Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Hồ Trường và Nam phương ca khúc

 

 

 

Nguyễn Bá Trác

 

Nguyễn Bá Trác (1881-1945), bút hiệu Tiêu Đẩu, là: quan nhà Nguyễn, cộng sự của thực dân Pháp, nhà cách mạng, nhà báo và là nhà biên khảo Việt Nam.

 Nguyễn Bá Trác sinh năm Tân Tỵ (1881) tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học ở Quảng Nam, năm 1906, thi đỗ Cử nhân ở Huế.

Hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp và năm 1908, ông sang du học ở Nhật. Nhưng cũng ngay năm ấy, dưới sức ép của Pháp, chính phủ Nhật đă giải tán phong trào Đông Du, ông phải sang Trung Quốc rồi trở về Hà Nội (Việt Nam) năm 1914, làm ở Pḥng báo chí Phủ Toàn quyền Đông Dương và Chủ bút phần Hán văn tờ Cộng Thị cho đến năm 1916.

 Năm 1917, dưới sự bảo trợ của Louis Marty, Phạm Quỳnh sáng lập Nam Phong tạp chí, ông nhận làm Chủ bút phần Hán văn. Sau, thôi làm ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá lư Bộ Học và lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần phủ Quảng Ngăi, Tổng đốc Thanh Hóa, Tổng đốc B́nh Định.

 Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị xử bắn công khai tại Quy Nhơn (B́nh Định).

 

Tác phẩm

Ngoài nhiều bài viết trên tờ Nam Phong từ năm 1917 cho đến năm 1932, Nguyễn Bá Trác đă biên soạn thêm nhiều tác phẩm sau:

 Cổ Học Viện thư tịch thủ sách (soạn cùng với Nguyễn Tiên Khiêm) gồm 11 quyển (1921)

 Hoàng Việt Giáp Tư niên biểu (1925)

 Bàn về học thuật nước Tàu (1918)

 Hạn mạn du kư (1920. Năm 1921, Đông Kinh ấn quán - Hà Nội in lại)

 Bàn về Hán học (1920)

 Hương Giang mộng (1920)

 Ngă An Nam dân tộc Nam tiến chi lịch sử (1921)

 Mấy lời chung cáo của các nhà Nho (1921)

 Nguyễn Bá Học tiên sinh chi lược sử cập kỳ di ngôn (1921)

 Du Thanh Ḥa kư (19210)

 Hán học văn học khảo (1917-1932)...

Hạn mạn du kư

 

Nguyễn Bá Trác biên soạn nhiều sách, nhưng được nhiều người biết đến hơn cả là tập Hạn mạn du kư (có nghĩa là đi chơi phiếm). Đây là thiên kư sự bằng chữ Hán gồm 14 chương, sau ông mới đem dịch ra Việt văn, rồi đăng trên Nam Phong tạp chí từ số 38 đến số 43 vào năm 1920.

Nguyên nhân sáng tác, trong lời mở đầu, Nguyễn Bá Trác đă cho biết như sau:

 Tôi về nước đă 5 năm nay, kể từ năm 1908 bước chân đi, đến năm 1914 tôi trở về Sài G̣n giữa ngày tháng 8, tính đốt ngón tay một dạo phiếm du chốc đă 6 năm có lẽ. Loanh quanh trong nước một năm, tạm trọ ở Xiêm La hơn 10 ngày, làm khách qua Nhật Bản một tháng, rồi lại sang Trung Hoa, bao nhiêu thương phụ to, tỉnh thành lớn, như Ba Thục miền Tây, U Uyên đất Bắc, Quế Việt cơi Nam, đều là chỗ ḿnh có để ít nhiều dấu xe dấu ngựa. Nay đem đường lối phong cảnh mà ḿnh đă trải qua nơi đất khách, chép nhặt một vài, c̣n chuyện chi chi (ư nói đến việc đi làm cách mạng của ông) không rổi mà nói đến.

Đề cập đến tác phẩm này, nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ viết:

 ...Câu Việt văn khác mạch lạc suông sẻ, đôi chỗ đăng đối du dương. Những t́nh tiết ly kỳ của cuộc phiêu lưu nơi đất lạ đă đem lại cho câu chuyện nhiều vẻ hấp dẫn. Nhất là đối với các Nho gia ta khi ấy từng ôm cái mộng Đông du; nếu không th́ trí năo cũng đầy kỷ niệm văn chương về danh nhân, danh thắng Trung Hoa, đọc "Hạn mạn du kư" của Nguyễn Bá Trạc thật là thú vị. Cả nữ giới cũng hoan nghênh lắm. Bà Tương Phố từng kể hay gối Nam Phong ở đầu giường để đọc du kư của ông Quỳnh (Phạm Quỳnh), ông Trác mà mộng du đất Pháp, đất Tàu. Ông Dương Quảng Hàm khi làm sách Quốc văn trích diễm (1925) dành hẳn cho thiên du kư của Nguyễn Bá Trác hai bài trích, đó là Đường đi Hương Cảng và Điếu Kim lăng[1], đủ thấy độc giả đương thời đă thích thưởng thức dường nào.[2].

Và trong tập sách này có một khúc ca phương Nam do ông dịch, đă giúp ông thêm nổi danh.

Hồ trường

Cái tên Hồ Trường do người đọc trích chữ trong lời ca mà gọi chứ không phải do Nguyễn Bá Trác đặt. Bài này nằm ở chương 10 tập Hạn mạn du kư. Ở chương này, tác giả cho biết vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc đến Thượng Hải, ông đă gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (mà sau này gọi là Nam phương ca khúc). Ở bàn bên cạnh, một vơ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu ǵ, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương Nam”, họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, Nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem....

Giới thiệu bản dịch bài Nam phương ca khúc, Phạm Thế Ngũ viết: Trong thiên du kư (Hạn mạn du kư), đặc biệt có một bài ca do một người bạn tác giả gặp ở Thượng Hải, cùng trong cái cảnh đào vong v́ quốc sự, thường nghêu ngao hát những lúc mượn chén tiêu sầu nơi lữ điếm. Bài ca ấy độc giả bấy giờ và nhất là những người cách mạng lớp sau, ai cũng thích, thường học thuộc và ngâm nga...[2]

Sau đây là bản phiên âm Hán-Việt trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920, trang 400 - 401 và bản dịch của Dương Bá Trạc (đă chỉnh lại lỗi chính tả) do nhà biên khảo Phạm Hoàng Quân sao chép lại.

 

Nam phương ca khúc

 

Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường

Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thời hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương

Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ hề, thí lai đối chước hữu dư thương.

Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan

Dư thương trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương

Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy

Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử.

 

Dịch nghĩa:[4]

 

Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu? Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ!

Trời mây nối màu xanh ngắt Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.

Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ t́m ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này

Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng

Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng

Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn

Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm

Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ ǵ sùi sụt sầu cố hương.

 

Nguyễn Bá Trác dịch thơ:

 

Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;

Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương

Trời nam ngh́n dậm thẳm, mây nước một mầu sương Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.

Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.

 

 Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?

Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;

 Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan Rót về bắc phương, ngọn bắc phong v́ vụt, đá chạy cát dương;

Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng

Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, ḷng ta hay

Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.[5]

 

Chú thích

1.^ Khi soạn Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm có trích thêm một bài nữa trong "Hạn mạn du kư" của Nguyễn Bá Trạc, đó là "Quanh đường vượt ra khơi" (Nxb Trung tâm học liệu, Sài G̣n, bản in lại lần thứ 10, 1968, tr. 200).

 2.^ a b Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Quốc học tùng thư xuất bản, Tập 3, Sài G̣n, 1965, tr.326-327.

 3.^ Giải thích từ khó hiểu: Nam phương (Phương nam) ở đây chỉ miền Lĩnh Nam (Trung Quốc).

 Chiết hạm: Có nghĩa là bẻ cột, có nhiều người lầm viết là bẻ cật. Điển tích “bẻ cột” xuất phát từ sách Hán thư – truyện Chu Vân: Thời Hán Thành Đế, Ḥe Lư Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vân tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào cột điện, cột cung điện bị vặn găy. Nhân lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau, Thành Đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là v́ ḷng trung, bèn tha tội. Và khi cho sửa cung điện, ông vua này ra lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị găy, nhằm lấy h́nh ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng. Đời sau thường dùng từ “chiết hạm” để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua.

 Cương thường: Do chữ "tam cương" (vua tôi, cha con, chồng vợ) và "ngũ thường" (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) ghép lại.

 Thương (được lặp lại nhiều lần trong lời ca): Có thể đọc là “trường” hay “tràng” mà Nguyễn Bá Trác đổi thành “Hồ trường”.

 

Thương có ba nghĩa:

 1/ Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào th́ gọi là “chí”. 2/ Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”. Sách Lă Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu “Quản tử thương Hoàn Công” (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công). 3/ Tự uống rượu một ḿnh gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” (nâng ly khó uống một ḿnh). Phần tử: (tác giả dịch là cỏ cây): Là từ được ghép bởi “Phần du” và “Tử lư” (hoặc “Tang tử”). Đây là tên các loại cây mà người đời sau cùng chữ này để chí cố hương. Xem thêm ở đây [1].

4.^ Bài Hồ trường khi đăng ở báo Nam Phong không có phần dịch nghĩa & chú thích từ khó hiểu. Hai phần này đều căn cứ ở đây: [2]

5.^ Có ít nhất năm bản dịch đang tồn tại, mà ở các bản đều có vài từ không giống nhau.

 

 

 

Hồ Trường và Nam phương ca khúc

LTS: Trong văn học VN đầu thế kỷ hai mươi có một bài thơ đăng trên Nam Phong tạp chí và ngay lập tức nổi tiếng trong giới chí sĩ lúc bấy giờ. Đó là bài Hồ trường của Nguyễn Bá Trác (1881-1945) đăng trên tạp chí Nam Phong.

Từ bấy đến nay, rất nhiều người đề cập đến bài Hồ trường như một tác phẩm của Nguyễn Bá Trác, có rất nhiều người v́ yêu thơ rượu mà thích thú cái phong vị hào sảng trong bài thơ này.

Thế nhưng, kể cả các nhà nghiên cứu, ai cũng lầm rằng bài thơ trên do Nguyễn Bá Trác sáng tác. Cho đến năm 1998 trên báo TS chủ nhật có đăng một bài của Đông Tŕnh dẫn lời Nguyễn Văn Xuân cho biết bài Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch lại từ một ca khúc của Trung Quốc.

Tuy nhiên, về mặt văn bản học, do v́ xuất xứ phức tạp của bài thơ (thực ra là lời ca) Hồ Trường, nên các bản đang lưu hành tại VN xưa nay có nhiều điểm khác biệt nhau.

Nay nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân sưu lục được nguồn gốc xuất xứ của nguyên tác lời ca tiếng Trung Quốc (mà Nguyễn Bá Trác đă dịch thoát thành bài Hồ Trường), và dịch sát nghĩa lại để bạn đọc có dịp đối chiếu giữa nguyên tác, bản dịch nghĩa và lời thơ.

Xét về mặt tư liệu, đây là một đóng góp lớn cho việc minh định đâu là xuất xứ của Hồ Trường. Đồng thời, qua bài viết của tác giả Phạm Hoàng Quân, bạn đọc thấy hé mở một phần hành trạng của Nguyễn Bá Trác qua một trước tác khác là tập “Hạn mạn du kư”.

Cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường (1) mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Để góp một phần tài liệu cho sự tham khảo, đối chiếu được rộng răi chúng tôi trích lục các văn bản bằng chữ Hán, chữ Việt đă in trên Nam Phong tạp chí - nơi xuất xứ của lời ca này - cách nay đă 86 năm đối với Nam phương ca khúc và 84 năm đối với Hồ Trường.

Trong bài viết này chúng tôi quy ước như sau: Gọi Hồ Trường đối với lời ca tiếng Việt đă lưu hành từ trước tới nay. Nam phương ca khúc là tên tạm đặt cho lời ca mà Nguyễn Bá Trác đă nghe được, chép lại và dịch thành lời ca Hồ Trường.

I. Nguồn gốc lời ca Hồ Trường

Nam phương ca khúc (NPCk) được đăng lần đầu tiên theo thiên kư sự Hạn mạn du kư (HMDK) của Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí phần chữ Hán số 30, trang 214 năm 1919.

HMDK trước tiên được viết bằng chữ Hán, đăng tải từ số 22 đến số 35 năm 1919, 1920; sau đó thiên kư sự này được chính tác giả dịch sang chữ Việt và đăng tải ở phần chữ Việt của Nam Phong từ số 38 đến số 43 năm 1920, 1921.

Hạn mạn du kư là thiên kư sự gồm 14 chương kể lại cuộc đông du của tác giả trong khoảng 6 năm (1909 - 1914) từ Sài G̣n sang Xiêm La - Hương Cảng - Nhật - Trung Hoa - rồi về VN.

Nam phương ca khúc nằm ở chương 10: “Tại Thượng Hải gặp người đồng hương”. Vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc ở Thượng Hải, tác giả gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (lời Nam phương ca khúc), ở bàn bên cạnh, một vơ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu ǵ, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam” (2), họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem.

Về mặt văn bản mà xét, th́ bài ca ấy không rơ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác chép lại toàn vẹn Nam phương ca khúc. Và khi Hạn mạn du kư được sang chữ Việt th́ lời ca này đă được dịch rất thoát, tuy nhiên nó vẫn là “lời ca” minh hoạ cho văn cảnh ấy chứ không phải “bài thơ hồ trường” như nhiều người từng gọi.

Cũng v́ vậy, trong bài viết này, người viết xin gọi theo cách cũ là “Lời ca hồ trường” (3). Hồ trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Người dịch đă linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác.

Hồi ấy Hồ Trường được dịch thẳng từ lời ca chữ Hán sang lời ca chữ Việt mà không có bản dịch nghĩa, nay thấy cần có nguồn tài liệu để dựa vào mà đính chính một số điểm khác biệt của Hồ Trường, nên tôi chụp lại nguyên tác hán văn Nam phương ca khúc từ Nam Phong tạp chí, đồng thời phiên âm dịch nghĩa để bạn đọc tham khảo.

II. Nam phương ca khúc

Phiên âm:

Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thời hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương
Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ (4) hề, , thí lai đối chước hữu dư thương.
Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan
Dư thương trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương
Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương
Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy
Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử

Dịch nghĩa:

Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ t́m ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ ǵ sùi sụt sầu cố hương.

Qua bản phiên âm và dịch nghĩa NPCK, chúng tôi thấy cần dừng lại lưu ư một đôi chỗ. Số là trong HMDK đăng tải trên Nam Phong - ở cả phần chữ Hán và chữ Việt - không có phần chú thích các từ khó hiểu thuộc về điển tích đă dùng trong NPCK và Hồ Trường, nay xin nói thêm về các điển ấy.

Ở câu đầu tiên có cụm từ “xé gan bẻ cột”. Trong NPCK ta thấy viết là Bẻ cột - chiết hạm. (Có nhiều người lầm viết là bẻ cật). Theo các từ điển thông dụng Trung Quốc th́ điển tích “bẻ cột” xuất phát từ sách Hán Thư – truyện Chu vân: Thời Hán thành Đế, Ḥe Lư Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vấn tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào vặn cột điện, cột cung điện bị găy, nhơn lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau đó Thành đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là v́ ḷng trung, bèn tha tội.

Khi sửa cung điện, Thành đế lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị găy, lấy h́nh ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng của Chu Vân. Đời sau thường dùng từ “chiết hạm – bẻ cột” để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua. Thôi Đồ trong bài thơ Kư cữu (gởi cậu) có câu “trí quân kỳ chiết hạm” (hết ḷng v́ vua mà bẻ găy cột).

Chữ “Thương” ở cuối câu thứ năm (được lặp lại nhiều lần trong lời ca) có thể đọc là “trường” hay “tràng” mà Nguyễn Bá Trác đổi thành “Hồ trường”, từ một chữ “thương” biến thành hai chữ “hồ trường” rồi thành hẳn tên bài ca, kể cũng kỳ thú!

Thương có ba nghĩa:

1. Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào th́ gọi là “chí”;

2. Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”. Sách Lă Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu “Quản tử thương Hoàn Công” (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công).

3. Tự uống rượu một ḿnh gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” (nâng ly khó uống một ḿnh).

Khi dịch nghĩa NPCK, chúng tôi dùng nghĩa “thương là chén rượu đầy”. C̣n từ “hồ trường” trong lời ca Hồ trường là sự sáng tạo của dịch giả Nguyễn Bá Trác, chúng tôi không dám lạm bàn.

Chữ “phần tử” mà chúng ta thấy ở cuối bài NPCK là một từ chỉ quê hương (mà dịch giả Hồ trường đổi thành “cỏ cây”). Phần và tử là tên hai loại cây. Cây phần là một loại Du trắng nên c̣n gọi là “Phần du”.

Trong Hán thư - Giao tự chí, quyển thượng có ghi lại rằng: “Trong buổi lễ tế Giao, Hán Cao tổ có khấn ḿnh là người ấp Phong, làng Phần du (làng có trồng cây phần du làm đặc trưng, sau thành tên làng), người đời sau lấy chữ Phần du để chí cố hương. Cây Tử tức là cây Thị, gỗ dùng để đóng đàn, khắc bản in…

Quê cha đất tổ gọi là “tử lư” hay “tang tử”. Kinh thi có câu “duy tang dữ tử, tất cung kính chi” (cây do cha mẹ trồng, ắt phải cung kính vậy); Phạm Thành Đại có câu “thân tu tử lư cung” (cung kính quê nhà mà lo tu sửa thân); truyện Kiều có câu “có khi gốc tử đă vừa người ôm”. “Phần tử” là từ được ghép bởi “Phần du” và “Tử lư” (hoặc “Tang tử”). Nguyễn Du viết: “Đoái thương muôn dặm tử phần; hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Kiều).

Các chú thích vừa nêu có thể là dài ḍng nhưng qua đó, phần nào bạn đọc có thể thấy những điểm khác biệt giữa NPCK và Hồ Trường, đồng thời có thể xác định bản Hồ trường nào đă theo đúng bản gốc.

III. Lời ca Hồ trường

Nguyên bản trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Trang 400 – 401 (giữ nguyên các lỗi sai so với chính tả ngày nay)

1. Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;
2. Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
3. Trời nam ngh́n dậm thẳm, mây nước một mầu sương
4. Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
5. Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
6. Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
7. Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
8. Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
9. Rót về bắc phương, ngọn bắc phong v́ vụt, đá chạy cát dương;
10. Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
11. Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, ḷng ta hay
12. Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

Qua lời ca Hồ trường này, chúng ta thấy các bản in lại có nhiều chỗ khác biệt. Các điểm sai lệch quan trọng có thể kể:

Ở câu 1: có vài bản in là bẻ cật (có lẽ do liện hệ gan - cật nên thành xé gan bẻ cật thay v́ bẻ cột). Ở câu 2: nhầm thành tha phương (nguyên bản là “tha hương”).

Ở câu 4: hầu hết các bản in lại đều là “thân thế” (nguyên bản là “thân thể”), tuy nhiên, ở đây có lẽ bản gốc Nam Phong sai v́ trong NPCK chữ Hán dùng chữ “thân thế”.

Ở câu 5 có vài bản in “vỗ gươm mà hát” (thay v́ “vỗ tay”) và tiếp đó là “nghiêng bầu mà hỏi” (thay v́ “nghiêng đầu”). Ở câu 9 hầu hết các bản đều in “ngọn bắc phong vi vút” (thay v́ “v́ vụt”)…

Như đă nói, bài viết này chỉ dựa vào bản Hạn mạn du kư in lần đầu trên Nam Phong, người viết chưa được đọc bản in thành sách sau đó, cũng có khả năng tác giả HMDK có điều chỉnh đôi chỗ về ư hoặc về lỗi kỹ thuật, đồng thời bản dịch NPCK của chúng tôi nếu có lầm lẫn, xin bạn đọc điều chỉnh giúp cho.

Bến Nghé - tháng 8 năm Ất Dậu

PHẠM HOÀNG QUÂN

Chú thích:

(1) Các bản được biết gồm: 1. Trong tập Hạn mạn du kư - Đông Kinh ấn quán - Hà Nội 1921 (tác giả in lại). 2. Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên - Quốc học tùng thư - Sài G̣n - 1965 (bài ca Hồ trường in ở trang 327 - tập 3). 3. Lăng Nhân - Chơi chữ - Nam Chi tùng thư - Sài G̣n - 1960 (in lời ca Hồ Trường theo một giai thoại, trang 94). 4. Đông Tŕnh - (bài báo) - TS chủ nhật ngày 7-6-1998. 5. Vương Trùng Dương - Nguyễn Bá Trác và bài thơ Hồ Trường - vơng trạm www.xuquang.com - in lại bản của cháu ngoại tác giả công bố.

(2) Phương nam ở đây chỉ miền Lănh Nam - Trung Quốc

(3) Người sau gọi Hồ Trường là trích lấy chữ trong lời ca mà gọi chứ không phải tựa đề do tác giả Hạn Mạn du kư đặt ra.

(4) Chữ KỶ này ở nguyên bản hán văn in nhầm là chữ DĨ

(5) Các chú thích ở phần dịch nghĩa Nam phương ca khúc được tổng hợp từ các sách Từ Hải, Từ Nguyên, Cổ Hán ngữ từ điển, H́nh âm nghĩa tổng hợp đại tự điển.