Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Các h́nh thức ẩn dụ

(phần 1)

 

Trần Hữu Thục

  

 

Nancy Kabale, Circus Metaphors (Những Ẩn Dụ về Xiệc) (2011)

Ceramic và vật liệu hỗn hợp

 

 

Aristotle và các loại ẩn dụ

 

Aristotle thảo luận về ẩn dụ trong hai tác phẩm: Poetics (Thi pháp học) và Rhetoric (Tu từ học).

Trước hết, trong Poetics[i], Aristotle phân biệt các loại danh từ. “Bất chấp cơ cấu của nó như thế nào, một danh từ luôn luôn phải, hoặc là (1) chữ thông thường để chỉ sự vật, hoặc (2) một chữ lạ, hoặc (3) một ẩn dụ, hoặc (4) một chữ có tính cách trang trí , hoa ḥe, hoặc (5) một chữ mới tạo ra, hoặc (6) một chữ kéo dài, hoặc (7) một chữ rút gọn hoặc (8) thay đổi h́nh thức. Ông lần lượt giải thích từng loại danh từ một. “Một chữ thông thường” là chữ sử dụng chung trong một xứ sở và một chữ xa lạ (nước ngoài) là chữ sử dụng ở một nơi khác. “Một chữ sáng tạo” là chữ chỉ được dùng bởi nhà thơ, hoàn toàn xa lạ đối với mọi người…

Trong định nghĩa ngắn gọn: “Ẩn dụ có nghĩa là quy cho sự vật nào đó một cái tên mà tên này thuộc về một sự vật khác; sự dịch chuyển có thể là từ loại (species) đến giống (genus)[ii] (lấy giống thay loại), hoặc từ giống đến loại (lấy loại thay cho giống), hoặc từ loại đến loại (lấy loại thay cho loại), hoặc dựa trên nền tảng của sự tương tự”, Aristotle muốn kết hợp tất cả mọi thành phần của ẩn dụ vào trong một toàn thể mạch lạc. Đó là một ư niệm xuất hiện theo trật tự: để tạo ra một ẩn dụ, người ta phải, hoặc là hướng lên trên để t́m một hạn từ tổng quát hơn; chuyển xuống dưới để t́m một hạn từ đặc thù hơn; đi ngang để t́m một hạn từ tương đương; hay sử dụng một loại tương tự cổ điển dựa theo tỷ lệ.

Như thế là có bốn h́nh thức ẩn dụ. Aristotle đưa ra những ví dụ sau để giải thích các h́nh thức đó:

H́nh thức 1: giống thay loại. Ví dụ: This ship of mine stands there (Chiếc tàu tôi đậu ở đó.) Đậu (loại) thay cho “thả neo” (giống). (stand thế cho lying at anchor). Chữ “đậu” có ư nghĩa tổng quát (v́ dùng chung để chỉ sự dừng lại ở một chỗ nào đó) hơn chữ “thả neo” (chỉ dùng sự dừng lại của chiếc tàu).

Loại ẩn dụ này về sau được các nhà nghiên cứu ngữ học gọi là hoán dụ (metonymy), qua đó có sự tương cận giữa hai yếu tố, lấy cái “toàn thể” thay cho cái “thành phần” (whole for part)

 

H́nh thức 2: loại thay giống. Ví dụ: Indeed ten thousand noble things Odysseus did. (Quả thực là Ulyssis đă thực hiện cả chục ngàn công việc cao cả.) “Chục ngàn” (loại) thay cho “một số rất lớn” (giống); “chục ngàn” có ư nghĩa đặc thù hơn “một số rất lớn” có ư nghĩa tổng quát.

Loại ẩn dụ này về sau được gọi là đề dụ (synecdoche), cũng có sự tương cận giữa hai yếu tố, nhưng ngược hẳn với loại 1, ở đây, lấy cái “thành phần” thay cho cái “toàn thể” (part for whole.

 

H́nh thức 3: loại thay loại. Ví dụ: Then he drew off his life with the bronze (sword)/Then with the bronze cup he sever the water (cut the flow of blood). (Rồi hắn kết liễu đời ḿnh với lưỡi gươm đồng và với lưỡi gươm đồng hắn cắt đứt mạch máu). Nhà thơ dùng chữ “draw” theo nghĩa của từ “sever” và từ “sever” theo nghĩa của từ “draw”. Cả hai đều cùng có nghĩa là “lấy đi” (take away). Umberto Eco gọi ẩn dụ này là “ẩn dụ ba hạn từ” (metaphors of three terms), một là “hạn từ ẩn dụ” (metaphorizing, tức là vehicle), hai là “hạn từ được ẩn dụ” (metaphorized, tức là tenor) và ba là “hạn từ trung gian” (intermediary)[iii]

Loại ẩn dụ này về sau cũng được sắp xếp trong loại dụ pháp “hoán dụ”, trong đó lấy cái “thành phần “ thay thế cho cái “thành phần” (part for part).

 

H́nh thức 4: Tương tự. Có 4 hạn từ A,B,C,D liên hệ với nhau chặt chẽ đến nỗi, nếu hạn từ A so với hạn từ B cũng như hạn từ C so với với hạn từ D, th́ người ta có thể thay hạn từ D cho hạn từ B hay B thay cho D.

Nếu A -> B cũng như C -> D, th́ ta sẽ có ẩn dụ: “A là C của B” hay “C là A của D”

Ví dụ a: The wine cup (A) is to Dionysus (B) as the shield (C) is to Ares (D)

Chiếc tách (A) đối với Dionysus (B) cũng giống như cái khiêng (C) đối với Ares (D).

Từ đó, ta có thể nói: “Chiếc tách là cái khiêng của Dionysus” hay “Cái khiêng là chiếc tách của Ares.”

Ví dụ b: old age (A) to life (B) as the evening (C) to day (D)

Tuổi già (A) đối với cuộc đời (B) cũng như buổi chiều (C) đối với một ngày (D).

Từ đó, ta có cách nói ẩn dụ: “Tuổi già là buổi chiều của cuộc đời” hay “Buổi chiều là tuổi già của một ngày.”

Ví dụ c: Cũng có 4 hạn từ, nhưng trong đó, hạn từ C không có tên riêng (gọi là x như một ẩn số):

Nếu “A th́ B” tương tự với “x th́ D”: A/B = x/D

Bằng cách thay A vào x, ta sẽ có: “A là D” là h́nh thức ẩn dụ

Chẳng hạn: Ném một “hạt mầm” xuống đất th́ gọi là “gieo” trong lúc “tia sáng mặt trời” cũng ném ánh sáng xuống nhưng không hay chưa có tên (ẩn số x) để chỉ chuyển động đó[iv]. Nói khác đi, gieo (A) đối với mầm (B) cũng như không tên (x) đối với tia sáng mặt trời (D). :

“Gieo hạt mầm” (sowing seed) tương tự như “x…tia sáng mặt trời”

Do đó, dựa vào sự tương tự, ta thay A vào x: gieo những tia sáng mặt trời. (sowing of sun rays)

Để làm rơ loại ẩn dụ này, Umberto Eco đưa ra thí dụ khác, là loại ẩn dụ “giả tá” (catachrese)[v]:

- cái chân (A) đối với cơ thể (B) cũng giống như x đối với cái bàn (D): “chân bàn” (the leg of the table).

- một “cái cổ” (A) đối với cơ thể (B) cũng như x đối với “cái chai”: “cổ chai” (the neck of the bottle).

Do quan hệ lân cận, cả ba h́nh thức 1,2 và 3 về sau đều được gọi là hoán dụ và bao gồm ba phó loại: toàn thể thay cho thành phần, thành phần thay cho toàn thể và thành phần thay cho thành phần.[vi]

Chỉ có h́nh thức thứ 4 mới là ẩn dụ, theo cách hiểu của các nhà nghiên cứu về ẩn dụ ngày nay.

 

Các h́nh thức ẩn dụ theo Pierre Fontanier

Theo Pierre Fontanier, ẩn dụ là “tŕnh bày một ư tưởng dưới kư hiệu của một ư tưởng khác sinh động (frappante/gây ấn tượng) hơn hay được biết nhiều hơn (connue), mà ư tưởng này lại chẳng có một liên hệ nào với ư tưởng đầu tiên ngoài liên hệ của một sự giống nhau (conformité) hay tương tự nào đó (analogie). Fontanier rút gọn thành 5 loại[vii]:

1. Tŕnh bày một sự vật sinh động (chose animée) bằng một sự vật sinh động khác; nghĩa là chuyển đến một sự vật sinh động cái vốn là đặc điểm của một sự vật sinh động khác. Ví dụ: Người đàn ông này là một con chồn. Chuyển đặc điểm (tinh ranh) của con chồn (một sự vật sinh động) đến cho con người (một sự vật sinh động khác); ư nói người đàn ông này tinh ranh (như con chồn). Cũng thế: Nàng là một con chim bồ câu. Chuyển ư nghĩa (hiền lành) của chim bồ câu đến cho “nàng”

2. Tŕnh bày một sự vật trừu tượng bằng một sự vật vật lư không sinh động (inanimée/physique). Ví dụ: Mùa xuân của cuộc đời. Chuyển ư nghĩa “thời gian khởi đầu” chứa đựng trong “mùa xuân” là sự vật vật lư không sinh động đến “cuộc đời” là một sự vật không sinh động có tính cách trừu tượng.

3. Tŕnh bày một sự vật sinh động bằng một sự vật không sinh động. Ví dụ: tên sát nhân này là một tai họa của xă hội. Dùng “tai họa” là sự vật không sinh động để chỉ “tên sát nhân”, một con người, là sự vật sinh động.

4. Tŕnh bày một sự vật vật lư không sinh động bằng một sự vật vật lư sinh động. Là loại ẩn dụ qua đó, người ta nói về một sự vật không sinh động có tính cách vật lư bằng một cái thường để chỉ một sự vật sinh động. Ví dụ: dày ṿ bởi ḷng hối hận, trút bớt nỗi phiền muộn, chận đứng sự giận dỗi, thả lỏng dục vọng. Ḷng hối hận, nỗi phiền muộn, sự giận dỗi, dục vọng là những điều bất động có tính cách vật lư được tŕnh bày như những sự vật sinh động: dày ṿ, trút bớt, chận đứng, thả lỏng. V́ cả hai đều thuộc về thế giới vật lư, Fontanier gọi đây là những “ẩn dụ vật lư” (métaphore physique)

5. Tŕnh bày một sự vật trừu tượng bằng một sự vật sinh động. Là loại ẩn dụ qua đó, người ta nói về một sự vật không sinh động có tính cách tinh thần bằng một cái vốn được dùng để nói về sự vật sinh động, có tính cách trí tuệ và tự do. Ví dụ: Kinh nghiệm là bậc thầy của nghệ thuật; Thời gian là người an ủi tốt nhất. Bậc thầy, người an ủi là sự vật sinh động (có tính cách tinh thần) để chỉ sự vật trừu tượng là kinh nghiệm, thời gian. V́ cả hai yếu tố đầu có tính cách trừu tượng, thuộc về tinh thần nên Fontaniet gọi đây là những “ẩn dụ tinh thần” (métaphore morale)

Nếu giản dị hóa, Fontanier cho rằng chỉ có hai loại ẩn dụ: ẩn dụ vật lư (métaphore physique) và ẩn dụ tinh thần (métaphore morale).

H́nh thức từ vựng và chức năng văn phạm của ẩn dụ [viii]

1. Ẩn dụ danh từ:

Đây là h́nh thức ẩn dụ thông thường nhất. Tùy theo chức năng văn phạm của danh từ, loại ẩn dụ này có thể chia thành:

· Danh từ làm chủ từ:

- Đóa hoa trong tiệc cưới này thật kỳ diệu (Đóa hoa là ẩn dụ ám chỉ một người phụ nữ)

- Con cọp này đă chiến đấu đến cùng (Con cọp là ẩn dụ ám chỉ một người dũng sĩ)

Loại ẩn dụ này thường được gọi là ẩn dụ quy chiếu (référentielle) và có tính lặn (in absentia), nghĩa là vắng mặt, v́ chỉ có danh từ quy chiếu (tức là đóa hoa trong ví dụ trước, con cọp trong ví dụ sau) có mặt c̣n danh từ ẩn dụ (tức là người phụ nữ trong ví dụ trước, người dũng sĩ trong ví dụ sau) không có mặt trong câu.

· Danh từ làm thuộc từ của chủ từ:

- Phụ nữ này là một đoá hoa

- Người đàn ông này là một con cọp trong cuộc chiến đấu

Người ta c̣n gọi đây là ẩn dụ vị ngữ (predicative). Loại ẩn dụ này được gọi là ẩn dụ trội (in praesentia), nghĩa là có mặt, v́ cả danh từ ẩn dụ lẫn danh từ quy chiếu đều có mặt trong diễn ngôn. Ẩn dụ quy chiếu thường phát sinh từ sự thay thế (substitution). Đại diện cho khuynh hướng này là Aristotle, Jakobson, Genette, Fontanier. Danh từ ẩn dụ thay thế cho một danh từ khác (mà nó thay thế) vắng mặt trong câu. Người ta có thể cải tả (paraphraser) câu này bằng cách thế danh từ làm ẩn dụ (métaphorisant) bằng danh từ được dùng làm ẩn dụ (métaphorisé). Ở đây, ẩn dụ chỉ quan tâm đến một từ duy nhất trong câu.

· Danh từ làm tán thán từ:

- Nàng tiên của tôi ơi!

Loại ẩn dụ này ít khi được khảo sát.

· Danh từ làm đồng vị ngữ (apposition)

- Người phụ nữ này, một đóa hoa của thành phố, đă đến dự hội

- Giáo sư X, một Einstein của thế kỷ 21, sinh trưởng ở Việt Nam

Trong những ẩn dụ như thế này, ta thấy sự có mặt của hai hạn từ, hạn từ ẩn dụ và hạn từ được ẩn dụ, nghĩa là một hạn từ nghĩa đen và một hạn từ nghĩa bóng.

· Danh từ làm bổ ngữ:

- Paris là trái tim của nước Pháp

- Nàng là vị cứu tinh của đời tôi

Loại ẩn dụ này có thể phân tích theo kiểu ẩn dụ tỷ lệ (proportionnelle), tức là ẩn dụ loại 4 của Aristotle:

- “Paris là trái tim của nước Pháp” có thể hiểu là “Paris đối với nước Pháp cũng như trái tim đối với cơ thể con người”.

- “Nàng là vị cứu tinh của đời tôi” có thể hiều là: “Nàng đối với cuộc đời tôi cũng như một người anh hùng đối với đất nước”.

· Danh từ làm bổ ngữ gián tiếp (complément indirect) hay bổ ngữ chỉ nơi chốn, phương tiện…

- Cách đây hai tuần tôi đă trải qua những ngày hè trong một thiên đường thực sự.

· Danh từ riêng:

- Tay Pisasso của thế kỷ này đă hoàn thành hai bức tranh kiệt xuất.

- Ông X, một Mozart của thế kỷ 21, đă từ trần hôm qua.

2. Ẩn dụ tính từ:

- tĩnh mạch hiu quạnh (Lưu Diệu Vân)

- t́nh yêu chín tới

- sân ga ngái ngủ

- dăy phố già nua

Kết hợp giữa danh từ và tính từ, ta có “ẩn dụ liên giác” (cross-sensory) hay “synesthesia”[ix] là sự kết hợp hai giác quan khác nhau. Ví dụ:

- giọng nói lạnh lùng (giọng nói: thính giác; lạnh lùng: xúc giác)

- cái nh́n sắc lẻm (thị giác + xúc giác)

- niềm vui rổn rảng (Chinh Yên),

- tiếng ch́a khóa lạnh lẽo, khô khốc tra vào cửa (Ngô Nguyên Dũng)

Cũng với cách kết hợp như thế, ta c̣n có “nghịch dụ” (oxymore)[x] là loại ẩn dụ mang lại gần hai hạn từ có ư nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ:

- nắng khuya (TCS)

- một nỗi dịu dàng cay đắng,

- một ánh lửa lạnh lẽo,

- un silence assourdissant/một sự lặng lẽ ồn ào; soleil noir/mặt trời đen (Beaudelaire)

- jeune vieillard/một ông già c̣n trẻ (Molière)

3. Ẩn dụ phân từ (participe): loại ẩn dụ này thường được t́m thấy khá phổ biến trong tiếng Pháp. Ví dụ: pétrifié d’étonnement (ngạc nhiên đến sững sờ), fondant en larmes (đầm đ́a nước mắt), glacé de crainte (lạnh cóng v́ sợ hăi), brûlé de désirs (cháy bỏng khát vọng)

4. Ẩn dụ trạng từ (phó từ):

- Nàng hôn tôi (một cách) nồng nàn, tôi nắm tay em (một cách) tha thiết; mưa vẫn bướng bỉnh rơi (rơi một cách bướng bỉnh), những cây súng nằm (một cách) hiền lành (Nguyễn Phan Thịnh)

5. Ẩn dụ động từ:

- chiều rơi, chiều buông, ươm nắng, lùa nắng cho buồn vào mắt em (TCS)

- Pháo bông đă làm tổn thương bầu trời

- Lời tuyên bố của bộ trưởng ngoại giao đă hàn gắn lại t́nh hữu nghị giữa hai nước.

Trong các loại ẩn dụ trên, những ẩn dụ động từ và tĩnh từ hay trạng từ thường đưa đến t́nh trạng vi phạm ngữ nghĩa (semantic violation) trầm trọng nhất, thậm chí đưa đến sự phi lư, sự lệch lạc (écart/deviation), nhưng lại khiến cho câu văn hay câu thơ đậm đà hơn, lạ lùng hơn và gây nhiều ấn tượng đặc biệt, đưa đến những chuyển biến ư nghĩa vô cùng phong phú. Mặt khác, sự lạm dụng loại ẩn dụ này cũng sẽ khiến cho văn phong trở nên màu mè, kênh kiệu và rỗng tuếch.

 

Thang ẩn dụ [xi]

Genette thành lập một thang ẩn dụ, từ những ẩn dụ hiển lộ (explicite) cho đến những ẩn dụ ngầm (implicite).

Lấy một ẩn dụ với hai yếu tố: t́nh yêu (amour) và ngọn lửa (flamme). T́nh yêu là cái được ẩn dụ (métaphorisé), tức là yếu tố chính (“tenor” theo Richards hay target/đích theo Lakoff). Ngọn lửa là cái tạo nên ẩn dụ (le métaphorisant), tức là yếu tố phụ (“vehicle” theo Richards hay “source”/nguồn theo Lakoff)[xii]. Mặt khác, thang này c̣n dựa vào hai tính chất căn bản: trội/có mặt và lặn/vắng mặt.

1. Ẩn dụ so sánh năng động:

T́nh yêu tôi cháy bùng như ngọn lửa.

Đặc tính của ẩn dụ này là:

- trội: chủ đề chính và chủ đề phụ đều có mặt.

- nghĩa tố (sème isolé) rơ ràng, đó là “cháy bùng”, một tính chất của nhiệt hay hơi nóng. Nó là điểm nối, là trung gian giữa hai yếu tố t́nh yêu và ngọn lửa, tạo ra một sự tương tự. Với sự có mặt của yếu tố trung gian này, ẩn dụ có tính chất năng động (motivée), xác định khiến ta không lẫn lộn với một vài tính chất khác, cũng của nhiệt như tạo ra ánh sáng, có sự linh động (lung linh)…

- có một hệ từ (modalisateur) là “như”. Chính hệ từ này đóng vai tṛ h́nh thức then chốt của ẩn dụ.

2. Ẩn dụ so sánh không-năng động:

T́nh yêu tôi giống như một ngọn lửa.

Ẩn dụ này có đặc tính:

- trội

- nghĩa tố ẩn tàng (implicite). Không cho ta biết tính chất của ngọn lửa để từ đó liên hệ với t́nh yêu. Ẩn dụ này là không-năng động, bất xác, để tùy nghi cho trí tưởng tượng.

- có hệ từ trung gian là “giống như”, có tính chất so sánh, ví von

3. Ẩn dụ đồng hóa năng động:

T́nh yêu tôi là một ngọn lửa rực cháy.

Ở đây, cần phân biệt giữa “so sánh” (comparaison) và “đồng hóa” (assimilation). Cả hai đều mô tả sự so sánh, nhưng khác nhau ở chỗ: so sánh th́ có hệ từ “như”, “giống như”, “y như” c̣n đồng hóa th́ không. Trong ví dụ này, hai yếu tố xem như “đồng hóa” nhau: t́nh yêu là ngọn lửa

Ẩn dụ này có đặc tính:

- trội.

- nghĩa tố rơ ràng, đó là “rực cháy”

- không có hệ từ trung gian.

4. Ẩn dụ đồng hóa không năng động:

T́nh yêu tôi là một ngọn lửa.

Ẩn dụ này có đặc tính:

- trội.

- nghĩa tố ẩn tàng, nó không cho ta biết t́nh yêu giống ngọn lửa ở cái ǵ. Người nghe sẽ tự đoán lấy, hay t́m biết ư nghĩa bằng cách dựa vào ngữ cảnh hay dựa vào t́nh trạng phát ngôn.

- không có hệ từ đối chiếu trung gian. Vai tṛ then chốt là động từ “là”.

Đây là một loại ẩn dụ mơ hồ v́ nó không có nghĩa tố, không có hệ từ trung gian. Có vẻ như là một định nghĩa hơn là ẩn dụ (nhưng mà là ẩn dụ!). Chẳng hạn như câu khẩu hiệu của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam: “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội”. Loại ẩn dụ loại này thường dược sử dụng trong tuyên truyền chính trị và quảng cáo, nhưng rất nguy hiểm, nhất là nếu được dùng trong nghiên cứu khoa học.

5. Ẩn dụ đồng hóa năng động nhưng không so sánh:

Ngọn lửa rực cháy của tôi.

Ẩn dụ này có đặc tính:

- trội

- nghĩa tố rơ ràng

- không có hệ từ trung gian

6. Ẩn dụ đồng hóa không- năng và động không- so sánh:

Ngọn lửa của tôi.

Ẩn dụ này có đặc tính:

- lặn: chỉ có yếu tố phụ, yếu tố làm ẩn dụ là “ngọn lửa” có mặt nhưng yếu tố chính, yếu tố ẩn dụ là “t́nh yêu” không có mặt.

- nghĩa tố ẩn tàng

- không có hệ từ trung gian.

Hai loại ẩn dụ cuối cùng này gần với ẩn ngữ (énigme).

Các h́nh thức ẩn dụ theo trường phái “Ngữ học nhận thức” (cognitive linguistic view)

Các ẩn dụ ư niệm có thể sắp xếp theo nhiều h́nh thức khác nhau tùy theo các cách khác nhau. Zoltan Kovecses[xiii] đề ra bốn cách xếp loại:

1. Xếp loại theo mức độ quy ước (Conventionality): Theo cách sắp xếp này, ở hai cực, ta sẽ có ta sẽ có hai mức độ:

- Mức độ quy ước cao (highly conventional/conventionalized). Đó là những ẩn dụ được sử dụng b́nh thường trong đời sống hàng ngày do những người b́nh thường nhằm đến những mục đích b́nh thường. Do đó, một số ẩn dụ trở thành độc đoán (arbitrary), sáo, ṃn đến nỗi không ai nhận ra là ẩn dụ. Nói khác đi, đó là những ẩn dụ đă được từ vựng hóa (…)

- Phi-quy ước hay mới mẻ (unconventional/novel). Đó là những ẩn dụ hoàn toàn mới mẻ, độc đáo do các nhà văn, nhà thơ sáng tạo ra và chưa hề được ai dùng trước đó. Những ẩn dụ này được t́m thấy trong các bài thơ.

2. Xếp loại theo chức năng nhận thức (Cognitive function): Sắp xếp theo cách này, các ẩn dụ sẽ được xem như là những ẩn dụ ư niệm, nghĩa là chính ư niệm trong chúng ta đă mượn ngôn ngữ để thể hiện. Có ba loại:

a. Ẩn dụ cơ cấu (structural metaphors): trong loại ẩn dụ này, lănh vực nguồn sẽ cung cấp cơ cấu nhận thức cho lănh vực đích. Ví dụ: thời gian trôi (như bóng câu qua cửa sổ) (xem thời gian như một vật đang chuyển động). Dùng vật chuyển động để hiểu khái niệm về thời gian.

b. Ẩn dụ thực thể (ontological metaphors): Đây là những ẩn dụ cho ta nh́n thấy một loại thực thể có một cấu trúc rơ ràng đối với các phạm trù và ư niệm trừu tượng. Nói cách khác, để hiểu những ư niệm trừu tượng như tinh thần, hạnh phúc, danh vọng…, ta h́nh dung chúng như những vật cụ thể. Chẳng hạn như xem tinh thần là một bộ máy hay một cái thùng chứa. Đầu óc tôi sáng này rỗng không (xem tinh thần như một b́nh đựng đồ vật); Leo lên đỉnh cao danh vọng (xem danh vọng như một trái núi). Nhân cách hóa là một h́nh thức của ẩn dụ thực thể.

c. Ẩn dụ định hướng (orientational metaphors): là những ẩn dụ nhận thức dựa vào các định hướng không gian căn bản của con người, chẳng hạn như cao, thấp, trong, ngoài, trên dưới. Cái ǵ thuộc về hạnh phúc, niềm vui, danh vọng, giàu sang, thành công thường được hiểu như đi lên, cao; ngược lại, cái ǵ thuộc về thất bại, buồn chán, nghèo đói, bần cùng được hiểu như thấp, đi xuống. Ví dụ: Rớt xuống bùn nhơ, lên đài vinh quang. Cái ǵ thuộc về bên trong thường có ư nghĩa gần gũi, thân mật, gắn bó; cái ǵ thuộc về bên ngoài là xa lạ, lỏng lẻo. Ví dụ: con cháu ngoại, con cháu nội.

3. Xếp loại theo bản chất:

- Ẩn dụ dựa trên kiến thức (knowledge metaphor)

- Ẩn dụ dựa trên h́nh ảnh (image metaphor), c̣n được gọi là ẩn dụ đồ-h́nh (image-schema metaphor).

4. Xếp loại dựa trên mức độ tổng quát:

- Ẩn dụ mức độ phổ quát (generic-level)

- Ẩn dụ mức độ đặc thù (specific level)

Dù đề ra bốn cách xếp loại, trong thực tế, v́ cho rằng ẩn dụ có tính cách ư niệm từ trong bản chất, và do đó, bao hàm chức năng nhận thức, nên cách xếp loại dựa theo chức năng nhận thức (loại 2 trên đây) là cách xếp loại căn bản của trường phái “Ngữ học nhận thức”. Quan điểm này sẽ được thảo luận một cách chi tiết trong một bài khác bàn về tính cách ư niệm trong ẩn dụ.

(C̣n tiếp)

Chú Thích:

[i] Aristotle, Poetics, bản dịch Anh văn của Ingram Bywater, NewYork 1984, có tham khảo thêm Umberto Eco, Semiotics and the Philosophy of Language, Indiana University Press, 1984, phần 3, Metaphor, từ tr. 87-129.

[ii] Xếp loại từ nhỏ đến lớn như sau: species (loại), genus (giống), family (họ), order (bộ), class (cấp)…

[iii] Umberto Eco, Semiotics & the Philosophy of Language, Indiana University Press, 1986, tr. 92-93.

[iv] Sowing to seed as X to sun rays, while the action of the sun in scattering his rays is nameless; still this process bears to the sun the same relation as sowing to the seed.

[v] Eco, sđd, tr. 94.

[vi] Xem thêm bài “Nhận diện ẩn dụ”, cùng tác giả, phần nói về hoán dụ và đề dụ, damau.org.

[vii] Pierre Fontanier, Les figures des discours, Flammarion, Paris 1977 (101-103).

[viii] Tham khảo Catherine Détienne, “Quelle est la forme lexicale et la fonction grammaticale de cette métaphore”?

[ix] Synesthesia (Greek, syn = together + aesthesis = perception) is the involuntary physical experience of a cross-modal association.

[x] Oxymore : une figure de style qui vise à rapprocher deux termes (un nom et un adjectif) que leurs sens devraient éloigner, dans une formule en apparence contradictoire. (Wikipédia).

[xi] Genette (1970) (Dẫn theo C. Détienne), http://www.info-metaphore.com/grille/explicite-implicite-tertium-comparationis-comparaison-motivee-in-praesentia-absentia.html

[xii] Về các khái niệm tenor/vehicle hay target/source, xem Trần Hữu Thục, Nhận diện ẩn dụ: ẩn dụ và hoán dụ, phần bàn về “Đụng độ ngữ nghĩa”, trang mạng Da Màu ; xem thêm Ẩn dụ / qua ḍng lịch sử, phần 2, cùng tác giả, trang mạng Da Màu, đoạn bàn về tác giả Richards.

[xiii] Zoltan Kovecses, Metaphor, a Practical Introduction, Oxford University Press, NY 2002, tr. 29-41

 

Các h́nh thức ẩn dụ

(phần 2)

 

Trần Hữu Thục 

 

Thinking Outside the Box (Cách Suy Nghĩ Vượt Hộp) là thành ngữ trong tiếng Anh

và cũng là một ẩn dụ về tinh thần sáng tạo.

Các h́nh thức ẩn dụ tổng quát

Ngoài các h́nh thức ẩn dụ được những nhà nghiên cứu về ẩn dụ đề ra trên đây, ta c̣n t́m thấy sự phân loại các ẩn dụ một cách tổng quát dựa trên cấu trúc, tính cách, nội dung của những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, nhà chính luận…[i]

· Ẩn dụ đơn giản (simple metaphor)

Là ẩn dụ qua đó ư nghĩa từ chủ đề phụ chuyển cho chủ đề chính có tính cách phổ thông, tương đối đơn giản, không đ̣i hỏi nhiều nỗ lực từ người nghe nếu muốn hiểu.

- Niềm vui đă trở lại với nàng (nàng vui vẻ)

- Cô ta ăn nói độc mồm độc miệng (lời nói ác)

- Hắn nổi nóng (nổi giận)

Ẩn dụ đơn giản c̣n được gọi là ẩn dụ chặt (tight metaphor)

· Ẩn dụ ch́m (submerged metaphor)

Khác với ẩn dụ đơn giản, trong ẩn dụ ch́m, phải trải qua một hoặc hai bước liên tưởng mới có thể hiểu được ẩn dụ.

- Tiền không mọc trên cây

“Mọc trên cây” làm liên tưởng đến “lá” hay “cành”; lá hay cành phát triển tự nhiên, dễ dàng, không tốn nhiều công sức. Ư nghĩa chính: kiếm tiền không dễ dàng.

· Ẩn dụ khuyết (dormant metaphor)

Là ẩn dụ trong đó, liên hệ giữa chủ đề chính và chủ đề phụ không rơ ràng. Nó có thể được h́nh thành khi một câu chưa hoàn chỉnh hay bị giản lược.

- Tôi bị lạc lối trong suy tưởng.

- Nàng đánh rớt t́nh yêu.

Ẩn dụ khuyết ít gây ấn tượng, v́ nó không đưa ra một h́nh ảnh toàn diện. Y như thể nó c̣n ngái ngủ (dormant).

· Ẩn dụ hoạt động (active metaphor ), c̣n gọi là ẩn dụ tươi sống (vive metaphor)

Là ẩn dụ chưa hề được dùng bao giờ trước đó. Có thể xem đó là ẩn dụ mới, một sáng tạo của nhà văn hay nhà thơ. Ẩn dụ mới là cách dùng chữ mới mẻ để truyền đạt một ư mới mẻ, có khi là hoàn toàn mới mẻ, thường được sử dụng trong thơ hay trong những bài diễn văn hùng biện nhằm kích thích cảm quan của người nghe. Thường thường là từ ngữ và ư nghĩa của nó không dễ dàng hiểu ngay, đ̣i hỏi người nghe phải suy nghĩ về cách dùng và ư định của tác giả. Những ẩn dụ mới thường kén chọn độc giả, v́ đ̣i hỏi trí tưởng tượng, sự thấu hiểu về thơ và kiến thức. Nếu khéo chọn chữ và h́nh ảnh, ẩn dụ sống sẽ là dấu hiệu của tài năng; nếu không khéo chọn, nó sẽ trờ thành một lối nói hoa mỹ dở dang. Ẩn dụ này c̣n được gọi là ẩn dụ sống (live metaphor)

- Mỗi tiếng hát như một lát dao băm vào vết đau khổ trong ḷng ḿnh (Chinh Ba)

- Hơi thở thơm ngát

- Anh dốc ngược đời ḿnh (Cao Thoại Châu)

- Mà ḷng ḿnh phơi trên kè đá (Thanh Tâm Tuyền)

Lời nhạc Trịnh Công Sơn là một kho ẩn dụ hoàn toàn mới mẻ vào thời điểm mà chúng xuất hiện. Nó mới mẻ và sống động đến nỗi cho đến bây giờ, năm mưoi năm sau, một số trong chúng vẫn c̣n mới mẻ, vẫn gây ra một cảm giác thích thú y như khi chúng mới xuất hiện lần đầu. Chúng vẫn c̣n là những ẩn dụ sống;

- Đôi khi trên mái t́nh ta nghe những giọt mưa, t́nh réo t́nh…sầu réo sầu…; Môi nào hăy c̣n thơm, cho ta phơi cuộc t́nh; Treo t́nh trên chiếc đinh không. Vân vân

Tuy nhiên, thật ra, khó mà nói một ẩn dụ là tươi mới hay không, v́ ngôn ngữ phát triển hàng ngày. Cái ta tưởng là ẩn dụ mới, độc sáng, có thể đă có ai đó dùng rồi, đâu nó, mà ta không có dịp tiếp cận. Đó là ngày trong phạm vi nhỏ của một nền văn hóa như ở Việt Nam. C̣n rộng ra trên thế giới và từ cổ chí kim th́ thật khó mà kiểm chứng tính mới mẻ và sáng tạo của một ẩn dụ. Tuy nhiên, trừ trường hợp đạo văn, đạo thơ, mới vẫn là mới. Ẩn dụ tươi sống luôn luôn là dấu hiệu của tài năng.

· Ẩn dụ ẩn tàng (implicit metaphor)

Là loại ẩn dụ ta không t́m thấy ngay ư nghĩa của nó trong một câu hay một đoạn văn, thơ. Những ẩn dụ này đ̣i hỏi phải đặt trong ngữ cảnh của bài văn, bài thơ hay trong khung cảnh của một sự kiện, một giai đoạn lịch sử, một biến cố nào đó.

 

Ta nhặt từng trang sách rách toang

đứa ngu đă xé vứt ra đường

ta gom từng hạt cây luân lạc

mong mỏi gầy lên một địa đàng

(Tô Thùy Yên, “Mùa hạn”)

 

Ta chỉ có thể hiểu ẩn dụ bao hàm trong đoạn thơ nếu đặt trong ngữ cảnh của bài thơ Mùa Hạn, đồng thời chứng kiến cảnh những người Cộng Sản thi hành chính sách gọi là “bài trừ văn hóa đồi trụy” (đốt sách) sau biến cố tháng 4/1975 ở miền Nam.

· Ẩn dụ phức hợp (complex metaphor)

Xảy ra khi một ẩn dụ đơn là cái nền cho một ẩn dụ thứ hai. Ví dụ: “ánh sáng ném đến” (throwing light). Ở đây ánh sáng là ẩn dụ để chỉ kiến thức. Thay v́ nói “Ánh sáng soi chiếu” (shining light) th́ lại dùng “ném” (throwing). “Ném” là ẩn dụ thêm vào dựa trên ẩn dụ thứ nhất là “soi chiếu.”

· Ẩn dụ ghép (compound metaphor)

 

Ẩn dụ gồm có nhiều thành tố ẩn dụ kế tục nhau, mỗi một thành tố có thể được dùng để tạo thêm nghĩa mới, nhất là khi được tăng cường thêm bởi những trạng từ hay tính từ.

 

Là cô liêu chói chang

Tinh âm buốt hết nàng

Nằm chết xanh tuyệt đối

Một trời thơ đỏ ối

Ta khóc rống ly tan

Mưa trong veo hồn đàn

(Nguyễn Lương Vỵ, trong “Tinh âm”)

 

Trong đoạn thơ trên, tác giả tạo ra những ẩn dụ riêng biệt nhưng kết nối vào nhau. Có thể nói trong lúc “ẩn dụ phức hợp” gồm những ẩn dụ kế tiếp nhau, cái này tạo điều kiện cho cái kia th́ ẩn dụ ghép là một cú ra đ̣n liên tiếp, ẩn dụ này chồng lên ẩn dụ kia, tạo ra một ấn tượng dịch chuyển đột ngột. Những cụm từ như “chói chang”, “buốt”, “chết xanh”, “đỏ ối”, “khóc rống” vừa có tính cách tính từ lại vừa có tính cách trạng từ tăng cường tối đa sức mạnh của ẩn dụ.

Loại ẩn dụ c̣n được gọi là ẩn dụ lỏng (lẻo) (loose metaphor).

 

· Ẩn dụ mở rộng (extended metaphor)

Là ẩn dụ khi chủ đề chính được tăng cường với những chủ đề phụ và các ẩn dụ bổ sung khác.

 

Tay chới với bên đời

Khi xác thân là điểm tựa

Anh chọn hoài một phút xa anh

để thấy anh c̣n đó

đong đưa đời ḿnh trên chiếc dây đu

ôi tấm thảm oan khiên giăng chờ anh phía dưới

liều lĩnh nào cũng chỉ dẫn nỗi sầu qua

(Hà Nguyên Thạch)

 

Khác hẳn với loại “ẩn dụ ghép” trên kia, qua đó, ta không t́m thấy một chủ đề nào rơ rệt, đoạn thơ trên được triển khai bằng những ẩn dụ bổ sung lẫn nhau, đề cập đến một chủ đề chính: tính chất mong manh của đời sống trong thời nhiễu nhương.

 

· Ẩn dụ gượng (mixed metaphor)

Cũng có thể gọi là “hỗn dụ”, là loại ẩn dụ trong đó các yếu tố tạo thành ẩn dụ không gắn kết với nhau hoặc nếu có gắn kết th́ cũng rất gượng gạo, nên không làm nổi bật chủ đề chính. Có thể nói ẩn dụ gượng là loại ẩn dụ được sử dụng bởi những tay mơ, sính dùng cách nói hoa ḥe, nhưng sáo rỗng.

The waves of emotion have punctured my heart. (Những đợt sóng xúc cảm đă đâm thủng trái tim tôi)

Ẩn dụ thương có tính cách đụng độ ngữ nghĩa, nhưng không phải bất cứ một đụng độ ngữ nghĩa nào cũng tạo nên ẩn dụ thực sự có giá trị. Câu phát ngôn trên là một cấu trúc ẩn dụ. Ví von các đợt sóng với cơn xúc động th́ nghe hợp lư, nhưng xem đợt sóng như con dao/một vật nhọn để “đâm thủng” trái tim th́ rơ là quá gượng gạo.

 

· Ẩn dụ tuyệt đối (absolute metaphor )

Một ẩn dụ tuyệt đối là ẩn dụ tuyệt đối không có một mối liên hệ nào giữa chủ đề và ẩn dụ, không có một sự tương tự nào, dù xa hay gần giữa chủ đề chính và chủ đề phụ. Ẩn dụ tuyệt đối c̣n được gọi là siêu dụ (pataphor) hay phản dụ (antimetaphor). Đó là một h́nh thức ẩn dụ tối đa, chạm đến giới hạn, nơi ẩn dụ chính không được nêu ra, chỉ có những ẩn dụ mở rộng được sử dụng mà không cần quy chiếu:

He put brakes on his fear, accelerated his anger and rammed into the house.

(Hắn hăm (phanh) nỗi sợ, nhấn ga (tăng tốc) sự giận dỗi và đâm sầm vào căn nhà)

Ẩn dụ nói chung là mang đến những ấn tượng mới mẻ, nhưng trong h́nh thức cực đoan của nó, siêu dụ mang lại những điều cực mới đến chừng như vô nghĩa và bí hiểm. Siêu dụ lần đầu tiên được diễn tả bởi tác giả Pablo Lopez, dựa trên khái niệm về một thứ “khoa học” gọi là “pataphysics” do Alfred Jarry (1873–1907) đề ra.[ii]

Trong văn học Việt Nam, có thể xem lời của hai bản nhạc “Vết lăn trầm” và “Dấu chân địa đàng” của Trịnh Công Sơn là một loại siêu dụ.

Vết lăn vết lăn trầm

Hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền

Như có lần chim muông hằn dấu chân

Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà

Rộng đôi cánh tay chờ mong

Người chợt nhớ ḿnh như đá, đá lăn vết lăn trầm

(“Vết lăn trầm”)

Ngựa buông vó người đi chùng chân đă bao lần

Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng

Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng

Một đời bỏ ngỏ đêm hồng

Ngoài trời c̣n dâng nước lên mắt em.

(“Dấu chân địa đàng”)

Đây là một cấu trúc chữ khác thường, dùng ngôn ngữ để phá ngôn ngữ. Lời ca dường như không chuyển tải một ư nghĩa nào, hay nếu có, là một ư nghĩa cực kỳ mơ hồ. Những ẩn dụ như thế chứa đựng trong lời ca này hoàn toàn tách rời khỏi hiện thực. Ư nghĩa của nó, nếu có, nằm ngay trong cấu trúc ngôn ngữ. Có thể nói ư nghĩa của nó được t́m thấy trong sự vô nghĩa. [iii]

 

· Ẩn dụ gốc (Root metaphor)

Là ẩn dụ ăn sâu trong một ngôn ngữ hay một nền văn hóa, trở thành một quan niệm sống hay là một cách hành xử b́nh thường trong một nền văn hóa nào đó. Thời gian là tiền bạc: ví von thời gian với đồng tiền là quan niệm chủ đạo của con người sống trong một xă hội công nghiệp (khác với cách ví von: thời gian là bóng câu qua cửa sổ); Con trâu là đầu cơ nghiệp: xem sức kéo là điều kiện đầu tiên để làm giàu trong một xứ nông nghiệp; Cuộc đời là một giấc mộng: một cách nh́n bi quan về cuộc sống của người Á đông.

Ẩn dụ gốc thường gắn liền với một nền văn hóa nào đó, trong một giai đoạn nào đó mà không t́m thấy ở những nền văn hóa khác ở một giai đoạn khác.

 

· Ẩn dụ ư niệm (Conceptual metaphor)

Là loại ẩn dụ không bày tỏ một cảm xúc cá nhân về một hoàn cảnh đặc thù, mà chứa đựng một ư niệm triết lư nào đó. Ở đây, ẩn dụ được dùng như một cách nh́n thế sự và cuộc nhân sinh.

 

có lẽ huyền thoại

đă bỏ chúng ḿnh lại

giữa thân xác rách đôi

để nhắc nhở sự thật sau cùng

là chưa từng có

biển hay mặt trời

chỉ có

vết thương kinh niên của nước

nỗi vô vọng mù ḷa của lửa

cũng như chưa từng có

em hoặc tôi

chẳng qua

là hai bàn tay

quờ quạng suốt đời trong quên lăng

thế thôi

(Chân Phương)

 

Ngôn ngữ nhẹ nhàng, mềm mại như một áng thơ t́nh, nhưng lại ẩn chứa một cảm thức siêu h́nh: ư niệm về sự chênh vênh của con người và/trong vũ trụ.

Cũng cần phân biệt: ẩn dụ ư niệm ở đây khác với quan niệm cho rằng “ẩn dụ là ư niệm” của Lakoff. Ẩn dụ ư niệm, sau khi Lakoff and Johnson công bố tác phẩm “Metaphors We Live By” thành lập nên trường phái “Ngữ học nhận thức” (cognitive linguistics), không phải là một h́nh thức ẩn dụ, mà là một quan điểm về ẩn dụ. Theo quan điểm này, ẩn dụ có tính ư niệm ngay trong bản chất. Nghĩa là, không phải chỉ có một số ẩn dụ nào đó thuộc về h́nh thức ư niệm, mà tất cả những ẩn dụ đều là ư niệm. Lakoff và Johnson dùng chữ “ẩn dụ” để chỉ những đồ chiếu ư niệm (conceptional mappings) bởi v́ chúng là cái duy nhất chịu trách nhiệm về hiện tượng được gọi một cách truyền thống là ẩn dụ. Chính ư niệm nằm đàng sau ngôn ngữ và khiến cho ngôn ngữ tạo ra ẩn dụ. [iv]

 

· Ẩn dụ chết (dead metaphor)

Những ẩn dụ do được sử dụng quá nhiều, lập đi lập lại qua thời gian, dần dà mất hết đi tính cách tươi tắn, sáng tạo và trở thành một ư tưởng hay h́nh ảnh thông thường. Ví dụ: ḍng đời, lăng phí thời gian, ngập đầu trong công việc, mở mang trí tuệ, chiếm đoạt t́nh yêu, con tim rung động, hại sức khỏe (hút thuốc có hại cho sức khỏe), xâm phạm tiết hạnh, hỏi thăm sức khỏe (sở thuế vụ đă đến hỏi thăm sức khỏe anh ta), Sở Khanh (hắn ta nổi tiếng là một tay sở khanh), vân vân.

Nhiều nhà ngữ học không chấp nhận cái gọi là ẩn dụ chết, v́ ẩn dụ là ẩn dụ, không chết và cũng không sống. Người ta xem đó như là hiện tượng của một ẩn dụ đă trở thành quy ước, ḥa tan trong ngôn ngữ hàng ngày, nhưng bản chất vẫn là ẩn dụ. Do đó, ẩn dụ chết không hề là một loại h́nh riêng biệt của ẩn dụ, mà chỉ là một quan niệm về ẩn dụ. Ẩn dụ chết, thực ra, là ẩn dụ từ vựng (lexical metaphors), nghĩa là ẩn dụ đă biến thành từ vựng, ghi lại trong tự điển, trở thành cách dùng phổ biến trong một cộng đồng bản ngữ. Mặt khác, một ẩn dụ có thể là “chết” ở một nơi này, đối với người này, vào thời điểm này nhưng vẫn là “sống” ở một nơi khác, với một người khác hay tại một thời điểm khác.

 

· Ẩn dụ ṃn (dying metaphor)

Hạn từ này xuất hiện lần đầu tiên trong bài tiểu luận Politics and the English Language của George Orwell [v]. Đó là thứ thứ ẩn dụ đă được sử dụng quá nhiều đến nỗi nó không c̣n hiệu lực như một ẩn dụ và xem như ẩn dụ chết, nhưng nó vẫn có thể được dùng trở lại với tính cách sống động của nó.

Có thể lấy ví dụ từ một đoạn thơ của Tô Thùy Yên để hiểu rơ h́nh thức ẩn dụ này:

 

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này

(Tô Thùy Yên)

 

Đoạn thơ hầu như sử dụng lại những ẩn dụ khá cũ càng (lá rơi về cội, bếp lửa nhân quần, rượu hồng, cuộc biển dâu), nhưng do cấu trúc mới mẻ, nên tất cả như được hồi sinh và hồi sinh dưới một h́nh thức mới.

Với cách hiểu này, ta nhận thấy rằng ẩn dụ tự nó không ṃn(và cũng không chết/ẩn dụ chết). Cái ṃn, cái chết là do cách sử dụng. Ví dụ:

Anh ơi, đừng vội bóp nát trái tim em, đừng gian dối t́nh em nghe anh.

Câu hát chứa đầy ẩn dụ, nhưng nghe sáo rỗng, màu mè và chẳng ẩn dụ tí nào!

 

· Giả tá (catachresis)[vi]

Giả tá được định nghĩa như là “cách dùng không đúng cách của một từ” (improper use of a word), nghĩa là dùng chữ để diễn tả một điều không có nghĩa trong ngôn ngữ đương dùng. Thông thường nhất, người ta dùng một bộ phần nào đó của cơ thể (đầu, chân, tay, miệng, cổ…) để nói về các phần của sự vật. Ví dụ như: chân bàn (leg of a table), đầu kim (head of a pin), chân núi (foot of a mountain), chân trời, miệng chén… Ngoài ra, người ta c̣n dùng sự vật này để nói về sự vật khác: cạnh đáy (một tam giác), cửa sông (phần con sông tiếp giáp với biển/nơi nước sông bắt đầu đổ ra biển). Theo Fontanier, “catachresis” cũng là một loại chuyển nghĩa (tức là dụ pháp) nhưng là chuyển nghĩa ép (forcé). Lư do là v́ ở đây, không có sự chọn lựa một từ nghĩa bóng thay cho một từ nghĩa đen, do đó, không phải là ẩn dụ. Chính v́ thế, h́nh thức giả tá, nếu được xử dụng như những ví dụ về ẩn dụ, lại không cho ta cảm giác như đó là ẩn dụ.

Max Black xem giả tá là cách dùng một chữ trong một nghĩa mới nhằm bù vào sự thiếu hụt trong từ vựng, nghĩa là nhằm lấp đầy cái được gọi là “khoảng trống ngữ nghĩa” (lacune sémantique).

Thực ra, ta có thể dùng h́nh thức ẩn dụ số 4, ví dụ c trong cách phân loại ẩn dụ của Aristotle để giải thích các ví dụ về h́nh thức giả tá nêu trên. Xin nêu trở lại cách mà Umberto Eco áp dụng h́nh thức ẩn dụ số 4 đưa ra trong phần đầu tiên của bài viết này để giải thích cách h́nh thành “giả tá”:

- Chân núi: ví cái chân đối với con người tương tự phần phía dưới (chưa có tên) của ḥn núi.

- Miệng giếng: ví cái miệng đối với con người tương tự như phần phía trên (chưa có tên) của cái giếng.

- Cửa sông (biển): ví cái cửa đối với ngôi nhà tương tự như phần phía cuối sông (chưa có tên) nơi nước đổ ra biển.

- Cạnh đáy: ví đáy của một cái chai tương tự như cạnh nằm ngang phía dưới (chưa có tên) của một tam giác.

Hiểu như thế, th́ giả tá là một h́nh thức ẩn dụ như mọi ẩn dụ b́nh thường khác: mái t́nh, phiến buồn….

· Ẩn dụ điển tích (allusion)

Điển tích hay điển cố có nghĩa là chuyện hay sự kiện được chép trong kinh sách cũ. Ở đây tôi tạm dùng chữ điển tích với nghĩa rộng hơn để dịch chữ allusion là một loại ẩn dụ qua đó, những nhân vật, nơi chốn, các sự kiện xảy ra, có thật trong đời sống hay hư cấu trong tác phẩm văn chương, nghệ thuật được sử dụng như là yếu tố làm ẩn dụ. Ngô Tự Lập, trong bài “Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích [vii] c̣n đi xa hơn: “Khi nói đến điển tích, ta thường nghĩ đến một câu chuyện hay sự kiện, nhưng thực ra mỗi thành ngữ cũng là một điển tích. Đằng sau những thành ngữ như “ba chân bốn cẳng”, “con ông cháu cha”, hay “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”… rất có thể đă từng có một câu chuyện nay đă thất truyền, nhưng ngay cả những thành ngữ như “mắt ốc nhồi”, “đồ mặt mo”…cũng dẫn chiếu đến một kư ức chung, cái gọi là “nghĩa” của thành ngữ.

Truyện Kiều hay Cung Oán Ngâm Khúc, chẳng hạn, chứa đựng rất nhiều ẩn dụ điển tích. Và ngược lại, những nhân vật trong Kiều như Sở Khanh hay Tú Bà…hay những nhân vật trong “Chí Phèo” của Nam Cao như Chí Phèo, Thị Nở cũng được sử dụng làm ẩn dụ điển tích trong văn chương về sau. Tựa đề câu chuyện hay một câu nói của nhân vật trong truyện, có khi cũng trở thành ẩn dụ điển tích: Biết rồi, khổ lắm nói măi, anh phải sống, chuyện thường ngày ở huyện… Gần đây nhất, những biến cố chính trị hay sự kiện xă hội cũng là những ẩn dụ điển tích: Arab spring [viii], cách mạng hoa lài.

Ví dụ: Với bộ máy kềm kẹp của nhà nước Cộng Sản, Arab Spring (hay cách mạng hoa lài) không dễ dàng diễn ra ở Trung Quốc.

Chú thích:

[i] Tham khảo ở trang mạng “Changingminds,” http://changingminds.org/techniques/language/metaphor/metaphor.htm

[ii] Xem ở http://en.wikipedia.org/wiki/%27Pataphysics .

[iii] Thực ra, đối với tác giả, cái tưởng là vô nghĩa (trên văn bản) bao giờ cũng đầy ư nghĩa. Xin đọc một trích đoạn đề cập đến bài hát “Dấu chân địa đàng” sau đây: “H́nh ảnh “dạ lan” được nhắc tới trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”: “Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng”. Ca khúc này c̣n có tên là “Tiếng hát dạ lan”. Nhà Dao Anh (cách nhà Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú Cam) trồng nhiều hoa dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà Dao Ánh mà c̣n lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức thư t́nh tha thiết, da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Dạ lan giờ này chắc đă ngạt ngào cả một vùng tối đó rồi, đă cài lên từng sợi tóc của Ánh” (thư Blao, 31.12.1964), “Anh ao ước bây giờ mở cửa ra bỗng dưng có chiếc cầu bắc qua ḍng sông và anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải đi đến căn nhà có mùi thơm dạ lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ Ánh nghe” (thư Blao, 26.9.1965).

Cũng trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”, bên cạnh h́nh ảnh “dạ lan” là h́nh ảnh “loài sâu” được nhắc đi nhắc lại với nhiều trạng thái như ngủ: “Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong tóc chiều”, ca hát: “Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng”, giải thoát ưu phiền: “Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền”. Loài sâu này chính là một phiên bản khác của phận người, ôm chứa những buồn vui của nhân sinh, điều này càng được thấy rơ hơn trong những bức thư của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Ngôn ngữ đă mất đi với những ngày nằm co như một loài – sâu – chiếu ở Blao” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Ở đây cũng có loài sâu đất reo đêm” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở băi cỏ” (thư Blao, 23.10.1964), “Đêm đă lạnh và đă buồn. Cây cỏ lao xao. Anh chỉ c̣n nghe rơ tiếng sâu đất và tiếng dế reo… ” (thư Blao, 29.12.1964), “Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đă reo lên âm thanh rất nhọn” (thư Blao, 23.9.1965), http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c247/n8824/Thu-tinh-gui-mot-nguoi-cuon-sach-giai-ma-ca-tu-va-soi-chieu-con-nguoi-Trinh-Cong-Son.html

[iv] Lakoff, “More Than Cool Reason, ” (University of Chicago Press, 1989) tr. 138. Quan điểm này sẽ được tŕnh bày chi tiết ở bài “Ẩn dụ và ư niệm.”

[v] A newly invented metaphor assists thought by evoking a visual image, while on the other hand a metaphor which is technically “dead” (e.g., iron resolution) has in effect reverted to being an ordinary word and can generally be used without loss of vividness. But in between these two classes there is a huge dump of worn-out metaphors which have lost all evocative power and are merely used because they save people the trouble of inventing phrases for themselves, https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/orwell46.htm .

[vi] Theo “Từ điển Pháp-Việt” của Đào Duy Anh (mượn tạm).

[vii] Ngô Tự Lập, Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích .

[viii] C̣n được gọi là Arab Revolution (Cách mạng Á Rập) hay cách mạng hoa lài: chỉ những làn sóng nổi dậy cách mạng của nhân dân diễn ra trong các nước Á Rập (Tunisia, Ai Cập, Lybia) bắt đầu từ ngày 18/10/2012 tại Tunisia, nơi hoa lài tượng trưng cho đất nước này.

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

 

 

 

 

http://www.youtube.com/user/khieuvusaigon#g/u

http://www.youtube.com/user/vgdoanchinhthuan?feature=watch

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: