Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THỬ , THÁCH  VÀ  THỬ  THÁCH  LÀ  MỘT ?

 

 

 

Trần Trung Chính

 

 

 

Biến động miền Trung năm 1966 là một sự kiện lịch sử của Việt Nam Cộng Ḥa, trong đó một số quân nhân và viên chức địa phương của vùng miền Bắc Trung Nguyên Trung phần bao gồm tỉnh Quảng Trị, tỉnh Thừa Thiên và tỉnh Quảng Nam (kể cả thị xă Đà Nẵng, lúc đó mang danh xưng là đặc khu Quảng Đà ) đă nghe theo lời xúi dại của một số lănh tụ Phật Giáo địa phương mưu toan cướp chính quyền để khuynh đảo chính trường  Việt Nam Cộng Ḥa.

Cựu Thiếu Tá Nguyễn Phúc Liên Thành vừa mới xuất bản quyển sách mô tả những dữ kiện khởi đầu từ biến cố biến động miền Trung (xảy ra phần lớn tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên ) năm 1966 cho đến khi ông rời khỏi chức vụ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Thừa Thiên vào năm 1974. Ngay lập tức đă có một số tín đồ của tầng lớp tăng lữ B́nh Trị Thiên lên tiếng phản bác, tôi không sử dụng nhóm chữ “tín đồ Phật Giáo” v́ những phật tử ở các địa phương khác không có lên tiếng bênh vực cho các hành vi chính trị của các tăng lữ B́nh Trị Thiên.. Tôi có đọc những trao đổi qua lại trên “net” của các ông "quan năm" Trần văn Thưởng (Khóa 17 trường VBQGDalat), Phạm hoài Việt, Bảo Quốc Kiếm (bút hiệu của ông Trương Khôi)…v…v…nhưng tôi không đánh giá cao các lời phản bác của các vị này, v́ tất cả họ đều là phật tử người Huế và Thừa Thiên th́ dĩ nhiên họ phải bênh vực một cách mù quáng những người mà họ gọi là “thầy” của họ để tung hỏa mù hầu chạy tội “tay sai cộng tác với Việt Cộng” của các nhà sư Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu …mà thôi.

Những lời chỉ trích của nhóm Chấn Hưng Phật Giáo ở hải ngoại và một số huynh trưởng tổ chức Gia Đ́nh Phật Tử tại Huế như Lê Công Cầu, như Trần Kiêm Đoàn cũng chỉ có tính cách “đệ tử” bênh “sư phụ”, đối với tôi hoàn toàn v́ lư do cảm tính, không đủ tư cách để được liệt vào sử liệu hay hồ sơ truy tố về mặt pháp lư – nếu có.

Tôi gọi là “cảm tính” v́ họ cho rằng ông Liên Thành hành xử như ông đă kể ra trong quyển sách BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG là có hại cho Phật Giáo, trong khi là một Phật Tử Quốc Gia, tôi chỉ thấy ông Liên Thành không hề “đặt điều nói xấu Phật Giáo” mà ông chỉ nói đến những hành động xấu xa có thực của một số tăng lữ trong địa phương B́nh Trị Thiên mà thôi. Chuyện kể của ông Liên Thành đặt trên nền tảng quyền lợi quốc gia và an ninh của dân chúng Thừa Thiên - Huế. Ai cũng biết Phật Giáo bao gồm Phật, Pháp và Tăng, ông Liên Thành không hề chống phá hay bài xích giáo lư hay triết thuyết Phật giáo, ông cũng không lạm bàn đến các pháp môn tu tập của các vị tăng, việc ông nói trong quyển sách BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG là nói đến những hoạt động liên quan đến việc đời, liên quan đến chính trị của một số tăng lữ Huế - B́nh Trị Thiên th́ làm sao gọi là chống Phật giáo ? Cách lập luận như các ông Bảo Quốc Kiếm, quan năm Trần văn Thưởng, Phạm hoài Việt là cách ăn nói hồ đồ v́ nhà sư Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ… không phải là đại diện cho tập thể tầng lớp tăng lữ của Phật Giáo Việt Nam.

Tôi gọi là quan năm Trần văn Thưởng mà không gọi là Trung Tá Trần văn Thưởng v́ tuy đă tốt nghiệp khóa 17 Trường VBQGDalat ra trường năm 1963 tới năm 1975 đeo lon Trung Tá nhưng thực chất vẫn là một ông quan đi làm “tà lọt” cho các ông quan khác (hiện nay ông làm “tà lọt” cho các ông sư hoạt động có lợi cho Việt Cộng), phương châm của Trường Vơ Bị Quốc Gia Dalat là “Tự Thắng Để Chỉ Huy ”, nhưng tôi nhận ra ông Trần văn Thưởng không biết “tự thắng” và dường như ông cũng chưa bao giờ “chỉ huy” một đơn vị nào cả (theo như ông kể, tôi đoán ông là “lính nghề” nên chỉ thấy được đưa đi học chuyên môn chứ không thấy ông kể ông đă chỉ huy đơn vị nào hết !). Danh xưng Sĩ Quan trong quân đội – theo tôi hiểu là các vị làm quan trong quân đội nhưng ư thức được vai tṛ Kẻ SĨ của một người có học. Ư thức này được ghi rơ trong huy hiệu của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, đó là TỔ QUỐC – DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM.

Ông Trần văn Thưởng không biết TỰ THẮNG khi ông tự khoe ḿnh là người học giỏi,là thành phần ưu tú nên đậu Tú Tài II và trúng tuyển vào trường VBQGDalat khóa 17, trong khi ông chê ông Liên Thành học dở không đậu Tú Tài II rồi phải đi lính khóa 16 Thủ Đức (thời 1962-1963-1964… Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cho phép những người chỉ có chứng chỉ Trung Học Đệ Nhất Cấp nhập học Trường Bộ Binh Thủ Đức và tốt nghiệp về làm sĩ quan của lực lượng Bảo An) . Tôi lấy làm lạ hết sức v́ sự tự hào của quan năm Trần văn Thưởng là một sự tự hào vô lối và kệch cỡm, v́ trong cả quyển sách BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG, tôi không thấy ông Liên Thành khoe ḿnh là thành phần ưu tú bao giờ, đó là chưa kể ông quan năm Trần văn Thưởng coi tất cả những người tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức không phải là thành phần ưu tú của đất nước Việt Nam, mà chỉ có những người tốt nghiệp trường VBQGDalat mới là thành phần ưu tú thôi sao? Nếu đúng như sự suy đoán của tôi, có lẽ quan năm Trần văn Thưởng coi các ông Lê Nguyên Khang , Nguyễn Đức Thắng, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Khoa Nam, Ngô Quang Trưởng, Bùi Thế Lân, Lê Quang Lưỡng, Lê Văn Hưng… cũng không ra ǵ (v́ các vị tướng này đều xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức ).

Tôi không coi ông Trần văn Thưởng là sĩ quan v́ khi đọc những lời chỉ trích chê bai ông Liên Thành tôi chỉ thấy ông bênh vực cho “các ông thầy chùa” của ông, lấy danh dự của một người có nhiều bằng cấp và danh dự của một đứa trẻ con sống lâu năm cũng như trách nhiệm của một “đệ tử” tận tụy bênh vực cho những ông “thầy”. Trong khi tôi lại thấy ông Liên Thành học dở hơn ông, kém may mắn hơn ông nhưng biết đặt TỔ QUỐC trên hết, biết hành xử DANH DỰ của một quân nhân với mục đích Bảo Quốc An Dân, và biết hành xử TRÁCH NHIỆM của một cấp chỉ huy luôn dấn thân đi đầu trong các công tác nguy hiểm và dám nhận chịu trách nhiệm về các hành vi của ḿnh. Theo tôi,  sĩ quan chỉ huy là người luôn luôn làm quyết định (make decision) chứ không phải là kẻ thừa hành chỉ biết tuân lệnh : tôi không thấy quan năm Trần văn Thưởng tự khoe những thành tích làm quyết định của ông ta, nên tôi cho rằng ông Trần văn Thưởng dù sống tới 70-80 tuổi vẫn là trẻ con sống lâu năm chứ không được xem là người trưởng thành già dặn !!

Mới đây ông Lê Công Cầu – một huynh trưởng của tổ chức Gia Đ́nh Phật Tử ở Huế -cũng đưa ra bằng chứng để miệt thị ông Liên Thành khi ông Liên Thành có ghi danh học Đại Học Luật Khoa Huế, ông Lê Công Cầu có hỏi ông Tổng Thư Kư trường Đại Học Luật Khoa Huế là sao ông Liên Thành không có bằng Tú Tài mà được ghi danh học Luật Khoa…Khi đưa ra bằng chứng này, chứng tỏ Lê Công Cầu không hiểu biết ǵ về ngành Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, từ năm 1971 trở về sau, các cấp chỉ huy Cảnh Sát Quốc Gia như Chỉ Huy Trưởng Tỉnh,Chỉ Huy Trưởng Quận,Trưởng Cuộc Cảnh Sát…đều là các sĩ quan tư pháp cảnh lại, có tuyên thệ và đều là phụ tá cho ông Biện Lư tại địa phương trách nhiệm, cho nên ông Liên Thành ghi danh học Luật là để lấy chứng chỉ năng lực về Luật nhằm thi hành công vụ chứ ông Liên Thành không có học Luật để sau này ra làm Biện Lư Công Tố, Chánh Án, Dự Thẩm hay Luật Sư, hay tệ hại như ông Lê Cộng Cầu nghĩ là ông Liên Thành đi “ ḷe ” dân Huế để khỏa lấp mặc cảm thiếu bằng cấp đại học chăng ?

Xin nhắc nhở quan năm Trần văn Thưởng và ông cựu huynh trưởng GĐPT Lê Công Cầu một câu nói của một triết gia  Tây  phương (mà tôi quên tên) , như sau : “ giá trị của con người không nằm ở gốc gác xuất xứ của người đó, mà giá trị đích thực là hướng mà người đó nhắm tới ”.

Theo sự ghi nhận của tôi, nhóm Chấn Hưng Phật Giáo, quan năm Trần văn Thưởng, Phạm hoài Việt, Bảo Quốc Kiếm (có nhóm Giao Điểm đứng hậu thuẫn đàng sau) đang ra sức bênh vực cho nhà sư Thích Đôn Hậu nhiều hơn nhà sư Thích Trí Quang v́ một số lư do sau :

1/. Nhà sư Thích Đôn Hậu đă qua đời từ lâu nên cho dù bị buộc tội hay bênh vực, ông ta cũng không thể lên tiếng được.

2/. Nhà sư Thích Đôn Hậu sau năm 1975 chống lại sự kềm chế của chính quyền Việt Cộng, nên nhóm bênh vực vin vào đó để cho rằng ông Đôn Hậu cũng chống Cộng trước 1975.

3/. Nhóm bênh vực cho tầng lớp tăng lữ B́nh Trị Thiên hoạt động có lợi cho Việt Cộng cũng đều là các đệ tử người B́nh Trị Thiên nên không thể biết các hoạt động của nhà sư Thích Trí Quang tại Sài G̣n. Trong khi các hoạt động của nhà sư Thích Đôn Hậu tại Huế và Quảng Trị - Thừa Thiên chỉ là một phần của sách lược hoạt động của nhà sư Thích Trí Quang.

Do đó ngay cả quyển sách BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG  của ông Liên Thành cũng không thể kể ra các sự kiện liên quan đến biến động miền Trung, v́ ngoài phạm vi hoạt động của ông cũng như vượt quá tầm trách nhiệm và chức năng của ông .

Khi biến cố Phật giáo xuống đường năm 1966, tôi đang học đệ tam trường trung học Chu Văn An – Sài G̣n, nhà ở giữa 2 chùa Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự, nên biết khá rơ về những sự kiện này tại Sài G̣n. Thời điểm đó, Thượng Tọa Thích Tâm Châu trong cương vị Viện Trưởng Viện Hóa Đạo PGVN Thống Nhất tuyên bố không tán thành các nhà sư gốc miền Trung (lúc đó chưa có giáo hội Ấn Quang) xách động quần chúng xuống đường v́ tất cả những xáo trộn nói trên chỉ có lợi cho Cộng Sản.

Thượng Tọa Thích Tâm Châu đă bị các nhà sư gốc miền Trung đe dọa và gây áp lực phải từ chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo để họ lên nắm quyền và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Theo tôi được biết, người đe dọa trực tiếp đến tính mạng của Thượng Tọa Thích Tâm Châu thời bấy giờ là một người tu xuất gốc Huế, tục danh là Bùi Ngọc Đường (hiện sống ở miền Nam Cali, và cũng là một tay trụ cột quan trọng của nhóm Giao Điểm cùng với một nhà tu xuất gốc Huế khác là Trần quang Thuận, cũng như nhóm Về Nguồn + Nhóm Thân Hữu Già Lam…đều là hậu thân của  các tăng lữ gốc B́nh Trị Thiên ). Thượng Tọa Thích Tâm Châu lánh mặt và không từ chức nên nhóm các nhà sư gốc miền Trung phải tách riêng để thành lập Giáo Hội Ấn Quang ! ( Xin xem Bạch Thư của Ḥa Thượng Thích Tâm Châu xuất bản năm 1993)

 

Trở lại với tiêu đề của bài viết này, chúng ta hăy xem lại các định nghĩa của THỬ, THÁCH và THỬ THÁCH  để biết thêm một số diễn tŕnh hoạt động của nhà sư Thích Trí Quang mà ông Liên Thành không đề cập trong quyển sách BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG. Cá nhân tôi nghĩ là ông Liên Thành chưa được biết rơ (và lẽ dĩ nhiên là nhóm bênh vực cho các nhà sư B́nh Trị Thiên hoạt động có lợi cho Việt Cộng lại càng không biết ) .  

 

THỬ : động từ, có 3 định nghĩa

 

1/ Làm như thật, hoặc chỉ dùng một ít hay trong thời gian ngắn, để qua đó xác định tính chất, phẩm cách, đối chiếu với yêu cầu. Thí dụ : thi thử, nếm thử, hỏi thử…

2/ Dùng những biện pháp kỹ thuật, biện pháp tâm lư để phân tích xem xét đặc tính, thực chất của sự vật hoặc con người cần t́m hiểu. Thí dụ : thử vàng, thử máu, thử sức, thử ḷng…

3/ Làm một việc nào đó để xem kết quả ra sao, may ra có thể được. Thí dụ : thử nhớ lại, thử hỏi…  

 

THÁCH : động từ, có 2 định nghĩa

 

1) Nói kích nhằm làm cho người khác dám làm một việc ǵ đó có tính chất đương đầu hoặc thi tài với ḿnh. Thí dụ : thách đấu gươm, thách đấu súng…

2) Nêu lên để yêu cầu giá, mức cao hơn b́nh thường.

 

THỬ THÁCH : danh từ, đặt vào t́nh trạng khó khăn, nguy hiểm để qua đó thấy rơ tinh thần , khả năng của con người.

Từ năm 1961, khi lên nắm chính quyền tại Hoa Kỳ, chính quyền Kennedy đă bị Hồ chí Minh và Cộng Sản Quốc Tế lừa bịp nên đă có một chính lược sai lầm về chiến cuộc tại Việt Nam. Mao Trạch Đông và Lâm Bưu rất cay đắng về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại bán đảo Triều Tiên, v́ Bắc Hàn đă dùng chiến tranh quy ước để xâm lăng Nam Hàn, Hoa Kỳ có lư do chính đáng để đem quân can thiệp dưới ngọn cờ của Liên Hiệp Quốc đă đẩy lui quân Bắc Hàn lùi qua sông Áp Lục, sau đó Mao gửi thêm 1 triệu chí nguyện quân Trung Cộng do Thống Chế Bành Đức Hoài chỉ huy, mà cũng không đẩy lui được quân đội Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ lănh đạo ra khỏi Hàn Quốc. Mặc dù Hoa Kỳ không sử dụng vơ khí nguyên tử, nhưng chiến thuật “nhân hải” (biển người) của Mao Trạch Đông và Lâm Bưu cũng chịu không nổi với hỏa lực quy ước của quân lực Hoa Kỳ.

Do đó, theo chỉ thị của Trung Cộng, Hồ chí Minh và CSBV mới thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa nhưng khoác dưới vỏ bọc “chiến tranh nổi dậy”. V́ tưởng Cộng Sản Bắc Việt không dám xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa (như Bắc Hàn đă xâm lăng Nam Hàn) nên Tổng Thống Kennedy và ban tham mưu chính trị của ông quan niệm rằng phải dân chủ hóa Việt Nam Cộng Ḥa như Mỹ th́ “chiến tranh nổi dậy” sẽ không c̣n chỗ đứng. Những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa thời 1961-1962 cũng rất ít người biết tại sao người Mỹ lại khai sinh ra cái gọi là “chiến tranh chống nổi dậy”. Sự mâu thuẫn giữa chính quyền Kennedy và chính quyền Ngô Đ́nh Diệm ngày càng lớn, đưa đến việc Hoa Kỳ muốn thay thế ông Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu. Lư do gần nhất mà người Mỹ có thể “bứng” anh em ông Diệm – Nhu ra khỏi chính trường là tạo ra khủng hoảng Phật Giáo năm 1963, và cũng v́ cách xử lư vụng về của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm nên chế độ của ông bị đảo chánh và ngay bản thân 2 ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu cũng bị sát hại.

Nhà sư Thích Trí Quang lại tự đánh giá quá cao về vai tṛ của Phật giáo (và của cá nhân ông ta)  trong vụ chính biến 1963 nên ông ta đă có những quyết định chủ quan sai lầm trong việc tranh thủ quyền lực chính trị của Việt Nam Cộng Ḥa giai đoạn sau 01 tháng 11 năm 1963 đến 30 tháng 4 năm 1975.

Nhà sư Thích Trí Quang đă THỬ lật đổ nhiều chính phủ của VNCH thời 1964-1965 khi ông ta cho rằng mưu toan tái sinh Đảng Cần Lao hay hoặc ông ta cho rằng đó là chính phủ của Ngô Đ́nh Diệm mà không có Diệm, Thủ Tướng Trần Văn Hương là người muốn tách bạch chính trị và tôn giáo ra riêng biệt, bị Thích Trí Quang quậy phá (v́ các lănh tụ tôn giáo như Thích Trí Quang không được can thiệp vào sự lựa chọn người trong Nội Các Chính Phủ) phải từ chức

Giai đoạn chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Khánh là giai đoạn mà giáo dân Công Giáo và phật tử xuống đường đánh nhau đổ máu, một phần v́ tham vọng cá nhân của Trung Tướng Nguyễn Khánh (ông này lập Hiến Chương Vũng Tàu , và tự tôn xưng ḿnh là Chủ Tịch Việt Nam Cộng Ḥa – chắc là để muốn coi ḿnh ngang vai vế với Hồ chí Minh  đang là Chủ Tịch của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa), phần khác nhà sư Thích Trí Quang coi chính phủ Nguyễn Khánh là chính phủ của Diệm mà không có Diệm (v́ xưa kia, tướng Nguyễn Khánh là con nuôi của Tổng Thống Diệm và lại là người Công Giáo !)

Tuy chống đối Thủ Tướng Nguyễn Khánh,  nhà sư Thích Trí Quang đă áp lực chính phủ Nguyễn Khánh làm lợi cho ông ta một số việc :

1/ Xử tử được ông Ngô Đ́nh Cẩn – em trai của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, có thời được gọi là lănh chúa miền Trung. Đồng thời xử tử được ông Phan Quang Đông – một viên chức t́nh báo điều khiển màng lưới xâm nhập Bắc Việt, nhiệm vụ ông Phan Quang Đông không dính líu ăn nhập ǵ đến chuyện đàn áp Phật giáo ở Huế, cho nên không những ông Liên Thành kết tội  nhà sư Thích Trí Quang hoạt động cho Cộng Sản mà tất cả các giới chức t́nh báo và phản gián cũng đều có kết luận như vậy. Nên nhớ là vào năm 1964, ông Liên Thành vừa mới ra trường và chưa gia nhập lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia.

2/ Chính phủ của Thủ Tướng Nguyễn Khánh có Tổng Trưởng Nội Vụ là ông Hà Thúc Kư – một người Huế, Đảng Trưởng Đại Việt Cách Mạng Đảng. Ông Hà Thúc Kư vừa bị áp lực của nhà sư Thích Trí Quang vừa bị mua chuộc bằng tiền bạc, nên chính tay ông Hà Thúc  Kư đă kư giấy thả Đại Tá Lê Câu và Mười Hướng (về sau lên tới cấp bậc Trung Tướng ) – là 2 tay t́nh báo của CSBV xâm nhập phá hoại miền Nam. Hai người này bị bắt trước 1963 do cơ sở Mật Vụ Miền Trung của ông Dương Văn Hiếu lănh đạo.

Khi hay tin 2 lănh đạo quan trng của Việt Cộng được ông Tổng Trưởng Nội Vụ Hà Thúc Kư kư giấy thả ra, Thủ Tướng Nguyễn Khánh rất tức giận, ông Khánh có ư định đem ông Hà Thúc Kư ra ṭa truy tố về tội phản quốc. Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng lúc bấy giờ là Luật Sư Nghiêm Xuân Hồng – một thủ lănh của Duy Dân Quốc Dân Đảng, mới can ngăn Thủ Tướng Nguyễn Khánh và dàn xếp để ông Hà Thúc Kư nạp đơn xin từ chức.

Ngay sau khi ông Hà Thúc Kư rời chức vụ, ông Nguyễn Ḥa Hiệp – Kỳ Bộ Trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng, nguyên Sư Trưởng Đệ Tam Sư Đoàn Quốc Dân Đảng thời kỳ 1945-1946 lên thay thế.

Khi viết ra những sự kiện này, tôi dư biết một số lớn những đảng viên của Đại Việt Cách Mạng Đảng phản đối cho là tôi bịa đặt vu oan cho thần tượng Đại Lăo Đồng Chí Đảng Trưởng Hà Thúc Kư, nhưng tôi chỉ nêu ra đây một số chi tiết mà các quư vị đảng viên đảng Đại Việt có thể kiểm chứng : khi ông Hà Thúc Kư làm Tổng Trưởng Nội Vụ, 2 người phụ tá của ông là Luật Sư Phạm Nam Sách và giáo sư Nguyễn văn Canh. Luật Sư Phạm Nam Sách sống ở Chula Vista một thành phố kề cận San Diego, Luật Sư Phạm Nam sách qua đời từ năm 2000 v́ bệnh tim. Giáo Sư  Nguyễn Văn Canh hiện cư ngụ tại thành phố Palo Alto, giáo sư Nguyễn văn Canh có thể nói hay không nói lư do ông Hà Thúc Kư từ chức Tổng Trưởng Nội Vụ mặc dù ông biết rơ nguyên nhân, chuyện ông không nói cũng dễ hiểu và thông cảm cho ông. Luật Sư Nghiêm Xuân Hồng sống ở Nam Cali và cũng qua đời trước cả Luật Sư Phạm Nam Sách. Nhưng cựu Thủ Tướng Nguyễn Khánh th́ vẫn c̣n sống, nếu tôi nhớ không lầm th́ tướng Nguyễn Khánh cư ngụ tại Sacramento.

Ông Hà Thúc Kư th́ mới qua đời hồi năm ngoái 2009, đọc tiểu sử th́ thấy nói là ông từ chức v́ bất đồng quan điểm với Thủ Tướng Nguyễn Khánh, nhưng nếu có đảng viên hậu duệ hay người ngoài Đảng Đại Việt cắc cớ hỏi tại sao bất đồng quan điểm mà lại nhận lời làm Tổng Trưởng Nội Vụ và xin cho biết ông Hà Thúc Kư bất đồng quan điểm với Thủ Tướng Nguyễn Khánh về vấn đề ǵ ? Có lẽ người viết tiểu sử của ông Hà Thúc Kư sẽ trả lời là họ không biết !!! (ngu hay sao mà nói ).

Quư vị cũng có thể kiểm chứng sự việc ông Hà Thúc Kư thả 2 thủ lănh t́nh báo của Việt Cộng qua 2 nhân vật đă từng làm việc trong ngành An Ninh và Phản Gián hiện c̣n sống, đó là cựu Trung Tá Nguyễn Hữu Hải – nguyên trưởng E Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia Quân Khu 2 và cựu Trung Tá Nguyễn Mâu – nguyên Phụ Tá Đặc Biệt của Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Cựu Trung Tá Nguyễn Hữu Hải hiện sống ở Nam Cali, c̣n cựu Trung Tá Nguyễn Mâu hiện đang sống tại San Jose.

Đại Tá Phạm Ngọc Thảo là nhân vật chủ chốt tổ chức và điều động các lực lượng quân sự để lật đổ chính phủ Nguyễn Khánh, các nhân vật nổi danh một thời như Trung Tướng Dương Văn Đức, Thiếu Tướng Lâm Văn Phát, Đại Tá Bùi Dinh, Đại Tá Huỳnh Văn Tồn, Đại Tá Nhan Minh Trang, Trung Tá Lê Hoàng Thao…đă tham dự những cuộc binh biến có mỹ danh là “biểu dương lực lượng” v́ “thất bại đảo chánh”, nhưng mọi người đều hiểu họ không phải là người chủ chốt. Cho nên họ bị buộc phải rời quân ngũ về “đuổi gà cho vợ “, có người xoay qua đi thầu cho Mỹ, có người thất chí chửi đời, thỉnh thoảng vác cu ra đái bậy trước Dinh Độc Lập như Trung Tướng Dương Văn Đức mà  2  ông Thiệu -  Kỳ không nỡ trừng phạt.

Về cái chết của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, một nhân chứng có biết về cái chết này là cựu Phó Tỉnh Trưởng Biên Ḥa, ông Nguyễn Văn Nhơn – khóa 6 Đốc Sự Hành Chánh, hiện cư ngụ tại thành phố San Jose cho biết : vào năm 1965, Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị An Ninh Quân Đội bắt tại Hố Nai rồi được giải giao về Ṭa Tỉnh Trưởng Biên Ḥa, trên mặt chỉ có một vết xước có máu chứ không bị thương tích ǵ. Tỉnh Trưởng Biên Ḥa thời bấy giờ là Đại tá Trần Văn Hai của Nhảy Dù  (chứ không phải là Đại tá Trần Văn Hai của Biệt Động Quân, về sau lên làm Tổng Giám Đốc CSQG rồi làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7, tuẫn tiết vào ngày 30-4-75) báo cáo trực tiếp cho Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan – Giám Đốc Nha  An Ninh Quân Đội thời bấy giờ. Đại Tá Loan nói sẽ đem trực thăng xuống bốc Đại Tá Thảo về Sài G̣n.. Trong khi chờ đợi trực thăng, Đại Tá Trần Văn Hai đứng tṛ chuyện tự nhiên với Đại tá Phạm Ngọc Thảo như 2 người bạn lâu ngày gặp nhau chứ không phải như một cai tù chờ chuyển giao một phạm nhân, v́ Đại tá Phạm Ngọc Thảo vẫn mặc quân phục và không bị c̣ng tay ǵ cả.  

Chừng 20 phút sau, một chiếc trực thăng H-34 đáp xuống băi đáp, từ xa một người đi vào, đến gần th́ đó là một Trung Úy đến chào 2 vị Đại Tá và mời Đại tá Phạm Ngọc Thảo lên máy bay. Đại Tá Trần Văn Hai đứng tại sân nh́n cho đến khi Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bước hẳn vào bên trong và chiếc trực thăng cất cánh, rồi quay lại nói với ông Nguyễn Văn Nhơn :“Thằng Loan nó ngồi trong máy bay v́ nó mới nói với tôi đích thân nó sẽ bay lên Biên Ḥa, chắc là nó lánh mặt để tránh cho tôi tŕnh trạng khó xử với Đại Tá Phạm Ngọc Thảo”.

Cả 2 người quay vào văn pḥng làm việc tiếp tục, chừng 30 phút sau, cả ông Nguyễn Văn Nhơn và Đại Tá Trần Văn Hai đều được nghe loan báo trên đài phát thanh Sài G̣n là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo đă qua đời v́ mất quá nhiều máu trong lúc bị thương khi bị bắt. Đại Tá Trần Văn Hai nói nhỏ với ông Nguyễn Văn Nhơn trong pḥng riêng :“Vậy là thằng Loan thủ tiêu Đại Tá Thảo ngay trên không trung để trừ hậu họa, chớ hồi nẫy trước khi lên máy bay, ông Thảo có bị thương ǵ đâu ”. Cái chết của Đại Tá Phạm Ngọc Thảo cũng không có y chứng của bác sỹ luật y (Việt Cộng gọi là bác sĩ pháp y) nên không biết Đại Tá Phạm Ngọc Thảo bị bắn bằng loại vũ khí ǵ và bị bắn vào chỗ nào trên cơ thể. Sau đó, có tin vịt trời được tung ra là Thiếu Tá Hùng Sùi “bóp dái” Phạm Ngọc Thảo đến chết đề tra hỏi tin tức. Đây là loại tin tức khó tin cậy mà không có thực, được tung ra để đánh lạc hướng những nhà báo ṭ ṃ.

Cùng lúc với sự xuống đường chống đối chính phủ Nguyễn Khánh, một pḥng trào có danh xưng sặc mùi Việt Cộng được các nhân sĩ Phật Giáo thành lập ở Huế, đó là  Phong Trào Nhân Dân Cứu Quốc do bác sĩ Lê Khắc Quyến và kỹ sư Tôn Thất Hanh đứng đầu. Sau khi chính phủ Nguyễn Khánh đổ vỡ , chính quyền được trao lại cho các chính khách dân sự trong đó Kỹ Sư Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng, Thủ Tướng là Bác Sĩ Phan Huy Quát – một lănh tụ của Đại Việt Quan Lại (gốc miền Bắc). Một cơ chế có vai tṛ tương tự như Quốc Hội có danh xưng là Thượng Hội Đồng Quốc Gia nằm ngang hàng với Quốc Trưởng và Thủ Tướng Chính Phủ, rất nhiều tay chân của nhà sư Trí Quang đă nằm trong Thượng Hội Đồng Quốc Gia này.

Trong chính phủ của Thủ Tướng Phan Huy Quát, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Tổng Trưởng Quốc Pḥng và Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia là Trung Tá Phạm Văn Liễu (về sau vinh thăng Đại Tá ). Thời điểm này, quân Cộng Sản Bắc Việt đă xâm nhập vào Nam rất đông, thành lập các sư đoàn chuyên nghiệp và mở các trận đánh vận động chiến chiếm cứ nhiều cứ điểm quan trọng. Dân Sài G̣n biết đến các chiến địa Đức Cơ, Đồng Xoài, B́nh Giả, Ben Hét, Plei Me,  Plei Ku, Toumorong,  Kontum, Ba Gia, Thạch Trụ, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh…trong thời điểm này v́ nơi đây đă xảy ra những trận đánh đẫm máu, số thương vong rất lớn về phía quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Nhận thấy, cần phải có sự tham chiến trực tiếp của quân đội Hoa Kỳ để chận đứng đà chiến thắng của Cộng  quân, Thủ Tướng Chính Phủ là Bác Sĩ Phan Huy Quát đă kư văn thư thỏa thuận cho quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng vào đầu năm 1965. Việc làm của Bác Sĩ Phan Huy Quát đă bị Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thượng Hội Đồng Quốc Gia phản đối v́ họ cho rằng nếu quân đội Hoa Kỳ tham chiến trực tiếp th́ chính nghĩa  chống Cộng sẽ bị xuyên tạc và chủ quyền quốc gia sẽ bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ. Là người quốc gia đă từng đối đầu với Việt Cộng từ hồi 1949-1950, bác sĩ Phan Huy Quát cho rằng việc cấp bách tức thời là phải ngăn chận sự tiến quân của quân đội Bắc Việt trước đă, rồi nếu có bị lệ thuộc vào Hoa Kỳ cũng c̣n hơn là bị Cộng Sản khống chế rồi bị tiêu diệt.

Không thuyết phục được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và những ông trong Thượng Hội Đồng Quốc Gia tay chân của nhà sư Thích Trí Quang, nửa đêm ngày 18 tháng 6 năm 1965, bác sĩ Phan Huy Quát gọi điện thoại nói chuyện trực tiếp với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu quân đội chọn người ra nắm chính quyền v́ một ḿnh ông không thể điều hành được chính phủ trong khi đất nước sắp rơi vào tay quân Cộng Sản. Sau khi nhận được coup điện thoại của bác sĩ Phan Huy Quát, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu liền triệu tập khẩn cấp Hội Đồng Tướng Lănh họp ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu vào lúc rạng sáng ngày 19-6-1965, và ngay sáng ngày 19 tháng 6 năm 1965 , nội các chiến tranh dưới danh xưng Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch, các Tổng Trưởng được gọi là các Ủy Viên, các phó Thủ Tướng được gọi là Tổng Ủy Viên. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu được Hội Đồng Tướng Lănh bầu vào chức Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ không tổ chức đảo chánh để nắm binh quyền, cho nên từ ngày 19 tháng 6 năm 1967 trở về sau, chính phủ VNCH chọn ngày 19 tháng 6 hàng năm để Kỷ Niệm NGÀY QUÂN LỰC – là kỷ niệm ngày mà Quân Lực VNCH đứng ra nhận lănh trách nhiệm điều hành đất nước. Như vậy, những kẻ hiện nay bênh vực cho nhà sư Thích Trí Quang, cứ gọi bọn quân phiệt Thiệu - Kỳ là độc tài, là những kẻ không hề biết lịch sử một cách trung thực như nó đă diễn ra trong thực tế, mà bọn họ chỉ biết lịch sử qua sự tuyên truyền khích động của nhà sư Thích Trí Quang và đồng bọn…

Bác Sĩ Phan Huy Quát khi trao quyền lại cho quân đội, ông không hề bàn thảo với Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, việc làm của Bác Sĩ Phan Huy Quát làm Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và các ông  trong Thượng Hội Đồng Quốc Gia hụt hẫng , v́ không c̣n Thủ Tướng Phan Huy Quát cũng có nghĩa là không c̣n Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và dĩ nhiên chẳng c̣n Thượng Hội Đồng Quốc Gia !!  Như thế, người phá vỡ âm mưu tranh đoạt quyền lực chính trị của nhà sư Thích Trí Quang là Bác Sĩ Phan Huy Quát chứ không phải là các tướng Thiệu – Kỳ như nhóm Phật Giáo Ấn Quang hay la lối om x̣m.

Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Chính Phủ) vẫn duy tŕ Đại tá Phạm Văn Liễu làm Tổng Giám Đốc CSQG. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi làm Tư Lệnh Vùng I ( bao gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngăi) nhưng tướng Nguyễn Chánh Thi không muốn quân đội Hoa Kỳ đóng quân ở vùng giới tuyến v́ ông sợ chiến cuộc sẽ leo thang đến thành phố Huế, khổ nỗi tướng Nguyễn Chánh Thi lại không có khả năng  ngăn chận các đại đơn vị cùng vũ khí nặng của quân Cộng Sản Bắc Việt đang xâm nhập vào vùng phi quân sự (về sau chiến tranh quá ác liệt nên không c̣n ai gọi vùng này là vùng phi quân sự, nữa mà gọi là VÙNG HỎA TUYẾN ! ) và sau lưng dăy Trường Sơn qua ngả A-Sao, A-Lưới. Đó là lư do ông bị chính quyền Sài G̣n cách chức Tư Lệnh Quân Đoàn I và Tư Lệnh Quân Khu I.

Nhóm các nhà sư B́nh Trị Thiên lợi dụng việc này để đ̣i hỏi duy tŕ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi ở chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Tư Lệnh Quân Khu I. Nhà sư Trí Quang đă THÁCH chính quyền Sài G̣n không được cử các tướng khác ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, một người Công Giáo từ Sài G̣n ra Đà Nẵng nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I. Từ Đà Nẵng, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao dùng trực thăng bay ra Huế, phi cơ của ông đáp ngay tại sân cột cờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao bước vào pḥng họp  của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh để nghe thuyết tŕnh. Thời gian ngắn sau đó, tướng Cao bước ra khỏi Bộ Tư Lệnh và lên phi cơ để bay trở lại Đà Nẵng. Khi phi cơ của tướng Cao vừa lên cao cỡ 5-6 thước th́ Thiếu Úy Nguyễn Đại Thức đứng dưới đất rút súng lục bắn vào phi cơ đang bốc lên cao, xạ thủ đại liên của chiếc trực thăng chở Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao bắn hạ Thiếu Úy Nguyễn Đại Thức ngay tại sân cờ của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Tuy  Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao không hề hấn ǵ, nhưng nhà sư Thích Trí Quang đă làm cho tướng Cao quá sợ : khi về đến Đà Nẵng, tướng Cao nhảy vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 24 của quân đội Hoa Kỳ để xin tỵ nạn. Tướng Cao điện vào Bộ Tổng Tham Mưu Sài G̣n xin từ chức.

Khi thành phố Huế bắt đầu lộn xộn v́ tướng Nguyễn Chánh Thi bị băi nhiệm, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ yêu cầu  Đại Tá Phạm Văn Liễu – Tổng Giám Đốc CSQG ra lệnh cho Cảnh Sát Huế - Thừa Thiên văn hồi trật tự. Đại Tá Phạm Văn Liễu nói ông không thể làm được việc này v́ ông là đàn em tướng Nguyển Chánh Thi trong cuộc binh biến ngày 11 tháng 11 năm 1960, rồi cả 2 cùng chạy sang Cambodia.

Đại tá Phạm Văn Liễu xin từ chức và Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương chỉ định Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, thời điểm 1966, đang là Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội, kiêm nhiệm luôn chức vụ Tổng Giám Đốc CSQG, thay thế Đại Tá Phạm Văn Liễu.

Bộ Tổng Tham Mưu cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân, một người Huế, phật tử, nguyên cựu Tư Lệnh Sư Đoàn I ra thay thế tướng Huỳnh Văn Cao. Tuy nhiên, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân cũng không dám “đụng” tới mấy ông “thầy chùa”, ông cứ đóng tại Đà Nẵng và không dám ra Huế để dẹp loạn trong khi t́nh ngoài Huế càng ngày càng tồi tệ (Xin xem lại quyển BIẾN ĐỘNG MIỀN TRUNG của tác giả Liên Thành ). Rồi tướng Nguyễn Văn Chuân cũng bay vào Sài G̣n xin từ nhiệm. Trung Tướng Tôn Thất Đính t́nh nguyện xin ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn I, tướng Đính hứa với Thiếu Tướng Kỳ là ông lấy uy tín cá nhân để dàn xếp ổn thỏa. Tưởng sao, tướng Đính ra Huế được vài hôm, th́ ông theo phe của Trí Quang luôn.

Hội Đồng Tướng Lănh nhóm họp liên miên, nhưng không một ông tướng nào muốn ra vùng I làm Tư Lệnh cả. Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương rất phân vân không biết phải làm sao. Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan không có họp Hội Đồng Tướng Lănh v́ ông không phải là tướng. Nhưng khi tướng Kỳ kể lại sự việc trong Hội Đồng Tướng Lănh, Đại Tá Loan chỉ nói với tướng Kỳ một câu ngắn ngủi : “Để tao!”. Và ông Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương kư Sự Vụ Lệnh bổ  nhiệm Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan làm Tư Lệnh Dẹp Loạn Miền Trung.

 

Tôi bỏ qua giai đoạn Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan b́nh định Đặc Khu Quảng Đà v́ công tác chính của Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan là b́nh định t́nh h́nh đang hỗn loạn tại thành phố Huế. Trước khi Cảnh Sát và Quân Đội từ Sài G̣n ra Huế dẹp loạn, các thủ lănh sinh viên đấu tranh lên diễn đàn tại các giảng đường Đại Học đă THÁCH THỨC chính quyền Thiệu – Kỳ sẽ chịu hậu quả nghiêm trọng, nếu đem quân ra Huế, tôi dự đoán là nhà sư Thích Trí Quang đă mớm lời cho họ . Bọn này theo lệnh của Thích Trí Quang đă thành lập những đoàn thể có tên nghe rất “kêu” như là “ Đoàn Phật Tử quyết tử để bảo vệ Đạo pháp “ , “ Chiến Đoàn Nguyễn Đại Thức “…v…v… Tuy nhiên theo như ông Liên Thành mô tả th́ khi hay tin Cảnh Sát Dă Chiến đem bàn thờ vào lề đường để có chỗ thông suốt cho Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân “hành quân” th́ các lănh tụ này trốn vào bưng hết cả, Cảnh Sát chỉ bắt được “tép riu” mà thôi.

 

Mặc dù không bắt được các tay sách động sinh viên hoạt động dưới trướng của nhà sư Thích Trí Quang, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đă bắt được “con cá lớn” Thích Trí Quang. Theo như ông Liên Thành mô tả, Thích Trí Quang tự nhiên vác xác ra tuyệt thực tại Ṭa Đại Biểu Chính Phủ nên Đại Tá Loan ra tay bắt giữ Thích Trí Quang ngay lập tức v́ Ṭa Đại Biểu là cơ sở của chính quyền. Có lẽ do sự chủ quan của nhà sư Thích Trí Quang đánh giá thấp con người của Đại tá Loan, v́ các tướng như Chuẩn Tướng Phan Xuân Nhuận – Tư Lệnh Sư Đoàn I,  Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Trung Tướng Tôn Thất Đính…đều “sợ” nhà sư Thích Trí Quang. Nhưng nhà sư Thích Trí Quang chỉ biết ta mà không biết người, đâu có ngờ một người cấp bậc nhỏ mà lại dám “chơi liều” trong khi rất nhiều ông tướng không dám hành động ǵ cả. Nếu nhà sư Thích Trí Quang cứ ngồi trong chùa Từ Đàm không đi ra ngoài th́ muốn bắt nhà sư Thích Trí Quang cũng không phải là chuyện dễ dàng và nhanh chóng đến như vậy .

Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan dùng trực thăng đem nhà sư Thích Trí Quang từ Huế bay vào Đà Nẵng, khi bay qua đèo Hải Vân, Đại Tá Loan chỉ mặt nhà sư Thích Trí Quang mà nói (tôi lập lại nguyên văn) : “ ĐM. mày Trí Quang, mày là thằng Việt Cộng, tao đạp mày xuống biển bây giờ ”. Nhà sư Thích Trí Quang chới với v́ không ngờ thằng cha Đại Tá bắc kỳ nói giọng lai Huế  này đă “chơi liều” bắt giữ ḿnh mà nay lại dám” chơi bạo và chơi dữ” nữa là thủ tiêu ḿnh bằng cách đạp ḿnh xuống biển, nhưng ánh mắt tràn đầy sát khí của Đại Tá Loan mới làm Thích Trí Quang hoảng sợ chứ ông ta không sợ v́ lời nói. Nhà sư Thích Trí Quang quỳ xuống sàn phi cơ lạy Đại Tá Loan lia lịa, cùng lúc đó một số vị Trung Tá và Thiếu Tá trong đoàn tùy tùng của Đại Tá Loan đứng ra can ngăn, Đại tá Loan mới trở về chỗ ngồi. Khi tới Đà Nẵng, nhà sư Thích Trí Quang được chuyển lên một phi cơ vận tải C-47 của KQVN bay vào Sài G̣n để rồi bị nhốt tại Nha An Ninh Quân Đội (góc đường Hồng Thập Tự và Nguyễn Bỉnh Khiêm) chứ không bị nhốt tại Tổng Nha Cảnh Sát đường Vơ Tánh.

 

Chắc chắn sẽ có người hỏi,cỡ tuổi nhỏ như tôi làm sao biết chuyện này ?. Xin trả lời ngay là tôi may mắn được quen biết với Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu, vị dân biểu Quốc Hội Lập Hiến năm 1966-1967, sau này là dân biểu Quốc Hội Lập Pháp đơn vị Long Xuyên – An Giang nhiệm kỳ 1971-1975. Thời điểm 1965- 1966, Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu đang làm Luật Sư Cố Vấn cho ông Trần Quốc Bửu – Chủ Tịch Tổng Công Đoàn Lao Công Việt Nam. Thân phụ Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan là một viên chức hành chánh làm việc trong Tổng Công Đoàn Lao Công Việt Nam, ông đă kể những việc làm của Đại tá Loan cho ông Trần Quốc Bửu và Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu biết. Vào năm 1993, tôi gặp lại cựu Trung Tá Nguyễn Mâu tại San José và đem câu chuyện này hỏi  cựu Trung Tá Nguyễn Mâu, cựu Trung Tá Nguyễn Mâu xác minh được 2 việc :

1. Thời điểm biến loạn miền Trung năm 1966, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ c̣n ngần ngại chưa dám dùng biện pháp mạnh, chính Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan t́nh nguyện ra miền Trung để dẹp loạn trong khi ông mới chỉ làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát một thời gian ngắn (sau khi Đại tá Phạm Văn Liễu từ chức )

2. Chuyện Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đ̣i đạp nhà sư Thích Trí Quang xuống biển là chuyện có thật chứ không phải là chuyện đóng kịch để hù dọa. ( nhà sư Thích Trí Quang không phải là con cừu non nên không thể hù dọa được) .

Phát biểu về chuyện tha mạng nhà sư Thích Trí Quang, Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu cho rằng : “Đại tá Nguyễn Ngọc  Loan đánh giá nhà sư Thích Trí Quang là một người gây rối nhưng chưa đạt đến mức độ  tối nguy hiểm   và  có thể kiểm soát được. Nếu nhà sư Thích Trí Quang được Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đánh giá là phần tử tối nguy hiểm và không thể kiểm soát được (như Đại tá Phạm Ngọc Thảo chả hạn) th́ ông đă trừ khử diệt mối họa như ông đă từng làm với Đại Tá Phạm Ngọc Thảo rồi”.  Ông Trần Quốc Bửu cũng đồng t́nh với nhận định này.

 

Trường hợp nhà sư Thích Trí Quang bị Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan bắt giữ làm tôi liên tưởng đến Saddam Hussein hồi năm 2003 : trong khi đại sứ của Irak tại Liên Hiệp Quốc khuyến cáo ông Saddam phải nên nhượng bộ những yêu sách của chính phủ Bush để tránh chiến tranh th́ Saddam vẫn cứ ngang ngược không chấp nhận những yêu sách của chính phủ Mỹ. Saddam hoàn toàn tin tưởng vào sự phủ quyết của 3 nước Pháp – Nga – Trung Hoa (chỉ cần 1 cũng đủ, huống chi đồng minh của Saddam có tới 3 !!!) , nhưng Saddam không hỏi 3 ông bạn đồng minh có quyền phủ quyết một chuyện rất quan trọng là nếu Hoa Kỳ ngang nhiên tấn công Irak th́ 3 nước Nga – Pháp - Trung Hoa có trợ giúp viện binh ngăn cản Hoa Kỳ hay không ? Nếu có hỏi, tôi dự đoán 3 ông bạn đồng minh có quyền phủ quyết chắc chắn sẽ trả lời là không, và Irak phải tự lo liệu lấy v́ Hoa Kỳ đâu có xâm lăng nước Nga, nước Pháp, nước Trung Hoa th́ làm sao binh lực của 3 nước này tiến đánh Hoa Kỳ được !  V́ không hỏi, nên khi Hoa Kỳ “bypass” không cần họp bàn ở Hội Đồng Bảo An LHQ mà vẫn đem 180,000 binh sĩ tấn công Irak th́ ông Saddam đành phải…chịu “chết”. Nhà sư Thích Trí Quang cũng vậy, v́ không THỬ đặt ḿnh vào trong trường hợp xấu nhất, nên khi bị rơi vào t́nh trạng xấu nhất, ông không biết phải hành xử thế nào cho hợp thời hợp cách. Kết quả là ông bị khống chế và vô hiệu hóa các hoạt động chống đối chính phủ VNCH.   

 

Quan năm Trần Văn Thưởng có hỏi ông Liên Thành là tài cán ǵ mà mới có Trung Úy mà đă làm đến Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, phải chăng dựa hơi vào Đảng Đại Việt để tranh đoạt và duy tŕ quyền lực ? Tôi không biết ông Liên Thành có trả lời quan năm Trần văn Thưởng hay không, nhưng tôi đoán là không v́ đây là một câu hỏi ngớ ngẩn và ngu xuẩn (imbecile and stupid question) . Ngớ ngẩn và ngu xuẩn v́ quan năm Trần văn Thưởng là cái thá ǵ mà dám đặt câu hỏi như vậy, những người có thẩm quyền và tư cách để đặt câu hỏi như vậy là các vị chỉ huy trưởng cao cấp nhất trong ngành Cảnh Sát như Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, người kế nhiệm là Đại tá Trần Văn Hai, kế tiếp là Thiếu Tướng Trần Thanh Phong, rồi sau đó là Thiếu Tướng Nguyễn Khắc B́nh th́ lại chẳng bao giờ đặt câu hỏi , dễ hiểu là v́ nếu ông Liên Thành không có khả năng cầm đầu ngành Cảnh Sát tỉnh Thừa Thiên th́ các “xếp lớn “ trong ngành Cảnh Sát cách chức ông Liên Thành ngay chứ cần ǵ phải lèm bèm đặt câu hỏi vớ vẩn như vậy !!   

 

Trong khi đi học tại Trường Chính Trị Kinh Doanh Dalat, trong môn học có tên là Động Thái Tổ Chức (Behavior Organization) , giáo sư Phó Bá Long có đưa ra một thí nghiệm sinh học như sau : người ta cho 2 con côn trùng là con ong và con ruồi vào một b́nh thủy tinh trong suốt và to lớn nhưng miệng b́nh th́ nhỏ xíu và dài gấp 5  lần b́nh thường tính theo tỷ lệ, rồi dốc ngược b́nh thủy tinh này lại – nghĩa là miệng b́nh nhỏ xíu và dài th́ xuống dưới và đáy b́nh kín mít th́ ở phía trên. Trong cả ngàn lần thí nghiệm th́ con ruồi luôn luôn ḅ ra trước và con ong th́ vẫn bay hoài trong b́nh không làm sao ra được. Giáo sư Phó Bá Long nói : con ong có khả năng “quang hướng động” cho nên nó bay theo hướng mặt trời để đi t́m phấn hoa đem về tổ để tạo “mật”, trong khi nó không biết rằng giữa nó và nguồn sáng bây giờ có một bức vách thủy tinh ngăn trở mà nó không vượt qua được. Con ruồi cũng bay về phía nguồn sáng, nhưng thấy vài lần đụng vách thủy tinh không ra ngoài được, con ruồi ḅ lần lần ra phía miệng b́nh chứ không bay nữa, và kết quả là con ruồi luôn luôn ra ngoài b́nh thủy tinh trước. Giáo sư Phó Bá Long kết luận : con ong v́ quá tự tin và cố chấp vào khả năng thiên khiếu của ḿnh nên cứ ở măi trong b́nh, c̣n con ruồi sau vài lần trở ngại nó đă biết THỬ phương cách khác nên đă giải quyết được nhu cầu mà nó cần.

 

Nhà sư Thích Trí Quang bị thất bại trong biến động miền Trung năm 1966 có lẽ v́ 4 lư do sau đây :   

 

1/ Ông xem thường Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, v́ so với các ông Tướng khác, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan không có chiến tích ǵ ghê gớm cả, lại càng không có thành tích chính trị nào đáng kể. Trường hợp này cũng giống như Quan Vân Trường coi thường Lục Tốn là một thằng con nít, cho nên Quan Vân Trường không pḥng bị cẩn thận, bị Lục Tốn đánh cho liểng xiểng phải bỏ mạng tại mặt trận Kinh Châu thời Tam Quốc Chí bên Tàu – thế kỷ thứ 3 sau Thiên Chúa Giáng Sinh.

2/ Sự thất bại của các tướng Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Văn Chuân, Tôn Thất Đính…trong việc ổn định t́nh h́nh tại miền Trung vào năm 1966 khiến Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan phải THỬ một phương cách khác để giải quyết vấn đề (như trường hợp thí nghiệm sinh học mà tôi vừa nêu ở đoạn trên), và ông đă giải quyết được nhu cầu mà chính quyền Sài G̣n mong muốn.

3/ Nếu ai đă đọc Tam Quốc Chí của La Quán Trung th́ đều thích thú khi thấy Khổng Minh Gia Cát Lượng trong tay chỉ có vài trăm quân, lại bị Tư Mă Ư vây hăm trong thành, nhưng Khổng Minh cho mở cửa thành lính chầu 2 bên , ông ngồi giữa cười cười mà Tư Mă Ư không dám đột nhập, sau cùng phải rút quân. Kim Thánh Thán, một nhà b́nh luận văn học đời nhà Thanh, phê rằng v́ Khổng Minh biết rơ Tư Mă Ư là người đa mưu cẩn thận nên mới mở cửa thành; chứ nếu tướng vây thành lúc bấy giờ không phải là Tư Mă Ư mà là Hứa Chử hay Trương Phi th́ không xong ( Tư Mă Ư là tướng rất cẩn thận, ông ta sợ Khổng Minh phục binh nên không dám vào, chứ ông ta đâu biết rằng Khổng Minh lúc bấy giờ chỉ có vài trăm quân. C̣n Hứa Chử với Trương Phi th́ khỏi cần, có biết phục binh tới vạn quân th́ 2 ông tướng này cũng không “care” ) . Nhà sư Thích Trí Quang thất bại v́ sử dụng kế của Khổng Minh đối phó với Tư Mă Ư đem ra xài lại với Hứa Chử và Trương Phi !!!

4/ Nhà sư Thích Trí Quang đánh giá sai phương cách ứng xử của Tư Lệnh Dẹp Loạn Miền Trung, ông ta nghĩ rằng Cảnh Sát và Quân Đội Sài G̣n (nhất là Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân ) sẽ đạp đổ bàn thờ Phật và nếu điều này xảy ra quần chúng sẽ xuống đường c̣n hơn hồi 1963 chống lại chính quyền Ngô Đ́nh Diệm nữa. Nhưng Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đâu có ngu tới mức như vậy. Theo như ông Liên Thành mô tả, Cảnh Sát Dă Chiến, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân chỉ bưng bàn thờ di chuyển vào lề đường để có chỗ cho quân xa, xe cộ di chuyển thôi chứ không hề có bất cứ bàn thờ Phật nào bị đạp đổ hết cả. Kết luận : “ Làm tướng mà đánh giá sai phản ứng của địch quân th́ đánh trăm trận phải thua cả trăm trận !!!”  (Chú thich của người viết bài :  Tôi đảo ngược câu nói của Tôn Tử “Biết ḿnh, biết người, trăm trận đều thắng” chứ thật ra đă làm tướng mà nếu ước lượng sai phản ứng của địch quân th́ ngay trong trận đầu đă bị chết hay bị bắt làm tù binh rồi, không có tới trận thứ hai để mà đánh, nói ǵ đến trận chiến thứ một trăm  !!! )

Tháng 6 năm 1978, tôi từ Sài G̣n ra Quảng Trị, mưu tính dùng đường 9 Nam Lào theo bọn con buôn đi Savanakhet để rồi vượt sông Mékong qua Thái Lan. Dự tính không thành v́ cả nhóm 6 người bị bắt ngay tại Khe Sanh, bị giải giao về nhà lao Thừa Phủ tại Huế và tháng 8 năm 1978 bị chuyển lên Trại B́nh Điền để “lao động cải tạo”. Tháng 2/ 1979, quân Trung Cộng tràn qua 6 tỉnh biên giới phía Bắc để dạy cho Việt Cộng một bài học (theo cách nói của Đặng Tiểu B́nh), nhận thấy sắp có một cuộc chôn sống các “tù nhân cải tạo” như hồi Tết Mậu Thân – nếu quân Trung Cộng đang trên đường tiến vào Hà Nội, tôi và một người bạn người miền Nam lại trốn trại nhưng cả 2 đều bị bắt lại và bị nhốt trong nhà kỷ luật trong 2 năm. Tới tháng 5/1979, v́ có gây gổ xích mích với công an quản giáo đội mộc, anh Hồ Minh Lữ bị nhốt trong nhà kỷ luật một tuần lễ.

Trước khi bị nhốt trong nhà kỷ luật, tôi và anh Hồ Minh Lữ không hề quen biết nhau, anh Hồ Minh Lữ cho biết anh là cựu huynh trưởng “Gia Đ́nh Phật Tử” tại Huế và cũng là sĩ quan cấp bậc Thiếu Úy trong ngành Cảnh Sát thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên. Anh Lữ kể cho tôi nghe một kỷ niệm cay đắng về nhà sư Thích Trí Quang như sau : “ khoảng đầu năm 1973, tôi có dịp vào Sài G̣n để học tập về Hiệp Định Paris 1973 vừa mới kư kết, tôi ghé chùa Ấn Quang để thăm “ôn” Trí Quang (chú thích của người viết bài này : người Huế gọi người mà họ kính trọng bằng đặc ngữ “ ÔN ” ). Sau khi chào kính và hỏi thăm sức khỏe cũng như t́nh h́nh sinh hoạt ngoài Huế, “ôn” Trí Quang có đưa cho tôi một bức thư và bảo tôi đọc, đó là bức thư của Thượng Tọa Thích Tâm Châu gửi cho Thượng Tọa Thích Trí Quang . Ư chính của bức thư này là Thượng Tọa Tâm Châu kêu gọi Thượng Tọa Trí Quang hăy dẹp bỏ những tị hiềm và xích mích trong nội bộ Phật Giáo trước kia, để cùng nhau hợp tác đối phó với Cộng Sản sau khi Hiệp Định Paris được kư kết…. Đọc xong, tôi trả lại bức thư và hỏi “ôn” Trí Quang : “ư kiến của ôn như thế nào ? ”.

 

Nh́n thẳng vào mắt tôi, “ôn” Trí Quang gằn giọng , nói : “ Thằng Tâm Châu phải đem đầu Thiệu – Kỳ đến đây th́ mới nói chuyện hợp tác ”.  

Anh Hồ Minh Lữ kể tiếp : “ Nghe đến câu nói của “ôn” Trí Quang như vậy, tôi hỡi ơi, tôi không ngờ là một người tu hành mà lại nói được một câu trần tục đầy tính sân si đến cùng cực như vậy. Ôn Trí Quang, một người thầy mà tôi tôn sùng kính trọng biết bao, trước đây  tôi coi như một thần tượng th́ nay đă sụp đổ hoàn toàn. Là một phật tử tại Huế, tôi rất có thiên kiến không đúng về Thượng Tọa Thích Tâm Châu như dư luận phật tử tại Huế đă và đang có, chẳng hạn : ông Tâm Châu là tay sai của Thiệu – Kỳ chống phá Giáo Hội Ấn Quang, ông Tâm Châu ăn tiền của Mỹ không đứng về phe Phật Giáo Dân Tộc..v…v.

Nhưng chính mắt tôi đă được đọc thư của Thượng Tọa Tâm Châu chứ không phải nghe người khác nói lại,, tôi nhận ra rằng chính Thượng Tọa Tâm Châu mới là người quốc gia chân chính, c̣n ông thầy của ḿnh th́ chẳng ra ǵ. Tuy vậy, tôi không nói ǵ với “ôn” Trí Quang về sự suy nghĩ của tôi, nhưng xin cáo từ để c̣n phải nghỉ ngơi mai c̣n đi họp công vụ. Tôi lặng lẽ ra về nhưng ḷng tự hứa là không bao giờ gặp lại ôn Trí Quang nữa”.

Sau khi ra khỏi nhà kỷ luật vào tháng 6 năm 1981, anh Hồ Minh Lữ đă được trả về với gia đ́nh trước đó vài tháng nên tôi không gặp lại anh. Măi đến tháng 6 năm 1984 tôi mới trở lại Sài G̣n và tháng 12 năm 1987 tôi vượt thoát khỏi Việt Nam đến Thái Lan. Tôi cũng không rơ là anh Hồ Minh Lữ có đến Hoa Kỳ theo diện HO hay không, nhưng nghe phong phanh là anh ở vùng Los Angeles.

Thời điểm 1979, tôi tin là anh Hồ Minh Lữ nói đúng v́ anh chẳng có lư do ǵ để đi đặt điều nói xấu về ông thầy của ḿnh . Đến Hoa Kỳ năm 1989, tưởng như chuyện anh Hồ Minh Lữ kể cho tôi nghe rơi vào quên lăng, nhưng đến năm 1993 Luật Sư Nguyễn Hữu Hiệu nói với tôi là Ḥa Thượng Thích Tâm Châu có in quyển Bạch Thư trong đó có nhắc đến lá thư mà Ḥa Thượng Tâm Châu gửi cho Thượng Tọa Thích Trí Quang. Lúc đó tôi càng tin cậy anh Hồ Minh Lữ nhiều hơn nữa bởi v́ từ thời điểm 1973 cho đến 1979, hầu như không ai biết Thượng Tọa Tâm Châu có viết thư gửi Thượng Tọa Trí Quang. Dĩ nhiên Thượng Tọa Thích Tâm Châu không thể biết nhà sư Thích Trí Quang đă đáp ứng lá thư của ḿnh như thế nào.

Người khôn ngoan là người biết học kinh nghiệm của người khác, kể cả kinh nghiệm thành công lẫn kinh nghiệm thất bại. Động từ “học” mà tôi dùng ở đây, theo Anh – Mỹ là động từ “learn” chứ không phải là động từ “study” (nói theo kiểu người Việt của ḿnh th́ cần phải “học” và “rút tỉa được kinh nghiệm” chứ không phải “học” để khoe bằng cấp Ph.D., để khoe tên các Đại Học danh tiếng như những khoa bảng VN vẫn thường hay làm).

Muốn “rút tỉa được kinh nghiệm” th́ phải luôn luôn biết THỬ, biết THÁCH THỨC, biết THÁCH ĐỐ và phải vượt qua được những THỬ THÁCH do chính ta và những người ngoại cuộc đặt ra ;  nếu chỉ biết THỬ, chỉ biết THÁCH mà lại không vượt qua nổi THỬ THÁCH th́ chắc chắn sẽ thất bại (như nhà sư Thích Trí Quang đă thất bại )

Xin cảm ơn tất cả quư vị đă  quan tâm  và  tôn th́ giờ quư báu để đọc đến hết đoản văn này.

 

 

 

San Jose ngày 4 tháng 6 năm 2010

 

Trần Trung Chính

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: