển.

 

Điều lạ trong Last Days in Vietnam, vào thời máy quay phim c̣n rất hiếm, không rơ bằng cách nào bộ phim đă có được h́nh ảnh chuyến đi đầy kịch tính của gia đ́nh thiếu tá phi công Nguyễn Văn Ba, từ khi ông lái chiếc trực thăng khổng lồ CH-47 đáp xuống sân vận động gần nhà, đón vợ và ba con nhỏ, bay đến USS Kirk. Trực thăng quá lớn, dài hơn 30 mét và nặng trên 10 tấn, nếu đáp xuống, có thể gây tai nạn, hoặc làm đắm tầu. Ông Ba đă tài t́nh cho máy bay quần rất thấp, hai con và vợ với con gái út một tuổi lần lượt nhảy xuống, để những bàn tay thuỷ thủ đỡ lấy. Riêng ông Ba, đă điều khiển cho trực thăng nghiêng về một phía, tạo thế cho cỗ máy trị giá trên 30 triệu đô la “chổng gọng” trên mặt biển, cùng lúc phóng ra từ phía kia, lặn xuống để tránh những mảnh vỡ khi máy bay chạm nước. Mọi người hồi hộp căng thẳng chờ đợi, rồi reo ḥ mừng vui thấy đầu ông nhô lên khỏi mặt nước. Không phải chỉ có ḿnh thiếu tá Ba và vợ con ông là những người liều lĩnh. Những ai tự nguyện đứng dưới bụng chiếc trực thăng nặng hơn hai chục ngàn cân để đỡ người nhảy xuống, cũng là những người can đảm cùng ḿnh; chỉ một sơ sẩy nhỏ, cũng toi mạng.

 

clip_image002

Trực thăng CH-47 lái bởi Thiếu tá Phi công Nguyễn Văn Ba bay xà trên USS Kirk

 

5- Đi bằng tầu buôn vào sáng 30 tháng Tư, như Việt Nam Thương Tín, Trường Xuân, xà lan, và nhiều tầu nhỏ khác. Ngả di tản này cũng đầy hiểm nguy gian khổ. Chính trên boong tầu Việt Nam Thương Tín, nhà văn nhà báo Chu Tử đă thiệt mạng vào trưa 30-04 v́ mảnh đạn pháo kích của cộng sản bắn đuổi theo người ra di, trước cửa sông Ḷng Tảo, ngang Vũng Tầu. Tầu Trường Xuân chở tới bốn ngàn người, vớt từ nhiều thuyền nhỏ, thiếu thốn đủ thứ, gian nan tới được Hồng Kông.

 

C̣n một cuộc ra đi nữa bằng tầu, từ Cần Thơ, ít người biết tới. Khi được phỏng vấn về cuốn phim Last Days in Vietnam, Rory Kennedy cho biết đă có đầy đủ tài liệu về chuyến đi này, nhưng sợ quá rườm rà, đă loại khỏi bộ phim. Ông Lănh Sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ, khi được lệnh sử dụng hai trực thăng để ra đi cùng những nhân viên người Mỹ, đă không đành ḷng bỏ lại các nhân viên người Việt và thân nhân của họ, sợ họ sẽ bị cộng sản bách hại. V́ t́nh người, hành động theo lương tâm, ông bỏ trực thăng, dùng tiền của ḿnh mua hai chiếc tầu, chở tất cả 450 người rời lănh sự quán theo sông ra biển. Hành tŕnh cũng đầy gian nan, vừa bị bắn, vừa bị phía hải quân VNCH cản trở. Cuối cùng cũng ra tới biển.

 

Cuốn phim Last Days in Vietnam chỉ chú trọng nhiều tới cảnh ra đi từ Toà Đại Sứ, không có cảnh tới Hạm Đội 7; một phần cảnh tới USS Kirk, và ít hơn về quang cảnh trên Hạm Đội Việt Nam. Hoàn toàn vắng bóng cuộc ra đi theo các ngả 1 và 5. Ấy là chưa kể cuộc di tản của không quân VNCH, trước đó các phi công đă được lệnh lái một số phi cơ chiến đấu qua Thái Lan.

 

Người khổng lồ chậm chạp

 

V́ t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh, sau khi phi trường Tân Sân Nhứt bị pháo kích vào đêm 28 rạng sáng 29, phá hư một số máy bay, đường băng, và hai Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ thiệt mạng tại khu vực DAO, chỉ c̣n kế hoạch cuối cùng được thi hành: Di chuyển bằng trực thăng từ Toà Đại Sứ ra Hạm Đội 7. Mật hiệu tập trung để ra đi bằng mẩu tin “thời tiết Sài G̣n nóng 105 độ F và đang lên”, tiếp theo là bài White Christmas được phát đi trên đài radio quân đội Mỹ vào khoảng hơn 10 giờ sáng 29. Những ai đợi lúc đó mới rời nhà, coi như quá trễ. Trước Toà Đại Sứ đă đông nghẹt, khó chen chân vào. Theo nhân chứng Jim Kean, sĩ quan chỉ huy Đại Đội C Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ canh giữ Toà Đại Sứ, số đông lúc đó khoảng 10 ngàn người.

 

Thi hành một công tác lớn, dù là cỡ chiến dịch, thường chỉ do một bộ chỉ huy ra lệnh. Kế hoạch của Mỹ rút khỏi VNCH vào ngày cuối cùng liên hệ tới nhiều cơ quan, nhiều cấp chỉ huy khác nhau, ở rải rác trên nửa địa cầu, trải rộng 12 múi giờ. V́ thế, đă gặp nhiều trục trặc và chậm trễ đáng tiếc. Tổng Thống Ford và Ngoại Trưởng Kissinger trực tiếp theo dơi, và ra chỉ thị từ Bạch Ốc. Đón người là Hạm Đội 7, chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, dưới quyền bộ Tư Lệnh Thái B́nh Dương ở Hawaii. Phương tiện di chuyển và nhân sự thi hành thuộc Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, chỉ huy từ chiến hạm Okinawa. Người chỉ huy tại hiện trường Sài G̣n là Đại Sứ Martin.

 

Sau khi tự ḿnh tới Tân Sơn Nhứt quan sát những thiệt hại do cộng sản pháo kích gây ra vào hồi sáng sớm, Đại Sứ Martin đồng ư di tản theo kế hoạch cuối cùng bằng 75 trực thăng của TQLC, chở người từ Toà Đại Sứ ra thẳng Hạm Đội 7. Một số người không thể vào được Toà Đại Sứ đă được bốc từ các địa điểm khác bằng trục thăng nhỏ, đưa vào khu DAO ở TSN, lên trực thăng lớn ra Hạm Đội 7. Bức h́nh nổi tiếng thế giới, chụp những người nối đuôi nhau trên cầu thang dẫn lên trực thăng, nhiều người vẫn tưởng là đậu trên nóc Toà Đại Sứ. Thật ra, đó là toà nhà ở số 22 đường Gia Long, bên dưới là trụ sở USAID, tầng trên cùng do CIA sử dụng.

 

Kế hoạch “Frequent Wind” được chính thức loan báo bắt đầu vào lúc 10:51 sáng 29 tháng Tư. Nhưng v́ các cấp chỉ huy mỗi thành phần trách nhiệm phải liên lạc, thảo thuận và xác nhận với nhau, rồi cấp thừa hành phải đợi lệnh từ cấp chỉ huy trực tiếp của ḿnh. Kết quả là măi tới 12:15 PM kế hoạch mới được lệnh thi hành. Nhưng vẫn c̣n điều cần làm sáng tỏ, ví dụ, giờ nào là giờ chính thức; giờ GMT, giờ Washington, giờ Hawaii, giờ Okinawa, hay giờ Sài G̣n? Rồi v́ quá nhiều thông tin viễn liên được gửi qua gửi lại giữa các cấp chỉ huy, hệ thống truyền tin bị quá tải, trục trặc. Cuối cùng, đến 3 giờ chiều, kế hoạch mới thực sự bắt đầu. Chiếc CH-53 đầu tiên bốc người từ Toà Đại Sứ đáp xuống tầu Blue Ridge vào lúc 3:40. Nếu không có những trục trặc chậm trễ này, khoảng thời gian phí phạm từ gần 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, đă giúp được hàng ngàn người đi thoát.

 

Tự ḿnh làm con tin

 

Qua lời phát biểu của các viên chức xuất hiện trong Last Days in Vietnam, cũng như theo quan điểm của một số bài điểm phim, Đại Sứ Martin là một người thiển cận, không biết rơ t́nh h́nh, và cứng đầu. Măi đến những ngày cuối cùng, ông vẫn không chịu thừa nhận t́nh trạng tuyệt vọng của VNCH, không chính thức cho thi hành cuộc triệt thoái khỏi VN. Và cho đến ngày chót, ông vẫn cưỡng lại lệnh ra đi, cố ở lại cho đến lúc không thể tŕ hoăn thêm.

 

Người viết bài này nghĩ rằng Đại Sứ Martin là một người có tinh thần trách nhiệm cao, sáng suốt, và rất nặng t́nh với người Việt Nam.

 

Mọi người thừa biết, không có vơ khí của Nga, Tầu, miền Bắc không thể đánh miền Nam, và không có sự giúp đỡ của Mỹ, miền Nam không thể ngăn được bước tiến của miền Bắc. Ngay cả những nước mạnh hơn, và trong thời b́nh, như Tây Đức và Nam Hàn, mỗi nơi cũng cần tới mấy chục ngàn quân Mỹ đồn trú thường trực, để đối phó với cộng quân khi cần. Cho nên, giây phút Mỹ chính thức cuốn gói rời Sài G̣n, là tín hiệu toàn miền Nam rơi vào tay cộng sản. Xă hội sẽ náo loạn, ngay cả người Mỹ cũng khó rút đi an toàn. Đợi cho đến sáng 29, sau khi có điện văn chính thức của tân Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu, yêu cầu Mỹ rút trong ṿng 24 giờ, Đại Sứ Martin mới chính thức thi hành kế hoạch di tản. Như vậy, trên danh nghĩa, Mỹ ra đi v́ bị đuổi, không phải tự ư bỏ đi. Sau này, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao đuổi Mỹ trong t́nh trạng nguy ngập như thế, ông Mẫu cho biết đă làm theo yêu cầu của Đại Sứ Martin.

 

Chiều 29 tháng Tư, Toà Đại Sứ có hai băi đáp dành cho hai loại trực thăng CH-46 trên nóc nhà, và CH-53 dưới sân đậu xe, sau khi đă đốn một cây me lớn. Washington chỉ thị Đại Sứ Martin ra đi sớm, và người Mỹ đi ưu tiên. Ông Martin không chống lại lệnh thượng cấp, nhưng chần chừ không chịu đi. Đồng thời, quy định người đi trên mỗi chuyến bay theo tỉ lệ khoảng 10 người có một người Mỹ. Ngoài ra, một số nhân viên toà đại sứ Nam Hàn, đă vào được Toà Đại Sứ Mỹ, luôn yêu cầu được ưu tiên ra đi, nhưng chỉ được đối xử như mọi người.

 

Phi công định ngừng cầu không vận khi trời tối. Toà Đại Sứ yêu cầu tiếp tục, cam kết có đủ ánh sáng, bằng cách gom một số xe hơi lại, cùng chạy máy, mở đèn pha chiếu thẳng vào băi đáp. Hơn 9 giờ rưỡi tối, có lệnh từ Hạm Đội 7 chấm dứt kế hoạch vào lúc 11 giờ. Ông Đại Sứ vẫn yêu cầu tiếp tục. Khoảng nửa đêm, lại có lệnh chỉ c̣n 20 chuyến bay nữa, trong khi vẫn c̣n 850 người chờ được bốc, chưa kể 225 Quân nhân Thuỷ Quân Lục Chiến. Bên ngoài, vẫn c̣n hàng chục ngàn người.

 

Khoảng 4 giờ sáng 30 tháng Tư, Đại Uư phi công Gerald L. “Gerry” Berry, được lệnh đáp chiếc CH-46 trên nóc Toà Đại Sứ, và phải đợi đến khi Đại Sứ Martin lên máy bay, mới được cất cánh. Ông Martin vĩnh biệt nhiệm sở lúc 4:58 phút. Sau ông, chỉ c̣n những chuyến bay chở Thuỷ Quân Lục Chiến ra đi. Ông Martin đă tự biến ḿnh thành con tin, để Bạch Ốc không thể ngừng sớm cuộc di tản. Tuy nhiên, ông đă không thành công hoàn toàn; số người kẹt lại trong khuôn viên Toà Đại Sứ khoảng trên dưới 400.

 

Tư Lệnh Hạm Đội 7, Phó Đô Đốc George Steele, cũng có cùng quan điểm:

 

“Một điều không được biết nhiều là Đại Sứ Martin t́m cách đề mang đi một số lớn người Việt từ Toà Đại Sứ. Nó có vẻ như một con số bất tận, và người cùng máy móc của chúng tôi bắt đầu thấm mệt…Tôi không muốn cho bắt ông. Nhân vật số ba của Đại Sứ Quán đáp xuống Blue Ridge xác nhận báo cáo rằng Đại Sứ bệnh và kiệt sức. Qua ḷng thành đối với các đồng nghiệp Việt Nam của chúng ta, ông đă cố gắng giữ cho cuộc di tản kéo dài bất tận, và theo quan điểm của tôi, ráng giữ cho nó tiếp tục bằng cách tự ḿnh không ra đi” (*).

 

Phép lạ bị lăng quên

 

Trong một bài phổ biến trên RFA sau khi xem Last Days in Vietnam, Tổng Biên Tập của đài này là nhà báo lăo thành Dan Southerland viết:

 

Cuốn phim cũng kể câu chuyện về Richard Armitage, khi đó 30 tuổi, sĩ quan cố vấn của hải quân Việt Nam, về sau đảm nhiệm những chức vụ cao cấp trong Bộ quốc pḥng và Bộ ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống Reagan và Bush.

 

Armitage làm việc chặt chẽ với hạm trưởng tàu Kirk cùng các sĩ quan hải quân khác để đưa 30 chiếc tàu của Hải quân Việt Nam cùng với mấy chục tàu đánh cá và tàu vận tải đầy người tị nạn trốn chạy khỏi Việt Nam. Đài Truyền thanh Quốc gia (NPR của Hoa Kỳ) trong phóng sự riêng về chiến hạm USS Kirk, đă viện dẫn thống kê cho thấy có tới 30 ngàn người chen chúc nhau trên những con tàu này. Một số tàu không thể nhúc nhích được, tàu khác phải kéo đi. Nhiều chiếc khác bị vô nước. Thật là một phép lạ khi đoàn tàu ấy, với sự giúp đỡ của người Mỹ, đă vượt được cả ngàn dặm về hướng đông để đến được bờ bến Philippines an toàn.

 

Nếu gọi đây là “phép lạ” th́ người viết bài này, nhờ may mắn có mặt trên chiến hạm HQ-3, soái hạm của đoàn tầu Việt Nam, có thể nói rơ những ai đă làm được phép lạ này, và họ đă bị lăng quên ra sao.

 

Sau này, xem các bộ phim The Fall of Saigon, Lucky Few, và Last Days in Vietnam, tôi mới được biết Đại Tá Hải Quân Đỗ Kiểm, là người được trao trách nhiệm tổ chức đưa toàn bộ hạm đội VN ra đi, để khỏi rơi vào tay cộng sản. Trên HQ-3, tôi cứ đinh ninh Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh là người chỉ huy chuyến đi. Trên tầu, c̣n nhiều tướng lănh cao cấp hơn, nhưng chỉ thấy Tướng Minh (thuỷ thủ gọi là “Đô đốc Minh” – h́nh như trong hải quân, ai đeo sao cũng được gọi là “Đô Đốc”) qua lại, đôn đốc, ra chỉ thị, hay lên tiếng trên hệ thống loa phát thanh. Chiều 30 tháng Tư 1975, ba chục chiếm hạm của VNCH tập trung ở Côn Sơn, đa số chở đầy người tị nạn, chưa biết sẽ đi đâu. Được hỏi, Tướng Minh nói vẫn chưa biết đi đâu. Ông thêm: Có một sĩ quan liên lạc sắp đến từ Hạm Đội 7, ông này sẽ cho biết ḿnh đi đâu. Với thái độ phấn khởi, Tướng Minh tiết lộ thêm: “Tay” này c̣n trẻ, rất có cảm t́nh với Hải Quân VN, tên là Richard Armitage, biết nói tiếng Việt, có tên Việt là Trần Văn Phú, v́ thánh tổ hải quân VN họ Trần, Văn là tên đệm của đa số đàn ông VN, Phú là giầu = rich, từ tên Richard. Khi ông Armitage, thường phục, từ tầu liên lạc nhỏ leo lên HQ-3, đă được Tướng Minh chào đón nồng nhiệt. Sáng 01 tháng 05, sau khi vớt thêm một số người từ Côn Sơn, cũng như một số người xuống tầu nhỏ trở về, đoàn tầu được lệnh nhổ neo, trực chỉ Philippines.

 

Nh́n toàn cảnh, đoàn chiến hạm VNCH xếp hàng ba, mỗi hàng 10 chiếc, cùng di chuyển trên mặt nước yên lặng xanh như thuỷ tinh, giống như trong một cuộc thao diễn khổng lồ, rất ngoạn mục. Ban đêm, đoàn tầu lên đèn sáng trưng, như cả một thành phố di chuyển. Nhưng thực trạng, đó là những chiếc tầu rất cũ, Mỹ đă phế thải trước khi viện trợ cho VN tái sử dụng. Không hiểu trong tài khoản viện trợ, chúng đă được định giá ra sao. Có thể dân Mỹ vẫn tưởng, tiền thuế của họ đă được dùng để mua tầu mới viện trợ cho VN. Đoàn tầu di chuyển rất chậm, có chiếc phải ṛng dây kéo đi. Có chiếc bị nước vào, phải phân chia người tị nạn sang các tầu khác, rồi bị bắn ch́m. Đi từ Côn Sơn đến Phi, b́nh thường, chỉ mất hai ngày hai đêm. Đoàn tầu Việt Nam đă phải đi ṛng ră trong một tuần.

 

Hộ tống hạm Mỹ USS Kirk đă hướng dẫn, săn sóc, tận t́nh giúp đỡ, tiếp tế thuốc men và thực phẩm. Nhưng Hạm Trưởng Jacobs, cũng như sĩ quan liên lạc Armitage, không phải là các nhà phù thuỷ có tài hô phong hoán vũ, “bốc” cả đoàn tầu với 30 ngàn người tị nạn đem từ Việt Nam qua Phi. Cái “phép lạ” làm được công việc này, chính là đoàn thuỷ thủ Hải Quân VNCH.

 

Đại tá Đỗ Kiểm cho biết, chủ đích của kế hoạch là đem tất cả đoàn tầu ra đi, và thuỷ thủ cùng thân nhân đi càng nhiều càng tốt. Nhưng trước ngày đi, trong khi tướng lănh và sĩ quan cao cấp biết trước để chuẩn bị, tổ chức cho thân nhân và bạn hữu ra đi, tất cả thuỷ thủ bị cấm trại trăm phần trăm. Trước khi ra đi, họ chỉ được vài giờ về đón gia đ́nh. Sợ không sửa soạn kịp, hoặc không kịp trở lại sẽ mang tội đảo ngũ, nhất là chưa biết sẽ đi đâu, đa số quyết định đi luôn. Hôm sau tại Côn Sơn, sau khi biết lệnh đầu hàng, một số đă xuống tầu nhỏ trở về.

 

Những thuỷ thủ c̣n gắn bó với tầu, trên nguyên tắc, v́ quân ngũ không c̣n tồn tại, họ không c̣n bổn phận phục vụ và tuân lệnh cấp trên. Không ai c̣n quyền ra lệnh, sai bảo họ nữa. Họ, đương nhiên biến thành người tị nạn, như bất cứ ai khác, muốn làm th́ làm, không muốn th́ thôi. Cũng chẳng c̣n chính quyền để trả lương cho họ. Tập thể thuỷ thủ này đă làm việc trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cả về tinh thần, và vật chất. Về tinh thần, trong khi cấp trên của họ, và cả những người ngoài không quen biết mà họ đang phục vụ, đem được gia đ́nh, bạn hữu đi theo, riêng họ, nặng trĩu lo âu, không biết gia đ́nh ra sao. Điều kiện làm việc của họ khó khăn hơn, chật chội hơn, thiếu thốn hơn, vất vả hơn, v́ phải làm thay cho những người vắng mặt, và giúp đỡ hàng ngàn người tị nạn. Từ người lái tầu tới thợ máy, vẫn phải giữ cho mọi việc hoạt động đều đặn. Riêng phần việc nhà bếp gia tăng gấp bội, vừa phải phục vụ các thượng khách và gia đ́nh, vừa phải cung cấp cơm cháo cho đồng bào tị nạn. Trong t́nh trạng như vậy, các thuỷ thủ vẫn cố gắng chịu đựng, làm việc trong kỷ luật, trật tự, và tinh thần trách nhiệm, đưa đoàn tầu và người tị nạn tới bến.

 

Thật ra, chẳng có phép lạ nào hết. Đó chỉ là thành tích đáng kính phục của các thuỷ thủ Hải Quân VNCH, những đơn vị cuối cùng trong quân lực vẫn c̣n hoạt động theo đội ngũ, một tuần sau lệnh đầu hàng, để phục vụ đồng bào. Trong gần 40 năm qua, đă có những cuộc gặp gỡ của đông đảo người tị nạn, để cảm ơn Hạm Đội 7, cảm ơn USS Kirk, nhưng chẳng thấy ai nhắc đến, ghi ơn, hay vinh danh những người lính Hải Quân VN đă tạo thành tích được coi như “phép lạ”.

 

***

 

Trong một bài đăng trên New York Times ngày 04 tháng 09, 2014, nhà điểm phim A. O. Scott viết rằng “Bây giờ, thời gian đă qua lâu, liên lạc Mỹ Việt đă b́nh thường, sẽ là điều tốt nếu được nghe tiếng nói của một vài người từ phía bên kia, để được biết những người lính đă suy nghĩ như thế nào khi họ vào Sài G̣n lúc người Mỹ ra đi”. Nhà điểm phim này chắc chưa có cơ hội xem The Fall of Saigon ra đời cách đây 20 năm. Lúc ấy, Mỹ Việt vừa tái lập bang giao, và hai người phía bên kia đă có cơ hội lên tiếng trong phim, là Trần Văn Trà, và viên sĩ quan cấp tá chỉ huy đoàn quân tiến vào Sài G̣n. Không cần nhớ rằng chỉ hai năm trước 1975, phía bên kia đă kư vào Hiệp Định Hoà B́nh Paris, quy định nhân dân miền Nam sẽ định đoạt tương lai của ḿnh, Tướng Trà nói rằng: Mong đợi thương thuyết vào phút chót chỉ là ước mơ tuyệt vọng của những kẻ biết ḿnh thua cuộc, chúng tôi đă dứt khoát đạt chiến thắng bằng quân sự. C̣n viên sĩ quan cấp tá, đề cập việc binh sĩ VNCH cởi bỏ quân phục sau lệnh đầu hàng, nói: “Họ phải làm như vậy, v́ biết rằng, đối với những người đă cầm súng bắn vào Quân Đội Nhân Dân, thế nào chúng tôi cũng phải tiêu diệt.” Cho nên, trong Last Days in Vietnam, không có tiếng nói của phía bên kia, là điều hay. Nếu không, nó sẽ làm hư cả cuốn phim, như để một vài con ruồi đáp vào tô phở ngon.

 

Last Days in Vietnam, như đă tŕnh bầy, tuy khá hơn hai bộ phim tài liệu trước có cùng nội dung, nhưng cũng chỉ mới tŕnh bầy được một phần, chừng ba chục phần trăm, về toàn cảnh những ǵ xẩy ra trong mấy ngày cuối tháng Tư cách đây 40 năm. Tuy vậy, đối với nhiều người gốc Việt, bộ phim này cũng đáng giữ làm kỷ niệm, và cho con cháu coi, để chúng biết được một phần, ông bà cha mẹ chúng đă ra đi trong hoàn cảnh như thế nào. Chẳng biết mười năm sau, trong dịp kỷ niệm 50 năm, có c̣n phim nào, với thêm h́nh ảnh mới nữa không?

 

Có một cảnh vào ngày cuối ở Sài G̣n, chưa ai có được, và có lẽ chẳng ai có, đă đươc Larry Berman kể trong Perfect Spy. Đó là cảnh diễn ra chiều 29 tháng Tư: Sau hai lần đến trước Toà Đại Sứ Mỹ mà không vào được, theo chỉ dẫn của Dan Southerland, kư giả của báo Christian Science Monitor, “Điệp Viên Hoàn Hảo” của Hà Nội là Phạm Xuân Ẩn chở Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, vốn được coi là “Trùm mật vụ” của Đệ Nhất VNCH, tới trụ sở CIA ở 22 Gia Long. Ông Tuyến đến đúng lúc cánh cổng đang hạ xuống, và chuyến trực thăng chót đang sửa soạn cất cánh. Được Ẩn đẩy vào, ông Tuyến chạy vội lên nóc nhà. Một cánh tay từ trực thăng đưa ra kéo bổng ông lên. Đó là tay Tướng Trần Văn Đôn, thành viên nhóm đảo chánh, đă từng hạ lệnh bắt và đầy ông Tuyến ra Côn Đảo.

 

——————

 

* “One thing not generally known is that Ambassador Martin was attempting to get large numbers of Vietnamese evacuated from the Embassy. lt appeared to be a bottomless pit, and as our men and machines began to tire … I did not want him captured. The number three man in the Embassy arrived on board the Blue Ridge and reported the Ambassador to be ill and exhausted. Through loyalty to our Vietnamese colleagues. he was going to keep that evacuation going indefinitely, and in my opinion, force it to keep going by not coming out himself.”

 

bài đă đăng của đinh từ thức

 

mùa phục sinh, nói về: giáo hội chuyển mùa (phần i) - 29.03.2016

bính thân nói chuyện mậu thân ở sài g̣n (phần ii) - 09.02.2016

bính thân nói chuyện mậu thân ở sài g̣n (phần i) - 08.02.2016

nh́n vào sự thật qua vụ các nhà báo gốc việt bị giết - 20.11.2015

đảng và đĩ - 16.11.2015

cây búa, con người và con ḅ - 28.05.2015

30-4-75: ai giải phóng ai và ai thắng ai thua - 30.04.2015

ngày 04 tháng 04, 40 năm trước - 06.04.2015

từ trại giam đến trại guam (iii) - 27.02.2015

từ trại giam đến trại guam (ii) - 26.02.2015

từ trại giam đến trại guam (i) - 25.02.2015

những ngày cuối cùng ở việt nam và phép lạ bị lăng quên - 21.10.2014

phụ nữ trong chiến tranh đông dương - 28.07.2014

điện biên phủ, tướng và quân - 07.05.2014

bỏ phiếu bằng mông - 26.02.2014

kỳ nhân gặp sát nhân (phần 2) - 12.11.2013

kỳ nhân gặp sát nhân (phần 1) - 11.11.2013

50 năm sau biến cố 1 tháng 11, 1963: xét lại nguyên nhân và hậu quả (phần 2) - 04.11.2013

50 năm sau biến cố 1 tháng 11, 1963: xét lại nguyên nhân và hậu quả (phần 1) - 01.11.2013

aline, cô bé gốc việt được làm thi sứ và mời vào bạch ốc - 03.10.2013

món quà mật mă - 27.07.2013

the artist, oscars và cộng sản - 20.03.2012

năm rồng nói chuyện rồng cái - 23.01.2012

bia đá, bia miệng - 16.01.2012

vua ở truồng, vua mặc quần, hai vua băng hà - 23.12.2011

obama giết osama: 10 năm săn thủ phạm 11- 9 (4) - 14.09.2011

obama giết osama: 10 năm săn thủ phạm 11- 9 (phần 3) - 13.09.2011

obama giết osama: mười năm săn thủ phạm 11- 9 (phần 2) - 12.09.2011

obama giết osama: 10 năm săn thủ phạm 11- 9 (phần 1) - 11.09.2011

hồi ức về bài thơ con cóc - 24.05.2011

phán quyết mới nhất về tự do ngôn luận tại hoa kỳ - 30.03.2011

từ tân măo đến tân măo - 02.02.2011

obama, hồ và món nhân quyền tại bạch ốc - 25.01.2011

wikileaks đáng khen hay đáng phạt - 07.01.2011

về bản dịch tôi không có kẻ thù của lưu hiểu ba - 03.01.2011

lucien conein và biến cố 1-11-63 (phần 2) - 02.11.2010

lucien conein và biến cố 1-11-63 (phần 1) - 01.11.2010

tiếng nói nghệ thuật: trực thăng ‘made in vietnam’ của lê quang đỉnh - 13.09.2010

cọp bốn món - 12.02.2010

tại sao việt nam thiếu luật sư giỏi? - 14.12.2009

thú tội: roma 1633, hà nội 2009 - 26.08.2009

20 năm thiên an bất an - 04.06.2009

viết và lách - 05.05.2009

cái đồng hồ của lincoln và quan tài trịnh công sơn - 14.04.2009

tiếng nói của nghệ thuật, tiếng nói của hành động - 24.02.2009

on visiting, on returning: reading beyond the sea - 14.02.2009

chuyện đi, về – đọc nếu đi hết biển - 13.02.2009

60 năm hoàn vũ nhân quyền - 10.12.2008

22 tháng 11 - 21.11.2008

thông điệp obama - 11.11.2008

 

3 b́nh luận »

 

nguyễn tà cúc viết:

Trong bài viết này, kư giả kỳ cựu Đinh Từ Thức có nhắc đến Đại tá Đỗ Kiểm và đoàn tàu Hải quân Việt Nam triệt thoái ra khỏi Miền Nam trong ngày cuối của tháng 4. Những ai muốn đọc chi tiết của cuộc triệt thoái đầy gian nan nhưng hào hùng và đáng được gọi là “một phép lạ bị bỏ quên” có thể t́m tại Chương 18, trang 193-216 của Counterpart: A South Vietnamese Naval Office’s War mà Đại tá Đỗ Kiểm và bà Julie Kane là đồng tác giả do Naval Institute Press, Anapolis, Maryland, xuất bản vào năm 1998. Số phận của lá cờ Việt Nam Cộng ḥa ra sao khi đoàn tàu 30.000 người dân Miền Nam và quân nhân thuộc Hải quân Việt Nam Cộng ḥa tiến vào được Subic Bay, Phi luật tân? Đại tá Đỗ Kiểm thuật lại rằng tuy chính phủ Hoa Kỳ đă dàn xếp để khoảng 50.000 người tỵ nạn được nhập cư nhưng chính phủ Phi Luật Tân chưa cho phép đoàn chiến hạm vượt quá hải phận của họ. Thêm vào đó, Mặt trận Giải phóng Miền Nam c̣n vừa đánh điện cho tổng thống Ferdinand Marcos…đ̣i các chiến hạm này lại! May thay, bên Hoa Kỳ khám phá ra rằng, trong giao kèo kư kết giữa Việt Nam Cộng ḥa và Hoa Kỳ, có một điều khoản cho phép hoàn trả các chiến hạm ấy lại cho Hoa Kỳ một khi Việt Nam Cộng ḥa không sử dụng nữa. Bởi thế, các cỗ súng phải được tháo ra, đạn dược phải vất bỏ, tên và số hiệu Việt Nam của các chiến hạm bị sơn đè lên rồi trương cờ Hoa Kỳ thay thế. Để tránh việc binh chủng Hải quân Việt Nam điều khiển những chiếc tàu trưng cờ một nước khác, Đại tá Đỗ Kiểm yêu cầu được cử hành một buổi lễ hạ cờ tại mỗi chiến hạm. Sau đó, quân nhân Hải quân sẽ bỏ binh phục, mặc đồ dân sự để tiếp tục điều khiển cho đoàn tàu tiến vào rồi hạ neo tại Subic Bay:

 

“Chiều ngày hôm đó, trên từng mỗi chiến hạm, một cựu sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng ḥa phát biểu vài lời, đoạn tới phiên một sĩ quan Hài quân Hoa Kỳ [cũng] phát biều một vài lời. Trong khi dây thừng (treo cờ) kêu cót két với lá cờ vàng với ba sọc đỏ * bắt đầu được hạ dần xuống, dân tỵ nạn cất tiếng hát bài quốc ca của họ: “Này công dân ơi…” Giọng hát của họ vút lên cao trên làn nước xanh màu cẩm thạch của Thái B́nh Dương. Lá cờ Mỹ quốc được lần lần kéo lên thay. /Late that afternoon, on board every ship, an ex-VNN officer made a speech; then a U.S. Navy officer made a speech. As the rope creaked and the red flag with three gold stripes began to descend, the refugees broke into their national anthem: “”Này công dân ơi…” (Oh citizen of the country). Slowly the U.S. flags were hoisted into place…” [Trang 216, sđd- * Dĩ nhiên hai đồng tác giả đă sơ xuất về màu sắc của lá cờ Việt Nam Cộng ḥa]

 

Trang 146 có ảnh chiến hạm HQ 229 và HQ 171 với hàng số chưa kịp bị sơn đè lên nhưng lá cờ Mỹ quốc th́ đă bay phấp phới trên cột cờ [vào 12 giờ trưa, ngày 7 tháng 5?]. Counterpart: A South Vietnamese Naval Office’s War là một tài liệu về cuộc chiến và lịch sử Việt Nam qua kinh nghiệm của một sĩ quan cao cấp Hải quân. Ông c̣n thuật lại rất chi tiết về trận hải chiến Hoàng Sa (Chương 16, trang 171-179, sđd). Dĩ nhiên đây chỉ là kinh nghiệm của một người nhưng qua cuộc đời của tác giả, người ta có thể h́nh dung một phần nhỏ của cuộc chiến đấu bi thảm mà can đảm của Miền Nam trước sự tấn công của Khối Cộng sản.

 

Hải sử Việt Nam, do các cựu quân nhân Hải quân đảm trách, đă cho đăng một bài giá trị của Lê Trí cung cấp nhiều tin tức hơn nữa về số chiến hạm ra đi, loại (khu trục hạm, tuần dương hạm, hộ tống hạm, hay cơ xưởng hạm vv) cũng như tên cùng số hiệu (như Đống Đa II HQ 07 vv) của các chiến hạm trong cuộc di tản này [Chuyến hải hành sau cùng của Hải Quân VNCH, đăng ngày 15. 4.2012, http://www.hqvnch.net/default.asp?id=1581&lstid=212. Hy vọng rằng càng lúc, chúng ta–những người lưu xứ– càng tích lũy được nhiều tài liệu hơn để có thể viết bộ sử đầy đủ và chính xác hơn nữa nhắm ghi lại một giai đoạn biến loạn với một hậu quả hết sức cụ thể là sự hiện diện mạnh mẽ và tiến bộ của hàng triệu người Việt tại ngoài nước.

 

- 22.10.2014 vào lúc 12:50 am

nguyễn tà cúc viết:

[Phần viết thượng dẫn khi gửi đi đă sót mất đoạn đầu. Xin được bổ sung cho lọn nghĩa và xin cáo lỗi với tác giả Đinh Từ Thức.]

Rất hoan nghênh nhà phê b́nh Đinh Từ Thức đă lập tức viết một bài công phu phân tích cuốn phim mới đây [và mấy vấn đề liên quan về cuộc chiến Việt Nam] mà chắc chắn có người chưa thể được xem ngay. Người ngoại quốc, nhất là người Hoa Kỳ, đă có những công tŕnh sáng tác, nghiên cứu hoặc dịch thuật về cuộc chiến vừa qua, về Việt Nam Cộng Ḥa hay về Văn học Miền Nam mà chúng ta– theo thiển ư, là thế hệ đầu tiên rồi cũng là thế hệ am hiểu nhiều về nguồn cơn của cuộc chiến dẫn đến các cuộc di tản ra khỏi Việt Nam — cần biết và cần phản ứng nếu muốn. Đúng như ông đă giúp đưa “phép lạ” này phổ biến rộng răi hơn qua bài điểm phim, hầu như không ai biết đến công khó của binh chủng Hải quân đă đưa gần một phần tư (30.000 trên tổng số khoảng 125.000) đợt dân Việt tỵ nạn đầu tiên thoát khỏi gông Cộng sản. Chỉ một “phép lạ” này đủ chứng minh quân đội Việt Nam Cộng ḥa không hèn nhát hay trốn trách nhiệm như từng bị cáo buộc. Cũng đúng như ông đă sâu sắc chỉ ra, bao nhiêu quân nhân Hải quân đă quên ḿnh để phục vụ đồng bào trong khi không biết chính gia đ́nh họ an nguy ra sao nếu c̣n ở lại Miền Nam. Như thế, lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa quả không hạ xuống ngày 30 tháng 4 như vẫn được biết mà đă chính thức hạ xuống vào trung tuần tháng 5 trên sóng nước Thái b́nh Dương.

 

- 22.10.2014 vào lúc 9:02 pm

một bạn đọc viết:

Kính chào quư vị,

 

Vế việc chào quốc kỳ lần cuối trên chiến hạm hải Quân VNCH tại Subic Bay (Phi Luật Tân), thầy tôi (dạy Việt Văn tại trường trung học Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên) vào các năm thập niên 1950-1960), trong lá thư gởi tôi đề ngày 14 tháng 8 năm 2000, Thầy viết:

“Khi con tàu tị nạn chở nhóm tôi tới gần Subic Bay (cứ điểm hạm đội 7 của Mỹ ở Viễn Đông, trên đất Phi Luật Tân),tàu chiến Mỹ ra tước khí giới, khuân hết sang tàu Mỹ và bắt hạ cờ vàng ba sọc đỏ xuống…. Tàu này nhỏ chỉ có khoảng 60 thuỷ thủ kể cả trưởng và phó hạm, nhưng cũng chỉ tập họp một tiểu đội. Khi họ đứng nghiêm lần chót, nh́n lá cờ từ từ xuống thấp, rồi được tháo ra gấp lại và cũng trao cho Mỹ luôn v́ bây giờ (…), tôi ngẹn ngào, nước mắt dàn dụa, phải vịn vào thành tàu một lúc mới tỉnh ra lấy tay chùi…” (HN)

 

Trân trọng,

một bạn đọc

 

- 24.10.2014 vào lúc 10:58 am http://damau.org/archives/34158

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of Anerican Scientist

Bảo Tàng Lịch Sử

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Hoàng Hải Thủy

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten