r

 

 

 

 

 

MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lư

* BNG-Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -T́m IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Tin Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Đề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Kư Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Ḅ

  40. Băng Đảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Ḥa B́nh

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

 LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019

-09/2019 -10/2019 -11/2019 -12/2019 -01/2020 -02/2020

-03/2020 -04/2020 -05/2020 -06/2020 -07/2020 -08/2020

-09/2020 -10/2020 -11/2020 -12/2020 -01/2021 -02/2021

 

THAM KHẢO

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019. Sep/2019. Oct/2019. Nov/2019. Dec/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

How To Broadcast Videos On You Tube

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v White House v National Archives v

v Federal Register v Congressional Record

v USA Government v Congressional Record

v Associated Press v Commieblaster

v Reuter News v Real Clear Politics  v LawNews

v MediaMatters v C-SPAN vNational Pri Project

v Videos Library v Judicial Watch v Hill

v  MediaFactCheck v Infowar  TownHall

v New World Order v Illuminatti News   

v New Max v CNSv Daily Storm  Foreign Policy

v MediaBiasFactCheck v FactReport

v PolitiFact v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation

v Observe v American Progress  v Fair

v The Guardian v Political Insider v

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart

v American Free Press v Politico Mag

v National Public Radio v Foreign Trade

v National Review - Public Broacast v

v Federation of American Scientist v

v Propublica v Inter Investigate v CBS

v Tass Defense vRussia Militaty News

v ACLU Ten  v CNBC v Fox News v

v Science&Technology  v FoxAtlanta

v Gateway v Infowar v Open Culture

v Syndicate v Capital Research v Russia News

v Nghiên Cứu Quốc Tế  v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao  v Tự Điển Bách Khoa VN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử v

v Dấu Hiệu Thời Đại v Viêt Nam Văn Hiến   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển  v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican?

v Roman Catholic  v Khoa HọcTV  v Sai Gon Echo v Viễn Đông v Người Việt  v Việt Báo  v

http://archive.org/stream/causesoriginsles00unit#page/280/mode/2up

http://openlibrary.org/books/OL23285197M/Causes_origins_and_lessons_of_the_Vietnam_War.

 

 

Tỳ bà hành 琵琶行

Thơ trích từ trang https://www.thivien.net/

Ngôn ngữ: Chữ Hán

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong

Thời kỳ: Trung Đường

Ảnh đính kèm

Minh hoạ

琵琶行 

潯陽江頭夜送客,

楓葉荻花秋瑟瑟。

主人下馬客在船,

舉酒欲飲無管弦。

醉不成歡慘將別,

別時茫茫江浸月。

忽聞水上琵琶聲,

主人忘歸客不發。

尋聲暗問彈者誰,

琵琶聲停欲語遲。

移船相近邀相見,

添酒回燈重開宴。

千呼萬喚始出來,

猶抱琵琶半遮面。

轉軸撥弦三兩聲,

未成曲調先有情。

弦弦掩抑聲聲思,

似訴生平不得志。

低眉信手續續彈,

說盡心中無限事。

輕攏慢撚抹復挑,

初為霓裳後六么。

大弦嘈嘈如急雨,

小弦切切如私語。

嘈嘈切切錯雜彈,

大珠小珠落玉盤。

閒關鶯語花底滑,

幽咽流景水下灘。

水泉冷澀弦凝絕,

絕不通聲漸歇。

別有幽愁暗恨生,

此時無聲勝有聲。

銀瓶乍破水漿迸,

鐵騎突出刀鎗鳴。

曲終收撥當心畫,

四弦一聲如裂帛。

東船西舫悄無言,

惟見江心秋月白。

沈吟放撥插弦中,

整頓衣裳起斂容。

自言本是京城女,

家在蝦蟆陵下住。

十三學得琵琶成,

名屬教坊第一部。

曲罷曾教善才服,

妝成每被秋娘妒。

五陵年少爭纏頭,

一曲紅綃不知數。

鈿頭銀篦擊節碎,

血色羅裙翻酒污。

今年歡笑復明年,

秋月春風等閒度。

弟走從軍阿姨死,

暮去朝來顏色故。

門前冷落車馬稀,

老大嫁作商人婦。

商人重利輕別離,

前月浮梁買茶去。

去來江口守空船,

繞船明月江水寒。

夜深忽夢少年事,

夢啼妝淚紅闌干。

我聞琵琶已歎息,

又聞此語重唧唧。

同是天涯淪落人,

相逢何必曾相識。

我從去年辭帝京,

謫居臥病潯陽城。

潯陽地僻無音樂,

歲不聞絲竹聲。

往近湓城地底濕,

黃蘆苦竹繞宅生。

其間旦暮聞何物,

杜鵑啼血猿哀鳴。

春江花朝秋月夜,

往往取酒還獨傾。

豈無山歌與村笛,

嘔啞嘲哳難為聽。

今夜聞君琵琶語,

如聽仙樂耳暫明。

莫辭更坐彈一曲,

為君翻作琵琶行。

感我此言良久立,

卻坐促弦弦轉急。

淒淒不似向前聲,

滿座重聞皆掩泣。

座中泣下誰最多,

江州司馬青衫濕。

 

 

Tỳ bà hành

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách

Phong diệp địch hoa thu sắt sắt

Chủ nhân há mă khách tại thuyền

Cử tửu dục ẩm vô quản huyền

Tuư bất thành hoan thảm tương biệt

Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt

Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh

Chủ nhân vong quy khách bất phát

Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ

Tỳ bà thanh đ́nh dục ngữ tŕ

Di thuyền tương cận yêu tương kiến

Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến

Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai

Do băo tỳ bà bán già diện

Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh

Vị thành khúc điệu tiên hữu t́nh

Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ

Tự tố b́nh sinh bất đắc chí

Đê mi tín thủ tực tực đàn

Thuyết tận tâm trung vô hạn sự

Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu

Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu

Đại huyền tào tào như cấp vũ

Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ

Tào tào thiết thiết thác tạp đàn

Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn

Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt

U yết lưu cảnh thuỷ hạ than

Thuỷ tuyền lănh sáp huyền ngưng tuyệt

Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết

Biệt hữu u sầu ám hận sinh

Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

Ngân b́nh sạ phá thuỷ tương bính

Thiết kỵ đột xuất đao thương minh

Khúc chung thu bát đương tâm hoạch

Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch

Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn

Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch

Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung

Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung

Tự ngôn bản thị kinh thành nữ

Gia tại Hà Mô lăng hạ trú

Thập tam học đắc tỳ bà thành

Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ

Khúc băi tằng giao thiện tài phục

Trang thành mỗi bị Thu Nương đố

Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu

Nhất khúc hồng tiêu bất tri số

Điền đầu ngân t́ kích tiết toái

Huyết sắc la quần phiên tửu ố

Kim niên hoan tiếu phục minh niên

Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ

Đệ tẩu ṭng quân a di tử

Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố

Môn tiền lănh lạc xa mă hy

Lăo đại giá tác thương nhân phụ

Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly

Tiền nguyệt Phù Lương măi trà khứ

Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền

Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn

Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự

Mộng đề trang lệ hồng lan can

Ngă văn tỳ bà dĩ thán tức

Hựu văn thử ngữ trùng tức tức

Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân

Tương phùng hà tất tằng tương thức

Ngă ṭng khứ niên từ đế kinh

Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành

Tầm Dương địa tích vô âm nhạc

Chung tuế bất văn ty trúc thanh

Trú cận Bồn giang địa thế thấp

Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh

Kỳ gian đán mộ văn hà vật

Đỗ quyên đề huyết viên ai minh

Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ

Văng văng thủ tửu hoàn độc khuynh

Khởi vô sơn ca dữ thôn địch

Âu á triều triết nan vi thính

Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ

Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh

Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc

Vị quân phiên tác Tỳ bà hành

Cảm ngă thử ngôn lương cửu lập

Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp

Thê thê bất tự hướng tiền thanh

Măn toạ trùng văn giai yểm khấp

Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa

Giang Châu tư mă thanh sam thấp.

 

 

 

Dịch nghĩa

Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương

Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt

Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền

Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo

Say mà không vui vẻ ǵ (v́) biệt ly sầu thảm

Lúc chia tay ḷng mang mang, sông đượm bóng trăng

Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước

Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành

T́m theo tiếng để hỏi người đàn là ai

Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà c̣n (ngại ngùng) tŕ hoăn

Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt

Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu

Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra

Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt

Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)

Chưa có khúc điệu ǵ mà nghe đă hữu t́nh

Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ư

Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời

Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy măi

Giăi bày hết tâm sự vô cùng hạn

Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp

Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu

Dây lớn ào ào như mưa rào

Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng

(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non

(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc

(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa

Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống băi

Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt

Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng

Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh

Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có

(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành b́nh bạc vị phá vỡ

(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời

Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc

Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé

Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói

Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông

Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn

Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt

Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành

Nhà ở lăng Hà Mô

Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà

Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường

Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục

Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ

Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu

Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào

Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan

Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố

Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy

Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ

Em trai đi lính, rồi d́ chết

Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lăo đi

Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe

Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn

Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly

Tháng trước đi Phù Lương mua trà

Từ đó đến giờ ở đầu sông một ḿnh với con thuyền không

Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo

Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung

Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son

Tôi nghe tiếng tỳ bà đă thán tức

Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi

Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời

Gặp gỡ nhau đây hà tất đă từng quen biết

Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua

Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh

Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc

Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo

Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt

Lau vàng, trúc vơ mọc quanh nhà

Ở nơi đây sáng chiều nghe được những ǵ

Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai

Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng

Tôi thường thường đem rượu ra uống một ḿnh

Có phải không có sơn ca thôn địch đâu

Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe

Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng

Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rơ ràng

Xin ngồi lại đàn một khúc

Tôi sẽ v́ nàng làm bài Tỳ Bà hành

Cảm động v́ lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu

Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc

Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi

Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc

Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất

Tư mă Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh

 

 

Lời tự:

Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận tư mă. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu, văn thuyền trung dạ đàn tỳ bà giả, thính kỳ âm, tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh; vấn kỳ nhân, bản Trường An xướng nữ, thường học tỳ bà ư Mục, Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, uỷ thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc, khúc băi mẫn nhiên. Tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tuỵ, chuyển tỷ ư giang hồ gian. Dư xuất quan nhị niên điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch, thuỷ giác hữu thiên trích ư, nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết Tỳ bà hành.

元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安,感斯人言,是夕,始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之,凡六百一十六言,命曰琵琶行。

(Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức tư mă ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiến đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đă cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đăi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời ḿnh từ lúc c̣n trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đă được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đầy! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 chữ, gọi là Tỳ bà hành.)

Bài thơ này được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương tŕnh SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

 

Bản dịch của Phan Huy Thực

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.

Quạnh hơi thu, lau lách đ́u hiu.

Người xuống ngựa, khách dừng chèo,

Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

Say những luống ngại khi hầu rẽ,

Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.

Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,

Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.

Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?

Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.

Dời thuyền theo hỏi thăm t́nh,

Chong đèn, thêm rượu, c̣n dành tiệc vui.

Mời mọc măi thấy người bỡ ngỡ,

Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.

Vặn đàn vài tiếng dạo qua,

Tuy chưa trọn khúc, t́nh đà thoảng hay.

Nghe năo nuột mấy dây bứt rứt,

Dường than niềm tấm tức bấy lâu.

Chau mày, tay gảy khúc sầu,

Giăi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.

Ngón buông, bắt, khoan khoan d́u dặt,

Trước “Nghê thường”, sau thoắt “Lục yêu”.

Dây to nhường đổ mưa rào,

Nỉ non dây nhỏ như tṛ chuyện riêng.

Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,

Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.

Trong hoa, oanh ríu rít nhau,

Suối tuông róc rách chảy mau xuống ghềnh.

Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,

Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.

Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,

Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.

B́nh bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,

Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.

Cung đàn trọn khúc thanh tao,

Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt ḷng sông.

Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,

Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.

Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,

Cồn Hà Mô trú ở lân la.

Học đàn từ thuở mười ba,

Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.

Gă thiện tài sợ phen dừng khúc,

Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.

Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,

Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.

Vành lược bạc găy tay nhịp gơ,

Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.

Năm năm lần lữa vui cười,

Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.

Buồn em trẩy, lại sầu d́ thác,

Lần hôm mai đổi khác h́nh dung.

Cửa ngoài xe ngựa vắng không,

Thân già mới kết đôi cùng khách thương.

Khách trọng lợi khinh thường ly cách,

Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.

Thuyền không đậu bến mặc ai,

Quanh thuyền trăng dăi, nước trôi lạnh lùng.

Đêm khuya, sực nhớ ṿng tuổi trẻ,

Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.

Nghe đàn ta đă chạnh buồn,

Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.

Cùng một lứa bên trời lận đận,

Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.

Từ xa kinh khuyết bấy lâu,

Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.

Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,

Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.

Sông Bồn gần chốn cát lầm,

Lau vàng, trúc vơ nảy mầm quanh hiên.

Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,

Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.

Hoa xuân nở, nguyệt thu tṛn,

Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.

Há chẳng có ca rừng địch nội,

Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.

Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,

Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.

Hăy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,

Sẽ v́ nàng soạn sửa bài ca.

Tần ngần dường cảm lời ta,

Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.

Nghe năo nuột khác tay đàn trước,

Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.

Lệ ai chan chứa hơn người?

Giang châu Tư Mă đượm mùi áo xanh. 

 

Một số tài liệu (trong đó có Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm) chép người dịch là Phan Huy Vịnh (tức con của Phan Huy Thực) là không chính xác. Chi tiết xin xem thêm các bài viết ở dưới.

Thi nhân kư gởi vào bài thơ nỗi ḷng của kẻ luân lạc, không nói đến chữ oán, mà nặng về chữ nghiệp, khóc thương cho hoàn cảnh, mà không trách móc đến ǵ, đến ai. Người đọc thấy ḿnh cũng như kẻ trên tiệc, nước mắt đầm đ́a, thương cho thân phận con người, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh như một chiếc thuyền lao đao ngoài biển cho cuộc đời, khi vinh hoa th́ vậy, khi luân lạc th́ vậy, nếu dứt hết mọi trần duyên, th́ không biết kiếp con người sinh ra để làm ǵ? Để tu chăng? Đối với một kiếp người nghệ sĩ, có lẽ để tận hưởng cái ngọt ngào đắng cay,... th́ phải hơn. Nhất là một người nghệ sĩ, dạt dào t́nh cảm, tinh tế, nhạy cảm như Bạch Cư Dị, thương xót cho đời mà cũng thiết tha v́ đời... Bài thơ có nhiều chỗ diễn tả âm nhạc rất hay, có chỗ nói đến lúc tiếng đàn ngừng mà nghe “biệt hữu sầu ám hận sinh”, Bạch Cư Dị là người thưởng thức âm nhạc thật cao diệu.

Tiếng đàn trên sông (Tỳ bà hành)

Gửi bởi Vanachi ngày 24/03/2006 02:21 

Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người Thiểm Tây, có bản chất thông minh từ nhỏ, năm 6 tuổi đă bắt đầu học làm thơ. Ông đă lớn lên trong một bối cảnh lịch sử triền miên khói lửa binh đao, nên ông gần gũi và thông cảm với nỗi khốn khổ, nghèo khó và cảnh cơ hàn cay đắng của tầng lớp lao động do vương triều phong kiến gây ra, cũng như ông đă đồng t́nh với niềm ước vọng và phẫn uất của người dân lao động. Những sự cảm thụ đó đă ảnh hưởng rất nhiều đến sự nghiệp thi ca của ông. Bạch Cư Dị đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, được bổ làm quan trong triều đ́nh giữ chức Tả thập di. Ông đă sống trong một thời kỳ đen tối, lúc mà xă hội Trung Quốc đang trên con đường suy thoái, những mâu thuẫn của các phe cánh thống trị trong triều đ́nh khó hàn gắn được. Với bản tính trung thực dám nói thẳng (dù với tinh thần tôn quân), ông đă dám phê phán gay gắt và can đảm đấu tranh cho chính nghĩa, nên ông đă làm mất ḷng vua và các quan đại thần. Nhiều kẻ nịnh thần căm ghét, dèm pha, và hạch tội ông. Ông bị giáng chức làm tư mă Giang Châu (815-818), là một chức vị nhàn rỗi, không có công việc ǵ làm, mang một tâm sự buồn bă chán ngán thế thái nhân t́nh. Trong thời gian nầy ông sống trong một mái nhà tranh bên ngôi chùa, và dành nhiều th́ giờ để tu tiên học đạo. Bài thơ nổi tiếng Tỳ bà hành của ông đă được sáng tác trong giai đoạn nầy, được phổ biến rộng răi trong quần chúng b́nh dân và được xă hội đón tiếp thưởng thức quí trọng. Đó là bài thơ mang khía cạnh nhân sinh, xă hội, hiện thực đă được truyền tụng trong nhân gian, gắn liền với tên tuổi của nhà thơ. Trên bước đường phiêu bạt, ông đă thấy nhiều khách thập phương yêu thơ ông đă ghi chép lại những bài thơ trên bờ tường của trường làng, chùa chiền, quán trọ, quán rượu, cũng như dán trên mui thuyền và những hội quán thi phú, tập văn của các nho sinh. Ông rất vui sướng, lạc quan tin rằng thơ ông gần gũi với dân chúng và được nhiều người quí trọng và ưa thích. Bạch Cư Dị đại diện cho ḍng thơ hiện thực phê phán v́ khi ông đă phải sống qua một giai đoạn lịch sử đen tối của chế độ quan liêu phong kiến đồi truỵ, Bạch Cư Dị đă dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để mạnh dạn đấu tranh và tố cáo những hành vi áp bức, những bất công trong xă hội, cũng như sự bóc lột của bọn quan lại quư tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi ḷng uất nghẹn và nỗi trầm luân thống khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba ch́m bảy nổi..

Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thi ca, ông muốn thi ca phải gắn bó với đời sống, phản ảnh hiện thực xă hội, tràn đầy tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Bạch Cư Dị đă nói “Làm văn phải v́ thời thế mà làm, làm thơ phải v́ thực tại mà viết” (Văn chương hợp vi thời nhi trước, thi ca hợp vi sự nhi tác). Thơ Bạch Cư Dị phù hợp chủ nghĩa hiện thực theo con đường “phục cổ để cách tân”, muốn nói lên những thảm cảnh đen tối, xấu xa ngăn cản bước tiến của xă hội và đất nước. Bài Trường hận ca của ông diễn tả mối t́nh đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi, nhưng cũng có những ư tưởng sâu sắc thầm kín mỉa mai.

Bài Tỳ bà hành của ông có t́nh tiết mạch lạc, khúc chiết và sinh động, theo lối “thuật hoài” (miêu tả), cảm ngộ, để gửi gắm tâm sự, nỗi buồn riêng tư thầm kín của tác giả như một người mang số phận hẩm hiu, để mà thông cảm xót thương như người ca nữ trong câu truyện, gặp nhiều cảnh éo le, không may mắn trên đường đời. Bài thơ ngân vang một cảm xúc ngậm ngùi, một nỗi buồn thắm thía… Ông đă nói “sự việc dẫn dắt ở ngoài, t́nh lư rung động bên trong, theo cảm xúc mà diễn đạt ra lời ngâm vịnh”. Đó là những lời bộc bạch chân t́nh, nói lên cái tâm huyết của một người trí thức muốn bày tỏ tấm ḷng ưu thời mẫn thế, cũng như nỗi bi phẫn của tác giả bị chèn ép, bạc đăi trong một xă hội phong kiến đầy dẫy bất công. Bài thơ giàu chất trí tuệ, sâu sắc cảm động đă gióng lên tiếng chuông cảnh cáo một chế độ phong kiến đă chà đạp lên nhân phẩm, t́nh cảm, hạnh phúc, và quyền sống của người phụ nữ. Nhà thơ đă t́m thấy một tâm hồn đồng điệu, một tương thức tri âm qua người kỹ nữ gặp trên sông Tầm Dương. Bài thơ có những giao động của nhịp điệu, cái trữ t́nh của ngữ điệu, và cái xao xuyến của nhạc điệu, tạo nên một phong cách đặc biệt, thể hiện cái phong cốt và thần thái của người nghệ sĩ tài hoa, cũng như quan niệm và thái độ của tác giả về đời sống. Bạch Cư Dị trong một lá thư gửi người bạn đă nói lên những suy nghĩ sâu sắc về thi ca: “Cái cảm hoá được ḷng người chẳng ǵ trọng yếu bằng t́nh cảm, chẳng ǵ đi trước được ngôn ngữ, chẳng ǵ gần gũi bằng âm thanh, chẳng ǵ sâu sắc bằng ư nghĩa. Với thơ gốc là t́nh cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ư nghĩa” (Nguyễn Khắc Phi dịch). Bài thơ Tỳ bà hành đă tạo nên một phong cách mỹ thuật, tư duy thâm thuư bằng cách kết hợp đầy đủ các yếu tố: t́nh cảm, ngôn ngữ, âm thanh và ư nghĩa.

Năm Nguyên Hoà thứ 10 (815) Bạch Cư Dị bị giáng chức và đổi đi làm Tư mă Giang Châu, và ông cũng đă trút niềm tâm sự u uẩn nầy qua bài thơ:

 

Chu trung dạ vũ

Giang vân ám du du

Giang phong lănh tu tu

Dạ vũ trích thuyền bối

Dạ lăng đả thuyền đầu

Thuyền trung hữu bệnh khách

Tả giáng hướng Giang Châu

 

Trong thuyền đêm mưa (Hải Đà dịch)

Mây đen nghịt, nước sông trôi

Gió sông lạnh ngắt bồi hồi khách thơ

Mui thuyền thánh thót hạt mưa

Bập bềnh sóng vỗ đong đưa mái thuyền

Trong khoang khách bệnh nằm yên

Chẳng may giáng chức về miền Giang Châu

Bài Tỳ bà hành được viết vào thời gian nầy (lúc Bạch Cư Dị bị giáng chức làm Tư mă Giang Châu), bài thơ gồm 616 chữ được sáng tác ngay trên thuyền. Giang Châu có núi Khuông Lư, bến Tầm Dương đều là nơi danh lam thắng cảnh. Một bữa xuống thuyền thong dong dạo chơi, trong một đêm trăng thu vằng vặc, sóng nước bập bềnh, ông nghe một tiếng đàn thánh thót văng vẳng, lúc biến hoá lâm ly, lúc dạt dào xúc động xao xuyến, lúc ngưng bặt luyến tiếc từ một chiếc thuyền lơ lửng trôi gần đó. Ông ghé thuyền, và gặp người kỹ nữ đang gảy đàn tỳ bà. Bạch Cư Dị đă cảm thấy ḿnh đồng cảnh ngộ với người kỹ nữ lưu lạc trên bến sông đêm thanh vắng. Cô đào đă gảy cho Bạch Cư Dị nghe những khúc đàn tuyệt hảo, trầm bổng xao động người nghe.Sau đó người kỹ nữ sụt sùi thương tiếc số phận hồng nhan đa truân và đă bộc bạch thổ lộ tâm t́nh riêng tư của ḿnh cho ông nghe. Cảnh và t́nh hoà hợp. Âm đàn và tâm trạng chan hoà cảm xúc, cảnh ngộ. Mỗi tiếng đàn ngân lên như nỗi niềm nuối tiếc xốn xang của người ca nữ hoà ḿnh với nhịp đập bồi hồi thổn thức của con tim người thơ. Chợt có mối đồng cảm, đồng t́nh giữa người thơ long đong trên bước đường sự nghiệp công danh với cuộc đời trôi dạt, bị bỏ rơi quên lăng của người ca nữ đáng thương. Giữa nguồn cảm xúc lai láng tuôn tràn, Bạch Cư Dị đă tài hoa sáng tác một mạch bài Tỳ bà hành đầy những h́nh ảnh tâm trạng thực và sinh động, và ông ngâm bài thơ luôn cho cô nghe. Xúc động trước chân t́nh tha thiết của nhà thơ, người nghệ sĩ lại đưa những ngón tay mềm mại lên phím đàn để tạ ơn người viễn khách trên sông. Trăng vẫn sáng trên sao, sóng nước vẫn bập bềnh, sương khói lăng đăng che phủ khoan thuyền. Trời không lất phất những hạt mưa.. nhưng sao mưa vẫn rơi thánh thót gieo vang những âm điệu buồn vời vợi trong ḷng ai?

Lệ ai chan chứa hơn người?

Giang Châu tư mă đượm mùi áo xanh

Bản dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Vịnh được nhiều người công nhận là bản dịch xuất sắc nhất. Bài thơ nguyên tác chữ Hán gồm 88 câu 7 chữ hay 616 chữ. Phan Huy Vịnh dịch Nôm theo thể song thất lục bát (7-7-6-8), thành 22 đoạn, giữ nguyên số lượng (616) chữ. Theo tác giả Trần Thị Băng Thanh (Từ điển văn học, NXB Khoa học xă hội): “cho đến nay, những người yêu thích văn chương biết đến Phan Huy Vịnh là nhờ bản dịch của bài Tỳ bà hành - nguyên tác là của Bạch Cư Dị. Tỳ bà hành miêu tả tâm trạng quan Tư mă Giang Châu họ Bạch trong đêm nghe người ca nữ đă luống tuổi ở bến Tầm Dương, đánh đàn tỳ bà và kể chuyện cuộc đời ch́m nổi của ḿnh. Bản dịch gồm 22 khổ thơ song thất lục bát. Đóng góp lớn nhất của Phan Huy Vịnh là sử dụng tiếng Việt. Cũng là những từ ngữ thông thường, những thủ pháp tu từ quen thuộc, nhưng sự chọn lọc tinh tế và sắp đặt sáng tạo, đă làm cho tác phẩm có sức truyền cảm đặc biệt và đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật dịch. Từ lâu bản dịch Tỳ bà hành đă được phổ cập rộng răi và coi là một tác phẩm văn học xuất sắc, có đời sống độc lập với nguyên tác. Nó đă chứng minh khả năng diễn đạt và nhạc tính phong phú của ngôn ngữ Việt Nam” (TTB)

Cũng theo tác giả Ngô Văn Phú: “Riêng bản dịch Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, sau này là một bài rất thịnh hành để hát ca trù, được các nhà nho, các quan viên hát ả đào (kể cả thời Tây học) rất yêu thích. Năm 1986, trong một cuộc tuyển chọn những điệu hát đặc sắc của các quốc gia của UNESCO thuộc Liên hợp quốc, bài Tỳ bà hành (bản dịch), được nghệ sĩ Quách thị Hồ thể hiện bằng thể hát nói, đă được tặng giải thưởng cao. Đó cũng là sự phát triễn, kết hợp tài t́nh giữa bản dịch thơ (lời) và âm nhạc”.

Tỳ bà hành là một bài thơ cổ kính, súc tích, lồng vào một câu chuyện thi vị, tạo ra một âm hưởng nhạc thơ nhẹ nhàng, tha thiết làm xao động ḷng người. Cái thân phận bèo bọt của người thiếu phụ đă dùng tiếng đàn để bộc lộ nỗi than oán và uất hận của ḿnh. Bạch Cư Dị là nhà thơ đă mạnh dạn đề cập đến giá trị của người phụ nữ, cái bất công của xă hội phong kiến đối với vai tṛ của người phụ nữ. Những âm thanh của tiếng đàn được diễn tả rất tài hoa, những uẩn khúc thầm kín riêng tư của nỗi ḷng, những ưu tư dằn vặt thăm thẳm đáy ḷng như đă tuôn trào ra để hoà nhịp cùng với những âm thanh của tiếng mưa rào rạt, tiếng oanh ríu rít, tiếng nước tuôn róc rách, tiếng dao xô xát, tiếng lụa xé kêu vang.. lúc trầm lúc bổng, những giây phút ngừng lại im bật, th́ lại bỗng rung lên những tiếng tơ lạnh ngắt run rẫy, lối diễn tả thật tuyệt vời. Những đợt sóng cảm xúc cứ dạt dào tuôn trào ra, tạo nên những chấn động dư ba, làm nao ḷng, ủ rũ người nghe. Những tiếng rung luyến láy chuyển nhịp theo từng ngón tay mềm mại nơn nà của người thiếu nữ, như muốn níu kéo lại âm vang của một thời niên thiếu ngây thơ, như muốn thở ra những tiếng năo nuột của một tâm trạng chán chường, như buồn thương nuối tiếc một dĩ văng vàng son đă mất hút tự hôm nào. Bỗng tiếng đàn tắt lịm, hụt hẫng như tiếng khóc khô không lệ, buồn tủi tiếc thương cho một thiên đàn ước vọng đă xụp đổ tan tành. Người thơ đă dùng những ước lệ, ẩn dụ, những cái đẹp trữ t́nh lăng mạn của thi ảnh qua những ngôn từ chắt lọc tinh tế tạo thành những h́nh tượng tinh tuư khơi động cảm xúc ḷng người, làm trái tim rung động bần thần, làm tâm hồn xao xuyến, man mác bâng khuâng. Đó là thanh âm rung vang của tiếng đàn tỳ bà.

Em bước xuống từ trong tranh

Cây tỳ bà nức nở

Ngón đàn em trăn trở

Vần thơ em buông lửng lơ

Bỏ lại vầng trăng quạnh hiu

Bỏ lại sau lưng khoảng không nham nhở

Em bước xuống vẫn ôm cây tỳ bà nức nở

Lang thang cuối đất cùng trời

Tiếng tỳ bà gơ cửa

Tiếng tỳ bà đ̣i nợ cho nàng Kiều

Kiếp đoạn trường muôn thuở

Đàn trăn trở thơ buông lửng lơ

(Hồn tỳ bà, nhạc sĩ Ngọc Khuê)Câu chuyện trong bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị đă thầm nói lên một triết lư nhân sinh, cái chua xót ngậm ngùi của cảnh đời dâu bể, ba ch́m bảy nổi, cảnh đoạn trường hưng phế của tạo hoá, mà con người chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi, bất lực trước cuộc đời hư ảo như bóng câu bên cửa sổ, như thoáng mây bay cuối trời. Chung cái tâm sự hận sầu ray rức được diễn đạt qua cung điệu đàn, lời ca, tiếng hát đó là bài Long Thành cầm giả ca của Nguyễn Du. Nguyễn Du trong một bài ca về người găy đàn đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), có kể rằng vào tuổi thiếu niên, ông đến kinh đô để thăm người anh, và có dịp được dự một hội nữ nhạc, trong đó có một thiếu nữ đất Long Thành, gảy đàn Nguyễn (tức là đàn Nguyệt, do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế), rất điêu luyện, đă gảy những khúc đàn hay nhất trời đất (tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh) tài danh lừng lẫy, lại hát hay và ăn nói duyên dáng quyến rũ vô cùng. Sau đó Nguyễn Du trở vào Nam, măi một thời gian sau ông phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tạt ngang Long Thành, bạn bè mở tiệc, khoản đăi ông và có gọi đoàn nữ nhạc đến giúp vui, mà ông không quen mặt biết tên, và bất chợt gặp lại người kỹ nữ đó. Sau đây trích một đoạn trong lời tiểu dẫn của Nguyễn Du (Quách Tấn dịch): “Tiệc khởi múa hát. Kế tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Ḷng tôi kinh dị. Nh́n người gảy đàn, th́ thấy thân gầy, thần khô, mặt đen, sắc trong như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm ĺ ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, h́nh trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn th́ dường như có quen, nên động ḷng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm th́ ra là người trước kia đă gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế nầy! Cuối ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, ḷng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật không sao lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gởi hứng: Người đẹp đất Long Thành – Long Thành giai nhân” (Nguyễn Du)

Xin trích dịch một đoạn cuối của bài ca lúc Nguyễn Du gặp lại người ca kỹ này trong bữa tiệc do bạn bè đăi ông ở dinh Tuyên Phủ):

Trong yến tiệc các nàng đều son trẻ

Duy một người ca kỹ tóc hoa râm

Sắc thần khô gầy guộc đứng âm thầm

Chẳng điểm phấn tô son nh́n hốc hác

Ai biết nàng một thời danh tiếng nhất

Khúc đàn ngân, ta mắt lệ tuôn tràn

Lắng tai nghe mà đau đớn vô vàn

Hai mươi năm vẫn hoài thương nhớ tiếc

Hồ Gươm xưa tưng bừng đêm yến tiệc

Đời phế hưng thành quách đă thay dời

Băi nương dâu hoá biển sóng trùng khơi

Cả cơ nghiệp Tây Sơn đều suy thoái

Làng ca múa một người c̣n sót lại

Đời trăm năm một nháy mắt trôi qua

Nhớ chuyện xưa mà áo thấm lệ nhoà

Từ Nam về đầu ta đầy tóc bạc

Trách chi nàng đă tàn phai nhan sắc

Kể chuyện xưa hai mắt xót thương sầu

Giáp mặt nhau mà chẳng nhận ra nhau.

(Trích Long Thành cầm giải ca của Nguyễn Du - Hải Đà phỏng dịch)

Đời Đường âm nhạc đă được phát triển rơ rệt, nhờ hấp thu nhiều giai điệu của ngoại quốc nhập vào. Ngoài những dụng cụ nhạc cũ tạo âm thanh bằng cách thổi như tiêu, sáo, kèn, c̣i v.v... hoặc găy như huyền cầm, thập lục, thất huyền.. hoặc bằng cách gơ như chiêng, trống, phách, ngọc thạch, mă năo. Để làm phong phú cho dàn nhạc cũ này th́ có những nhạc cụ khác T́ bà, Hồ già, Giốc lật, Khương địch. Bát âm của âm nhạc thời Đường là dựa trên chất liệu của nhạc khí làm tiêu biểu như: Ti (đàn), Thạch (khánh), Kim (chuông), Trúc (sáo), Mộc (mơ gỗ), Thô (trống đất), Bào (vỏ bầu), Cách (trống da).. Ngũ âm của họ là Cung (như vua), Thương, Giốc, Chuỷ (như việc), Vũ (như vật)… Trong những loại đàn cổ xưa của Trung Quốc phải kể đến đàn sắt và đàn cầm gồm 50 dây (ngũ thập huyền).

Theo truyền thuyết, theo lệnh vua Phục Hy, Tố Nữ gẩy đàn sắt (gồm 50 dây) tế trời. Nhưng Phục Hy không bằng ḷng và ngăn cấm xử dụng v́ nghe tiếng đàn quá tê tái, năo nuột bi ai thảm thiết. V́ thấy dân chúng vẫn lén lút xử dụng nên Phục Hy đành phải ra lệnh sửa đổi đàn sắt chỉ c̣n lại 25 dây. Đàn tranh của âm nhạc truyền thống Việt Nam, nhiều người cho rằng xuất xứ từ cây đàn sắt của Trung Quốc nhưng chỉ gồm có 16 dây thôi (c̣n gọi là đàn Thập Lục), giống như 16 tiếng chim nhạn, âm nhạc Việt Nam là ngũ cung (mỗi âm giai có tên Cung, Thương, Giốc, Chuỷ, Vũ, so sánh với Ḥ, Xự, Xàng, Xê, Cống. 15 nốt chính tạo từ 3 âm giai (mỗi 5 giai là 5 tiếng đàn Ḥ Xự xàng Xê Cống), cọng thêm một nốt chúa đàn, nên có tất cả là 16 dây.

 

Đàn tỳ bà (pipa) là loại đàn “luưt” (lute), nhạc cụ dây, thân có h́nh trái lê, chơi bằng cách gảy ngón tay, và gồm có 4 dây (four-stringed lute), được gảy bằng 2 ngón tay. Đời nhà Hán (206-220), đàn tỳ bà có 4 dây và 12 phím đàn. Tuyên Phủ (đời Tấn) đă viết “Đàn tỳ bà xuất hiện, được dùng nhiều vào cuối đời Tần (222-207), khi dân chúng bị triều đại phong kiến bắt đi lao động khổ sai để xây dựng Vạn Lư Trường Thành và họ đă gảy đàn tỳ bà để dùng tiếng đàn thê lương ảo năo nói lên sự than oán uất nghẹn trong ḷng mà họ không được quyền nói ra bằng lời”.

 

Cái kỹ thuật của đàn tỳ bà được diễn tả đ̣i hỏi khéo léo bằng những ngón tay và tŕnh độ điêu luyện của người nghệ sĩ. Những âm thanh rung lên kéo dài tạo tiếng vang rền, hoà lẫn với các đoạn nhạc bật (pizzicato), tiếng vỗ nhịp bằng tay, thêm vào phần hoà âm rung động, với những tiếng động hoặc âm thanh chát chúa của vũ khí thêm vào âm điệu của bài thơ diễn tả những cảnh chiến trường như những trận đánh nổi tiếng trong thế kỷ thứ hai BC giữa Sở (Hạng Vơ) và Hán (Lưu Bang) như bài Thập diện mai phục.

 

Tiếng đàn tỳ bà đó cũng thấy trong những bài thơ tả cảnh biên tái, chiến trường thê lương, diễn tả những cảm xúc hùng tráng hiên ngang của người chiến binh lên đường, cũng như những tư duy ngậm ngùi thầm kín chấp nhận cho số phận an bài trước cảnh chia ly năo nùng:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi

Tuư ngoạ sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi

(Lương Châu từ - Vương Hàn)

 

Rượu ngon thơm ngát chén ngà

Ly chưa cạn, tiếng tỳ bà giục đi

Sa trường say, mỉa làm chi

Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về

(Hải Đà phỏng dịch)

Hăn hải lan can bách trượng băng

Sầu vân thảm đạm vạn lư ngưng

Trung quân trí tửu ấm quy khách

Hồ cầm t́ bà dữ Khương địch

(Trích Bạch tuyết – Sầm Tham)

 

Biển cát làn băng trắng vạn phương

Mây sầu muôn hướng phủ thê lương

Trại quân bày rượu nâng ly tiễn

Tiếng nhạc Hồ, T́ quyện sáo Khương

(Hải Đà phỏng dịch)

Tỳ bà cũng là một nhạc cụ được dùng trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, thuộc loại “họ dây” (chordophone). Những loại đàn cùng họ này như: đàn nguyệt, đàn tranh, đàn nhị, đàn bầu, đàn đáy, đàn hồ v.v..

http://www.vnstyle.vdc.co...nhaccu/day_Dan_TyBa.html:

Tỳ bà tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đă cho biết, tỳ bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi BiWa. Người ta chế tác tỳ bà bằng gỗ ngô đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như h́nh quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là h́nh chữ thọ, khi là h́nh con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.

Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong ṿm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon. Đàn có 4 dây lên theo 2 quăng 4, mỗi quăng 4 cách nhau một quăng 2: Đồ - Fa - Sol - Đô1 hoặc Sol - Đô1 - Rê1 - Sol1. Khi chơi đàn nghệ nhân gẩy đàn bằng miếng đồi mồi hoặc miếng nhựa. Ở Việt Nam đàn tỳ bà có mặt trong các dàn nhạc: Nhă nhạc, Thi nhạc của cung đ́nh, Thiền nhạc của phật giáo, ban Nhạc tài tử, Phường bát âm, Dàn nhạc dân tộc tổng hợp. Mặc dù đàn tỳ bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đă được bản địa hoá và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.

Hải Đà

Lộ ṭng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆ 23.00Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lam Nguyên

Ngôn ngữ: Chưa xác định

Gửi bởi Vanachi ngày 02/06/2006 06:05

Có 1 người thích

Lá thu động bông lau xào xạc

Đêm tiễn người hiu hắt Tầm Dương.

Thuyền neo bến, ngựa dừng cương

Rượu mời muốn uống sáo đàn vắng tanh.

Cùng nâng chén rồi đành ly biệt,

Sông nước in bóng nguyệt u sầu.

Tỳ bà chợt vẳng đêm thâu,

Chủ quên trở gót, khách đâu muốn về.

Theo tiếng nhạc hỏi ḱa ai đó?

Đàn vụt im muốn tỏ c̣n e.

Cập thuyền đến hỏi mọi bề,

Đèn khêu rượu chuốc đề huề tiệc vui.

Cạn lời mời gót hài lưỡng lự,

Đàn nâng cao che nửa mặt hoa.

So dây vặn trục thử qua,

Chưa thành khúc điệu thiết tha tâm t́nh.

Lựa cung bậc âm thanh diễn tả,

Nỗi bất b́nh lă chă nhặt thưa.

Lặng thinh cúi mặt đón đưa,

Đắn đo nắn nót đường tơ gợi sầu.

Tiếng d́u dặt cung cao cung thấp,

Dứt Nghê Thường tiếp gấp Lục Yêu.

Đại huyền tựa tiếng mưa rào,

Tiểu huyền như tiếng th́ thào mông lung.

Khi thánh thót rơi trong dạ yến,

Lúc dập dồn dường quyện không gian.

Giữa hoa oanh hót rộn ràng,

Bên ghềnh suối vắng nước mang mang buồn!

Tiếng đàn vọng suối nguồn lạnh ngắt,

Nước ngừng trôi u uất lời than.

Lắng nghe ḷng những bàng hoàng,

Phút giây yên lặng lại càng tuyệt hay.

Tựa nguồn đổ b́nh bay lọ vỡ,

Tựa gươm va pháo nổ chiến trường.

Thôi dài dứt cuối một chương,

Bốn dây âm hưởng tựa đương xé là.

Đông Tây ngạn thuyền đà yên lặng.

Giữa ḍng sông nguyệt rạng trời thu.

Trầm ngâm ngón tựa đường tơ,

Dung y chỉnh đốn bước ra ngỏ lời.

Rằng thơ ấu sống nơi thành thị,

Lăng Hà Mô vốn dĩ quê nhà,

Rành đàn từ thuở mười ba,

Giáo phường đệ nhất tiếng đà dội vang.

Thiện Tài phục tay đàn độ ấy,

Thu Nương ghen lúc thấy điểm trang.

Tranh đua lớp trẻ Ngũ Lăng,

Khăn điều tặng thưởng khi ngưng mỗi bài.

Lược theo nhịp chiếc rơi chiếc găy,

Vết rượu hoen đầy dẫy quần là.

Cuộc vui suốt những năm qua,

Xuân thu trăng gió la cà ăn chơi.

D́ quá văng em nơi biên thú,

Sắc phai theo tháng cũ năm tàn.

Ngựa xe vắng vẻ trước sân,

Về già chọn một thương nhân bạn đường.

Người ham lợi tháng trường đi biệt,

Buôn bán trà ở miệt Phù Lương.

Thuyền nan sóng nước bẽ bàng,

Ḍng sông lạnh lẽo trăng vàng ngẩn ngơ!

Đêm qua mộng chuyện xưa ngày cũ,

Lệ đầm đ́a mặt ủ mày chau.

Tiếng tỳ giục khách nao nao,

Giờ nghe nàng kể dạt dào thương tâm.

Cùng cảnh ngộ, cảm thân lưu lạc,

Lọ phải là quen trước hay sao?

Đế kinh từ biệt năm nào,

Tầm Dương đất trích yếu đau tháng ngày.

Ca hát vắng cơi ngoài hoang dă,

Tiếng trúc tơ im đă một năm.

Bồn Tŕ bến thấp kề gần,

Lau già trúc cỗi mấy tầng bao quanh.

Sớm chiều những âm thanh ǵ nhỉ?

Chỉ chuốc sầu vượn nỉ non than.

Xuân thu hoa nguyệt quen dần,

Một ḿnh say tít đâu cần thế nhân.

Chẳng nghe cả trùng than, sáo trổi,

Tiếng chim ca gió thổi ngàn cây.

Tỳ bà chợt vẳng đêm nay,

Nghe như tiên nhạc khoan thai rơ ràng.

Xin tiếp nối cung đàn dang dở,

Tỳ bà hành tác tự v́ ai?

Một hồi đứng lặng câm lời,

Lại ngồi nắn nót chơi vơi tiếng đàn.

Giờ khác trước, cung than dây oán,

Khiến người nghe tâm trạng ngẩn ngơ.

Khóc nhiều hơn cả bấy giờ,

Giang Châu Tư Mă đậm tà áo xanh!

 

Lộ ṭng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆ 24.50Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:15

 

Đêm đưa khách bến Tầm Dương,

Gió thu sàn sạt lá vàng bông lau.

Người xuống ngựa, khách đón chào,

Rượu kèo mời uống, có đâu sáo đàn.

Chén suông ngán nỗi hợp tan,

Trăng sông man mác, chứa chan nỗi ḷng.

Tiếng t́ chợt vẳng trên sông,

Chủ quên trở lại, khách không vội về.

Lần t́m sẽ hỏi ai kia,

Tiếng đàn nín bặt, người e ngỏ lời.

Ghé thuyền đến cạnh chào mời,

Khêu đèn thêm rượu, lại bày tiệc hoa.

Nằn ń mời măi mới ra,

Ôm đàn che nửa, mặt hoa thẫn thờ.

Ướm dây vặn trục dạo qua,

Chưa thành khúc điệu, thiết tha hữu t́nh.

Đắn đo, nắn nót, rơ rành

Dường như tố cáo b́nh sinh nỗi buồn.

Dang tay cúi mặt gảy luôn,

Xiết bao tâm sự như tuôn mạch sầu.

Tiếng đàn đi tựa thấp cao,

Nghê Thường vừa dứt, lại vào Lục yêu.

Dây to sầm sập mưa dào,

Nỉ non dây nhỏ, th́ thào nỗi tây.

Nhặt thưa réo rắt mấy dây,

Hạt châu to nhỏ rơi đầy trên mâm.

Trong hoa ríu rít oanh ngâm,

Cuối ghềnh nước suối réo ngầm băi khơi.

Tiếng đàn, suối lạnh không trôi,

Không trôi ngập ngừng, tạm thôi nhịp nhàng.

Lắng nghe sầu oán ngổn ngang,

Bấy giờ lặng lẽ, lại càng hay hơn.

Nước tuôn b́nh bạc vỡ tan,

Giáo gươm thiết kỵ tiếng ran rợn người.

Khúc xong gảy một tiếng dài,

Bốn dây một tiếng như ai xé là.

Đông tây thuyền lặng như tờ,

Giữa sông bóng sáng thẫn thờ gương nga.

Trên dây cày móng ngẩn ngơ,

Dung y chỉnh đốn, đứng xa phân tŕnh.

Kể rằng xưa ở kinh thành,

Hà Mô lăng ấy gần quanh là nhà.

Học đàn từ thửa mười ba,

Giáo phường đệ nhất, tiếng đà đồn xa.

Thiện tài phục ngón tỳ bà,

Thu nương tấm tức, khi đà giồi trau.

Ngũ lăng tuổi trẻ đua nhau,

Đàn xong một khúc biết bao khăn điều.

Lược trăm gơ nhịp găy nhiều,

Chén mời, giọt rượu quần điều ố hoen.

Năm qua năm lại bao phen,

Xuân thu trăng gió đă quen vui vầy.

Nỗi buồn d́ chết em đày,

Sớm chiều thấm thoắt, mặt mày kém xuân.

Ngựa xe lẻ tẻ trước sân,

Về già lấy một thương nhân bạn bè.

Trọng tài lợi, nhẹ biệt ly,

Phu lương tháng trước chồng đi buôn chè.

Một ḿnh nấp bóng chiếc ghe,

Quanh thuyền nước lạnh trăng kề vẩn vơ.

Đêm qua mộng thấy chuyện xưa,

Lệ rơi tầm tă, mắt mờ đỏ hoen.

Tiếng t́ đă gợi nỗi phiền,

Lại nghe mụ nói, chẳng yên nỗi ḷng.

Cùng nhau góc bể long đong,

Gặp nhau lọ phải đă cùng quen nhau

Đế kinh từ biệt bấy lâu,

Tầm Dương bị chích lại đau bấy chầy.

Có đâu âm nhạc chốn này,

Suốt năm tơ trúc chẳng ngày nào nghe.

Bến Bồn đất thấp ở kề,

Lau vàng trúc cỗi bao vi bốn bề.

Sớm chiều nghe tiếng vật ǵ,

Cuốc kêu vượn hú, ùa bi đêm ngày.

Xuân thu hoa nguyệt khoả khuây,

Thường thường chuốc chén lại say một ḿnh.

Ca rừng sáo nội đă đành,

Liu lo ríu rít nào ḿnh có hay.

T́ bà giọng ấy đêm nay,

Nghe như tiên nhạc bên tai rach ṛi.

Gảy thêm khúc nữa hăy ngồi,

T́ bà hành sẽ v́ ai đặt thành.

Cảm lời, đứng lúc lặng thinh,

Lại ngồi lựa ngón, lanh lanh gảy bài.

Véo von khác trước một hồi,

Những người ngồi đó lệ rơi ngắn dài.

Khóc nhiều hơn cả là ai,

Giang Châu tư mă đẫm mùi áo xanh.

 

 

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

Lộ ṭng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆ 13.00Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Nhất Lang @www.hoasontrang.us

Ngôn ngữ: Chưa xác định

Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:16

 

Tầm Dương bến đêm khuya tiễn khách

Lá phong bay, hiu hắt bờ lau

Xuống yên, thuyền khách đón chào

Chén hoa mong cạn, t́m đâu sáo đàn.

Say ngán nỗi hợp tan chia cách

Trăng soi ḍng man mác, mênh mông

Tỳ Bà tiếng vẳng trên sông

Chủ vui vẻ lại, khách không nỡ rời.

Lần theo tiếng, hỏi ai đàn đó

Bặt dây tơ, chẳng ngỏ lời qua

Ghé thuyền hỏi chuyện lân la

Đèn khêu, rượu rót tiệc hoa lại bầy.

Mời mấy lượt, đàn tay ôm đến

Khuôn mặt nàng tơ phím nửa che

Lên dây, đàn dạo thoảng nghe

Chưa thành khúc điệu, có bề thiết tha.

Những ngao ngán cùng là buồn bực

Như than niềm uẩn ức từ lâu

Khúc buồn tay gẩy, mày chau

Nỗi ḷng u ẩn trước sau giăi bầy.

Nắn nhẹ gẩy, đường dây buông bắt

Trước Nghê Thường, bỗng thoắt Lục Yêu

Dây to như đổ mưa rào

Véo von dây nhỏ th́ thào niềm tây.

Cung cao thấp, lựa dây nhấn phím

Mâm ngọc đâu như tiếng châu rơi

Dưới hoa oanh ríu rít cười

Ŕ rào suối chẩy về xuôi cuối bờ.

Đàn ngừng, đứt dây tơ suối lạnh

Ngưng cung đàn, im hẳn tiếng ngân

U t́nh, nỗi hận chan chan

Bây giờ lặng ngắt lại càng hay hơn.

Như b́nh bạc vỡ tuôn nước chẩy

Quân kỵ xông, tiếng gẫy thương đao

Phím đàn dứt khúc thanh tao

Tiếng ngân xé lụa phổ vào bốn dây.

Thuyền thấp thoáng đông tây yên lặng

Vầng trăng thu chiếu sáng trên sông

Ngậm ngùi đàn phím xếp xong

Áo xiêm chỉnh đốn những mong tỏ lời.

"Ngày xưa vốn là người kinh khuyết

Nhà bên cồn ở miệt Hà Mô

Tỳ Bà học tuổi c̣n thơ

Giáo phường đệ nhất bấy giờ có tên.

Thiện tài cũng nhiều phen thán phục

Ả Thu Nương ghen tức điểm trang

Ganh đua chàng trẻ Ngũ Lăng

Biết bao gấm lụa, tiếng đàn đuổi đeo.

Thoa vàng, lược gẫy theo nhịp gơ

Quần lụa hồng rượu ố giọt rơi

Bao năm đàn hát, vui cười

Xuân thu trăng gió qua trôi đă nhiều.

Em lính thú, lo điều d́ thác

Tháng ngày qua nhan sắc tàn phai

Trước sân xe, ngựa đâu ai?

Đến khi luống tuổi duyên hài khách thương.

Khách tham lợi, nhẹ đường ly biệt

Đi buôn trà mải miết Phù Lương

Bên sông đậu chiếc thuyền suông

Dưới bầu trăng dăi, nước tuôn lạnh lùng.

Canh khuya chợt nhớ nhung thời trẻ

Phai phấn son, ḍng lệ mơ tràn"

Đă buồn v́ nỗi nghe đàn

Lại rầu thêm nỗi thở than đôi lời.

"Cũng là kẻ chân trời tang hải

Gặp gỡ nhau lọ phải từng quen

Đế kinh từ giă mấy niên

Giáng ra, nằm bệnh ở miền Tầm Dương.

Chốn hẻo lánh chẳng thường tiếng nhạc

Suốt năm không nghe được trúc tơ

Sông Bồn gần băi cát nhơ

Trúc gầy, lau úa phất phơ quanh nhà.

Sáng lại tối tiếng đà như hú

Vượn khóc than, cuốc rũ kêu sầu

Xuân hoa nở, đêm trăng thâu

Riêng ḿnh nâng chén, ai đâu bạn cùng.

Há chẳng có sáo đồng, ca núi

Tiếng khó nghe, giọng nói líu lo

Tỳ Bà nàng lướt trên tơ

Nghe như tiên nhạc, thẫn thờ ḷng ai!

Gượm ngồi lại, đàn vài ba khúc

Ta v́ nàng sáng tác bài ca"

Ngập ngừng, nàng cảm lời ta

Lựa dây, nắn phím tay ngà gẩy mau.

Sao ai oán, giống đâu khúc trước?

Khách tiệc hoa lệ rớt từng hàng

Ai người nước mắt chứa chan?

Giang Châu Tư Mă lệ tràn áo xanh.

 

Lộ ṭng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu

Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:16

 

Tầm Dương tiễn khách lúc canh tàn

Xào xạc lau thu động lá vàng.

Khách xuống thuyền rồi người xuống ngựa

Chén đưa không sáo cũng không đàn.

Từ biệt cùng say, chẳng cuộc vui

Trăng dầm sông nước lững lờ trôi

Chợt nghe văng vẳng tỳ bà vọng

Chủ khách bâng khuâng chẳng muốn rời.

Đến nơi sẽ hỏi: "ai đàn tá?"

Ngừng bặt muốn thưa, ngại chẳng ra.

Thuyền đến gần bên xin gặp mặt

Giong đèn thêm rượu tiệc vui mà.

Hết lời mời mọc thuận t́nh ra

Ôm chiếc tỳ bà khuất mặt hoa

Vặn trục dạo dây đôi ba tiếng

Dẫu chưa thành điệu, ư t́nh xa.

Dây ngân ấm ức bấy nhiêu t́nh

Dường kể cho vơi nỗi bất b́nh

Khẻ nhíu đôi mày tay găy nhẹ

Nỗi niềm tâm sự cả đời ḿnh.

Nắn nhẹ bắt khoan rồi lại dạo

Lục Yêu nối tiếp khúc Nghê thường

Dây to rào rạt mưa sầm sập

Dây nhỏ tỉ tê nỗi khổ riêng.

Rào rạt tỉ tê xen lẫn nhịp

Như bao châu ngọc đỗ mâm vàng

Dưới hoa oanh líu lo trơn giọng

Nhịp suối ngập ngừng thác nước tuôn

Dây đàn ngưng bặt suối ngừng reo

Cả một trời thu vắng lặng theo

Thầm kín hiện ra niềm hận tủi

Lặng nghe t́nh tứ hơn đàn nhiều.

Bỗng như b́nh vỡ, nước rơi tung

Đao kiếm gầm gừ, thiết kỵ xung.

Ngưng khóc, mặt đàn tay phất mạnh

Bốn dây xé lụa tiếng tưng bừng.

Thuyền mảng đông tây lặng gió đùa

Trăng thu trắng xóa nước sông đưa

Gài que gẫy giữa dây cầm sắt

Xốc áo dịu dàng đứng dậy thưa:

"Em vốn là người chốn đế đô

"Nhà xa làng tận ở Hà Mô

"Mười ba tuổi học tỳ bà thạo

"Hạng nhất trong bao đám hát tṛ.

"Thiện tài phải phục tiếng đàn em

"Trang điểm Thu nương lại ghét ghen

"Bao lụa đào trao không đếm xuể

"Ngủ Lăng bọn trẻ kháo nhau khen.

"Lược bạc, hoa vàng găy nhịp xong

"Rượu rơi hoen ố đốm quần hồng

"Gió xuân trăng tỏ thờ ơ ngắm

"Năm lại sang năm cuộc lạc hoan.

"Mất d́, em lại phải ṭng quân

"Sớm lại chiều qua kém mỹ quan

"Trước cửa lặng tanh xe ngựa vắng

"Về già gá nghĩa với người buôn.

"Lái buôn tham lợi biệt ly thường

"Tháng trước buôn trà tận phủ Lương

"Từ đấy một ḿnh trên thuyền vắng

"Trăng dọi quanh thuyền, nước lạnh băng.

"Đêm sâu mơ lại tuổi xuân xưa

"Mơ mộng ngổn ngang rớt lệ thừa"...

Nghe tiếng tỳ bà ta cảm động

Lại nghe câu chuyện mắt đầy mưa.

Chân trời lưu lạc khách tha hương

Biết trước hay không, gặp chuyện thường

Năm ngoái giả từ Kinh tráng lệ

Giáng quan nằm ốm ở Tầm Dương.

Tầm Dương hẻo lánh đâu âm nhạc

Năm tháng không nghe tiếng sáo đàn

Nhà lại gần sông Bồn ẩm ướt

Quanh nhà lau trúc gió mênh mang.

Sớm tối ở đây thấy được ǵ ?

Quyên kêu khắc khoải vượn sầu bi

Cảnh sông, hoa sớm, trăng thu tỏ

Ta rót chén về nốc chen đi.

Há phải sáo đồng câu hát núi

Líu lo đến nổi khó nghe thêm

Đêm nay nàng găy tỳ bà khúc

Khoan khoái dường như bản nhạc tiên.

Vui ḷng ngồi lại đàn thêm nữa

Ta sẽ v́ nàng chuyển khúc hành

Cả nể bồi hồi nàng đứng lựa

Rồi ngồi nắn nót nhộn âm thanh.

Rầu rầu khác hẳn tiếng đàn qua

Cả tiệc đều bưng mặt khóc ̣a.

Trong đó khóc nhiều hơn hết thảy:

Tư mă áo xanh đẫm lệ nhoà.

 

Lộ ṭng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn @www.hoasontrang.us

Ngôn ngữ: Chưa xác định

Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007 20:16

 

Tiễn người đêm bến Tầm Dương

Lau, phong xào xạc, thu vương dịu hiền

Chủ xuống ngựa, khách lên thuyền

Không đàn chẳng sáo chén buồn vân vê

Say nào vui lúc phân ly

Trăng ch́m đáy nước, sông chia đôi t́nh

Chợt nghe tiếng nhạc lênh đênh

Khách ngơ, chủ ngẩn chẳng đành bước đi

Rằng sao âm quá năo nề ?

Đàn ngưng ngỡ đáp, nào dè kín môi

Ghé thuyền gạn hỏi đôi lời

Chong đèn, rượu tiếp, tiệc vui đậm đà

Cạn lời nàng mới bước ra

Nửa phần má phấn t́ bà khuất che

Chỉnh đàn tay ngọc vân vê

Dạo qua vài tiếng đă nghe tài t́nh

Đàn rung nghèn nghẹn, bồng bềnh

Xót xa như tả nỗi ḿnh đắng cay

Tay đàn, cúi nhẹ, chau mày

Âm nghe kể lể dăi bày tâm tư

Bắt khoan, nắn nhẹ, dạo, vê

Hết Nghê Thường lại tiếp về Lục Yêu

Dây to rào rạt mưa gào

Dây con ngỡ tiếng lời nào oán than

Tiếng trầm tiếng bổng tràn lan

Tựa trên mâm ngọc rớt ngàn hạt châu

Lời oanh trơn giọng nhuốm sầu

Ngập ngừng tiếng suối, thác sâu nước gầm

Suối đông lạnh, đàn lặng câm

Nét sầu phảng phất, vẻ trầm bi ai

Bâng khuâng ḷng khách ngậm ngùi

Bỗng âm oà vỡ tả tơi ngọc b́nh

Vó câu dồn dập đao binh

Giữa đàn tay ngọc th́nh ĺnh phất lên

Âm như xé lụa giữa đêm

Đông, tây tĩnh lặng... khắp thuyền ngẩn ngơ

Trên sông trăng bạc dật dờ

Nhẹ cài que gẩy vào khe dây đàn

Đứng lên khép nép dịu dàng

Nguồn cơn nàng kể rơ ràng đầu đuôi:

"Chốn thành đô thiếp ra đời

"Chính quê xưa vốn là người Hà-Mô

"Thạo tỳ bà thuở mười ba

"Nhất danh đào hát chẳng là thua ai

"Ngón đàn át cả Thiện tài

"Thu c̣n ghen nét trang đài thắm xinh

"Ngũ Lăng tài tử nặng t́nh

"Lụa đào trao tặng quanh ḿnh biết bao

"Hoa vàng, vành lược cài đầu

"Gẫy theo nhịp gơ, rượu mầu vương y

"Vui triền miên tuổi xuân th́

"Thu trong, xuân mát qua đi chẳng cần

"Bỗng người em phải ṭng quân

"Người d́ vắn số, muôn phần xót xa

"Xuân tàn, sớm lại, chiều qua

"Ngựa xe thưa thớt, cửa nhà vắng tanh

"Về chiều kết nghĩa tơ mành

"Chồng người buôn bán, nhẹ t́nh biệt ly

"Phù Lương tháng trước chàng đi

"Thuyền không lẻ bóng sầu bi năo nùng

"Nh́n trăng lạnh lẽo trên sông

"Tơ vương lại thuở má hồng xa xưa

"Xót thương thân phận đong đưa

"Nhạt nḥa má phấn hoen mờ lệ sa"

Đă buồn theo tiếng tỳ bà

Càng thêm se sắt nghe qua chuyện nàng

Cùng thân lưu lạc trên đường

Chả cần quen biết cũng vương nặng t́nh

"Tṛn năm ta đă rời kinh

"Tủi buồn nằm bệnh nơi thành Tầm Dương

"Chốn này hẻo lánh nhiễu nhương

"Quanh năm đàn nhạc chả thường được nghe

"Cạnh sông Bồn ẩm, trũng kia

"Trúc gầy, lau úm c̣n ǵ nữa đâu

"Sớm khuya nghe măi thêm rầu

"Quyên kêu, vượn hú nỗi sầu khó vơi

"Sông xuân, hoa sớm, trăng ngời

"Một thân quạnh quẽ đầy vơi chén nồng

"Giá đừng hát núi, sáo đồng

"Líu lo th́ hẳn bớt không bực ḿnh

"Đêm nay nghe khúc nhạc t́nh

"Tưởng như từ chốn thiên đ́nh vọng ra

"Xin nàng hăy niệm t́nh ta

"Đàn thêm khúc nữa gọi là tri âm

"Bài Tỳ Bà tạ t́nh thâm"

Cảm lời nàng đứng lặng câm tần ngần

Trầm ngâm tay vuốt dây đàn

Âm nghe ray rứt chứa chan giọt sầu

Khách nghe mắt lệ rầu rầu

Áo xanh Tư Mă Giang Châu ướt dầm.

 

Lộ ṭng kim dạ bạch,

Nguyệt thị cố hương minh.

☆☆☆☆☆Chia sẻ trên FacebookTrả lời

Ảnh đại diện

Lại thêm một tư liệu về người dịch “Tỳ bà hành” của Bạch Cư Dị

Gửi bởi Nguyên Thánh ngày 06/12/2007 09:48

 

Gần đây do một sự t́nh cờ chúng tôi phát hiện được một bài viết có nhan đề Tỳ bà hành bạt chép chung trong cuốn Nam phong giải trào ở Thư viện Quốc gia (R1674). Bài dài khoảng 450 chữ. Sau lời bạt là nguyên văn chữ Hán bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị và lời dịch ra quốc âm. Đáng chú ư là bài viết có ghi cụ thể ḍng lạc khoản “Minh Mệnh thập nhị niên ngô nguyệt trung hoán. (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ H́nh bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt”. Hà Tốn Phủ chính là Hà Tông Quyền bạn đồng liêu với dịch giả bài Tỳ bà hành mà ở đoạn đầu lời bạt ông đă giới thiệu dịch giả là “Cựu Bộ trưởng Xuân Khanh” (Tên hiệu Phan Huy Thực).

Hà Tông Quyền (1789-1893) quê huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, đỗ Hội nguyên năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), lúc nhỏ đi học nổi tiếng thông minh, làm quan đến chức Lại bộ Tham tri, Sung đại thần Viện cơ luật, khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Lại. Ông là một nhà khoa bảng nổi tiếng văn chương, được các sĩ phu đương thời ca ngợi. Ngoài thơ chữ Hán ông c̣n để lại 30 bài vịnh Kiều bằng chữ Nôm hưởng ứng cuộc thi vịnh Kiều do Minh Mệnh đề xướng năm 1830. Ông được Minh Mệnh tin dùng và thường xuyên được vào bái kiến nhà vua.

Trong lời bạt ông ca ngợi và đánh giá cao bài dịch Tỳ bà hành của họ Phan, đồng thời ông cũng nêu lên quan điểm về dịch thuật của ḿnh là không nên quá chú trọng về mặt kỹ xảo mà làm sai lạc nội dung của nguyên tác. Qua lời bạt chúng ta c̣n được biết thêm về thời điểm ra đời của bản dịch (trước năm 1831).

Thực ra từ trước tới nay đă có nhiều người đề cập đến dịch giả bài Tỳ bà hành nổi tiếng của Bạch Cư Dị. Ngay từ năm 1926, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến cũng đă thông báo trên tạp chí Nam Phong dịch giả Tỳ bà hành là Phan Huy Thực. Tiếp đó Hoàng Xuân Hăn, Hoàng Ly, Trương Linh Tử và sau này Phạm Văn Diêu, Tạ Ngọc Diễn, Hoàng Thị Ngọ cũng khẳng định như vậy. Khi viết về ḍng họ Phan Huy ở Sài Sơn, GS. Phan Huy Lê cho biết gia phả họ Phan ở Thạch Châu và Sài Sơn đều chép thống nhất người dịch Tỳ bà hành là Phan Huy Thực. Chúng tôi cũng đă được đọc cuốn Phan tộc công phả hiện đang lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (A2963) do Phan Huy Dũng - cháu nội Phan Huy Thực biên tập, trong đó có ghi tóm tắt tiểu sử 6 người con của Phan Huy ích. Trong đoạn nói về Phan Huy Thực, gia phả có ghi rơ các trước tác của ông như: Hoa thiều tạp vịnh, Tỳ bà hành diễn âm khúc, Nhân ảnh vấn đáp... Riêng đối với Phan Huy Vịnh th́ gia phả không hề nói đến việc ông dịch Tỳ bà hành.

Như vậy gia phả họ Phan Huy là nguồn tư liệu duy nhất đáng tin cậy để xác định người dịch Tỳ bà hành và đồng thời cũng để đính chính những ngộ nhận lâu nay được gán ghép cho Phan Huy Vịnh. Sở dĩ có sự nhầm lẫn kéo dài có lẽ là do nguồn tư liệu của Trần Trung Viên trong cuốn Văn đàn bảo giám (soạn năm 1926) và nhất là cuốn Thi văn hợp tuyển dùng trong các trường trung học trước năm 1945 đă có ảnh hưởng sâu rộng trong giới học sinh lúc bấy giờ. Hai cuốn sách này gần đây đă được in lại vài ba lần nhưng vẫn không được đính chính, ngay cả bộ Từ điển văn học 2 tập in năm 1983-1984 cũng ghi Phan Huy Vịnh là người dịch Tỳ bà hành và Phan Huy Thực không có tên trong bộ Từ điển này (Cuốn Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 đă có đính chính và bổ sung). V́ đă thành thói quen nên những cuốn sách mới gần đây như Thơ Đường trong nhà trường dùng cho học sinh Trung học, sinh viên và người yêu thích thơ Đường hoặc cuốn Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành của Hồ Sỹ Hiệp tập hợp những bài viết của nhiều nhà nghiên cứu và cuốn Thơ Bạch Cư Dị của NXB Hội Nhà văn vừa mới in xong trong quí IV-2006, vẫn để tên người dịch là Phan Huy Vịnh.

Để góp thêm một minh chứng cho vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn lời bạt của Hà Tông Quyền cho bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực.

*

Lời bạt cho bài dịch Tỳ bà hành

Tỳ bà hành là tác phẩm của Bạch Lạc Thiên, các sĩ phu nước ta rất hâm mộ và đă diễn ra quốc âm, nhưng v́ lời văn dài mà ngôn ngữ lại có phần mới nên đôi khi vẫn gặp những chỗ khó dịch và người dịch thường giữ lấy ư chính mà lại bỏ qua nhiều chi tiết trong nguyên bản. Khi dịch một bài văn nếu chỉ chú ư về mặt kỹ xảo (cầu công) mà không bám sát nội dung của nguyên tác th́ có khác ǵ “găi không đúng chỗ ngứa” và thử hỏi như vậy đă phải là người hiểu được thi sĩ họ Bạch chưa?

Khi tôi tiếp xúc với bài diễn âm của cựu Bộ trưởng Xuân Khanh họ Phan, tiên sinh bảo: Đó là bài tôi dịch ra đấy. Khi xem tôi thấy lời dịch bám sát nội dung, từng chữ từng câu răm rắp không sai mà âm vận th́ lại vừa khoan thai vừa hùng tráng. Tôi đă ngâm nga, đọc đi đọc lại nhiều lần và rất lấy làm tâm đắc tưởng như đang được tiếp xúc với thi nhân cự phách đời Đường - người đang bị biếm trích ở đất Giang Châu trước cảnh thê lương của hơi thu và lau lách đ́u hiu để tạo nên một thiên tuyệt bút, như đang được chứng kiến cảnh:

B́nh bạc vỡ tuôn đầy mặt nước

Ngựa sắt dong sàn sạt tiếng đao (1)

Tiên sinh đă diễn ra quốc âm trong lúc chưa gặp vận c̣n đang phải ẩn náu nơi sơn dă, chẳng khác cảnh sông Bồn và đă mượn chén rượu của người khác để giải nỗi sầu riêng, nếu không phải là người có thiên tư và chịu ảnh hưởng truyền thống học vấn của gia đ́nh th́ làm sao mà có được? Tiên sinh vốn sở trường về văn chương, thanh luật, nên âm vận trong câu dịch hài hoà toát lên cảnh phong lưu tao nhă, xứng đáng cùng với Lạc Thiên là những bậc hào hoa một thủa. Có những chỗ Lạc Thiên chưa diễn đạt hết th́ tiên sinh lại dùng thanh âm mà giăi bày một cách tường tận.

Tôi thô vụng và quê mùa, không biết được nhiều, nhưng bề trên đă bảo, tôi không dám từ nan, bèn mạo muội viết ra lời bạt này và nếu như tác phẩm của tiên sinh nổi tiếng th́ tôi cũng được thơm lây và cũng coi như được dự buổi tiễn đưa trong đêm trăng trên bến Tầm Dương để được cùng chia sẻ nỗi niềm u hoài của kẻ cô thần khoáng phụ, như thế c̣n ǵ sung sướng cho hơn, chắc tiên sinh cũng không cười tôi là kẻ ngông cuồng và Bạch Lạc Thiên cũng sẽ thông cảm cho tôi.

Trung tuần tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 12 (Hà ái) Nhâm Ngọ Hội nguyên Tiến sĩ H́nh bộ Thị lang sung biện Nội các sự vụ Phương Trạch Hà Tốn Phủ cẩn bạt.

Qua lời bạt ta thấy Hà Tông Quyền đánh giá rất cao bài dịch của Phan Huy Thực. Trước Phan Huy Thực cũng đă có người dịch Tỳ bà hành. Trên tạp chí Văn học số 4/1975, Trần Thị Băng Thanh cho biết đă t́m được một bản dịch chép trong cuốn Thạch Động tiên sinh thi tập. Sau Phan Huy Thực, Phan Văn Ái cũng dịch Tỳ bà hành thành hai bài: một bài theo thể thất ngôn trường thiên, một bài theo thể thất ngôn bát cú. Trên tạp chí Nam Phong thỉnh thoảng cũng có sưu tầm được một vài bài dịch không đề tên người dịch. Tuy nhiên những bài xuất hiện trước và sau bản dịch của Phan Huy Thực đều không có mấy tiếng vang và đă nhanh chóng bị quên lăng. Tỳ bà hành được phổ biến rộng răi và xem như một di sản văn học quí giá của Việt Nam chủ yếu là thông qua bản dịch của Phan Huy Thực. Nghệ thuật hát ca trù tồn tại đă lâu đời và từ khi có bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực th́ nó đă lan nhanh và đă trở thành một điệu hát trữ t́nh, giàu chất thơ, nhạc điệu, làm phong phú và bổ sung thêm cho hàng chục làn điệu ca trù khác trong các ca quán thời xưa. Những người mê ca trù trước đây thường thuê thuyền đón ả đào hát Tỳ bà hành trong những đêm trăng huyền ảo để thưởng thức và làm sống lại nguồn cảm xúc của nhà thơ với người ca nữ trên bến nước Tầm Dương.

Tỳ bà hành không những là nguồn cảm hứng cho những nhà Nho tài tử và các bậc tao nhân mặc khách trước đây như Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh… mà cả những thi nhân hiện đại cũng mượn trăng nước Tầm Dương đưa vào tác phẩm của ḿnh. Nhà thơ t́nh Xuân Diệu th́ “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người” hoặc “Mắt run mờ kỹ nữ thấy sông trôi”, Vũ Hoàng Chương cũng than “Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu”, nữ sĩ Ngân Giang th́ “Bến Tầm Dương trăng nước một con thuyền, ngán t́nh ca nữ” và nhà thơ chân quê Nguyễn Bính th́ dành Cây đàn tỳ bà cho một chuyện thơ dài.

Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một kiệt tác đă có những câu thần bút làm say đắm bao thế hệ các nhà thơ. Xuân Diệu cũng đă phải thốt lên: “Ai đă đọc bản dịch Tỳ bà hành quên những đoạn nào th́ quên, thậm chí nếu quên cả bài, th́ bốn câu mở đầu cũng không quên được”.

 

Bốn câu mở đầu đó là:

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

Quạnh hơi thu lau lách đ́u hiu

Người xuống ngựa khách dừng chèo

Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti

Nguyễn Hiến Lê cũng có nhận xét như sau khi ông so sánh mấy câu trên đây với câu thơ của Bạch Cư Dị:

Mới đầu chúng ta thấy có cái ǵ khác nhau, mặc dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản: “Tầm Dương giang đầu dạ tống khách” không buồn, không vắng vẻ, không mông lung bằng “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”. Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ do chữ “dạ” dịch ra là “canh khuya”. “Dạ” (đêm) không gợi ư nhiều bằng “canh khuya”. Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng Việt ở chỗ đó.

Đọc câu thơ thứ hai: “Phong diệp địch hoa thu sắt sắt” và câu dịch “Quạnh hơi thu lau lách đ́u hiu” th́ câu của họ Phan làm tôi rung động hơn nhiều nhờ những chữ “lau lách đ́u hiu”, cả chữ “quạnh”, chữ “hơi” nữa, v́ tôi thấy “lau lách” buồn hơn “địch hoa”; “hơi thu, đ́u hiu” gợi cảm hơn là “thu sắt sắt”.

Bài dịch Tỳ bà hành của Phan Huy Thực là một tác phẩm toàn bích, và có lẽ cũng v́ thế mà Tản Đà tài hoa cũng không dịch lại bài này và nhà thơ đă chọn một bài trường thiên nổi tiếng khác của Bạch Cư Dị là bài Trường hận ca và ông cũng đă thành công.

(1) Lấy hai câu dịch của Phan Huy Thực để diễn đạt ư “ngân b́nh thiết kỵ”.

Thế Anh - Hội Ngôn ngữ học Việt Nam

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎ Foreign Trade

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days  ֎ USA Census

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: