Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

NẾU KHÔNG HỢP TÁC ĐƯỢC TH̀ ĐỪNG GÂY RỐI, ĐÁNH PHÁ

http://www.chinhnghia.com/hoptachaydanhpha.asp 

ĐÁNH PHÁ TƯỢNG ĐÀI: VIỆT CỘNG HAY TÂM THẦN?

http://www.chinhnghia.com/phatuongdaivietconghaytam%20than.asp 

Khó Vừa Ḷng Người

http://www.chinhnghia.com/khovualongnguoi.asp 

Những Kẻ Đánh Phá Tượng Đài

http://www.chinhnghia.com/nhungkedanhphatuongdai.asp 

THƯ NGỎ 26/8/2012

http://www.chinhnghia.com/thungo26082012.asp 

Đoàn Lữ Hành Cứ Đi

http://www.chinhnghia.com/doanluhanhcudi.asp 

Dốt Mà Lắm Chuyện

http://www.chinhnghia.com/dotconlamchuyen.asp

 

 

| Tác giả: Trần Ngọc Cư

 

Phỏng vấn Zbigniew Brzezinski

 

 

 

Bauxite Việt Nam: Zbigniew Brzezinski là Cố vấn An ninh Quốc gia của Chính quyền Jimmy Carter từ năm 1977 đến năm 1981. Trong thời gian ông giữ chức vụ này, Mỹ đă thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và chấm dứt việc nh́n nhận Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan). Ông cũng là một trong những quan chức cấp cao đă chào đón cuộc thăm viếng lịch sử của Đặng Tiểu B́nh tại Mỹ vào đầu năm 1979, và sau đó Đặng đă phát động cuộc Chiến tranh biên giới, rêu rao rằng để “dạy Việt Nam một bài học”. Cũng như Henry Kissinger, sự nghiệp chiến lược của Brzezinski là tạo một liên minh Mỹ – Trung để kiềm chế sự bành trướng của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, và liên minh này đă chi phối sâu sắc viễn kiến của Kissinger cũng như của Brzezinski đối với t́nh hữu nghị Mỹ – Trung mà hai ông thường bênh vực. Thậm chí gần đây, Brzezinki c̣n nói đến việc thành lập một G-2 (nhóm quốc gia gồm có hai nước là Mỹ và Trung Quốc) [Xin đọc thêm "The G-2 Mirage" (Ảo ảnh G-2) của Elizabeth Economy"].

 

V́ tiêu chí chuyển tải thông tin đa chiều, chúng tôi giới thiệu cùng bạn đọc bài phỏng vấn sau đây.

 

——————————————————-

 

 

Zbigniew Brzezinski. Photo: www.commondreams.org

 

Trợ lư Biên tập viên Zachary Keck của The Diplomat đă tọa đàm với cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Zbigniew Brzezinski để thảo luận về vai tṛ của Mỹ trong các vấn đề thế giới, về t́nh h́nh địa chính trị đang chuyển biến trong khu vực châu Á – Thái B́nh Dương, về tính khả thi của nỗ lực loại bỏ vũ khí hạt nhân, và về các cường quốc đang trỗi dậy ngày càng ảnh hưởng vào sân sau của Mỹ [tức châu Mỹ La tinh, DG].

 

Trong cuốn Strategic Vision (Viễn kiến chiến lược), ông lư luận rằng trong thế giới ngày nay, không một cường quốc nào có đủ khả năng để thống trị khu vực Á Âu (Eurasia) theo quan niệm nổi tiếng của Harold Mackinder. Nh́n vào ư nghĩa trực tiếp của lư luận này, người ta thấy rằng nó tiêu biểu cho một thay đổi cực kỳ to lớn (tectonic shift) trong chính sách đối ngoại Mỹ. V́ qua một quá tŕnh lâu dài trước khi Washington có thể thực hiện được thế quân b́nh lực lượng tại khu vực Á Âu, các lănh đạo Mỹ đă coi việc ngăn chặn không cho phép một bá quyền nào thống trị vùng này như là một yêu cầu chiến lược chủ yếu. Nếu Mỹ không c̣n quan tâm đến việc bảo vệ “đảo thế giới” của Mackinder [tức khu vực Á Âu] khỏi rơi vào tay của một bá quyền tiềm năng, th́ mục tiêu chủ yếu của việc Mỹ dấn thân vào châu Âu và châu Á là ǵ, nếu ta nh́n về tương lai?

 

Mục tiêu chính của việc Mỹ dấn thân vào châu Âu và châu Á phải là, để hậu thuẫn một thế quân b́nh nhằm ngăn cản không cho bất cứ một cường quốc nào hành động một cách quá quyết đoán đối với các nước láng giềng của nó. Trong tương lai trước mắt, dù sao đi nữa, không thể có một cường quốc duy nhất nào nắm được thế ưu việt quân sự để quyết đoán cung cách bá quyền của ḿnh trên một đại lục đa dạng, phức tạp, và lắm vấn đề như khu vực Á Âu. Việc Mỹ có quan hệ mật thiết với châu Âu, nhưng đồng thời phải duy tŕ một quan hệ đối tác phức tạp với Trung Quốc và một liên minh với Nhật Bản, sẽ tạo cho Mỹ những điểm tập trung cần thiết trong một cuộc dấn thân chiến lược, nhằm duy tŕ một thế quân b́nh tương đối ổn định dù có tế nhị trên khu vực gọi là “ḥn đảo thế giới”.

 

Trong cuốn sách, ông nói rằng Mỹ phải đóng vai tṛ của một trọng tài trung lập giữa các cường quốc châu Á, với ngoại lệ có thể là đối với Nhật Bản. Chính quyền Obama thông thường cũng có để ư đến điều này nhưng gần đây đă tách rời khỏi khuyến cáo của ông bằng cách đưa ra một tuyên bố gay gắt về t́nh h́nh biển Nam Trung Hoa [biển Đông Việt Nam], trong đó chỉ nêu đích danh một ḿnh Trung Quốc. Ông có thấy v́ lư do ǵ mà chính quyền Mỹ có hành động này và ông có coi đó là một sai lầm không?

 

Tôi cho rằng lập trường của Mỹ về tự do thông thương trên biển nói chung là đúng; nhưng gần đây lập trường này đă được theo đuổi một cách vụng về. Đáng tiếc là, bản tuyên bố nói trên đă được đưa ra trong bối cảnh của cái gọi là “xoay trục chiến lược”, với những ngụ ư liên quan tới việc gia tăng sức mạnh quân sự Mỹ tại châu Á, như một phản ứng cần thiết đối với những thực tế địa chiến lược vừa mới xuất hiện tại Viễn Đông. Nói vắn tắt, ta không nên ngạc nhiên nếu phía Trung Quốc cho rằng bản tuyên bố ấy có ngụ ư là Mỹ bắt đầu h́nh thành một liên minh chống Trung Quốc, một việc mà ở vào giai đoạn này ít ra là c̣n quá sớm và có nguy cơ trở nên một lời tiên tri tự biến thành hiện thực (a self-fulfilling prophecy).

 

Trong cuốn Strategic Vision ông đă công khai phản đối mạnh mẽ một liên minh chính thức giữa Mỹ và Ấn Độ, chỉ trích hợp đồng nguyên tử 2006, và nêu ra nhiều thách đố nội bộ mà New Delhi đang gặp phải. Từ lâu ông đă có quan điểm đặc biệt nhất quán về những điều này, nhưng h́nh như ông rất bất đồng với phần lớn giới hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ, những người đang coi một quan hệ chặt chẽ hơn với Ấn Độ là tất yếu nằm trong lợi ích quốc gia? Tại sao ông cho họ là sai lầm?

 

Tôi bất đồng ư kiến với nhiều nhân vật trong cộng đồng đối ngoại Mỹ về nhu cầu phải có một quan hệ hữu nghị vững chắc với Ấn Độ, một quan hệ mà mới nh́n vào là thấy nhắm vào Trung Quốc. Tôi cho rằng Mỹ có thể phục vụ lợi ích của ḿnh cũng như sự ổn định tại Viễn Đông hữu hiệu hơn, bằng cách tránh xa bất cứ một liên minh ràng buộc nào với các cường quốc đang cạnh tranh nhau trên lục địa châu Á. Sau cùng nhưng không kém phần quan trọng là, sự ổn định tương lai của Ấn Độ, chứ đừng nói chi đến tiềm năng quyền lực của nó, là có vấn đề; và theo quan điểm của tôi, quá nhiều người đă bị mê hoặc bởi sự kiện Ấn Độ có một dân số vĩ đại không kém ǵ Trung Quốc.

 

Trong tháng Tám, Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton mở ra một chuyến công du 10 ngày đến châu Phi (mà nhiều người cho rằng) để chống lại ảnh hưởng ngày một lớn của Trung Quốc tại châu lục này. Trong cuốn Strategic Vision, ông bàn về Mexico, nhưng điều này có thể quảng diễn một cách hợp lư đến những nước khác tại Tây bán cầu, đấy là sự kiện những nước này có quan hệ ngày một gia tăng với Trung Quốc và với các cường quốc đang trỗi dậy khác kết hợp với nhiều vấn đề khác, khiến cho t́nh hữu nghị Mỹ-Mễ ngày càng trở nên căng thẳng. Căn cứ vào sự kiện địa vị bá quyền của Mỹ tại Tây Bán Cầu đă trở thành mục tiêu bao quát của chính sách đối ngoại Mỹ chí ít kể từ năm 1823, và là một thực tế kể từ năm 1898, liệu Mỹ có đang làm đầy đủ để chống lại sự xâm nhập của Trung Quốc và các cường quốc đang trỗi dậy khác vào vùng ảnh hưởng truyền thống của ḿnh hay không? Nếu không, th́ Mỹ phải làm ǵ?

 

Tôi không nghĩ Mỹ cần phải làm “đầy đủ để chống lại sự xâm nhập của Trung Quốc và các cường quốc đang trỗi dậy khác vào vùng ảnh hưởng của ḿnh” tại Nam Mỹ bởi v́ ở giai đoạn này các nước Nam Mỹ rơ ràng có ư định trở nên tự trị hơn trong quan hệ giữa họ với Mỹ. Một chính sách đặt cơ sở trên tiền đề mà tôi vừa trích dẫn sẽ buộc các nước châu Mỹ La-tinh hoặc phải đứng vào hàng ngũ với Mỹ hoặc là chống lại Mỹ, và điều này sẽ không nằm trong lợi ích của Mỹ, nhất là nếu ta căn cứ vào tâm trạng đang thịnh hành và đang chuyển biến của dân chúng trong một số nước châu Mỹ La-tinh.

 

Từ lâu ông chủ trương đàm phán nghiêm chỉnh với Iran, điều mà chính quyền Obama có ư định thực hiện chí ít vào lúc mới nhậm chức. Tuy nhiên trước khi các cuộc đàm phán bắt đầu, những cuộc xuống đường phản kháng đă bộc phát tại Tehran tiếp theo sau cuộc bầu cử Tổng thống 2009. Mặc dù chính quyền Obama cho rằng biến cố này đă diễn ra hoàn toàn như một cú sốc đối với họ, nhưng tôi thiết tưởng ông không thấy như vậy, v́ năm 2007 chính ông đă tuyên bố rằng Iran là nước có thể đang gặp phải những vấn đề nội bộ nghiêm trọng, một khi người Iran không c̣n cảm thấy thế giới bên ngoài, và đặc biệt Mỹ, bao vây họ. Ông cũng có kinh nghiệm bản thân trong việc đối phó những cuộc biểu t́nh tại Tehran. Theo quan niệm của ông, chính quyền Obama đă hành động ra sao trong việc phản ứng lại các cuộc biểu t́nh tại Iran năm 2009? Ông nghĩ ǵ về cuộc nổi dậy này về sau đă lan khắp phần lớn thế giới Ả-rập?

 

Tôi không thấy Mỹ có nhiều tự do hành động trong việc phản ứng lại những biến động ởIranvà nói rộng hơn ở Trung Đông. Những biến cố này tự bản thân đă có liên quan với sự thay đổi xă hội ở trong khu vực, nhất là có liên quan với hiện tượng thức tỉnh chính trị của đại đa số tầng lớp trẻ. Về điểm này, luận điệu được sử dụng bởi nhiều người phát ngôn tham gia vào các biến cố này có khuynh hướng dân chủ, mặc dù dân chủ không nhất thiết là mục tiêu đích thực của những nguyện vọng chính trị quần chúng. Những nguyện vọng này vốn có gốc rễ trong những căm thù lịch sử, trong phân biệt đối xử xă hội, trong ganh tị tài chính, hay chỉ thuần túy thất vọng mà thôi. Kết quả là, các biến động này có xu thế tạo ra một chủ nghĩa dân túy có tính quyết đoán (assertive populism), mà ta không nên lẫn lộn với nỗ lực định chế hóa các tiến tŕnh dân chủ sắp diễn ra.

 

Nhiều nhà ngoại giao nổi tiếng nhất của Mỹ, kể cả nhiều người đồng thời với ông, đă dứt khoát chấp nhận việc hũy bỏ vũ khí hạt nhân. Trong cuốn Strategic Vision, ông bàn khá dài về những mối nguy tiềm tàng do việc gia tăng số nước có vũ khí hạt nhân (horizontal proliferation) – đặc biệt từ các nước có vũ khí tương đương với vũ khí hạt nhân (quasi-nuclear weapon states) như Nhật Bản, Nam Hàn, và Đức – cũng như mối nguy do việc gia tăng khả năng của các nước vốn đă có vũ khí hạt nhân (vertical proliferation) từ các nước như Nga, Trung Quốc, và Ấn Độ. Đồng thời, tôi có cảm tưởng ông thiếu nhiệt t́nh đối với phong trào đ̣i hũy bỏ vũ khí hạt nhân toàn cầu (global zero movement), mặc dù gần đây thỉnh thoảng ông có dè dặt bày tỏ sự đồng t́nh với phong trào này. V́ thế, tôi tự hỏi liệu ông có thể nói thêm suy nghĩ của ông về vấn đề này hay không? Chẳng hạn, ông có thấy phương án nào khác dễ thực hiện hơn để ngăn chặn việc bành trướng vũ khí hạt nhân hay không?

 

Tôi không có tranh căi nào với phong trào đ̣i hũy bỏ vũ khí hạt nhân toàn cầu nhưng tôi nghĩ rằng đó là một tiêu chí chỉ được thực hiện từ từ, với sự dần dần lắng dịu của thời đại đầy nhiễu nhương hiện nay, và có lẽ trong một bối cảnh mà các cường quốc chính trên thế giới sẽ nhận thấy việc tham gia hợp tác thật sự nghiêm chỉnh là điều khả thi và có kết quả tích cực.Viễn cảnh cho việc hũy bỏ vũ khí hạt nhân toàn cầu trong ngắn hạn là tương đối mong manh và không mấy hi vọng. V́ thế, tôi thấy không ích chi trong việc hăng hái tham gia một phong trào mà đáng lẽ tôi phải coi là một nguyện vọng tích cực.

 

Ngoại trưởng Hillary Clinton nhiều lần nói rằng bà sẽ không tiếp tục làm Bộ trưởng Ngoại giao trong một nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Obama. Như vậy, Mỹ có khả năng thay thế người đứng đầu ngành ngoại giao bất chấp kết quả của cuộc bầu Tổng thống vào tháng 11 này. Ai là những người ông muốn đề xuất với vị Tổng thống vừa đắc cử để phỏng vấn cho chức vụ này? Nếu ông không muốn nêu tên họ ra, có lẽ chí ít ông có thể cho biết những đức tính nào mà ông nghĩ là quan trọng nhất cho những ứng viên này?

 

Tôi không muốn lao vào việc cổ xúy cho một tên tuổi đặc biệt nào v́ tôi nghi rằng một sự cổ xúy như vậy do tôi đưa ra thậm chí có thể là phản tác dụng. Có một số người trên chính trường hiện nay, trong đó có một số Thượng nghị sĩ, cũng như những người đang hoạt động trong lănh vực công, có thể trở thành những ngoại trường rất đầy đủ khả năng. Tuy nhiên, sự lựa chọn này phần lớn tùy thuộc vào cái vai tṛ mà vị Tổng thống sắp tới dự phóng cho vị Bộ trưởng Ngoại giao của ḿnh: đấy là, liệu người được đề cử vào chức vụ trên sẽ thực sự trở thành người hoạch địch chính sách đối ngoại chủ yếu, hay người được đề cử chỉ được kỳ vọng làm một vị Ngoại trưởng để chăm sóc các quan hệ đối ngoại, với từ “các quan hệ” là quan trọng. Tôi vừa mới xem một số bài phân tích chi li nhưng vớ vẩn khi bàn về bao nhiêu ngàn dặm mỗi một vị Bộ trưởng Ngoại giao đă công du trong những năm gần đây, và điều này cho tôi thấy nhu cầu cần phải phân biệt giữa việc hoạch định chính sách đối ngoại và việc tích cực dấn thân vào các quan hệ ngoại giao.

 

 

 

 


 

 

 

 

 

http://www.youtube.com/user/khieuvusaigon#g/u

http://www.youtube.com/user/vgdoanchinhthuan?feature=watch

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: