Ông Nguyễn Tú A viết về

 

"Lịch Sử Lá Cờ Việt Nam" !!!

 

 

 

GS Nguyễn Lư-Tưởng

 

 

 

     Báo VietWeekly phát hành vào tuần lễ từ 15 May 2008 đến 21 May 2008, trang 10, có đăng bài của ông Nguyễn Tú A nhan đề "Chống Cờ CSVN ở trường USC: Bài toán khó giải" có một đoạn ông Nguyễn Tú A viết về lịch sử Lá cờ Việt Nam như sau : 

     "Không rơ lá cờ Việt Nam màu vàng có 3 sọc đỏ có từ thời nào. Các cờ đuôi nheo, ngũ sắc thường treo ở các cổng chùa hay đ́nh làng không giống h́nh thức cờ Việt Nam Cộng Hoà sau này. 

    "Nếu có dịp đến thăm đền Đinh Tiên Hoàng miền Bắc, quê hương của nhà Đinh, sẽ thấy những cờ ngũ sắc có chữ "Thiên", chỉ nhà vua. 

    "Từ xưa chỉ vua chúa được mặc áo màu vàng. Hoàng hậu, công chúa thường đội nón vành khăn. Loại nón này c̣n lưu lại hay dùng cho các cô dâu trong tiệc cưới. Vậy màu vàng là màu của vua. Chữ hoàng đế chỉ vua. Hoàng có nghĩa là màu vàng. 

    "Căn cứ vào lịch sử, năm 43 trước Tây lịch, khi quân Tàu đem quân chiếm Việt Nam, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị cầm quân chống xâm lược. Hai bà thường ngồi trên voi chỉ huy lính, tấn công quân Tàu. Khi tiến quân, hai bà đă tháo miếng vải làm nón vành dây màu vàng trên đầu làm dấu hiệu cho tiến quân. Nhờ dấu hiệu phất cờ hay xoay cờ, cuộc tiến quân dễ dàng, hiệu lực hơn. Từ đó, các đoàn quân đều mang theo miếng vải màu vàng thay v́ mỗi lần ra trận lại tháo một chiếc nón vành dây. Dần dần trở thành lá cờ quen thuộc mỗi khi đoàn quân di chuyển. 

    "Vào khoảng năm 1858, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh của Việt Nam, cha Bá Đa Lộc, người Pháp soạn ra cách viết chữ Việt, mang hoàng tử Cảnh đi Pháp. Chuyến đi bằng tàu, phải qua kinh đào Suez. Mỗi lần qua kinh đào, tàu phải kéo cờ của quốc gia ấy. 

    "Trên các loại tàu, tàu nào cũng mang theo cờ vàng để pḥng ngừa khi cần đến. Cờ màu vàng là dấu hiệu báo cho ngừơi trong đất liền biết là tàu đang có ngừơi bị bịnh dịch hạch, tàu không được cập bến mà phải thả neo, đậu xa bờ rồi cho người liên lạc mua hàng hoá hay thuốc men, thực phẩm hay chuyển người bịnh vào bờ và không quên kéo cờ màu vàng. 

    "Cha Bá Đa Lộc sợ khi kéo cờ vàng lên, dân chúng hiểu lầm là tàu đang bị bịnh địch hạch, nên cha đă cho may một vạch đỏ lớn chạy dọc, từ giữa, từ bên này sang tận bên kia của lá cờ. H́nh thức giống như cờ 3 sọc bây giờ. Thay v́ 3 sọc nhỏ, gom lại thành một, chạy từ giữa lá cờ. Từ đó, các con tàu của Việt Nam hay phát xuất từ Việt Nam đều kéo cờ vàng một sọc đỏ lớn.     

    "Sau đó, cờ vàng một sọc đỏ được biến đổi theo các thầy địa lư. Thay v́ một sọc đỏ làm 3 sọc nhỏ, ngắn hơn sọc đỏ của cha Bá Đa Lộc. Đặc biệt là sọc ở giữa cắt làm 2, ở giữa có khoảng trống v́ thầy địa lư quan niệm dựa vào quẻ ly, khoảng trống để lưu thông hay kinh mạch qua lại dễ dàng. Quẻ ly là một trong 4 quẻ của LONG, LY, QUY, PHỤNG. "Năm 1949, khi Bảo Đại được Pháp đưa về nước làm Quốc trưởng, đưa Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng. Bộ Trưởng Thông tin lúc ấy là Trần Văn Ân.                                                                                                                   

"Bộ Trưởng Thông tin Trần Văn Ân tổ chức một cuộc thi vẽ cờ. Nhiều mẫu cờ được đệ tŕnh. Nhưng mẫu cờ của ông Lê Văn Đệ, một họa sĩ học ở Bắc, được chọn. Mẫu cờ đó là cờ màu vàng như cũ, 3 sọc chạy từ bên này sang bên kia. Ba sọc tượng trưng 3 miền Bắc, Nam, Trung. Mẫu cờ này được quốc tế công nhận là cờ của Việt Nam Cộng Hoà. 

    "Trong khi đó, cờ miền Bắc, cờ đỏ sao vàng. Màu đỏ là màu của Cộng Sản thế giới. Sao vàng chỉ Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng có từ khi Hồ Chí Minh lập khu ở Pắc Bó. 

    "Như vậy nếu sau này, Việt Nam đổi chủ, có thể lá cờ vàng ba sọc hay ba sọc ngắn giữa có cắt đôi theo quẻ Ly, hay 1 sọc đỏ của cha Bá Đa Lộc, có thể sẽ trở thành cờ Việt Nam v́ cờ màu vàng này có từ thời Hai Bà Trưng. Đàn bà của thế giới càng ngày càng ở thế tốt, thượng phong!"

      Đọc hết đoạn văn trên đây, tôi không thể tưởng tượng được một người như ông Nguyễn Tú A mà lại có thể viết "bậy bạ" như thế được. Tôi cũng có biết  ông Nguyễn Tú A, cũng có dịp ghé thăm văn pḥng dịch vụ của ông, cũng có lúc ăn uống với nhau trong t́nh bạn bè, bất cứ báo tiếng Việt nào có bài của ông Nguyễn Tú A... tôi đều có đọc... Trước khi qua Mỹ, khoảng 1990, tôi có nghe ông Nguyễn Tú A từ Mỹ về, có gặp một số anh em cựu tù "cải tạo của Cộng Sản" (tức cựu tù nhân chính trị hay HO), có đưa ra vấn đề "định cư tại chỗ"... Lúc đó tôi c̣n ở Việt Nam, có nghe anh em bàn tán chuyện ông Nguyễn Tú A về nước... chắc là có mission ǵ của Mỹ (?) Hồi đó, tôi không gặp ông Nguyễn Tú A nhưng tôi tin chuyện anh em nói là có thật... Mới đây, đọc hồi kư của ông Vơ Long Triều, có nhắc lại chuyện ông Nguyễn Tú A đă cư xử đẹp với ông Triều... như vậy là chuyện ông Nguyễn Tú A về nứơc là "có thật"... Một đôi khi, ông Nguyễn Tú A cũng kể chuyện những lần về Việt Nam trước đây với anh em, trong đó tôi cũng có lần được nghe... Đặc biệt, ông có ra Hà Nội gặp Lm Trần Hữu Thanh (Chủ tịch PT chống Tham Nhũng...), có quay phim, có phỏng vấn... Tôi rất phục kiến thức của ông Nguyễn Tú A, nhất là những bài ông viết về luật pháp ở Mỹ (theo tôi hiểu) mục đích là để giúp đồng hương biết đường mà tránh chuyện rắc rối, vi phạm luật pháp... Khi nào gặp ông Nguyễn Tú A, dù đang đi ngoài đường, tôi cũng gọi tên ông để chào hỏi, mặc dù ông không để ư đến tôi... Nói ra những chuyện "lẩm cẩm" như vậy để "làm chứng" tôi viết mấy ḍng sau đây không có ư "xúc phạm đến danh dự của ông Tú...". Tôi chỉ sợ điều ông Tú nói ra (không biết là nói chơi hay nói thật ) nhưng đối với các thế hệ sau chúng ta, sinh ra và lớn lên ở ngoại quốc (hoặc xa quê quá sớm), chưa biết ǵ về văn hoá lịch sử... mà đọc đoạn văn trên đây của ông Tú nói về "lịch sử lá cờ Việt Nam" th́ thật là tai hại ! 

(1). Ông Tú nói rằng khi đến thăm đền Đinh Tiên Hoàng, ông thấy trên lá cờ  có chữ "Thiên" và ông giải thích cho đồng hương biết: "Thiên" chỉ nhà vua.  

     Đây là một điều sai lầm. Thiên tử mới chỉ nhà vua c̣n "Thiên" là "Ông Trời" tức là "Đấng Tạo Hoá" hay "Thiên Chúa" hay "Đức Chúa Trời"... Vua được Trời trao cho sứ mệnh lănh đạo đất nứơc, lănh đạo muôn dân nên gọi đó là "Thiên mệnh" (mệnh Trời) theo quan niệm của Nho gia. Trong một nước th́ vua là ngừơi lớn nhất. Dân có bổn phận trung thành với vua. Vua có quyền xét xử mọi người dân trong nước. Nhưng vua phải có trách nhiệm với Trời. Vua làm sai lỗi th́ Trời sẽ phạt vua. Vua tự xưng là "Thiên tử" (con của ông Trời). Theo truyền thống các nước quân chủ (đặc biệt tại Trung Hoa), cứ 3 năm một lần, vua phải ăn chay, nằm ngủ trên một chiếc giường đơn sơ, ở một nơi gọi là "thanh ốc" (thanh là trong sạch) nghĩa là ngôi nhà dành cho vua đến đó mà tỉnh tâm, xét ḿnh có điều ǵ sai lỗi đối với bổn phận "làm vua" hay không... Trời trao cho vua "Thiên mệnh" để cai trị muôn dân. Vua có làm trọn bổn phận đó hay không? V́ thế, "Thiên" là chức vị cao hơn vua, là Cha của vua. Trong sử sách (viết bằng chữ Hán) ngày xưa, không bao giờ dùng chữ "Thiên" để chỉ nhà vua. Chữ được dùng để chỉ ông vua là "hoàng đế" hoặc "đế" hay "thượng" bởi vậy mới  có danh từ "hoàng đế, hoàng thượng"...Ví dụ "đế mệnh Hy, Hoà kiến lịch" (vua ra lệnh cho họ Hy và họ Hoà làm lịch: chữ trong sách Hậu Hán Thư) hoặc "Thượng dụ..." (vua ban lời dạy rằng) hoặc "Thượng phương kiếm" (là kiếm vua Gia Long ban cho Lê văn Duyệt) Thượng là vua; phương là phương tiện (đồ dùng) và kiếm là cây kiếm. Ba chữ "Thượng phương kiếm" có nghĩa là cây kiếm của vua dùng (nay trao cho đại thần có công lao và được  tín nhiệm là ông Lê Văn Duyệt)...

  

(2). Ông Tú viết : "Chữ hoàng đế chỉ vua. Hoàng có nghĩa là màu vàng".  

Ông Tú nói đúng, "Chữ hoàng đế chỉ vua". Nhưng chữ "Hoàng" trong danh từ "hoàng đế" không phải là màu vàng. Chữ Hoàng (hoàng đế) gồm hai phần : trên là chữ "bạch" dưới là chữ "vương". Đó là chữ "Hoàng" tức hoàng đế.  C̣n chữ "hoàng" là màu vàng trên đầu có bộ "thảo" cũng viết như chữ Hoàng là họ Hoàng. Màu vàng chỉ nhà vua v́ màu vàng thuộc Thổ... Theo ngũ hành : Kim (kim khí) màu trắng, chỉ phương Tây; Mộc (cây, cỏ...) màu xanh, chỉ phương Đông; Thủy (nước) màu đen, chỉ phương Bắc và Hỏa (lửa) màu đỏ, chỉ phương Nam. Thổ (đất, cát...) màu vàng, ở trung ương. Vua là người lănh đạo, người chỉ huy nên ở trung ương. Vua ra trận th́ có Tiền quân, Hậu quân, Tả quân, Hữu quân. Đội quân ở giữa, đi bên cạnh vua để bảo vệ vua gọi là Trung quân. Vị tướng chỉ huy một đạo quân lớn như vậy gọi là Đô thống (ví dụ Tiền quân Đô thống...) 

     Tưởng cũng nên giải thích thêm : theo ngũ hành th́ có tương sinh và tương khắc. Kim và Mộc xung khắc v́ Đông và Tây là hai phương hướng đối lập nhau. Thuỷ và Hoả là xung khắc v́ Bắc và Nam là hai phương hướng đối lập nhau. Vua là Trung ương (Thổ) ở giữa và lănh đạo bốn phương thiên hạ...Thổ sinh Kim (Kim khí ở trong ḷng đất, đăi cát t́m vàng...) Kim sinh Thủy (kim khí đem nấu, đun nóng th́ sẽ chảy thành nước: luyện kim, dùng lửa mà nấu), Thủy sinh Mộc (không có nước th́ cây không sống được), Mộc sinh Hỏa (lửa do cây cỏ cháy mà sinh ra), Hoả sinh Thổ (cây, cỏ cháy th́ ra tro...tro tức là đất: thổ)... 

(3). Ông Tú nói rằng "Khi quân Tàu đem quân chiếm Việt Nam, hai bà Trưng  Trắc và Trưng Nhị cầm quân chống xâm lược...Khi tiến quân hai bà đă tháo miếng vải làm nón vành dây màu vàng trên đầu làm dấu hiệu cho tiến quân..." và "Từ đó, các đoàn quân đều mang theo miếng vải màu vàng..." 

     Xin nhắc ông Tú một điều, sử sách chưa hề nói Hai  Bà Trưng "sử dụng cờ vàng"... nói đến lịch sử th́ phải có tài liệu viết, phải có ngừơi viết lại, ghi chép lại các biến cố bằng văn tự...(Các di vật khảo cổ không phải là lịch sử : ví dụ một cây kiếm, một bộ xương ngừơi, trống đồng,v.v... không phải là lịch sử... Lịch sử (history, histoire) là một câu chuyện xảy ra trong quá khứ được ghi chép lại trong sách vở hay tài liệu viết...). Chúng ta biết được những tên tuổi, địa danh, biến cố xảy ra từ thời Hai Bà Trưng (thế kỷ thứ I) là căn cứ vào một đoạn văn trong Hậu Hán Thư (sử nhà Hán) phần nói về Mă Viện (Mă Viện liệt truyện) là ông Tướng được Hán Vũ Đế sai đi đánh dẹp cuộc nổi dậy dành độc lập của Trưng Trắc. Ngoài đoạn văn đó ra, chúng ta không c̣n t́m được sử sách nào xưa hơn (hay có trước) Hậu Hán Thư... Các tài liệu xưa có nhắc đến dân Lạc Việt chưa hề nói họ dùng khăn đội đầu màu vàng. Chỉ có nói rằng họ có đúc ấn bằng đồng và dùng lụa màu xanh (đồng ấn, thanh thụ)... Các nhà khảo cổ học, khi nghiên cứu trống đồng t́m được ở Đông Sơn (Thánh Hoá) th́ cho rằng chủ nhân trống đồng đó là người Lạc Việt và họ cũng nói rằng Trưng Trắc là dân Lạc Việt... Mă Viện đă đem một số trống đồng của Lạc Việt về cho vua nhà Hán (Hán Vũ Đế) và gọi đó là "Lạc Việt đồng cổ" (trống đồng của người Lạc Việt... cổ là cái trống... đồng cổ là cái trống bằng đồng)... Hiện nay chúng ta chưa chứng minh được thời Hai Bà Trưng (thế kỷ thứ I) người Việt đă có chữ viết, và có sử sách ghi lại các biến cố xảy ra vào thời đó. Vậy chuyện ông Tú nói rằng "Hai Bà Trưng đă dùng vải màu vàng làm cờ hiệu để chỉ huy quân lính" là "tưởng tựơng quá xa"... 

(4). Chuyện Giám Mục Bá Đa Lộc... Ông Tú viết "Vào khoảng năm 1858, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh của Việt Nam, cha Bá Đa Lộc, người Pháp soạn ra cách viết chữ Việt, mang hoàng tử Cảnh đi Pháp"..."Cờ màu vàng là dấu hiệu báo cho người trong đất liền biết là tàu đang có ngừơi bị bịnh dịch hạch..." "Cha Bá Đa Lộc sợ khi kéo cờ vàng lên, dân chúng hiểu lầm là tàu đang bị bịnh dịch hạch, nên cha đă cho may một vạch đỏ lớn chạy dọc, từ giữa, từ bên này sang bên kia của lá cờ. H́nh thức giống như cờ ba sọc đơ bây giờ. Thay v́ ba sọc nhỏ, gom lại thành 1,  chạy từ giữa lá cờ. Từ đó, các con tàu của Việt Nam hay phát xuất từ Việt Nam đều kéo cờ vàng một sọc đỏ lớn"... 

     Đoạn văn trên đây thật là chuyện động trời ! Không biết ông Tú lấy đâu ra chuyện Bá Đa Lộc với cờ vàng trên  đây ? – Chi tiết "cờ vàng là dấu hiệu trên tàu có người mang bịnh dịch hạch" xin để cho các nhà hàng hải và mấy ông sĩ quan hải quân thứ thiệt (bạn của tôi có Trung Tá Trần Trọng Hải, Trung Tá Huỳnh Hữu Cầu, Thiếu Tá Trần Trọng An Sơn, Thiếu Tá Trần Chấn Hải...) trả lời có đúng là cờ màu vàng để báo hiệu trên tàu có người mang bịnh dịch hạch hay không. Nhưng nói về Bá Đa Lộc mà không biết ǵ về Bá Đa Lộc... là điều đáng trách. Xin mở sách Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, trang  476 tập 2 (sử liệu của nhà Nguyễn, do Quốc Sử Quán biên soạn, xuất bản dưới thời vua Tự Đức, được dịch ra tiếng Việt, Viện Sử học Hà Nội, nhà xuất bản Thuận Hoá, 1993) nói rơ : Bá Đa Lộc gặp vua Gia Long (lúc đó chưa lên ngôi, c̣n gọi là Nguyễn Vương tức Nguyễn Phước Ánh) vào năm Canh Tư (1780), năm Nhân Dần (1782), Gia Long bị Tây Sơn vào đánh, phải chạy ra đảo Phú Quốc, cũng gặp Bá Đa Lộc ở đó, năm Quư Măo (1783) vua Gia Long chạy trốn Tây Sơn ở các đảo trong vịnh Thái Lan, Bá Đa Lộc qua Xiêm, năm Giáp Th́n (1784), Gia Long nhờ Bá Đa Lộc dem Hoàng tử Cảnh qua Pháp cầu viện, măi đến 4 năm sau mới về. Năm Kỷ Dậu (1789) Gia Long lấy lại Gia Định. Cũng trong năm nầy, vua Quang Trung nhà Tây Sơn đánh thắng quân Thanh tại Thăng Long...(chiến thắng Đống Đa)...V́ nước Pháp từ chối không thực hiện lời hứa giúp Gia Long nên Bá Đa Lộc đă dùng tiền bạc riêng của ḿnh (quyên góp được) mua tàu bọc đồng và súng đạn của Tây phương... đem về giúp Gia Long và giới thiệu một số người Pháp đang làm sĩ quan trên các tàu buôn về giúp Gia Long... Năm Kỷ Mùi (1799), Bá Đa Lộc bị bệnh mất tại Gia Định. Vua Gia Long đă tổ chức đám tang rất lớn, xây lăng mộ và dựng bia đá ghi công... Tiếng Việt gọi Linh Mục là Cha hay ông Cha và Giám Mục th́ gọi là Cha Cả là người có vai vế lớn hơn các Cha... Do đó lăng mộ của Giám Mục Bá Đa Lộc được dân chúng gọi là Lăng Cha Cả ( trước 1975 lăng nầy ở gần phi trường Tân Sơn Nhứt, sau 1975, CSVN đă ra lệnh phá huỷ lăng mộ nầy, hài cốt và bia đá được đưa về Toà Giám Mục Sài G̣n quản lư...) Trên bia đá, Gia Long gọi Bá Đa Lộc là Thượng Sư. Nội dung bia đá nầy đă được cụ Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Giác dịch ra tiếng Việt, đăng trên báo Văn Hoá (do Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá thời cụ Mai Thọ Truyền làm việc...xuất bản tại Sài G̣n trước 1975) Tôi c̣n nhớ câu mở đầu văn bia được dịch ra tiếng Việt như sau : "Nhà Thầy họ Bi Nhu người nước Pha Lang Sa..." 

      Bá Đa Lộc là tên phiên âm chữ Hán, tên tiếng Pháp là Pigneau de Béhaine (évecque d'Adran : Giám Mục  hiệu toà Adran)... Người đặt ra chữ Quốc ngữ là Alexandre de Rode (phiên âm là Á Lịch Sơn Đắc Lộ) vào thế kỷ thứ 17 chứ không phải Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc)... Bá Đa Lộc đă chết từ năm Kỷ Mùi (1799) làm sao có chuyện đem Hoàng tử Cảnh đi Tây sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ... C̣n một chi tiết khác, năm 1858 cũng không phải là năm Pháp chiếm 3 tỉnh Nam Kỳ (chúng ta nhớ hoà ước 1862 kư kết giữa vua Việt Nam và Pháp, nhường 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ và hoà ước 1868, nhường nốt 3 tỉnh c̣n lại tức miền Tây Nam kỳ cho Pháp)...Xem như vậy đủ biết, khi viết về các sự kiện lịch sử, Ông Tú cũng không thèm xem lại sử sách để khỏi nhầm lẫn... 

(5). Về chuyện "Cờ Quẻ Ly"...Ông Tú viết : "Sau đó, cờ vàng 1 sọc đỏ được biến đổi theo các thầy địa lư. Thay v́ 1 sọc đỏ, chính phủ nghe thầy địa lư chia sọc đỏ làm 3 sọc nhỏ, ngắn hơn sọc đỏ của cha Bá Đa Lộc. Đặc biệt là sọc ở giữa được cắt làm 2, ở giữa có khoảng trống v́ thầy địa lư quan niệm dựa vào quẻ ly, khỏng trống để lưu thông hay kinh mạch qua lại dễ dàng. Quẻ Ly là một trong 4 quẻ của LONG, LY, QUY, PHƯỢNG". 

     Như đă nói trên, Giám Mục Bá Đa Lộc không có mang cờ ǵ đi theo và cũng không phải là người làm ra lá cờ "vàng có sọc đỏ" như ông Tú nói. Quẻ Ly là 01 trong 64 quẻ Dịch, quẻ Ly thuộc Hoả và chỉ phương Nam. Hai chữ Hỏa chồng lên nhau là chữ Viêm (bốc cháy), ư nghĩa là điềm hưng vượng (gọi là Hoả Hoà Ly). Trong 64 quẻ của Dịch Lư không có quẻ nào là Long, Ly, Quy, Phượng (Ly hay Lân tức là con Kỳ lân) đó là 4 con vật linh thiêng gọi là "Tứ Linh" (trong Tử Vi  có 4 sao : Long tŕ, Phượng các, Bạch hổ, Hoa cái... gọi là tứ linh)... Chắc ông Tú có quen biết với nhà báo Vũ Công Lư... nếu ông Tú không tin lời của Nguyễn Lư-Tưởng, xin hỏi người bạn (Vũ Công Lư) sẽ được giải thích rơ ràng ngay... 

     Cờ Quẻ Ly ra đời năm 1945 do cụ Trần Trọng Kim, một nhà giáo, học giả kiêm sử gia làm Thủ Tướng dưới thời vua Bảo Đại. Quẻ Ly có 3 sọc mà sọc ở giữa rời ra. C̣n cờ VNCH (hay cờ quốc gia Việt Nam) ra đời dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại (sau khi thoái vị năm 1945, vua Bảo Đại qua Hồng Kông tỵ nạn, tiếp tục tranh đấu đ̣i Pháp trả độc lập cho Việt Nam... Các tôn giáo và chính đảng quốc gia chống Cộng làm hậu thuẫn cho ông... Cuộc tranh đấu rất gay go mới được độc lập và thành lập Quốc Gia Việt Nam với Bảo Đại làm Quốc Trưởng có hành chánh, tài chánh, quân đội, ngoại giao riêng và được các nước trên thế giới công nhận... không phải Pháp đưa về làm Quốc Trưởng đâu ! Có Quốc Trưởng Bảo Đại, có chính quyền quốc gia, có quân đội quốc gia... rồi mới có Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm do  Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm, mới có các sĩ quan như Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu... xuất thân từ Quân Đội Quốc Gia thời Quốc Trưởng Bảo Đại... sau nầy lên tới Trung Tướng, Đại Tướng, Thủ Tướng, Tổng Thống...). Thời cụ Trần Văn Lư làm Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Chánh Trung Kỳ, nhiều ngừơi đề nghị mẫu cờ Quốc gia Việt Nam trong đó có LM Trần Hữu Thanh, hoạ sĩ Tôn Thất Sa ở Huế, ông Trần Điền (lúc đó làm Giám Đốc Thông Tin Trung Việt), lúc đầu có  nền vàng ba sọc đỏ và có h́nh con rồng, sau anh em góp ư, bỏ con rồng đi chỉ c̣n lại 3 sọc đỏ... Theo quẻ dịch : 3 đường ngang liền nhau là Quẻ Càn chứ không phải quẻ Ly. Về sau mẫu cờ nầy được chính thức là Quốc Kỳ của quốc gia Việt Nam (Ông Ngô Đ́nh Diệm đổi tên nước là Việt Nam Cộng Ḥa). Cờ của Việt Nam CS bây giờ là cờ của Việt Minh (nền đỏ sao vàng) đó là mẫu lá cờ của Cộng Sản Trung Quốc (nền đỏ có 5 ngôi sao vàng: Hán, Măn, Mông, Hồi, Tạng tức là ngũ tộc của Trung Quốc). Hồ Chí Minh  bắt chước theo Trung Cộng, là một ngôi sao nhỏ, đàn em của Mao Trạch Đông, đàn em của Trung Cộng... Ngày nay, đất nước, dân tộc phải chịu nhục nhă như thế nào đối với đàn anh Trung Quốc th́ mọi người đă hiểu rồi !

Ngày 21/5/2008

Nguyễn Lư-Tưởng