Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Biệt Kích Miền Nam 

 

 

 

MỘT NGÀY LÀ BIỆT KÍCH, CẢ ĐỜI LÀ BIỆT KÍCH.

NGƯỜI LÍNH BIỆT KÍCH CỦA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ CHÚNG TÔI, LÀ THẾ ĐẤY!

 

NGUYỄN KHẮP NƠI, 

VIẾT THEO LỜI KỂ CỦA BIỆT KÍCH NHẢY BẮC NGUYỄN VĂN HINH. 

 

“Tôi tên Hinh, được anh em ưu ái tặng cho biệt hiệu “Hinh Nổ” là v́ hai lư do: Trước hết, tôi chuyên môn gài chất nố để phá hoại. Sau nữa, tôi đă dám . . . Nổ vào mặt bọn cán bộ tuyên truyền của Việt Cộng. Bọn chúng tuyên truyền nói dóc với chúng tôi, chúng nổ những chuyện không ai tin nổi, làm cho tôi nổi cơn, tôi  . . . nói dóc lại cho chúng nghe, nổ lại chúng bằng chính những câu nói dóc mà chúng nói với chúng tôi, làm anh em Biệt Kích cười nôn ruột, từ đó, họ đặt cho tôi cái tên . . . Hinh NỔ.” 

(Viết theo lời kể của Biệt Kích Quân Nguyễn Văn Hinh, Melbourne)

 

 

 

Năm 1959, Miền Nam Việt Nam đang ở vào thời kỳ cực thịnh của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, nhân dân an cư lạc nghiệp, chiến tranh là một điều c̣n xa xôi lắm.

 

Lúc đó, tôi đang học lớp Đệ Nhị, sửa soạn thi kỳ thi “Tú Tài I”. Chưa thi, tôi đă vẽ ra cái vinh quang của người học sinh thi đậu bằng “Bắc Oong – Baccalauréat Première Partie”, oai phong lẫm liệt bước lên học lớp Đệ Nhất, năm sau thi “Tú Tài II – Baccalauréat Deuxième Partie. Có bằng “Bắc Đơ” rồi là cứ ung dung ghi tên vào thẳng Viện Đại Học Saig̣n, tự chọn phân khoa ḿnh ưa thích: Y, Nha, Dược, Kiến Trúc, Kỹ thuật, Luật, Văn Khoa . . . mà không phải qua bất cứ kỳ thi nào cả.

V́ cái viễn ảnh tươi đẹp đó, tôi cứ nghĩ rằng tôi sẽ đậu kỳ thi cuối năm. Số ḿnh đậu, chắc chắn sẽ đậu, không cần phải cố gắng chi cho nhiều. Rủi thay, tôi lại . . . thi rớt. Vào thời đó, chưa có lệnh . . . Tổng động viên, nên tôi cứ tàn  tàn học lại chờ thi khoá 2. Số mạng của tôi là miệt mài khoa cử, nhưng lại khác mọi người: Khoa cử của tôi không về các nghề nghiệp dân sự, mà lại khoa cử về . . . binh nghiệp.

Một hôm, trong khi tôi đang ngồi chăm chỉ học bài thi, th́ người anh họ (học cùng lớp) của tôi đến chơi. Đợi lúc không có ai, anh ghé tai tôi nói nhỏ:

“Tao . . . t́nh nguyện đi học khoá Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, vừa thoả măn đời trai tang bồng hồ th́, vừa có tí tiền xài”

Tôi thắc mắc:

“Anh không lo học để mà thi lại bằng Tú Tài Một à?”

“Đi lính trước đă, khi ra đơn vị rồi, nộp đơn xin về đi thi. Bộ Quốc Pḥng và Bộ Giáo Dục đồng ư năng đỡ những quân nhân có tinh thần học hỏi, nên cho thêm điểm, dễ đậu lắm.”

Tôi nghe bùi tai, xin cha mẹ cho đi lính.

Học căn bản quân sự ở Trung Tâm Huấn Luyện “Quang Trung” ba tháng, đến khoàng tháng 9 năm 1959, chúng tôi khoác ba lô đi ra Nha Trang để học khoá “Trần B́nh Trọng” ở Trường Hạ sĩ Quan Đồng Đế (lâu quá rồi, tôi không nhớ rơ tên khoá học, nên tên này có thê đúng, và cũng có thể sai). Gần măn khoá học, các binh chủng quân đội, như Nhẩy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến. Thiết Giáp, Pháo Binh . . . đều cử phái đoàn đến để giới thiệu binh chủng của ḿnh và cũng để tuyển mộ tân binh. Tôi đang đứng sớ rớ th́ gặp thầy giáo đầu đời bậc Tiểu học của tôi là Thầy Khai Tâm. Thầy đă không c̣n tiếp tục dậy học nữa, mà mang lon Trung uư, mặc bộ quân phục Nhẩy Dù, đội mũ bê rê đỏ chói, làm trưởng toán tuyển mộ của “Lữ Đoàn Nhẩy Dù”. Thầy hỏi tôi:

Em có muốn đi lính . . . Thiên Thần Mũ Đỏ hay không?”

Thôi th́ thầy đi đâu tṛ theo tới đó, tôi đặt bút  kư t́nh nguyện gia nhập Binh Chủng Nhẩy Dù.

Học xong khoá huấn luyện nhẩy dù, tôi được bổ xung cho Tiểu Đoàn 5 do Đại uư Phạm Xuân Soạn làm Tiểu Đoàn Trưởng. Sau vài tháng mưa nắng chiến trường, là tới kỳ thi Tú Tài I, do tôi đă nộp đơn từ trước, nên được cho một tuần lễ nghỉ phép để về Sài G̣n dự thi. May mắn đă đến, tôi được chấm đậu.

Đại Uư Soạn kư giấy cho tôi đi học khoá 3 Sĩ Quan Đặc Biệt, cũng tại trung tâm huấn luyện Đồng Đế, Nha Trang.

Măn khóa học, tôi được gắn lon Chuẩn Uư, nhưng Sự Vụ Lệnh câp cho tôi lại không trở về Nhẩy dù, mà lại về phục vụ cho Lực Lượng Đặc Biệt, trực thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống. Tuần lễ đầu, tôi được đặc biệt cho hưởng nhàn, đi tới đi lui trong doanh trại ở Đại Lộ Thống Nhất, gặp và làm quen với những Biệt kích quân khác, mà đa số là độc thân, trẻ tuổi và . . . theo đạo Công Giáo.

Suốt một năm trời sau đó, tôi được đưa đi học đủ thứ khóa học của Biệt Kich. V́ đă có bằng nhẩy dù rồi, tôi chỉ học thêm những môn học sau đây: T́nh Báo, Truyền Tinh, Khai Thác Mật Mă, Phá Hoại, Tác Chiến và Mưu Sinh Thoát Hiểm . . .

Đầu năm 1962, tôi măn khóa học để chính thức trở thành một Biệt Kích Quân. Chuyến hành quân đầu tiên của tôi là:

Đổ bộ vào Hà Tĩnh, theo dơi t́nh h́nh và . . . bắt cóc một người lính Bắc Việt, đem về hậu cứ để khac thác thêm.

Đêm tối đen c̣n hơn mực, tôi được một giang đĩnh của Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa (cải trang thành một thuyền đánh cá của ngư dân vùng Hà Tĩnh) đưa vào gần bờ biển. Từ đó, tôi một ḿnh một bóng bơi vào bờ, đem theo trong ḿnh giấy tùy thân của một ngư dân Hà Tĩnh, một bức thư liên lạc, một máy truyền tin và khẩu súng lục Browning.

Vào bờ, tôi liên lạc với điệp viên gài sẵn của Biệt Kích, bằng cách đem bức thư liên lạc đến bỏ tại “Hộp Thơ Chết”. Đó là một địa điểm do điệp viên của chúng ta tại Hà Tĩnh chỉ định để nhận thơ và tài liệu. Khi nhận được tài liệu, người điệp viên sẽ liên lạc trực tiếp với tổng đài để báo tin và cho địa điểm của “Hộp Thơ Chết” sắp tới. Đúng giờ đă ấn định, tôi liên lạc vói Tổng đài để biết sẽ phải tới đâu để nhận tài liệu. Biết được đích xác nơi phải đến để dọ thám, tôi cứ tự nhiên như là người bản xứ, từ rừng đi vào thành phố Vinh, nhập vào đoàn người mà đi tới đi lui trong giới hạn mà tôi có thể di chuyển. Trong thời gian này, tôi phải chọn đối tượng để bắt cóc. Đối tượng phải là một người lính chính quy của Bắc Việt, có mặc quân phục hẳn hoi. Tôi mon men lại gần một bệnh viện của đám bộ đội, bọn chúng đi tới bệnh viện xin khám bệnh vào sáng sớm và chiều tối. Tôi theo dơi, t́m được một con mồi, đợi lúc hắn ta đi về nhà một ḿnh, ra tay nhanh như chớp chụp thuốc mê kéo anh ta về băi biển đă định sẵn. Đêm đến, ghe đánh cá vào tận nơi, những anh em Biệt Kích khác phụ với tôi khiêng người tù binh lên thuyền, trực chỉ Đà Nẵng.

Sau này, tôi được biết, người tù binh đó là một Thượng Úy. Khi tỉnh dậy, anh ta như là lạc vào một . . . thế giới khác, với những người nói cùng một thứ tiếng với anh, nhưng không gian th́ hoàn toàn khác hẳn với thành phố Vinh của anh. Anh đă . . . thực t́nh khai báo những ǵ mà anh biết về t́nh h́nh dịa phương và đơn vị trực thuộc của anh.

Trở về Saig̣n, tôi được chỉ định ở tại một ngôi nhà gọi là “Nhà An Toàn” với một số anh em khác. Đó là một ngôi nhà rất binh thường trên con đường Trần Hưng Đạo cũng rất b́nh thường của thành phố Saig̣n, mà Lực Lượng Đặc Biệt sử dụng cho các toán viên có nơi trú ngụ và dễ tập trung. Gia đ́nh tôi vẫn ở vùng Ḥa Hưng, nên tôi về đó sống tiện hơn là ở Nhà An Toàn.

Được thảnh thơi khoảng một tuần, tôi được lênh lên máy bay trở lại Đà Nẵng, rồi từ đó bay thẳng qua Lào, vào khu rừng núi trùng điệp, căn cứ của Biệt Kích và CIA Mỹ, nằm trong khu vực của Tướng Lào Vàng Pao. Tôi nhớ rơ là được kư tên trên giấy tờ là làm việc với tư cách Điệp Viên, không có tên tuổi, không có số quân, không đơn vị (mặc dầu về phía Việt Nam, tôi gốc lính Nhầy Dù, Biệt Kích, có số quân hẳn hoi). Sau đó, tôi được xếp toán 6 người, sẽ lên trực thăng nhầy xuống vùng biên giới Lào Việt để xâm nhập vào Nghệ An.

 

Tôi chưa hề gặp và quen biết những biệt kích quân cùng toán với tôi, những cái tên mà chúng tôi được giới thiệu để gọi nhau, đều là những tên . . . giả. Giấy tờ tùy thân, mặ dầu là là giấy . . . thật, có đóng dấu đỏ chót của “Khai Thác Địa Chất Miền Núi” nhưng lại do CIA cung cấp. Thời gian này, toán chúng tôi chỉ có nhiệm vụ thâu thập tin tức, giữ liên lạc với những điệp viên đă được gài sẵn ở Miền Bắc mà thôi. Những tin tức này được gởi về Đà Nẵng để t́m hiểu thêm và từ đó đưa ra những kế hoạch hành quân. Ngoài những toán Biệt Kích Việt Nam, trung tâm hành quân này c̣n có những toán Biệt Kích của Đài Loan, họ đều lớn tuổi, khoàng từ 30 tới 45 tuổi, nhưng tinh thần chống cộng rất cao. Thời gian đầu chưa quen biết, họ nói tiếng Hoa, chúng tôi nói tiếng Việt, lúc sau, có nhiều người trong bọn họ học nói tiếng Việt, nên chúng tôi nói chuyện vui lắm.

ở phần đầu, tôi có nhắc tới những “Điệp Viên” của chúng ta gài lại ở miền Bắc. Làm cách nào mà pḥng Phản Gián của chúng ta gài được những điệp viên này?

Theo tôi được biết, vào năm 1954, trước khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc, họ có tuyển một số người t́nh nguyện, đưa đi học một khóa t́nh báo ở Osaka khoàng 15 ngày, sau đó đem họ trở về sống b́nh thường ở khắp nơi trên lănh thỗ miền Bắc. Con số điệp viên không biết là bao nhiêu, gồm cả những điệp viên của Tướng Tưởng Giới Thạch, Cộng Ḥa Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Những lần ra Bắc, chúng tôi thường xuyên liên lạc với họ qua những “Hộp Thơ Chết” nhưng chưa bao giờ nh́n thấy mặt họ, và cũng không bao giờ được phép t́m hiểu họ là ai? Những điệp viên này, tùy theo nhu cầu, có thể xin phép tuyển thêm nhân viên. Họ được trả lương và cung cấp máy truyền tin mới rất đều đặn. Cho đến nay, những điệp viên này vẫn c̣n sống, có điều không c̣n ai liên lạc với họ nữa, và họ cũng chẳng c̣n ai để báo tin.

Thông thường, cứ khoảng ba bốn tuần, chúng tôi lại làm một chuyến công tác nhảy toán một lần, mỗi chuyến công tác kéo dài khoảng 7 ngày, có khi kéo dài cả tháng, tùy t́nh h́nh an ninh tại nơi thâu thập tin tức, và nơi trực thăng bốc chúng tôi. Cuộc đời của nguời lính T́nh Báo Biệt Kích, tuy nguy hiểm và đầy những cam go và thử thách (có đời lính nào mà không nguy hiểm và cam go hay không?), nhưng đa số những toán t́nh báo đều trở về đầy đủ và an toàn. Sau mỗi chuyến công tác ở miền Bắc trở về, chúng tôi được đi máy bay Hàng Không Việt Nam về Saig̣n hoặc Đà Nẵng nghỉ phép.

Chuyến công tác dài bao nhiêu ngày th́ khi về sẽ được nghỉ phép bấy nhiêu ngày. Mỗi  khi đi phép, chúng tôi đều mặc thuờng phục và sống tại những “Nhà An Toàn” đă định sẵn, chỉ những lần đi lĩnh lương th́ mới mặc quân phục mà thôi. Chúng tôi mặc quân phục của lính Nhẩy dù, đội mũ đen có gắn cánh dù tương tự như Binh Chủng Nhầy dù, nhưng kích thước lớn hơn (sau này mới đổi qua bê rê mầu xanh lá cây, giống như Thủy Quân Lục Chiến). Mặc dù không có Thẻ Căn Cước Quân Nhân, nhưng chúng tôi có một Giấy Chứng Nhận với chữ kư của Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, trên đó có in tiêu đề của binh chủng, tên quân nhân, số thứ tự cùa giấy chứng nhận và huy hiệu cánh dù Biệt Kích. Tên trên giấy chứng nhận là tên thật của chúng tôi, và v́ không có h́nh ảnh dán kèm, nên mỗi khi chúng tôi gặp rắc rối, Quân Cảnh chỉ c̣n một cách duy nhất là gọi điện thoại cho Bộ Chỉ Huy của chúng tôi để hỏi thêm chi tiết mà thôi. Tiền lương chúng tôi lănh, là lương b́nh thường của người lính Việt Nam Cộng Ḥa, kèm theo phụ cấp bằng Dù, Bằng Biệt Kích mà thôi. Ngoài tiền lương này, về phía Mỹ, mỗi khi nhầy toán trở về, chúng tôi lănh thêm tiền phụ cấp của CIA, v́ những tin t́nh báo do chúng tôi thâu thập, CIA cũng đều sử dụng.

Tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm hồi nào? Tôi hoàn toàn không biết, v́ lúc đó, tôi và anh em c̣n ở tuốt ngoài Nghệ An lận.

Sau chuyến công tác, vào khoảng tháng cuôi tháng 11 năm 1963, tôi nhận được sự vụ lệnh về tŕnh diện Bộ chỉ huy gấp, do Đại Tá Lam Sơn, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, kư.

 

Được mời về một cách đặc biệt như vậy, anh em trong toán, và ngay cả tôi nữa, cũng đều cho rằng, tôi sẽ được . . . thăng chức, hoặc ít ra cũng được . . . gắn huy chương v́ thành tích nhầy toán xuất xắc.

 

Vào pḥng chỉ huy trưởng, tôi chẳng thấy huy chương, cũng chằng thấy lon lá ǵ để sẵn cho tôi cả, trái lại, Đại Tá Lam Sơn hỏi tôi một câu mà tôi không hề dự định:

 

“Chú em là đảng viên của . . .  Đảng Cần Lao Nhân vị, phải không?”

 

Tôi thất vọng, buồn bă trả lời ông:

 

-“Dạ đúng, thưa Đại Tá!”

 

-“Tại sao chú lại gia nhập đảng Cần Lao Nhân Vị?”

 

-“Tại v́ đàng này có đường lối ôn ḥa, tôn trọng sức cần lao và nhân vị con người.”

 

-“Chú em có biết rằng, Hội Đồng Tướng Lănh Cách Mạng đă ra chỉ thị đ́nh chỉ công tác, theo dơi, thấm vấn và loại trừ những đảng viên của Đảng Cần Lao hay không?”

-“Thưa Đại Tá, có phải đây là lư do tôi được gọi về tŕnh diện Đại tá?”

-“Đúng vậy.” 

-“Nếu vậy th́ tùy Đại Tá định liệu. Tôi là lính, lúc nào cũng chỉ là một người lính mà thôi. Lệnh đó áp dụng cho những vị chỉ huy cao cấp ḱa, chứ c̣n tôi, suốt ngày tôi ở rừng ở núi, không lẽ Đại Tá d́nh chỉ công tác của tôi, cho tôi về . . . hậu cứ?” 

-“Chú mày ngon! Dám nói như vậy với chỉ huy trưởng?”

-“Tôi đâu có c̣n cách nào để mà nói nữa, thưa Đại Tá.” 

Đại Tá Lam Sơn chống tay cạnh sườn đi tới đi lui trong pḥng một hồi để suy nghĩ, cuối cùng, ông đập tay lên bàn một cái . . . Rầm, nói với tôi: 

-“Được! Chú mày ngon, th́ anh cũng . . . chơi ngon với chú mày. Anh cho chú mày . . . mười bốn ngày phép, sau đó về tŕnh diện, làm việc tại đây với anh.”

Tôi đứng như trời trồng, không ngờ là ḿnh lại đuợc may mắn như thế. Đi phép hai tuần th́ tôi ham, nhưng về làm việc ngay tại cái hang cọp này, th́ tôi . . . ớn lắm. Đời trai, tôi đang c̣n thích bay nhẩy, làm sao mà ngồi một chỗ được. Tôi làm gan, nói lớn với vị chỉ huy:

 

-“Thưa Đại Tá, tôi không dám xin đi phép, chỉ xin Đại Tá cho tôi được. . . trở về đơn vị cũ.”

 

Ông Đại Tá cười sang sảng:

 

-“Đúng như anh nghĩ. Chú mày . . . bảnh thiệt! Vậy th́ anh cho chú mày mười bốn ngày phép, lănh lương liền, sau đó về lại căn cứ Vàng Pao, nghe chưa?”

 

Tôi . . . bay liền lập tức ra khỏi bộ chỉ huy.

 

Hai tuần lễ nghĩ phép đặc biệt thật là hạnh phúc. Tôi về nhà thăm cha mẹ, anh chị em, đi phố chơi với nguời yêu . . . đủ cả mọi thứ, tiền bạc xài rủng rỉnh.

 

Hết phép, tôi lại trở về vùng rừng núi đầy sương mù nơi đất Lào xa xôi cách trở.

 

Đầu năm 1964, toán t́nh báo của chúng tôi đuợc lệnh đi Nghệ An một lần nữa. Lần này nhiệm vụ hơi nhiều: Chúng tôi phải t́m hiểu chung quanh tỉnh Nghệ An có cả thẩy bao nhiêu bồn chứa xăng? Đă gắn bao nhiêu dàn rada? Lấy tin tức chính xác về “Đập nước Linh Cảm” những nơi có thể đặt bom để phả hủy đập nước này. . .

 

Tin tức được lấy đầy đủ, tôi báo cáo rơ ràng mọi chi tiết cho trung tâm và được lệnh trở về. Tôi cho anh em biết địa điểm tập trung, nói họ cứ đi trước, tôi c̣n một nhiệm vụ nữa phải làm, sẽ tới sau.

 

Địa điểm tới của tôi là đến nhà thờ Vinh, thăm cha sứ để làm quen và mời cha làm đầu cầu liên lạc mới, v́ cha là nguời nổi tỉếng chống cộng ở ngay tại miền Bắc Cộng Sản.

 

Tôi mua vé xe khách vào Vinh, rồi đi bộ tới nhà thờ. Vừa đi đuợc khoảng vài bước, tôi có linh tính là đang bị theo dơi. Trước khi lên xe, tôi đă dấu máy truyền tin ở một nơi rất kín, chí mang theo người giấy tờ tùy thân (giấy giả) và khẩu súng pḥng thân mà thôi. Hai tên công an mặc thường phục đă đến sát bên tôi rồi, tôi muốn rút súng ra bắn tụi này rồi chạy thoát thân. Nhưng súng chỉ dùng khi ḿnh có cơ hội chạy thoát mà tôi, bây giờ tôi đang ở trong thành phố, có bắn chúng nó th́ cũng không biết chạy đi đâu? Thôi th́ tới đâu hay tới đó. Hai tên công an tới sát bên tôi, một tên chĩa súng, tên kia hỏi giấy đi đường của tôi. Tôi b́nh tĩnh đưa tay vào trong áo, tính rút súng ra bắn thằng cầm súng rồi áp đảo thằng kia, nhưng chúng nó không phải có hai tên, mà c̣n nhiều tên bên cạnh đó nữa, chúng nhào vô đẩy tôi ngă xuồng đất rồi c̣ng tay bịt mắt tôi ngay lập tức. Một tên ṃ trong người tôi, lấy được khẩu súng và giấy tờ, hắn kêu lên mừng rỡ:

 

“Biệt Kích Miền Nam! Bắt được rồi.”

 

Về đồn công an, thay v́ đánh đập tra tấn, bọn chúng để tôi ngồi yên trong pḥng giam, gọi điện thoại đi tứ tung. Sáng sớm, một đám công an mới tới, có vẻ là cấp lớn hơn, chúng dắt tôi ra bắt đầu thẩm vấn. Càng trể càng tốt, gị này th́ các toán viên của tôi đă an toàn lên trực thăng rời khỏi Nghệ An rồi. Một tên hỏi dằn mặt tôi ngay lập tức:

 

“Tôi có danh sách sáu người Biệt Kích Miền Nam hoạt động trong vùng này. Chỉ có trưởng toán mới được quyền đi vào thành phố, anh tên là Nguyễn Văn Hinh,  phải không?”

 

Đây chắc là đám chống t́nh báo của Việt cộng. Tôi không ngờ là bọn chúng lại có đầy đủ tên họ của cả toán Biệt Kích, lại tên thật nữa. Chối cũng vô ích, tôi nhận là đúng tên tôi.

 

Bọn chúng hỏi ngay máy truyền tin của tôi. May mắn là tôi không mang theo, nên  khai là bị thất lạc ở trong rừng rồi. Bọn chúng hỏi số mật mă liên lạc với trung ương? Tôi trả lời thật dể dàng:

 

“Nhiều số lắm, tôi không nhớ hết được, nên đă ghi vào  mảnh giấy, gắn vào máy truyền tin “

 

Bọn chúng hỏi rất nhiều, đa số là tôi khai “Không nhớ” “Không biết”. Cho dù là có biết, tôi cũng không khai, v́ biết rằng, lời khai của tôi sẽ có ảnh hưởng rất lớn cho những toán đi về sau. Thấy tôi không khai, bọn chúng đổi chiến thuật, mỗi ngày đưa tôi đến môt địa điểm khác nhau, đa số là nhà dân ở, rồi nói với tôi:

 

“Chúng tôi không có nhà tù, nên không bíết đem anh giam ở đâu cả, chỉ để anh ở chung với dân mà thôi.”

 

Nhưng tôi biết, đám dân này toàn là công an đội lốt cả, chúng nó cứ hỏi tôi những câu hỏi vớ vẩn, rồi xen kẽ vào những câu hỏi nghề nghiệp, làm cho tôi phải cố gắng lắm mới không tiết lộ bất cứ những điều ǵ cần phải dấu.

 

Cuối cùng, vào khoảng tháng 4 năm 1964, bọn chúng lôi tôi ra trước ṭa án nhân dân tỉnh Nghệ An, kết án tôi là “Gián Điệp Biệt Kích Miền Nam” và cho tôi bản án:

 

Tù chung thân.

 

Xử xong chúng mói đem tôi ra mà làm thịt, chúng đánh tôi nhừ tử. Không khai câu nào, đánh câu nấy, không nói tiếng nào, đánh tiếng đấy. Chúng đánh tôi mềm người rồi mói xách lên xe đưa đi giam tại trại “Cổng Trời”.

Trại tù Cổng Trời không biết được xây từ lúc nào, chắc là do thực dân Pháp xây để giam giữ những nhà ái quốc chống lại chúng. Đó là một trại tù rất kiên cố, xây bằng đá xanh, hàng rào phía bên ngoài cũng bằng đá tảng, cao, cao lắm, cao vút tận trời (khoảng 4m ǵ đó), bên trên lại chăng giây kẽm gai nữa, chỉ có một cổng duy nhất đi vào mà thôi. Bị nhốt ở đây th́ không có cách chi mà vượt ngục, trừ khi vượt ngục bằng cửa chính. (Trại giam “Cồng Trời” nằm trong địa phận huyện Đồng Văn là một trong số 10 huyện của tỉnh Hà Giang.

Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang. Về phía Bắc, Hà Giang giáp tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây nước Tầu. Trại Cổng Trời  chỉ cách biên giới Việt Nam - Trung Cộng độ 10 km đường chim bay).

 

Tôi bị biệt giam ngay từ khi tới trại. Ban ngày tôi được tự do đi tới đi lui trong pḥng, ban đêm, chúng cùm tôi lại cho tới sáng mới mở ra.

 

Trại Tù Cổng Trời ở Hà Giang

 

Thời gian đầu, mỗi khi đêm xuống, tôi không tài nào ngủ được, tôi có cảm giác như người bị hơng chân, không tin rằng ḿnh đă bị bắt. Tôi nhớ lại từng hành vi, cử chỉ khi đang hoạt động ở Nghệ An. Tôi đă nhầy xuống vùng này nhiều lần, đă quá quen thuộc với đường đi nước bước rồi, tại sao lại để bị bắt? có thể v́ đă quá quen, nên tôi đă bị sơ hở?

Tôi hối tiếc, v́ đáng lẽ ra, tôi không nên đi xe ca (xe đ̣) vào buổi sáng, mà nên di vào buổi trưa hoặc chiều, v́ lúc đó, bọn công an đă trở về trại rồi. Nhưng tôi lại tự trả lời: Nếu tôi vào thành phố trễ, sẽ khó gặp cha xứ, v́ cha sẽ phải đi thăm các con chiên trong họ đạo.

Hối tiếc thứ hai của tôi là, cũng đáng lẽ ra, tôi không cần phải đi gặp cha xứ ngay trong lần này. V́ việc tới gặp cha xứ chỉ là tự nguyện, trong trường hợp có thể làm được mà thôi.  Chỉ v́ tôi đă quá tôn trọng nhiệm vụ, nên đă liều mạng dùng xe ca để di chuyển.

 

Nếu tôi không đi gặp cha xứ, chắc chắn tôi đă không bị bắt rồi.

Trong khi ngồi trên xe ca, tôi quan sát, thấy người dân Nghệ An trên xe đều mặc quần áo giống tôi (đồng phục công nhân mầu xanh biển) nhưng chiều cao th́ thấp hơn tôi. Có thể chính cái vóc dáng này (1.76m) đă làm cho tôi khác với mọi người trong xe, nên bọn công an mới để ư và bắt tôi?

Trong thời gian bị chúng hỏi cung, tôi cũng đă trốn thoát một lần, nhưng tại sao tôi lại bị chúng bắt trở lại?

Khoàng hai tuần lễ sau khi bị bắt, chúng giữ tôi tại những căn nhà, gọi là . . . nhà dân và không c̣ng tay c̣ng chân tôi gỉ cả. Một hôm, nhân lúc chúng vừa cho tôi ăn chiều, lo thu dọn đem đi, th́ tôi tàn tàn đi theo chúng nó, thoát ra ngoài, đi thẳng luôn xuống cuối phố, t́m đuởng đi về miền núi. Tôi vừa trốn vừa đi,  được ba ngày th́ tới vùng núi non, coi như là thoát rồi, chỉ cần leo lên tới lưng chừng núi là tôi sẽ t́m cách liên lạc với máy bay trực thăng để họ đón tôi về.

Nhưng mà tới lúc đó th́ tôi mệt quá rồi, ba ngày không ăn, không ngủ, tôi kiệt lực, gục xuống một gốc cây thiếp đi. Tới khi tôi tỉnh dậy th́ đă thấy bọn công an đang chĩa súng vào đầu tôi, chân chúng đang đạp lên ngực tôi, thế là tôi lại vào tù. Trên đưởng bị giải đi, tôi thoáng thấy đám trẻ chăn trâu đang nh́n tôi mà chỉ chỏ. Th́ ra đám con nít này đă thấy tôi, đi báo với công an.

Thôi th́. cũng là số mạng đă an bài, tiếc nuối làm chi.

Ḿnh đă làm tṛn nhiệm vụ của một người Biệt Kích. Ḿnh không làm điều ǵ sai trái, không để phiền lụy ǵ tới người khác. Hăy hănh diện v́ công việc ḿnh đă làm.

Suy nghĩ như vậy rồi, tôi chấp nhận với số mạng.

Ở một thời gian Trong trại giam, tôi đă có dịp quan sát trại tù. Pḥng giam của tôi rất nhỏ, chiều dài khoảng 2.5m, chiều rộng khoảng 2.00 m ǵ đó (tôi chỉ pḥng chừng, không nhớ rơ). Ba phía pḥng giam là tường xây bằng đá tảng, đằng trước là cửa gỗ. Qua khe cửa, tôi nh́n thấy trại giam chia làm hai dẫy pḥng đối diên nhau, cách nhau bằng một lối đi khoảng 1m. Tôi đă t́m cách liên lạc với anh em tù bên cạnh tôi và đối diện với pḥng giam của tôi.

Đối với người tù ở hai bên cạnh, tôi dùng muỗng bằng sắt, cạo lớp vôi giữa hai viên đá rồi gơ vào đả theo kiểu truyền tin (Morse).  May mắn thay, người tù kế bên cũng là một Biệt kích, nên đă trả lời lại cho tôi. Anh này đă bị tù trước tôi, nên đă cho biết, có khoảng 40 Biệt kích bị giam ở đây, phần c̣n lại là những người dân miền Bắc bị bắt v́ lư do chính trị, những tu sĩ Công giáo và Phật giáo bị bắt trong chính sách diệt trừ tôi giáo của Việt Cộng.

Một hôm, sau khi nhận phần cơm, bọn cai tù đóng cửa bỏ đi, tôi thoáng nghe một giọng nói thật nhẹ nhành:

“Bị bắt lâu chưa?

Tội ǵ mà vào đây?”

Lời nói như gió thoảng, tôi không nghe rơ cho lắm, và cũng không biết là ai nói với ai? Nên tôi giữ im lặng để cố nghe lại và t́m hiểu xem lời nói đó phát xuất từ đâu?

Giọng nói lại phát ra, lần này tôi nghe rơ, phát ra từ pḥng giam đối diện với tôi:

-“Bị bắt lâu chưa?”

Tôi vội vàng đứng thẳng lên, kê miệng vào khe hở của cánh cửa phía trên, trả lời vừa dủ nghe:

-“Tôi bị giam ở đây khoảng sáu tháng rồi”.

-“Tội ǵ mà vào đây?” 

-“Tôi là Biệt Kích Miền Nam, nhẩy ra Bắc, bị bắt.” 

-“C̣n tôi là Giám Mục Công Giáo.” 

-“Thưa cha, con cũng là người theo đạo Công Giáo.”

 

Thế là chúng tôi quen nhau, và tiếp tục nói chuyện với nhau rất là tâm đầu ư hiệp.  Tôi được biết, cha tên là Nguyễn Văn Vinh.  Tôi và cha Vĩnh đă có đôi lần cầu nguyện chung với nhau (đương nhiên là vào ban đêm).

 

Vào một buổi sáng, khi bọn cai tù đi giao cơm, tôi nghe tiếng chúng mở cửa pḥng của cha Vinh, và nghe những lời đối thoại sau đây giữa người tù giao cơm và tên cai tù:

 

“Sao không thấy nó cựa cậy? Vào xem nó ra sao?” 

“Nó . . . Chết rồi!” 

“Tới giờ này mới chịu chết. Thôi được rồi, đóng cửa lại, không cần giao cơm nữa.” 

Khi bọn chúng đi rồi, tôi cố gọi cha Vinh: 

“Cha ơi, Cha Vinh ơi . . . Cha . . . C̣n sống không? Trả lời cho con đi.”

 

Tôi gọi cha Vinh nhiều lần nữa, nhưng cha Vinh không bao giờ trả lời tôi nữa. Tôi nhớ thời gian đó là khoảng cuối năm 1964. 

 

GHI CHÚ: Ông Mặc Lâm, biên tập viên đài Á Châu Tự Do RFA 2010-12-24 / Phong Trào PNVN/HĐCN http://www.rfa.org đă phỏng vấn quư ông Phùng Văn Tại và Kiều Duy Vinh, như sau:

 

Ông Phùng Văn Tại, một giáo sư dạy môn giáo sử văn chương trong chủng viện, ông kể rằng:

 

“Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước chuẩn bị trang trí nhà thờ chính ṭa để đón Noel, th́ Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện, tranh dành việc trang trí nhà thờ. Tranh giành như thế cha chính Vinh cho kéo chuông. Hai cái tháp nhà thờ Chính Ṭa của Hà Nội có 6 quả chuông cha chính Vinh cho ca đoàn lên kéo cùng một lúc, cứ như thể một cuộc báo động lớn năm 1959 cho nên kinh khủng lắm, và họ hô nhau đến bắt cha chính Vinh.”

 

Linh Mục Nguyễn Văn Vinh.

 

Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và không chịu khuất phục đă âm thầm chịu chết sau đó trong trại giam Cổng Trời.

 

“Bắt cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên, có những người chỉ mới 16, 17 tuổi. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết th́ thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế.”

 

Đại Úy Kiều Duy Vinh, khóa 4 Đà Lạt, kể lại rằng:

 

“Tôi tên là Kiều Duy Vĩnh sinh năm 1931 tại Hà Nội. Tôi học trường Chu Văn An, thế rồi giữa năm 1950 và 1951 tôi học ở trường sĩ quan Đà Lạt khóa 4. Tôi ra trường và đến năm 1954 tôi là đại úy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 74 D Việt Nam ở khu 9 Linh Trang thuộc địa phận Hải Pḥng.

Vào năm 1954 tôi là con một, tôi không đi di cư và ở lại miền Bắc, tới năm 1959 tôi bị bắt đi tù. Tôi t́nh nguyện thứ nhất 10 năm từ năm 1959 tới 1969 tại trại Cổng Trời. Ở đó tôi gặp tất cả những người tử tù đặc biệt là 72 người đầu tiên.Tôi lên cùng anh Nguyễn Hữu Đang (ông là người từng lănh trọng trách tổ chức buổi lễ tuyên bố độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh. Ông cũng là con chim đầu đàn của phong trào Nhân Vân Giai Phẩm, bị bắt khi phong trào này đ̣i quyền tự do sáng tác.). Chỉ c̣n mỗi tôi và anh Đang c̣n sống c̣n 70 người c̣n lại chết cả trên trại cổng trời. “Trại cổng trời là cái tên một địa danh mà dân gian đặt ra v́ ở đấy nó là một cái dốc cổng trời. C̣n địa danh do Bộ Công an, Cục Lao cải th́ tên chính thức của nó là C65 HE công trường 75A Hà Nội. Không ai biết địa điểm của nó ở đâu, người ta muốn hỏi trại Cổng trời ở đâu th́ đến Hà Nội, hỏi Bộ Công an, và Bộ công an th́...đấy địa chỉ đấy...

Trước năm 1959 tôi với anh Đang lên th́ hầu như không có đường. Người ta chở chúng tôi tới Hà Giang rồi đi một đoạn nữa, rồi đi một đoạn nữa...cứ thế. Lúc ấy tôi đă là một sĩ quan rất biết địa h́nh lắm mà vẫn không biết vị trí thật của nó ở chỗ nào! Tôi ở đấy 10 năm từ 1959 cho tới 1969 th́ tôi được thả về.’

 

Đến đầu năm 1966 th́ bọn chúng đưa chúng tôi ra giam ở pḥng tập thể, từ 6 người trở lên, và bắt đầu cho học tập chính trị.

 

Tôi nhớ, bài học đầu tiên là “Tiến bộ của Xă Hội Chủ Nghĩa Liên Xô”. Bọn chúng tập trung anh em tù, đủ mọi thành phần, từ Biệt kích cho tới tù chính trị, tôn giáo . . . khoảng cả trăm người, ngồi đầy chặt cả hội trường. Tên cán bộ phùng mang trợn mắt kể:

 

“Ở một nhà máy đóng hộp thịt ḅ, người nông dân dắt con ḅ vào để làm thịt ḅ đóng hộp. Từ lúc dắt con ḅ vào cho đến khi giết ḅ, cạo lông, mổ ḅ, chia ra từng bộ phận . . . rồi đóng hộp, chỉ chừng nữa tiếng đồng hồ mà thôi. Sau đó, người nông dân đem về cả một bao đầy những hộp thịt ḅ đă đóng hộp xong để phân phối cho các hợp tác xă của ḿnh.”

 

Đến phần thảo luận, mà bọn chúng gọi là “Thu Hoạch” tất cả chúng tôi phải đưa ra những lời phát biểu để chứng tỏ rằng ḿnh đă hiểu sự tiến bộ của “Xă Hội Chủ Nghĩa” mà đứng đầu là Liên Bang Xô Viết.

 

Đến phiên tôi lên phát biểu, trước mặt mọi người , tôi đă kể lại sự ưu việt của Xă Hội Chủ Nghĩa, như sau:

 

“Liên Bang Xô Viết rất là tiến bộ, nhất là trong lănh vực máy móc cơ khí, đến nỗi các kỹ sư có thể làm sống lại một con ḅ đă được xẻ ra làm thịt hộp. Hồi ở miền Nam, tôi được đưa đi du học ở Tây Đức. Ở Tây Đức có rất ít ḅ, cho nên họ đă mua được một xưởng “Tái Tạo Thịt Ḅ” của Liên Xô. Người nông dân đi mua tất cả những hộp thịt ḅ do nhà máy đóng hộp thịt ḅ sản xuất ra, đem vào xưởng tái tạo.

 

Người công nhân bỏ tất cả các hộp thịt ḅ vào trong máy tái tạo, chờ chừng nửa tiếng sau, dắt ra một con ḅ nguyên vẹn, đang nhai cỏ, giao lại cho người nông dân.”

 

Tôi kể câu chuyện tiến bộ của Xă Hội Chủ Nghĩa này bằng một giọng rất là . . . khâm phục và kính nề, nên bọn cán bộ cứ đứng nghệt mặt ra mà nghe để khâm phục tiếp cho tôi. Những nhà tu hành, những tù nhân chính trị không quen với lối nói chuyện của tôi,nên họ cũng ngồi im lặng, bán tín bán nghi.

 

Nhưng những anh em Biệt kích của tôi th́ phá lên cười, họ vừa vỗ tay tán thưởng ưu việt của Xă Hội Chủ Nghĩa vừa ôm bụng cười nghiêng cười ngửa, cười như chưa bao giờ được cười.

 

Măi một lúc sau, những người tù khác mới hiểu ra rằng, chẳng thể nào có cái chuyện dắt một con ḅ vào hăng, nửa tiếng sau đem về một rổ thịt ḅ hộp. Muốn làm ra thit ḅ hộp, phải đi qua rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đọan ỏ một hăng khác nhau, và mỗi hăng làm một lượt cả trăm con ḅ, chứ không thể nào làm từng con ḅ một. Và cũng không thể nào lấy thịt ḅ đă đóng hộp để mà trộn nó lại để làm nó trở thành một con ḅ sống b́nh thuờng đuợc. Tới lúc đó, họ mới rủ nhau cười lên ồ ồ.

 

Tên cán bộ kể câu chuyện “Tiến Bộ” tức điên người lên, nhưng hắn không làm ǵ tôi được, v́ rơ ràng tôi khen kỹ thuật tiến bộ của Liên Xô, tới nỗi Tây Đức là một quốc gia tiến bộ mà c̣n phải đi mua máy “Tái Tạo Thịt Ḅ” của Liên Xô. Tên này nói thêm vài câu nũa rồi chấm dứt buổi học tập.

 

Ra đến ngoài, anh em Biệt kích ào tới, nói với tôi:

 

“Thằng Việt cộng đă nổ, mày c̣n . . . Nổ hơn thằng Việt Cộng nữa! Cái hay là chúng nó cứ ấm ớ, không dám làm ǵ mày cả, v́ mày . . . khen chúng nó mà!”

 

Thế là từ đó, tôi có biệt danh “HINH NỔ”

 

Cứ thế, cuộc sống của chúng tôi ngày này qua ngày khác cứ thế mà trôi đi. Ban ngày th́ đứng ngồi trong pḥng giam, ban đêm th́ cùm kẹp. Bọn chúng không dám đưa chúng tôi ra ngoài rừng làm việc v́ sợ rừng núi là địa bàn hoạt động của chúng tôi, chúng tôi sẽ trốn đi ngay lập tức.

 

Đối với anh em Biệt kích chúng tôi, trong những ngày đầu tù tôi, đă có rất nhiều người nản chí, nhưng chúng tôi ráng t́m cách liên lạc với nhau, ráng khuyên nhủ nhau giữ vữg tinh thần, v́ ḿnh vẫn c̣n đường sống, mong chờ một ngày mai . . . Đại Quân Miền Nam sẽ đánh ra Bắc, giải thoát cho đám Biệt Kích. Hơn nữa, da số anh em chúng tôi đều là người Công Giáo, nên không bao giờ có chuyện tự tử, vỉ chỉ có Chúa Trời mới có quyền ban cho ḿnh lẽ sống và đưa ḿnh trở về với Chúa Trời.

 

Đến năm 1966, Không Quân Mỹ đă bắt đầu ném bom ở miền Bắc.

 

Bọn quản giáo sợ điếng người, nhưng chúng tôi lại mừng ra mặt. Chắc chắn sau những cuộc dội bom này sẽ có cuộc đổ bộ của Đại Quân Miền Nam, mọi người chuyền cho nhau những tin tức thật là nóng hổi, những suy luận thật là hợp t́nh hợp ly. Trong thời gian này, bọn quản giáo không dám lên mặt chửi bới hoặc có hành động ǵ hăm dọa chúng tôi cả. Trái lại, chính bọn chúng tôi đă . . . hù lại bọn chúng:

 

“Thằng nào làm ǵ, chúng tao nhớ tên từng đứa. Khi Đại Quân Miền Nam ra đây rồi, đố chúng mày chạy đâu cho thoát khỏi tay anh em Biệt kích chúng tao.”

 

Không thể ngồi không mà chờ đợi, anh em chúng tôi nẩy ra ư định:

 

VƯỢT TRẠI.

 

Chúng tôi để ư, mỗi lần có máy bay Mỹ đến dội bom, bọn quản giáo, bọn công an lại cùm chân chúng tôi lại rồi sách súng chạy xuống hầm trú ẩn hết, tới khi hết báo động mới dám chường mặt lên. Anh em trong pḥng giam của tôi đă bàn với nhau: 

“Mỗi lần có c̣i báo động, từng nhóm hai tên công an đi với nhau, mỗi tên một khẩu AK và ba băng đạn. Đợi khi chúng tiến tới gần, xiết cổ chúng nó liền lập tức, rồi lột quần áo của chúng mặc vào, đi ra ngay cửa chính mà vào rừng. Lúc báo động, không ai để ư tới ai, ngay chính những tên công an gác ở đài kiểm soát cũng lo chạy xuống hầm, không lo khẩu thượng liên sẽ bắn ḿnh. Vào tới rừng rồi, dễ ǵ chúng t́m ra đuợc.” 

Tin tưởng vào cách thức vượt trại này, chúng tôi xem xét, để ư từng cử chỉ, từng đường đi nước bước của bọn công an, t́m ra từng toán hai tên công an đi với nhau để chọn ra toán nào dễ thanh toán. 

Rủi thay cho chúng tôi, một Biệt kích trong lúc ngủ mê đă tiết lộ kế hoạch vượt ngục: 

“Ngày mai, chờ lúc có c̣i báo động, tôi và anh Hinh sẽ chờ sẵn, tới khi hai thằng Toán và Thể tới gần, sẽ quàng khăn xiết cổ tụi nó liền, nhũng người khác sẽ cướp súng, lột quần áo của hai tên này thật nhanh, rồi cùng . . . áp giải nhau ra cửa chính mà chạy.” 

Anh Biệt kích nói trong cơn ngủ mê như vậy, đúng vào lúc hai tên công an Tóan và Thể đang đi tuần ở ngoài. Thế là chúng nhào vào tóm anh ngủ mơ ngay lập tức và đem chúng tôi lên pḥng tra hỏi. 

“Chúng mày muốn . . . trốn trại, phải không?” 

Tôi trả lời ngay lập tức: 

“Đúng!”

“Thằng nào bầy mưu tổ chức?” 

“Chẳng có ai bầy mưu tính kế ǵ hết. Thằng Biệt kích nào bị nhốt tù ở đây cũng đều muốt trốn tù hết. Trong đầu óc bất cứ thẳng Biệt kích nào cũng có mưu kế để trốn tù hết. Nếu không có ư định trốn tù, đâu phải là Biệt Kích!” 

-“Chính mày là chủ chốt vượt ngục, phải không?” 

-“Tôi đă trả lời cán bộ rồi, trong đầu óc bất cứ một người Biệt Kích nào cũng có ư tưởng vượt ngục, không cần phải có người nào đứng làm chủ chốt cả. Tuy nhiên, ư định là một chuyện, làm được hay không lại là một chuyện khác, các anh canh gác như thế này th́ chúng tôi làm sao mà vượt ngục được!” 

Hai tên công an nh́n nhau, thích thú v́ câu nói của tôi đă. . . khen chúng canh gác kỹ (Trên thực tế, ở trại tù Cổng Trời này, v́ địa thế hiểm trở, nên bọn Công an chỉ canh gác cho có lệ. Tôi nói móc họng tụi nó chứ không phải là khen). Chúng im lặng một lúc rồi cùng bước ra ngoài to nhỏ với nhau. 

Tôi đoán rằng, trong lúc này, đầu óc tụi nó đang hoang mang lo sợ máy bay Mỹ có thể đến thả bom bất cứ lúc nào. Nếu giữ tôi lại để tra tấn, để hỏi cung, lỡ máy bay Mỹ đột ngột bay tới, làm sao mà kịp giờ để chạy xuống hầm? Chạy không kịp, lỡ bọn Biệt Kích nổi loạn, chúng nó dám. . . giết ḿnh lắm! 

Hơn nữa, chúng tôi cũng chưa hề có một hành động nào chứng tỏ là sẽ vượt ngục, tất cả chỉ là một lời nói trong giấc mơ mà thôi. 

Cuối cùng, hai tên cai tù trở lại, chỉ đe doạ tôi: 

-“Chúng mày liệu hồn. Ở trại Cổng Trời này, chưa bao giờ có chuyện vượt ngục, mà dù có vượt ngục cũng không thể trốn đi đâu cho thoát. Đă lên tới cổng trời rồi, th́ chỉ c̣n có một con đường duy nhất để mà đi tới là “Đồi Bà Then” chứ không c̣n con đường nào khác để đi xuống. ” 

Ghi chú: Đồi Bà Then là nơi chôn tù nhân. Chỉ bó chiếu mà chôn chứ không có mộ bia ǵ cả. 

Sau đó, chúng lại cho tôi vào pḥng biệt giam, cùm tôi suốt một tuần lễ rồi mới cho ra pḥng giam chung. 

 

Tù nhân ở trại Cổng Trời, với khí hậu khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, lại không có thuốc men ǵ cả, rất khó mà kéo dài cuộc sống: Ban đêm, nhiệt độ­­ có khi dưới 0 độ, anh em tù chỉ có trên người một bộ quần áo vải và cái chăn đơn. Lạnh không c̣n nơi nào lạnh hơn. Ăn uống th́ chỉ có khoai sắn, luộc với muối, lâu lâu có ít cơm. Nếu có bệnh, ráng chống chọi để mà qua cơn bệnh, nếu không qua khỏi cơn bệnh, th́ chỉ c̣n cách. . . đem chôn. 

 

Anh em Biệt Kích chúng tôi c̣n sống được là nhờ vào niềm tin: 

Niềm tin là một ngày nào đó, Đại Quân Miền Nam sẽ tấn công qua sông Bến Hải để Giải Phóng Miền Bắc, giải cứu anh em Biệt Kích. 

Quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa được trao trả. 

H́nh của minhhoa’s photostream.

 Nếu ngày hôm nay Đại quân chưa ra, th́ ngày mai, ngày mốt, một ngày nào đó. . . Cứ thế mà chúng tôi kéo dài cuộc sống tù đày. . . 

Vào một ngày của năm 1973, tất cả tù Biệt kích chúng tôi được dời về trại Phú Lu ở Lào Kay để học tập về Hiệp Định Giơ Nevơ và cách thức trao trả tù binh. Tôi đếm cả thảy có khoảng một trăm hai mươi Biệt Kích, bao gồm cả những anh em Biệt Kích nhẩy toán ở Cam Pu Chia, đường ṃn HCM và Hạ Lào. Vừa cho học tập, bọn Việt cộng vừa làm công tác tuyên truyền để cài người: Mỗi Biệt kích đều được chúng gọi riêng vào pḥng để doạ nạt, dụ dỗ sẽ cho trao trả sớm nếu chịu làm điệp viên cho chúng, báo cáo cho chúng những tin tức cần thiết ở Miền Nam.

Anh em chúng tôi về pḥng bí mật họp nhau lại, tương kế tựu kế, chỉ nói rằng sẽ làm những ǵ có thể làm, sau đó báo cho nhau đầy đủ những ǵ bọn chúng đ̣i hỏi, coi đó như là một tṛ chơi đấu trí mà thôi. Một số anh em c̣n bàn bạc trao đổi với nhau về những kinh nghiệm nhẩy toán, để nếu sau này c̣n nhẩy ra Bắc nữa, sẽ không mắc phải những lỗi lầm này. Nếu không nhẩy toán, sẽ làm huấn luyện viên, truyền lại những kinh nghiệm này cho đám Biệt Kích đàn em.

Thời gian học tập này là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời tù tội của chúng tôi. Thời gian này cũng là thời gian duy nhất mà anh em Biệt Kích không có ư định vượt ngục: Đang chờ để trao đổi tù binh mà! Vượt ngục làm chi? Cũng trong thời gian này, đôi khi chúng cho chúng tôi được ăn thịt. Thông thường, khẩu phần tù được 9kg. . . “Chất Bột” bao gồm khoai, sắn, rau, muối và hiếm khi có một ít gạo. Thịt chỉ được ăn (vài miếng được gọi là thịt) vào hai ngày trong năm: Ngày Tết và ngày mà chúng gọi là “Độc Lập”.

 

Hàng ngày, chúng tôi được cho nghe tin tức từ đài phát thanh, và được biết, một vài nhóm tù Quân nhân Cộng Hoà đă được trao trả, làm anh em chúng tôi càng nức ḷng hơn nữa.

 

Chờ măi, chờ măi cho đến tháng 10 năm 1973 mà vẫn chưa được trao đổi, anh em chúng tôi hỏi thẳng đám cán bộ:

 

“Tại sao chúng tôi không được trao trả?”

 

Bọn cán bộ trả lời quanh co:

 

“ Có nhiều toán được trao trả, ráng chờ tới phiên. ”

 

Chờ không nổi nữa rồi, anh em chúng tôi bàn nhau:

 

Có thể bọn Việt cộng đă dùng chúng tôi để mặc cả một điều ǵ đó, nên mới chần chờ như vậy. Được trao trả theo Hiệp định Genevè là một dịp may hiếm có, phải nắm lấy cơ hội này, phải làm một cái ǵ đó để đ̣i hỏi, nếu không, sẽ không bao giờ c̣n cơ hội nữa. 

 

Anh em Biệt Kích ra quyết định:

 

“Tuyệt thực, cho đến khi nào được trao trả!”

 

Không biết v́ lư do nào đó mà anh em Biệt Kích ở Trại Quảng Ninh cũng đă có quyết định tuyệt thực cùng một ngày với anh em Biệt Kích ở Phú Lu chúng tôi, làm cho bọn Việt cộng lo ngại đă có. . . gián điệp Miền Nam trà trộn vào trong đám cán bộ của chúng để cho hai trại biết tin nhau, chứ anh em Biệt Kích không thể nào thông tin với nhau đuợc, v́ hai trại ở rất xa nhau. Chúng tôi thấy bọn cai tù bối rối ra mặt, nên càng quyết định làm tới.

 

Tuyệt thực tới ngày thứ ba th́ bọn quản giáo họp chúng tôi lại, tuyên bố dỗ ngọt:

 

“Sẽ đưa nguyện vọng của anh em lên Bộ Công An để cứu xét gấp. ”

 

Sau vài tuần chờ đợi, bọn chúng lại họp anh em chúng tôi lại, chia thành từng toán 20 người đưa lên xe đi, giải thích rằng:

 

“Trao đổi ở nhiều nơi khác nhau, nên phải chia toán ra mà đi. ”

 

Toán thứ nhất có tôi, được đưa ra khỏi trại để lên xe.

 

Anh em c̣n lại vui ḷng chờ đợi tới phiên ḿnh.

 

Bất chợt, những người tù h́nh sự chạy vào báo cáo:

 

“Anh em trong toán vừa rồi, bị đưa lên xe bít bùng, vừa mới lên xe là bị c̣ng lại. Đưa đi đâu không biết!”

 

Anh em Biệt Kích c̣n lại họp khẩn với nhau:

 

Nếu đưa đi nơi khác làm thủ tục trao đổi, tại sao lại phải c̣ng lại? Tại sao phải ngồi xe bít bùng?

 

Như vậy, có nghĩa là anh em bị đưa đi trại giam khác, chứ không phải được đưa đi trao đổi.

 

Tất cả Biệt Kích yêu cầu quản giáo giải thích rơ ràng, nếu không, yêu cầu trao trả đám anh em vừa mới được chuyển đi.

 

Bọn Công an từ chối giải thích và cũng từ chối trao trả đám tù vừa bị đưa đi. Không những thế, chúng c̣n chĩa súng ra lệnh cho anh em trở về khu nhà giam.

 

Nhịn không đuợc nữa rồi, anh em Biệt Kích quyết định: 

Đánh! 

Toàn thể hơn một trăm Biệt Kích bất chấp súng đạn, lưỡi lê, đă nhào lên tấn công bọn Công an. Anh em dùng dao búa, đồ nghề và bất cứ thứ ǵ có thể dùng làm vũ khí, kéo bàn ghế làm chướng ngại vật để giao chiến với bọn Công An.

 

Bọn Việt cộng không chịu trao đổi th́ anh em Biệt Kích. . . Tự Trao đổi. 

Phải thoát ra ngoài. Phải vượt trại. Phải vượt ngục.

Bọn Việt cộng cũng biết vậy, nên chúng kêu viện binh, thêm cả lính chính quy với đại liên và xe tăng trợ chiến. Kết cuộc, sau một ngày giao chiến, anh em Biệt Kích bị thúc thủ, lại bị bắt c̣ng tay giải đi từng trại khác nhau.

Toán đầu tiên của chúng tôi đă bị đưa trở lại trại Cổng Trời.

Vài ngày sau, đám Biệt Kích c̣n lại cũng lên nhập bọn và bị biệt giam ngay lập tức.

Khi được biết anh em v́ t́nh đồng đội, v́ chúng tôi mà đă bị bọn Công an đàn áp, chúng tôi chỉ c̣n cách nh́n nhau mà thương cảm, xót xa cho cuộc đời tù tội dưới chế độ Cộng sản.

Biệt Kích thương yêu nhau, dùm bọc lẫn nhau như thế đấy!

Tháng 6 năm 1975, đang nằm trong khu biệt giam, chúng tôi được bọn Công an cho nghe radio, phát tin:

“Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà đă đầu hàng Bộ đội Việt Cộng”

Anh em chúng tôi không ai tin cả, v́ đă một lần vào năm 1968, bọn chúng cũng đă cho chúng tôi nghe tin “Bộ đội Bắc Việt đă chiếm toàn cơi Miền Nam” Nhưng sự thật không phải là như vậy, nên lần này, dù bọn chúng có cho chúng tôi nghe thật nhiều lần cái tin đầu hàng đó, chúng tôi cũng vẫn không tin, không nghe.

Măi tới tháng 10 1975, bọn Việt cộng tập họp chúng tôi lại, cho xem đoạn phim xe tăng Việt cộng húc đổ cổng sắt tiến chiếm Dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh đọc lời hiệu triệu quân dân chính, kêu gọi quân nhân các cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà buông súng ngưng chiến đấu.

 

Lúc đó, mặt trời mới hoàn toàn đổ xụp trên đầu chúng tôi.

Từ khi bị bắt tới bây giờ, anh em Biệt Kích chúng tôi sở dĩ c̣n sống đến ngày nay là nhờ vào ḷng tin. Ḷng tin một ngày nào đó Đại Quân Miền Nam sẽ tiến về giải phóng quê hương miền Bắc, tiêu diệt bọn Cộng sản dă man, mang lại hoà b́nh cho toàn cơi Việt Nam và giải cứu chúng tôi.

 

Những người lính Biệt Kích đă chứng kiến cuộc sống an lành phồn thịnh của dân chúng ở miền Nam.

Những người lính Biệt Kích như chúng tôi, đă được trui luyện qua nhiều quân trường của quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Đào tạo ra một người lính Việt Nam Cộng Hoà đ̣i hỏi rất nhiều công phu sự luyện tập, đ̣i hỏi vừa khả năng về quân sự lẫn trí óc và ḷng tin. Ḷng tin vào chính nghĩa Tự Do, Cộng Hoà sẽ toàn thắng chủ nghĩa Cộng sản vô thần, vô tổ quốc, dă man, vô nhân đạo.

Đến khi bị bắt, chúng tôi đă được tận mắt chứng kiến mức sống cơ cực của người dân miền Bắc, đă được nh́n thấy những đám lính Cộng sản thiếu huấn luyện, vũ khí thô sơ, không có khả năng chiến đấu, chúng tôi đều có sự suy nghĩ, so sánh và kết luận là:

Miền Nam hơn Miền Bắc rất nhiều, do đó, chắc chắn quân đội của Việt Nam Cộng Hoà sẽ tiến về giải phóng Miền Bắc.

Sự thật xẩy ra đă quá trái ngược với niềm tin tưởng của chúng tôi.

Mặt đất dường như xụp đổ ngay dưới chân của tôi. Tôi đứng không vững, tưởng chừng như nếu bước tới một bước nữa, sẽ bị xụp xuống hố sâu.

Tôi mở mắt nh́n trời, mà tưởng chừng như bầu trời đă biến mất, không c̣n một tia sáng nào ở trước mặt.

Chúng tôi nh́n nhau, nói không nói lên lời, khóc không ra tiếng.

Niềm tin vào Miền Nam của chúng tôi đă xụp đổ!

C̣n ǵ để cho chúng tôi vịn vào đó mà sống nữa!

Một số trong anh em chúng tôi đă quá tuyệt vọng, đă tự tử.

Đến lúc này, chúng tôi mới chợt bừng tỉnh.

Trong chiến tranh, thắng bại là chuyện b́nh thường.

Tại sao lại phải chết?

Bại hôm nay, đâu có nghĩa là hoàn toàn bại trận.

Thắng hôm nay, đâu có nghĩa là măi măi thắng.

 

Lịch sử đă cho thấy, thua ngày hôm nay, ngày mai, năm sau, mười năm sau thắng lại vẫn là chuyện thường xẩy ra và có thể xẩy ra với Miền Nam Việt Nam.

Chúng tôi khuyến khích nhau, hỗ trợ tinh thần cho nhau để cùng đứng vững, cùng tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng hơn.

Năm 1976, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ và một số anh em từ trong Nam bị đưa ra ở cùng trại với chúng tôi, đă cho chúng tôi thật nhiều tin tức. Tin quan trọng nhất mà chúng tôi thu thập được là: Một số Sĩ Quan cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă thoát ra ngoại quốc và đang tổ chức những cuộc kháng chiến.

Thế là trong tâm khảm chúng tôi lại bừng lên một niềm hy vọng mới:

Sẽ lại có ngày ca khúc khải hoàn!

Đến năm 1977, bọn Việt cộng tập họp chúng tôi lại, loan tin:

Án chung thân cho tất cả các Biệt Kích được xoá bỏ. Kể từ nay, tất cả tù nhân sẽ được chuyển về các Nông trường để sản xuất.

Nghe th́ thật là nhân đạo, nhưng thực sự th́ là một phương cách chuyển trại tù mà thôi. Lư do là toàn thể nước Việt Nam bây giờ đều nằm trong tay bọn Việt cộng, chúng không c̣n sợ chúng tôi trốn trại nữa, nên thay v́ để chúng tôi ở trong tù, phí phạm, chúng chuyển chúng tôi về các nông trường sản xuất, bắt làm việc tự nuôi thân.

Tôi và một số anh em được đưa về Nông trường Hồng Thắng, ở Phú Lu, thuộc tỉnh Lào cay, để cuốc đất trồng khoai, trồng ḿ. Gọi là Nông trường cho có vẻ hoa mỹ, chứ thực sự, nông trường này cũng nằm ở một góc rừng không có dân địa phương lai văng. Trong nông trường nhốt đủ mọi thứ tù: Từ tù h́nh sự tới dân sự, từ cán bộ tới bộ đội mà chúng gọi là “Hủ hoá, Tham ô”. Tù ra đồng từ sáng sớm tới tối mịt mới trở về khu nhà ngủ.

Những bữa ăn sáng trưa và chiều tối đều tập trung vào những lán, gọi là nhà ăn. Tất cả các loại tù đều xếp hàng ăn chung với nhau. Việc nấu nướng ở nhà bếp và chia khẩu phần cơm canh được giao cho những tù h́nh sự, tức là những người ít ra c̣n được bọn Việt cộng tin tưởng, v́ họ sinh ra và sống muôn đời ở ngoài Bắc. Những tù nhân lo việc nấu nướng th́ an nhàn hơn và có thể dấu phần cơm thêm cho ḿnh, nhưng những người tù lo việc phân chia cơm canh lại không được an nhàn như vậy, v́ cơm canh là lẽ sống của tù, nên chỉ cần chia không đều một vài hột cơm, một nửa củ khoai hoặc sắn là các tù nhân có thể căi vă hoặc đánh người chia cơm liền lập tức, đôi khi đưa tới đổ máu, giết lẫn nhau. V́ thế, dù là tù h́nh sự có dữ dằn tới đâu đi nữa, cũng không dám đứng chia phần cơm cho tù được quá một bữa. Các cai tù và tù chia cơm đành phải nhờ tới các Biệt Kích Miền Nam lo nhiệm vụ chia cơm. Lư do mà Biệt Kích Miền Nam dám làm và làm công việc chia cơm một cách hoàn hảo, không phải v́ anh em Biệt Kích. . . dữ dằn hơn các loại tù khác, mà v́ những lư do như sau:

Anh em Biệt Kích là những chiến binh can đảm, có số đông, lại luôn luôn bênh vực lẫn nhau. Anh em có đủ bản lănh để đánh trả những ai đụng tới ḿnh hoặc ức hiếp các tù nhân khác.

Anh em Biệt Kích đều là những người trọng danh dự, không làm lợi riêng cho ḿnh.

Có đầu óc tính toán, biết cách làm việc, biết cách chia phần cho đồng đều. Đa số đều có tŕnh độ học thức, nên đều biết cách thức chế ra cái cân thăng bằng một đầu có dĩa đựng đồ ăn, đầu kia là quả cân bằng đá.

Ví dụ: Nếu mỗi người tù được nhận 100gram chất bột, th́ anh em cân thử trước mặt mọi người lần đầu: Để đồ ăn lên dĩa, rồi dời quả cân tới điểm thăng bằng và đánh dấu tại đó. Tới phiên lănh cơm th́ một anh xúc đồ ăn lên đĩa, anh kia dời quả cân tới đúng điểm đă đánh dấu, thế là xong, ai cũng có phần đúng như cân lượng.

Trong một bữa ăn trưa, sau khi tôi chia cơm xong, lấy phần của ḿnh ra một góc ngồi ăn, có một anh tù tới gần chỗ tôi ngồi ăn chung, tự giới thiệu anh ta tên Bưởi. Tôi hỏi anh thuộc loại tù ǵ? Anh thản nhiên trả lời:

“Tù. . . Tham ô”

Tham ô? Tôi hơi ngạc nhiên, v́ xứ Bắc nghèo nàn vô tận, có ǵ đâu để mà tham ô?

Anh thuộc loại cán bộ tập kết, lấy vợ là con gái của Phó Giám Đốc Mỏ Than Ḥn Gai. V́ tên Giám đốc ganh tị với bố vợ của anh, nên đă kết tội anh là tham ô, lăng phí. Anh bị kết án tù 10 năm, đưa lên làm lao động ở đây.

 

Sau vài lần ngồi ăn chung, một hôm, đột nhiên anh hỏi tôi:

“Hồi đó, tôi ở . . . căn nhà an toàn tại lầu 4 đường Trần Hưng Đạo, tôi có treo một bức h́nh Tổng Thống Diệm đang đứng hiệu triệu quốc dân. Không biết có c̣n không?”

Tôi giật ḿnh, lạnh sương sống, củ khoai lang mắc nghẹn trong miệng tôi, v́ tôi có thấy tấm h́nh Tổng Thống Diệm ở trên tường. Tôi im lặng quan sát anh Bưởi một lần nữa:

Anh Bưởi này là ai mà lại ở “Nhà An Toàn” của Biệt Kích?

Anh là ai mà lại treo tấm h́nh Tổng Thống Diệm lên trên tưởng?

Anh Bưởi vừa bóc vỏ khoai lang vừa nh́n quanh, khi đă quan sát để biết rơ không có ai nghe lén, anh mới tiếp tục nói:

“Tôi là Đại Úy Biệt Kích Lê Văn Bưởi, được đưa qua Thái Lan làm con nuôi một gia đ́nh cách mạng, rồi sau đó đưa về Hà Nội với tư cách. . . tập kết. Tôi được sắp xếp làm tại mỏ than Ḥn Gai. Nhiệm vụ của tôi là nhận đồ tiếp liệu từ Hà Nội đem về, nên lấy được nhiều tin tức lắm. Tên Thủ trưởng muốn tôi xuất kho những món hàng có thể đem bán được, tôi không chịu xuất, nên hắn t́m cách cáo buộc tôi là tham ô. Tôi bị tù nhưng v́ có bố vợ can thiệp, nên chỉ phải đưa đi làm lao động mà thôi. ”

Tôi ú ớ, không biết có nên tin anh ta hay không? Tôi hỏi lấy lệ:

“Tụi nó đă biết. . . anh là ai hay chưa?”

“Chúng nó cũng là người thôi, chứ đâu phải là thần thánh ǵ để mà biết anh em ḿnh có mặt ở mọi nơi, và đang làm cái ǵ? Nếu chúng nó biết tôi là ai, th́ giờ này tôi đâu có ngồi đây mà nói chuyện với anh. Thôi, chào anh mạnh giỏi, ráng giữ vững tinh thần. ”

Rồi anh đứng dậy, vươn vai đi trở lại chỗ làm.

(Ghi chú: Vào năm 2007, tôi có qua Mỹ dự đại hội “Biệt Kích Nhầy Bắc” và có gặp lại Đại Úy Bưởi. Anh kể tiếp cho tôi nghe đoạn cuối của cuộc đời Biệt Kích của anh:

“Năm 1984, tôi được tha, đem vợ con vào Saig̣n sinh sống. Khi nghe tin có chương tŕnh HO, tôi đi thằng tới Ṭa Lănh Sự Mỹ tŕnh diện. Họ coi lại sổ sách, có tên tôi là Biệt Kích Nhầy Bắc, gài tại Hà Nội, thế là họ cho cả gia đ́nh tôi qua Mỹ định cư.” Anh Bưởi đă qua đời vào năm 2009.)

 

Anh em Biệt Kích chụp h́nh lưu niệm trước Quốc Hội Hoa Kỳ (1997) trong thời gian tranh đấu đ̣i quyền lợi.

H́nh của http://www.chinhnghia.com/tiengnoicongly.asp

 

Năm 1978- 1979, chiến tranh biên giới giữa Trung cộng và Việt cộng bùng nổ, anh em Biệt kích c̣n bị nhốt ở trại Cổng Trời xôn xao bàn tán: Từ Cổng Trời tới biên giới Trung cộng rất gần, chỉ leo qua ngọn núi là tới. Hăy nhân dịp này mà vượt trại đi thôi. Ở đây th́ chỉ là kiếp tù đầy cho đến chết. Đằng nào cũng chết, chết trên đường t́m Tự do c̣n hơn sống nhục. Thế là một số anh em đă cùng với những Biệt kích của Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đă vượt trại đi qua Trung cộng. Số phận của họ ra sao, không ai được biết.

 

(Ghi chú: Cũng trong dịp đi dự đại hội Biệt Kích Nhảy Bắc vào năm 2007, tôi đă được biết tin: Số anh em Biệt Kích Trung Hoa Dân Quốc, trong đó có anh Ṿng A Cầu và Lê Trung Chính, sau khi vượt trại Cổng Trời, đă qua được tới Trung cộng. Bằng cách nào đó, họ đă liên lạc với Ṭa Đại Sứ Mỹ và cũng đă được bốc về Đài Loan và cuối cùng, họ đă chọn định cư ở Mỹ. )

 

Phần anh em chúng tôi (khoảng 18 người) ở Nông trường Hồng Thắng, bị bọn Công an chuyển về Hà Nội, trực thuộc Cục Quản Lư Trại Giam, để sửa chữa nhà cửa. Bọn chúng phát quần áo công nhân mầu xanh bỉển cho chúng tôi mặc, mỗi sáng đưa chúng tôi lên xe chở đi sửa chữa những trại giam bị hư hại. Sau một thời gian quen thuộc, chúng không đưa xe đi nữa mà bắt chúng tôi tự di chuyển bằng xe lửa. Mỗi buổi sáng, chúng tôi tới ga Hàng Cỏ đón xe lửa tới những trại giam được chỉ định để làm việc, tối lại đón xe lửa về Cục Quản Lư Trại Giam tŕnh diện.

 

Một hôm, khi chúng tôi vừa tới nhà ga th́ thấy một số các bà các cô đang gồng gánh và khiêng những kiện hàng nặng chĩu xuống xe lửa. Những người này mặc dù mang vác đồ đạc nhưng họ có dáng điệu và cách ăn mặc khác hẳn đám đàn bà buôn bán thường đi xe lửa tại đây. Chắc chắn họ là thân nhân của các Sĩ Quan Miền Nam đang mang đồ đạc thực phẩm tiếp tế cho chồng đang bị tù ở những trại tù ở miền Bắc. Tôi tới gần họ nghe ngóng, một cô trẻ tuổi nói với mẹ:

 

“Má à, cái đồ này nặng lắm, để cho con “gắn” cho, má mang cái giỏ này đi.”

 

Trời ơi! Giọng nói của người Miền Nam!

 

Một giọng nói mà tôi tưởng chừng như là không bao giờ c̣n nghe lại được nữa!

 

Trong phút chốc, tôi quên mất tôi là người sinh đẻ ở miền Bắc, để nhận tôi là người Nam, và cái giọng nói miền Nam đó là giọng nói của Mẹ Việt Nam của tôi, của đất nước tôi.

Phóng viên báo Register tại California đang phỏng vấn các Biệt Kích

(H́nh trên Internet)

Nước mắt tôi trào ra. Tôi đứng im nh́n những người đàn bà mà tưởng chừng như đă được về nhà, đang đứng trước cửa nhà của tôi, và trong số những người đàn bà này có mẹ tôi, có cô d́ có chị em của tôi. Tôi mừng quá, chỉ muốn chạy ngay lại chỗ bọn họ để mà hỏi thăm, để được nói những câu nói, được nghe những giọng nói mà tôi đă không được nghe từ hơn mười lăm năm trời nay.

Nhưng tôi kịp ngưng lại để nhớ thân phận ḿnh đang là tù, đang ở Hà Nội. Tôi đứng im để cố nhớ lại những từ ngữ miền Nam mà tôi đă học được suốt muời năm sinh sống ở Miền Nam của tôi, khi nhớ lại rồi, tôi chạy lại chỗ các bà các cô đang khiêng hàng, cười tươi tỉnh, ráng lấy giọng miền Nam mà nói câu nói đầu tiên:

“Chào mấy chị. Mấy chị mang đồ đi thăm nuôi chồng học cải tạo đó, phải hông?

 

Tui cũng là người xứ Nam Kỳ như mấy chị đó, tui theo ba tui ra tập kết ngoài đây. Để tui phụ mấy chị khiêng đồ xuống nha. ”

 

Những người đàn bà nghe tôi nói tiếng Nam pha giọng Bắc, mặc dù họ không biết tôi là cái thứ ǵ, nhưng trong xứ Bắc mà nghe được một giọng Nam th́ cũng một phần nào có ḷng tin, họ nhờ tôi khiêng những đồ nặng xuống để chung một chỗ. Tôi hỏi họ muốn đi thăm nuôi ở vùng nào? Trại nào? Rồi ra ngoài mặc cả xe thồ, xe kéo đưa họ đi. Trong khi sắp xếp phương tiện, tôi từ từ hỏi họ về t́nh h́nh ở trong Nam ra sao? Nhất là vùng Thủ Đức, nơi cha mẹ tôi ở.

 

Chiều về, tôi lại đứng chờ ở ga xe lửa để đón những thân nhân đi thăm tù cải tạo. Tôi lại giúp họ mang vác và mướn xe để ḍ hỏi thêm tin tức trong Nam. Họ cho tôi biết, Việt cộng đă cho đổi tiền, đưa các sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đi tù cải tạo, đánh “Tư Sản Mại Bản”. Tôi cũng cho họ biết tôi theo cha đi tập kết, đă lâu không về miền Nam, nên muốn trở về thăm nhà, nhưng không biết làm cách nào để về, v́ không có giấy tờ, cũng chẳng có tiền bạc ǵ cả. Họ khuyên tôi nếu muốn về Nam, cứ đi về đi, Việt cộng chưa đến nỗi kiểm soát quá kỹ đâu, nhưng nên đi theo các xe chở hàng đỡ bị kiểm soát hơn.

 

Tối hôm đó, tôi nằm trong trại vắt tay lên trán suy nghĩ. Tương lai của tôi hiện tại chỉ là chôn chặt cuộc đời ở miền Bắc rồi chết đi như một người tù mà thôi. Đằng nào cũng chết, tôi phải bằng mọi cách trốn về Nam. Nhưng nếu đi bằng xe lửa, tôi không có tiền mua vé, dù có tiền mua vé, th́ cũng sẽ bị bắt ở các trạm kiểm soát. Do đó, tôi quyết định phải đi theo xe hàng như đă được thân nhân tù cải tạo chỉ dẫn.

 

Sáng hôm sau, tôi đi ḍ la bến xe chở hàng ở đâu? Đám xe thồ chỉ cho tôi lối đi tới bến xe Kim Liên. Tôi tới bến xe, vừa lúc một đoàn xe chở hàng ở miền Nam vừa mới tới. Những người tài xế đang túa ra quán ăn sáng, có một người tài xế không đi, đang lui cui mắc vơng nằm nghỉ. Tôi bước tới làm quen.

 

Anh tài xế cho biết, anh chở hàng từ Saig̣n thẳng tới Hà Nội, nghỉ một đêm rồi lại quay về Nam. Tôi nh́n kỹ trên cổ anh ta có đeo một giây chuyền có h́nh thánh giá. Mừng quá! Tôi đă gặp. . . phe ta rồi! Tôi cố t́nh bẻ cổ áo để lộ rơ cái giây chuyền có h́nh thánh giá đă lên nước bóng loáng của tôi, hỏi anh mới từ trong Nam ra phải không? Đường xá có hư hại nhiều lắm không? Vợ con ra sao? Cuối cùng, tôi hỏi anh trước đây anh có làm nghề lái xe “Tải” hay không mà dám lái đường trường như vậy? Anh cho biết, anh nguyên là Trung sĩ Quân vận của “Lính Ngụy”, nên lái xe đường xa thường lắm. Tôi lấy bổn cũ ra soạn lại, cũng tâm sự là dân miền Nam, tập kết ra Bắc, nhớ nhà quá, bây giờ muốn. . . quá giang xe của anh về Nam thăm gia đ́nh. Tôi nói rất ngậm ngùi là, ở ngoài Bắc này, tôi chỉ được nuôi ăn thôi, chứ không có tiền lương như ở miền Nam, nên sẽ không có tiền trả cho anh, chỉ xin tặng anh cây Thánh Giá bằng gổ Soan mà tôi đang đeo trên cổ.

 

Ngoài sự dự đoán của tôi, anh trung sĩ hỏi tôi một câu thật là. . . cắc cớ:

 

“Chú có Đạo, sao lại đi. . . tập kết?”

 

Tôi bí lối, ráng b́nh tĩnh trả lời:

 

“Hồi đó, tôi c̣n nhỏ. . . biểu đi th́ đi, chứ đâu có biết là đi đâu!”

 

Rồi cũng ngoài sự tưởng tượng của tôi, anh Trung sĩ không hỏi ǵ thêm nữa, mà đồng ư ngay:

“Muốn. . . dźa nhà th́ dźa. Tụi tui rời bến sáng sớm mai, muốn. . . guá giang th́ bốn giờ sáng mai có mặt tại đây. ”

Tôi mừng quá, bắt tay anh rối rít hẹn sáng mai đúng bốn giờ sẽ có mặt.

Tôi hôm đó, tôi dặn tên công an gác cổng là ngày mai tôi phải đi làm sớm, sẽ rời trại lúc ba giờ sáng. Tên này đồng ư.

Đúng bốn giờ sáng, tôi có mặt tại bến xe Kim Liên gặp anh tài xế. Anh ta mời tôi một gói xôi rồi giới thiệu tôi với anh phụ xe. Xe nổ máy, anh cho tôi ngồi giữa.

Xe bắt đầu rời bến, tôi hồi hộp y như là lúc tôi ngồi trên trực thăng sửa soạn Nhảy xuống Nghệ An mười lăm năm trước đây.

Xe chạy ngang Huế, tôi thấy một vài cửa hàng có treo đèn trung thu, tôi mới biết là sắp tới rằm Tháng Chín.

Đoàn xe vào tới miền Nam mà không phải dừng lại ở bất cứ trạm kiểm soát nào. Cuộc đào thoát của tôi đă trót lọt một cách cực kỳ êm đẹp, không thể nào ngờ được. Trên đường đi, tôi đă nghĩ ra hàng ngàn khó khăn sẽ ập tới, và hàng ngàn câu trả lời mà tôi sẽ phải trả lời. Cuối cùng là nếu bị bắt, tôi sẽ. . . tự xử bằng cách nào để xứng đáng với một Biệt Kích Miền Nam và không làm liên lụy tới người tài xế Quân Vận.

Vậy mà không một khó khăn nào đến với tôi hết!

Xe vào tới địa phận Thủ Đức, tôi xin anh tài xế cho xuống, cám ơn anh, bắt tay anh thật nồng nhiệt.

 

Cám ơn Thượng Đế.

Cám ơn Đức Chúa Trời.

Con đă thoát khỏi ngục tù Cộng Sản rồi.

Cám ơn anh Trung sĩ Quân Vận của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.

Cầu xin Chúa phù hộ cho anh.

 

Lúc đó là bốn giờ sáng, trời c̣n tối lắm, tôi đi bộ tới cái quán cà phê đầu đường. Cái quán này có từ thời tôi nhập ngũ, nay vẫn c̣n đây. Tôi đứng lảng vảng chờ cha mẹ tôi đi lễ buổi sáng. Theo thông lệ từ lâu đời, mỗi sáng, cứ vào khoảng năm giờ sáng là cha mẹ tôi dắt tay nhau đi lễ sớm. Khi chưa nhập ngũ, tôi cũng đă từng theo cha mẹ đi lễ sớm.

 

Đây rồi, mẹ tôi đang từ nhà buớc ra, tôi hồi hộp nhập theo đoàn người thưa thớt bước theo. Tới gần mẹ, tim tôi đập mạnh hơn bao giờ hết. Tôi muốn nói nhưng cổ tôi nghẹn lại. Tôi cố lên tiếng:

 

“Mẹ!. . . Mẹ ơi. . . ”

 

Đến lần thứ ba tôi mới nói ra tiếng.

 

Nhưng tôi nói nhỏ quá, mẹ tôi không nghe rơ. Bà thấy có người đi gần th́ lảng ra xa. Tôi bước theo cố gắng nói cho bà đủ nghe: 

“Mẹ ơi. . . Con là Hinh đây. . . “ 

Mẹ tôi quay lại nh́n tôi. Chắc bà nghe không rơ nên lại quay lại tiếp tục bước đi.

 

Tôi tiếp tục đi theo bà, nói tiếp: 

“Mẹ ơi. . . Con là Hinh con trai của mẹ đây. ” 

Lần này, mẹ tôi đă nghe rơ, bà quay lại nh́n tôi, nh́n từ đầu đến chân:

“Thằng Hinh. . . đấy à. ”

Rồi bà té xỉu xuống đất.

Tôi đă dự pḥng trường hợp này rồi, nên tôi ôm chặt lấy mẹ, d́u mẹ tiếp tục bước đi. Một lúc sau, mẹ tôi tỉnh lại, bà nắm chặt lấy tôi như sợ tôi lại biến đi, bà vừa khóc vừa hỏi tôi:

“Con. . . ở đâu về vậy?”

Tôi cũng vừa khóc vừa trả lời mẹ: 

“Con Nhảy dù ra Bắc lấy tin tức t́nh báo, bị bắt tù từ ngày đó tới giờ. Con. . . trốn trại về đây. ” 

Mẹ nghe tôi nói th́ vội vàng đổi hướng quay trở lại: 

“Về nhà! Về nhà ngay đi con.”

Hai mẹ con vội vă quay trở về nhà. Mẹ chờ tôi vào nhà, đóng cửa cài then chặt chẽ rồi mới hỏi tôi ngọn ngành. 

Mẹ cho tôi biết, ba tôi đă mất cách đây ba năm. Anh em tôi một người đi Không Quân, lái trực thăng, đă chết trận, người kia là Đại úy Biệt Động Quân, đóng ở Long B́nh, sau 30 tháng Tư 1975 không thấy về nhà. 

Tôi ở trong nhà suốt mấy ngày trời, hai mẹ con cố gắng t́m cách nào để hợp thức hóa sự có mặt của tôi. 

Cuối cùng, mẹ tôi đă nghĩ ra cách giải quyết: Nhà tôi c̣n thân nhân ở lại ngoài Bắc. Tôi sẽ đóng vai chồng của đứa em họ ở Hà Nội vào Nam thăm gia đ́nh. Mặc dù từ thủa nhỏ tôi chưa hề đóng kịch, nhưng đóng vai người ở ngoài Bắc vào Nam th́ tôi rành đủ sáu câu. 

Sau hơn mười lăm năm xa nhà, lại có thân h́nh gầy g̣ ốm yếu và cách phát âm đúng điệu Việt cộng, thêm bộ quần áo xanh công nhân mà ở trong Nam không thể có, nên ngay cả những người hàng xóm cũng không nhận ra tôi là ai? 

Mọi chuyện được dàn xếp đâu vào đấy. Công an tổ dân phố cũng đă đến kiểm soát. Cái giọng Bắc chính cống Việt cộng, thêm bộ quần áo công nhân làm cho đám công an nể tôi lắm, không hỏi thêm bất cứ câu hỏi nào cả, cũng không thắc mắc tôi sẽ ở trong Nam bao lâu? 

Nhưng không lẽ ông cháu rể cứ sống bám măi ở trong Nam, không về Bắc? Tôi không thể nào đóng măi vai này được, phải t́m cách khác giải quyết. 

Sau nhiều lần bàn căi, mẹ tôi quyết định t́m đường cho tôi. . . Vượt Biên T́m Tự Do. 

Tháng 11 năm 1979, người quen với mẹ tôi giới thiệu một mối ở Long Xuyên. Tôi xuống dưới đó, lên thuyền. Ghe chở đầy. . . muối, đi Rạch Giá.

Buổi tối, ghe chuyển hướng nhắm cửa biển xả máy chạy thẳng.

Đi bốn ngày đêm, tầu của chúng tôi được một tầu buôn vớt, kéo tới Singapore.

Vài tuần lễ sau, phái đoàn Mỹ tới phỏng vấn tôi:

-“Anh là Biệt Kích được thả ra Bắc?

-Đúng.

Anh có muốn định cử ở Mỹ hay không?

“KHÔNG!”

-Tại sao anh là Biệt kích mà lại không muốn đi Mỹ?

-Tại v́ chính quyền Mỹ đă bỏ rơi Việt Nam Cộng Ḥa, nên chúng tôi mới bị thua trận.

- Trong thời gian ở tù ở miền Bắc, anh có thấy bất cứ tù nhân Mỹ nào hay không?

- Có.

- Tôi đại diện cho chính phủ Mỹ, xin mời anh tới định cư ở Mỹ. Anh có thể cung cấp cho chúng tôi tin tức về những người tù binh Mỹ mà anh đă gặp, chúng tôi phải cứu dân của chúng tôi.

- Cám ơn ông đă mời, nhưng tôi không xin đi Mỹ đâu. C̣n về tù binh Mỹ, ông cứ việc hỏi, tôi sẽ trả lời.

- Rất tiếc, tôi không phải là người làm nhiệm vụ thâu thập tin tức t́nh báo. Tôi sẽ báo cáo trường hợp của anh cho cấp trên để họ cử người xuống gặp anh.

- Vậy khi nào những người thâu thập tin tức đó tới, tôi sẽ nói cho họ hay. “

Tôi được chính phủ Ḥa Lan chấp thuận cho định cư ở nước họ. Đúng bốn tháng trời ở trại tỵ nạn, tôi lên máy bay tới Ḥa Lan.

Bốn chục tuổi đời, tôi vẫn c̣n. . . Độc Thân Vui Tính.

Hai tháng sau khi tới Ḥa Lan, tôi nhận được thơ của Ṭa Dại Sứ Mỹ. . . mời qua Mỹ gặp Đại Tướng Smith của Biệt Kích Mỹ. V́ tôi là người Biệt Kích Nhảy Bắc đầu tiên vượt thoát được lao tù Việt cộng, nên họ muốn nhờ tôi cung cấp những chi tiết cần thiết cho họ, mọi chi phí di chuyển, ăn ở. . . trong thời gian 6 tuần lễ tại Mỹ đều do toán này lo liệu.

Tất cả những câu trả lời về các trại giam Biệt kích, tôi đều trả lời đầy đủ.

Toán đặc nhiệm về tù binh Mỹ hỏi tôi có gặp bất cứ tù nhân Mỹ nào bị giam ở Bắc Việt hay không?

Tôi cho biết, khi sửa chữa những nhà tù ở Hà Nội, tôi có thoáng thấy những tù binh Mỹ bị giam ở đó.

Có bao nhiêu tù binh Mỹ?

Tôi không biết, chỉ thoáng thấy mà thôi, không được đứng lâu ở đó.

Tên họ những người tù binh Mỹ?

Cái đó tôi lại càng không thể biết được. Tôi đâu phải là công an Việt cộng đâu mà biết tên họ của những tù binh này.

Cuối cùng, tôi đoán ra mục đích của chuyến đi của tôi: Mỹ chỉ muốn biết về số phận của những tù binh Mỹ bị giam ở Bắc Việt mà thôi. Rất tiếc, tù Biệt kích không có giam chung với tù binh Mỹ, tôi chỉ xác nhận là có thấy những tù binh này mà thôi, ngoài ra, tôi không giúp ǵ thêm cho họ được cả.

Tôi trở về Ḥa Lan, lập gia đ́nh và tiếp tục cuộc sống tỵ nạn.

Đến năm 1984, Việt cộng bắt đầu trả tự do cho những Biệt Kích Miền Nam, tôi có gởi thơ về nhờ gia đ́nh t́m gặp một số bạn bè trong toán của tôi. Anh em Biệt kích vẫn liên lạc mật thiết với nhau, nên tôi t́m họ không khó. Tấm h́nh đầu tiên trong đời mà anh em Biệt kích chụp chung với nhau là tấm h́nh do Ninh “Côi” gởi cho tôi (Ninh mồ côi cha mẹ, lại chưa có bồ, nên chúng tôi đặt cho anh biệt hiệu “Mồ côi”). Ninh lấy vợ, đám cưới có đầy đủ những Biệt kích tới tham dự, họ chụp chung một tấm h́nh gởi cho tôi. Tấm h́nh này là gia sản độc nhất của cuộc đời Biệt kích của tôi. Tôi sẽ giữ nó măi măi. . . 

Đám cưới của Ninh “CÔI”. Bạn bè và phù rể đều là anh em Biệt Kích Nhảy Bắc.

Từ năm 1987, 1991. . . 1992. . . 1974, bắt đầu chương tŕnh HO, tất cả các Biệt kích đều được đưa qua định cư tại Mỹ. Chúng tôi vẫn tiếp tục liên lạc với nhau để giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi của nhau.

Sau hơn mười năm ở Ḥa Lan, với lư do đoàn tụ gia đ́nh, gia đ́nh nhỏ của tôi đă được bên vợ bảo lănh qua Úc sinh sống từ năm 1998.

Năm 2007, lần đầu tiên anh em Biệt Kích Nhảy Bắc đă tổ chức cuộc hội ngộ tại Hoa kỳ. Tôi đă gặp lại những anh em cùng toán nhảy Bắc với tôi. Sau những hàn huyên tâm sự, chúng tôi dỡ sổ đời ra cùng ngồi lại tính toán với nhau.

Trong lần nhảy cuối cùng ra Bắc, toán của tôi có sáu nguời, chỉ một ḿnh tôi bị bắt mà thôi. Năm anh em c̣n lại đă nhập vào những toán khác tiếp tục nhảy ra Bắc, một người tử trận trong khi giao tranh, hai người khác chết v́ đói và lạnh ở trại tù Cổng Trời, c̣n ba người chúng tôi sống sót, đă gặp nhau và đang bàn tán với nhau đây.

Có một số người cho rằng, trước khi nhảy ra Bắc, anh em chúng tôi đều được lănh trước. . . 12 tháng tiền tử!

Không. Không một ai trong đám Biệt Kích Nhảy Bắc của chúng tôi được nghe nói tới hoặc lănh số tiền này cả.

Tính kỹ ra, mỗi kỳ nhảy toán, xác xuất đều là. . . Năm Ăn Năm Thua. V́ tin vào xác xuất này, chúng tôi mới dám ra đi, chứ nếu biết. . . Đi là Chết, chắc chắn là anh em chúng tôi sẽ không bao giờ đi, mặc dù can đảm chúng tôi có thừa. Cấp trên của chúng tôi đều cũng là Lính, đều cũng là người, không lẽ họ đẩy chúng tôi vào chỗ chết một cách b́nh thản như vậy sao? Chắc chắn trên thế giới, chưa có toán biệt kích nào ra đi để chắc chắn nhận lấy cái chết. Như tôi đă nói ở trên, nhảy toán ra Bắc cũng chỉ là một cuộc hành quân, giống như những cuộc hành quân của những binh chủng khác trong quân đội mà thôi. Trước khi ra trận, ai cũng hy vọng trở về an toàn, Biệt kích nhảy Bắc cũng vậy, chúng tôi cũng hy vọng trở về an toàn. Sống chết là do số mạng, do sự rủi ro, sự nguy hiểm của chiến tranh mà thôi.

Chỉ từ năm 1966 trở đi, không hiểu v́ lư do nào mà đa số anh em nhảy toán đều bị lộ, một số bị chết trong khi giao tranh, số c̣n lại đều bị bắt. Có thể là Sở Bắc đă bị bọn Việt cộng gài người vào, nên những toán sau đó mới bị lộ như vậy. Thật là đáng tiếc.

Tuy nhiên, chiến tranh là như vậy, chẳng có một quy luật nào cả.

Thắng một trận, chưa phải là hoàn toàn thắng.

Thua một trận, cũng không phải là hoàn toàn thua.

BIỆT KÍCH LUÔN LUÔN HY VỌNG VÀO NGÀY MAI

NGÀY MAI ĐÂY, ĐẠI QUÂN MIỀN NAM SẼ TRỞ LẠI.

Ông Sedgwich Tourison (một tù binh Mỹ, đă giúp đỡ và tranh đấu cho quyền lợi của anh em Biệt Kích Nhảy Bắc) chụp h́nh chung với anh em Biệt Kích và gia đ́nh của họ.

(H́nh trên internet)

Ghi chú:Vào năm 1996, anh em Biệt kích đă làm đơn khiếu nại lên Quốc Hội Mỹ xin bồi thường và lănh tiền lương cho những tháng năm bị bắt giam tại Bắc Việt. V́ ngoài nhiệm vụ là người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, anh em c̣n kư hợp đồng cung cấp tin tức cho CIA nữa. Quư ông Sedgwick Tourison, Luật sư John Mattes, Thượng Nghị Sĩ John Mc Cain. . . là những người đă tích cực hỗ trợ và vận động cho anh em. Cuối cùng, vào năm 1999, Quốc Hội Hoa Kỳ đă chấp nhận bồi thường và cấp huy chương Phục Vụ cho tất cả các Biệt Kích Nhảy Bắc.

 

 

Luât sư Jonh Matter (người đă giúp đỡ và bênh vực quyền lợi cho các Biệt Kích Nhảy Bắc) chụp h́nh chung với anh em Biệt Kích.

(H́nh trên internet)

 

 

Biệt Kích Nguyễn Thái Kiên, Tŕnh A Sám, Thượng Nghị Sĩ John Mc. Cain, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot, Biệt Kích Kim Âu Hà văn Sơn tại một buổi điều trần của Quốc Hội Hoa Kỳ.

 

H́nh của http://www.chinhnghia.com/tiengnoicongly.asp

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

www.nguyenkinhdoanh.com

www.nguyenkinhdoanh.net

www.lesyminhtung.net

www.diendantheky.net

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: