Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Xúc Cảm Đêm Trăng

 

( Tĩnh Dạ Tứ - Lư Bạch )

 

Hải Đà

 

nhạc phẩm Tĩnh Dạ Tứ (thơ phóng tác Hải Đà, nhạc Mai Đức Vinh)

 

 

 

     

 

       Lư Bạch là nhà thơ lớn thời Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi-văn-đàn Trung Quốc.  Người ta thường gọi Ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lư Bạch) , Lư Dương Băng trong "Thảo đường tập tự" đă có câu nói bất hủ về thiên tài Lư Bạch "Thiên tải độc bộ, duy công nhất nhân" (hàng ngàn năm chỉ có một ḿnh ông mà thôi ) Lư Bạch đă để lại hơn một ngàn bài thơ có một ảnh hưởng rất sâu rộng trong lịch sử văn học Trung Quốc, phổ thông và được lưu truyền rộng răi trong nhân gian , cũng như nhiều học giả trên thế giới đă dày công nghiên cứu thi ca Lư Bạch . Thơ của Ông rất tự nhiên, không chải chuốt, gọt dũa mà ư thơ sâu sắc, có sức truyền cảm quyến rũ một cách lạ lùng .

 

     Lư Bạch là thiên tài của những bài thơ Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ), ngắn gọn, nhưng cô đọng, hàm súc, đầy đủ, là những tuyệt tác bất hủ được lưu truyền trong nhân gian từ đời này qua đời khác. Bài thơ Tĩnh Dạ Tứ (Xúc Cảm Đêm Trăng) của Lư Bạch là một kiệt tác  tuyệt vời trong thế giới Đường Thi trùng trùng điệp điệp …. H́nh thức cô động thâm thúy của bài thơ ngũ tuyệt 20 chữ nay là một thử thách lớn lao mà thi nhân phải đương đầu v́ "ngôn bất tận ư" (lời không nói hết được ư ) và thi nhân phải dùng ngôn từ tương ứng như thế nào để có thể vừa miêu tả cảnh vật và diễn đạt một ấn tượng dạt dào, một cảm xúc lai láng.

 

      Lư Bạch là một người có tài, nhưng lại là người ít may mắn trên đường công danh sự nghiệp . Ông là người hay đi đây đó, làm thân lữ khách nơi quán trọ tha phương, xa nhà, xa quê, xa gia đ́nh bạn bè … Và bài thơ "Tĩnh Dạ Tứ" đă diễn tả nỗi cảm xúc bâng khuâng , xao xuyến, cái nỗi niềm tha phương nhớ nhà da diết, khi màn đêm hoang vắng đă buông phủ bốn bề, trong khung cảnh tịch liêu, cô đơn, của người viễn khách một ḿnh một bóng canh thâu … nh́n qua khung cửa , xa xa, chập chờn mộng ảo, là vầng trăng tỏa ánh sáng lung linh huyền ảo .. đă làm cho nhà thơ chạnh ḷng thương nhớ quê hương . Bài thơ đă bộc lộ những xúc cảm sống động, dạt dào, rung lên những âm vang tha thiết của nhạc điệu trữ t́nh …

 

Trong sách Nghệ khái, Lưu Huy Tải đă nói : "Thơ tứ tuyệt dễ làm, không có chữ thừa, nhưng tạo được cái dư vị thật là khó". Cái "dư vị" trong bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lư Bạch  chỉ là cảnh sắc "vô t́nh" của màn đêm huyền ảo với trăng, sương chập chùng, nhưng rất là "hữu t́nh" đă đem lại những cảm xúc nao nao xót dạ, đă đưa người thơ đi t́m lại những mảnh kư ức, hồi tưởng của cố quận, sông xưa, núi cũ, quê nhà . Người phương xa vẫn canh cánh nặng nợ t́nh quê …

 

  Tĩnh Dạ Tứ

 

 Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

Lư Bạch

 

 

 

 Ghi chú : có sách ghi rằng

 -câu 1 : Sàng tiền khán nguyệt quang

 -câu 3:  Cử đầu vọng sơn nguyệt

 

(theo học giả Vương Vận Hy : "Nh́n nhận cho kỹ trong thơ Lư Bạch, "Sơn nguyệt" và "Cố hương" h́nh như có liên hệ đặc biệt trên con đường lữ hành rời đất Thục, Lư Bạch đă viết bài tuyệt cú "Nga mi sơn nguyệt ca"  … Ông yêu cố hương Yên sơn  và nguyệt núi Nga mi. Thuở nhỏ ông thường lên đỉnh núi Nga Mi (Tứ Xuyên) ở quê cha đất tổ để ngắm trăng, và sau khi đi ngao du sơn thủy, nỗi nhớ quê hương của ông thường dâng trào mănh liệt … Do đó khi ở quê hương khác trong đêm yên tĩnh nh́n trăng sáng vượt qua đầu núi chiếu vào giường, ông nghĩ đến núi và trăng ở Nga mi, nghĩ đến chuyện quê hương là chuyện tất nhiện"

 

 Dịch nghĩa:

 

Ánh trăng chiếu sáng đầu giường

Ngỡ như sương trắng phủ sân nhà

Ngẩng đầu lên nh́n trăng sáng

Cúi đầu xuống nhớ quê cũ

 

Dịch thơ:

 

Xúc Cảm Đêm Trăng

 

1-

Đầu giường trăng tỏ rạng

Đất trắng ngỡ như sương

Ngẩng đầu nh́n trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương

 

2-

Giường khuya trăng chiếu bời bời

Sương rơi phủ đất ngỡ đời chiêm bao

Ngẩng đầu trăng sáng trên cao

Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào.... cố hương

Hải Đà

 

     Bức tranh thu đă được tô đẹp bằng một vầng trăng thu huyền ảo … Trăng soi lồng lộng trên sóng nước bập bềnh biến ḍng sông thành một giải lụa vàng óng ả. Điểm đặc trưng quan trọng đối với vầng trăng trong thơ Lư Bạch là ánh trăng trong trắng, lung linh tỏa sáng, thêm màn đêm lạnh lẽo bao phủ không gian vô tận và con người nhỏ bé, khiến cảm xúc của con người sản sinh bộc phát ngẫu nhiên, mang những sắc thái tinh tế khó mà diễn tả . Trong một đêm trăng vắng vẻ nhà thơ Lư Bạch nằm trong thư pḥng, bóng trăng khe khẽ len qua khung cửa sổ rọi sáng đầu giường, trong một không gian tịch mịch giữa đêm, hồn thơ đă nhập vào hồn trăng bay lâng lâng vào một cơi mộng ảo vô cùng …đă đi từ trạng thái mơ hồ đến tỉnh thức. Ánh trăng sáng vời vợi trên bầu trời cao kia, tỏa những tia sáng lặng lẽ, êm ái huyền diệu trên chiếc giường ngủ, rất gần gũi và thân thiết với nhà thơ làm sao, và đó cũng chính là vầng trăng mà Lư Bạch đă mải mê ngắm trên núi Nga My trong những ngày niên thiếu ở quê nhà.  Những tia sáng của trăng chập chờn mờ ảo đă làm nhà thơ ngỡ ngàng như sương khói bao phủ đầu giường, nh́n trăng mà ḷng buồn vời vợi, ngỗn ngang trăm mối tơ ḷng … Sương và Trăng làm nỗi bật sự trống vắng vô tận, làm tăng thêm khung cảnh u uẫn đ́u hiu của trời đêm cô liêu, đă đem lại những cảm giác mông lung  hư hư thật thật … quanh quất đâu nay : sương là trăng , hay trăng là sương. Trong cái ngây ngất chếnh choáng của màn đêm mờ ảo, nhà thơ đă tài hoa hữu h́nh hóa cái huyền diệu của trăng và sương … Cái tĩnh lặng của không gian bàng bạc trong bài thơ đă tràn ngập cảm xúc , nội tâm và tư duy khó mà diễn tả. H́nh ảnh màn sương "ngờ ngợ" phủ trắng nền đất trong trời đêm đă mở ra một khoảng không gian tịch liêu cô quạnh mông lung, làm gia tăng nỗi cô đơn của người thơ. Nhà thơ đă dùng những h́nh tượng dựng cảnh, nhưng thật ra là muốn ngụ t́nh, gửi gắm những tâm sự thầm kín của tác giả.

 

 Đầu giường trăng tỏ rạng

Đất trắng ngỡ như sương

 

    H́nh ảnh Trăng và Sương cũng đă thấy rải rác trong nhiều bài thơ Đường nổi tiếng . Mặc dầu khai thác cùng một ư tứ, một chủ đề , nhưng mỗi nhà thơ có tài hoa sáng tạo khác nhau, để tạo nên những sắc thái t́nh cảm riêng biệt độc đáo , phù hợp với mỗi tâm tư hoàn cảnh khác nhau . Những h́nh tượng và cảm xúc suy nghĩ này có thể t́m thấy trong bài "Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ" của Trương Nhược Hư :

 

Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện

Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển

Không lư lưu sương bất giác phi

Giang thượng bạch sa khan bất kiến

     Trương Nhược Hư

 

Sông quanh đất ngát thoảng hương đầy

Trăng sáng rừng hoa ngỡ tuyết bay

Lất phất sương rơi nào có thấy

Sông dài cát trắng chẳng ai hay

Hải Đà

 

      Sương và trăng như h́nh vơi bóng chập chờn ẩn hiện trong khung trời Đường Thi lồng lộng … với những h́nh ảnh cụ thể và suy nghĩ chân thành có sức rung động sâu xa như bài thơ Sương Nguyệt của Lư Thương Ẩn . Thiên nhiên với trăng, sương, hoa, cỏ, khói, nước … đúng là lẽ sống của khung trời Đường Thi, là sự hài ḥa tinh tế của cuộc đời vô thường và sự thanh tao  của vũ trụ, muôn vật …

 

Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền

Bách xích lâu đài thủy tiếp thiên

Thanh nữ Tố nga câu nại lănh *

Nguyệt trung sương lư đấu thuyền quyên

     (Sương Nguyệt- Lư Thương Ẩn)

 

(* Thanh nữ = vị Thần coi việc sương, tuyết

   Tố nga = hằng nga ở cung trăng )

 

 Nhạn về ve bỗng bặt im hơi

Trăm thước lầu cao nước nối trời

Thanh nữ, Tố nga đâu cảm lạnh

Đua nhau trăng sáng lộng sương ngờ

Hải Đà

 

      Và từ những h́nh tượng mơ hồ gợi cảm, gợi sầu, gợi nhớ đó đă đem lại cho nhà thơ nỗi cô đơn thắm thiết, nỗi nhớ nhà dằng dặc khôn nguôi . Trăng ở trời cao vẫn nh́n xuống, người thơ khó mà đi vào giấc ngủ lăng quên ..  Nội tâm của người thơ bị xâu xé dằn vặt, càng thao thức, càng tê tái chua xót … Có nỗi buồn nào ray rứt da diết ngấm tận hồn bằng nỗi sầu nhớ cố hương, quê cha đất tổ : cái nỗi nhớ dai dẳng, mênh mang, thăm thẳm và loang rộng không bến bờ , làm xao động tâm hồn khôn nguôi .. Cái ánh sáng của vầng trăng đă làm sáng hẳn lên cái h́nh bóng lung linh huyền ảo của một quá khứ, hoài niệm thương tiếc măi măi khó quên trong ḷng người thơ, thiết tha, xao xuyến, bịn rịn, khắc khoải một cách lạ lùng .

 

Ngẩng đầu nh́n trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương

 

    Theo tác giả Trần Đ́nh Sử và Nguyễn Khắc Phi khi bàn luận về "Thi pháp thơ Đường" đă nói rằng : "bài thơ nổi tiếng - Tĩnh Dạ Tứ - này của Lư Bạch do một chuỗi đồng đẳng vừa chân thật vừa tưởng tượng tạo thành : Thông qua chữ "thị", "minh nguyệt" và "địa thương sương" đồng đẳng với nhau, nhưng nó bị sự phủ định mà chưa xác định được bởi chữ "nghi" ; với tư cách là nguyên nhân và kết quả, "sơn nguyệt" liên hệ với "minh nguyệt quang" . Bất luận ở trong t́nh huống nào, đồng đẳng đều thông qua đặc trưng giống nhau mà được xác nhận: nguyệt quang và sơn nguyệt đều sáng, sơn nguyệt và cố hương cùng đều là xa xôi không với tới được"

 

    Trong bài thơ "Vọng Nguyệt Hoài Viễn" (Nh́n Trăng Nhớ Phương Xa) của Trương Cửu Linh  cũng có những cảm nghĩ tương tự, truyền cảm và xúc động, thể hiện những nỗi buồn xót xa. Trong một đêm trăng lạnh, trống vắng, h́nh ảnh và ánh sáng của biển nước trăng sương đă trở nên mơ hồ, tạo nên những giai điệu xao xuyến năo nuột, thấm sâu vào hồn tủy, ngân rung măi trái tim người :

 

Hải thượng sinh minh nguyệt

Thiên nhai cộng thử th́

T́nh nhân oán dao dạ

Cánh tịch khởi tương ti

Diệt chúc liên quang măn

Phi y giác lộ ti

Bất kham doanh thủ tặng

Hoàng tẩm mộng giai ky

 

(Vọng Nguyệt Hoài Viễn -Trương Cửu Linh)

 

 

Trăng sáng trên biển cả

Cuối trời rạng rỡ soi

Sầu hận t́nh ly xứ

Đêm dài nhớ khôn vơi

Đèn tàn thương ánh tỏ

Áo mặc đẫm sương rơi

Tặng người tay khó vốc

Đành hẹn giấc mơ thôi …

 

 (Nh́n Trăng Nhớ Phương Xa - Hải Đà

 

 

   Bài thơ tứ tuyệt "Tĩnh Dạ Tứ" của Lư Bạch đă vẽ lên một bức tranh thu sống động, có

một âm hưởng tuyệt vời, trở thành một bài nhạc phủ (khúc hát mùa thu) trác tuyệt của Đường Thi ..

 

Thu phong nhập song lư

La trướng khởi phiêu dương

Ngưỡng đầu khán minh nguyệt,

Kư t́nh thiên lư quang

 

Gió thu thổi nhẹ qua song

Phất phơ màn mỏng lụa hồng rung rinh

Ngẩng nh́n trăng sáng lung linh,

Xót thương ngh́n dặm gửi t́nh quê xa

 

      Không có trăng nào đẹp bằng trăng thu, chẳng có trăng nào nào sáng hơn trăng quê như Đỗ Phủ đă âm thầm hoài vọng thiết tha : "Lộ tùng kim dạ bạch , Nguyệt thị cố hương minh" (Móc đêm nay trắng xóa , Trăng quê nhà sáng soi ) trong bài thơ "Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ" … vầng trăng ở quê nhà bao giờ cũng lung linh sáng soi hơn trăng ở bất cứ nơi nào trên đất khách quê người … Cái hoài niệm về quê cha đất cũ, về quá khứ thân thương êm đềm cứ chập chờn xôn xao ám ảnh, bồn chồn day dứt măi trong tâm hồn thi nhân. Nỗi ngậm ngùi ảo năo của người thơ đă hội nhập với cái không gian tĩnh lặng mênh mông của đất trời, đó là cái sầu của vũ trụ vô cùng .

 

Thú cổ đoạn nhân hành

Thu biên nhất nhạn thanh

Lộ ṭng kim dạ bạch

Nguyệt thị cố hương minh

Hữu đệ giai phân tán

Vô gia vấn tử sinh

Kư thư trường bất đạt

Huống năi vị hưu binh

 

(Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ - Đỗ Phủ)

 

 

Trống trận dồn mau cản bước người

Vào thu biên ải nhạn than trời

Tha phương đêm phủ màn sương trắng

Cố quận trăng soi ánh tỏ ngời

Em đấy, thân thương mà cách biệt

Nhà đâu, sống chết biết nơi nào ?

Gửi thư thăm hỏi hoài không đến

Binh lửa lan tràn rực khắp nơi

 

(Nhớ Em Đêm Trăng - Hải Đà)

 

      Lư Bạch là người rất có tài nhưng lận đận, và ngán ngẩm với cuộc đời long đong, bất đắc chí, mà ông đă bỏ mặc đời, phiêu du đi t́m sự quên lăng với bầu rượu, trăng thơ, giữa cảnh thiên nhiên gợi t́nh, gợi cảm. Trong cảnh thiên nhiên đó, Lư Bạch đă cảm thấy cô độc vô cùng và t́m đến người bạn t́nh chung thủy đó là vầng trăng sáng soi giữa trời đêm bất tận, như Trịnh Cốc khi đọc thơ Lư Bạch đă nói : "Khi say khướt ngâm dài ba ngàn khúc, gửi lại cho nhân gian chỉ một vầng trăng sáng" ( Cao ngâm đại túy tam thiên thủ, lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh ). Qua bài thơ "Nguyệt Hạ Độc Chước" (Một Ḿnh Uống Rượu Dưới Trăng), cho thấy nhà thơ cô đơn trong một vườn hoa quạnh vắng, dưới ánh trăng soi vằng vặc, đă nẩy sinh những tư tưởng lạ lùng mời trăng, mời bóng, cùng nhập cuộc với người thơ … tất cả trở thành ba người bạn tri kỷ cùng vui say và múa hát quên đời … . Bài thơ đă vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy h́nh tượng và nghệ sĩ tính, ca vũ múa hát, người, h́nh và bóng, với vầng trăng không rời nhau một bước dù lúc tỉnh hay say . Sự cô đơn bị đời ruồng rẫy của nhà thơ không c̣n nữa, mà người thơ măi vui say và đắm ch́m vào giấc ngủ quên lúc nào chẳng hay … để rồi c̣n hẹn ḥ cùng trăng và bóng ở một khung trời xa xăm nào đó .. "T́nh cho nhau măi thiết tha, Hẹn nhau gặp bến Ngân xa cuối trời.."

 

Nguyệt Hạ Độc Chước

 

Hoa gian nhất hồ tửu

Độc chước vô tương thân

Cử bôi du minh nguyệt

Đối ảnh thành tam thân

Nguyệt tức bất giải ẩm

Ảnh tùng tùy ngă thân

Tạm bạn nguyệt tương ảnh

Hành lạc tu cập xuân

Ngă ca nguyệt bồi hồi

Ngă vũ ảnh linh loạn

Tỉnh thời đồng giao hoan

Túy hậu các phân tán

Vịnh kết vô t́nh du

Tương kỳ mạc vân hán

 

     Lư Bạch

 

Một Ḿnh Uống Rượu Dưới Trăng

1-

Vườn hoa với bầu rượu

Không bạn, uống ḿnh ta

Mời trăng cùng nâng chén

Với bóng nữa thành ba

Trăng nào đâu biết uống

Bóng theo ta mặn mà

Cùng trăng bên cạnh bóng

Vui xuân thật thiết tha

Trăng mơ nh́n ta hát

Ta múa, bóng nghiêng qua

Cùng vui khi tỉnh rượu

Hết say người chia xa

Kết thân t́nh thắm thiết

Ḥ hẹn bến Ngân qua

 

2-

Một bầu rượu giữa vườn hoa

Rượu đây không bạn cùng ta uống cùng

Nâng ly khẩn khoản mời trăng

Trăng, ta và bóng rơ ràng thành ba

Trăng không biết uống đâu mà

C̣n đây chiếc bóng theo ta đêm dài

Cùng trăng với bóng miệt mài

Tuổi xuân mau hưởng thú vui trên đời

Ta ca trăng sáng tỏ ngời

Bóng theo ta múa chơi vơi nhịp nhàng

Hết say vui sướng rộn ràng

Tỉnh rồi mỗi kẻ một đàng chia xa

T́nh cho nhau măi thiết tha

Hẹn nhau gặp bến Ngân xa cuối trời

 

Hải Đà

 

      Lư Bạch rất yêu trăng, nhà thơ đă gửi gắm rất nhiều tâm t́nh vào vầng trăng, trăng tṛn trịa như chiếc mâm, trăng sáng tinh như ngọc trắng, trăng yểu điệu như thục nữ ... Trăng trong thơ Lư Bạch rất xinh đẹp , trữ t́nh, thanh khiết và đáng yêu vô cùng. Theo Mao Thủy Thanh, "nhà thơ đă lấy "Bạch ngọc bàn" và "Dao đài kính" để mọi người trong liên tưởng cảm thực được cái đáng yêu của vâng trăng . H́nh tượng trăng sáng và tâm t́nh của nhà thơ tùy theo mà cải biên. Trăng tṛn thể hiện là sự đầy đặn của cuộc sống . Trong bài thơ "Cổ lăng nguyệt thành" nhà thơ ví vầng trăng như tấm gương trong soi sáng ḷng người, đó chính là ánh sáng trác tuyệt của trí tuệ . Ở đây phải thấy Lư Bạch đưa giá trị vầng trăng đến đỉnh cao của sự trong sáng ".

 

    Có huyền thoại kể rằng Trăng là người t́nh chung thủy của Lư Bạch, để cuối cùng trong một đêm đi chơi trên sông Trường Giang bằng chiếc thuyền câu, trong lúc say khướt nhà thơ đă trầm ḿnh xuống sông Trường Giang để được ôm vầng trăng trăng huyền ảo để cùng với trăng vĩnh viễn an giấc ngàn thu …. Có những hoạ sĩ Trung Quốc đă vẽ những bức tranh "Lư Bạch bắt trăng" , và Chu Tử Chi có câu thơ :

 

"Tróc đắc giang tâm ba để nguyệt

Khước qui thiên hạ ngọc kinh tiên"

(Bắt được mặt trăng giữa ḷng sông dưới đáy

Đươc thiên hạ gọi tiên Ngọc kinh )

 

Kết luận : Bài thơ "Tĩnh Dạ Tứ" với một cấu trúc độc đáo, đă kết hợp được bốn điểm chính : Ư Tứ sâu đậm, Cảm Xúc tha thiết,  H́nh Ảnh sinh động, Nhạc Điệu trữ t́nh. Ngôn từ cô đọng trong 20 chữ, không ṃn sáo, dễ hiểu, giản dị, tự nhiên mà lại rất hàm súc sống động và nhiều h́nh tượng gợi cảm, đó là những rung động kỳ lạ, huyền ảo từ trái tim bộc trực của nhà thơ, đó là tiếng nói tri âm chí t́nh chân thực, là tâm hồn thanh khiết nhạy cảm tinh tế của người thơ.  Phải chăng đó là sự linh diệu thầm lặng của thơ, của ư tưởng ngẫu nhiên , nhưng lại có một hấp lực vô h́nh gây tác động mạnh mẽ, gợi lên những chuỗi liên tưởng phong phú  trong tâm hồn người đọc khôn nguôi ..."Ngẩng đầu trăng sáng trên cao,  Cúi đầu ngấn lệ nghẹn ngào cố hương". Nhịp thơ chấm phá đă h́nh tượng hóa được nỗi ưu tư sầu năo tê tái một cách cụ thể, đó là cái quằn quại khổ đau mang số phận của một kiếp người lang thang, giữa đất trời trôi nổi, và những giọt lệ ly hương đă tuôn trào lai láng thành mạch sầu thiên cổ vô tận, biết dạt trôi về đâu ?

 

Hải Đà

 

 

Thơ Phóng Tác: Vương Ngọc Long

Phổ nhạc: Mai Đức Vinh

 

Cảm Xúc Đêm Trăng

(Ư thơ Tĩnh Dạ Tứ - Lư Bạch)

 

Đêm thu lặng lẽ gió phiêu phiêu

Réo rắt bên song tiếng sáo diều

Cố quận xa xăm sầu lữ thứ

Một ḿnh quán vắng cảnh đ́u hiu

 

Lá đổ mây giăng luống thẫn thờ

Rừng phong trở giấc động hồn thơ

Vi vu nhạc gió bên đồi vắng

Khắc khoải năm canh mắt lệ mờ

 

Ngổn ngang trăm mối vấn vương ḷng

Ngàn dặm quê xa bóng chập chùng

Xào xạc thu vàng nghe tiếng vọng

Thềm trăng đầy ắp lá ngô đồng

 

Thổn thức hồn quyên mộng tỉnh say

Sông xưa bến cũ nhớ từng ngày

Phơ phơ tóc bạc đời sương điểm

Thở vắn đêm dài ngấn lệ cay

 

Đầu giường vằng vặc ánh trăng soi

Cứ ngỡ sương rơi đất trắng ngời

Trăng chiếu trời cao mê mẩn ngắm

Cúi đầu ... thương nhớ cố hương ơi !

 

    Vương Ngọc Long

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: