thegioisauchientranhlanh

 

 

Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

QUAN NIỆM

 

"QUÂN TỬ-TIỂU NHÂN" THEO KHỔNG GIÁO

 

 

* Học giả: Trần Trọng Kim

 

______

 

 

Đạo của Khổng Tử là đạo của người Quân tử cốt dạy người ta cho thành người có đức hạnh ḥan toàn và có nhân phẩm tôn quư, cho nên bao nhiêu những sự dạy do học tập của Khổng giáo đều chú cả vào sự gây thành người Quân tử.

 

Khổng Giáo chia người ở trong xă hội ra làm hai hang là: Quân tử và tiểu nhân. Quân tử là quư là hay, tiểu nhân là tiện là dở. Vậy trước khi bàn đến các mục khác, thiết tưởng nên nói rơ tư cách của người Quân tử và kẻ tiểu nhân khác nhau thế nào th́ sau xem mới rơ mọi ỳ nghĩa.

 

Người ta sinh hoạt ở đời bao giờ cũng tựa người hành khách, lúc nào cũng thấy có hai con đường giao nhau ở trước mặt. Có người biết chọn con đường thẳng mà đi th́ được sự ung dung mà chóng đến nơi. Có người đi con đường cong queo thành ra vất vả mà khơng bao giờ đến nơi được.

 

Con đường thẳng là con đường Đạo đức Nhân nghĩa; con đường cong queo là con đờng gian ác quỷ quyệt. Trong hai con đường đó ta phải chọn lấy một con đường mà đi. Đi con đường thẳng là người Quân tử, có nhân cách hoàn toàn. Đi con đường cong là người tiểu nhân hèn hạ.

 

Lúc đầu chữ Quân tử là nói người có địa vị tôn quư, mà chữ tiểu nhân là người thường nhân không có địa vị ǵ trong xă hội. Nghĩa ấy rất rơ trong những câu này: Khổng Tử nói rằng:

“Quân tử học đạo tắc ái quân, tiểu nhân học đạo tắc di sử giă” (Quân tử học đạo th́ yêu người, tiểu nhân học đạo th́ dễ khiến). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).

 

“Quân tử nghĩa dĩ vi thượng, Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩavi đạo”. (Quân tử chuộng nghĩa, Quân tử có dũng mà không có nghĩa th́ làm loạn. Tiểu nhân có dũng mà không c̣ nghĩa th́ làm đứa ăn trộm). (Luận Ngữ: Dương Hóa XVII).

 

Về sau dùng rộng nghĩa ra, gọi Quân tử là người có đức hạnh tôn quư và gọi tiểu nhân là người có chí khí hèn hạ. Vậy người Quân tử theo nghĩa rông th́ dẫu bần cùng khổ sở vẫn là Quân tử và người tiểu nhân tuy có quyền tước sang trọng, cũng vẫn là tiểu nhân. Người đi học cũng vậy, có người nho Quân tử, có người nho tiểu nhân.

 

Khổng Tử bảo thầy Tử Hạ rằng: “Nhữ vi Quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho”. (Ngươi làm nho Quân tử, không làm nho tiểu nhân). (Luận ngữ: Ung Giă, VI).

 

Nho Quân tử là người học đạo Thánh Hiền để sửa ḿnh cho thành người có phẩm giá tôn quư, dẫu bần cùng cũng không làm điều trái đạo. Nho tiểu nhân là người mượn tiếng học đạo Thánh hiền để cầu danh, cầu lợi, miệng nói những điều đạo đức mà bụng nghĩ làm những việc bất nhân bất nghĩa.

 

Khổng Tử phân biệt cái thái độ thế nào là Quân tử, thế nào là tiểu nhân. Ngài nói rằng: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”.

(Quân tử đạt về cái lư cao minh, tiểu nhân đạt về cái lư đê hạ). (Luận Ngữ: Hiến vấn, XIV).

 

Quân tử bao giờ cũng theo Thiên Lư cho nên tâm tính thanh minh, nghĩa lư sáng rơ, biết điều ǵ là càng ngày càng tinh thâm, làm việc ǵ là càng ngày càng thuần thục, bởi vậy mới tiến lên chỗ cao minh.

 

Tiểu nhân bao giờ cũng theo nhân dục, cho nên cái chí khí mờ tối, cứ bị vật dục sai khiến, biết cái ǵ càng ngày càng sai lầm, làm điều ǵ càng ngày càn rỡ, bởi vậy mới trụy lạc về đường đê hạ.

 

“Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”. (Quân tử hiểu rơ chưng nghĩa, tiểu nhân hiểu rơ chưng lợi). (Luận Ngữ: Lư Nhân, IV).

 

Nghĩa, là cái chinh đáng của Thiên Lư; Lợi, là cái ham mề của nhân dục. Người Quân tử hiểu sâu việc nghĩa, cho nên mới dốc ḷng muốn làm việc nghĩa; kẻ tiểu nhân hiểu sâu việc lợi cho nên mới dốc ḷng lo làm việc lợi. Làm việc nghĩa mà có lợi là chính đáng, làm việc lợi mà quên việc nghĩa là trái lẽ.

 

“Quân tử Trung dung, tiểu nhân phản Trung dung” . (Quân tử th́ Trung dung, tiểu nhân th́ trái Trung dung). (Trung dung).

 

Quân tử hiểu suốt đến cái lẽ rât cao xa, rồi chọn cài vừa phải mà theo, cho nên mới Trung dung. Tiểu nhân chỉ biết cái tư lợi mà không biết cái lư cao xa, cho nên chỉ làm những việc tầm thường mà thôi, thành ra bao giờ cũng trái với Trung dung.

 

“Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”. (Quân tử cầu ở ḿnh, tiểu nhân cầu ở người) (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).

 

Cầu ở ḿnh là chỉ cầu cái thực có của ńnh, cầu ở người là chỉ cầu cái hư danh đối với người. Cầu ở ḿnh th́ cái đức càng ngày càng tiến lên, cầu ở người th́ cái ḷng muốn càng ngày càng buông xỏng ra.

 

“Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”. (Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái). (Luận Ngữ: Tử Lộ, XIII).

 

Cái bụng của Quân tử chỉ theo cái lư tự nhiên cho nên lúc nào cũng yên nhàn tự đắc, không có cái ǵ là căng kỷ ngạo vật. Cái bụng kẻ tiểu nhân chỉ thích cái muốn của ḿnh, cho nên khi đắc chí th́ tỏ ra mặt khoe khoan kiêu ngạo, không có cái thái độ thung dung như người Quân tử.

 

“Quân tử ḥa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất ḥa”. (Quân tử ḥa với mọi người mà không về hùa với ai, tiểu nhân th́ về hùa với mọi người mà không ḥa với ai). (Luận Ngữ: Tử Lộ, XIII).

 

Quân tử chỉ chuộng nghĩa để bụng vào việc công, chon nên đối với người chỉ theo cái lư công nhiên mà phân biệt những điều phải trái hay dỡ để ḥa với mọi người chớ không a dua với ai cả.

 

Tiểu nhân chỉ chuộng lợi, để bụng vào việc tư, cho nên đối với người chỉ a dua theo bọn nầy, đảng kia để chống với người, thành ra chỉ đồng mà không ḥa vậy.

 

“Quân tử chu nhi bất tỉ, tiểu nhân tỉ nhi bất chu”. (Quân tử chung khắp cả mọi người mà không tây vị, tiểu nhân tây vị mà không chung). (Luân Ngữ: Vi Chính, II).

 

Cái bụng người Quân tử bao giờ cũng công nhiên, cho nên xem thiên hạ như một nhà, xem mọi người như một ḿnh, ai đáng yêu th́ yêu, không đợi có theo ḿnh mới yêu, đáng làm ơn cho ai th́ làm, không đợi có cầu đến ḿnh mới làm, việc ǵ cũng lấy ḷng quảng đại công chính mà không hề có điều thiên tư.

 

Cái bụng kẻ tiểu nhân th́ chỉ biết tư lợi, hễ thấy ai có thần thế th́ phan phụ vào, hoặc thấy ở đâu có lợi lộc th́ xu hướng về, hoặc bè nọ, đảng kia để giao kết làm điều gian ác, bỏ mất cái công nghĩa.

 

“Quân tử thản đăng đăng, tiểu nhân trường thích thích”. (Quân tử bao giờ trong bụng cũng thẳng ḷng lọng, tiểu nhân bao giờ trong bụng cũng lo ngai ngái). (Luận Ngữ: Thuật Nhi, VII).

 

Quân tử theo Thiên lư cho nên lúc nào cũng thư thái, tiểu nhân bị vật dục sai khiến, lúc nào cũng phải lo nghĩ để cầu danh cầu lợi, cho nên suốt đời chỉ những lo buồn.

 

“Quân tử cố cùng, tiểu nhân cung tư lạm hỹ” (Quân tử cố giữ lúc khốn cùng, tiểu nhân phải lúc khốn cùng th́ làm vậy). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).

 

Quân tử phải lúc khốn cùng th́ cứ lấy nghĩa mệnh mà tự yên;

 

Tiểu nhân phải lúc khốn cùng th́ không nghĩ ǵ đến lễ nghĩa đạo lư nữa, điều bậy bạ thế nào cũng làm được.

 

“Quân tử bất khả tiểu tri, nhi khả địa phụ giă; tiểu nhân bất khă đại thụ, nhi khă tiểu tri giă”. (Quân tử không thể biết được cái nhỏ mà có thể chịu được cái lớn, tiểu nhân không có thể chịu được cái lớn, mà có thể biết được cái nhỏ vậy). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV)

Quân tử đối với việc nhỏ mọn vị tất đă làm được, nhưng cái tài đức có thể đương được việc to lớn; tiểu nhân tuy có cái khí tượng hẹp ḥi nhưng đối với việc nhỏ có cái sở trường khả thủ được.

 

“Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác; tiểu nhân phản thị”. (Quân tử gây thành cái hay cho người ta, không gây thành cái ác cho người ta; tiểu nhân không thế). (Luận Ngữ: Nhan Uyên, XII).

 

Ḷng người Quân tử vốn hậu mà cái sở hiếu chỉ ở sự Thiện, cho nên thấy ai làm điều hay th́ khuyến miễn người ta cố gắng làm hay hơn nữa, hoặc thấy ai làm điều ác th́ can ngăn, không để cho người ta làm thành điều ác được.

 

Ḷng kẻ tiểu nhân vốn bạc, mà cái sở hiếu chỉ ở điều ác, cho nên thấy ai làm điều ác th́ xui khiến để cho thành ra ác, hoặc thấy ai làm điều Thiện th́ lại ghen ghét, kiếm cách ngăn trở để cho không thành được điều Thiện, bời thế mới trái với người Quân tử.

 

“Quân tử vị sự nhi nan, duyệt giă, duyệt chi bất dĩ đạo, bất duyệt giă, cập kỳ sử nhân giă, khí chi; tiểu nhân nan sự, nhi dị duyệt giă, duyệt chi bất dĩ đạo, duyệt giă, cập kỳ sử nhân giă, cầu bị yên”. (Quân tử dễ thờ mà khó làm cho đẹp ḷng, v́ không lấy đạo làm cho đẹp ḷng th́ không đẹp ḷng, kịp đến dùng người th́ tùy tài mà dùng; tiểu nhân khó thờ mà dễ làm cho đẹp ḷng, v́ không lấy đạo làm cho đẹp ḷng cũng đẹp ḷng, kịp đến dùng người th́ cầu toàn trách bị”. (Luận Ngữ: Tử Lộ, XIII).

 

Cái tâm của Quân tử Công và Thứ. Công th́ chuộng ngững điều trung chính, dẫu ai có đem những điều trái đạo lư mà làm cho đẹp ḷng cũng không ưa, vậy nên khó làm cho đẹp ḷng được. C̣n cách dùng người th́ lấy ḷng thứ mà đăi, tùy cái tài khí của từng người mà dùng chứ không bỏ ai cả, vậy nên dễ thờ.

 

Cái tâm của tiểu nhân Tư và Khắc. Tư th́ chuộng những điều không chính, cho nên dù không theo đạo lư mà cũng làm cho đẹp ḷng được. C̣n cách dùng người th́ lấy ḷng khắc mà đăi, dùng ai th́ muốn người ấy thật toàn bị mới nghe, cho nên khó thờ.

 

“Quân tử nhi bất nhân giă, hữu hỹ phù? Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả giă”. (Quân tử mà bất nhân, có vậy chăng? Chưa có tiểu nhân mà là người có nhân vậy). (Luận Ngữ: Hiến Vấn, XIV).

 

Bậc nhân giả là thuần theo Thiên lư, chứ không có một hào ly nào tư dục.

 

Người Quân tử phải để chí ở đạo Nhân, đáng lẽ là không lúc nào bất nhân được, song trong khoảng giây phút có lúc tâm bất tại, th́ cái Thiên lư gián đoạn đi mà làm điều bất nhân, điều ấy có khi có chăng.

 

C̣n kẻ tiểu nhân th́ đă mất bản tâm và bỏ mất Thiên lư rồi, dẫu một đôi khi cái Thiên lư có phát hiện ra nữa th́ cũng không thắng được cái tư dục, cho nên kẻ tiểu nhân không bao giờ có Nhân.

 

Khổng Tử chia nhân loại ra làm hai hạng người như thế. Quân tử chủ ở sự theo Thiên lư để làm những điều Công Chính. Tiểu nhân chủ ở sự theo tư dục để làm những điều Tà khúc.

 

Một đàng là làm cho tôn phẩm giá của ḿnh lên, Một đàng th́ làm cho hạ phẩm giá của ḿnh xuống. Ai muốn theo đường nào cũng tùy ở cái chí của ḿnh cả.

 

Người Quân tử bao giờ cũng ôn nhă, tĩnh trọng, không hề làm điều ǵ là không hợp lẽ phải.

Khổng Tử nói: “Quân tử bất ưu, bất cụ”. (Quân tử không lo, không sợ). (Luận Ngữ: Nhan Uyên, VII). Người Quân tử làm việc ǵ cũng theo đạo lư, tự xét trong bụng không có hối hận th́ c̣n lo và sợ ǵ nữa.

 

“Quân tử ưu đạo bất ưu bần”. (Quân tử lo đạo, không lo nghèo). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, VI). Người Quân tử lấy sự học đạo làm gốc, cho nên chỉ lo không đạt tới đạo, chứ không lo có lợi lộc hay không có lợi lộc.

 

“Quân tử bất khí”. (Quân tử tùy nghi làm việc ǵ cũng được, chứ không chỉ một tài, một nghệ mà thôi). (Luận Ngữ: Vi Chính, II). Khí là cái đồ dùng về một việc ǵ, chứ không dùng làm việc khác được. Người Quân tử không như thế, dùng làm được cả mọi việc.

 

“Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng”. (Quân tử nghiêm trang mà không tranh với ai, hợp quần với mọi người mà không bè đảng). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).

 

Quân tử tự ḿnh nghiêm nghị theo cái lư công nhiên mà đối với người, chứ không thiên tư cho nên không tranh giành với ai. Xử với người th́ thân ái cả mọi người, không vị t́nh riêng mà a tùng theo đảng, theo bọn để cầu lợi riêng.

 

“Quân tử vô sở tranh tất giă xạ hồ! Ấp nhượng nhi thăng, hạ nhi ẩm, kỳ tranh giả quân tử”. (Quân tử không tranh ǵ cả, mà có tranh nữa th́ ắt là như việc bắn thi chăng! Vái nhường rồi mới lên thềm, xuống thềm mời nhau uống rượu, sự tranh ấy là sự tranh Quân tử). (Luận Ngữ: Vấn Bái, III).

 

Người Quân tử có v́ đạo lư mà tranh luận điều ǵ, th́ cũng theo cái nghĩa lễ nhượng cung kính để không mất đạo Trung. Tranh luận mà vẫn ung dung khiêm tốn như lệ tập bắn đời xưa, nghĩa là tranh nhau nhưng vẫn giữ cách tranh nhau của người Quân tử, chứ không như cách tranh nhau của kẻ tiểu nhân, lấy tư t́nh khách khí mà đối với người.

 

“Quân tử dục nột ư ngôn, nhi mẫu ư hành”. (Quân tử muốn nói th́ chậm mà làm th́ nhanh). (Luận Ngữ: Lư nhân IV).

 

Nói th́ dễ mà hay hỏng ở chỗ nói quá sự thật; làm th́ khó mà hay hỏng ở chỗ làm không cố hết sức, bởi vậy người Quân tử muốn nói chậm mà làm nhanh.

 

“Quân tử trinh nhi bất lượng”. (Quân tử cố giữ điều ngay chính, mà không cố chấp những điều tiểu tín). (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, XV).

Quân tử giữ bền cái chí theo lẽ Công Chính, không bao giở thay đổi cho nên gọi là trinh, và không khăng khăng một mực cố chấp một điều tiểu tín cho nên gọi là bất lượng.

 

“Quân tử thượng giao bất siểm, hạ giao bất độc”. (Quân tử giao với người trên th́ không nịnh, giao với người dưới th́ không nhàm). (Dịch: Hệ Từ Hạ).

 

Giao với người trên th́ kính, nhưng kính quá thành ra siểm; giao với người dưới th́ ḥa, nhưng ḥa quá thành ra nhàm.

Người Quân tử không siểm và không nhàm.

 

“Quân tử kiến cơ nhi tác”. (Quân tử xem cơ màu mà động tác). (Dich: Hệ Từ Hạ). Cơ là phần tinh vi nảy ra lúc sắp động, người Quân tử phải xem xét suy nghĩ cho cẩn thận để lúc làm việc ǵ th́ biết rơ cái cơ có làm được hay không. Có cái cơ làm được mà không làm là dại; chưa có cái cơ làm được mà làm cũng là dại, không phải là người Quân tử.

 

“Quân tử kinh dĩ trực nội, nghĩa dĩ phương ngoại”. (Quân tử chủ ở sự kính để giữ cái bụng cho thẳng, giữ điều nghĩa để khiến các việc ở ngoài cho có khuôn phép). (Dịch: Văn Ngôn Truyện). Kính là chủ ở sự hàm dưỡng ở trong bụng cho ngay chính; Nghĩa là chủ ở sự thi thố ra ngoài cho hợp đạo lư.

 

“Quân tử chí ư thiên hạ giă, vô thích giă, vô mịch giă, nghĩa chi dữ tỉ”. (Quân tử đối với việc thiên hạ không chuyên chủ một việc nào, không cố chấp không làm một việc nào, cứ theo cái công chính mà làm mọi việc). (Luận Ngữ: Lư Nhân, IV).

 

Thích là có việc không nên làm mà cứ chuyên chủ làm cho được;

 

Mịch là có việc nên làm mà cứ theo cái tư ư cố chấp không làm. Thích với mịch đều trái với nghĩa. Người Quân tư th́ không thế, đối với việc trong thiên hạ cứ theo cái nghĩa mà làm, chứ không khăng khăng một mực giữ cái tư ư định trước. Vậy nên việc của người Quân tử làm bao giờ cũng công chính.

 

“Quân tử nghĩa dĩ vi chất: Lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành chi, Quân tử tai!”. Quân tử lấy nghĩa làm cốt: lấy lễ mà làm, lấy khiêm tốn mà thi thố ra, lấy ḷng tin mà thành tựu thật là Quân tử vậy thay!). (Luân Ngữ: Vệ Linh Công, XV).

 

Nghĩa là cái gốc của muôn sự, cho nên bao giờ cũng phải lấy nghĩa làm cốt. Làm điều nghĩa th́ cần có tiết văn, thi thố điều nghĩa ra th́ cần có tốn nhượng, thành được điều nghĩa là ở chỗ thành thực. Đó mới thực là việc người Quân tử.

 

“Quân tử động nhi thế vi thiên hạ đạo, hành nhi thế vi thiên hạ pháp, ngôn nhi thế vi thiên hạ tắc, viễn chi tắc hữu vọng, cận chi tắc bất yếm”. (Quân tử cử động có thể đời đời làm đạo cho thiên hạ, hành vi có thể đời đời làm khuôn phép cho thiên hạ, nói năng có thể đời đời làm chuẩn tắc cho thiên hạ, người ở xa có trông mong, người ở gần không bao giờ chán). (Trung Dung).

 

“Quân tử chi đạo, đạm nhi bất yếm, giản nhi văn, ôn nhi lư”. (Đạo của người Quân tử nhạt mà không chán, giản dị mà có văn vẻ, ôn ḥa mà hợp lư). (Trung Dung).

 

Đạo của Quân tử mới đầu tưởng là đạm bạc, nhung lâu càng hiểu ra càng lấy làm hay, cho nên không chán; đạo ấy giản dị mà biền biệt rơ các nghĩa lư, cho nên mới có văn; ôn nhuận mà chính trực cho nên mới hợp lư.

 

Đạo Quân tử cao thâm thanh nhă như vậy, ai muốn theo th́ phải lập chí mà học tập. Khổng Tử nói rằng: “Quân tử bất trọng, tắc bất uy, học tắc bất cố. Chủ trung tín vô hữu bất như kỷ giả, quá tắc vật đạn cải”. (Quân tử không hậu trọng th́ không uy nghiêm, học không kiên cố. Chủ ở sự trung tín, không bạn với người không làm điều nhân như ḿnh, có điều lỗi th́ chớ sợ t́m cách mà sửa đổi). (Luận Ngữ: Học Nhi, I).

 

Quân tử phải gây nuôi lấy phần thâm hậu ở trong cho trịnh trọng, th́ rồi cái dáng điệu ở ngoài mới có vẻ uy nghiêm và sự học của ḿnh mới được kiên cố.

 

Nếu ở trong mà khinh phù th́ ở ngoài không có uy nghiêm và sự học của ḿnh không có ǵ là chắc chắn. Giữ được như thế rồi cứ lấy trung tín làm chủ, t́m bạn hay hơn ḿnh mà học tập. Hễ thấy ḿnh có điều ǵ sai lầm là phải sửa đổi ngay. Ấy là cách học và tu dưỡng rất hay vậy.

 

Người Quân tử hành đạo cốt ở thân ḿnh, làm việc ǵ sai lầm là minh phải tự trách ḿnh, tựa như người đi tập bắn, bắn không trúng bia là tại ḿnh ngắm không ngay.

 

Vậy nên Khổng Tử nói: “Xạ hữu tự hồ Quân, thất chư chính hộc, phản cầu chư kỳ thân”. (Người tập bắn cũng tựa như người Quân tử, bắn không trúng bia th́ tự xét lại mính). (Trung Dung).

 

Người Quân Tử thấy điều thiện th́ phải cố làm cho được, thấy điều ác th́ phải sợ hăi, như lời cổ nhân đă nói: “Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang”.(Thấy điều thiện phải cố làm như là theo không kịp, thấy điều bất thiện th́ phải sợ hăi như tḥ tay vào nước sôi). (Luận Ngữ: Quư Thị, XVI).

 

Học làm Quân tử th́ phải thành thực, không bao giờ dối ḿnh mà làm hại cái biết của ḿnh.

Khổng Tử nói: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giă”. (Cái ǵ biết th́ cho là biết, cái ǵ không biết th́ chịu là không biết, ấy là biết vậy). (Luận Ngữ: Vi chính, II).

 

Sự lư trong thiên hạ vô cùng ta không thể biết hết được. Vậy cái ǵ quả thật ta biết th́ ta nhận là biết; cái ǵ ta không biết th́ ta không nhận là biết.

 

Như thế tuy có điều ta không biết nhưng cái bản tâm của ta vẫn không tự khi, mà cái bản thể chân thực của sự biết cũng không bị mờ tối, ấy là sự biết đó rồi. Lấy cái tâm thành thực ấy mà đối với sự học vấn để biện biệt sự phải trái, để suy nghĩ điều hay dở th́ sự biết của ta mới có thể tiến được.

 

Muốn là Quân tử th́ phải giữ đủ cả phần chất phác ở trong và phần văn hoa bên ngoài, đừng để chếch lệch về phần nào.

 

Khổng Tử nói: “Chất thắng văn tất dă, văn thắng chất tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu Quân tử”. (Chất hơn văn th́ quê mùa, văn hơn chất th́ kém ḷng thành thật; văn chất đều đều nhau, nhiên hậu mới thật là Quân tử). (Luận Ngữ: Ung Giă, VI).

 

Chất phác mà quá hơn văn vẻ là thô lỗ, văn vẻ mà quá hơn chất phác là hào nháng bề ngoài, trong không có ǵ là thực. Bởi vậy phải có văn và có chất đều nhau, đừng để bên nọ hơn bên kia th́ mới thật là Quân tử vậy.

 

Người Quân tử thật là hoàn toàn th́ rất khó.

Thầy Tử Lộ hỏi Khổng Tử thế nào là người hoàn toàn, Ngài nói rằng: “Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yêu bất vong b́nh sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hỹ”. (Thấy lợi nghĩ đến nghĩa, thấy sự nguy cấp th́ trao mệnh ḿnh mà chống lại, lời giao ước đă lâu năm mà không quên, người ấy cũng khá cho là người hoàn toàn vậy). (Luận Ngữ: Hiến Văn, XIV).

 

Thầy Nhan Uyên hỏi cái đức hạnh của người hoàn toàn là như thế nào, Khổng Tử nói rằng: “Thành nhân chi hạnh, đạt hồ t́nh tính chi lư, thông hồ vật loại chi biến tri u minh chi cố, đổ du khí chi nguyên, nhược hữu khả tắc vị thành nhân. Kư tri thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa, sức thân dĩ lễ nhạc. Phù nhân nghĩa lễ nhạc, thành nhân chi hanh giă, cùng thần tri hóa, đức chi thịnh giă”. (Đức hạnh của bâc Thành nhân là: Đạt cái lư của t́nh tính, suốt cái biến của vật loại, biết cái cớ u minh, rơ cái nguồn du khí (như là sống chết hồn phách), như thế gọi là bậc thành nhân. Đă biết Đạo Trời, lại đem ḿnh làm những điểu nhân nghĩa, trang sức ḿnh bằng lễ nhạc. Nhân nghĩa lễ nhạc là cái hạnh của bậc thành nhân, cùng thần tri ḥa, cái đức đến thế thật là thịnh vậy). (Khổng Tử tập ngữ: Sở phạt Trần, XVIII). (1)

 

Cái phẩm giá của bậc người Quân tử hoàn toàn cao như thế, sự học vấn rộng như thế, không thể lấy cái tư cách của hạng người tầm thường chỉ bo bo những việc thiển cận trước mắt mà ví được. Vậy nên người đi học muốn theo đạo của người Quân tử cần phải cố gắng lắm.

 

_______

 

*Chú thích:

(1) Sách Khổng Tử tập Ngữ ba quyển của Tiết Cứ đời Tống, nhặt những lời nói của Khổng Tử trong các sách mà làm ra. Đến đời Thanh lại có Tôn Tinh Diễn làm lại là 17 Quyển.

 

http://www.banthedao.org/QuanTuTieuNhan.html

 

 

Khổng Tử: Tránh người chứ không tránh đời

 

Thiên “Khổng Tử thế gia”, trong bộ “Sử kư”, Tư Mă Thiên có ghi lại cuộc tṛ chuyện giữa Tử Lộ và vị ẩn sĩ Kiệt Nịch. Khi biết Tử Lộ là người học tṛ yêu của Khổng Tử, Kiệt Nịch đă nói ngay: “Thiên hạ như nước chảy cuồn cuộn đều thế cả. Vả lại, ông theo một kẻ sĩ lo tránh người chi bằng theo một kẻ sĩ lo tránh đời”…

Sau này, nghe Tử Lộ thuật lại câu nói đó, Khổng Tử đă bùi ngùi thốt lên: “Ta không thể sống cùng chim muông. Nếu thiên hạ có đạo th́ ta cần sửa nó làm ǵ?!”.

 

“Nhu quyền”nhập thế

 

Làm kẻ sĩ, ai cũng cần phải lo thân. Nhưng lớn hơn nỗi lo đó phải là nỗi lo cho thiên hạ. Khổng Tử là người có nỗi lo này. Mà trong bất cứ thời đại nào cũng vậy, muốn góp sức ḿnh lo cho thiên hạ th́ kẻ sĩ gần như chỉ có một con đường duy nhất là phải nhập thế. Và Khổng Tử cũng đă chọn con đường này. Ông không lảng tránh thực tại dù giai đoạn mà ông sống (661-478 trước CN) hoàn toàn không phải là “kỷ nguyên vàng” trong lịch sử Trung Hoa.

 

Ngay từ trẻ, trong một lần được gặp Lăo Tử ở đất Chu, ông đă được bậc đàn anh minh triết và nhân đức tặng cho những lời gan ruột: “Kẻ thông minh và sâu sắc là gần cái chết v́ họ khen chê người ta một cách đúng đắn. Kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy đến thân ḿnh v́ họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách ǵ để giữ ḿnh. Kẻ làm tôi không có cách ǵ để giữ ḿnh”… Biết vậy nhưng Khổng Tử vẫn dấn thân vào những nẻo đường cát bụi theo cách của riêng ḿnh, lấy “nhu” thuần “cương”...

 

Lớn lên trong một gia cảnh nghèo khó, chỉ nhờ những nỗ lực tu thân không mệt mỏi mà Khổng Tử mới vươn lên trở thành một danh trí đường thời.  Thông tuệ nhưng ông không bao giờ kiêu căng: “Ta chẳng phải sinh ra đă biết tất cả, là do ưa thích đạo cổ xưa, cần mẫn t́m học hỏi mà nên”. Tự trọng nhưng ông không bao giờ cố chấp. Ông từng nói: “Bá Di, Thúc Tề không nhớ oán giận cũ, nên hiếm người giận họ”. Có lẽ chính nhờ thế nên ông từng được rất nhiều bậc vương giả trọng dụng, hầu như đến đâu ông cũng được vời vào cung cấm để bàn chính sự.

 

Năm 56 tuổi, ông c̣n được Lỗ Định Công đưa lên chức tướng quốc… Khi một môn đệ của ông là Tử Cầm đă hỏi bạn đồng môn là Tử Cống về bí quyết khiến Khổng Tử hay được vời vào tham dự chính sự, nhờ “do thầy cầu xin hay do người ta yêu cầu” th́ Tử Cống đă lư giải như sau: “Thầy Khổng có đức tính ôn, lương, cung, kiệm, nhường nhịn nên được như vậy. Cách cầu việc của thầy khác với lối xin việc của người khác”.

 

Gieo hạt nhân nghĩa

 

Không (không thể) tránh đời không hợp mà chỉ (chỉ có thể) tránh được người không hợp nên Khổng Tử chủ trương truyền bá những tiêu chí nhân văn để thiên hạ ngày một nhiều hơn những người có quyền mà vẫn có đức theo các tiêu chí mà ông suy tôn. Trong cách nh́n của ông, không nhất thiết phải đứng ra cầm quyền mới là làm chính trị v́ Kinh Thượng Thư viết rằng: Ta chỉ thực hiện đạo hiếu, sống với anh em. Phổ biến đạo ra khắp chính trường, cũng là làm chính trị rồi, cứ ǵ phải ra làm chính trị?”.

 

Theo Khổng Tử, một xă hội lành mạnh phải là nơi mà mỗi người trong chúng ta hành xử theo đúng vị trí đang giữ. Khi Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử  về việc làm chính trị th́ phải như thế nào, ông đă đáp:

 

- Vua phải theo đúng đạo làm vua, tôi phải theo đúng đạo làm tôi, cha phải phải theo đúng đạo làm cha, con phải theo đúng đạo làm con!

 

Muốn mọi người làm theo đúng phận sự của ḿnh th́ người cầm quyền cũng cần phải biết cách sắp xếp mọi người vào đúng chỗ của họ. Khi Lỗ Ai Công hỏi cách làm sao cho dân phục, Khổng Tử đă nêu ra rất ngắn gọn nguyên tắc mà có lẽ ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời nào cũng có thể làm khẩu hiệu của công tác tổ chức cán bộ: “Bổ nhiệm người ngay thẳng trên kẻ ác, ắt dân phục. Xếp kẻ ác trên người ngay thẳng th́ dân không phục”.

 

Theo cách nh́n của ông, trong một xă hội, một quốc gia, “ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài”, mọi sự hay hay dở đều chủ yếu phụ thuộc vào cách hành xử của người cầm quyền, của sếp trưởng. Xưa nay, nhà cầm quyền nào cũng cần làm mọi việc để cho xă hội mà ḿnh cai trị được ổn định, v́ không an cư th́ không thể lạc nghiệp được. Mà muốn xă hội ổn định th́ người cầm quyền phải có đức, phải hành xử theo các nguyên tắc đạo đức. Ông nhắc nhủ các quân vương: “Cầm quyền phải có đức, giống như sao Bắc Đẩu ở nơi cố định cho các ngôi sao vây quanh”. Khổng Tử chủ trương nhân trị: “Khổng Tử nói: Lănh đạo dân bằng pháp luật đều dùng h́nh phạt, dân có thể tránh được sai phạm nhưng mất ḷng tự trọng. Lănh đạo dân bằng đức độ và lễ khiến người ta biết xấu hổ mà tự cảm hóa”.

 

Tất nhiên, ở thời hiện đại, chúng ta đều hiểu rằng, nếu chỉ làm theo lời Khổng Tử không thôi th́ không chỉ không đủ mà c̣n dễ khiến xă hội trở nên xộc xệch bởi tâm trạng hoàn toàn có thể “sớm nắng chiều mưa” hay tư lợi của người cầm quyền v́ không có những cột mốc vững chăi và nghiêm khắc làm chuẩn mực. Thế nhưng không phải v́ thế mà tư tưởng nhân trị lại hoàn toàn bị phá giá v́ nói cho cùng, không hướng tới một cứu cánh nhân văn th́ mọi nỗ lực xây dựng và phát triển xă hội loài người đều có thể hóa thành lợi bất cập hại.

 

Nói được làm được

 

Khi Tử Lộ hỏi về người quân tử, th́ Khổng Tử nói: “Tu dưỡng ḿnh kính cẩn”. Tử Lộ lại hỏi tiếp: “Như thế là đủ ư?” th́ lời đáp là: “Tu dưỡng ḿnh để làm yên người khác.” Tử Lộ lại lặp lại câu hỏi thứ hai th́ Khổng Tử mới nói: “Tu dưỡng bản thân để làm yên trăm họ. Việc này khó đến nỗi vua Nghiêu, vua Thuấn c̣n khó làm được”.

 

Với chủ trương hành đạo rồi mới truyền đạo (sách Luận ngữ chép: “Tử Cống hỏi về quân tử. Khổng Tử đáp: Trước hết, thực hành lời ḿnh nói, sau mới nói ra”), nên Khổng Tử trong bất cứ t́nh huống nào của cuộc đời, dù oái oăm đến mấy, đều luôn giữ được một tinh thần lạc quan. Chủ trương “cầu việc” của ông  giữa thói đời đen bạc thể hiện trong câu nói: “Chẳng lo buồn v́ không có địa vị, chỉ lo không có đức tài xứng với địa vị ấy. Không cần lo người khác không hiểu ḿnh, nên lo làm sao có năng lực khiến cho người khác biết ḿnh”.

 

Thông thường, Khổng Tử luôn giữ thái độ khiêm nhường và không bao giờ quá cáu giận khi những lời khuyên bảo anh minh của ông không được những đối tượng cần tới chúng thực hiện. Nhưng khi đă cầm cờ trong tay th́ ông cũng thừa đủ kiên quyết để thực hiện đúng theo những nguyên tắc mà ông đă chủ trương. Được nắm quyền tướng quốc của nước Lỗ, Khổng Tử thực sự góp phần làm cho t́nh h́nh ở đây thay đổi một cách căn bản.

 

Mặc dù là người nhân nghĩa nhưng ông cũng không ngại ra lệnh giết quan đại phu mắc tội làm rối loạn chính sự nước Lỗ là Thiếu Chính Măo. Những biện pháp cai quản đất nước nghiêm túc của ông đă mau chóng dẫn tới kết quả nhỡn tiền. Sách Sử kư của Tư Mă Thiên kể: “Sau khi (Khổng Tử) tham dự chính quyền trong nước ba tháng, những người bán cừu bán lợn trong nước không dám bán thách, con trai con gái ở trên đường đi theo hai phía khác nhau, trên đường không nhặt của rơi. Những người khách ở bốn phương đến thành ấp không cần phải nhờ đến các quan, bởi v́ người ta đều xem họ như người trong nhà…”.

 

Người trước, ḿnh sau

 

Khổng Tử đă tổng hợp lại rất nhiều quy tắc dành cho các bậc quân tử, tức là h́nh mẫu mà cả người trên lẫn người dưới trong xă hội đều muốn noi theo hoặc trở thành người quân tử. Khổng Tử luôn đặt vai tṛ người quân tử trong xă hội lên vị trí chủ đạo, coi đây là động lực phát triển chính yếu của sự phát triển. H́nh mẫu bậc quân tử trong cách nh́n của ông như sau: “Quân tử ăn không cầu no, chỗ ở không cầu an toàn quá mức, làm việc minh mẫn mà lời nói thận trọng, là kẻ có đạo chính đáng, có thể gọi là người hiếu học”. Tử Cống hỏi: “Nghèo khổ mà không nịnh bợ, giàu có mà không kiêu ngạo, như vậy được chưa?”, Khổng Tử đáp: “Như vậy là được, nhưng không bằng nghèo mà lạc quan, giàu mà chuộng học lễ nghĩa”. Cũng phải nói rằng, Khổng Tử không bao giờ chủ trương học vẹt, mà ông luôn đề cao cách học có suy nghĩ. Ông nói: “Học mà không suy nghĩ sẽ trở nên rối rắm, chỉ suy nghĩ mà không học sẽ rất mỏi mệt”. Ông cũng từng nói với môn đệ tên là Tử Hạ: “Ngươi nên trở thành học tṛ quân tử, không nên trở thành học tṛ tiểu nhân”. Ông cũng nói: “Đức hạnh mà không tu dưỡng, học không giảng giải, thấy việc nghĩa không làm, mắc điều sai không chịu sửa chữa, đó là những nỗi lo của ta”.

 

Khổng Tử có cách nh́n rất chuẩn mực về lối sống lành mạnh của người quân tử: “Quân tử nói năng chậm răi, thực hành th́ nhanh nhẹn”.

 

Theo ông, bậc quân tử luôn phải biết phê b́nh và tự phê b́nh khi đặt ḿnh trước những kẻ tiểu nhân: “Người quân tử chỉ biết điều nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết điều lợi… Quân tử nghĩ đến đạo đức, tiểu nhân nghĩ đến đất đai… Quân tử coi trọng h́nh thức phép tắc, tiểu nhân chỉ mong ân huệ…”. Và trước cả người hiền: “Nh́n thấy người hiền th́ noi theo, thấy kẻ không hiền th́ xem xét lại ḿnh”. Ông chủ trương: “Quân tử không cần tranh đua, có thể tranh đua khi bắn cung thôi. Vái chào khi bước lên bắn, xong ngồi uống rượu nâng chén mừng nhau - đó mới chính là lối tranh đua của quân tử”.

 

Khổng Tử nhân ái nhưng không phải là người dễ dăi với cái xấu. Tử Cống hỏi: “Người quân tử có ghét ai không?”, Khổng Tử nói: “Có ghét. Ghét kẻ đi nói xấu người khác, ghét cấp dười gièm pha cấp trên, ghét người dũng mà không giữ lễ, ghét người quả quyết mà không thông hiểu lư lẽ…”. C̣n môn đệ Tử Cống th́ lại ghét “kẻ hay ŕnh ṃ người khác mà tự nhận người trí, ghét kẻ thiếu khiêm tốn mà nhận ḿnh là dũng, ghét người bới móc chuyện riêng tư người khác mà tự nhận ḿnh là liêm…”.

 

Khổng Tử là bậc quân tử không chỉ của một thời mà của muôn đời. Có điều, khi tóc ngả màu sương th́ câu hát quen thuộc của ông vẫn là: “Miệng của đàn bà kia có thể làm cho ta bỏ chạy/ Những người đàn bà kia đến thăm có thể làm cho nước mất nhà tan/ Ta đi lang thang phiêu bạt cho đến hết đời”. Âu đó cũng là số phận thường gặp của những bậc hiền triết.

 

Lưu Hùng Văn

 

 


 


 

 

 

 

 

http://www.youtube.com/user/kimau48?feature=mhee

http://www.youtube.com/user/khieuvusaigon#g/u

http://www.youtube.com/user/vgdoanchinhthuan?feature=watch

 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: