CHÍNH NGHĨA

 

   

Chính Nghĩa Tự Có Tính Thuyết Phục - Nhân Nghĩa Tự Có Tính Cảm Hoá

TƯ DUY “LOGIC” CỦA HÀ SĨ PHU

VỀ CHỦ NGHĨA XĂ HỘI VÀ

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT-NAM.                      

 

  Hoàng đạo Thế-Kiệt

 

 

Lời Giới Thiệu. Cách đây 12 năm mấy bài tham luận về chính t́nh đất nước của Phó Tiến sĩ Hà-sĩ-phu lần đầu tiên xuất hiện tại hải ngoại. V́ đây là mấy tiểu luận cực kỳ quan trọng, và dường như chưa có ai đào sâu vào “tư duy” phản kháng của ông, tác giả đă viết bài này. Bài đă được đăng trên nguyệt san Bách Việt số tháng 8/94 và tuần báo Thời luận, từ số ra ngày 22-5-94 đến số ra ngày 31-7-94...

Nhận thấy lúc này phong trào dân chủ và những nhân vật đối kháng trong nước đang được dư luận chú ư, đặc biệt là việc góp ư với đại hội X đảng Việt cộng đang sôi nổi -trong đó có đề cập đến vấn đề dân chủ hoá và loại trừ chủ nghĩa cộng sản- nên người viết phổ biến lại bài này.

Sau 12 năm tất nhiên đă có ít nhiều thay đổi, nhưng về căn bản th́ vấn đề vẫn y nguyên như cũ.

Qua bài này người đọc sẽ thấy từ gần hai thập niên trước Hà-sĩ-phu đă nói rất rơ tại sao phải bỏ chủ nghĩa xă hội/cộng sản, và nhất là đă nh́n thấy con đường mà cộng đảng đang đi như thế nào, về vụ dùng công cụ đấu tranh ‘vô sản chuyên chính’ để xây dựng tư bản đỏ. Vào thời điểm đó mà đă viết được như vậy th́ quả thật là sáng suốt và can đảm, tuy rằng chưa nói được hết.

                                                          *****

MẤY LỜI MỞ ĐẦU

 

Đă mấy năm nay tôi không viết một bài nào, mặc dầu đôi khi vẫn muốn viết. Nhưng sau khi đọc 3 bài “Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ” (bài I), “Biện chứng và Ngụy biện trong công cuộc đổi mới” (bài II), và “Đôi điều suy nghĩ của một công dân” (bài III) của Tiến sĩ Hà sĩ phu th́ tôi bỗng thấy hứng khởi và có nhu cầu để viết.

Hà-sĩ-phu, theo lời tự giới thiệu của ông, tên thật là Nguyễn xuân Tụ, sinh năm 1940 tại Hà Bắc (Bắc Ninh), đậu Phó Tiến sĩ Sinh học tại Tiệp Khắc, và công tác tại viện Khoa học Việt-Nam. Theo một lời giới thiệu khác th́ ông đă từng làm Phó Giám đốc Trung tâm Khoa học Đà-lạt và đă nhiều lần là “đối tượng” của đảng cộng sản. Tuy nhiên ông không được kết nạp v́ bị coi là trí thức, tiểu tư sản, hay dao động, dù rằng gia đ́nh ông thuộc thành phần trung-nông-nghèo, và trong cải cách ruộng đất đă được “đảng” chia cho một cái ao. Nhưng Hà-sĩ-phu bất cần. Ông tuyên bố thẳng:”Tôi dị ứng với chủ nghĩa xă hội (CNXH hay XHCN) và nhất quyết chọn đến cùng tiếng nói của lương tri, bất chấp những vây hăm, đe dọa, và cả mua chuộc”.

Tiếng nói lương tri của ông chủ yếu nằm trong ba bài viết vừa nói. Theo thuật lại, trừ bài II được đăng ở một báo nhỏ hàng tỉnh, hai bài kia không được đâu đăng, nhưng lại “được” đả kích rất dữ dội. Hà-sĩ-phu cho biết: “Suốt một năm rưỡi trời các giáo sư triết học, các nhà chính trị, tuyên huấn của Viện Triết, trường Nguyễn-ái-quốc, ban Văn hóa Tư tưởng trung ương, báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân ... đă viết liền mấy chục bài và sách, tập trung phê phán một bài tiểu luận (bài I) mà bài này chỉ được truyền tay chứ không được phép in ở đâu cả”...

Đó là điều không đáng ngạc nhiên. Có đọc qua mấy bài đó mới thấy Hà-sĩ-phu đă giáng cho cộng sản những đ̣n chí tử. Phải nói là người viết chưa thấy một tài liệu phê phán cộng sản nào mạnh mẽ và sắc bén như vậy, đặc biệt lại do một người trưởng thành và thành công trong chế độ cộng sản viết.

Có nhiều câu trong các bài đó làm cho người viết phải suy nghĩ và cầm bút viết bài này.

Như câu đầu đoạn 5, bài II: “Tôi viết bài này chính v́ mặc cảm tội lỗi, tội lỗi của cá nhân, của thế hệ, của giống nỏi, mặc cảm bị ‘lưu manh hóa’. Những thế hệ con cháu sau này sẽ hiểu chúng ta là những người thế nào, khi thấy chúng ta đă chung sống với cái phi lư, với cái lưu manh một cách ḥa thuận đến thế? Nhưng lưu manh đâu chỉ là cái nằm bên ngoài ḿnh? Nó đang nằm trong cả những người cầm bút dấn thân nhất... Nhưng tôi vẫn tin ở mặt lương thiện của xă hội, v́ dù có đi quanh co măi trong mê lộ th́ cửa ra cuối cùng của xă hội ngày nay không thể là ǵ khác hơn là phơi bầy hết sự thật, tin cậy lẫn nhau, mở ḷng ra đón sự thành tâm từ mọi phía”.

Và một câu ở bài III, đoạn 4, điểm 3a:...“Vượt lên trên mọi sự tranh giành giai cấp, vượt qua mọi thể chế, Tổ quốc chúng ta bao giờ cũng là Tổ quốc Việt-Nam thôi! Ta gọi những đồng bào ta ở nước ngoài muốn đem sức người sức của về xây dựng đất nước là ‘Việt kiều yêu nớớc’ nhưng họ có yêu XHCN đâu? Nếu ta chuyển cả Tổ quốc thành ‘Tổ quốc XHCN’ th́ những đồng bào yêu nước ấy c̣n đâu nước để mà yêu? Tôi tin rằng sẽ có ngày chúng ta làm lễ trả lại tên khai sinh cho Tổ quốc là TỔ QUỐC VIỆT-NAM th́ sức mạnh của Người sẽ tăng lên gấp bội, những con dân nước Việt sẽ rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy tay nhau mà reo ḥ”.

          Trước một tâm t́nh như thế, với những lời lẽ như thế, và trước sự dũng cảm hiếm có ở một nhà trí thức như thế, thiết tưởng người Việt hải ngoại không thể không góp ư góp sức.

Dĩ nhiên không khỏi có những nghi ngại. Chính nhà xuất bản Tin Nhà (cơ quan in lại bài của

Hà-si-phu) cũng tự hỏi tại sao một bài (bài I) quan trọng như vậy mà măi 5 năm sau mới được in tại hải ngoại? (và trước đó hầu như không ai được biết); hoặc: một người ngoài đảng đánh đảng những vố nặng như thế mà sao không bị bắt rả thù, nhất là khi cộng sản thế giới vẫn c̣n đang mạnh (1988)? Phải chăng v́ Việt cộng không muốn làm cho vụ này vỡ lở to ra, hay v́ muốn đánh một đ̣n ly gián?

          Nhưng theo thiển ư th́ mổ xẻ các bài này là một nhu cầu, là điều có lợi cho công cuộc đấu tranh chung. Lư do:

Một là, dù sao các bài đó cũng đă được phổ biến ở hải ngoại, và dù nói chung viết rất khách quan song không phải không có những chỗ chủ quan, cần phải làm sáng tỏ.

Hai là, vào thời điểm này ai cũng đă thấy rơ sự chống đối XHCN của giới trí thức trong nước

đă là một sự kiện hiển nhiên chứ không c̣n là một nghi vấn nữa; cái giả tuy vẫn c̣n nhiều và c̣n gây lắm khó khăn, nhưng cái chân đang tiến mạnh, chúng ta cần phải biết và phổ biến; vả lại ta đă có kinh nghiệm mới đây để tránh cái bẫy xập cộng sản.

Ba là, nếu chỉ cần làm một nút x́ hơi an toàn th́ hà tất cộng sản phải cho viết một bài sâu sắc, có thể gây những phản tác dụng tai hại khôn lường như thế.

Bốn là, tâm t́nh thiết tha và lư luận sắt đá của các bài viết đó khó có thể thoát ra từ những bồi bút, dù là thứ bồi bút số một của cộng sản như Tố-hữu.

Và sau nữa là, trước sau ǵ rồi thế nào cũng phải đến lúc những NGƯỜI VIỆT CHỐNG CỘNG HẢI NGOẠI và những NGƯỜI VIỆT QUỐC NỘI CÓ THỰC TÂM T̀M ĐƯỜNG CỨU NƯỚC phải góp sức với nhau để đấu tranh giành lại tự do no ấm cho dân tộc.

Ư thức trung tâm của sự gặp gỡ đă lộ ra rơ hơn: phải loại trừ cái CNXH ngoại lai, phản khoa học, phi nhân, độc hại; phải phế bỏ cái guồng mày thống trị bạo tàn, quỷ quyệt, bất lực, tham ô, ngoan cố của đảng cộng sản; và phải có sự đoàn kết đóng góp của toàn dân nội ngoại trong sự nghiệp xây dựng tự do dân chủ và tiến bộ nói trên.         

          Nội dung bài này, ngoài mấy lời mở đầu và kết luận, sẽ gồm 2 phần chính là: phần tóm lược các bài của tác giả, và phần ư kiến của người viết. Phần tóm lược sẽ dài ḍng, để cố giữ sự trung thực đối với các bài viết của tác giả, đồng thời để độc giả dễ theo dơi hơn. Các từ ngữ, cách hành văn trong phần này hầu hết là của tác giả; các chữ, câu, hoặc đoạn, trong dấu ngoặc đơn hay kép, là trích nguyên văm của tác giả. Riêng bài II v́ không quan trọng lắm nên sẽ không tóm lược.

          V́ các bài của Hà-sĩ-phu đề cập đến những vấn đề quá rộng lớn, từ triết lư nhân sinh, chính trị, qua chủ nghĩa Mác-Lê, đến các thực tế chính trị kinh tế xă hội trong nước, mà chỉ thu gọn trong có hơn 30 trang giấy nên các ư kiến rất cô đọng, ư nào cũng quan trọng, khó lọc bỏ, hơn nữa lại được viết ở một tŕnh độ cao, và lối viết cũng như tŕnh bày hơi khó hiểu, nên việc tóm lược, phân tích và nhận định có phần khó khăn, nếu có điều ǵ sơ sót mong tác giả và qúy vị độc giả thông cảm.

 

 Phần tóm lược các bài viết của Tiến sĩ Hà-sĩ-phu   

 

Bài I:   Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển

chỉ đường của trí tuệ”.

 

          Bài này được viết vào tháng 9 năm 1988, khoảng 2 năm sau khi Việt cộng theo bước Nga-xô-viết đưa ra chính sách “Đổi mới”, nội dung nhằm phê phán hai luận điểm chính của CNXH Mác-Lê.

Sau đôi lời phi lộ, Hà-sĩ-phu vào bài với đề nghị mọi người “Hăy thử để cho trí tuệ được vài phút hoàn toàn tự do, xem nó có thể mách bảo ta điều ǵ”, để...”cùng nhau tham gia vào việc giải thử bài toán logic lớn của xă hội mà bấy lâu nay cứ ở trong t́nh trạng vừa như rất đơn giản vừa như quá thần bí không có lời giải: Mọi điều rắc rối bắt nguồn từ đâu?”

Tiếp cận vấn đề...”từ góc nh́n qua những quy luật logic khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên”, Hà-sĩ-phu đi một ṿng để t́m hiểu, nhận định. Ông thấy cái hệ thống mà ông quan sát chứa đựng quá nhiều nghịch lư, ”nếu chưa muốn nói là cấu thành bởi toàn những nghịch lư”.

Ví dụ: nói là dân chủ gấp triệu lần nước khác nhưng lại vướng mắc chính vấn đề dân chủ; nói là tiêu biểu cho sự thật nhưng lại đang phải chữa bệnh nói dối; nói là tiêu biểu cho tính nhân loại, tính tập thể, th́ lại có tệ sùng bái cá nhân, tập trung quyền lực vào tay một người; bảo là CNXH đầy sức sống, c̣n chủ nghĩa tư bản (CNTB hay TBCN) đang giẫy chết, th́ ở tất cả những nước bị chia đôi, nửa thuộc phía đang giẫy chết bao giờ cũng có năng xuất cao hơn và sản phẩm tốt hơn...

          Đề cập đến những lư lẽ mà cộng sản đưa ra để bào chữa cho cái thực trạng bi đát nói trên, như: đường lối đúng nhưng làm sai; trên đứng đắn nhưng cán bộ trun gian qúa yếu; đó là khó khăn nhất thời, do chiến tranh và đế quốc để lại...ông bảo nó “không đủ tầm để bao quát cả một thời kỳ của lịch sử, chẳng khác nào đem dầu xoa thuốc cảm để chữa bệnh ung thư vậy”.

Ông nói phải phơi bầy hết những hiện tượng tiêu cực, hệ thống hóa nó lại, để t́m “mối liên hệ nhân quả giữa chúng, rồi theo mạch logic mà t́m ṭi nguyên nhân gốc rễ”, tức là những luận điểm cơ bản của CNXH Mác-Lê.

          Từ hướng đi đó, Hà-sĩ-phu đă rà soát lại “ḥn đá tảng” của CNXH, là thuyết giai cấp đấu tranh (GCĐT hay ĐTGC) và thuyết chuyên chính vô sản (CCVS hay VSCC), hai công cụ chủ yếu mà cộng sản sử dụng để thực hiện chủ nghĩa.

 

Giai cấp là ǵ và ư nghĩa của nó trong xă hội

 

Theo Hà-sĩ-phu th́ con người có 3 căn cứ là: tri thức, ḷng tin, và quyền lợi. Hành động theo tri thức là duy lư, theo ḷng tin là duy tín, và theo quyền lợi là duy lợi.

Trong 3 thứ đó th́ duy lư và duy tín không có tính giai cấp rơ rệt, v́ sự phân chia giai cấp chỉ là sự phân chia về quyền lợi. Do đó việc phân chia con người thành giai cấp, đem cái nh́n giai cấp trùm lên mọi hiện tượng của con người và xă hội, sẽ làm méo mó xă hội, và sẽ gặp lúng túng khi giải quyết nhiều vấn đề.

Trái với cộng sản, lấy giai cấp (tức duy lợi) làm gốc, Hà-sĩ-phu cho duy lư mới là gốc, v́ nó tiêu biểu cho khoa học, cho quy luật khách quan. Chỉ có nó mới bao dung được duy tín và duy lợi. Ngược lại nếu duy lợi hay duy tín nắm vai tṛ chủ chốt th́ rất dễ đi đến cực đoan, như La Mă xưa kia đă giết các nhà khoa học chỉ v́ họ khám phá ra những định luật khoa học; như phong trào xô-viết Nghệ Tĩnh, đăt trí thức vào hàng đầu phải tiêu diệt (trí, phú, địa, hào – đào tận gốc tróc tận rễ); và như bọn hồng-vệ-binh Trung quốc và lính mù chữ Pôn-pốt đă hành hạ các nhà trí thức nước họ mới đây.

          Hà-sĩ-phu giải thích rằng sở dĩ nhân loại tiến hóa là v́ biết sử dụng và hoàn thiện các công cụ lạo động, biết cải tiến các quy tŕnh sản xuất và hoàn thiện kỹ năng. Tất cả các biến đổi cơ bản đều là biểu hiện của sự gia tăng tri thức của con người về các quy luật tự nhiên và các quy luật quản lư và tổ chức xă hội. Do đó ông kết luận: “Cái lơi bên trong của ḍng tiến hóa là ḍng phát triển của tri thức nhân loại, c̣n sự đấu tranh giữa tập đoàn người này với tập đoàn người khác, tức là sự ĐTGC, chỉ là cái vỏ, là những hiện tượng xă hội kèm theo mà thôi”.

Ông nói bản chất của sự tiến hóa là như vậy, nhưng cộng sản lại mô tả ḍng tiến hóa của xă hội là do “giai cấp bị trị và giai cấp thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên sinh ra ĐTGC.

Nô lệ chống chủ nô làm chế độc chiếm hữu nô lệ tan ră. Nông dân chống địa chủ phong kiến làm chế độ phong kiến tan ră. Công nhân chống tư sản làm CNTB sụp đổ”.

Ông bảo lối mô tả ấy phát xuất từ nhận thức sai lầm, coi ḍng tiến hóa là ḍng đấu tranh của những giai cấp bị trị lật đổ những giai cấp thống trị, và chỉ đến khi có cách mạng vô sản, giai cấp công nhân nắm được quyền lănh đạo xă hội th́ cuộc ĐTGC mới dứt, v́ lúc ấy nhân loại đă đạt được niềm mơ ước của ḿnh rồi!

          Bàn rộng thêm về cách mạng, Hà-sĩ-phu cho rằng “Muốn làm giảm tận gốc bất công xă hội và tăng hạnh phúc của nhân dân th́ sự công bằng phải đặt trên cơ sở nâng cao cả nền sản xuất của xă hội. Động tác chính của cách mạng là động tác nâng cao chứ không phải động tác cào bằng. Cào bằng là động tác của bạo lực, nâng cao là động tác của tri thức khoa học, của năng lực tổ chức sản xuất và tổ chức xă hội. Chúng ta đấu tranh cho công bằng chứ không chấp nhận sự cào bằng, v́ cào bằng làm cho xă hội thấp đi và tạo ra sự bất công mới khốc liệt hơn”.

Ông cũng nói thêm là giai cấp bị trị cũ không thể trở thành giai cấp lănh đạo mới được, v́ nó không tiêu biểu cho tŕnh độ tri thức của con người thời ấy. Ông viện dẫn lời của Lê-nin nói: “Chỉ có đem toàn bộ kho tri thức của nhân loại để làm giàu cho bộ óc của ḿnh, chúng ta mới có thể trở thành con người cộng sản!”, để hỗ trợ cho lập luận của ḿnh và cũng để đối chiếu với thực tế của đất nước, là càng học càng xa đảng: “Nghĩa là trên thực tế chất đảng không thuận chiều với chất tri thức”.

          Hệ quả đương nhiên của điều đó là sản xuất không phát triển, sản phẩm ít, và đời sống khó khăn. Tinh thần cũng bị hạ thấp v́ phải lùi bước trước những nhu cầu kinh tế tôí thiểu. Rồi biết bao tệ trạng khác kế tiếp xẩy ra, như đổ xô nhau đi kiếm quyền, v́ quyền gắn liền với lợi. Và một khi nắm được quyền rồi th́ t́m mọi cách để giữ chặt lấy: “Có ham muốn, có quyết tâm mà thiếu tri thức th́ ắt là sa vào ṿng duy ư chí. Người chỉ huy sẽ trở thành kẻ độc tài”.

 

Việc xây dựng chuyên chính vô sản

 

Về điểm này tiến sĩ Hà-sĩ-phu đă vạch ra cái nét đặc trưng của CCVS là sự sùng bái cá

nhân. Ông giải thích là xưa nay nhân đạo vẫn được coi là cái gía trị tinh thần cao qúy nhất mà con người dùng để bảo nhau sống cho nên người, là thước đo cuối cùng của xă hội, th́ nay bỗng bị cộng sản đảo chính mất! Người cộng sản bảo không làm ǵ có cái nhân đạo chung chung. Trong xă hội có giai cấp th́ nhân đạo cũng phải mang tính giai cấp! Và v́ công nhân là giai cấp tiêu biểu cho thời đại nên lợi ích của giai cấp này phù hợp với lợi ích chân chính của các giai cấp khác. Thế là tính nhân đạo được thay thế bằng tính giai cấp!

          Nhưng ông cho biết giai cấp ở đây cũng chỉ có h́nh thức thôi. Nó phải được đại diện bởi đảng cộng sản, mà đảng lại phải được tập trung vào trung ương, trung ương tập trung vào bộ chính trị, và cuối cùng là tập trung vào tay một người! Rút cục ai chống người đó là chống đảng chống giai cấp, chống dân tộc, hoặc chống cả nhân loại! Chính v́ thế mà Stalin, Mao-trạch-đông... đă dễ dàng quy nhiều đồng chí của ḿnh vào tội phản động để sát hại họ.

Theo ông, độc tài cá nhân là một thú tính, v́ trong con người khi tính NHÂN không được phát huy th́ tính THÚ sẽ vùng dậy. Và khi nó vùng dậy th́ CON NGƯỜI sẽ dùng bạo lực để thanh toán nhau, lấy việc trừng trị nhau làm thích thú. Ông nói: “Tính xă hội là một biểu hiện cao của nhân tính, c̣n chủ nghĩa quân phiệt với mọi biểu hiện mất dân chủ, về bản chất là di chứng của thú tính, nên hai thứ đó phải được xem là đối lập nhau như nước với lửa”.

          Hậu qủa của những điều tŕnh bày ở trên được tác giả tóm lược lại là: “Chúng ta có trong tay ḿnh một xă hội không theo ư muốn, thậm chí lộn ngược, lộn ngược so với ư đồ thiết kế, lộn ngược so với cái tự nhiên. V́ thế mà không một quy luật chính thống nào của tự nhiên cũng như của xă hội có thể phát triển được tác dụng”, thành ra:...“cái tinh thua cái thô, cái tích cực thua cái tiêu cực, cái đạo đức thua cái vô liêm sỉ...và con người đi giật lùi!”

          Để giải quyết bế tắc trên, theo Hà-sĩ-phu...”chỉ cần chúng ta thực sự phục thiện”. Ông lên tiếng ca ngợi những người đă dũng cảm đứng vào mặt trận đổi mới, và chỉ trích những kẻ bảo thủ đang t́m cách chiếm quyền kiếm lợi bằng mọi thủ đoạn dối trá, ngụy trang. Trong số này có cả một số trí thức, đă góp phần đắc lực vào sự nói dối ngụy biện, mà ông nói đă được đưa lên đến hàng quốc sách, đến nỗi ông phải viết cả một bài  (bài II) nhan đề “Biện chứng và Ngụy biện trong công cuộc Đổi mới” để nêu lên 6 luận điểm chủ yếu cuả sự ngụy trá.

Ngụy biện số 3 được coi là quan trọng nhất, v́ là khẩu hiệu có tính cách cương lĩnh: “Đảng lănh đạo, Nhà Nước quản lư, Nhân dân làm chủ”. Ông bảo: “Chúng ta đă tự hào và phấn khởi về sự phân công này”...Nhưng sự thực th́ nó khác, “V́ khi đă tách quyền lănh đạo và quyền quản lư ra rồi th́ chữ ‘làm chủ’ chẳng c̣n nội dung ǵ nữa. Trong thực tế chẳng có ai đóng nổi vai tṛ ông chủ khi đă có một người đứng ra lănh đạo ‘trực tiếp, toàn diện và triệt để’, và một người khác th́ đă đứng ra quản lư ‘cả nhân lực, vật lực, tài lực’. Ấy là chưa kể ngay người quản lư cũng đă thành bù nh́n nếu người lănh đạo đă lănh đạo đến mức trực tiếp, toàn diện và triệt để”.

          Đến đây, để làm nổi bật những nhận định của ḿnh, Tiến sĩ Hà-sĩ-phu đă đưa ra một sơ đồ về quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng TIÊU CỰC trong xă hội:

1/  Mục đích: Không c̣n chiếm hữu, bóc lột; năng xuất cao, xă hội phát triển. Dân chủ tự do. Tính tập thể, tính quốc tế. Tính duy vật, tính khoa học, tính chân thật...

2/  Phương tiện (công cụ): đấu tranh giai cấp cực đoan, thiết lập chuyên chính vô sản

3/ Kết quả: một xă hội mâu thuẫn với phát triển, mâu thuẫn với nhân quyền, mâu thuẫn với nhân loại (sùng bái cá nhân)

4/ Phản ứng đối phó với thực tiển: chiếm hữu quyền lực, nói dối và ngụy trang. Song song vào đó là mở cửa kinh tế, dân chủ giả về chính trị, tư tưởng.

Sơ đồ trên đă chỉ rất rơ rằng, dùng phương tiện không thích đáng th́ không tới được mục đích.

          Từ đó ông Hà-sĩ-phu bắt sang việc Hồ chí Minh khởi sự chỉ muốn dùng chủ nghĩa Mác-Lê như một phương tiện để cứu nước, mưu cầu hạnh phúc cho dân, “Nhưng rồi dần dần lại xuất hiện tín ngưỡng ‘dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa’!” và “Khi cái phương itện đă thành cái mục đích th́ lẽ tự nhiên cái mục đích (ở đây là dân tộc) đổi chỗ để than2h cái phương tiện!”

Ông cũng nhắc đến cái chủ quan của người cộng sản, muốn giương ngọn cờ giai cấp để thống nhất toàn thế giới, và lên tiếng cảnh giác rằng nếu hợp nhau v́ quyền lợi th́ cũng sẽ chia nhau v́ quyền lợi. Theo ông “Chỉ có một thứ là thực sự của chung của nhân loại, không thể chiếm hữu, không thể độc quyền, một thứ mà ngày nay cứ xuất hiện ở đâu là quốc tế hóa ngay, đó là trí tuệ, đó là khoa học, là sự phát triển những quy luật khách quan”.

          Bước vào phần kết luận, Tiến sĩ Hà-sĩ-phu khẳng định: “Có hành động đúng theo quy luật th́ mọi việc mới ‘xuôi’ được”. Mà muốn hành động theo đúng quy luật th́ “trước hết phải có sự tư do, và đặc biệt phải biết lấy thực tiễn để kiểm chứng mọi điều đă nghĩ, kể cả những điều mà một thời những tưởng đă đóng đinh vào lịch sử”.

Ông lại viện dẫn lời Mác, khuyên mọi người hăy hoài nghi tất cả, và ca tụng Mác là “Một người khổng lồ nhân từ cho phép ta đứng lên vai”. Và ông đă đứng trên vai Mác để thấy thật rơ rằng:

“Có lẽ chỉ có và chỉ cần một chủ nghĩa, cái chủ nghĩa chẳng có ǵ mới nhưng bất diệt mà ta rất nên tôn thờ là ‘chủ nghĩa nhân đạo’”, c̣n “mọi chủ nghĩa khác chẳng qua chỉ là những hệ phương pháp ứng xử để ta sử dụng linh hoạt trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thôi”.

          Sau cùng, để chấm dứt, Hà-sĩ-phu nói rằng vấn đề nêu lên quá lớn mà sức ông quá nhỏ nên chắc không tránh khỏi thiếu sót. Nhưng ông nghĩ nếu chân thành và nói thật th́ sẽ dẫn đến sự thật. Ông cho rằng điều quan trọng nhất là t́m được cái gốc của những sai lầm, v́ khi cái gốc của sự sai lầm đă được phơi bầy ra rồi th́ tự nhiên cái hướng sửa chữa cũng sẽ lộ ra.

Ông mượn lời một người Nga để nêu lên đường hướng phải sửa chữa: “Alexandr Bovin, nhà phân tích chính trị của tờ Izvestia (Liên xô), sau khi nói rơ quan điểm ‘kiên quyết chối bỏ XHCN quan liêu, thiếu thốn triền miên, xuống cấp những giá trị đạo đức, thay tự do bằng sự trấn áp dốt nát’...đă nêu ư kiến về cách sửa chữa là ‘tất cả các đoạn trên con dấu toán học cần phải đổi ngược lại!’ ”.

Rồi ông tiếp: “Nhân loại, như lịch sử đă từng chứng minh, rút cục vẫn dắt tay nhau, đi chung trên một con đường tiến hoá, thênh thang, dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ”.

 

                   Bài III:  Đôi điều suy nghĩ của một công dân

 

        Bài này được viết vào tháng 5-1993, sau bài trên gần 4 năm, và sau khi thế giới cộng

sản sụp đổ hơn một năm.

Nh́n vào sự tan ră của Liên-xô và các nước cộng sản đông Âu, mà Hà-sĩ-phu gọi là ‘sự sụp đổ sạch sành sanh’, ông nói đây là sự sụp đổ có tính cội nguồn, triệt để và toàn cục V́ thế ông  bảo, hàng loạt các câu hỏi cứ tự nhiên bật ra: CNXH khoa học là ǵ?  Biến cố kia là tất yếu không tránh khỏi hay do những thiếu sót có thể rút kinh nghiệm? Mấy nước c̣n lại, trong đó có nước ta, sẽ đi về đâu và số phận nhân dân sẽ thế nào? Tiếp tục phó mặc đại sự cho những người lănh đạo... để rồi đất nước vẫn mang tên XHCN, mà những kẻ mánh mung kiếm bạc tỷ ngày càng nhan nhản trong khi ḿnh xin đi làm thuê không xong? Hay là rút kinh nghiệm, cứ ‘sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi’? Các nước tư bản vẫn cứ tiếp tục theo ta tiến lên XHCN hay ta đang học theo họ làm tư bản? v.v.

Tiến sĩ Hà-sĩ-phu bảo người ta có thể tránh trả lời các câu hỏi đó trước mặt mọi người nhưng làm sao tránh né được câu trả lời của cái vô thức và sự chi phối của nó đối với các hành vi của ta? Ch ính v́ vậy ông nghĩ: ...“là một người Việt-Nam có giáo dục, có văn hóa, không ai có thể cho phép ḿnh tảng lờ , dấm dúi trong xó kiếm ăn một ḿnh, mà phải đứng ra giữa nơi sáng sủa, nghiêm túc nói rơ ư kiến của ḿnh với sự huy động cao nhất của ư thức trách nhiệm và trí tuệ!” Trong tinh thần đó, Hà-sĩ-phu bắt đằu đi vào việc tŕnh bày những suy nghĩ của ông.

 

          I/ Những cách tiếp cận khác nhau để trả lời câu hỏi của thời đại.

Trước hết Tiến sĩ Hà-sĩ-phu lại xác định đường lối tiếp cận. Theo ông, có 2 phương cách:

đi từ thực tiễn, từ hiện tượng, hoặc đi từ nhận thức hệ thống, từ bản chất của quá tŕnh.        

Phân tích lợi hại của mỗi cách, ông cho rằng cách đi từ nhận thức hệ thống, từ bản chất của

quá tŕnh, là cách tiếp cận khoa học nhất, nhưng cũng khó khăn nhất, chạm đến những quan

điểm chi phối cả một hệ thống tư duy. Chỉ bằng cách ấy mới có khả năng đạt tới những nhận

thức chính xác, nhưng ở độ  khái quát ấy th́ sai một ly đi một dặm”...

 

Đề cập đến khả năng lập thuyết của Mác-Lê, ông coi đó là những bộ óc lớn, những chiến sĩ, những nhà tổ chức đại tài.  “Nhưng sức vóc một con người dù vĩ đại đến đâu cũng không thấm ǵ với sức vóc một thời đại”. Do đó học thuyết của các ông đă có những khiếm khuyết căn bản. Và những kẽ hở ấy đă bị lợi dụng, khai thác triệt để cho những lợi ích cá nhân, khiến cho xuất phát điểm là tập thể nhưng lại đi đến cá nhân cực đoan, xuất phát từ đạo đức nhưng kết quả lại là phi đạo đức!  Ông nói: “Ở những năm cuối cùng của thế kỷ này, một đầu óc b́nh thường cũng có thể được thời đại chỉ cho đ ể nh́n thấy sự thiếu cơ sở khoa học của học thuyết đó. Những điều như thế chỉ có thể vạch ra rơ ràng bằng tư duy hệ thống triệt để, mà ở một chừng mực nhất định tôi hy vọng có thể gợi ra được trong những phần viết sau đây”.

 

          II/ Suy nghĩ về bản chất con người và xă hội.

 

A- Con Người

                   1) Quan niệm ‘Con Người” theo học thuyết Khổng-Mạnh.

          Theo tác giả, thuyết này coi ‘con người’ là một đơn vị cơ bản, là những ‘cá nhân’, chiếm vị trí gốc rồi từ đó tỏa ra xă hội theo thuyết tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ. Ông gọi đó là những ‘con người’ nông nghiệp, con người của cái Tâm. Ông nói thuyết này đă bị bế tắc ngay từ đấu, bởi mô h́nh ‘con người đạo đức’ chỉ là ‘con người’ của quy mô gia đ́nh làng xóm.

“Tu thân đến như đức Thánh Khổng mà không được nước nào dùng, các ‘quốc’ đều ‘bất trị’, thiên hạ th́ ‘bất b́nh’”. “Chủ thuyết là ‘đức trị’, nói ‘dân là quư’ rồi mới đến xă tắc, c̣n vua th́ ‘xem nhẹ’ mà trong thực tế th́ thang giá trị luôn lộn ngược trở lại”...

‘Con người đạo đức’ bị chế độ phong kiến giam hăm hàng chục thế kỷ, cho đến khi có CNTB th́ con người nông nghiệp, con người cá nhân cuủa chế độ phong kiến bị giằng xé mănh liệt theo hai chiều ngược nhau: chiều cá nhân và chiều xă hội. Kết quả là đến thế kỷ 19 đă bùng ra hai xu hướng ngược hẳn nhau về nhận thức bản chất con người: xu hướng mác-xít và xu hướng hiện sinh.

                   2) Nhận thức về ‘Con Người’ của phái mác-xít.

          Hà-sĩ-phu cho rằng “Ưu điểm nổi bật của trường phái này là phát hiện ra tính ‘xă hội’ của ‘con người’, nhưng “Tiếc rằng Mác đă cường điệu tính ‘xă hội’ này đến mức cho nó choán toàn bộ nội dung ‘con người’, coi ‘con người’ chỉ là ‘tập hợp’ của các quan hệ xă hội”. ‘Con Người’ không c̣n ‘thuộc tính’ cá nhân mà chỉ c̣n ‘thuộc tính’ xă hội. Mà ‘xă hội’, theo Mác, th́ chỉ là những cuộc ĐTGC liên tiếp, do đó mọi hoạt động xă hội của con người đều là hoạt động ĐTGC. Và con người có bản chất là ‘con người giai cấp’. Nhận thức này đă là “cơ sở để thiết lập nên chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở để hoạch định chương tŕnh cách mạng vô sản và xây dựng CNXH”.

Phê b́nh nhận thức đó, tác giả viết: “Việc tập trung tinh lực của con người vào cuộc giành giật giai cấp, bỏ quên cả một thế giới phong phú nằm trong ‘cá nhân’ và không chấp nhận có những mặt của xă hội nằm ngoài ‘giai cấp’ đă làm cho con người trở nên ghèo nàn một cách đáng sợ!”

Ông cho rằng cả hai thuyết Khổng, Mác, đều là không tưởng. Cả Khổng lẫn Mác đều không hiểu rơ con người, đều mất cảnh giác trước mặt trái của con người.       

Trên phương diện kinh tế, v́ quan niệm của Mác coi tính xă hội của con người là yếu tố quán xuyến, quyết định, nên yếu tố kinh tế của con người cũng phải mang tính xă hội, do đó tư iệu sản xuất của con người cũng phải ‘xă hội hoá’. Mà muốn ‘xă hội hoá’ tư liệu sản xuất th́ phải tiêu diệt CNTB, v́ chủ nghĩa này chủ trương sở hữu tư nhân.Ở đây ông vạch ra sự vướng mắc về ‘logic’ của luận điểm trên: sự mâu thuẫn giữa ‘tính xă hội của sức sản xuất’ (trong đó có con người) và tính ‘tư nhân’ của sự chiếm hữu đă có ngay từ đầu của CNTB, nghĩa là ngay từ đầu đă không có sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, th́ tại sao CNTB lại phát triển được đến như ngày nay? Ngoài ra, có thực mâu thuẫn giữa tính ‘xă hội’ và tính ‘tư hữu’ là mâu thuẫn loại trừ nhau không? Và việc xác nhận mâu thuẫn này có trái ngược ǵ với luận điểm của Mác về sự chín mùi và tan ră đồng loạt của CNTB trên toàn thế giới không?

                   3) Nhận thức về ‘Con Người” của phái hiện sinh

          Theo Hà-sĩ-phu, quan niệm về ‘con người cá nhân’ của phái này đối lập với tất cả các môn phái triết học và tôn giáo trước nó và cùng thời với nó. Phái hiện sinh quan niệm rằng, con người chỉ tồn tại đúng như nó đang hiện hữu, như một thực thể đơn độc riêng biệt bị vứt vào trong vũ trụ, tự nó chiêm nghiệm, tự hành động theo cá tính riêng của nó, rồi chết. Trong trạng thái ‘tự do không có điểm tựa ấy’, nó có toàn quyền chủ động lựa chọn con đường anh hùng hay hèn nhát, là con thú hay siêu nhân, hoặc thờ ơ vô cảm, hoặc chán chường buồn nôn!

          Hai quan niệm về con người của phái mác-xít và phái hiện sinh là hai thái cực: “Một bên tự do đến mức chẳng thấy xă hội đâu cả, một bên lại ràng buộc đến mức chẳng thấy cá n hân đâu cả...Một bên là sự lên tiếng của lư trí, ư thức, c̣n một bên là sự lên tiếng của bản năng, tiềm thức, vô thức, siêu thức. Một bên muốn liên kết mọi người thành một tổ chức để làm một cuộc ‘cách mạng’ cho ngày mai, một bên lại ‘rũ tung’ những ‘con người’ ra thành một thế phân tán vô tổ chức, vô mục đích, chỉ biết có hiện tại!”

          Đối với CNTB th́ cả hai ‘con người’ ấy đều là ‘kẻ phá hoại’. Chủ nghĩa này đ̣i hỏi một khái niệm ‘con người’ tương ứng với thời đại của nó. Nhưng chủ nghĩa Mác trả lời: Trong xă hội công nghiệp ‘con người’ phải là con người xă hội, nó mâu thuẫn với CNTB nên phải phá bỏ chính cái CNTB đi. C̣n chủ nghĩa hiện sinh th́ bảo: con người bao giờ cũng là con người cá nhân! Mặc xác cái xă hội vô nghĩa của các anh! Tôi làm việc của tôi!

Song Hà-sĩ-phu nói, dù cả hai câu trả lời đều ‘negatif’ không câu nào ủng hộ CNTB cả. “Vậy mà CNTB không bế tắc, không chết mà phát triển đến ngày nay, và phát triển như ngày nay! (Thực tế này không hề chứng minh cho quan điểm rằng CNTB là hoàn hảo, bất biến, và vĩnh hằng!) Bởi v́ sao? Bởi lịch sử không chờ các nhà lư luận cho phép hay không cho phép nó. Ghép hai câu trả lời ‘negatif’ nói trên đă thành một câu trả lời ‘positif’ cho lịch sử: Con người vừa là ‘con người xă hội’ vừa là ‘con người cá nhân’. Hai tính cách đó không những không loại trừ nhau mà c̣n là điều kiện của nhau. Muốn xây dựng một xă hội đầy tính xă hội như Mác muốn (và như các nước tư bản tiến tiến đang đi tới), hoàn toàn không cần phá bỏ tính ‘cá nhân’ và tính ‘tư nhân’. Con đường ‘xă hội hóa’ không phải là con đường xoá ‘tư nhân’ mà là liên hệ các tư nhân một cách xă hội!”

                   4) Con người và sở hữu

          Tiến sĩ Hà-sĩ-phu cho rằng người ta không thể hiểu hết con n gười nếu không hiểu vấn đề sở hữu. Khác hẳn với con vật, nội dung con người chỉ xuất hiện khi xuất hiện sự khẳng định ‘cá nhân’. Và cơ sở vật chất của sự tồn tại ‘con người cá nhân’ là sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân. Đây là điều kiện tối thiểu để nó có thể tự nuôi sống ḿnh và độc lập tương đối trong cộng đồng.

Phạm trù sở hữu bao gồm hai bộ phận: cái CÓ và cái QUYỀN. Ông phê b́nh cách giải quyết của Mác về vấn đề này như sau: “Mác đă xử lư rất không công bằng đối với hai bộ phận của sự chiếm hữu. Ở mặt chiếm hữu tư liệu sản xuất th́ Mác đă quá nghiêm khắc, đáng lẽ chỉ nên chống sự tập trung tư liệu sản xuất quá lớn thi ông chủ trương xoá bỏ mọi sở hữu cá nhân, làm mất đi cái động lực tự nhiên của đời sống. Với quyền lực xă hội th́ Mác lại quá nuông chiều, cho nó quyền chuyên chính, với hy vọng rằng trong một tương lai xa xôi nó sẽ tự tiêu vong”.

Điều đó trong lịch sử hàng triệu năm chưa bao giờ xẩy ra cả!                                                           

B- Xă  hội.        

1- Xă hội là một hệ thống phân cực, không phân tầng.

          Ở điểm này Hà-sĩ-phu nói, tính ‘có tổ chức’ là một tính tự nhiên của xă hội nên đương nhiên phải có bộ phận lănh đạo và bị lănh đạo, có thống trị và bị trị. Những người ở cực thống trị luôn có khuynh hướng muốn sử dụng mối quan hệ tương sinh giữa sự chiếm hữu quyền lực và chiếm hữu tư liệu sản xuất để được hưởng thụ nhiều nhất, do đó trở thành giai cấp thống trị. Nhưng nếu một xă hội càng dân chủ th́ càng nâng cao được mặt ‘chung’ và càng hạn chế được mặt ‘riêng’ của Nhà Nước. (Ông cho rằng Mác chỉ nh́n thấy một mặt khi ông ta nói Nhà Nước chỉ là ‘sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể điều ḥa’, chỉ là công cụ bóc lột của giai cấp thống trị’.)

          Theo nhận xét của Hà-sĩ-phu th́ chỉ những người ở hai cực mới liên kết với nhau để đối chọi với nhau, c̣n những người ở khoảng trung gian th́ sự liên kết rất lỏng lẻo, không kết thành những tầng chặt chẽ được. “Một hệ thống như thế là một hệ thống ‘cân bằng động’, có tính chất phân cực chứ không phân tầng. Sự phân chia giai cấp chỉ áp dụng được cho những người thuộc hẳn về hai cực, áp dụng cho những phần tử trung gian là không thích hợp”. Thêm nữa quan hệ giữa hai cực là mối quan hệ biện chứng vừa tương sinh vừa tương khắc, như cực nam bắc của một cục nam châm. Nếu ghét cực bắc mà chặt nó đi th́ chính chỗ chặt sẽ là cực bắc mới. Cũng vậy, nếu ghét cực thống trị mà thủ tiêu cho hết bóc lột, để một cộng đồng gồm toàn những người bị trị cũ tự quản lấy nhau, th́ tại chỗ ‘tự quản’ đó sẽ sinh ra cực thống trị mới, giai cấp bóc lột mới.

                   2) Hệ thống tổ chức của xă hội loài người.

          Xă hội loài người gồm đơn vị nhỏ nhất là cá nhân, rồi đến gia đ́nh, dân tộc, quốc gia và nhân loại. “Trong hệ thống tổ chức từ thấp lên cao ấy không thể xếp giai cấp như một đơn vị chính thức, nhưng quan điểm cực đoan về giai cấp đă khiến giai cấp trở nên một ‘siêu đơn vị’, làm như những người vô sản trên thế giới có thể tập hợp lại thành một ‘quốc tế’, chia thế giới thành hai phe theo giai cấp”. Tinh thần giai cấp ấy như một ‘lưỡi dao’ phân tuyến trong mọi cá nhân, mọi dân tộc, mọi quốc gia, cho tới nhân loại.

Nhưng ông nói giai cấp thật ra chỉ là những tập đoàn người nằm trong ‘ṿng tay’ của quốc gia, dân tộc. “Đề cao kinh tế và lợi quyền th́ giai cấp sẽ quan trọng, đề cao văn hóa th́ dân tộc sẽ  quan trọ ng, đề cao trí tuệ th́ cá nhân và nhân loại sẽ quan trọng, đề cao đạo đức th́ gia đ́nh (thậm chí cả làng xóm quê hương) sẽ quan trọng”.

 

        III/ Suy nghĩ về quy luật tiến hóa nhân loại.

 

          Luận về luật tiến hóa của nhân loại, ông Hà-sĩ-phu nói, quan h ệ trong loài là một quan hệ đặc biệt, gồm hai mặt mâu thuẫn nhau một cách biện chứng: một mặt là sự đấu tranh sinh tồn khốc liệt trong nội bộ loài, và mặt khác là sự hỗ trợ nhau để đấu tranh chống lại các yếu tố bên ngoài. Trong hai mặt ấy th́ mặt hỗ trợ là chủ yếu nên tất cả vẫn kết thành một khối tiến hóa thống nhất. Đó chính là nội dung của học thuyết đấu tranh sinh tồn của Darwin mà người cộng sản đă từng kịch liệt đả kích (nhưng trên thực tế th́ Stalin lại triệt để áp dụng).

V́ loài người là một loài sinh vật đặc biệt, có lao động sản xuất và có tư duy, nên sự đấu tranh sinh tồn và tiến hóa cũng có những bản sắc riêng.

A-Những quan hệ qua lại trong xă hội loài người                                         

Tác giả phân các quan hệ này ra làm hai loại: quan hệ giữa những người đang sống cùng thời là ‘quan hệ ngang’, và quan hệ giữa các thế hệ, các thời đại kế tiếp nhau, là ‘quan hệ dọc’, cũng là quan hệ tiến hoá hay thoái hóa.

1-    Những mối quan hệ ngang trong xă hội loài người

 a) Quan hệ bóc lột và bị bóc lột

Tác giả cho rằng chiếm đoạt sản phẩm của người khác làm ra là bóc lột, là dấu hiệu trực tiếp và phổ biến nhất của cuộc đấu tranh sinh tồn. Sự bất công này hiển nhiên liên quan đế sự chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ông nói giải quyết sự bất công này là một điều rất khó khăn, v́ con người liên hệ với nhau và với xă hội bằng vô số những quan hệ chằng chịt, không dễ ǵ quy thành ‘giá trị lao động’ (như Mác đă tính trong quyển Tư bản) để thanh toán ṣng phẳng một cuộc phân chia sản phẩm cụ thể được. Ngoài ra nếu phân phối công bằng rồi mà sản xuất không phát triển được th́ đó chỉ là một sự công bằng ‘chết’. Ấy là chưa kể quyền lực luôn luôn t́m cách xen vào để ‘phân phối lại’. V́ thế ông bảo ‘bài toán phân phối’ phải gắn liền với ‘bài toán phát triển’ và ‘bài toán dân chủ’ chứ không thể lư giải cơ chế của sự bóc lột chỉ bằng tính toán ‘giá trị thặng dư’ trong một bài toán ‘tĩnh’ và thuần kinh tế như Mác đă làm.

          Theo Hà-sĩ-phu, cái mô h́nh thực tế có khả năng dung hoà được các mặt đối lập hiện nay là: “Song song với một thị trường mua bán sản phẩm tự do là một thị trường mua bán sức lao động tự do. Thuận mua! Vừa bán!”.

Về cơ quan quyền lực, phải đứng trung lập, tuyệt nhiên không được ‘tham chiến’ để kiếm ăn thêm! Ông gọi đó là một mô h́nh sinh động, thể hiện quy luật ‘đấu tranh sinh tồn’ vào xă hội loài người, trong đó sự chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo nhập làm một, và không có nó th́ sự tiến hoá sẽ ngưng. “Thiên đường của nhân loại sẽ là một ‘trường đấu’ lư tưởng, trong đó mỗi đâú thủ đều có điều kiện phát huy hết tiềm năng, và người có trí tuệ hơn, có năng lực hơn, có ư thức hơn... được bảo đảm sẽ thắng cuộc, sẽ được hưởng thụ nhiều hơn...và xă hội như thế mới là xă hội không c̣n bóc lột!”

                   b) Quan hệ xâm lược và bị xâm lược

Tác giả nói xâm lược cũng là sự áp bức bóc lột, nhưng là sự bóc lột của quốc gia nàu đối với quốc gia khác. Sự phán quyết của nhân loại đối với quan hệ dă man này đă rơ ràng, không có ǵ phải bàn thêm.

Riêng về nguyên nhân cuả quan hệ này, ông cho là do sự phát triển không đồng đều giữa các nước. Do đó điều căn bản là phải nâng nền văn minh của ḿnh cho ngang tầm các nước bên ngoài, phải xây dựng một cộng đồng dân tộc văn minh, giàu có.

Bàn rộng thêm, ông bảo đánh giặc cứu nước cũng là để giải quyết một mối quan hệ ngang, không nên gọi đó là ‘cách mạng’. Cách mạng là quan hệ dọc, quan hệ tiến hoá, là sự chuyển xă hội sang một phương thức sản xuất mới cao hơn, chứ không phải sự chuyển một nước bị đô hộ thành một nước độc lập. Dân ta có truyền thống yêu nước rất cao nên đă làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến vừa qua. “Chiến thắng ấy không thuộc phạm trù CNXH hay chủ nghĩa cộng sản”. Cho nên: “Có thể nói ‘CNXH khoa học’ đă không thâm nhập được vào nhân loại bằng con đường khoa học, nhưng bằng con đường của ḷng yêu nước thương ṇi, chống phát xít, chống thực dân, giải phóng dân tộc”.

                    c) Quan hệ hỗ trợ, hợp đồng

          Quan hệ này được tác giả coi là mặt trội yếu trong nội bộ ‘loài’, v́ mặc dầu có những quan hệ bóc lột và xâm lược, xă hội vẫn ngày một phát triển.  Sự hỗ trợ hợp đồng vừa xảy ra theo cơ chế vô ư thức, vừa theo cơ chế có ư thức. Như vậy sự khuyếch tán văn minh là sự lan tỏa tự nhiên và liên tục, không có bàn tay nào sắp đặt. Sự phát triển của kỹ thuật tin học cũng giúp ích đắc lực cho sự khuyếch tán đó.“Thông tin quyết định nhận thức, nhận thức quyết định thông tin”

          Sự giúp đỡ của những tổ chức quốc tế, các chương tŕnh nhân đạo, là “biểu hiệu cao nhất,

rực rỡ nhất của quan hệ hỗ trợ, hợp tác, mà chỉ có ở loài người mới có được”...”Chính sự giao lưu quốc tế ngày càng mật thiết đă giúp nhiều dân tộc nhược tiểu thoát được cái ách ngoại xâm, thậm chí giúp cả một số cá nhân tiêu biểu cho lương tri thoát khỏi ngục tù của đám độc tài trong nước”.

          Tuy hiên ông nói con người không chỉ đơn giản là nơi hội tụ của những quan hệ xă hội. Bởi thế sự hỗ trợ hợp tác dù tốt đến đâu cũng không thể làm mất đi cái quy luật phát triển không đều: “Mỗi quốc gia có một số phận, nhân dân nào th́ số phận ấy. Bên cạnh xu hướng khách quan về sự ḥa nhập văn minh luôn tồn tại những rào cản chủ quan mà biểu hiện cực đoan là ‘khước từ văn minh’”                                                  

 

2-    Khát vọng, quy luật, và kẻ thù

Về khát vọng của cong người Tiến sĩ Hà-sĩ-phu viết: “Với những ai không tin ở Niết bàn,

Thiên đàng th́ có thể lấy ‘xă hội cộng sản’ mà nội dung là không c̣n giai cấp, không c̣n bóc lột, không c̣n Nhà Nước, nhưng của cải th́ tuôn ra như nước và ‘hưởng thụ theo nhu cầu’ để cân bằng tâm linh”.

Nhưng trên thực tế th́ ông nghĩ khát vọng mang tính khái quát và khoa học hơn cả là Tự do, B́nh đẳng, và Bác ái. Bác ái là con đường của tôn giáo. B́nh đẳng là con đường của CNXH. Và Tự do là con đường của CNTB. Trong cuộc chạy đua đến ngày hôm nay th́ chủ nghĩa Tự do vốn bị coi là đối thủ kém đạo đức nhất, đă dẫn đầu!  Sở dĩ vậy là ”bởi v́ nó chính là quy luật đó thôi”.

Ông bảo mỗi chủ nghĩa và tôn giáo đều có tác giả, nhưng riêng CNTB th́ lại là của chung tất cả mọi người. Nó là toàn bộ cuộc đời thực, sống theo sự chi phối của quy kuật tự nhiên. Cho nên mọi người đều sống với nó một cách tự n hiên và đương nhiên. “Chỉ có những người của thê giớ XHCN là ly khai khỏi nó, tuyên bố thù địch với nó, và tự cấm ḿnh không được về với nó, tức là không được về với nhân loại nói chung, mà thực t́nh lại thường xuyên trốn về với nó một cách lén lút!”.

Do đó ông khẳng định: “Tự do là bản tính của tự nhiên, có Tự do mới có phát triển, trên tiến tŕnh phát triển mới có thêm Tự do, mới có B́nh đẳng và Bác ái”. “Đạo đức phải được nuôi dưỡng trong sự phát triển. Tiền đề của phát triển là tự do. Nếu kéo dài t́nh trạng không phát triển th́ quy luật đấu tranh sinh tồn sẽ xé nát lá cờ Bác ái và lá cờ B́nh đẳng ra từng mảnh”.

          Luận về ‘kẻ thù’, Hà-sĩ-phu nói: “Trên con đường đi t́m Hạnh phúc, loài người có hai kẻ thù cố hữu là ÁC TÂM và sự NGU DỐT”. Nó là sợi giây ràng buộc ta vào cội nguồn dă thú xa xưa, và mỗi nỗ lực vươn về phiá ‘Con Người’ làm cho mối ràng buộc ấy yếu đi một chút. “Trong cuộc chiến đấu để tiến hóa âư mỗi con người đều là đồng đội của nhau”. Nhưng khi hai kẻ thù vô h́nh ấy thắng thế th́ những con người, vốn là đồng đội, sẽ quay súng bắn nhau. “Như vậy về nhận thức, phải hiểu ‘kẻ thù’ chỉ là một khái niệm có tính chất t́nh huống, không có ai trên đời mà về bản chất là kẻ thù của ai cả.” Nhưng cộng sản quan niệm khác hẳn: “Điều đáng tiếc là họcthuyết ĐTGC đă coi sự đối lâp giữa giai cấp bị trị và thống trị là mối quan hệ thù địch về bản chất, một mất một c̣n, không thể điều ḥa, khoan nhượng.”

Chính “Quan niệm ‘kẻ thù giai cấp’ đă gây nỗi kinh hoàng, đă tạo ra một số lượng ‘kẻ thù’ quá đông, quá sâu, quá lâu, đă làm cho chúng ta bị thất tán đi không biết bao nhiêu anh em, bầu bạn. Thật nguy hiểm khi ḷng căm thù giai cấp được nâng lên thành một biểu tương đầy tự hào của cả cái TÂM lẫn cái TRÍ”.

 

B- Mấy đặc điểm của sự tiến hóa trong xă hội loài người

          Theo quan điểm của tiến sĩ Hà-sĩ-phu th́ sự tiến hóa của loài người mang hai đặc điểm là có trí tuệ và biết chế tạo và sử dụng công cụ.

1-    Trí tuệ là cốt lơi của sự tiến hoá

Tác giả lư luận rằng sự tiến hoá của loài người thể hiện ở sự chế tạo và cải tiến công cụ, và công cụ cải tiến được là do tiến bộ về  trí tuệ. Điều đó nay đă rơ như ban ngày, chẳng cần phải lư giải dài ḍng. Nhưng Mác lại tiếp cận với quy luật tiến hóa từ ‘cử ngơ’ quyền lợi, nên đi ḷng ṿng măi cũng không thoát ra khỏi cái mê lộ của ‘chiếm hữu’, bóc lột, đối kháng giai cấp’...

Mặc dầu biết ‘Cách Mạng’ là sự chuyển xă hội sang một phương thức sản xuất có năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm cao hơn, nhưng lại rút ra quy luật: ‘ĐTGC mới là động lực của phát triển’, và đi đến kết luận: vấn đề quan trọng nhất của mọi cuộc CÁCH MẠNG là CHÍNH QUYỀN!

Mặc dầu biết ‘chỉ có đem toàn bộ hiểu biết của nhân loại để làm giàu cho bộ óc của ḿnh th́ mới trở thành người cộng sản’ nhưng lại xếp trí tuệ ở ‘kiến trúc thượng tầng’, là cái bị quyết định bởi kết cấu kinh tế của ‘cơ sở hạ tầng’, và ngay trong cái ‘kiến trúc thượng tầng’ kia Trí tuệ cũng chỉ có vai tṛ hỗ trợ, c̣n yếu tố quan trọng nhất của ‘kiến trúc thượng tầng’ vẫn là CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC!”

Ông bảo: “Sự đi chệch hướng tiến hoá ấy bắt nguồn từ những khiếm khuyết thuộc hai luận điể trung tâm của CNXH khoa học: Bản chất bóc lột của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư, và ĐTGC là động lực phát triển của xă hội”.

a)     Vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.

          Theo tính toán của Mác th́: “Trong quá tŕnh lao động người công nhân đă tạo ra cho nhà tư bản một số sản phẩm có giá trị cao hơn giá trị mà nhà tư bản trả cho anh ta bằng tiền lương.

Một bên làm nhiều mà hưởng ít, một bên không làm mà hưởng nhiiều. Toàn bộ sự hưởng thụ của nhà tư bản có nguồn gốc từ phần lao động ‘thặng dư’ của công nhân. Chỉ có phá bỏ kiểu sản xuất ấy đi th́ người công nhân mới hết bị bóc lột”.

          Tác giả nói điều đó sai. Thứ nhất v́ sản xuất công nghiệp mang tính toàn xă hội, có sự tham gia của nhiều yếu tố như: tiền vốn, nguyên liệu, máy móc, quản lư, quy tŕnh kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật, công nhân v.v. Do đó đây là sự hợp tác đa phương chứ không phải song phương. Đơn giản hoá để thành song phương là gượng ép. Mọi mối quan hệ đều phải có tính ‘hai chiều’ chứ không thể ‘một chiều’. “Thật là phi lư khi trong các thành viên ấy có một thành viên chỉ biết tính ‘chi phí’ ca- lo cho lao động’ của ḿnh và đ̣i cho đủ, c̣n sự thể toàn bộ ra sao th́ không cần biết tới”.

Thứ hai, trong sản xuất công nghiệp th́ sản xuất và tiêu thụ gắn liền với nhau, người xản xuất cũng là người tiêu thụ. Hà-sĩ-phu cho rằng Mác chưa thấy mối hỗ tương này nên đă tách tiêu dùng ra khỏi sản xuất, thậm chí đối lập nó. “Mác nghĩ rằng người công nhân ngày càng trở nên xa lạ với sản phẩm do ḿnh làm ra, sản xuất càng có lăi th́ ḿnh càng trở nên bần cùng, sản phẩm sẽ sẽ phải đổ đi, và sản xuất TBCN không thể tiếp tục phát triển... Nhưng cuộc sống đă không chạy vào cái ngơ cụt siêu h́nh mà Mác tưởng tượng”.

Thực tế là nhà tư bản phải tính cách nào để chính công nhân ngày càng mua được nhiều sản phẩm, do đó họ sẽ thu được nhiều lợi hơn và có khả năng mở rộng thêm sản xuất. Điều này cho thấy lợi  nhuận sau sản xuất chỉ tạo ra tiền đề để có khả năng xảy ra bóc lột chứ không phải là nguyên nhân sinh ra bóc lột.

          Điều phức tạp thứ ba là cơ sở để tính ‘giá trị lao động’. Theo tác giả th́ không riêng ǵ lao động của công nhân mà tất cả các yếu tố tham gia vào việc sản xuất đều là sản phẩm từ lao động chân tay và trí óc của con người, và v́ tính cách vô cùng phức tạp cuả những lao động ấy,“Không một phương pháp nào, một máy tính nào có thể giúp con người tính đúng được giá trị cuả tất cả những đóng góp ấy trong sản phẩm. Nghiă là về bản chất th́ khái niệm ‘công bằng’ hay ‘hợp lư’ không phải là những tiêu chuẩn khách quan có thực, khái niệm ‘bóc lột’ cũng vậy. Mọi sự tính toán chỉ là tương đối, và chấp nhận sự tính toán ấy hay không là do thỏa thuận, do quy ước, do tương quan cụ thể tại thời điểm ấy quyết định”. “V́ thế khái niệm ‘một xă hội không c̣n người bóc lột người’ là một khái niệm không thể hiểu được. Chống bóc lột bằng cách thực hiện quyền lực chuyên chính và xoá bỏ tư hữu là giải pháp hoàn toàn lộn ngược. Muốn có sự công bằng tương đối trong sự phân phối (chứ không phải trong sản xuầt) th́ một mặt phải làm cho mọi người đều phải có sở hữu tư nhân, một mặt phải xây dựng cho xă hội một cơ chế dân chủ pháp trị, chống độc tài đảng trị”.

          Điều phức tạp thứ tư được tác giả coi là quan trọng nhất đối với tiến hoá. Theo Mác th́ “Chỉ có sức lao động mới có khả năng tạo ra giá trị cao hơn giá trị đă mua nó, và ‘lao động sống’ cuả người công nhân là nguồn duy nhất tạo ra giá trị thặng dư, v́ thế chỉ có phần vôn để mua sức lao động mới là tư bản ‘khả biến’, vốn để mua máy móc là th́ thuộc về tư bản ‘bất biến’”.

Ông bảo nói thế chẳng khác ǵ nói rằng trong một máy truyền h́nh màu th́ công tác quan trọng nhất là tắt mở, v́ nếu không có động tác ấy th́ coi như cái máy chết! Ông lư luận rằng: “Trong sản xuất công nghiệp th́ trí tuệ mới là yếu tố quyết định và càng ngày càng trở nên quyết định hơn, và yếu tố ấy chủ yếu (cần nhấn mạnh chữ ‘chủ yếu’) không nằm trong ‘lao động sống’ của công nhân, dù đó là công nhân kỹ thuật”. “Tầm trí tuệ của một qúa tŕnh sản xuất công nghiệp trước hết là ở quy tŕnh công nghệ, ở mức độ ưu việt của máy móc và vật liệu kỹ thuật, ở tŕnh độ các chuyên gia và kỹ thuật viên, ở năng lực tổ chức và quản lư, ở sự tập trung vốn, ở những nghiên cứu cơ bản...nghĩa là toàn ở những khâu trung gian, gián tiếp, ở lao động quá khứ. Sản xuất càng hiện đại th́ lợi nhuận sinh ra từ phần tư bản mà Mác gọi là bất biến càng nhiều. Đă thế, trong khi tính tiền công trả cho côngnhân, Mác lại không tính đến cái giá mà họ phải trả cho nhà tư bản v́ điầu này: ‘năng lực lao động sẽ không là cái ǵ hết, nếu không bán được nó’”.

b)     Vân đề “Đấu tranh Giai cấp’ là động lực của phát triển.

Tác giả Hà-sĩ-phu bác bỏ lập luận này. Ông bảo nếu đă xác định rằng sự thắng thua trong tiến hoá là sự thắng thua về năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm, th́ nhân tố của sự đấu  tranh ấy cũng phải là nhân tố trực tiếp quyết định năng xuất và chất lượng. Đó không thể là ǵ khác hơn là tŕnh độ khoa học kỹ thuật, tŕnh độ tổ chức quản lư, tức là tŕnh độ của TRÍ TUỆ. “Vậy th́ sự ‘thi đua trí tuệ’ hay ‘đấu tranh trí tuệ’ mới là động lực của sự phát triển, chứ không phải sự ĐTGC”.

Nhưng khi nói đến Trí Tuệ, Trí Thức tiền tiến th́ Mác lại nhập luôn nhân tố ấy vào giai cấp côngnhân cho nhất quán: “Về lợi ích th́ giai cấp công nhân đă ‘đại diện’ cho lợi ích chân chính của các giai cấp khác, về trí tuệ th́ giai cấp công nhân lại là ‘tiêu biểu’ cho phương thức sản xuất tiền tiến nhất”. Hà-sĩ-phu gọi ư tưởng ấy là lăng mạn, v́ có được một giai cấp như thế th́ đúng là thần thánh. “Chỉ v́ quá thương giai cấp cần lao...mà một đầu óc như Các-Mác bị sa vào cái màn đại bi kịch của tư duy như thế!”

Mặt khác, tuy đă phát hiện ra tính ‘năng động’ của xă hội nằm ở ‘lực lượng sản xuất’ chứ không ở quan hệ sản xuất, Mác lại không nói tiếp là: “Trong ‘lực lượng sản xuất’ th́ tính ‘năng động’ ấy nằm trong bộ óc chứ không ở tay chân, và như thế th́ con người tiêu biểu cho ‘lực lượng sản xuất’ tiền tiến sẽ không thể là giai cấp côngnhân được!”

          Theo Hà-sĩ-phu th́ chỉ cần nhận chính xác một điều ấy thôi là mọi chuyện đều thay đổi hết: “Đă là Trí Tuệ th́ phải kế thừa, tích luỹ, tiệm tiến chứ không thể dùng đột biến Cách Mạng để xoá bỏ, thay thế. Phải là hoạt động của những đầu óc cá nhân trong sự hài ḥa mở rộng với nhân loại chứ không phải vấn đề giai cấp, không phải là sự đối kháng giữa hai phe. Phải ở mặt trận kinh tế, sản xuất, văn hoá, chứ không ở nơi chính trị, tư tưởng và chớp thời cơ giành chính quyền...Phải là sự đấu tranh lâu dài để ngày càng công bằng hơn chứ không phải phá bỏ cái phương thức sản xuất công nghiệp đang làm cho sự sản xuất phát triển. Phải thực hiện dân chủ tự do để làm xuất hiện và chọn lọc các sản phẩm sáng tạo của trí tuệ chứ không phải dùng chuyên chính công nông để xếp đặt mọi việc của xă hội trong ḷng bàn tay. Kẻ thù chính là sự kém trí tuệ nằm ngay trong đầu ḿnh chứ không phải bàn tay phá hoại của nước này nước khác. Tóm lại, chỉ cần một điểm ấy thôi đủ làm sụp đổ cả học thuyết Mác. “Ngày nay chúng ta biết quá rơ rằng con người chỉ có thể tự giải phóng ḿnh bằng trí tuệ của ḿnh...Trí tuệ đang trở thành yếu tố sản xuất trực tiếp, rằng ‘Sinh quyền’ đang trở thành’ Trí quyền’, rằng quyền lực xă hội đang chuyển sang tay Trí Tuệ”...

2-    Nguyên tắc ‘quán quân’

Thông thường ai cũng biết mức độ văn minh của một xă hội được đo ở những đỉnh, tŕnh độ trí tuệ của một dân tộc được đo ở tầng lớp trí thức của dân tộc đó. V́ thế xă hội cần phải được chăm lo để đất nước có nhiều nhân tài.  Song ông Hà-sĩ-phu nói tư tưởng b́nh quân cuả CNXH đă chỉ đạo tất cả các mặt của xă hội, trừ lĩnh vực quyền lực. “Mọi thứ đều là ‘của toàn dân’  riêng quyền lực th́ Đảng ta kiên quyết không chia xẻ với ai”. Cho nên đỉnh cao ở đây không phải là những quán quân trí tuệ: “Trong thế giới của quyền lực tập trung th́ những ‘đỉnh cao’ điển h́nh hẳn phải là Stalin, Mao-trạch-đông, Kim-nhật-thành, PolPot...Thành ra ‘cái ǵ mà quy luật yêu cầu chia ra th́ ta đem tập trung lại, cái ǵ quy luật yêu cầu tập trung th́ ta lại đem dàn đều ra. Căn bệnh b́nh quân vẫn c̣n nằm trong gốc của chủ nghĩa. T́nh trạng lấy cái thấp làm chuẩn để ‘gọt’ cái cao vẫn c̣n phổ biến, và đỉnh cao không thể mọc nên từ cái nền quá thấp! Xă hội không thể lấy điểm tựa ở sự bần cùng! “

3-    Nguyên tắc tích lũy, kế thừa và giao thoa

Loài người khác hẳn loài động vật v́ nền văn minh từ các thế hệ trước được truyền lại về sau nên các đời sau không phải đi lại từ đầu mà chỉ từ đó tiến lên thêm. Do sự tích lũy và kế thưà đó mà các thế hệ sau trở nên văn minh hơn các thế hệ trước. Chính v́ vậy mà cho đến nay nhân loại đă có 3 cấp văn minh là văn minh Nôngnghiệp, văn minh Công nghiệp và văn minh Tin học.

Nhưng cách đặt vấn đề của Mác đă chặn đứng sự kế thừa đó. Tinh thần của thuyết này là: lịch sử chỉ đi tuần tự liên tục cho tới khi có Cách mạng Vô sản (CMVS), rồi từ đó lịch sử bước sang một kỷ nguyên khác hẳn. CMVS chuyên làm những việc chưa hề có trong lịch sử. Ví dụ: từ xưa tới giờ mọi chính quyền đều là công cụ thống trị của thiểu số đối với đa số. C̣n chính quyền vô sản là của đa số thống trị thiểu số, nên dù nó có chuyên chính cũng c̣n dân chủ gấp triệu lần các chính quyền khác. Và sẽ không ai thủ tiêu nó được mà nó sẽ tự nguyện tiêu vong. Nhưng trước khi tiêu vong nó phải được tăng cường để trở nên một chính quyền sắt, để tiêu diệt tư bản.

Cũng theo Mác th́: “...quy luật phát triển của mọi h́nh thái kinh tế xă hội từ trước đến nay là: sức sản xuất phát triển đến cực độ sẽ phá vỡ quan hệ sản xuất tương ứng, kết thúc bằng việc giành chính quyền. Nhưng riêng với xă hội XHCN th́: Quan hệ sản xuất h́nh thành trước rồi mới mở đường cho sức sản xuất tiến lên, và giành chính quyền là việc mở đầu!

4-    Những nguyên tắc ‘Tự do cho con người’

Theo tác giả, thời nô lệ và phong kiến quyền lực tối thượng là luật rừng, luật của kẻ mạnh để trị lại những bản năng thú tính ở cực đối lập là tính tự do hoang dă. Để thoát t́nh trạng đó, người ta t́m đến cái Tâm, như biểu thị cao nhất của tính Người, và ngợi ca những nền ‘đức trị’, ‘lễ trị’, ‘nhân trị’. Hiện thân của cái Tâm thiện chính là các tôn giáo. Nhưng ở đâu có tôn giáo nắm quyền toàn trị là ở đó con người trở nên cực đoan, không dung nạp đối lập, và tàn sát nhau dữ dội.

Rồi những ư thức hệ khác nhau xuất hiện. “Nhưng ư thức hệ nào cuối cùng cũng bộc lộ bản chất là những giáo lư khoác áo khoa học, nên ‘Ư thức hệ trị’ hay ‘Đảng trị’ cũng không khác ǵ ‘Tôn giáo trị’, đều năm trong quỹ đạo ‘Đức trị’, luôn luôn có nguy cơ chuyển thành ‘cực trị’, bởi v́ nó là tiếng nói nhân ái nên dễ thu phục ḷng người. Nó chỉ chấp nhận một tiếng nói chính thống đă ‘linh thiêng hoá’ và ‘độc tôn hoá’, và những chuẩn mực đều nằm trong cơi tâm thức , không nh́n thấy được, không kiểm chứng được. Cho nên hễ một tên ma giáo lọt vào th́ cả hệ thống sẽ trở thành vật tế thần. “Kẻ thành côngnhất trong ‘sự nghiệp’ đánh traó không ai hơn được Staline”.

Ông nói con người đă phải trả giá bao nhiêu xương máu cho ảo tưởng ‘đức trị’ rồi mới

nhận ra rằng: “Bất cứ ai có quyền cũng có xu hướng lạm quyền”. Chính từ nhận thức đó mà nền  ‘pháp trị’ đă ra đời. Cái khó của nền ‘pháp trị’ là vừa phải chống độc tài vừa phải chống tự do vô chính phủ. Và “Muốn vậy th́ tất cả những chuẩn mực phải được ‘luật hoá’ hết, rơ ràng, cụ thể, không có chuẩn nào nằm trong tim trong óc cả”. Ngoài ra cơ quan quyền lực phải do dân bầu một cách tự do, trực tiếp và có định kỳ. Quyền lực không thể đơn nguyên, từ một nguồn, mà phải linh hoạt giữa chế độ lưỡng đảng hay đa đảng, và phải theo chế độ ‘tam quyền phân lập’.

Trong hệ thống pháp trị này, các đảng phái, tôn giáo... không thể lănh đạo nhà nước được.”Nếu một đảng nào đó được ‘hiến định’ là lănh đạo xă hội th́ xă hội ấy không thể nào trở thành một xă hội pháp trị được, quanh quẩn rồi lại trở về với ‘văn minh đức trị’ tức ‘văn minh nông nghiệp’, về lâu về dài không thể thích nghi được với công nghiệp hóa và kinh tế thị trường”.

Hà-sĩ-phu nói “Tự do chẳng những là khát vọng của con người mà cũng là quy luật của tiến hóa”.

          5- Những nguyên tắc không thể tự do trước quy luật

          Quy luật là sự ràng buộc vô h́nh nhưng không cho ai trốn thoát, không cho ai ‘ăn gian’. Nếu đi sai quy luật th́ sớm muộn ǵ rồi cũng phải trở lại. Nếu một học thuyết đă sai lầm từ gốc nhưng không chịu sửa đổi chính sai lầm ấy, mà lại t́m cách ‘bù trừ’ bằng sự khôn khéo ở trên ngọn, bằng sự tài t́nh chiến thuật, th́ chẳng những sẽ mất công vô ích mà c̣n bị quy luật bắt phải trả giá.

Tác giả nhấn mạnh: “Đă thuộc quy luật th́ vấn đề ǵ chưa giải quyết nhất định nó vẫn quanh quẩn đâu đó thôi. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vốn là một tồn tại tự nhiên nhưng chúng ta dùng quyền lực để thủ tiêu nó. Thế là nó chui vào ẩn ngay trong quyền lực, từ đó tỏa ra, ngấm ngầm chiếm lấy mọi tư hữu khác. Sau mấy chục năm xây dựng CNXH, cái tư hữu tưởng đă chết mục xương ai ngờ bây giờ ‘bầu đoàn thê tử’ của nó từ đâu chui ra đông thế, mà đều mạnh khỏe như thể được nuôi dưỡng trong lầu son vậy?” Ông c̣n kể chuyện ‘con rắn vuông’ và mượn lời bà mẹ ‘b́nh’ câu truyện đó để nói về thời sự “Thật khổ cái anh chàng ‘cố đấm ăn xôi’, biết vợ không tin rồi th́ cứ nhận luôn một câu rằng: ‘Ừ th́ tôi cũng nói khoác với u nó một tí’ có phải là yên không? Rồi chính ông phải than: “Ôi, có phải cái tâm lư vừa lùi vừa cầm cự đến cùng trước quy luật kia cũng chính là một quy luật?”

 

          IV/ Suy nghĩ về tính cách Việt-Nam

 

          Trong phần này tác giả phân tích những đặc điểm của con người Việt-Nam, để ứng xử những quy luật chung vào t́nh h́nh riêng Việt-Nam một cách thích hợp. Ông nói cần xem xét hành động và tính cách con người từ nguyên thủy của nó, từ qúa tŕnh nhận thức, xa gần, một cách đại lược.

 

A- Đông, Tây: hai con đường tới nhận thức, hai cách ứng xử

Tiến sĩ Hà-sĩ-phu nhận định rằng con người Âu Tây mạnh về mặt mổ xẻ sự vật để phân tích nó, đưa nó về phạm trù nhận thức tĩnh và siêu h́nh, để bắt nó bộc lộ các thuộc tính bên trong của nó cho ta biết để vận dụng theo chiều hướng có lợi cho con người. Quá tŕnh này, về tư duy là ‘tĩnh’ là ‘siêu h́nh’, nhưng về hành vi th́ lại rất động, có tác dụng chinh phục tự nhiên để tạo dựng các nền văn minh. Trái lại con người Á đông th́ lại nh́n sự vật vận dụng theo các mối liên hệ tự nhiên của nó và t́m cách thích nghi với thiên nhiên để tồn tại thay v́ cưỡng bức chiếm đoạt nó. Ông nói, về tư duy th́ như vậy là rất ‘động’ và biện chứng, nhưng về thái độ th́ lại tương đối ‘tĩnh’, có lợi cho văn hiến, nhưng lại kém khả năng sáng tạo về của cải vật chất.

          Hai lối tư duy, hai hướng ứng xử khác nhau ấy, có nguồn gốc từ cuộc sống nông nghiệp và cuộc sống du mục. Nó tạo nên những đặc tính khác nhau giữa hai con người Đông Tây. Một đằng sôi nổi, duy lư, ưa dùng sức mạnh, giỏi tổ chức, giỏi khoa học thực nghiệm, ứng xử ở thế công, cốt ở phát triển. Một đằng th́ trầm lặng, ưa linh hoạt, ưa dùng t́nh cảm, giỏi thuyết phục, giỏi văn thơ, giỏi các khoa học trừu tượng, ứng xử ở thế thủ, cốt ở bảo tồn.

Tác giả nói ở đây ông nhận thấy một điều kỳ diệu là “Tính âm dương bao trùm hết mọi phạm vi, mọi sự vật:

-         Về hai nền sản xuất khởi nguyên th́ nông nghiệp là âm, du mục là dương;

-         Về thế giới thỉ phương Đông là âm, phương Tây là dương.

“Âm dương cân bằng trong mọi con người, âm th́ tĩnh, dương th́ động. Người Tây Âu có tư duy tĩnh th́ hành vi lại động, người Á đông có tư duy động th́ hành vi lại tĩnh. Rơ ràng rằng sớm muộn ǵ Đông Tây cũng phải kết hợp th́ Âm Dương mới hài ḥa, quá tŕnh nhận thức mới hoàn chỉnh, tư duy và hành động mới cân đối, văn minh với văn hiến mới nương nhau mà đi lên”.

Bởi đó ông mới khẳng định: “Tôi nghĩ rằng đối với xă hội th́ luật ‘âm dương’ có tính nhân bản hơn và biện chứng hơn luật ‘mâu thuẫn’. Theo luật âm dương th́ ‘không có cái ǵ hoàn toàn dương hoặc hoàn toàn âm’. Trong âm có dương, trong dương có âm, âm dương tuy đối lập mà gắn bó mật thiết và chuyển hóa lẫn nhau, nghĩa là giữa âm và đương không có đối kháng. Người Á đông nói ‘Âm dương ḥa, vũ trụ giáng’! Mâu thuẫn nhau như ‘thiên’ với ‘địa’ mà nhiều lúc c̣n ḥa được huống chi ‘nhân’ với ‘nhân’ sao lại có mối quan hệ nhất thiết phải ‘một mất một c̣n’?

Quan điểm ‘giai cấp đối kháng’ có phần xa lạ với với triết lư Đông-phương chúng ta. Nhưng âm dương có thể ‘ḥa’ chứ không thể ‘đồng’, dương vẫn là dương, âm vẫn là âm. Đảng một mặt xác định ḿnh là người lănh đạo xă hội, một mặt lại nói ‘Đảng với Dân là một’ th́ về mặt triết lư không được ổn lắm.

 

B- T́m hiểu thêm về ‘đạo Trung dung’

          Trung dung là luận thuyết của Khổng Tử về phép xử thế. Theo ông Hà-sĩ-phu th́ thuyết này vừa phổ biến rộng đến độ ‘người dân tầm thường cũng tự nhiên đă áp dụng nó rồi’, vừa uyên thâm đến nỗi ngay cả các ‘bậc thánh nhân chưa chắc đă hiểu hết’.

Bàn về nguyên lư của đạo Trung dung, Hà-si-phu viết: “Trung bất thiên, Dung bất dịch! Trung là không thiên lệch, Dung là không dời đổi. Tránh thái quá và tránh bất cập. Nhưng lấy ǵ làm chuẩn để phán định? Khổng Tử đưa ra hai tiêu chỉ: Đạo và Đức”. Đạo là lẽ Trời, không thể làm sai, tức là cái mà bây giờ ta gọi là quy luật. C̣n Đức là cái cốt cách mà con người phải dùng nó để ‘hành Đạo’, tức là để sống cho đúng quy luật tự nhiên trong cái cốt cách đó. Khổng Tử lại đề ra ba phẩm chất quan trọng là NHân, Trí, Dũng. Đây cũng là mẫu mực của người quân tữ: giàu sang không dâm dật, nghèo khó không đổi ḷng, uy vũ không khiếp sợ. Việc thành bại là do khả năng và trách nhiệm của ḿnh chứ không thể trách ai. Ngoài ra muốn thành công lại c̣n phải có “quan điểm thực tế và chiến lược mềm dẻo” (tức là phải biết tùy thời và phải biết quyền biến)

          Tóm lại, theo tác giả th́ Trung dung không phải là phương châm của kẻ yếu mà là của người có bản lĩnh và có sức mạnh; không phải là thái độ cầu an, mà là thái độ của người biết “thuận thiên hành dạo”; không phải là thái độ bảo thủ hay tiết tháo dởm, mà là thái độ rất động, thích ứng với thực tế; không phải là “đứng giữa” theo kiểu dàn ḥa hay thái độ ‘trung b́nh’, ba phải, mà là đứng ở giữa ‘điểm chuẩn’, được xác định bằng cách đối chiếu với quy luật khác quan và năng lực chủ quan. (Có đứng giữa là giữa một bên thái quá là kẻ trí thức hoang tưởng vĩ cuồng và một bên bất cập là đám thứ dân vô tri vô trách).

 

C- Mấy suy nghĩ về tính cách Việt-Nam

          Theo nhận định của tác giả th́ Việt-Nam là nơi thể hiện khá đầy đủ cái ‘tính cách Á đông’ nói trên, nhưng đă được ‘Việt-Nam hóa’ để thích nghi và sống c̣n qua ba tính cách dưới đây.

1-    Mạnh về ư thức hợp quần, yếu về ư thức xă hội     

Mạnh về hợp quần v́ phải chống lại kẻ thù xâm lăng bờ cơi và v́ đó là bản năng tự vệ sẵn có từ khi c̣n là bày đoàn. Từ bản năng sống đàn và bản xạ tự vệ nâng thành t́nh cảm, đạo đức.

Từ t́nh cảm gia đ́nh, t́nh yêu quê hương xóm làng, mở rộng thành ḷng yêu nước thương ṇi. “Quan hệ ṇi giống, quan hệ xă hội có xu hướng gia đ́nh hóa: cả nước đều là ruột thịt v́ sinh từ trăm trứng của một mẹ Âu Cơ..., cả dân tộc gọi chủ tịch nước là ‘Bác’”...

Nhưng ông nói ư thức xă hội lại khác hẳn. Đó là vấn đề của nhận thức, của lư trí, là sự ‘giác ngộ’ về quan hệ của con người với xă hội, giữa những cá nhân độc lập, b́nh đẳng. Đó là yếu tố quan trọng của một xă hội văn minh công nghiệp và pháp trị. “Những con người ‘lá lành đùm lá rách’... có thể lại không biết cách hợp tác với nhau một cách hữu hiệu trong xă hội mới thậm chí người này chỉ làm yếu người kia đi...Trong lĩnh vực kinh tế xă hội th́ tinh thần ‘ái quốc’ lại bị lăng quên, chỉ lo ‘tự cứu’, không biết rằng khi xă hội chuyển ḿnh th́ mỗi con người đều được ban tặng những lợi ích vô giá mà mỗi cá nhân không bao giờ tự tạo ra được”.    Như thế, ‘nghĩa hợp quần’ lấy sức mạnh ở t́nh cảm, ‘chín bỏ làm mười’, thích nghi với sản xuất nông nghiệp, với nền ‘đức trị’. C̣n ư thức xă hội ‘lấy xă hội làm trọng, lấy sức mạnh ở lư trí’, thích nghi với sản xuất công nghiệp, với nền pháp trị và kinh tế thị trường.

2-“Đạo Trung dung” bị hạ xuống thành phương châm Yên thân, Nhẫn nhục.

Bị hạ thấp v́ các giai cấp thống trị đă rút mất cái lơi tích cực của thuyết này, chỉ để lại cái vỏ ‘trung b́nh chủ nghĩa’, rồi nhồi vào đầu người dân bị trị cái phương châm ‘không ngoan và đức độ’, mà kỳ thực chỉ là nhẫn nhục và yên thân. Tác giả nói mới đầu nó cũng chưa trở thành ‘Đạo của thằng hèn’ v́ c̣n có yếu tố Chính danh, Quân tử, biết giữ tiết tháo, mất thành th́ tự vẫn theo thành. Dù đó không phải là hành động tích cực, xong ít ra cũng c̣n xứng đáng hơn bọn đầu hàng, bọn chạy thoát thân, rồi khôn khéo chạy tội để lại được ngồi ghế cao hơn!

Nhưng rồi người dân cũng phải chấp nhận sự thực đắng cay là “trong một xă hội hai ba tầng nô lệ th́ ai cho ḿnh lương thiện mà đ̣i lương thiện? Không có nhân cách th́ sống, có nhân cách th́ chết!...Trung dung lúc này có nghĩa mới là cứ ‘chui vao giữa’ cho yên thân. ‘Khôn độc, ngốc đàn!’  cứ đứng giữa đàn ngốc mà sống c̣n hơn! (lại được tiếng là có tinh thần tập thể nữa chứ?) Và đạo đức mới là phải biết đầu hàng:

          Ai nhất th́ tôi thứ nh́

          Ai mà nhất nữa tôi th́ thứ ba!

(nghĩa là các anh cứ việc đứng trên, tôi sẵn sàng đứng bét!)

          “Từ Trung dung vô nguyên tắc đến phản Trung dung cũng chỉ là một, đều là từ bỏ cái Trung dung quân tử để đi vào chủ nghĩa cực đoan ‘duy an’, ‘duy lợi’. Cho đến khi chữ ‘quân tử’ trong thực tế chỉ c̣n là một ṛ cười th́ cái lưu manh đă lên ngôi chính thống”.

3-    Chống ‘Chính thống’ bằng con đường không chính thống

Đó là cách chống của Trạng Quỳnh. Dân bị trị không chống lại nổi bọn thống trị, v́ một là nó có vũ lực hộ tống, hai là giai cấp thống trị nào cũng biết cách gán ư đồ của họ cho kẻ bị trị, biến tư tưởng của kẻ thống trị thành tư tưởng của xă hội. Và cuối cùng th́ sự thể lại rất chớ trêu: “Tôi trói tay anh là theo nguyện vọng của anh đấy! Tôi trói anh thế này cũng là mong anh sớm được sung sướng, chỉ ngày mai là anh se thấy dễ chịu thôi!”

          Muốn chống lại ‘kẻ thù’ ấy, người dân có thể dùng ‘vũ khí phê phán’ và ‘phê phán bằng vũ khí’, nhưng cả hai đều đă bị kẻ thống trị tước mất rồi. Cho nên phải chống lại bằng ngón vơ Trạng Quỳnh, một mặt vẫ chấp nhận cái chính thống, nhưng mặt khác th́ t́m cách vô hiệu hoá nó một cách không chính thống. Thành ra “Cả nước bề ngoài vẫn nói một lời thống nhất, nhưng mỗi n gười có thâm ư riêng của ḿnh. Chúa ‘thua’ trong cái vỏ vẫn oai nghiêm, Trạng ‘thắng’ trong cái vỏ vẫn là bề tôi ngoan ngoăn”.       

Trước trạng huống đó, Hà-sĩ-phu cảm thấy ‘vừa thương dân tộc ḿnh, vừa ngượng, nghĩ rằng cả một ‘dân tộc Trạng Quỳnh’ sẽ đi tới đâu? Bởi cái ‘”Thắng thua đều ở chuyện khôn vặt.

Mẹo ‘cù nhầy’ có thể làm cho sinh vật sống ‘dai như đỉa’ nhưng không tiến hóa được... Điều kiện để có sự tiến hoá là phải có nguy cơ bị tiêu diệt: Nếu không tiến hóa nó sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn! Sự ‘tu sửa vặt’ chính là ‘giải pháp’ giúp cho sinh vật ‘lách’ qua được cuộc đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt, vượt qua nguy cơ bị tiêu diệt mà không cần đến con đường chính thống, nhưng chính sự thành công này đă tách nó ra xa con đường chung và không tiến hóa cao hơn được nữa”.

          Ba đặc tính trên đă giúp cho dân tộc vược qua được lịch sử kinh hoàng, nhưng đă phải trả giá bằng sự ‘tha hóa con người, tha hóa dân tộc’! Trả giá bằng sự lưu manh hóa, không phải theo nghĩa thông thường, mà là ‘lưu manh lịch sử’. Nó đă... ‘rút mất đi khỏi con người chúng ta cái bản chất giản đơn cương trực, cái Quân tử, Chính danh, cái nhân tính dám đương đầu với cái ‘chính thống’ phi lư, và nhất là tính triệt để, cực đoan, vốn là nhân tố không thể thiếu để có nhận thức lư luận, để có tư tưởng, mà chỉ lại cho chúng ta một con tim đa cảm, thổn thức, nhưng nhiều khi mù ḷa, và bên cạnh cái bao tử bị đói kinh niên!...Ta vượt qua nguy cơ diệt vong không phải bằng sự khẳng định một bản sắc riêng bất tử, mà bằng cách không khẳng định bản sắc riêng nào cả, cứ nhặt nhạnh, vá viú mỗi thứ một tư, cái ǵ tiện dùng được th́ cứ dùng, có người đă gọi nó là chủ nghĩa ‘đại tiện dụng’”. 

 

          V/ Tản mạn quanh lối ra

 

          Đây là đoạn chót của bài viết, nói về những quan tâm của tác giả đối với tương lai của đất nước. Ti ến sĩ Hà-sĩ-phu nói ông viết bài này chính từ mặc cảm tội lỗi. Tội lỗi của cá nhân, của thế hệ, của giống ṇi, mặc cảm bị ‘lưu manh hóa’. Và ông cố gắng thoát ra khỏi tội lỗi đó bằng cách nói thẳng, nói thật hết ḷng”...nhưng rất khó. “Cái ‘phi cjính thống’ th́ cửa ‘chính thống’ nào nó đi cũng lọt, mà cái chính thống lương thiện th́ bị chặn ngay từ cửa ngoài!” Song ông vẫn tin ở mặt lương thiện của xă hội, “v́ dù có đi quanh co măi trong mê lộ th́ cửa ra cuối cùng của xă hội ngày nay không thể là ǵ khác hơn là phơi bầy hết sự thật...”

          Ông đưa ra một ví dụ: Cả đoàn người đang đi trên một con đường gập ghếnh th́ một tốp người ‘ly khai’ đi sang một con đường khác v́ nghe nói phía ấy có một rừng mơ. Nhưng càng đi càng mịt mờ nên những người da trắng trong tốp ‘ly khai’ biết là lầm đường nên quyết định ‘Đằng sau, quay!’ Đương nhiên phải có sự xáo trộn, người đi trước thành người đi sau. Nhưng những người da vàng trong nhóm không chịu quay lại mà lại nghĩ ra một kế khác. “Phương thức đổi mới kiểu châu Á là ư muốn trở về với quy luật mà nội bộ vẫn giữ nguyên trật tự cũ”, người dẫn đường trên đoạn đường đúng vẫn là người dẫn đường trên đoạn đường sai. Không đổi mà đổi, đổi mà không đổi. “’Vô hiệu hóa’ cái chính thống bằng cách phi chính thống, dùng ‘phi quy luật’ để ‘vô hiệu hóa’ quy luật, ‘chính thống hóa’ cái ‘phi chính thống’ và chính thống hóa ra phi chính thống...Cái qũy đạo ṿng tṛn ấy là ṿng tṛn kỳ ảo, và một khi đă h́nh thành th́ nó sẽ biến ảo khôn lường”. Ông nói ông không quan tấm lắm đến ‘trật tự nội bộ’ v́ khi con đường đă thông suốt th́ cả đoàn đều sẽ đi được, có sớm muộ vài bước cũng không sao.

Nhưng ông thấy có hai điều rất đáng quan ngại.

 

A- Về h́nh thái kinh tế - xă hội mà hạ tầng là kinh tế thị trường và thượng tầng là XHCN

          Theo Hà-sĩ-phu, nếu h́nh thái trên được áp dụng th́ ‘cùng một lúc xă hội phải chịu sự chi phối của hai cơ chế ngược nhau, lúc nào cũng chỉ ‘ŕnh’ để phủ định nhau, và nếu kết hợp với nhau th́ càng nguy hiểm hơn. Người dân nghèo thấp cổ bé họng sẽ bị cả hai cơ chế ràng buộc, kẻ có quyền có tiền sẽ lợi dụng được cả hai cơ chế để chơi tṛ ‘bật tường’ hoặc tṛ ‘ú tim’, lúc núp dưới cơ chế n ày, lúc núp dưới cơ chế kia, không luật pháp nào trị nổi. “’Quốc doanh’ và ‘sở hữu’ là những lĩnh vực điển h́nh...”

          “Đáng chú ư nhất là sự sử dụng quyền lực VSCC và cơ chế XHCN để tích lũy tư bản. Đây là điều cực kỳ bất lợi cho người lao động nghèo”. Họ là “đưá con bị chính bố trói tay để cho hàng xóm đánh túi bụi!” Người đại diện cho họ bây giờ là người của phía chủ, chủ thật chứ không phải chủ hờ như họ trước kia. Thành ra “Cuộc cách mạng bị đánh tráo và giai cấp vô sản tay trắng là giai cấp bị phản bội đầu tiên!”

     “Điều rất đúng với quy luật biện chứng là khi chúng ta định dùng CCVS để đánh ‘tư bản’ mà không được th́ con người sẽ dùng ngay CCVS làm phương tiện để lách qua cửa ải ‘tự do cạnh tranh’ mà trở thành ‘tư bản’! Và nếu dự cảm ấy sẽ thành hiện thực th́ công lao của học thuyết về XHCN là đă cung cấp cho nhân loại thêm một con đường để tư bản hóa, một thứ tư bản lưu manh và bện hoạn”.

 

B- Hậu quả trên phương diện văn hóa xă hội

          Tác giả cho biết hậu quả của h́nh thái trên đối với văn hóa xă hội c̣n đáng ngại hơn nữa.

“V́ khi ‘vỏ một đằng, ruột một nẻo’ th́ dẫu mục đích có thiện chí đến đâu, về biện pháp đó vẫn là sự nói dối ngụy trang. Và khi nói dối lại nằm ở tầm quốc sách th́ tác hại của nó với xă hội

không thể lường hết được. Trong quốc nội cũng như trên diễn đàn nhân loại, những tiếng nói  ‘Nhân bản’ tiền tiến và ‘Trí tuệ’ đích thực sẵn sàng bị hy sinh bởi nó thường vi phạm đến sự an toàn cuả ‘quốc sách’ ngụy biện, ngụy trang ấy”.

          Đối với một xă hội như vậy th́ mỗi con người, trong những quan hệ cha con, vợ chồng, ‘đồng chí’, bè bạn...cũng sẽ ‘vỏ một khác, ruột một khác’! “Cái giá quá đắt để mua sự yên ổn và sự sinh tồn ấy con cháu chúng ta đang phải trả và sẽ c̣n phải trả! Và nếu trong muôn một, đó sẽ là sự ‘ngă giá’ lịch sử không thể khác th́ thế hệ đầy làm lỗi của chúng ta chỉ c̣n một câu để nói với mai sau: các bạn đều đă có máy khâu, tủ lạnh, tivi, nhiều người có xe hơi, nhà lầu v.v., nhưng trước lịch sử con người , dân tộc ḿnh là kẻ thua, điều bất hạnh này các bạn là những người phải lănh đủ! Các bạn hăy đến tận mồ chúng tôi mà nguyền rủa, rồi về bảo nhau tu tỉnh  mà rửa nỗi nhục của cha ông để lại!...Biết nhục không phải là điều đáng sợ, trái lại, khi nói về dân tộc ḿnh, không hiểu sao tôi cứ rùng ḿnh ghê sợ trước một thái độ hơn hớn tự đắc”.

          Dù sao Hà-sĩ-phu cũng nghĩ rằng ông không cô đơn. Kỷ nguyên thông tin này không thể có Nguyễn trường Tộ đơn độc, và càng không có Tự Đưc cổ lỗ. Nhiều người nhận thấy t́nh h́nh đă chín mùi để từ bỏ lư thuyết Mác-Lê và CNXH đầy ảo tưởng và phi khoa học. Vấn để chỉ c̣n là cân nhắc để chọn lựa một ‘lối ra’. Vấn đề nằm ở nơi tâm lư, động cơ, quyền lợi hơn là ở nhận thức. Nhưng không phải là không c̣n những hiện tượng phức tạp. Có những ‘chiến sĩ’ vẫn thản nhiên nằm dưới hầm cá nhân chờ lệnh phản công trong khi đại quân trên mặt đất đă rút đi gần hết. Cũng có những anh cố t́nh nán lại để thu chiến lợi phẩm! Và tất nhiên cũng có những kẻ chỉ mong cho nước đục để thả câu. Họ bảo cứ đẩy cho cái bê bối phát triển đến cực độ là thiết thực góp phần tạo ra cái mới.

Một số trí thức, cán bộ th́ bỗng sinh ra ‘cao đạo’, trở nên thoát tục, hướng về giá trị ‘vĩnh hằng của nhân loại...rất lơ đăng với hiện tại, khinh bỉ tất cả, và chỉ t́m được ‘nghĩa đời’ ở những thú tiêu khiển, ở t́nh yêu, hoặ ở những ích lợi thiết thực khác. Họ tâm sự: cái ǵ là quy luật đến kỳ hạn nó sẽ tới, hơi đâu mà ‘cầm đèn chạy trước ô tô’. Ḿnh có quyền th́ cũng nghĩ mẹo để giữ quyền chứ khác ǵ người ta. Nói trái ư người ta, bị quy là phản động có phải khổ cho vợ con ḿnh không? “

Phải nói rằng chủ nghĩa ‘hiện sinh’ Việt-Nam trong thời kỳ đổi mới này cũng thấu t́nh đạt lư đấy chứ!”. Hà-sĩ-phu thú nhận là có lúc ông đă định xé bài, v́ có nghĩ ǵ, nói ǵ, cũng đều vô ích. Nhưng chợt nh́n vào những thứ ḿnh đang ăn mặc hàng ngày, nh́n vào cuốn sách đang xem, tôi tự biết ḿnh là kẻ đă được ‘ăn chịu’ ở ‘quán đời’ này quá nhiều, nếu thản nhiên rũ áo ra đi th́ hóa ra thằng ăn quịt, giữa buổi ‘kinh tế thị trường’! Nên đành phải nói tiếp câu truyện trần tục”.

          Rồi tác giả kể đến một tài liệu tham khảo nội bộ của Ủy ban Khoa học và Kinh tế nhà nước trong đó có bài của một tiến sĩ người Hy lạp, đưa ra lời giải liên quan đến chính trường hợp Việt-Nam: “Muốn nhân dân có hạnh phúc, xă hội phát triển, th́ chỉ có một con đường là công nghiệp hóa và kinh tế thị trường...nhưng muốn làm được như thế th́ buộc phải từ bỏ ư thức hệ độc tôn” ...”Người ta có thể nói thẳng ra rằng nhân dân Mỹ là người sở hữu thực sự của tài sản quốc gia”.

“Một chế độ độc quyền không giới hạn có thể tác yêu tác quái thực sự đối với nền kinh tế của đất nước và biến thành kẻ bóc lột nhân dân”. “Điều quan trọng trước hết là phải làm sao tránh được cho cả dân tộc những đau klhổ và mất nhân phẩm v́ có một nhà nước độc tài”.

Ngay nhóm nghiên cứu ‘tư tưởng Hồ chí minh’ cũng đă có ư kiến ...”nên khẳng định đảng ta kiên tŕ tư tưởng Hồ chí minh, không nói Mác Lênin!” (vấn đề tư tưởng Hồ chí minh xin không bàn đế ở đây)”.

Ngoài ra tác giả cũng đề cập đến một “tiến tŕnh từ bỏ CNXH do một người tên là Nguyễn kiên Giang h́nh dung, gồm 4 bước: Bước 1, coi các tật xấu của CNXH là tàn dư của các chế độ cũ;

Bước 2, coi các tật xấu của XHCN là hậu quả hư hỏng cá nhân của một số nhân vật lănh đạo; Bước 3, coi đó là sự phá sản của một mô h́nh sai lầm của CNXH; Bước 4, từ bỏ CHXH khoa học ṇi riêng và CNXH nói chung. Tác giả cho biết tiến tŕnh đó đă và đang được thực hiện rất nhanh, thực tế đă gần xong giai đoạn 3 rồi”.

          Sau những phân tích và phê b́nh kể trên, Hà-sĩ-phu đi vào phần kết với một cái nh́n k hác hơn. Ông viết: “Nếu như nói về ‘học thuyết’ tôi đă bộc lộ những suy tư phủ định th́ trái lại, khi nói về Đảng tôi lại có những suy tư k hẳng định. Người ta có thể c̣n bàn căi nhiều điều, nhưng không ai có thể phủ định 3 điều sau đây:

-         Ngay ở thời kỳ thành lập, Đảng đă thu hút được đông đảo những tinh hoa của dân tộc, những tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước Việt-Nam.

-         Người sáng lập và đứng đầu của Đảng, chủ tịch Hồ chí Minh, là một nhà yêu nước lớn, một con người tiêu biểu cho tinh thần giải phóng dân tộc.

-         Đảng đă có công tập hợp được sức mạnh truyền thống của dân tộc để tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lăng của ngoại bang, giành quyền dân tộc tự quyết.

Vậy đảng cộng sản Việt-Nam là một thực thể xă hội có giá trị lịch sử tự thân.

Để biện minh cho nhận định đó, tác giả nói: “Lịch sử hoạt động của Đảng chứng minh rằng điều ǵ đảng tự suy nghĩ, xuất phát từ dân tộc, gắn với dân tộc th́ thắng lợi; điều ǵ xuất phát từ lư thuyết ngoại laivề ĐTGC và CNXH th́ không thắng lợi”. Rồi ông khuyến cáo phải lấy lại tính tự chủ của dân tộc, phải dẹp bỏ mọi bất ḥa để chung lo việc nước. “Nếu không thực ḷng thấn thía điều này th́ hôm nay dẫu có tổ chức được mười ‘Hội nghị Diên hồng’ cũng sẽ chỉ là ‘Diên hồng giả!” Chỉ cần ngồi lại được với nhau trong bầu không khí khoan dung cho nhau, lắng nghe nhau, dân ḿnh sẽ có thừa trí tuệ để t́m một giải pháp tối ưu cho đất nước. Và trong cuộc ḥa giải này đảng cộng sản Việt-Nam hiển nhiên là người có vai tṛ quyết định”.

          Ông thiết tha tin tưởng: “Chỉ có từ bỏ học thuyết ảo tưởng và cực đoan đó Đảng ta mới t́m lại được sức mạnh thật sự của ḿnh trong ḷng dântộc, làm cho nước nhà yên ổn và phát triển”, và ông c̣n cẩn thận nói thêm: “Đề nghị chân thành, nghiêm túc và có cơ sở khoa học ấy không có chút ǵ chung với thái độ thù hận của những kẻ phản quốc không hối cải”. Ông tiếc ‘một đội ngũ xưa là tinh hoa của dân tộc mà nay trở nên suy yếu như thế” (theo lời ủy viên bộ Chính trị Lê phước Thọ nói hồi tháng 6-1992 là đảng đang suy yếu trầm trọng và chưa bao giờ suy yếu như thế). Ông hô hào phải tiếp sức sống cho Đảng bằng sức sống vô tận từ trong cộng đồng dân tộc, và muốn vậy th́ phải “gĩa từ kiểu ‘dân chủ h́nh thức’ cố hữu của ḿnh”, bằng cách “trước hết sửa đổi cách tiến hành bầu cử h́nh thức và vi hiến hiện nay...và thực hiện quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng”.

          Hà-sĩ-phu cón nói có người sợ bỏ chủ nghĩa th́ loạn ngay. Nhưng ông bảo một dân tộc đă biết nêu cao chân lư “Không ǵ quư hơn Độc Lập và Tự Do” th́ dân tộc ấy nhất định phải t́m được cách để đến với Độc Lập Tự Do đích thực. Ông c̣n viện dẫn lời Hồ chí minh nói rằng “Nếu nước Độc lập mà dân không hưởng Hạnh phúc Tự do th́ Độc lập cũng không không có nghĩa lư ǵ!”, để hỗ trợ cho ư kiến của ḿnh.

          Sau chót, Hà-sĩ-phu nhắc lại là năm 1946 dân ta đă xúc động biết bao khi được viết trên đầu trang giấy: Việt-Nam Dân chủ Cộng ḥa, Độc lập Tự do  Hạnh phúc, các mục tiêu khiêm tốn nhưng cũng đủ để cả một dân tộc phải tranh đấu trong vài thế kỷ. “Đảng đă đưa dân tộc sang bờ Độc lập...Ta biết ơn cái thuyền nan đă đưa ta qua sông, nhưng sang bờ rồi mà cứ cắm cúi mang ‘chiến thuyền mác-xít chỉ huy’ trên lưng như cái mai rùa th́ tránh sao khỏi bị n gười ngoài đàm tiếu và người thân nghi ngờ rằng có sự che đậy hoặc cất giấu cái ǵ trong đó? Cái hành trang khác người ấy quả thực không c̣n ích lợi ǵ cho Dân tộc, có trút bỏ được mới mong tự giải thoát, để lâng lâng nhẹ nhàng, rảo bước cho kịp bạn bè trên đường thiên lư”. 

 

 

Phần ư kiến của người viết

 

Phần ư kiến của người viết xin được bắt đầu với ít gịng về tác giả Hà-s ĩ-phu (từ đây xin gọi vắn tắt là ông Hà). Điều này liên hệ mật thiết đến những vấn đề mà ông nêu ra.

Như đă nói, ông Hà mới có 5 tuổi khi xảy ra cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 (mà cộng sản đă cướp công của dân ta). Lúc ấy có lẽ gia đ́nh ông đang ở Bắc ninh. Sau đó, cho đến lúc đất nước bị chia đôi, không biết ông ở đâu, nhưng chắc là ở vùng ‘kháng chiến’, v́ nếu gia đ́nh ông và ông sống ở vùng ‘tạm chiếm’ th́ khó ḷng mà được ‘Đảng’ chia ao cho, và cho đi học ở ngoại quốc. Như vậy có nghĩa là cả đời ông đă sống với cộng sản, được dạy dỗ bởi cộng sản, và được ưu đăi để trở thành một nhà trí thức.

Nhưng rồi ông vẫn viết những bài như đă lược thuật ở trên, sau bao nhiêu năm suy tư chiêm nghiệm. Sự kiện đó nói lên một điều rất quan trọng là, ông Hồ chí Minh và đảng cộng sản đă thất bại ê chề trong chủ trương ‘trồng người’, mà mục đích là tiêu diệt con người cũ để trồng một lớp người mới theo mẫu mực cộng sản. Gần nửa thế kỷ nỗ lực bằng mọi phương pháp, chăn dắt một đứa bé từ lúc 5 tuổi (là lúc lư tưởng nhất để cộng sản uốn nắn) đến lúc trưởng thành và thành công, mà cộng sản vẫn không biến được ông Hà (và nhiều nhà trí thức khác) thành những người cộng sản thuần thành. Các bài viết của ông vẫn đầy dẫy tính chất lăng mạn, trung thực, trí thức...là những tính cộng sản không bao giờ chấp nhận. Cộng sản đă cố t́m cách hủy diệt nó nhưng nó vẫn tồn tại trong con người, bởi v́ nó chính là một phần tự nhiên của con người.

Ngoài những tính bất khả chấp đó, ông Hà c̣n có một nội dung suy tư hoàn toàn bất lợi cho chủ nghĩa cộng sản, phi bác tận gốc rễ CNXH Mác-Lê. Hiểu biết của ông về cộng sản thật sâu xa, lư luận chống đối của ông thật sắc bén, hơn nữa lại có thực tế hiển hiện chứng minh, khiến cho cộng sản đă bị những đ̣n chí tử. Đó là cái chống dứt khoát nhất, mạnh mẽ nhất, và có tính cách căn bản nhất. Dù những đỉnh cao lư thuyết của Việt cộng cũng không thể đỡ được. Có chăng chỉ là lối lư sự cùn, kiểu ‘con rắn vuông’ hoặc dùng biện pháp cố hữu là đe dọa, mua chuộc.

          Khác với một số người cho rằng cộng sản đă ‘chết rồi’ không cần đánh nữa, chỉ cần đánh cái vụ nó ngoan cố, ĺ lợm, nhất định không chịu rời bỏ chính quyền thôi, người viết cho rằng ưu tiên số một vẫn phải là đánh về mặt lư thuyết. Tại sao? Bởi v́ không bao giờ người cộng sản nói rằng họ bám giữ chính quyền chỉ v́ danh lợi. Trước sau họ vẫn bảo rằng họ đang theo đuổi thực hiện một chủ nghĩa tốt đẹp nhất lịch sử loài người, nên ai chống chế độ của họ là chống chủ nghĩa tốt đẹp đó, và họ phải hành động để bảo vệ.

Nh́n sang Trung cộng chúng ta cũng thấy cách đây hàng chục năm chính quyền Đặng tiểu B́nh đă lẳng lặng, đôi khi c̣n công khai, từ bỏ một số những nguyên lư căn cản của CNXH, nhưng đến khi có vụ nổi dậy đ̣i tự do ở Thiên-an-môn th́ họ lại lớn tiếng nhân danh chủ nghĩa này để thẳng tay đàn áp những người chống đối.

          Tất cả các chính quyền cộng sản c̣n lại trên thế giới đều đang nhân danh cái ‘tốt giả mạo’ để làm cái ‘xấu thật sự’ là bám chặt chính quyền. Cho nên phải đốn ngay cái gốc giả mạo đó đi. Phải vạch trần cho mọi người thấy rằng cái chủ nghĩa mà họ đă và đang nhân danh, thực chất chỉ là một mớ lư thuyết bịp bợm, phi nhân, phản khoa học.

Trong phạm vi này ông Hà đă làm một việc vô cùng hữu hiệu.

          Bây giờ xin đi vào phần ư kiến của người viết liên quan trực tiếp đến những vấn đề mà ông Hà đă nêu ra. Để dễ tŕnh bày, phần này sẽ chia làm hai mục lớn, một về CNXH, và một về đảng cộng sản Việt-Nam. Mục về CNXH sẽ đề cập đến hai luận điểm căn bản của lư thuyết Mác-Lê, tức hai công cụ ‘cách mạng’ để thực hiện chủ thuyết này, và một vài điểm linh tinh khác. Về mục đảng Việt cộng, sẽ bàn đến ba điểm chính mà ông Hà nêu ra là đảng Việt cộng, ông Hồ chí Minh, và công trạng của họ.

          Trong hai mục nêu trên th́ mục đầu sẽ chỉ bàn sơ qua, v́ hai lẽ. Thứ nhất v́ ông Hà đă làm gần như xong xuôi việc đánh gục CNXH khoa học của Mác-Lê, không cần phải bàn thêm nữa

Thứ hai những người ở ngoài thế giới cộng sản đă biết từ lâu lắm rồi những sai lầm tai hại khủng khiếp do cộng sản gây ra, và những sự huyễn hoặc bịp bợm vô tiền khoáng hậu của đám người cầm đầu cộng sản, nhưng tiếc rằng v́ chính sách bịt tai che mắt của các chính quyền cộng sản và phần khác v́ mặc cảm bị đầu độc bởi những người chống cộng ‘phản động’ nên đă không có sự thông hiểu như nhau.

V́ vậy cái đặc biệt hay về việc làm của ông Hà là, ông là người trí thức trong ruột cộng sản, nói ra một cách thật chính xác, minh bạch, và có chứng minh, những sai lầm, tội lỗi tầy trời đó của CNXH, nên có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn nhiều so với những người ở bên ngoài.

 

          I/ Ư kiến về phần chủ nghĩa khoa học

 

A/ Thuyết GCĐT là động lực của tiến hóa

Đây là một trong hai luận điểm căn bản của CNXH Mác-Lê. Nội dung thuyết này cho rằng các cuộc ĐTGC liên tục trong lịch sử là động lực phát triển của loài người.

Nhưng ông Hà đă minh chứng rằng chính Trí Tuệ mới là động lực của sự tiến hóa.

Người viết đồng ư với lư luận của ông Hà, bởi v́ sự kiện ấy đă quá rơ ràng. GCĐT chỉ làm cho xă hội tan nát và đi giật lùi chứ không tiến bộ. Lao động tự nó không thể làm cho nhân loại tiến bộ như ngày nay. Lao động mà không có trí tuệ th́ cũng chỉ như người máy, người mất trí.

Nhưng Mác đă chối bỏ vai tṛ của trí tuệ trong khi lại đề cao qúa đáng vai tṛ của lao động. ‘Lao động trí óc’ chính là một thuật ngữ của người cộng sản để hạ thấp trí tuệ xuống đồng thời nâng cao lao động lên. Nói thế chẳng khác ǵ nói một người kỹ sư cũng ‘lao động’ như một người thợ, và một người thợ cũng ‘lao động’ như một người kỹ sư. Vậy th́ c̣n phân biệt trí óc với tay chân, trí thức với lao động làm ǵ?!

Thật ra th́ đây là một sự mập mờ cố ư của người cộng sản. Những người khai sáng ra CNXH biết rất rơ vai tṛ của trí tuệ song không dám đặt nó vào đúng vị trí của nó v́ như vậy th́ không c̣n lư do để khai sinh ra CNCS nữa. Do đó họ kéo trí tuệ vào đóng vai tṛ phụ thuộc của lao động để làm cho lao động và trí thức có vẻ như là một (cộng sản là trí thức, trí thực là cộng sản – như Mác nói) và như vậy làm cho cuộc ĐTGC của công nhân cũng là cuộc ĐTGC của trí thức, và động cơ của tiến hóa do GCĐT của công nhân cũng có nghĩa là do GCĐT của trí thức!

Tuy nhiên sự mập mờ này không kéo dài măi được, bởi v́ bản chất của lao động và trí thức khác hẳn nhau, trong cả thực tế đấu tranh lẫn trong vai tṛ tiến hóa. Không thể nào có một giai cấp công nhân / trí thức và một đảng cộng sản trí thức, như đă có lần Lênin phát biểu và một số ngụy trí thức tung hô. Cho nên sau một thời gian cưỡng bức phối hợp, mỗi bên lại đi mỗi ngả, và trí tuệ lại trở về chiếm ngôi vị động cơ của tiến hóa.

          Tuy nhiên người viết cũng có một vài dè dặt về vai tṛ mà ông Hà dành cho trí tuệ. Ông viết: “Chúng ta biết rằng...quyền lực xă hội đang chuyển sang tay trí tuệ...” Có vẻ ông đă qúa đề cao vai tṛ của trí tuệ.  E rằng như thế là đi ra ngoài cái nguyên lư của trung dung mà chính ông đă tán dương.

Không biết người viết có hiểu sai ư nghĩa chữ ‘Trí Tuệ’ mà ông Hà định nói không, nhưng dường như ông chỉ đề cập đến cái trí tuệ của khoa học, của sáng tạo của cải. Nếu đúng vậy th́ sẽ có một vài vấn nạn.

1-     Những người như Mác, Lê, Sít, Mao, Hồ... có thuộc loại trí tuệ mà ông Hà nói là quyền

lực đang chuyển sang tay không? Nếu có, th́ những xă hội chuyển vào tay họ sẽ như thế nào? Nếu không, th́ họ thuộc loại trí tuệ nào, hay là họ không có trí tuệ?

2-     Nếu hiểu nghĩa chữ ‘trí tuệ’ như người viết vừa nói trên th́ có phải những nhà trí thức tích lũy được nhiều kiến thức khoa học, cụ thể là có bằng cấp cao, sẽ là những người thích đáng nhất để nắm quyền xă hội không?

          3-  Và thứ ba, như ông Hà đă nói, nếu muốn lănh đạo thành công, hành động đúng quy luật th́ “trước hết phải có sự học hành đầy đủ để tiếp thu những tri thức của nhân loại”, như thế phải chăng những người như đương kim Thủ tướng Anh, John Major (chưa đỗ tú tài), đương kim Tổng thống Ba-lan, Walesa (cán sự điện), và những lănh tụ Việt cộng như ông Hồ, ông Duẩn, ông Mười (vốn là bồi tầu, thợ dệt, thợ hoạn lợn) không có thể ngồi vào ghế lănh đạo?

          Nêu vấn đề như thế là để thâư rằng trí tuệ không (cũng như lao động không) tự nó không làm nên tiến hóa, và không phải là chiếc đũa thần, nhất là trong cái ư nghĩa ‘nắm quyền xă hội’.

Nó có thể làm nhân loại tiến nhưng cũng có thể làm nhân loại lùi. Nó có thể tốt ở lănh vực này nhưng không tốt ở lănh vực khác. Cho nên cho trí tuệ là toàn năng, là tuyệt đối th́ không ổn.

Vấn đề là ở chỗ tŕnh độ (cao hay thấp) của trí tuệ, lănh vực (cụ thể hay trừu tượng) của trí tuệ, và ư hướng (tốt hay xấu) của trí tuệ chứ không phải ở chỗ trí tuệ chung chung. Trí tuệ lớn th́ mang lại lợi ích nhiều, song cũng không phải là nhất thiết như vậy. Hăy lấy ngay cái ví dụ mà ông Hà đă gián tiếp đề cập tới. Ông đă thâư rơ cái đám trí thức hèn mạt (dường như khá đông) chỉ biết cúi mặt kiếm ăn, hơn nữa c̣n a ṭng gian dối thủ lợi, và đă chê trách khinh miệt họ (thật ra họ c̣n không đáng phỉ nhổ bằng cái đám trí thức đă chạy thoát được độc tài nay lại quay về đầu hàng cộng sản, chấp nhận yêu nước là yêu xă hội chủ nghĩa, để kiếm chút lợi danh). Liêu đám này có làm cho nhân loại tiến hóa được không? Có thể chuyển quyền lănh đạo xă hội cho họ được không? Dĩ nhiên là không!

Thành ra không phải cứ có trí tuệ (tri thức) là tốt. Phải có ư hướng tốt nữa mới được. Một trí tuệ tốt mà không có động cơ tốt thúc đẩy th́ chỉ đưa nhân loại đến vực thẳm, như cộng sản, quốc xă, phát xít, quân phiệt. Không những thế, một trí tuệ có thể tốt cho sản xuất mà không tốt cho lănh vực khác, như chính trị chẳng hạn. Và thực tế đă chứng tỏ triết lư chính trị, không thể đo bằng thứ trí tuệ thường được. Nó rất mênh mông, phức tạp, và khó khăn. Cái học và cái biết ở đây khác rất nhiều, không thể ràng buộc bằng tiêu chuẩn tri thức khoa học. Nhưng có một điều chắc ai cũng phải đồng ư là làm chính trị mà không có ư hướng tốt th́ c̣n tai hại gấp bội làm khoa học mà không có ư hướng tốt.

Nói tóm lại, ai cũng biết nguồn gốc mọi hoạt động của con người đều do trí tuệ. Không có trí tuệ th́ không làm được ǵ. Nhưng tuy cùng một nguồn gốc trí tuệ, con người có nhiều tŕnhđộ, lănh vực, và ư hướng khác n hau. Khác nhau nhưng không có giới hạn tuyệt đối, và chính sự phối hợp giữa các tŕnh độ, lănh vực, và ư hướng của nó, sẽ quyết định sự tiến hóa của xă hội loài người chứ không phải chỉ riêng một yếu tố nào có khả năng làm được việc ấy.

 

B/ Thuyết giá trị thặng dư

          Đây là trụ điểm lư thuyết thứ hai của CNXH Mác-Lê. Thuyết này cho rằng sản phẩm mà người công nhân làm ra có giá trị cao hơn số tiền lương mà người chủ trả cho họ. Số tiền khác biệt đó là ‘giá trị thặng dư’. Chủ nhân đă hưởng hết số này, tức là đă bóc lột hết của côngnhân.

Ông Hà đă vạch rơ sự phi lư vô cùng của luận thuyết này. Ông nói Mác đă bỏ hết không tính ǵ đến bao nhiêu thành tố sản xuất khác, như vốn liếng, máy móc, nguyên liệu, cán bộ kỹ thuật, quy tŕnh sản xuất v.v. mà chỉ đ̣i chia đôi giữa chủ và thợ! Đó là một lối tính khó hiểu, một thái độ kỳ lạ.

Người viết thấy không có ǵ để bàn thêm về bản thân thuyết ‘giá trị thặng dư’. Vấn đề cần nói ở đây là: Tại sao Mác lại có thể làm như thế? lại có cách xử lư cực đoan như vậy?

Ông Hà bảo: “Chỉ v́ quá thương giai cấp cần lao trong buổi đầu thối nát của CNTB mà một đầu óc như Kác-Mác đă bị sa vào cái màn đại bi kịch của tư duy như thế!” Đây là một cách giải thích. C̣n hai cách giải thích khác nữa. Một là ông ta ấu trĩ, sơ hở. Hai là ông ta biết thế là sai mà vẫn cứ làm.

Nhưng nói Mác ấu trĩ, sơ hở th́ chắc chắn không ai tin. Một người từng được cộng sản tung hô như một vĩ nhân của thời đại, đă từng đưa ra một lư thuyết làm đảo lộn cả lịch sử của bao nhiêu dân tộc, làm non một nửa nhân loại khốn đốn trong suốt gần ¾ thế kỷ, và làm hàng trăm triệu người mất mạng, mà lại sơ hở đến thế hay sao? Vậy th́ chỉ c̣n hai động lực là: thương công nhân lao động, hoặc cố t́nh làm một việc dồ dại.

1-     Trước hết hăy xét về giả thuyết của ông Hà. Có lẽ chỉ cần đặt mấy câu hỏi rồi tự trả lời là có thể đến gần với kết luận: động cơ của Mác có phải là nhân đạo không?

-         Thứ nhất, một vĩ nhân thật sự có ḷng nhân đạo, muốn cứu vớt một lớp người (công nhân hồi đó có bao nhiêu, bị bóc lột đến mức nào?), liệu có chủ trương GCĐT cực đoan nhằm tiêu diệt các thành phần, các giai cấp khác của xă hội không?

-         Thứ hai, nếu thật thâm tâm của Mác thương công nhân, nếu thật linh hồn của chủ nghĩa là nhân đạo, th́ tại sao trên 1 tỷ con người, với bao nhiêu lănh đạo tinh hoa, trước bao nhiêu thảm họa đă gây ra, sao chưa bao giờ thấy lănh tụ nào t́m cách giảm bớt nỗi thống khổ của con người nằm dưới bàn tay họ? Hay như thế vẫn chưa đủ để phải nh́n lại và tạm ngừng tay?

2-     Bây giờ bước sang giả thuyết thứ hai: Mác cố t́nh làm như vậy. Đây là hai lư do chính:

-         Một là, như trên đă nói, con người như Mác không thể ấu trĩ, sơ hở đến thế được. C̣n

nhân đạo và thương người cũng không phải nốt. Vậy không ấu trĩ, không nhân đạo, th́ chỉ c̣n có cố ư.

-         Hai là, tất cả hệ thống lư thuyết của Mác đều chứa đựng toàn đấu tranh và sắt máu. Mọi trụ điểm lư thuyết, mọi công cụ ‘cách mạng’ đều quy vào tiêu diệt, chiếm quyền, đàn áp.

Tiến hóa là do ĐTGC (tiêu diệt giai cấp khác); Giá trị thặng dư là bóc lột (phải tiêu diệt tư bản); GCĐT là công cụ cách mạng (dùng vơ lực để cướp đoạt chính quyền); và CCVS là biện pháp để thống trị độc tài... Vĩ nhân, lại là một vĩ nhân nhân đạo th́ đâu có thể “sai lầm sắt máu” như thế được?

          Đến đây theo thiển ư câu trả lời đă khá rơ: Mác là một trí tuệ cao nhưng xấu, một trí thức hoang tưởng, vĩ cuồng, có thể v́ một ẩn ức tâm lư nào đó mà dựng nên thuyết XHCN. Mác chỉ giản dị là một con người cực đoan, muốn khai thác cái thú tính trong con người để làm đảo lộn nhân loại. Đề cao công nhân chỉ là mỵ dân, để vân dụng họ. Công nhân chỉ là cái lốt mà Mác đội để che dấu cái mục đích thật sự của ḿnh. Tiếc thay nhân loại đă để cho ông ta khá thành công!

 

C/ Thuyết ‘Giai cấp đấu tranh’

          Đây là công cụ đấu tranh chính yếu của người cộng sản. Nó thoát thai từ quan điểm ‘Đấu tranh Giai cấp’ là động lực của tiến hóa. Và v́ là động lực của tiến hóa nên ĐTGC là hiện tượng tất yếu của mọi xă hội tiền cộng sản. Lư luận như vậy nên Mác coi ĐTGC là công cụ chủ yếu để thực hiện chủ nghĩa xă hội. Gây mâu thuẫn nội bộ các xă hội, dùng ĐTGC để đẩy mạnh các cuộc tranh chấp, nổi lên cướp chính quyền, rồi tiến đến thiết lập CCVS, là phương pháp tiến hành ‘cách mạng’ vô sản của Mác.

          Lập luận này cũng bị ông Hà bẻ gẫy dễ dàng. Theo ông, xă hội không có kiểu giai cấp như Mác nói, lại càng không thể ĐTGC cực đoan như Mác chủ xướng. Ông bảo chỉ có những người thuộc hẳn về hai cực thống trị và bị trị trong xă hội mới hợp nhau thành giai cấp, c̣n những cá nhân ở khoảng giữa th́ không kết thành giai cấp. Hơn nữa, tuy công nhận rằng “tất cả những h́nh thức đấu tranh chống áp lực, đ̣i công bằng xă hội (trong đó có ĐTGC) đều là cần thiết, và luôn luôn cần thiết trong xă hội loài người”,,. ông vẫn nói “quan hệ giữa hai cực là mối quan hệ biện chứng vừa tương sinh vừa tương khắc, như cực nam và cực bắc của một cục nam châm...”

          Về vấn đề này người viết có một vài nhận xét như sau:

1-     Việc ông Hà gọi các thành phần thuộc hẳn hai cực thống trị và bị trị là giai cấp e không được ổn. Thông thường trong một xă hội, khi một thành phần đă là thống trị th́ thành phần c̣n lại là bị trị, và khi kẻ thống trị áp bức bóc lột th́ người bị trị nổi lên, có nghĩa là toàn dân nổi lên chống lại nhà cầm quyền. Nhưng theo ông Hà th́ lại có một thành phần trung gian, không thuộc giai cấp thống trị cũng không thuộc giai cấp bị trị. Như thế theo lư luận th́ thành phần này không theo mà cũng không chống lại hai thành phần kia. Vậy th́ vai tṛ liên đới của họ trong xă hội ra

sao? Đây là điều không phân định được và không sát với thực tế.

          2-  Gọi nhóm thống trị là ‘giai cấp’ e rằng cũng không đúng lắm. Theo thiển ư, muốn thành giai cấp th́ ngoài yếu tố quyền lợi c̣n hai yếu tố quan trọng nữa là ‘tính thuần nhất’ và ‘tính thường hằng’, chưa kể thêm yếu tố hàm ngụ là ‘tính đấu tranh’. Xét kỹ ta sẽ thấy những người cầm quyền chỉ là một nhóm nhỏ người (có thể là một đảng chính trị) nhân một cơ hội nào đó lên nắm được chính quyền, rồi ngồi đó cho đến lúc bị lật đổ hay bị thay thế (trong xă hội dân chủ). Đó không phải là một tầng lớp người liên kết chặt chẽ, lâu dài với nhau để ‘chuyên đi làm nghề nắm chính quyền và thống trị thiên hạ’. C̣n về phía bị trị th́ gọi là giai cấp cũng không chỉnh lắm, bởi nó không thuần nhất và không có đối tượng thường trực để đấu tranh, trừ trường hợp bị nhà cầm quyền áp bức. (Trong một xă hội dân chủ pháp trị vấn đề giới thống trị áp bức giới bị trị hầu như không có nên cũng không có vấn đề ĐTGC).

2-     Nếu ông Hà đă: nghĩ rằng trong 3 căn cứ của con người th́ duy lư, thay v́ duy lợi, nên giữ vai tṛ chính; công nhận rằng ĐTGC cực đoan là sai; các xă hội dân chủ vẫn giải quyết các sự tranh chấp một cách chấp nhận được, theo mô thức thuận mua vừa bán; quan hệ giữa hai cực thống trị và bị trị vừa tương khắc vưà tương sinh; và xă hội công nghiệp cùng kinh tế thị trường sẽ là tương lai của nhân loại trong một xă hội công nghiệp mà ông nhiệt liệt chủ trương; th́ hà tất lại c̣n “rất cần” đến ĐTGC, dù với cái nghĩa khác hơn của Mác?

Cái tính đấu tranh của GCĐT không thích hợp với một chế độ dân chủ pháp trị. Như ở nước Mỹ, có hàng chục, nếu không nói là hàng trăm, thành phần khác nhau, có những va chạm về quyền lợi và cần tranh đấu để bảo vệ, như thợ chống chủ, công chức chống chính phủ, học sinh chống nhà trường, người ở thuê chống chủ nhà, kẻ chống phá thai chống kẻ phá thai, da màu chống da trắng, đồng tính luyến ái đ̣i b́nh đẳng về nhân, dân quyền (tương lai có thể có cả thổng thống ‘Gay’ và đệ nhất phu nhân đực!)... nếu đem áp dụng cái tinh thần ĐTGC vào th́ e sẽ rối loạn, và rất có thể sẽ bị bọn ma giáo đẩy đi quá đà để lợi dụng cho ư đồ của chúng. Mặt khác Nhật bản cũng cho thế giới một ví dụ tốt về cách tổ chức một xă hội đại công nghiệp (mỗi xí nghiệp như một đại gia đ́nh, lợi cùng hưởng, lỗ cùng chịu) vẫn phát triển mạnh mẽ mà không cần ǵ đến

ĐTGC.

Bởi các lư do nói trên, người viết thấy không nên đặt vấn đề giai cấp trong một xă hội văn minh tiến bộ. Tổ tiên ta có một chữ rất hay, rất đúng, rất ḥa nhă, chủ phân loại chứ không chủ phân chia, chủ hợp tác chứ không chủ đấu tranh, giữa các thành phần xă hội. Đó là chữ “GIỚI”. Giới trí thức, giới công nhân, giới chủ nhân, giới thương gia, giới công chức, giới quân nhân, giới sĩ phu, giới nông dân... Mỗi giới tùy theo chức năng mà sống cho phải đạo, quây quần với nhau trong xă hội, đâu có bao giờ phải đổ máu để ĐTGC như thời gian có nạn cộng sản?

 

D/ Thuyết vô sản chuyên chính

          Đây là ‘công cụ cách mạng’ thứ hai của cộng sản. Sau khi sử dụng ĐTGC cướp được chính quyền, cộng sản thiết lập ngay một chế độ cai trị gọi là “vô sản chuyên chính”. Nó có nghĩa đen là dùng bạo lực để nắm chặt chính quyền cho ‘giới vô sản’, nhất định không chia xẻ với ai. Phải có bàn tay sắt để tiêu diệt cho kỳ hết tư bản rồi sau chính quyền vô sản sẽ ‘tự tiêu vong’!

          Ông Hà-sĩ-phu nói thẳng là từ thượng cổ tới giờ chưa bao giờ có cái chính quyền nào tự tiêu vong cả. Trái lại cứ ai nắm quyền là dùng mọi thủ đoạn để ngồi lại hưởng thụ. Và ông vạch rơ rằng, theo cái lối tổ chức của cộng sản th́ bao nhiêu quyền hành, tức là quyền lợi, đều tập trung vào tay người cầm đầu hết. Cho nên trong bất cứ nước cộng sản nào cũng có cái hiện tượng độc tài cá nhân khiếp đảm. Ông kể ra một số ví dụ về các đỉnh cao này như Sít, Mao, Thành (kim nhật), Pốt (pôn) v.v. (Tiếc là ông không kể hết danh sách!)

          Người viết không có nhiều ư kiến về điểm này. Chính cộng sản cũng chẳng cần phải che đậy rằng đây là một chủ trương sắt máu, nhưng là sắt máu để làm việc nhân đạo! Cho nên biết bao nhiêu người khờ dại đă tin tưởng và để cho chúng lợi dụng. Kết quả là sau 70 năm ‘cách mạng vô sản’, đă có trên 30 triệu người Nga, trên 50 triệu người Tàu, mấy trăm ngàn người Việt (không kể khoảng 3 triệu chết v́ chiến tranh do Việt cộng chủ xướng), và không biết cơ man nào người các nước có ‘cách mạng vô sản’ và có ‘VSCC’ , bị uổng mạng.

Đây quả là một công cụ tàn bào nhất của một chủ nghĩa mù ḷa nhất. Một tai họa khủng khiếp nhất cho nhân loại và một hổ thẹn lớn lao nhất cho lương tâm loài người!

 

E/ Những ư kiến tản mác

          Ngoài 4 điểm chính nêu trên, trong phần về CNXH người viết c̣n có một số ư kiến về hai điểm khác mà ông Hà đă đề cập tới.

          1/ Thuyết “đức trị” với Khổng-Mạnh, Mác và tôn giáo

          Trong bài viết ông Hà có nói rằng thuyết ‘đức trị’ của Khổng Mạnh bị bế tắc ngay từ đầu  v́ nó chỉ hợp với quy mô làng xóm, nên tu thân đến như Thánh Khổng mà không được nước nào dùng; thuyết là ‘dân vi quư’ mà thực tế th́ lại là ‘dân vi khinh’. Ông c̣n bảo cả Mác cũng như Khổng Tử đều theo thuyết ‘đức trị’, và cùng là những người không tưởng. Có lúc ông lại xếp Mác vào hàng với các tôn giáo.

Người viết không đồng ư với những nhận định này của ông, v́ lẽ:

-         Thuyết ‘tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ’ tự nó đă nói lên tầm vóc của nó rồi, thiết nghĩ chẳng cần phải tŕnh bày thêm nữa. Nếu căn cứ vào sự thất bại ngay lúc đó (là lúc nước Tàu đang quá nhũng loạn nên Khổng Tử phải lập thuyết để dạy dân răn đời) để nói rằng thuyết ấy không đủ kích thước, không thực tế, th́ e rằng không được đúng. Cũng n hư ông Hà thấy t́nh h́nh đất nước hiện nay quá suy đồi phải lên tiếng kêu gọi tu chỉnh lại quốc sự, nhưng không được chính quyền nghe theo th́ đâu phải là ông không thực tế và không đủ tầm vóc?

-          Sự so sánh về cái ‘không tưởng’ của Mác với cái “không tưởng” của Khổng-Mạnh và cái ‘siêu h́nh’ của tôn giáo, theo thiển ư cũng không được chỉnh. Lư do rơ ràng là tuy có lúc thất bạinhưng bao nhiêu đời sau người ta vẫn coi thuyềt của Khổng-Mạnh là khuôn vàng thước ngọc để yên dân trị nước, đến nỗi đức Khổng Tử đă được tôn vinh là ‘Vạn đại thế Sư”. Vậy th́ đó không phải là không tưởng, trong cả lư thuyết lẫn thực tế. Tuy khó nhưng c̣n khả dĩ thực hiện được.

Khuyên người tu thân tề gia ...và lấy giáo dục để dạy đời không phải là ảo tưởng, vĩ cuồng. Cũng như các tôn giáo, tuy thuộc lănh vực siêu h́nh, nhưng đó là cho ‘đời sau’, c̣n đời này chỉ đặt vấn đề thực tế là làm lành, làm tốt, cứu nhân độ thế, nên cũng không phải là không tưởng. Trái lại chủ thuyết của Mác th́ đă không tưởng ngay từ trong lư thuyết rồi! Tiền đề đă sai th́ làm sao mà thực tế đúng được!

-         Cách đặt vấn đề về ‘đức trị’ của ông Hà cũng làm cho người đọc có nhiều băn khoăn.

Đồng ư với ông là các thuyết Khổng-Mạnh và tôn giáo thuộc về đức trị, và đức trị th́ có thể gặp nguy khốn nếu có bọn ma giáo lọt vào, song dù sao thuyết của nó vẫn là đức trị thật. Khổng-Mạnh và các tôn giáo không có thuyết nào chủ trương phải giết người cướp của cả. C̣n chủ nghĩa Mác th́ khác hẳn, v́ như trên đă tŕnh bày, căn bản chủ trương của thuyết này là bạo hành xúi giục đấu tranh, giết người cướp của. Cái danh nghĩa đấu tranh cho công nhân chỉ là giả mạo, không thể căn cứ vào đó để cho rằng đó là một thuyết đặt trên căn bản nhân đạo, và tuyệt đối không nên đặt Mác vào hàng ‘đức trị’ theo đúng tinh thần đức trị của nó.

     -   Khi so sánh nhận thức về con người của phái Mác-xít với phái hiện sinh, ông Hà viết: “Một bên là sự lên tiếng của lư trí, ư thức, c̣n một bên là sự lên tiếng của bản năng, tiềm thức, vô thức, siêu thức; Một bên muốn liên kết mọi người thành một tổ chức để làm một cuộc ’cách mạng‘ cho ngày mai, một bên lại rũ tung những con người ra thành một thế phân tán vô tổ chức, vô mục đích, chỉ biết có hiện tại!”

Nói vậy th́ có vẻ như Mác tốt quá: lư trí, ư thức, cách mang... Nhưng như chính ông Hà đă hết sức tŕnh bày trong các bài của ông th́ đó chỉ là cái tốt giả tưởng mà thôi! Thành ra đem cái ‘tốt giả’ để so sánh với với cái ‘xấu thật’ th́ không rút ra được ǵ mà lại có thể gây ngộ nhận.

          2/ Vấn đề “pháp trị” và “đức trị”

          Ông Hà đă nhấn mạnh nhiều lần rằng chế độ tương lai của các xă hội công nghiệp tân tiến phải là “pháp trị”. Ông có vẻ dứt khoát với “đức trị”, “nhân trị”, “lễ trị”...v́ lẽ nếu không gặp được những “thánh nhân” th́ đất nước sẽ khốn khổ. Ông bảo con người đă phải trả giá bằng bao nhiêu xương máu rồi mới nhận ra được cái tai hại của “đức trị”, và mới thấy rằng cần phải đi vào “pháp trị”.

Nói thế e rằng ông Hà một mặt hơi phủ định, mặt kia lại hơi khẳng định. Cũng như đối với ‘trí tuệ’, ông có vẻ đặt vấn đề pháp trị quá nặng, coi pháp trị như là giải pháp toàn năng. Ông bảo mọi điều trong xă hội đều phải “luật hóa” hết, để không c̣n kẽ hở nào cho sự mờ ám, lạm dụng.

Ông c̣n đ̣i là chính quyền phải đứng ‘trung lập’, không được xen vào để kiếm ăn thêm!

Người viết đồng ư với ông Hà là thời trước đă quá nặng về ‘đức trị’ (song không phải là không có pháp trị), và thời đại công nghiệp không thể làm ăn theo lối ‘du kích’ mà phải đi vào con đường ‘chính quy’. Nhưng thiết tưởng cũng cần phải lưu ư đến những điểm sau đây:

     -   Dù có “luật hoá xă hội” đến đâu chăng nữa cũng không thể nào bao trùm được hết mọi khía cạnh của cuộc sống con người trong một xă hội tự do, văn minh. Nó phức tạp ngoài sức của pháp luật. Hăy lấy một ví dụ: Hiện nay Hoa-kỳ là nước coi như có nền pháp trị mạnh nhất thế giới. Câu tôm, câu cua, câu cá, không có giấy phép, câu không đúng chỗ, đúng lúc, đúng loại, đúng kích thước... đều bị phạt, và nếu ra toà th́ phải có luật sư biện hộ! Vậy mà vẫn chưa đủ. Hàng năm các quốc hội tiểu bang và liên bang vẫn phải ban hành thêm hàng trăm, nếu không phải là hàng ngàn luật mới. Có thể nói xưa kia là luật rừng th́ bây giờ là rừng luật! Nhưng kết quả thế nào? Tôị ác và nhà tù vẫn ngày càng nhiều thêm. Các chức quyền lớn nhỏ vẫn làm lắm điều đáng dị nghị. Như chính ông đương kim Tổng thống, đă bị dư luận đàm tiếu về truyện trốn lính, phản chiến, ngoại t́nh, thất hứa (nói dối) với cử tri, và hiện đang bị điều tra về vụ có thể đă làm ăn phạm pháp khi c̣n làm việc ở tiểu bang Arkansas. Như thế là luật quá nhiều nhưng vẫn chưa đủ, và ‘pháp trị’ quá cao nhưng vẫn không thể nào chặn được hết những điều mà người dân không muốn.

     -   V́ luật hóa quá, mà vẫn chưa đủ, nên xă hội đang phải chịu 3 hậu quả: gánh nặng về giấy tờ ngày càng lớn lao, có thể sắp đến lúc không chịu nổi nữa; tổ chức pháp lư ngày càng nặng nề mà vẫn không giải quyết được kịp thời những ứ đọng về pháp luật; và tâm lư người dân trở nên quá quen thuộc với sự kiện cáo, cái ǵ cũng kiện, cái ǵ cũng có thể bị kiện, và trớ trêu nhất là người dân, nhất là những kẻ lưu manh, trở nên chai ĺ, đôi khi bỡn cợt, với luật pháp!

          Tóm lại nếu một xă hội quá thiên về pháp trị mà sao lăng về đức trị th́ cũng sẽ có điều bất lợi. Người dân, nhất là những kẻ có quyền thế, sẽ chỉ cần làm sao đi cho đúng luật, “lách” cho đúng luật, hoặc căi cho đúng luật, mà bất cần ǵ khác, kể cả đạo đức, vốn là cái thước đo cao nhất trong xă hội loài người. Hậu quả là xă hội có vẻ nghiêm túc nhưng lại kém đạo đức.

Đó hẳn là điều người dân không muốn.

          Bởi các lư do trên, chúng ta không nên đặt pháp trị vào địa vị độc tôn. Muốn cho xă hội vừa được công minh vưà có đạo đức, một xă hội mà con người có cả chiều cao của trí tuệ lẫn chiều sâu của tâm hồn th́ phải cố giữ lấy cái “tinh thần” của đức trị. Chế độ tốt đẹp nhất, do đó, theo người viết, là chế độ “Nhân trị”. (Xin hiểu chữ ‘Nhân” ở đây là ‘nhân bản’ chứ không theo nghĩa nguyên thủy của chữ ‘nhân trị’ như là một chế độ ‘đức trị’ thời trước). Trong chế độ “Nhân (bản) Trị” này sẽ phải có cả hai yếu tố “Pháp trị” và “Đức trị”. Pháp trị là chính, đức trị là phụ. Pháp trị là cái khung, đức trị là cái ruột. Thế có lẽ lại hợp với “trung dung” hơn và gần với “văn hiến” của ta hơn.

II/ Ư kiến về đảng cộng sản Việt-Nam và ông Hồ chí Minh

 

Sau khi phân tích và phê b́nh CNXH xong, ông Hà bước sang phần nói về đảng Việt cộng với lời lẽ như sau: “Khi nói về Đảng tôi lại có những suy tư khẳng định...”

 

A- Đảng cộng sản Việt-Nam

 

          Khẳng định đầu tiên của ông Hà về đảng Việt cộng là: “Ngay ở thời kỳ thành lập, Đảng  đă thu hút được đông đảo những tinh hoa của dân tộc, những tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước Việt-Nam”.

Người viết chắc là không đọc được nhiều tài liệu về đảng Việt cộng hơn ông Hà, nhưng những ǵ mà người viết được biết, và chắc là hầu hết nhân dân Việt-Nam được biết, khác với nhận định của ông. Xin hăy xét từng điểm một.

1/ Thu hút “đông đảo tinh hoa của dân tộc”

          Theo tài liệu th́ đảng cộng sản Việt-Nam được Hồ chí Minh lập vào đầu tháng 9-1930, tại Hồng Kông. Lúc ấy phiá Quốc gia đă có Việt-Nam Quốc dân đảng, là một đảng được dân chúng biết tiếng hơn nhiều qua những hoạt động chống Pháp rất mạnh mẽ (đảng Việt cộng chỉ được thành lập trước cuộc khởi nghĩa Yên báy của Việt-Nam Quốc dân đảng có mấy ngày).

-    Như vậy không biết làm sao mà đảng cộng sản của ông Hồ lại thu hút được “đông đảo tinh hoa” của dân tộc, của “chủ nghĩa yêu nước” Việt-Nam? Làm sao ông Hồ lập đảng cộng sản mà lại đi kết nạp người Quốc gia yêu nước, và làm sao người Quốc gia yêu nước (trừ khi bảo yêu nước là yêu XHCN) lại đi gia nhập đảng cộng sản?

Ngay cả sau này mà họ c̣n chưa chịu kết nạp những tinh hoa yêu nước như ông Hà, th́ làm sao lúc đầu ông Hồ dám kết nạp những người không có những tiêu chuẩn cộng sản cao nhất?

-    C̣n nói “đông đảo” th́ có lẽ cũng không đúng, trừ khi nó chỉ có nghĩa là vài chục người (theo Vietnamese communism của Huỳnh kim Khánh th́ cuộc họp thành lập đảng chỉ có chưa tới 10 người). Thật ra th́ suốt bao nhiêu năm nay người ta đă nói rất nhiều về đảng Việt cộng. Nếu quả thật có đông đảo tinh hoa yêu nước theo họ từ lúc đầu th́ chắc chắn người dân Việt-Nam không ai là không nghe đến họ. Nhưng sự thực th́ số người đưọc biết đến chỉ đếm trên đầu ngón tay. (Đó cũng là lư do họ phải chui vô Việt-Minh và phải dùng thủ đoạn cướp cuộc biểu t́nh 19-8-45!)

          Ngược lại không biết ông Hà có biết hay không (v́ chắc chắn tài liệu chính thức của Việt cộng không bao giờ nói đến), là không những không kết nạp những người Quốc gia không chịu đầu hàng họ, Việt cộng c̣n thẳng tay tiêu diệt họ, tiêu diệt tất cả những tinh hoa Quốc gia yêu nước khác, để giành độc quyền kháng chiến và để thực hiện đúng chủ trương “Đảng ta kiên quyết không chia xẻ quyền hành với ai”, như chính ông Hà đă viết. Việc này Việt cộng đă làm từ lâu lắm, nhất là sau khi nắm được chính quyền vào năm 1945.

          2/ “Là thực thể xă hội có giá trị lịch sử tự thân và có vai tṛ quyết định.

          Vâng, điều này đúng, nhưng chỉ đúng về sự kiện, không tất yếu đúng về nội dung.

Nắm quyền từ năm 1945 và đưa đất nước vào những giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc trong suố ½ thế kỷ qua, dĩ nhiên đảng Việt cộng phải là một thực thể xă hội có giá trị tự thân. Nhưng giá trị như thế nào th́ lại chuyện khác. Không thấy ông Hà nói rơ, nhưng nội dung th́ hàm ư là tốt. Nếu đúng vậy, người viết xin đề nghị ông Hà xét lại xem lời khẳng định này có trái ngược với những nhận xét cuả ông về xă hội Việt-Nam hiện tại, và nguyên nhân của nó không?

          Riêng đối với người viết th́ đây là một giá trị không có chút vinh dự nào cả. Cứ khách quan nh́n vào những ǵ đảng này đă làm trong bao nhiêu năm qua, nh́n vào hậu quả mà đất nước đang phải gánh chịu, và nh́n vào cái chính quyền độc tài bất lực nhưng lại rất ĺ lợm, nhất định không chịu thức tỉnh sửa đổi, th́ ta có thể phán định mà không sợ sai lầm.

          Về điều mà ông Hà gọi là vai tṛ quyết định của đảng Việt cộng trong cuộc “ḥa giải” dân tộc, người viết thắc mắc không biết ông định nói quyết định vào trường hợp nào? Trước hay sau khi có “ḥa giải”? Nếu trước, th́ đó là dĩ nhiên. Ai có thể nắm giữ vai tṛ đó của ‘đảng’ được? C̣n nếu sau th́ làm sao có thể khẳng định trước được là họ “hiển nhiên” sẽ có vai tṛ quyết định? Nếu quả thật đảng Việt cộng chịu “ḥa giải thật sự” th́ vai tṛ quyết định phải là của mọi người, phải do dân hoặc đại diện chân chính của dân (được bầu hoàn toàn tự do) quyết định chứ sao lại là đảng cộng sản? Ông Hà chỉ nói theo sự tin tưởng của riêng ông thôi chăng?

          3/ Xuất thân từ trong ḷng dân tộc

Ông Hà băn khoăn tự hỏi tại sao một thực thể...xuất thân từ trong ḷng dân tộc lại nhất thiết phải gắn chặt số mệnh của ḿnh với một giả thuyết ngoại lai mơ hồ, lủng củng trong lư luận, thất bại trong thực tiễn...

          Người viết trộm nghĩ câu trả lời đă nằm ngay trong cái tên của nó, trong hơi thở của nó, trong việc làm của nó!  Nó phải gắn chặt với chủ nghĩa Mác-Lê v́ nó không thể tách rời ra khỏi chủ nghĩa đó được. Nếu rời ra th́ nó không c̣n là nó nữa. Bởi v́ nó được sinh ra từ chủ nghĩa đó, dưỡng dục bởi chủ nghĩa đó, tồn tại v́ chủ nghĩa đó, và thành công nhờ chủ nghĩa đó, nên nó cũng sẽ chỉ chấm dứt theo chủ nghĩa đó! (Việc này hiện đang xảy ra như ông Hà đă biết).

Có lẽ cũng không khó lắm để t́m hiểu xem điều này có đúng không.  Cứ đọc những tài liệu chính thức của đảng Việt cộng trong suốt bao nhiêu năm nay (phải là tài liệu viết trước khi ‘đổi mới’, v́ cộng sản vốn vẫn hay sửa lại tài liệu, kể cả tài liệu lịch sử, cho hợp với chính sách mới) th́ sẽ biết ‘đảng’ từ đâu ra, từ Tổ quốc Việt-Nam hay từ thánh địa Mạc tư khoa; ‘đảng’ đứng ở đâu, trong hàng ngũ dân tộc hay trên trận tuyến quốc tế vô sản; ‘đảng’ hănh diện v́ cái ǵ, đem lại tự do hạnh phúc cho dân hay đem lại thắng lợi cho CNXH v.v. Không biết bao nhiêu sự kiện có thể chứng minh rằng ‘đảng’ này không hề từ trong ḷng dân tộc ra. ‘Đảng’ chỉ mang h́nh thù Việt-Nam nhưng tâm hồn th́ hoàn toàn mác-xít. Cho nên ḷng căm thù giai cấp của ‘đảng’ mới...  ”được nâng lên thành một biểu tượng đầy tự hào của cả cái TÂM lẫn cái TRÍ”. Cho nên nước ta mới có cái hiện tượng duy nhất trong lịch sử, là làm thơ soạn nhạc để thúc giục giết đồng bào cùng ca ngợi sự ‘hồ hởi’ giết người, và tưởng thưởng cho ‘văn công khát máu’ làm đến phó thủ tướng! Cho nên một người dân tộc như ông Hà, khi nói về dân tộc ḿnh, đă phải “rùng ḿnh ghê sợ trước một thái độ hơn hớn tự đắc”.

 

 B- Ông Hồ chí Minh, nhà yêu nước lớn.

 

          Đề cập đến ông Hồ, ông Hà nêu lên hai điểm: đó là một nhà yêu nước lớn, và một người tiêu biểu cho tinh thần giải phóng dân tộc. Không thấy ông đưa ra lư luận nào để biện minh cho sự khẳng định nói trên. Chỉ có câu nói phủ trước rằng không ai có thể phủ định điều đó.

Bây giờ ta thử phân tích xem nhận định trên có đúng không?

          1/ Một nhà yêu nước lớn

          Nhà yêu nước lớn, theo thiển ư, là một nhà đại ái quốc, xả thân cho dân cho nước và làm được những việc ích quốc lợi dân lớn lao. Nếu xét theo tiêu chuẩn đó th́ sẽ thấy ông Hà quá chủ quan. Sự khẳng định của ông không ổn, trên cả lư thuyết lẫn thực tế.

                   a) Về lư luận, điều đó không thể biện minh được, bởi v́ một khi đă là cộng sản th́ đồng thời ông Hồ không thể là người yêu nước được. Lư do là ông đă đổi cái “mục đích phục vụ quốc gia” thành cái “phương tiện phục vụ cộng sản”, như chính ông Hà đă viết: “Khi cái phương tiện -tức là CNXH- đă thành cái mục đích th́ lẽ tự nhiên cái mục đích (ở đây là dân tộc) đổi chỗ để thành cái phương tiện”. Thật là rơ ràng rằng ông Hồ đă dùng cái thân xác Việt-Nam để thực hiện CNXH, bất kể có lợi hay có hại cho dân tộc. Và kết quả của sự cộng-sản-hóa đât nước ra sao th́ nay ai cũng đă thấy cả rồi.

Nhân điểm này người viết cũng xin nói thêm một chút về việc ông Hồ đi theo cộng sản và đă là đệ tử trung thành nhất của chủ nghĩa Mác, để khỏi c̣n có sự ngộ nhận về luận điệu mà một thời cộng sản đă đưa ra để đánh lừa dư luận, rằng họ Hồ chỉ là một nhà cải cách, một người yêu nước, chứ không phải một người cộng sản, hoặc như chính ông Hà vẫn trăn trở tự hỏi tại sao lúc đầu ông (Hồ) chỉ định “mượn” cộng sản để giải phóng quốc gia mà rồi bỗng dưng lại nâng nó lên thành tôn giáo!

Trước hết cần phải nhớ rằng, theo sử liệu, ông Hồ đă gia nhập quốc tế cộng sản từ năm 1920, và đă liên tục làm việc với đệ tam quốc tế suốt từ hồi đó cho đên khi cướp được chính quyền ở nước ta vào năm 1945. Giải thích tại sao lại theo cộng sản, ông Hồ viết: “Mới đầu chính là ḷng yêu nước chứ không phải chủ nghĩa cộng sản đă dẫn tôi đến sự tin tưởng ờ Lê-nin của đệ tam quốc tế. Nhưng rồi từng bước một, qua diễn trường đấu tranh, qua sự nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê trong khi đi vào những hoạt động thực tế, tôi dần dần hiểu rằng chỉ có CNXH và CNCS mới có thể giải phóng được các quốc gia và các giai cấp cần lao trên khắp thế giới khỏi sự nô lệ”.

(At first, it was patriotism, not yet communism, which led me to have confidence in Lenin, in

the Third International. Step by step, during the course of the struggle, by studying Marxism-Leninism while engaging in practical activities, I gradually understood that only socialism and communism can liberate the oppressed nations and the working people throughout the world from salvery – trích dẫn Vietnamese communism trang 35, của Huỳnh kim Khánh).

Cũng theo sách đă dẫn th́ chỉ một năm sau khi thành lập, quốc tế cộng sản đă ra lệnh cho ông Hồ phải giải tán Việt-Nam cộng sản đảng để thành lập Đông-dương cộng sản đảng, v́ đề cương của đảng cũ không theo đúng các nguyên tắc cộng sản, không dứt khoát loại trừ giai cấp địa chủ và tiểu tư sản. Qua đoạn trích dẫn nói trên, ta thấy rơ hai điểm.

-    Một là, nó xác nhận ông Hồ là cộng sản hẳn hoi, dứt khoát, chứ không lưng chừng, không phải chỉ có ư ”mượn” cộng sản để giải phóng quốc gia. Không thể chỉ căn cứ vào mấy chữ “Mới đầu chính là ḷng yêu nước...” để bảo rằng khởi thuỷ ông chỉ định mượn thôi. Dù lúc đầu là ḷng yêu nước nhưng sau th́ đă khác rồi. Nó đă trở thành ḷng yêu cộng sản. Thật ra th́ họ Hồ đă nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê rất kỹ, như chính đương sự đă viết, nên đă ư thức rất rơ chủ trương đường lối của nó, kể cả thuyết GCĐT và VSCC. Chính v́ hiểu cộng sản và thấy nó hoàn toàn thích hợp với con người của ông, nên ông đă bị mê hoặc và đi theo nó từ rất sớm, sau khi chưa thử thách đấu tranh theo con đường quốc gia bao lâu.

-    Hai là, việc đem cộng sản vào nước ta đă có chủ định, đă có kế hoạch từ lâu, và được chuẩn bị rất chu đáo chứ không phải đợi đến lúc cần đánh Pháp mới “mượn” cộng sản làm phương tiện, để rồi ‘bỗng dưng’ xuất hiện sự tôn thờ CNXH. Ông Hồ là người tài ba lỗi lạc, ‘anh minh’, đảng cộng sản lại rất ‘sáng suốt’, từng tự xưng là ‘đỉnh cao trí tuệ loài người’, nên nếu họ không muốn th́ làm sao mà tự nhiên xuất hiện cái chuyện tầy trời đó được!? C̣n nếu bảo họ Hồ bị du vào cái thế phải theo cộng sản th́ hăy cứ nh́n sự ‘hồ hởi’, sự hănh diện cùng cực của họ, để xem họ gượng theo hay say mê theo.

          Ở điểm này tưởng cũng nên nói thêm một sự kiện nữa, nó chứng tỏ cho mọi người thấy ông Hồ say mê cộng sản đến mực nào. Đó là bản di chúc ông viết trước khi qua đời, trong đó có nói rằng sau khi về bên kia thế giới ông sẽ đi thăm Mác-Lê (mà không thăm Tổ Tiên Việt-Nam)!

Thiết tưởng khó có sự trung thành nào tuyệt đối hơn được. Vào những giây phút sắp nhắm mắt ĺa đời ông vẫn một ḷng nhớ đến người đă khai sinh ra cái chủ nghĩa mà ông trọn đời tôn thờ, và đem lại ‘vinh quang’ cho ông. Cũng chính v́ theo bước chân ông, dâng tất cả cho CNXH, mà sau này đảng Việt cộng đă bắt dân phải yêu XHCN như yêu nước, và hơn nữa c̣n đổi cả tên nước thành nước XHCN!

          Vậy th́ vấn đề c̣n lại chỉ là ông Hồ có biết rằng CNXH và chủ nghĩa Dân tộc (Quốc gia) không thể đi đôi với nhau được không? Theo ông giáo sư Lữ Phương th́ ông Hồ...”không biết ǵ về CNXH mà vẫn cứ chọn lựa v́ nhận thấy những người theo chủ nghĩa Lênin đă ủng hộ phongrào giải phóng dân tộc”. Nói thế có nghĩa là việc áp dụng CNXH vào Việt-Nam chỉ do sự thiếu ư thức của ông Hồ (chỉ v́ ḷng yêu nước) và hậu quả của nó chỉ là một điều chẳng may mà thôi!

Điều này không thể tin được. Nếu vậy chẳng hoá ra ông Hồ khờ khạo lắm sao? Phải công nhận rằng ông ta tài giỏi. Ông đă theo học cộng sản bao nhiêu năm, lại là người chủ tŕ việc thành lập đảng Việt cộng, với đề cương rơ ràng minh bạch về ĐTGC, th́ không thể bảo là ông chẳng hiểu ǵ về CNCS. Thật ra ông hiểu rất rơ cộng sản và quốc gia khác nhau thế nào, nhưng ông vẫn cứ chọn CNXH, bất cần ǵ đến quốc gia dân tộc, bởi v́ nó hợp với con người ông và đáp ứng đúng tham vọng của ông.

                   b/ Về thực tế , cũng không thể biện minh được. Theo nguyên tắc lănh đạo th́, với tư cách là người sáng lập và lănh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản từ khi thành lập cho đến khi chết, ông là người chịu trách nhiệm về mọi sự thành bại, xấu tốt, của đảng này. (cộng sản đă ca tụng ông như một thiên tài, một vĩ nhân, không phải chỉ của Việt-Nam mà cả thế giới!).

Vậy th́ đảng Việt cộng đă làm tốt hay xấu cho quốc gia, dân tộc Việt-Nam? Xin hăy trở lại các bài viết của ông Hà: toàn là nghịch lư, mọi thứ đều lộn ngược, cái xấu thắng cái tốt, cái thiện thua cái ác, đạo đức xuống cấp, gian trá, phản dân chủ, bầu cử h́nh thức... Và c̣n biết bao nhiêu tội lỗi tày trời, cụ thể khác mà ông Hà không nêu ra như: tiêu diệt người Quốc gia, đấu tố đồng bào, đàn áp trí thức văn nghệ sĩ, tôn giáo, bỏ dân nghèo đói bệnh tật, hiếu chiến v.v. (Chưa kể đến những tội lỗi sau ngày xâm chiếm miền Nam).

 Tất cả những điều đó ông Hồ có biết không hay là “trên th́ đúng nhưng dưới làm sai”? Nếu vậy th́ làm sao ông c̣n là “vĩ đại” và c̣n là “muôn vàn kính yêu” được nữa? Thẳng thắn mà nói, một người yêu nước, nhất lại là yêu nước lớn, có xử sự như thế được không? Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm dân tộc ta có bao giờ có một chính quyền đă gây tang tóc cho nhân dân, tàn phá đất nước đến như thế không?

          2/ Tiêu biểu của tinh thần giải phóng.                                           

          Nhận định này xét ra cũng không xác tín hơn nhận định nói trên bao nhiêu, bởi v́ nó chỉ  là hệ luận của nhận định đó. Một khi đă thấy được là ông Hồ yêu cộng sản hơn yêu nước th́ tự nhiên ta cũng hiểu việc giải phóng quốc gia đối với ông không phải là mục đích chính. Nếu có lúc nào hai chữ “giải phóng” được nêu lên th́ đó chỉ để tuyên truyền, và nhất là để lợi dụng, đúng như ông Hà đă viết: “Có thể nói ‘CNXH khoa học không thâm nhập được vào nhân loại bằng con đường khoa học, nhưng bằng con đường của ḷng yêu nước thương ṇi, chống phát xít, chống thực dân, giải phóng dân tộc”. Ngay Stalin trước kia cũng đă phải dùng chiến thuật kêu gọi ḷng ái quốc của dân Nga để chống Đức quốc xă, thay v́ kêu gọi ḷng yêu cộng sản của họ. Lư do rất giản dị là, như vậy sẽ chẳng có ai hăng hái xả thân (cho cộng sản) cả! Dân tộc Việt ta chắc chắn cũng vậy thôi.

          Thành ra lúc chưa nắm được, chưa nắm vững chính quyền, th́ phải tạm giấu cái chấtcộng sản đi, như họ Hồ đă phải giả vờ giải tán cộng đảng vào năm 1945. Lúc ấy người cộng sản chỉ nói đến quốc gia dân tộc, chỉ nói về độc lập, tự do, hạnh phúc, mà không nói ǵ về CNXH/CNCS, và ĐTGC, VSCC... Điều này chẳng cũng đúng với giáo điều cộng sản, dạy rằng: “cách mạng dân tộc” chỉ là bước quá độ để tiến lên CNXH thôi sao? Phải chăng đó là nội dung cái tinh thần “giải phóng” của người cộng sản? Sự thực thật quá trắng trợn mà nhiều người không nhận ra hoặc có nhận ra th́ nhiều khi đă quá trễ! Lúc ấy th́ chỉ c̣n chờ mong để được giải phóng ngược lại!

          Nói tóm lại, cái huyền thoại về ḷng yêu nước của ông Hồ, và lời xưng tụng, cả nước gọi ông là ‘Bác’, trong cái xă hội mà ông Hà nói là cái ǵ cũng lộn ngược cả, cũng chỉ có một giá trị lộn ngược! (Cuộc thăm ḍ dư luận cuả báo Tuổi Trẻ ở Saigon cách đây mấy năm, cho thâư đa số giới trẻ Việt-Nam được thăm ḍ –89%- đă chọn ông Bill Gates làm thần tượng, trong khi chỉ có 40% chọn Hồ chí Minh. Thế đủ biết nếu được tự do th́ thần tượng Hồ c̣n xuống tới đâu!)

          3/ Ai nhờ ai?

          Tuy có nhiều lần ông Hà nói rằng chính CNXH nhờ cuộc kháng chiến chống thực dân của ta mà xâm nhập được vào nước ta, nhưng rồi ông lại vẫn nêu ra ư tuởng là trước ông Hồ chỉ định nhờ CNXH để giải phóng đất nước, và có lúc vẫn cho rằng nhờ có nó mà dân tộc ta đă giành được độc lập, như trong câu: “Ta biết ơn chiếc thuyền nan đă đưa ta qua sông”... Về điểm này

người viết có hai ư kiến:

-  Thứ nhất là, nếu quả thật XHCN là phương thức tốt nhất để giúp nước ta giành lại độc lập th́ tại sao ông Hồ và đảng cộng sản không nói rơ ra cho dân biết mà phải giấu diếm, thậm chí phải tuyên bố giải tán nó đi, để chờ tới khi đứng vững rồi mới lại lập lại? Nếu quả thật đó là cách hay nhất để đánh đuổi thực dân th́ tại sao bao nhiêu nước nhược tiểu khác chẳng cần nhờ đến nó mà cũng vẫn giành được độc lập, trong khi cứ nước nào dính đến cộng sản là vừa tốn xương máu tài sản gấp bội, vừa lâu hơn, mà kết quả th́ lại thảm hại hơn? Cứ nh́n ngay các nước quanh ta, trước đâu có hơn ta mà bây giờ vượt xa ta như thế nào? Mă-lai, Nam-dương, Phi-luật-tân...và cả những nước nhỏ xíu ở Phi châu, như Tunisie, Maroc, Sénégale, Côte d’ ivoire, cũng c̣n độc lập ḥa b́nh mau hơn ta, ít đổ máu hơn ta, và thịnh vượng hơn ta. Rồi nh́n lại những nước đă “nhờ” đến XHCN như nước ta, Đại hàn, Trung hoa, Cuba, Angola, đông Âu v.v. xem thực tế thế nào? (Trung hoa sau này khá hơn là bởi đă sớm đổi mới và theo kinh tế thị trường).

-  Thứ hai là, nói theo kinh điển cộng sản th́ ‘cách mạng dân tộc’ là bước quá độ để tiến lên XHCN, mà XHCN th́ chỉ có thể thực hiện được sau khi đă giành được độc lập, cướp được chính quyền; như thế th́ rơ ràng là XHCN phải đi sau chiến tranh giải phóng và cách mạng dân tộc.   Đi sau, đến sau người ta th́ làm sao mà nói người ta nhờ ḿnh được!? C̣n nói rằng chỉ nhờ đến các phương thức đấu tranh của nó thôi th́ cũng không ổn. Làm sao có thể phân biệt được cái phương thức ĐTGC với cái nội dung thực tế của ĐTGC, để chỉ nhờ đến cái phương thức ĐTGC hầu vận dụng vào cuộc chiến đấu chống thực dân?

          Thành ra sự thực là cộng sản đă lợi dụng các cuộc chiến tranh giải phóng và các cuộc nổi dậy của quần chúng để xâm nhập, lũng đoạn, rồi thừa cơ cướp chính quyền. Nếu chỉ dùng cái nhăn hiệu XHCN không thôi mà không lợi dụng được những cơ hội mà quần chúng đang khao khát độc lập tự do th́ không bao giờ cộng sản có thể thành công được, bất cứ ở đâu, kể cả Nga.

 

C- Đảng cộng sản đă có công.

 

          Công như thế nào? Ông Hà bảo đó là “công tập hợp được sức mạnh truyền thống của dân tộc, để tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành quyền dân tộc tự quyết”.

          Vâng, cứ nh́n bề ngoài th́ sự kiện đó đúng không thể chối căi được. Cũng như cái công lớn lao khác mà cộng sản thường rêu rao là công thống nhất đất nước.

Nhưng kết luận không đơn giản và dễ dàng như vậy. Sự kiện chưa nói đến chiều sâu của vấn đề. Công lớn hay nhỏ, hiển hách hay không, là tương đối với nhiều cái khác.

          1/ Công “tập hợp được sức mạnh truyền thống”.

          Người viết xin mượn lời của chính ông Hà để nói rơ cái lớn lao của công trạng đó như thế nào. Ông viết “Dân ta vốn có truyền thống yêu nước rất cao... Nên đă làm nên thắng lợi của hai cuộc chiến vừa qua. Chiến thắng ấy không thuộc phạm trù ‘CNXH’ hay ‘CNCS’...”.

Điều đó nói lên rằng, dân ta đă có truyền thống yêu nước, nghĩa là đă có ḷng yêu nước từ lâu rồi, và đă chiến thắng nhiều lần trong quá khứ, như thế th́ dù không có đảng cộng sản dân ta cũng vẫn tập hợp được sức mạnh sẵn có để chiến thắng thực dân, cũng như xưa kia đă tập hợp được để mấy phen oanh liệt đánh thắng giặc Tàu, cần ǵ phải có đảng cộng sản mới làm được.

Nó cũng nói lên rằng các chiến thắng đó không do cộng sản làm nên, tuy rằng chúng đă ra sức giành độc quyền để làm! Ngược lại, như trên đă nói, chính cộng sản đă nhờ ḷng khao khát độc lập tự do và sức mạnh truyền thống của dân tộc ta mà cướp được chính quyền, rồi nhờ các cuộc chiến thắng mà tiến lên xây dựng XHCN trên cả nước ta.

 

          2/ Công “giành quyền dân tộc tự quyềt”

Người viết cũng lại xin được dẫn một lời khác của ông Hà để chứng tỏ rằng công đó cũng

không có nốt! Ông viết ...“ nhưng sang bờ rồi mà cứ cắm cúi ‘mang chiếc thuyền mác-xít chỉ huy trên lưng’ như cái mai rùa”... Thế là quá rơ rồi, tiếng là độc lập nhưng “tự quyết” th́ phải do Mác xít chỉ huy! Trên thực tế th́ người ngoài đă nh́n thấy rơ điều này từ lâu lắm rồi. Ai cũng biết, từ

chủ trương đường lối, cho đến cả cách thực hiện, nhất nhất Việt cộng phải ‘nhất trí’ với ‘anh em’, đều phải rập khuôn theo một mẫu mực do Nga, Tàu ban ra (trước th́ học cách đấu tố của Tàu, bây giờ th́ học cách làm tư bản đỏ của chúng). Sự lệ thuộc cả về trí lẫn tâm của cả họ Hồ lẫn đảng Việt cộng đối với cộng sản quốc tế đă có không biết cơ man nào tài liệu chứng minh.

Thậm chí họ c̣n đang tâm gây chiến, xâm lược miền Nam tự do, để mở rộng bờ cơi đế quốc Đỏ.  Cho cả đền khi cộng sản quốc tế đă sụp đổ rồi, đất nước tan hoang rồi, mà vẫn c̣n phải cắm đầu trung thành với chủ thuyết Mác-Lê!

          3/ Công hay tội?

          Công b́nh mà nói, khi nói đến công th́ phải nói đến tội, hay ngược lại. Nếu chỉ nói đến một mặt là thiếu khách quan. Do đó sau khi nói đến ‘công’ của đảng Việt cộng th́ bây giờ ta thử nói đến tội của họ. Chỉ xin kể mấy cái tội tày trời, có tính cách lịch sử mà thôi.

a)     Tội tiêu diệt những người Quốc gia không chịu đầu hàng cộng sản, để chiếm

độc quyền kháng chiến và lănh đạo đất nước, nhưng không những đă không đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mà c̣n làm cho đất nước ngày càng độc tài tham nhũng, văn hoá suy đồi, đưa đất nước xuống vực thẳm, đền nỗi ai cũng phải công nhận là Việt-Nam hiện đứng vào hàng chót thế giới!

b)     Tội đem một chủ nghĩa ngoại lai độc hại vào tàn phá đất nước, giết hại bao

nhiêu lương dân qua các chương tŕnh cải cách ruộng đất, đánh tư sản mại bản. Tệ hại hơn nữa là họ Hồ và đảng Việt cộng đă vâng lệnh quốc tế cộng sản làm tên lính tiền phong mở cuộc xâm lăng đẫm máu để thôn tính miền Nam, mở rộng đế quốc đỏ. Chỉ v́ Hồ chí Minh và cộng đảng tự nguyện đứng vào hàng ngũ cộng sản nên đă biến đất nước ta thành băi chiến trường của cuộc chiến tranh ư thức hệ, làm cho dân tộc ta gánh chịu biết bao nhiêu thảm cảnh, đổ biết bao nhiêu máu xương, tiêu tan biết bao nhiêu tài sản quốc gia, ‘tụt hậu’ sau biết bao nhiêu nước!

                   c)  Tội đồng lơa với thực dân chia đội đất nước, tạo điều kiện cho cuộc chiến tương tàn giữa đồng bào ruột thịt. Lịch sử c̣n ghi rơ chính đảng Việt cộng đă kư kết với thực dân chia đôi đất nước năm 1954, bất chấp sự phản đối kịch liệt của chính phủ quốc gia lúc đó.

Chia đôi để có thời gian củng cố lại miền Bắc rồi lại mở cuộc chiến xâm lăng đẫm máu kéo dài suốt 15 năm để thôn tính miền Nam, đem cả nước vào ṿng nô lệ cộng sản.

Huyền thoại “giải phóng miền Nam khỏi tay đế quốc bóc lột Mỹ” nay đă rơ chỉ là một tṛ bịp bợm trắng trợn, dơ bẩn nhất.  Bây giờ th́ ai cũng đă thấy cái bung xung “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt-Nam” chỉ là một b́nh phong của bọn xâm lược đỏ, nên đă bị thải hồi ngay sau khi Việt cộng chiếm được miền Nam.

 

A- Con đường ra.

 

            Thảm trạng của đất nước ra sao th́ ai cũng đă nh́n thấy. Vấn đề bây giờ là t́m con đường ra tốt nhất. Chúng ta đă nh́n thấy hai con đường, của cộng sản và của ông Hà. V́ đây là vấn đề rất quan trọng, đang được mọi người quan tâm đến, nên người viết xin được đề cập thêm đến hai con đường khác, của giáo sư Lữ Phương và của Phó Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang.

          1/ Trước hết là các con đường ra

a/ Của Việt cộng

          Đây là con đường mà ông Hà gọi là “phương thức đổi mới kiểu Á châu”. Đó là lối đổi mà không đổi, không đổi mà đổi, biến ảo khôn lường, nhưng cốt lơi vẫn là không làm xáo trộn trật tự nội bộ, có nghĩa là ai ngồi đâu vẫn ngồi đấy và họ vẫn nắm trọn quyền!

Ông Hà nói không quan tâm mấy đến trật tự nội bộ, bởi khi con đường đă thông suốt th́ cả đoàn người đều đến đích, có sớm hay muộn hơn nhau mấy bước cũng không có ǵ quan trọng. Điều ông lo ngại là lối thay đổi đầu Ngô ḿnh Sở, lấy “tư bản” ghép vào với “xă hội” sẽ gây ra những bất lợi lớn lao cho các tầng lớp dân nghèo, và sẽ tạo ra những tai họa sâu xa về văn hoá xă hội cho dân tộc.

                   b/ Của ông Hà

          Con đường này gồm hai điểm chính. Trước nhất ông chủ trương tất cả mọi thành phần dân tộc phải ngồi lại để ḥa giải với nhau hầu chung lo việc nước. Và điều kiện thiết yếu nhất để có thể xóa bỏ hận thù là phải từ bỏ ư thức hệ độc tôn ngoại lai, tức chủ nghĩa Mác-Lê. Thứ hai là phải thực hiện những bước đầu tiên là sửa đổi cách tiến hành bàu cử h́nh thức, vi hiến hiện nay, và phải thực hiện quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng, mà biểu hiện đầu tiên là chấp nhận có ư kiến đối  lập. C̣n về chế độ, ông chủ trương một nền dân chủ pháp trị, đa nguyên, phân quyền, và một nền kinh tế thị trường.

                    c/ Của giáo sư Lữ Phương

          Sau khi nhận định rằng: “Sự ổn định chính trị” thường xuyên được viện ra, gọi là tạo điều kiện để “phát triển kinh tế”, nhưng chủ yếu là để răn đe, trấn áp các xu hướng đ̣i hỏi dân chủ hóa trong giới trí thức và văn nghệ, nhất là trong nội bộ đảng; rằng: “Lư luận gọi là nhà nước XHCN “điều tiết” thị trường, thực chất chỉ là một miếng vải vá víu do những nhà lư luận quan phương tạo ra để che giấu xu thế đang tư sản hóa theo cái chiều hướng hoang dă của bản thân cái nhà nước ấy”; và rằng: “Người ta hiểu rất rơ cái lỗ trống do cơ chế chuyên quyền tạo ra lớn lao như thế nào: đảo lộn rồi lấy ǵ thay thế nếu không muốn đưa cả xă hội vào những rối ren triền miên?”

Ông đề nghị: “Chấp nhận mọi giới hạn hiện có, đưa quyền lợi dân tộc lên chỗ cao nhất làm điểm tựa, chúng ta hăy thử h́nh dung ra một kịch bản tốt nhất có thể có cho đất nước!” Và kịch bản của ông là: “Tự ḿnh, đảng cộng sản Việt-Nam phải đưa chủ trương ‘đổi mới’ hiện nay lên một chất lượng cao hơn nữa, mà điểm cốt tử là dứt khoát từ bỏ CCVS... từng bước chuyển sang con đường CNXH phi Mác-xít, thực hiện bằng định chế dân chủ đa nguyên... đảng cộng sản phải chuẩn bị ‘hóa thân thành một đảng XHCN phi Mác-xít’, mang danh ǵ cũng được, ‘biến thành một thực thể dân chủ’ th́ mới có thể tiếp tục làm được hai việc đồng thời với nhau: giữ được sự ổn định liên tục để phát triển kinh tế và nhân danh được một thứ XHCN khả thi để điều tiết được cơ chế thị trường”... Ông Phương cho rằng không có cách nào hay hơn nữa để vừa thừa kế vừa thay thế cái cũ.

          Về thực hiện, ông nói: “Mọi sự vội vă là không thích hợp”, rồi bảo phải đưa ra “một kế hoạch chủ động để trong khi vẫn cứ tiếp tục thực hiện đường lối ‘đổi mới’ hiện nay, tích cực tạo ra những điều kiện thuận lợi để chuyển toàn bộ hoạt động của đảng và nhà nước sang một chiều hướng mới hoàn toàn”... 5 điểm cải cách chính trong kế hoạch của ông Phương là:

-         Tiến hành phi quốc doanh hóa toàn bộ đời sống kinh tế, ngoại trừ những khu vực tư nhân chưa đảm nhận nổi;

-         Luật pháp hóa toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xă hội, văn hóa: không để bất cứ thực thể nào sống trên pháp luật, bắt đầu trước tiên là đảng cộng sản;

-         Thực hiện quyền tồn tại độc lập, pháp định của tất cả các lực lượng quần chúng hiện có...

sau đó có thể cho ra đời dần dần những tổ chức chính trị có xu hướng cấp tiến ôn hoà, tiến dần đến một chế độ dân chủ đa nguyên, điều hợp bởi một nhà nước pháp quyền;

-         Trong một phạm vi giới hạn (các đoàn thể xă hội, các cơ quan nghiên cứu, các đại học...) nới rộng quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu, chấp nhận sự đối thoại, cọ xát, giữa những xu hướng tư tưởng khác nhau;

    -    Bằng những chương tŕnh đào tạo khẩn trương (nhà nước và toàn bộ xă hội) xây dựng nên một đội ngũ chuyên viên trẻ tiếp thu được những kiến thức mới nhất trong mọi lănh vực của đời sống hiện đại để họ thay dần lớp cán bộ già nua.

          Lữ Phương nói: “Tất cả những cải cách trên đây đều nhằm vào mục đích chuẩn bị cho sự ra đời những thành phần ưu tú của xă hội công dân mới, lành mạnh, thực tế, năng động, dựa vào đó h́nh thành một giai tầng lănh đạo mới để đưa đất nước nhanh chóng vào con đường hiện đại hóa và dân chủ hóa. Khi đă có được một lực lượng xă hội tích cực để lấp dần cái lỗ trống do cơ chế chuyên quyền tạo ra th́ lúc bấy giờ việc hóa thân của đảng cộng sản cũng sẽ được đặt ra một cách tự nhiên trong điều kiện đất nước đă thoát khỏi t́nh thế chông chênh cực kỳ nguy hiểm như hiện nay”.

                    d/ Của phó tiến sĩ Nguyễn thanh Giang, một đảng viên cs.   

Bài “Thực trạng thê thảm của đất nước và đ̣i hỏi dân chủ hóa Việt-Nam” của ông Giang, mà người viết được đọc, không trực tiếp bàn về đường lối giải quyết sự bế tắc của Việt-Nam hiện nay. Nhưng một trong những điều ông đề cập tới lại là điểm chủ chốt của vấn đề ‘đổi mới’.

Đó là điểm “Phải ổn định để phát triển kinh tế”. Ông dứt khoát bác bỏ luận điệu này, v́ theo ông “Chủ trương ổn định chính trị tức là muốn xây dựng một chính quyền v́ chính quyền. Điều đó không nên làm, và sẽ không làm được”. 

Không những thế, nhân bàn về hiện trạng nước Nga, ông c̣n cho rằng sự mất ổn định tạm thời là cái giá phải trả cho sự thay đổi: “Chính sự mất ổn định tạm thời trước mắt sẽ tạo thế ổn định và phát triển vững chắc cho đất nước này trong tương lai không xa”. Ông cũng chỉ trích luôn cái lư do mà gần đây nhà cầm quyền cộng sản thường nêu ra để biện hộ cho chiêu bài ‘ổn định’ của họ: “Người dân Việt-Nam sẽ mất ǵ, sẽ có ǵ nguy hiểm khi bị ‘diễn biến ḥa b́nh?”

          Theo ông th́ “Chính trị và kinh tế là hai h́nh thái biểu hiện của tồn tại xă hội...Muốn cho chính trị có thể trở thành lực lượng cải tạo th́ nó phải phản ảnh một cách đứng đắn những nhu cầu phát triển của đời sống vật chất của xă hội. Quan hệ chính trị kinh tế là quan hệ hữu cơ, bởi thế không thể nào tách rời chúng mà không gây mất ổn định...Cải tạo đổi mới kinh tế đ̣i hỏi phải cải tạo đổi mới chính trị tương ứng th́ mới giữ được sự ổn định xă hội. Chỉ tăng cường ổn định chính trị tất sẽ phá vỡ ổn định xă hội”.

          Bàn về thực tế đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị, ông Giang vạch rơ: “Gh́m giữ chính trị ổn định mà chỉ thả cho kinh tế phát triển c̣n dẫn đến một thứ kinh tế chủ nghĩa. Trong đảng vốn đă luôn tồn tại bệnh ấu trĩ. Trước đây ấu trĩ tả khuynh xúi người ta nêu cao khẩu hiệu‘mo cơm quả cà với tấm ḷng cộng sản’; Ngày nay âú trĩ hữu khuynh lại giục người ta hô toáng lên ‘đảng viên phải biết làm giàu”. Kết quả là một giai cấp tư sản mới đang manh nha h́nh thành do đám quan chức quyền thế của đảng cộng sản và nhà nước cấu kết chặt chẽ với bọn gian thương lưu manh. Ông c̣n bảo giới tư sản cũ c̣n biết sản xuất, kinh doanh, chứ  ‘Tầng lớp tư bản mới này chỉ có tài ăn cướp móc ngoặc. Chúng sẽ tàn bạo hơn bọn tư sản phương Tây rất nhiều. Thật là tai họa cho dân tộc. Ngay bây giờ tầng lớp tư sản mới đă đang lũng đoạn ghê gớm nền kinh tế và góp phần tích cực phá hoại nền văn hóa dân tộc ta”.

          Từ các nhận định đó ông đi đến khẳng định: “Không có tự do chính trị, không có dân chủ, th́ đất nước không thể phát triển xét về tổng thể cũng như riêng kinh tế. Sự sụp đổ cơ bản toàn thể hệ thống XHCN có nguyên nhân từ sự tŕ trệ của nền kinh tế, mà nguồn gốc sâu xa của kinh tế tŕ trệ lại là do cơ chế độc tài, mất dân chủ của hệ thống chính trị XHCN”. Ông bảo “Muốn thực ḷng xây dựng một chính quyền do dân và v́ dân th́ phải đặt pháp quyền và ư chí chung của nhân dân, không mang tính giai cấp và không dựa trên cơ sở kinh tế”, có nghĩa là hăy từ bỏ ngay CCVS, v́ “Thực tế là chúng ta muốn lấy CCVS để thay thế pháp quyền. Mà CCVS th́ đă gây ra bao nhiêu thảm họa trong lịch sử. Lợi dụng CCVS, Stalin, Pôn pốt đă mặc sức giết hại hàng triệu đồng bào ḿnh mà không cần xét xử, bất chấp đạo lư. Có trong tay cái ‘bùa CCVS th́ một kẻ tiểu nhân cũng dễ dàng tạo được đ̣n hiểm để đánh bại được một ông tướng chiến thắng Điện biên phủ”.

2/ Vài nhận định của người viết

          Trước hết là một nhận xét chung: tất cả các giải pháp nêu ra, trừ của cộng sản, đều giống nhau ở một điểm là, công nhận rằng hiện t́nh đất nước đă quá thê thảm, nguyên do chỉ v́ chủ nghĩa Mác-Lê. Do đó nhu cầu cốt tử là phải dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa này, và phải thay đổi cả chính trị lẫn kinh tế để tạo điều kiện xây dựng lại quốc gia. Ngay cả cộng sản cũng đă phải mặc nhiên công nhận điều đó, dù rằng vẫn c̣n cố cầm cự theo kiểu ‘con rắn vuông’.

Nhưng ngoài điểm chung đó, các điểm c̣n lại: thay đổi cái ǵ, như thế nào, nhịp độ ra sao... th́ có nhiều khác biệt. Xin đi vào từng giải pháp một.

                   a/ Về đường lối của đảng Việt-cộng

          Như mọi người đă thấy, dù muốn hay không th́ Việt cộng cũng đă mặc nhiên công nhận rằng ḿnh sai lầm và đă chấp nhận phải sửa đổi. Do đó sách lược ‘đổi mới’ đă được đưa ra từ năm 1986. Nhưng cho đến 8 năm sau sự thay đổi chỉ có rất ít và nửa vời, chỉ xoay quanh vấn đề kinh tế. Họ đă nói trắng ra là sẽ không thay đổi về chính trị, và mới đầu năm nay vẫn ra quyết nghị ‘kiên tŕ chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ chí Minh’, chứ không phải là họ muốn trở về với quy luật bằng cách đổi mới theo kiểu Á châu mà ông Hà đă nói. Nh́n vào cách hành xử của Việt cộng ta thấy rơ ràng là:

    -  Nếu buộc ḷng phài thay đổi th́ người cộng sản chỉ thay đổi để cứu nguy chế độ chứ không phải để đem lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Bằng chứng rơ rệt nhất là họ nhất định không chịu thay đổi về chính trị, v́ nó nghịch chiều với quyền lợi của đảng. Việt cộng biết rất rơ là nếu thay đổi th́ sẽ mất quyền nên sẽ cầm cự đến cùng, bằng những mưu thuật giai đoạn, cho đến khi bị đẩy khỏi chính quyền. Câu hỏi đặt ra là: nếu Việt cộng thật ḷng v́ dân v́ nước th́ tại sao lại sợ không dám thay đổi mà cứ t́m cách bám quyền bằng những biện pháp lưng chừng, vá viú?

    -  Cái thay đổi lớn nhất mà Việt cộng đă làm cho đến nay là về kinh tế, v́ không thay đổi th́ sẽ chết. Nhưng sự thay đổi lại theo một chiều hướng khác hẳn với chiều hướng mà người dân mong đợi. Xin hăy đọc lại những nhận định của ông Hà, ông Giang, và ông Phương: Đó là con đường để tư bản hóa, một thứ tư bản lưu manh và bệnh hoạn; Đó là thứ kinh tế chủ nghĩa, tạo ra một lớp tư bản mới chỉ có tài ăn cướp, đang làm tha hóa xă hội Việt-Nam một cách ghê gớm; Và đó là xu thế tư sản hóa theo chiều hướng hoang dă ...

    -  Ông Giang c̣n tiết lộ thêm một vài sự kiện về sự đổi mới của cộng sản, như tăng lương thật cao cho quân nhân và thả cho đảng viên tha hồ làm ăn bất chính. Phải chăng đó là cách để phát triển kinh tế hay để chỉ mua chuộc quân đội đừng đứng lên lật đổ chính quyền, và để tập đoàn cộng sản v́ quyền lợi riêng tư mà nhắm mắt đi theo bọn đầu đảng?

                   b/ Về chủ trương của ông Hà.

          Xét một cách tổng quát th́ giải pháp của ông Hà đề nghị rất hợp lư hợp t́nh. Tuy nhiên về thực hiện th́ người viết thấy có mấy điểm cần phải đặt thành vấn đề.

    -   Một là vấn đề trật t tự nội bộ. Ông Hà nói ông không quan tâm về điểm này. Nhưng theo thiển ư th́ điều đó hơi tiêu cực, nặng t́nh cảm. Trước hết đây là vấn đề quốc gia đại sự, nhằm giaỉ quyết một t́nh trạng khó khăn, lưu cữu. Nếu không làm theo tinh thần nghiêm túc, pháp trị, th́ sợ rồi đâu vẫn lại vào đấy, hoặc sẽ tệ hơn. V́ vậy nếu đảng Việt cộng thật tâm thay đổi th́ vấn đề trật tự nội bộ của họ cũng như bất cứ vấn đề nào khác của quốc gia đều phải để nhân dân tự do quyết định. Nếu đồng bào đồng ư để nguyên trật tự cũ th́ họ cứ việc ngồi lại, c̣n nếu cứ để đảng cộng sản tự quyết định, giữ lấy cái trật tự nội bộ của họ, giữ nguyên hàng ngũ lănh đạo cũ, th́ một là họ khó có thể lột xác biến tâm để có khả năng thay đổi một cách thích đáng; hai là họ không thể tạo được ḷng tin và khí thế cần thiết cho sự thay đổi.

-         Hai là vấn đề thời gian, ông Hà nói nhanh hay chậm cũng không sao. Cũng như điểm vừa

trinh bày ở trên, vấn đề không thể giải quyết theo lối ‘chín bỏ làm mười’. Chính trị vốn vô cùng lắt léo, ngay dù có cố để cho minh bạch mà nhiều khi cũng c̣n không xong, huống hồ cứ để

                                                            -  37  -

 

người cầm quyền làm theo ư họ. Nếu như ông Hà đă nói, bất cứ người cầm quyền nào cũng có

khuynh hướng lạm quyền cho đến khi bị chặn lại, th́ tại sao ta không đặt vấn đề giải quyết một cách dứt khoát. Xin hỏi là ông Hà đă viết bài ‘Dắt tay nhau ...’ từ năm 1988, cho tới nay là gần 6 năm rồi mà có thấy tiến bộ ǵ chưa hay chỉ bị đả kích tơi bời.

Ông cũng nói rằng chính đảng cộng sản cũng có kế hoạch để từng bước một từ bỏ CNXH, và vào mùa Xuân năm 1993 th́ đă gần xong 3 trong 4 giai đoạn, vậy mà sang đến đầu năm 1994 đại hội đảng vẫn quyết nghị cương quyết tiên lên XHCN! Đến nay, 2006, là thêm 12 năm nữa rồi mà cũng lại vẫn kiên tŕ tiến lên XHCN!). Vậy cứ tính thử người này đi được năm bảy buớc th́ người kia cũng đi được một bước th́ đến mấy chục năm nữa mới ‘đổi mới’ xong?

          Tưởng cũng nên nhắc lại là Nga tuy mới đổi mới từ năm 1985 mà nay, 1994, đă gần lột xác xong. Tất cà các nước Đông Âu cũng đều đă đổi mới và đều có chính quyền dân chủ, do dân bàu qua các cuộc phổ thông đầu phiếu hoàn toàn tự do. Ngay Trung cộng cũng đă dễ thở hơn một chút về chính trị, v́ đă theo kinh tế thị trường từ mười mấy năm qua. C̣n riêng ở Việt-Nam th́ tuy Việt cộng cũng đă nói đến đổi mới từ năm 1986, nhưng lại loay hoay đổi mới theo kiểu ‘kinh tế thị trường theo định hướng XHCN’!  V́ ‘đảng ta’ vẫn kiên quyết tiến lên XHCN cho nên đă phải ‘sáng tạo’ ra chiến lược ‘cái đầu xă hội ghép vào cái ḿnh tư bản’ như thế. C̣n ông Hà th́ đến tháng 5 năm 1993 lại phải viết bài “Đôi điều suy nghĩ...” để phê b́nh, chỉ trích, và kêu gọi đổi mới, và đang mong sẽ không trở thành một Nguyễn trường Tộ thứ hai!

                   c/ Về kế hoạch của ông Lữ Phương

          Ưu điểm của ông Phương là đă đưa ra được một kế hoạch về đổi mới. Nhưng rất tiếc kế hoạch này lại có những sơ hở nặng nề mà sau đây là mấy điểm chính.

    -    Thứ nhất là về vấn đề “ổn định”. Tuy mới đầu ông bảo đây chỉ là cái cớ để nhà nước răn đe, trấn áp các xu hướng đ̣i hỏi dân chủ, nhưng rồi ông lại đồng ư với họ là phải có ổn định để phát triển. Lư do là: cơ chế cộng sản đă tạo ra một lỗ trống quá lớn lao, “t́nh thế chông chênh cực kỳ nguy hiểm như hiện nay”. Ông bảo đảo lộn rồi th́ lấy ǵ thay thế cho khỏi rối ren triền miên? Do đó ông đề nghị chấp nhận tất cả các giới hạn hiện nay do nhà nước cộng sản đặt ra, rồi cứ để cho họ từ từ thay đổi. Như thế có nghĩa là sẽ không có tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do chính trị v.v. cho đến một lúc nào đó, khi các người lănh đạo cộng sản ban cho!

Người viết nghĩ lư luận này không có tính cách thuyết phục. Người ta không thể nhân danh sự “ổn định” để giữ lại một thể chế độc tài và một chính sách tàn hại, nhất là những người cầm đầu thể chế đó lại là những người được ủy nhiệm để giữ sự “ổn định” và làm cái việc “đổi mới”. Dĩ văng đầy máu và nước mắt trong suốt bao nhiêu năm qua đă quá đủ để cho phép thử lại một lần nữa, ngay cả khi cộng sản thực t́nh thay đổi.

-         Thứ hai là về nhịp độ thay đổi.

Về điểm này ông Lữ Phương khẳng định là không thể vội vă được. Lư do là sợ mất ổn định

và sợ không biết lấy ǵ thay thế. V́ vậy các cải cách mà ông đề ra chỉ được thực hiện trong một tinh thần không vội vă. Điều đáng chú ư là trong giai đoạn đầu (bao lâu?) sẽ chỉ nới rộng  (chứ không ban hành đầy đủ) quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu...trong một phạm vi giới hạn (chứ không phải chung cho mọi giới). C̣n giai đoạn sau th́ thế nào, bao giờ bắt đầu, không thấy nói đến.

Nhưng đáng chú ư hơn cả là điểm ông nói đến việc xây dựng một đội ngũ chuyên viên, để chuẩn bị cho sự ra đời những phần tử ưu tú để h́nh thành một tầng lớp lănh đạo mới. Không biết ông có thử tính xem quá tŕnh đào tạo “khẩn trương” để “chuẩn bị” cho ra đời một “giai tầng lănh đạo mới” tốn độ bao nhiêu năm? Vài năm hay vài chục năm? Thế nhỡ chưa kịp có người mới mà các ông lănh đạo già nua hiện nay bất ngờ về bên kia thế giới với ông Hồ th́ sẽ giải quyết làm sao? Sẽ loạn? Chẳng lẽ trong gần 70 triệu dân, với hàng triệu đảng viên “ưu tú” (như Đỗ Mười, Lê đức Anh ...) với ngàn vạn nhà trí thức, mà không thể t́m ra được mấy người lănh đạo hay sao? Nếu vậy th́ thật tủi hổ cho một nước có trên 4000 năm văn hiến, có bao nhiêu trang sử vẻ

                                                         -  38  -

 

vang, mà vào hậu bán thế kỷ 20 này mà không có ai ngoài mấy tên bồi tàu, thợ dệt, thợ hoạn,

thợ cao nhựa cao su...có đủ khả năng lănh đạo quốc gia và ổn định xă hội! C̣n lớp lănh đạo mới th́ nhất định phải đợi đám con cháu lănh đạo đi học về kế vị mới được! Thật nhục cả cho ‘đỉnh cao trí tuệ và đảng vinh quang! (Hóa ra chỉ toàn là loại cướp ngày).

-         Thứ ba là điểm ông Phương nói về sự “hóa thân” của đảng cộng sản: “Khi đă có được một

lực lượng xă hội tích cực để lấp dần cái lồ trống do chế độ chuyên quyền tạo ra th́ “lúc bấy giờ việc hóa thân của đảng cộng sản cũng sẽ được đặt ra một cách tự nhiên...” Như thế có nghĩa là bản thân đảng cộng sản không phải thay đổi ǵ cả trong khi thực hiện 5 điểm cải cách (đổi mới)

của ông Phương đề ra? Đây quả thực là điều không thể nào quan niệm được. Nếu chính đảng Việt cộng không nhận thức được vấn đề thay đổi, không quyết tâm làm sự thay đổi, và không tự ḿnh phải thay đổi trước, th́ làm sao có thể làm tốt sự thay đổi được? Ai tin được điều đó? C̣n  nếu không cần “hóa thân” trước mà vẫn làm được việc cải cách th́ hà tất lúc ấy họ lại phải hóa thân? Cho nên nếu kịch bản này mà được thi hành th́ cầm chắc là ước muốn cải cách của ông sẽ không thế nào thành được, và người dân sẽ chỉ nhận được những ǵ mà cộng đảng ban phát.

          Nh́n vào chủ trương và kế hoạch của ông, người viết nghĩ, nếu phải “đổi mới” th́ đây là giải pháp mà Việt cộng sẽ dễ chấp nhận nhất (v́ nó có tính cách bánh vẽ nhất). Mà thật ra th́ Việt cộng đă tự làm một số điều mà ông Phương nói rồi, như phi quốc doanh hóa nền kinh tế quốc gia, luật pháp hóa một số các hoạt động kinh tế chính trị, giao vai tṛ mới cho các tổ chức ngoại vi, nới rộng sự cho phát biểu một số trí thức văn nghệ sĩ, và xếp đặt chương tŕnh huấn luyện chuyên viên và lănh đạo tương lai v.v. Nhưng chúng làm các việc đó với ư hướng khác hẳn, nhằm để giữ quyền chứ không phải để chuyển quyền. Chẳng hạn cổ phần hóa các xí nghiệp quốc doanh là để cho đảng viên và gia đ́nh nắm lại, nới rộng tự do phát biểu chỉ với mục đích làm nút x́ hơi an toàn, đạo tạo chuyên viên chỉ để cha truyền con nối...

Vậy cái quan trọng là ở nội dung của sự cải cách chứ không phải cái bề ngoài của sự cải cách. Và

vấn đề bây giờ là phải làm sao để các chương tŕnh đó hướng vào mục đích phục vụ dân tộc chứ không phải để cứu nguy cho đảng và chế độ, và thêm nữa phải thực hiện trong một thời gian rơ rệt chứ không phải muốn kéo dài bao lâu cũng được.

                   d/ Về quan điểm của ông Giang

          Theo thiển ư th́ đây là một giải pháp đúng mức. Có lẽ đây cũng là giải pháp đáp ứng được với nguyện vọng của đồng bào, nếu được thực hiện nghiêm chỉnh. Nó rất gần với cái nh́n của ông Hà, nhưng khác với cái nh́n của ông Phương, ít nhất là trên hai điểm.

    -    Trước nhất, như ta đă thấy, ông Giang dứt khoát bác bỏ cái luận điểm ‘phải ổn định chính trị để phát triển kinh tế’. Quan điểm này hoàn toàn đúng với trào lưu tiến bộ trên thế giới. Muốn phát triển kinh tế th́ phải có tự do dân chủ, có nghĩa là phải cải tổ chính trị th́ mới mong phát triển được kinh tế như ư muốn. Điều này đă được chứng thực ở tất cả các nước có nền kinh tế mở mang, và ngay cả ở những nước đông Âu vừa mới thoát khỏi chế độ VSCC, như Ba lan, Tiệp, Hung v.v.

Nhưng ở Việt-Nam th́ Việt cộng sợ cởi mở chính trị sẽ mất quyền nên mới đưa ra cái lư do ‘ổn định’ để không phải thay đổi về chính trị, tức là để giữ nguyên chế độ và quyền hành. Họ hy vọng chỉ đổi mới kinh tế thôi cũng vẫn có kết quả, như tại Trung cộng. Nhưng thực ra th́ nước này chưa đạt tới mức phát triển như các nước tiến bộ khác để thấy rằng không thay đổi về chính trị th́ không được. Hơn nữa Việt cộng quên rằng, dù Trung cộng tự nguyện thay đổi chứ không phải bị du vào cái thế buộc phải thay đổi, và dù mức sống của người dân đă khá hơn trước song trước sau vẫn không tránh khỏi những vụ Thượng hải, Thiên an môn, và mới đây nhất là vụ chống đối của 7 học giả tiếng tăm nhất nước. Việt cộng chỉ có lư là lúc đầu, khi dân đang đói quá th́ được đảng cho chén cơm hẩm cũng hài ḷng, nhưng sau đó th́ ai c̣n chịu ăn cơm hẩm nữa, nhất là khi đă được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, đặc biệt là với đám ‘Việt kiều yêu nước’. Vả lại con người đâu phải là con vật, cái máy, chỉ cần cho ăn no là yên, đổ dầu nhớt vào là chạy?

    -    Thứ hai, ông chủ trương chấp nhận sự mất ổn định như một cái giá phải trả cho sự thay

đổi về chính trị, tức là cho tự do dân chủ. Đây là một lập trường rất dứt khoát và can đảm. Giải phẩu cái nhọt độc th́ phải chịu đau, nhưng đau xong th́ hết. Không thể bảo cứ để từ từ rồi nhọt độc sẽ tự tiêu đi hay sẽ giải phẫu không đau, hoặc nói như ông Hà, dùng dầu xoa để chữa bệnh ung thư. Hơn nữa không thể trả giá cho sự ổn định bằng cách chấp nhận một chế độ cùng cực độc tài, bất lực, tham nhũng và ngoan cố, rồi lại giao khoán cho chính cái chế độ đó đứng ra làm luôn cái việc mà đă từ bao nhiêu năm qua chúng đă nhất định không làm!

Không những thế, nh́n vào kinh nghiệm ở Nga và đông Âu, ta thấy rơ rằng cái giá phải trả cho sự thay đổi chính trị không có ǵ là ghê gớm cả, nhất là khi may mắn có được những người cộng sản biết thức tỉnh kịp thời. (Mà dù có ǵ xẩy ra th́ cũng chẳng thể nào khủng khiếp như chế độ VSCC đă từng bao lần gây ra cho cả dân tộc).

Ngay ở Nga, là thành tŕ cộng sản thế giới, nơi đă nằm dưới sự cai trị sắt máu của chế độ toàn trị cộng sản (Stalin đă giết cả mấy chục triệu dân, và đă thanh trừng một lúc đến trên 3000 thống chế, đại tướng, các chính trị gia thượng tầng, đă từng là đồng chí thân cận của y), mà sự thay đổi cũng không làm rơi đến một giọt máu, cho đến khi đám tàn dư cộng sản định lật lại thế cờ. C̣n ở những nước như Ba lan, Tiệp khắc, Hung v.v. th́ mọi sự đều êm thấm, ngoại trừ ở Lỗ ma ni, vợ chồng tên thủ lănh cộng sản đă bị hành quyết v́ đến phút chót vẫn c̣n ngang ngược, không chịu nh́n nhận rằng chủ nghĩa cộng sản vô địch đă hết thời vô địch rồi!

          Do đó, có thể nói chắc là nếu những người lănh đạo cộng sản thật t́nh muốn đổi mới về chính trị th́ sự ổn định đă năm ngay ở đó rồi. Với kinh nghiệm cầm quyền độc đoán trong suốt bao nhiêu năm, họ có thừa khả năng để dẹp tan những mưu đồ ngăn trở việc đổi mới để tái tạo quốc gia, để đem lại phúc lợi cho quốc dân và đất nước. Chỉ cần t́m một số người có tư tưởng đổi mới thật sự, tương đối có khả năng, và giao quyền cho họ, rồi tận tâm giúp họ điều hành công việc trong thời gian độ một hai năm, cho đến khi toàn dân chọn xong một cơ chế mới, bầu một chính quyền mới, là mọi sự sẽ tốt đẹp. Cam bốt ít nhiều đă làm được điều đó, không lẽ Việt cộng lại thua cả cựu Khờ me đỏ?

 

Phần Kết luận

 

Các bài viết của Tiến sĩ Hà sĩ phu có mục đích rất rơ rệt là vạch trần những sai lầm, phản khoa học và phi đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lê, để đánh đổ nó, loại nó ra khỏi chính trường

Việt-Nam. Về điểm này, người viết tin rằng ông đă làm được một việc thật tốt.

Nhưng nếu về phần đó ông mạnh mẽ, dứt khoát bao nhiều th́ sang phần sau, về đảng cộng sản và Hồ chí Minh, ông lại có vẻ lưng chừng, dè dặt bấy nhiêu. Ông đă làm một việc hơi mâu thuẫn. Một mặt phi bác cái gốc của nó, cái lư do ra đời và tồn tại của nó, cùng những tội lỗi tầy trời của nó đối với quốc gia dân tộc, một mặt lại băn khoăn, cứu gỡ nó, bằng cách tuyên xưng ‘công trạng’ của nó và người lănh đạo nó, khiến người đọc phải phân vân về thái độ của ông.

          Có thể có nhiều cách giải thích thái độ đó. Một là ông thực sự tin tưởng như thế. Mặc dầu người viết nghĩ điều đó không thể xẩy ra ở ông, nhưng một khi đă ‘để cho trí tuệ được hoàn toàn tự do để xem nó có thể mách bảo ta điều ǵ’ th́ đành phải tôn trọng thôi. Cũng có thể đây chỉ là một chiến thuật, như ông đă rào đón trước rằng nhiều khi muốn nói thẳng nhưng cái thói quen ṿng vo, che chắn, nó vẫn cứ bất chợt hiện ra. V́ thế ta cũng phải hiểu cái lẽ quyền biến đó, và tự suy ra những ǵ ẩn sau những ṿng vo che chắn đó. Nhưng nói cho đúng hơn th́ có lẽ đây là hiện thân của một tâm t́nh ‘trí thức tiểu tư sản’ Việt-Nam. Không dễ ǵ mà một sớm một chiều dứt bỏ được cả một quá khứ dài dằng dặc, đầy đau thương, nặng oán hờn, nhưng cũng có khi hào hùng, mà trong đó có cả ḿnh và bao nhiêu người thân yêu của ḿnh. Không thể không có một sự nuối tiếc. Và dù sao vẫn có sự sót thương. Như một đứa con ḿnh rứt ruột đẻ ra và nuôi nấng trong bao nhiêu năm, tưởng đă thành nhân, nay dù nó hung dữ cướp của giết người, phải

từ bỏ nó hay đem nó ra ṭa, nhưng trong ḷng lúc nào cũng vẫn sót sa v́ dù sao nó vẫn là con ḿnh, và luôn cầu mong nó sẽ tu tỉnh lại. Đáng tiếc cho ông Hà và cho dân tộc ta, nó không phải là đứa trẻ con. Nó đă bán linh hồn cho quỷ dữ, nó đă phạm quá nhiều tội ác, chúng nó đă trở thành tội đồ của dân tộc và lịch sử, không hy vọng ǵ chúng sẽ trở về đường ngay lẽ phải.

          Chỉ c̣n một hy vọng. Đó là tiếng nói của mọi người. Tiếng nói của những người trí thức yêu nước và can đảm như ông Hà. Tiếng nói của những người cộng sản thức tỉnh như ông Giang. Tiếng nói của những người không cộng sản như bác sĩ Nguyễn đan Quế (và nhiều người khác mới lên tiếng gần đây). Tiếng nói của toàn dân, của mọi thành phần dân tộc, tuy trong tay không có một tấc sắt nhưng lại có sức mạnh vô biên.

Và nhất là tiếng nói của các quân nhân, những người đă hy sinh nhiều nhất cho đất nước, chứ không phải cho cộng sản, sẽ nhất quyết không bảo vệ cho một đảng hay một chính quyền phi chính nghĩa, như các đồng nghiệp của họ đă làm tại Nga sô và các nước cộng sản đông Âu.

Chỉ đến lúc ấy mới đẩy được ḥn đá tảng cộng sản đi và giải thoát cho cả dân tộc. Và cũng chỉ lúc ấy ông Hà mới thành công trong ư nguyện của ḿnh./.