MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Diễn Đàn ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎ Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa ֎ Đà Lạt

 

 

 

TÂM TÌNH NGƯỜI VIẾT SỬ  

 

Lê Quế Lâm     

 

 

Bài viết này xin kính tặng Giáo sư Vũ Quốc Thúc như món quà mừng thượng thọ 98 tuổi của cụ. Chỉ còn 2 năm nữa, tác giả quyển Thời Đại Của Tôi sẽ tròn 100 tuổi để nhìn lại lịch sử 100 năm của dân tộc sẽ kết thúc ra sao?  

Thời đại của Giáo sư Vũ Quốc Thúc cũng là Thời Đại Của Dân Tộc, trong 100 qua đã trải qua 3 thời kỳ, như những người CS thường nói: thời thực dân cũ của Pháp, thời thực dân mới của Mỹ và thời Bắc thuộc mới. Xen kẻ vào đó là 3 cuộc chiến đẫm máu: Chiến tranh Đông Dương lần 1 (1946-1954). Chiến tranh Đông Dương lần 2 (1960-1975) và Chiến tranh Đông Dương lần ba (1979-1989). 

Nhìn lại lịch sử đất nước 100 năm qua, Giáo sư kết luận: “Tương lai đất nước tùy thuộc rất nhiều ở cách suy tư cũng như xử sự của mọi người Việt, đặc biệt của những kẻ đang cầm quyền”. Với bài này, tôi vững tin Thời Đại Của Tôi (Gs VQT) sẽ kết thúc tốt đẹp, đưa dân tộc bước sang một Thời Đại Mới sáng lạn huy hoàng. Đây là niềm vui lớn của Giáo sư ở tuổi cuối đời. Một Hồng ân Thiên Chúa dành đứa con đã dành cả cuộc đời phục vụ đất nước trực tiếp hoặc gián tiếp qua các thời biến đau thương của lịch sử dân tộc.  

Lê Quế Lâm

 

  

Người ta đã tốn không biết bao nhiêu là giấy mực để nói đến biến cố Việt Nam năm 1975, khi Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh để Miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản. 

Trong hơn một thập niên (3/1965-4/1975), HK đã dốc toàn lực vào cuộc chiến VN để thực hiện mục tiêu cao cả mà họ thường tự hào là dùng sức mạnh để bảo vệ nền tự do và vãn hồi hòa bình cho các dân tộc. Sau khi đạt thắng lợi với kết quả là Hiệp định Paris 1973, chỉ còn một bước nữa, nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ có được cơ hội quyết định tương lai mình mà không bị bên ngoài cưỡng ép hay can thiệp…Nhưng cuối cùng HK lại chối bỏ mọi cam kết trong thời điểm mà nền tự do và sự sống còn của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đang bị đe dọa nặng nề nhất.

Ngày 10/4/1975 trong buổi tường trình trước Quốc hội về tình hình VN sau khi một nửa lãnh thổ VNCH (Vùng I và II Chiến thuật) lọt vào tay Cộng sản Bắc Việt, Tổng thống Gerald Ford đã gián tiếp cho phép Hà Nội tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh đưa đại quân tiến chiếm Sài Gòn. Ông trình bày những lý do khiến Hoa Kỳ đã không trả đũa những hành động vi phạm hiệp định của Bắc Việt vì “luật pháp của chúng ta đã tự kiềm chế bảo vệ hiệp định, và điều này bảo đảm cho Bắc Việt là họ có thể vi phạm hiệp định mà không bị trừng phạt.Tiếp đó chúng ta lại giảm bớt viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam. Cuối cùng chúng ta tỏ dấu hiệu không muốn ủng hộ đất nước này trong cuộc chiến sinh tử của họ”.

Hai tuần sau, trong diễn văn đọc tại Viện Đại học Tulane ngày 23/4/1975, Hoa Kỳ đã quyết định bỏ rơi miền Nam Tự do khi Tổng thống Ford tuyên bố: “Vai trò của Mỹ tại Việt Nam kể như đã chấm dứt và nước Mỹ sẽ không trở lại cuộc chiến mà riêng đối với Mỹ đã coi là xong rồi”. Hoa Kỳ đã chính thức bật đèn xanh cho Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam -người đã mật đàm với Kissinger để chấm dứt chiến tranh Việt Nam- cùng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ đạo 4 Quân đoàn Cộng quân chiếm trọn Miền Nam vào ngày 30/4/1975.

Bí ẩn cuộc chiến VN đã làm nhức nhối tim óc nhiều người. Hàng ngàn quyển sách đã đề cập đến nó, nhưng vẫn chưa có một giải đáp hữu lý và đầy đủ. Không những MNVN -những người đã chiến đấu và gục ngã ngay tại tiền đồn của Thế giới Tự do- đã và đang âm thầm tìm hiểu mà cả thế giới cũng khó có thể hiểu được sự lùi bước của HK, một siêu cường quốc tự nhận có sứ mạng lãnh đạo cuộc thập tự chinh tiêu diệt các chế độ bạo tàn. Chính họ đã góp phần đắc lực nhất kết thúc hai trận đại chiến thế giới và chận đứng sự xâm lăng của Cộng sản Bắc Triều Tiên, bảo vệ nền độc lập tự do của nhân dân Nam Triều Tiên. Cũng chính họ đã dùng sức mạnh để kết thúc chiến tranh VN bằng một giải pháp hòa bình trong danh dự, không có kẻ thắng người bại. có lợi không những cho VN, cho khu vực Đông Nam Á, cho cả Liên Xô (LX) và Trung Cộng (TC)…Nhưng sau đó, họ lại chấp nhận rút lui, bỏ rơi đồng minh trong cuộc chiến đấu một mất một còn cho lý tưởng tự do.

Cá nhân tôi, người viết bài này là một chứng nhân của cuộc chiến đau thương của dân tộc, đã được Quân đội bố trí làm công tác nghiên cứu chiến tranh VN. Đúng một năm sau khi HK  đưa 2 Tiểu đoàn TQLC đổ bộ lên Đà Nẵng, mở đầu giai đoạn can thiệp trực tiếp vào VN, đầu tháng Ba năm 1966 tôi được lịnh nhập ngũ. Sau khi tốt nghiệp khóa 22 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, tôi được bổ sung về ngành Quân Báo, phục vụ tại Trung Tâm Khai Thác Tài Liệu Hỗn Hợp (Combined Documents Exploitation Cente, viết tắt CDEC). Đây là cơ quan do Mỹ thiết lập, trực thuộc Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH và Phòng 2 Bộ Tư lịnh MAC-V (Military Assistance Command, Vietnam ). Nhờ mội trường này tôi hiểu rõ hơn về cuộc chiến. Nơi đây lưu trữ hầu hết các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng (Lao động Việt Nam) và Trung ương Cục (Miền Nam). Các tài liệu này đều có phần mở đầu nhận định tình hình trong và ngoài nước. Từ đó họ tiên liệu các tình huống sẽ xảy ra, để có phương hướng và hành động thích hợp.

Riêng tôi, qua sự ghi nhận có chọn lọc nội dung các tài liệu quan trọng trên, tôi biết được phần nào những gì xảy ra trong nước và dư luận thế giới về cuộc chiến, nói chung khá bất lợi cho VNCH. Giới lãnh đạo Miền Nam, hình như không muốn biết những sự thật này, trong khi phía Mỹ, họ chuyển dịch sang Anh ngữ các tài liệu quan trọng, đồng thời chụp microfilm chuyển về Mỹ. Người Mỹ, họ khai thác tin tức tài liệu, không những của Cộng sản mà cả báo chí Việt ngữ ở Sài Gòn. Có lần họ đưa cho tôi xem một bài báo đề cập đến hành vi tham nhũng của một tướng lãnh VNCH và nhờ tôi đánh giá như thế nào? Tôi trả lời, chúng ta chỉ khai thác tài liệu của CS mà thôi, đây là tờ báo của chế độ VNCH. Viên Đại úy Mỹ trả lời: nhiệm vụ của người làm tình báo phải tìm hiểu cả bạn lẫn thù. Lúc đó tôi chưa biết câu nói thâm thúy của Lord Palmerston, người đã hai lần làm thủ tướng nước Anh hồi giữa thế kỷ 19: “Nations have no permanent friends or allies, they only have permanent interests”.

Hàng đống tài liệu từ chiến trường chuyển về CDEC hàng ngày giúp tôi mường tượng được cảnh chiến trường ác liệt bi thảm ngoài mặt trận khi thấy Quân đội HK và Đại Hàn đang kịch kiến, quần thảo với những sư đoàn chính qui thiện chiến của CSBV ở khắp nơi, từ mạng Bắc Sài Gòn kéo dài đến Quảng Trị. Đồng thời tôi cũng biết được cuộc đấu tranh ngoại giao ở bàn đàm phán Paris giữa TS Kissinger và ông Cố vấn Lê Đức Thọ cũng gay gắt sôi động như cuộc chiến đẫm máu trong nước.

Được dịp nghiên cứu chiến tranh VN, tôi cố công tìm hiểu mối liên hệ lịch sử giữa Việt Nam và Đông Dương với các cường quốc thế giới như Pháp, Anh, Nhật, Mỹ, Trung Hoa, Liên Xô…Các mối liên hệ này kéo dài cả 100 năm kể từ khi Pháp đô hộ Việt Nam. Có thể nói việc nghiên cứu khá toàn diện, ngoài chiều dài thời gian, chiều rộng thế giới, tôi còn để ý đến chiều sâu, tìm hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện ước của những người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận, đặc biệt là những cán binh Cộng sản miền Bắc.   

Sau biến cố 30/4/1975, cũng như hầu hết anh em Quân Dân Cán Chính VNCH, tôi bị tập trung cải tạo. Trong thời gian này, chiến tranh lại bùng nổ ở biên giới Việt Miên, giữa CSVN và Khmer Đỏ. Cuộc xung đột này đã ầm ỷ diễn ra từ khi Hà Nội xử dụng đất nước Chùa Tháp làm bàn đạp xâm nhập, thực hiện mưu đồ giải phóng Miền Nam. Mối xung đột trở nên trầm trọng sau khi Hiệp định Paris 1973 ra đời. Từ tháng Giêng 1973 HK mở các cuộc oanh kích liên tục vào các căn cứ địa Khmer Đỏ để áp lực Pol Pot ngồi vào bàn đàm phán, kết thúc chiến tranh ở Cam Bốt.

Từ giữa năm 1974 tôi đã thấy mầm móng của cuộc xung đột mới này khi tôi được lịnh sang Phnom Penh khai thác một số tài liệu quan trọng do Quân đội Lon Nol tịch thu. Lúc bấy giờ thủ đô Cam Bốt gần như bị bao vây tứ phía, chỉ chờ ngày thất thủ…Tài liệu lại đề cập đến một chi tiết mới lạ là những cuộc xung đột xảy ra giữa lực lượng Khmer Đỏ và bộ đội CSVN trên đất Miên. Nội dung tài liệu tiết lộ các lãnh tụ Khmer Đỏ lên án CSVN đã thỏa hiệp với Mỹ kết thúc chiến tranh ở VN để giúp Mỹ tăng cường nổ lực tiêu diệt lực lượng kháng chiến Campuchia. Các lãnh tụ Khmer Đỏ yêu cầu Hà Nội phải rút hết quân khỏi Campuchia, đồng thời ra lịnh thuộc cấp ngăn chận, đánh phá các hoạt động thu mua lương thực của bộ đội CSVN trên đất Miên. 

Bốn năm sau, khoảng cuối năm 1978 đầu 1979, tôi đang ở K4 Trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú được anh Nguyễn Uyên cho biết một số tin tức nóng bỏng từ Đài BBC như: CSVN đưa quân sang Miên lật đổ chế độ Pol Pot. TC thiết lập bang với HK, chiến tranh xảy ra ở biên giới Việt Trung…Anh Uyên là Đại úy Tâm lý chiến được trại giam xử dụng làm trật tự thi đua cùng anh Nguyễn Long Hải (Hải mù, nghe nói sau này là Luật sư ờ California). Từ trại tù Lào Cai, anh Uyên là hung thần đối với một số anh em cải tạo, tạo khá nhiều oán hận đối với họ. Nhưng anh lại tin tôi và dám thổ lộ đã lén nghe đài BBC và tiết lộ những tin cực kỳ phản động. Vì là thi đua, anh được ngủ riêng bên ngoài trại giam, anh biết sửa radio nên vệ binh và cán bộ thường nhờ anh lợi dụng thời giờ rảnh ban đêm sửa dùm họ. Do đó anh rà đài BBC nghe những tin tức như tôi kể trên.

Cuối năm 1982, tôi được phóng thích. Mùng Ba Tết năm Giáp Tý 1984 tôi vượt biên đến Mã Lai và định cư ở Sydney Úc Châu từ đầu tháng Mười năm 1984. Từ thời điểm này tôi tiếp tục nghiên cứu cuộc chiến Việt Nam. Cuộc chiến này chưa chấm dứt ngày 30/4/1975 mà màn kế tiếp rất hấp dẫn, đầy ngạc nhiên khi thấy các nước CS anh em lại trở mặt đánh nhau. Mới ngày nào, vào trại cải tạo, bài học chính trị đầu tiên của CS truyền đạt là “Đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân loại”. Nay TC lại cho rằng “Đế quốc xã hội chủ nghĩa là kẻ thù nguy hiểm nhất của loài người”.

Về phần HK, sau khi chính thức chấm dứt sự can dự ở VN, họ bước vào thời kỳ chiến lược sau Việt Nam. HK lui về thế thủ, giải kết một số trách nhiệm quốc tế, thực hiện chính sách bất can thiệp để tạo bầu không khí hòa dịu thế giới, thì LX mở rộng ảnh hưởng khắp thế giới. Sau 3 nước Đông Dương, đến lượt Mozambique lọt vào tay CS năm 1975, Angola năm 1976, Ethiopia năm 1977, Nam Yemen năm 1978, tiếp theo là Nicaragua. Sự lấn chiếm của CS đã lên đến cao độ hồi cuối năm 1978 khi CSVN ngang nhiên đưa 18 vạn quân xâm lăng Cam Bốt, và cuối năm đó Hồng quân LX tràn vào Afghanistan lật đổ chính quyền hợp pháp của xứ này. Không những hòa bình thế giới bị đe dọa mà chính uy tín và sức mạnh của Mỹ cũng bị thử thách nghiêm trọng. Chính quyền mới ở Iran sau khi lật đổ chế độ thân Mỹ của Quốc vương Palhevi, đã bất chấp qui luật ngoại giao bắt giữ toàn bộ nhân viên sứ quán Mỹ ở Tehran để làm con tin trong gần 15 tháng.

Sự lấn chiếm của CS đã giúp giới lãnh đạo Mỹ có lý do chấm dứt giai đoạn thối lui sau Việt Nam, để bước vào thời kỳ chiến lược mới. Với chủ trương “trừng phạt CS không nhân nhượng”, Ronald Reagan được nhân dân Mỹ tín nhiệm để lãnh đạo đất nước trong giai đoạn chiến lược sau của sau Việt Nam. TT Reagan đã kéo nước Mỹ ra khỏi giai đoạn nhục nhã từ 1975 đến 1980. Ngày nay họ đã ý thức được rằng: Mỹ là cường quốc có quyền lợi khắp toàn cầu, uy tín và quyền lợi sống còn đòi hỏi họ phải có sức mạnh và sẳn sàng dùng đến sức mạnh để bạn lẫn thù phải nể sợ. Và cũng từ thời điểm này, hình ảnh can thiệp của HK vào cuộc chiến VN lại được nhắc nhở trong cung cách khác.

Song song với việc xây dựng tượng đài cẩm thạch hình chữ V (Victory) khắc ghi tên tuổi 58,315 đứa con ưu tú của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã bỏ mình vì chính nghĩa tự do ở VN. TT Reagan còn nói: “Đã đến lúc chúng ta thừa nhận rằng sự can thiệp của chúng ta thật ra là một lý tưởng cao đẹp” (It is time we recognized that ours, in truth, was a noble cause)

Một tháng sau ngày nhậm chức, ngày 24/2/1981 tại Ngũ Giác Đài, đích thân TT Reagan trao gắn huy chương cao quí nhất của nước Mỹ -Huân chương Danh dự của Quốc hội, để tưởng thưởng công trạng của Thượng sĩ Roy P. Benavider, một trong gần 3 triệu rưỡi binh sĩ HK đã chiến đấu ở VN. Ông tuyên bố: Cách đây không lâu, những chiến binh Mỹ đã hồi hương, đó là những con dân đã đáp lời kêu gọi của đất nước và đã chiến đấu anh dũng như bất cứ người Mỹ nào trong lịch sử chúng ta.  Họ chiến đấu trở về không mang theo chiến thắng, không phải vì họ bị đánh bại mà vì họ không được phép chiến thắng.(They came home without a victory not because they’d been defeated, but because they’d been denied permission to win) Dân biểu Newt Gingrich Chủ tịch khối Cộng hòa ở Hạ Viện, còn nói rõ: “Chúng ta tạo ra một cuộc chiến mà chúng ta sẽ thất trận và chúng ta đã điều hướng cái thua theo đường lối chúng ta đã vạch ra” (We designed a war we were going to lose, and we managed to lose in the way we designed it)

Từ khi lên nắm chính quyền, TT Reagan đã chận đứng sự bành trướng của CS. Ông từng bước vũ trang HK và được Quốc hội thỏa mãn hầu hết các yêu cầu của ông trong việc củng cố quốc phòng. Reagan tin rằng chỉ có thể thương thuyết với Liên Xô trên căn bản sức mạnh. Sức mạnh không phải để chèn ép LX mà chi đòi LX từ bỏ chính sách bá quyền, chấm dứt những hành động đàn áp nhân quyền. Trong khi đó tại Đông Âu, công nhân Ba Lan vùng lên tranh đấu, thành lập Công đoàn Đoàn kết (Solidarity) qui tụ đến 9,5 triệu đoàn viên chỉ trong thời gian ngắn. Sự lớn mạnh của Phong trào đấu tranh do Solidarity lãnh đạo đã làm rung đột tận gốc rễ khối Cộng sản Đông Âu.

Liên Xô đã điều động chiến xa dọc biên giới để sẳn sàng can thiệp như họ đã từng làm ở Hung Gia Lợi năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968, để dập tắt phong trào đấu tranh của công nhân Ba Lan…Nhưng mắc thế kẹt vì họ đã cùng Hoa Kỳ, Gia Nã Đại cùng 33 nước Âu châu ký kết Định kết cuối cùng ở Helsinki (đầu tháng 8/1975) về An ninh và Hợp tác toàn Âu. Các nước cam kết tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Ngoại trưởng Edmund Muskie cho biết đối với vấn đề Ba Lan, HK tôn trọng nguyên tắc bất can thiệp, nhưng nếu LX can thiệp bắt buộc HK phải hành động. Đáp lại thách thức của LX, yêu cầu HK hãy cam kết như LX “sẽ không phải là nước đầu tiên cho nổ bom nguyên tử”. HK trả lời: “HK là nước đầu tiên sẳn sàng cho nổ bom nguyên tử để bảo vệ hòa bình”. Ngoài sự đe dọa của Mỹ, Đức Giáo hoàng John Paul II cũng báo cho LX biết rằng nếu họ xua quân vào Ba Lan, Ngài sẽ trở về quê hương để chịu đau khổ cùng đồng bào của Ngài.

Năm 1975, Breznhev tin tưởng Định ước Helsinki sẽ trói tay HK không can thiệp vào Âu Châu, giúp LX bảo vệ được sự tồn tại của Đông Đức và khối Đông Âu. Nào ngờ, 6 năm sau chính Định ước này trói tay LX, giúp Ba Lan và khối Đông Âu thoát khỏi vòng kềm tỏa của LX. Có lẽ uất ức vì tính toán sai lầm này, chỉ trong vòng 26 tháng mà ba lãnh tụ tối cao LX lần lượt qua đời: Breznhev (10/11/1982), Andropov (9/2/1984) và Chernenko (10/3/1985). Từ khi nắm quyền lãnh đạo tối cao LX, Gorbachev đành chấp nhận sự tan rả của khối CS Đông Âu, đồng thời đề ra các biện pháp cải cách sâu rộng như chế độ tổng thống được thành lập, vai trò độc quyền lãnh đạo của đảng CS bị hủy bỏ, chế độ đa đảng được chấp nhận ở LX. Ngoài ra để dồn nổ lực vào việc cải cách kinh tế, Gorbachev rút quân khỏi Đông Âu, giải thể khối quân sự Warsaw và Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON.

Muốn hiểu rõ cuộc chiến VN phải đặt nó vào đúng bối cảnh thế giới lúc bấy giờ đang diễn ra cuộc xung đột giữa TGTD và QTCS, còn được gọi là chiến tranh lạnh. VN là một trong những đấu trường chính của cuộc xung đột, ngay từ lúc khởi đầu cho đến hồi kết thúc.  Chiến tranh VN kéo dài suốt thời chiến tranh lạnh (1947-1990) qua ba giai đoạn: Chiến tranh Đông Dương lần thứ 1 (1946-1954) kết thúc bằng Hiệp định Genève 1954. Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975) kết thúc bằng HĐ Paris 1973. Chiến tranh Đông Dương lần thứ 3 (1975-1991) kết thúc bằng HĐ Paris 1991 về Campuchia.

Tôi cố gắng ghi lại những diễn biến lịch sử theo đúng nguyên trạng của nó, kết hợp với tài liệu chính thức, để tạo thành một toàn cảnh chung của cuộc xung đột giữa hai siêu cường Nga Mỹ và cuộc chiến ở VN. Từ đó mới có thể thấy được những bí ẩn, góp phần giải thích tại sao HK tham chiến, lý do họ rút lui. Tôi quyết định viết một quyển sách để tường trình đến các chiến hữu và đồng bào hiểu được thực chất cuộc chiến đẫm máu, kết thúc trong đau thương nhưng lại tạo ra triển vọng tươi sáng cho dân tộc. Theo tôi, cục diện đất nước phải trải qua hai giai đoạn được tôi trình bày trong quyển Việt Nam: Thắng và Bại - Mất và Còn được ấn hành hồi tháng Năm năm 1987. Trong đó, tôi nhận định Thắng sẽ đưa đến Bại, cuối cùng là tiêu vong. Còn Bại, tạm thờ Mất tất cả nhưng kết cụộc lại Còn.

Trước khi cho phát hành sách, tôi gởi tặng Đại tá Hồ Văn Lời ở Paris để tỏ lòng tri ân vị cựu Trưởng phòng 2 Bộ TTM đã ký lịnh thuyên chuyển tôi về CDEC. Lúc bấy giờ Đại tá Lời đang ở Mỹ, Đại tá Mai Viết Triết (Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH ở Pháp) nhận được sách. Trong thư gởi cho tôi đề ngày 1/2/1988, Đại tá Triết nhận xét “Trong quyển sách của Anh, tôi thấy có nhiều phần, nhiều đoạn rất đúng, rất chính xác,…cần được phổ biến cho đồng bào nói chung và quân nhân nói riêng, để nắm vững vấn đề và xây dựng hiểu biết cá nhân…lấy đó làm một cái gốc của nền tảng xây dựng đồng thuận, thống nhứt ý kiến”.

Quyển thứ hai tôi gởi tặng cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm, nguyên Chủ tịch Thượng Nghị Viện VNCH. Lúc bất giờ ông Lắm là Chủ tịch Liên Minh Toàn Dân Quốc Gia vùng Úc Châu –Nam Thái Bình Dương. Trong thơ cám ơn đề ngày 2/2/1988, ông Lắm đã viết “Tôi vừa nhận được sách “Việt Nam Thắng và Bại, Mất và Còn”. Tôi chưa kịp đọc trọn tác phẩm của ông, nhưng đã xem kỹ bài viết về Hiệp Định Paris 1973. Các ngày tháng năm cũng như các dữ kiện nêu ra đều rất đúng và chính xác, chứng tỏ một sự nghiên cứu rất tỉ mỉ… Tôi ý niệm được sự dài công sưu tầm của ông để ghi nhận lại các giai đoạn lịch sử của nước nhà trong sự tranh đấu cho dân chủ và quyền dân tộc tự quyết. Tác phẩm của ông sẽ giúp cho các nhà khảo cứu sau nầy biết rõ hơn sự thật và cho các thế hệ con em thông cảm với mọi hành động hy sinh của giới tiền bối”.

Quyển sách thứ ba tôi gởi tặng Bác sĩ Bùi Trọng Cường, Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự Do Liên Bang Úc Châu. Trong thư hồi đáp đề ngày 26/1/1988, Bác sĩ Cường đã viết: “…Tôi đã đọc kỹ-lưỡng những chất-liệu lịch-sử sống động mà Ông đã có công phân-tích, tổng-hợp một cách tương đối khách-quan, đủ để độc-giả có cái nhìn đứng đắn hơn về cuộc chiến Việt-Nam…Tác-phẩm của Ông là một tài-liệu lịch-sử vô giá đối với thế-hệ trẻ Việt-Nam tỵ nạn hiện nay tại hải-ngoại. Có lẽ tôi không nói quá đáng khi nghĩ rằng đó chính là quyển sách gối đầu giường cho các em học-sinh, sinh-viên, thế-hệ con cháu chúng ta tại hải-ngoại khi muốn học hỏi về lịch-sử Việt-Nam cận đại. Đây là một tài-liệu không thể thiếu được trong tủ sách của mọi gia-đình người Việt-Nam quốc-gia. Ngoài ra cũng chính tác-phẩm này sẽ tạo thêm điều-kiện cho những người mang hành trang cách mạng có thêm một ánh đuốc trên đường đi giải-cứu quê- hương...”

Dù đã in 1000 quyển, tổn phí khá nhiều song tôi phải hủy bỏ tất cả vì nhận thấy tác phẩm của mình chưa đáp ứng với kỳ vọng của BS Bùi Trọng Cường. Ngoài ra, đề cập việc đất nước Mất và Còn vào thời điểm này là quá sớm. Độc giả có thể cho đó là ý nghĩ hoang tưởng, tựa như mơ giữa ban ngày. Hoặc cho rằng đây là lập luận của kẻ bại trận nay muốn phục thù. Đây không phải là ý định của tác giả. Vã lại, CSVN đã toàn thắng, họ tập trung cả triệu quân nhân công chức vào trại cải tạo. Tại Mỹ, ý nghĩ bại trận hầu như chế ngự trong dư luận, đến độ người ta không ngừng cổ vũ cho khẩu hiệu “không để xảy ra một vụ Việt Nam khác nữa” (No More Vietnam). Trong giai đoạn chuyển tiếp, phải luận bàn về lẽ thắng bại trước đã, việc mất còn sẽ đề cập sau. Đối với lịch sử dân tộc, đó là một đoạn đường dài. Thắng bại là lẽ thường tình. Sự tồn vong của Đất Nước mới là điều trọng đại, thiêng liêng.

Sau 5 năm cố gắng nữa, quyển Việt Nam Thắng và Bại được hoàn chỉnh lại, phong phú và xúc tích hơn, được xuất bản năm 1993. Sách dày hơn 1000 trang, so với sách trước chỉ có 547 trang. Sách được GS Vũ Quốc Thúc viết lời Tựa và GS Lê Tấn Lợi viết Cảm Đề “Việt Nam Thắng Bại Luận”. Từ đó tôi cảm thấy bớt hỗ thẹn khi đọc lại những lời giới thiệu nồng nhiệt của Bác sĩ Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự do Liên bang Úc Châu. Tác phẩm VN-Thắng và Bại được Hội đồng Giám khảo Giải Văn học của Hội Quốc tế Y sĩ Việt Nam Tự Do vinh danh và trao giải Los Angeles, được tổ chức lần đầu tiên vào tháng 8/2002 tại Anaheim, California Hoa Kỳ.

Những người CS thường tự đắc lập đi lập lại câu nói đầy thách thứ của Lenin: “Ai thắng Ai”. Dựa vào đó tôi đặt tên sách Việt Nam Thắng và Bại. Cái thắng đã rõ ràng, sau khi CSVN thống trị toàn cỏi Đông Dương, Tổng Bí thư Leonid Brezhnev lớn tuyên bố trước Đại hội XXV Đảng CSLX năm 1976: “Sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trên toàn cầu là bước tiến không thể nào đảo ngược được”. Còn cái bại thì mãi bốn năm sau khi tác phẩm đầu tiên của tôi được ấn hành (1987), người ta mới chứng kiến được sự sụp đổ của LX và khối Xã hội chủ nghĩa Đông Âu (1991).

Riêng VN, người Quốc gia đã buông súng, chấp nhận bại để dân tộc thắng, chấm dứt chiến tranh, thống nhất tổ quốc…Nhưng CSVN dành cái thắng đó để bành trướng hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Hậu quả là dân tộc phải Bại, gánh thêm cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba. Đối với lịch sử không có sự ngẫu nhiên, các biến cố xảy ra đều theo đúng qui luật bất di bất dịch: luật nhân quả. Tạo nhân gì tất phải gặt quả nấy, không thể né tránh được.                          

 

Phần II                                    

 

                     

Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: “Giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng xã hội chủ nghĩa là con đường sống của dân tộc”. Tổng Bí thư Lê Duẩn đã thực hiện trọn vẹn lời nói của ông Hồ. Nghị quyết Đại hội IV Đảng CSVN (12/1976) đã vạch ra con đường “đưa nền kinh tế VN từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện một nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, có kinh tế công nông nghiệp hiện đại, có quốc phòng vững mạnh, có văn hóa, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, làm cho nhân dân có cuộc sống hạnh phúc văn minh”.

Để tiến nhanh, tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa, VN thực hiện cải tạo nông nghiệp, lập tức từ năm 1978 thành phố HCM thiếu gạo ăn. Đây là điều chưa từng có trong lịch sử, Miền Nam là vựa lúa mà người dân “Hòn ngọc Viễn Đông” phải ăn độn bo bo. Tiếp theo là cải tạo công thương nghiệp, từ năm 1979 thành phố hầu như bế tắc trong việc nhập cảng nguyên liệu từ bên ngoài. Các cơ sở sản xuất như nhà máy thuốc lá Vĩnh Hội (MIC) nhà máy dệt Thành công (Vimitex) nhà máy bột ngọt (Vifon) sắp sửa đóng cửa. Ông Võ Văn Kiệt lúc bấy giờ là Bí thư Thành ủy HCM phải xé rào, bất chấp chỉ thị của Hà Nội, cho người xuống đồng bằng sông Cửu Long thu mua lúa với giá cao gấp 5 lần do nhà nước ấn định. Sau đó ông lại xé rào, cho phép thương gia người Hoa được thu mua hàng nội địa, rồi liên lạc trực tiếp với giới doanh thương người Hoa ở Hồng Kông, Singapore, vốn đã có sẳn mối liên hệ từ thời VNCH, để trao đổi lấy nguyên liệu. 

 

Tình trạng kinh tế VN ngày càng suy sụp thêm, tháng 6/1986 TBT Lê Duẩn điều động ông Kiệt ra Hà Nội làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, với một yêu cầu hết sức nhỏ bé là nhân dân thủ đô “có dự trữ gạo đủ ăn hai tháng”. Chỉ tiêu chưa thực hiện xong, tháng sau ông Duẩn qua đời (10/7/1986). Sau này, ông Kiệt nhận xét Lê Duẩn là “một người lãnh đạo kiệt xuất với lòng tin mãnh liệt đất nước phải sánh vai với thiên hạ…Vậy mà đến lúc qua đời, vẫn không lo nổi cho dân Hà Nội đủ gạo ăn trong hai tháng. Lê Duẩn, người học trò kiệt xuất tuyệt đối trung thành và xuất sắc nhất của bác Hồ, nay ở bên kia chín suối chắc rằng còn đau gấp bội bởi vì ông là người đứng đầu Đảng và càng đau hơn, thất bại bởi tư duy của Đảng”.

 

Để cứu vãn chế độ, Hà Nội theo gương đổi mới của LX. Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Những lãnh tụ bảo thủ như Chủ tịch Nhà nước Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Trưởng ban Tổ chức Đảng Lê Đức Thọ đành phải từ nhiệm. Nguyễn Văn Linh chủ trương đổi mới tư duy, ông thẳng thắn nhìn nhận với phóng viên Tạp chí Time: “Những sai lầm tai hại khiến đồng bào tôi lâm vào cảnh đói khổ ngày nay vì đảng Cộng sản đã hấp tấp và chủ quan xây dựng xã hội chủ nghĩa mà không kinh qua giai đoạn phát triển thiết yếu của chủ nghĩa tư bản” (Báo Time USA, September 21, 1988)

 

Việc hấp tấp xây dựng XHCN không phải là sai lầm riêng của Đảng CSVN mà là sai lầm chung của các nước CS. Tại LX, ngày 2/5/1988 Báo Pravda –cơ quan ngôn luận của Đảng CSLX đã đăng trên trang nhất một lá thư dài gọi thẳng: “70 năm Cộng sản cầm quyền ở Liên Xô là thời kỳ chuyên chính phá hoại”. Đến cuối tháng 6/1988 ông kêu gọi 5 ngàn đảng viên tham dự Đại hội đảng đặc biệt hãy ủng hộ chính sách cải cách của ông. Ông cho rằng hệ thống Sô viết sẽ sụp đổ nếu họ không kịp thời nhận thức bài học của lịch sử và nhìn nhận những sai lầm trầm trọng mà các lãnh tụ đảng đã theo đuổi trong mấy chục năm qua. Ông nhấn mạnh: “Sự sống còn của chủ nghĩa xã hội đang nằm trong tay của đảng. Nó sẽ chết nếu chúng ta không trao quyền cho dân”. Một năm rưỡi sau, BCH/TƯ Đảng CSLX chấp nhận đề nghị của Gorbachev xớa bỏ quyền độc tôn lãnh đạo của đảng được qui định trong điều 6 của hiến pháp. 

 

Tại TC, Đặng Tiểu Bình phê phán thời kỳ Đại Công Xã khi Mao Trạch Đông thực hiện buớc tiến “Đại Nhảy Vọt” là thời kỳ sai lầm tệ hại nhất trong lịch sử Đảng CS Trung Quốc. Tại Ba Lan, khi quyết định giải tán Đảng Công nhân Thống nhất tức Đảng CS Ba Lan (27/1/1990) Bộ Chính trị đã thú nhận: “Chủ nghĩa xã hội đã đưa Ba Lan đến chỗ chết. Đảng không còn vai trò lịch sử vì nhân dân đã mất niềm tin ở đảng”.

 

Gorbachev còn chủ trương giảm bớt căng thẳng với TC nhằm thực hiện chính sách cải cách để cứu LX khỏi sụp đổ. Vì thế ông đã đáp ứng cả ba điều kiện tiên quyết do Đặng Tiểu Bình đặt ra để bình thường hóa mối bang giao hai nước. Một là Hồng quân LX phải rút khỏi Afghanistan. Hai là LX giảm quân số trú đóng dọc biên giới Nga Hoa. Ba là áp lực Hà Nội rút hết quân khỏi Cam bốt vào ngày 30/9/1989. Về vấn đề Cam Bốt, Gorbachev khuyến cáo Nguyễn Văn Linh đến gặp giới lãnh đạo Bắc Kinh để hòa giải mối xung đột giữa VN với TQ và giải quyết cuộc chiến Kampuchia. Sau nhiều tháng vận động, ngày 3 và 4/9/1990, TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười cùng Cố vấn Phạm Văn Đồng đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên để gặp hai đồng nhiệm TC là Giang Trạch Dân và Lý Bằng. 

 

Trong cuộc họp thượng đỉnh này, Hà Nội đề ra giải pháp Đỏ: họ sẽ áp lực buộc Hun Sen trở lại hợp tác với Pol Pot để cả hai tiếp tục thống trị Cam Bốt và xây dựng XHCN. TQ sẽ lãnh đạo các nước XHCN còn tồn tại sau khi LX sụp đổ. Giải pháp Đỏ bị TC bác bỏ, họ viện cớ rằng cả hai nhân vật trên đều bị thế giới ghê tởm, một bên làm tay sai cho VN xâm lược Cam Bốt còn bên kia mang tội ác diệt chủng. Bắc Kinh ủng hộ cựu hoàng Sihanouk làm Chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia gồm 4 thành phần chính trị Khmer, đứng ra tổ chức cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát để người dân Cam Bốt tự quyết định vận mệnh đất nước họ.

 

Đề cập đến thỏa thuận Thành Đô, cựu thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã thú nhận: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm họa “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm ‘giải pháp Đỏ”. Cố vấn Phạm Văn Đồng thì kết luận: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy”.

 

Dù Hiến pháp năm 1980 lên án đích danh bọn bá quyền Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nhưng khi LX sụp đổ CSVN trở lại thần phục TQ để tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Văn Linh cho rằng “dù Trung Quốc là bành trướng, song họ là xã hội chủ nghĩa”. Lúc bấy giờ Nguyễn Cơ Thạch là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nhận định về thỏa thuận Thành Đô 1990: “Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã khởi sự”.

 

Từ đó, VN hợp tác toàn diện với TQ. Đây là sai lầm tệ hại nhất của Đảng CSVN, đất nước có nguy cơ bị Hán hóa. Trước đây hợp tác toàn diện với LX nhưng nước này cách xa VN hàng vạn dặm. Còn TQ ở bên cạnh luôn có mưu đồ thôn tính nước ta. Năm 1999 và 2000 TBT Lê Khả Phiêu và Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký hai hiệp ước về biên giới, nhường cho TQ phần đất phía Nam ải Nam Quan và Thác Bản Giốc và hàng chục ngàn cây số vuông ở Vịnh Bắc Việt. Còn Biển Đông và hai đảo Hoàng Sa và Trường thì Bắc Kinh luôn dựa vào công hàm của TT Phạm Văn Đồng gời TT Chu Ân Lai năm 1958 để khẳng định thuộc chủ quyền của họ. Đến năm 2014, TC ngang nhiên đưa dàn khoan HD 891 vào thềm lục địa của VN, khiến cựu Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền VN ở TQ (1974-1987) phải lên tiếng báo động: “Chúng ta đang mất từng phần vào tay những nhà cầm quyền TQ và sẽ mất nữa. Cứ đà này, sớm muộn nước ta cũng sẽ trở thành “thuộc quốc” hoặc “thuộc địa kiểu mới” của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Đại Hán”.

 

Nay tôi viết Tâm tình người viết sử để để thay lời Tựa cho quyển Việt Nam Mất và Còn mà tôi ấp ủ trong hơn 30 năm qua. Nhìn lại những dữ kiện lịch sử thời cận đại, người đọc có thể cho đó là ảo tưởng?  Năm 1939, Mao Trạch Đông viết quyển “Cách mạng Trung Quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc”, trong đó có đoạn viết “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan…Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”.

Mười năm sau Mao chiến thắng ở Hoa Lục (1949), sau đó ông HCM đến Bắc Kinh cầu viện Mao đánh Pháp. Đây là cơ hội giúp Mao giành lại An Nam, TC đã giúp ông Hồ đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ. Nhưng sau đó tại hội nghị Genève 1954, các cường quốc quyết định tạm thời chia cắt VN tại vĩ tuyến 17. Ông Hồ hỏi Chu Ân Lai, tại sao VN đã đánh bại Pháp, đất nước lại bị chia đôi? Chu trả lời: “Mỹ muốn như vậy”. 

 

Năm 1960, ông Hồ phát động chiến tranh giải phóng Miền Nam, cũng được sự yểm trợ của Mao. Cuối tháng Hai 1972, TT Nixon đến Bắc Kinh, tìm sự hợp tác của TC để chấm dứt cuộc chiến VN. Qua ba quyển sách: Bí mật Dinh Độc lập, Khi Đồng minh tháo chạy và Tâm Tư Tổng thống Thiệu, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã chứng minh Kissinger đã đi đêm với Chu Ân Lai để bán đứng MNVN cho CS. Đầu năm 1979, TQ chính thức thiết lập bang giao với Mỹ và trở thành đồng minh của Mỹ trong giai đoạn cuối của chiến tranh lạnh.  

 

Cuộc chiến này kết thúc, CSVN quay về hợp tác toàn diện với TC, và “một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã khởi sự như nhận định của ông Nguyễn Cơ Thạch. Sở dĩ nguy hiểm vì đây là sự tự nguyện của tập thể lãnh đạo của Đảng CSVN. Họ chấp nhận “Thà mất Nước, chớ không để mất Đảng”. Như vậy, VN kể như đã Mất, làm sao Còn được nữa! Tuy nhiên, tôi luôn vững tin, đất nước không thể nào bị Hán hóa dễ dàng như vậy.

Hơn 10 thế kỷ trước, tiền nhân ta đã vùng lên chiến thắng quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng năm 938 mở ra thời kỳ độc lập tự chủ, chấm dứt thời Bắc thuộc kéo dài cả ngàn năm. Năm 1077 quân nhà Tống xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt cảnh cáo: “Nam Quốc sơn hà, Nam đế cư. Tiệt nhân định phận tại thiên thư.Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư”(Nước Nam thì vua nước Nam ở. Điều đó đã được định rõ trong sổ trời. Cớ sao nghịch tặc lại sang xâm chiếm? Bọn bây sẽ thấy, phải chuốc lấy sự thất bại). Hai thế kỷ sau, phương Bắc lại gây sự, khiến Đại Việt phải ra quân “điếu phạt” như lời Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước vì đại nghĩa. Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Non nước cỏi bờ đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Ngô Đinh Lý Trần, bao đời xây nền độc lập. Cùng Hán Đường Tống Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương”.

 

Các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn cùng tồn tại với các triều đại phương Bắc: Tống, Nguyên, Minh, Thanh gần cả ngàn năm. Đến thời thực dân, đế quốc, ảnh hưởng phong kiến Trung Hoa đã chấm dứt với hai hòa ước ký tại Thiên Tân ngày 11/5/1884 và Hòa ước Giáp Thân ngày 6/6/1884. Chiếc ấn An Nam Quốc vương, biểu tượng mối tương quan giữa thiên triều và thuộc quốc đã bị hủy bỏ.
 

Năm 1911, chế độ phong kiến ở Trung Hoa chấm dứt, chế độ Cộng hòa ra đời với danh xưng Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Pháp Hoa được ký tại Trùng Khánh, thủ đô Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch), ảnh hưởng của Trung Hoa hoàn toàn chấm dứt ở VN. Ngay sau đó, 18 vạn quân của Lư Hán rút khỏi VN, quân Pháp do tướng Leclerc chỉ huy đổ bộ lên miền Bắc. Ông Hồ Chí Minh và Sainteny đại diện chính phủ Pháp ký Hiệp ước Sơ bộ mùng 6 tháng 3 (1946). Pháp thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do ông HCM thành lập ngày 2/9/1945 là một nước Cộng hòa trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên Hiệp Pháp. 

 

Chế độ thực dân bắt đầu cáo chung, đó là chủ trương của các cường quốc thắng trận sau Thế chiến II. Một điều bất hạnh cho dân tộc, ông HCM không chấp nhận tiếp tục thương thuyết với Pháp để hoàn thiện nền độc lập quốc gia. Ông phát động toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Thất bại với ông Hồ, Pháp nói chuyện với Cựu hoàng Bảo Đại. Sau hơn hai năm thương thuyết, Tổng thống Pháp Vincent Auriol ký với Cựu hoàng Bảo Đại hiệp ước Élysée ngày 8/3/1949. Pháp công nhận nước VN độc lập và thống nhất. Nửa năm sau, Mao chiến thắng ở Hoa Lục, ông Hồ cầu viện TC đánh Pháp. Cuộc chiến VN kéo dài đến khi chiến tranh lạnh chấm dứt.VN quay về thần phục TQ.

 

Đã không bị Hán hóa, tổ tiên ta còn mở rộng bờ cỏi về phương Nam đến mũi Cà Mau. Giải giang sơn hình chữ S ngày hôm nay là do xương máu của tiền nhân tạo nên. Theo thi hào Nguyễn Du “Thác là thể phách, hồn là tinh anh”. Khi chết, xác thân được chôn vùi trong lòng đất Mẹ, nhưng anh linh những bậc tiền hiền đã chết vì nền độc lập của quốc gia, sự phát triển của đất nước, hạnh phúc của đồng bào sẽ quanh quẩn bên những đối tượng mà họ đã tận hiến cả cuộc đời. Đó là non sông đất nước, là đồng bào chủng tộc. Ở bên kia thế giới, họ vẫn tiếp tục phù hộ đồng bào, đất nước như hoài bão lúc còn tại thế. Những anh linh đó trở thành biểu tượng thiêng liêng rất khó định nghĩa mà người đời thường gọi là hồn thiêng sông núi

 

Ngày nay, trước thảm họa của đất nước tôi cũng tin tưởng ở hồn thiêng sông núi. Nhớ lại, nửa thế kỷ trước, môi trường Khai thác tài liệu đã giúp tôi nhận thức được trách nhiệm của mình. Bất kể ngày đêm tôi thường thấy các anh lính đồng minh, trong tư thế tác chiến với bộ đồ trận dính đầy sinh lầy, cát bụi…súng ngắn, súng dài kè sát bên hông, hấp tấp khuân chuyển những bao tài liệu vừa tịch thu ngoài chiến trường về. Bàn giao xong, chưa uống hết lon nước, họ tức tốc lên xe trở về với đồng đội đang chiến đấu ngoài mặt trận. Nhìn họ tôi liên tưởng đến các chiến hữu của mình, các bạn tôi cũng đang xông pha, chịu biết bao gian lao nguy hiểm ngoài chiến trường. Trong số tài liệu tịch thu, có hàng ngàn lá thơ, nhựt ký loang lỗ vết máu của những người con, người chồng, người cha gởi về bố mẹ, vợ con ở đất Bắc. Trong thư và nhựt ký họ bày tỏ ước nguyện mong đất nước sớm có hòa bình,  để được quay về với những người thân yêu. Đó cũng là ước nguyện chân thành của các chiến hữu của tôi, của những lính Mỹ và đồng minh.  

 

Xưa nay có mấy ai ra trận trở về đâu? Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi? Biết bao người cùng chung số phận hẩm hiu đó. Tất cả ra trận chi vì trách nhiệm do đất nước giao phó: chiến đấu để VN Độc lập, Tự do, Hòa bình.Những lá thư như vậy, không ghi nhận một chút gì về chiến lược, chiến thuật, song tôi không thể bỏ qua. Tôi phải đọc để thỏa lòng người tử sĩ, thư của họ đã có người nhận, nhật ký của họ đã có người đọc. Người đó tuy không phải là thân nhân ruột thịt, nhưng cũng là đồng bào của mình, họ hiểu được tấm lòng và ước mơ của mình. Xúc động làm tôi quên đi sự hôi tanh của tài liệu đẫm máu, tôi say sưa làm việc để góp phần sớm chấm dứt nổi đau thương chung. Tôi biết chỉ có Mỹ mới chấm dứt được cuộc chiến này, chấm dứt trong điều kiện có lợi nhất cho dân tộc: vừa thống nhất đất nước vừa mang lại dân chủ tự do cho đồng bào. Tôi phải góp phần giúp họ hoàn thành nhiệm vụ, để các chiến hữu đồng minh sớm quay về với quê hương của họ.

 

Cuối cùng ước mơ của những người chiến binh đã thành sự thật: chiến tranh chấm dứt. Có lẽ trời cao không phụ lòng thành của tôi, lại dành cho tôi một cơ duyên nữa. Đêm 25 rạng 26 tháng 10 năm 1972, tôi được đọc một tài liệu tối mật của Cộng sản, báo cho biết một hiệp định hòa bình đã hình thành. Tôi được chỉ định đến Dinh Độc Lập tường trình sự kiện trọng đại này với Trung tướng Phụ tá An ninh Quốc gia của tổng thống. Lúc bấy giờ TT Thiệu và các giới chức cao cấp VNCH vẫn chưa biết gì về sự kiện quan trọng này, dù họ vừa thảo luận với TS Kissinger mấy ngày trước đó. Đây là kết quả của cuộc đấu trí giữa “tay lái trâu” Việt Nam và “tên cao bồi” Mỹ tại bàn đàm phán Paris trong hơn 4 năm qua. Hai từ này do chính họ nói ra. Đúng 3 tháng sau, hiệp định chấm chiến tranh, tái lập hòa bình ở VN chính thức ra đời.

 

HĐ Paris 1973 đáp ứng trọn vẹn những ước vọng của những chiến binh tham dự cuộc chiến, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến. Đó cũng là khát vọng của toàn dân từ Nam chí Bắc. Chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại, người dân miền Nam được hưởng đầy đủ mọi quyền tự do, họ sẽ quyết định vận mạng tương lai miền Nam qua một cuộc tổng tuyển cử dân chù tự do có quốc tế giám sát. Chính quyền miền Nam sẽ hiệp thương với chính quyền miền Bắc để thống nhất đất nước theo tinh thần Hiệp định Genève 1954. VN thiết lập bang giao với Mỹ, và được Mỹ viện trợ để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước thời hậu chiến.   

 

Chiến tranh chấm dứt, hòa bình được tái lập chỉ đối với Mỹ. Ngưòi dân VN vẫn còn gánh chịu chiến tranh một thời gian nữa và cuối cùng đất nước bước vào thời Bắc thuộc mới. Tôi tin tưởng anh linh của gần một triệu chiến binh miền Bắc, hơn 250 ngàn chiến sĩ miền Nam và gần 6 vạn binh lính Mỹ, Đại Hàn, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan…đã ngã gục tại VN sẽ phù hộ đất nước này, dân tộc này vượt qua thảm trạng đau thương, nhìn thấy một nước VN độc lập, tự do, phú cường trong tương lai.  

 

 Đất nước ta từng trải qua nhiều giai đoạn nghiệt ngã, hiểm nguy, nhưng đều vượt qua, tồn tại và phát triển không ngừng. Đồng bào tin tưởng đó là nhờ Hồn thiêng sông núi độ trì. Từ đó, họ luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng qua những cảm nghĩ như “Hết cơn bĩ cực đến hồi thới lai”, “Hết cơn mưa trời lại sáng” hoặc “Tiền hung hậu kiết”…Vì thế bất kể câu chuyện nào kết thúc có hậu đều được đồng bào ta tán thưởng. Điển hình là tác phẩm Đoạn trường Tân thanh của cụ Nguyễn Du. 

 

Thi hào Nguyễn Du, khi đi sứ bên Tàu đọc được Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả đời nhà Minh. Cụ cảm hứng viết quyển Đoạn Trường Tân Thanh còn gọi là Truyện Kiều bằng thơ chữ Nôm theo thể lục bát dài 3254 câu. Tác phẩm được đánh giá là một áng văn chương tuyệt tác của nền văn học nước nhà. Đặt tựa đề Đoạn Trường Tân Thanh, theo thiễn ý của tôi, cụ Tiên điền muốn gióng lên “Âm vang mới  (tân thanh) về nổi đau thương đứt ruột” của Vương Thúy Kiều theo nếp suy nghĩ và bản chất của dân tộc Việt.

 

Mở đầu truyện, cụ nêu ra thuyết “tài mệnh tương đố” qua hai câu “Trăm năm trong cỏi người ta. Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Theo thuyết này, số mệnh đã được định trước (định mệnh), con người không thể cưỡng lại được. Hồng nhan luôn gặp gian truân, má hồng thì mệnh bạc, anh hùng thì mệnh đoản hoặc anh hùng đoản tử (chết sớm). Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn nên cuộc đời chịu lắm nổi gian truân trong suốt 15 năm luân lạc trong chốn giang hồ. Và cuối cùng trầm mình tự vẫn ở sông Tiền Đường, nhưng cuộc đời nàng Kiều chưa chấm dứt nơi đây. Sông Tiền Đường là bước ngoặc đổi đời. Kiều được sư cô Tam Hợp cứu sống, vui hưởng với quảng đời còn lại hạnh phúc, sum họp với gia đình và đoàn tụ với người tình xưa.

Trong giai đoạn hậu Tiền Đường, qua những vần thơ tuyệt tác, cụ Nguyễn Du trình bày cuộc đời Thúy Kiều qua chữ Nghiệp trong triết lý nhân quả của đạo Phật và thuyết Định mệnh hay Thiên mệnh của Khổng Tử là triết lý của đạo Nho. Nhân quả liên quan trực tiếp đến vận mệnh, quyết định họa phúc của mỗi con người…Nhưng dân gian vốn tin tưởng ở một đấng tối cao là trời nên cho rằng số phận của con người do trời định. Muôn sự đều do trời, tại trời. Nhưng trời là một ý niệm trừu tượng, còn con người là cụ thể, hữu hình. Họ tạo nhân gì phải gặt quả nấy, chẳng liên hệ gì đến trời, nên trời “Có đâu thiên vị người nào”.

 

Đại thi hào của chúng ta đã mượn lời sư cô Tam Hợp để truyền đạt ý tưởng của cụ: “Sư rằng họa phúc đạo trời. Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta”. Trời là trừu tượng, họa phúc là do ta, xuất phát từ cái tâm (lòng) của ta. Từ cái nghiệp ảnh hưởng đến vận 

mệnh do trời định, cụ chuyển dịch sang cái ta mới thực sự làm thay đổi số phận của mình, nhờ có chữ Tâm. Cụ cho rằng “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” như quan niệm của người đời “Đức năng thắng số”. Đức là do chính ta tạo ra hoặc thừa hưởng từ cha ông, chớ đâu phải do trời. 

Từ chỗ mở đầu, đặt tiền đề tài mệnh ghen ghét, đố kỵ nhau, cụ đổi giọng ở phần kết thúc “Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần.Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Thúy Kiều vì tài sắc nên gặp cảnh đoạn trường. Tài sắc mang họa chỉ có một, nhưng chữ tâm đem phúc đến ba lần. Nhờ đó Kiều giải tỏa được “phận mỏng”, tạo được “phúc dầy” nên đổi được số trời định.

Chữ Tâm sở dĩ quan trọng, vì nó chỉ đạo mọi hành động. Vận mệnh, họa phúc của mỗi người cũng từ đó mà ra. Hiểu được qui luật nhân quả, họa phúc… con người phải dựa vào bản chất thiện có sẳn của mình, thể hiện chữ Tâm, của Phật giáo là từ bi bác ái. Và của Nho giáo là biết đồng cảm thương người, biết lễ nghĩa, phải trái, ý thức thị phi, biết điều khinh trọng, biết sĩ nhục, hổ thẹn…Nhờ đó mới biết cách hành xử ra sao cho phải đạo, tạo phúc cho mình để đức cho con. 

 

Trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không hề đề cập đến chữ Tâm và câu ‘Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đó là ý tưởng của cụ Nguyễn Du, nói lên bản chất hiền lương, nhân hậu của dân tộc ta mà cụ muốn truyền đạt trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh. Giá trị của Truyện Kiều ở chỗ Văn dĩ tãi Đạo” chớ không phải để người đọc “mua vui một vài trống canh” nhưng lời khiêm nhường của tác giả.

Đề cập đến Truyên Kiều, gần một trăm năm trước, nhân kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du 8/9/1924, học giả Phạm Quỳnh đã có bài phát biểu: “…Hiện nay suốt quốc-dân ta, trên từ hàng thượng-lưu học-thức, dưới đến kẻ lam-lũ làm ăn, bất-cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công-nghiệp của Cụ Tiên-điền ta…Một nước không thể không có quốc hoa, truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái “văn tự” của giống Việt-Nam ta đã “trước ba” với non sông đất nước này…” 

 

Cuối bài phát biểu, học giả Phạm Quỳnh kết luận: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin rầu lòng giốc chí gia-công trau-chuốt lấy tiếng quốc-âm nhà, cho quốc-hoa ngày một rực-rỡ, quốc-hồn ngày một tỉnh-tao, quốc-bộ ngày một tấn tới, quốc-vận ngày một vẽ-vang, ngõ-hầu khỏi phụ cái chí hoài-bảo của tiên sinh, ngậm cười chin-suối cũng còn thơm lây!”

Trước thảm cảnh của đất nước ngày nay, đọc lại Truyện Kiều tôi liên tưởng đến Đoạn Trường Tân Thanh thời hiện đại. Tiếng Kêu Mới về nổi đau thương đứt ruột của chiến tranh VN. Nổi đoạn trường của Kiều chỉ kéo dài 15 năm, trái lại nổi đau thương của đất nước phải lâu hơn, kéo dài qua nhiều thế hệ. Đối với Kiều “Người sao hiếu nghĩa đủ đường, Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi” (Câu 2653-54) Còn đất nước với những con dân thấm nhuần đạo lý biết lấy chữ thiện, chữ nhân làm lẽ sống ở đời, cũng gánh chịu đau thương liên tục. Năm 1954, đánh thắng Pháp xong, đất nước lại bị chia đôi! Năm 1975 chiến tranh với Mỹ vừa chấm dứt, xung đột với Cam Bốt và Trung Cộng lại diễn ra. Chiến tranh với Cam Bốt vừa kết thúc, VN lại bước vào thời Bắc thuộc mới! Biến cố mới này khiến tôi nghĩ đến lời than vãn lẫn uất ức của cụ Nguyễn Du về số phận hẩm hiu của nàng Kiều: “Chém cha cái số hoa đào. Gở ra rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà chán cho đời, Tài tình chi lắm, cho trời, đất ghen”. (Câu 2151-2154) Trời đất ghen nên cho “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường” khiến Kiều “Lại tìm những lối đoạn trường mà đi”. Để rồi “Hết nạn ấy đến nạn kia. Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” (câu 2665-2668). Thật ra, cũng chẳng có trời đất, ma quỷ gì cả, chỉ có bọn ma đầu, sở khanh cấu kết với bọn ma cô, tú bà lợi dụng thân xác Kiều để trục lợi mà thôi. Nhìn lại đất nước hồi đầu thập niên 1990, chủ nghĩa CS đã sụp đổ ngay tại quê hương của những người sáng lập ra nó là Marx và Lenin (Mác-Lê). Nhưng các lãnh tụ Đảng CSVN lại đến Thành Đô tôn TC làm minh chủ để tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa. Lúc trước đã làm chư hầu cho LX, tự nguyện làm lính đánh thuê để bành trướng và xây dựng XHCN, thì chẳng khác nào làm đầy tớ và làm đĩ để nuôi thân. Vừa dứt nạn với LX lại mắc vào nạn của TC!!! Đối với nàng Kiều “Vô duyên là phận hồng nhan đã đành. Lại mang lấy một chữ tình. Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thong dong. Ở yên không ổn, ngồi không vững vàng”. (Câu 2660-2664) Còn đối với đất nước, ông HCM dựa vào LX và TC chiến thắng Pháp ở ĐBP, nhưng “vô duyên” ở chỗ hai đàn anh lại thỏa thuận với kẻ thù Anh, Pháp, Mỹ để chia cắt VN. Đã như vậy, ông Hồ lại mang nặng chữ tình “đồng chi” với các đảng cộng sản anh em, nên khư khư buộc mình vào với họ. Đáng lẽ đất nước từ sau 1954 đã yên ổn vững vàng, hai miền Nam Bắc thong dong xây dựng để chờ ngày thống nhất nước nhà. Đất nước không được may mắn như vậy, chiến tranh lần thứ hai lại diễn ra. Tiếp sau là chiến tranh lần thứ ba. Đúng là “Hết nạn ấy, đến nạn kia”. Cuối cùng đất nước có nguy cơ bị Hán hóa. 

Theo thuyết “cộng nghiệp” của đạo Phật thì VN cộng nghiệp quá nặng. Trước hết là du nhập một chủ nghĩa ngoại lai chủ trương giai cấp đấu tranh, lấy hận thù làm đường hướng chỉ đạo. Nó hoàn toàn trái ngược với truyền thống của tổ tiên “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Kế đến là định mệnh nghiệt ngã “anh hùng thì mệnh đoãn”, nhưng đất nước lại có quá nhiều anh hùng. Việt Nam Anh Hùng. “Ra đầu ngõ là gặp anh hùng”. Trong 3 cuộc chiến đẫm máu từ 1946 đến 1989, có gần hai triệu “anh hùng đoãn tử”. Họ còn kéo theo cả triệu đồng bào và những người anh em không đồng chính kiến, cùng chết với họ.   

Vì chủ trương hận thù giai cấp, CSVN đã theo gương TC thực hiện Cải cách ruộng đất. Tố Hữu, được đề cao là thiên tài thi ca, trưởng ban Tuyên truyền trung ương của đảng đã cổ vũ: “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong. Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng. Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”.  Trong chiến dịch này, con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, trò đấu tố thầy…xảy ra nhan nhản. Xã hội không còn đạo lý cương thường gì cả. Theo thống kê chính thức, có 172008 người là nạn nhân. Đó là giới “Trí, phú, đia, hào” phải “Cào tận gốc, trốc tận rễ”.  

Một nhân tố quan trọng nữa là khi Thế chiến II vừa chấm dứt, thế giới diễn ra cuộc đối đầu giữa Thế giới Tự do và Quốc tế Cộng sản. Ông HCM, trước đó đã là Ủy viên QTCS, dĩ nhiên ông phải dựa vào LX, TC. Đảng CSVN phải lệ thuộc vào hai cường quốc CS này là điều tất yếu. Còn bên Quốc gia, họ không còn con đường nào khác, phải dựa vào Pháp và Mỹ. Dựa vào Mỹ nên bị Mỹ chi phối nặng nề cũng là điều tất yếu. Định mạng đã an bài như vậy, “Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa” mà hãy tin “Thiện căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” mà hành động theo đúng lương tri để giảm bớt phần nào thảm họa cho dân tộc.

 

Phần III   (Đoạn chót)     

 

 

Tôi nghĩ rằng, Thùy Trâm là một trí thức lại nhiều tình cảm, lúc bấy giờ cô đã nhận thức được cuộc chiến này không phải vì quốc gia dân tộc mà vì nghĩa vụ quốc tế. Vì thế cô chỉ mong ước được sum họp với gia đình, chớ không muốn phục vụ đảng, phục vụ giai cấp nữa, để được chiếu cố. Chính cái ý nghĩ chân thành này, đảng đã đưa Trâm đến chỗ chết. Họ lấy lý do căn cứ đã bị điệp chỉ điểm, nên rút ra khỏi khu vực nguy hiểm, bỏ Trâm ở lại. Họ nghi ngờ Trâm là điệp, chiếc transitor của Trâm là công cụ, nhưng Trâm ngây thơ nên không biết. Vì thế Trâm cứ hỏi vì sao, lý do gì mà mọi người lại đành đoạn bỏ rơi?   

 

Nhờ những câu hỏi này, Trâm đã ngộ ra sự thật nên kêu lên “Bác ơi có thấu tấm lòng trẻ thơ”. Trẻ thơ bây giờ không còn thơ dại nữa. Vì thơ dại nên bị gạt, nên mới ra nông nổi này! Thân gái đơn độc giữa chiến trường đầy bom rơi đạn nổ. Trong cô đơn tuyệt vọng, ĐTT “thèm khát đến vô cùng bàn tay chăm sóc của mẹ, người thân hay tệ hại hơn chỉ là người quen cũng được. Hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay mình trong lúc cô đơn, truyền cho mình tình thương, sức mạnh để vượt qua những chặng đường gian khổ trước mắt”.  

 

Lúc đó, có hai người, không phải là người quen mà là kẻ thù -một anh lính VNCH và một ngưới lính Mỹ sẳn sàng mở rộng vòng tay…Nhưng cái oan khiên của chiến tranh, cái đau đớn của định mệnh, ĐTT đã vĩnh viễn nằm xuống, chỉ để để lại những di bút mà những người có lương tri phải trân trọng gìn giữ để các thế hệ sau suy ngẫm.

 

Đọc những dòng nhật ký cuối cùng của Trâm khiến tôi suy tư đến thực trạng đất nước ngày nay. Đồng bào ta vì lòng yêu nước và thơ ngây nên bị lừa, khiến đất nước gặp biết bao thảm nạn. Hãy thức tỉnh, đừng kỳ vọng vào sự chiếu cố nữa, mà quay về với mẹ (quê hương đất nước). Tìm chỗ dựa ở người quen, họ giúp ta nhưng không lợi dụng ta. Họ sẳn sàng nắm chặt bàn tay mình, truyền cho mình tình thương và sức mạnh để đưa đất nước vượt qua bế tắc và nguy cơ tụt hậu, để theo kịp thế giới, dân giàu nước mạnh.

 

Trâm không còn hiện hữu trên thế gian, nhưng tình thương dành cho mẹ, cho gia đình, cho đồng bào và đất nước được ghi trong nhật ký sẽ tồn tại với thời gian. Nhật ký ĐTT là di sản chiến tranh quý báo được trân trọng trưng bày tại Viện bảo tàng chiến tranh VN ở Texas. Quyển “Diaries of Dr Dang Thuy Tram” được Vietnam Center của Đại học Tech Texas phổ biến rộng rãi ở Mỹ cũng như quyển “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được phổ biến sâu rộng ở VN. Những người lưu giữ quyển nhật ký của ĐTT đã đến Hà Nội cố công tìm kiếm gia đình của cô. Họ đã mời thân mẫu và các em gái của Trâm đến Mỹ và trao lại cho cụ di sản của người con gái thân yêu. Tôi hy vọng hàng ngàn nhật ký của đồng đội của Trâm đã được lưu giữ nguyên vẹn tại CDEC cho đến ngày 30/4/1975 cũng đã được trao lại cho gia đình họ.  

 

Tuổi trẻ của Trâm và “tuổi trẻ của bao nhiêu người, biết bao nhiêu cuộc đời đã chấm dứt để cho cuộc đời khác được tươi xanh”. Tôi xin ghi lại những dòng cuối trong nhật ký của Trâm, coi như nén hương để tưởng nhớ một chiến sĩ đã hy sinh vì hạnh phúc của đồng bào. Tấm lòng của Trâm là lương tri sẽ soi sáng những người đã chiến đấu như Trâm, nhất là những người lãnh đạo đất nước hiện nay đang ở ngôi cao, hưởng lộc lớn, hãy vì tình thương bắt tay nhau hàn gắn những đổ vỡ trong chiến tranh. Đặng Thùy Trâm đã bắc nhịp cầu thông cảm, tại sao cứ vẫn hận thù, chưa chịu bắt tay hòa giải để đất nước tụt hậu mãi hay sao? 

 

Trong cuộc họp thượng đỉnh APEC tháng 11/2006, Chủ tịch nhà nước Nguyễn Minh Triết có đề cập đến quyển “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” (Diaries of Dr Dang Thuy Tram) với TT George W. Bush. Ông Bush cho biết ông đã đọc quyển này và ông Triết nói rằng “Bà mẹ Thùy Trâm là tiêu biểu cho các bà mẹ VN. Mặc dù con mình hị hy sinh như vậy, nhưng bây giờ bà cũng muốn khép lại quá khứ hướng tới tương lai. Tôi muốn Mỹ cũng thật lòng như vậy”.  

 

Đối với Mỹ, họ đã có ý định chấm dứt thù địch, hướng tới tương lai với VN từ nhiều năm trước biến cố 30/4/1975. Giữa tháng 12/1972 trước khi TT Nixon ra lịnh cho B52 oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng để áp lực CSVN trở lại bàn đàm phán ký hiệp định chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình ở VN. Cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger và TT Nixon đã phác họa mối quan hệ giữa Mỹ và VN sẽ trải qua ba giai đoạn: Chấm dứt thù địch, bình thường hóa bang giao và sau cùng là hợp tác.

 

Sau Đại thắng Mùa Xuân 1975 của tướng Văn Tiến Dũng, những người CS tự hào VN là một nước nhỏ đã chiến thắng đế quốc Mỹ, báo hiệu giai đoạn suy tàn của chủ nghĩa đế quốc đã bắt đầu. Vì thế TBT Lê Duẩn quyết định kề vai sát cánh với Breznhev quyết đưa Đế quốc Mỹ đến chỗ cáo chung. Mười lăm năm sau, Đế quốc Mỹ không cáo chung, nhưng Đế quốc Đỏ XHCN lại sụp đổ. TBT Nguyễn Văn Linh lại đến Thành Đô mưu tìm sự hợp tác với TC để tiếp tục chống Đế quốc Mỹ. Năm sau ông Võ Văn Kiệt lãnh tụ nhóm canh tân trong Đảng CSVN lên làm thủ tưóng, chủ trương hợp tác với phương Tây. Nhờ đó Mỹ đã bãi bỏ cấm vận thương mại và bình thường hóa bang giao với VN từ cuối tháng 7/1995. Chấm dứt 20 năm thù địch sau chiến tranh.

 

Từ khi HK chuyển trục trở lại ĐNÁ nhằm cân bằng thế lực với TC ở biển Đông, trong nội bộ lãnh đạo Đảng CSVN cũng có sự thay đổi phù hợp với tình thế bằng đường lối ngoại giao đu dây. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang chủ trương thân Mỹ, TBT Nguyễn Phú Trọng với khuynh hướng thân TQ. Trong khi TT Nguyễn Tấn Dũng đứng trung lập để thực hiện những chính sách lớn của Đảng để phát triển kinh tế.

 

Cuối tháng 7/2013 Chủ tịch Trương Tấn Sang đến Mỹ hội đàm với TT Obama. Hai bên thiết lập mối quan hệ Đối tác Toàn diện. Ông Sang đã đến thăm Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) và cho biết VN luôn kiên trì nhất quán phản đối “đường lưỡi bò” của TQ, vì các tuyên bố này là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý hay khoa học nào 

 

Đầu tháng 7/2015, kỷ niệm 20 năm mối bang giao Việt Mỹ, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đến Mỹ hội đàm với TT Obama. Trong cuộc họp tại Phòng Bầu Dục Tòa Bạch Ốc ngày 7/7/2015 TT Obama nói rằng HK hết sức coi trọng mối quan hệ đối tác toàn diện với VN. Đáp lại, TBT Nguyễn Phú Trọng khẳng định coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác toàn diện với HK là chủ trương nhất quán lâu dài của VN.

 

Sau cuộc đàm phán, hai bên đã ra “Tuyên bố tầm nhìn chung” khẳng định sẽ tiếp tục theo đuổi mối quan hệ “sâu sắc, lâu bền và thực chất”. Về thương mại, hai nước cam kết sẽ cùng các bên đàm phán khác nhanh chóng hoàn tất hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TTP). VN cam kết “thực hiện bất kỳ cải cách nào cần thiết” để đạt tiêu chuẩn cao của hiệp định TTP. 

 

Về tình hình biển Đông, HK và VN đều cho rằng những hành động của TQ xác quyết chủ quyền của họ ở biển Đông, đặc biệt là các công trình xây dựng nhân tạo ở Trường Sa “đã gia tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin và đe dọa phá hoại hòa bình, an ninh và ổn định”. Hai nước công nhận sự cấp bách của việc duy trì các quyền tự do hàng hải và hàng không bên trên vùng biển được quốc tế công nhận, yêu cầu mọi hành động trên biển Đông phải được tiến hành theo đúng luật pháp quốc tế.

 

Buổi tối cùng ngày, Phó TT Joe Biden mở tiệc khoản đãi phái đoàn VN. Ông nhắc đến hai câu trong Truyện Kiều (đánh dấu ngày Kim Trọng tái họp với Thúy Kiều): “Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Buổi bình minh đã ló dạng, mây mù đã tan, cuộc đời Thúy Kiều sẽ ra sao? Xin quý độc giã đọc hai câu kế tiếp: “Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”. Tôi từng ví quá khứ đau thương của dân tộc cũng không khác gì nổi đoạn trường của nàng Kiều trong 15 năm bèo dạt hoa trôi.

 

Năm sau, tháng 5/2016 TT Obama đến VN. Ông đã thảo luận với giới lãnh đạo, đưa mối quan hệ đối tác toàn diện Việt Mỹ lên tầm cao. Trưa ngày 24/5/2016 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ở Hà Nội, TT Obama đã có bài phát biểu ứng khẩu trước gần 2000 thính giả đa số là sinh viên. Ông cho biết, thông qua chuyến thăm này, là tổng thống Mỹ, tôi muốn góp phần thúc đẩy mối quan hệ đối tác toàn diện mới với VN được vững chắc hơn cho những thập kỷ tới. Tôi xin trích nguyên văn những đoạn chính trong bài phát biẻu của ông.

 

- Hiện tại, Mỹ và Việt Nam đã trở thành đối tác và tôi tin rằng, chúng ta đã cho thấy trái tim có thể thay đổi và một tương lai khác hoàn toàn có thể đạt được nếu chúng ta từ chối trở thành “tù nhân” của quá khứ. Mối quan hệ đối tác mới giữa Mỹ và Việt Nam được bắt nguồn từ niềm tin cốt lõi rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của họ lên các bạn hoặc quyết định số phận của các bạn…

 

- Chúng ta hãy hợp tác cùng nhau để tạo dựng cơ hội thực sự và sự thịnh vượng cho người dân của chúng ta.Mối quan hệ này dựa trên việc đầu tư vào nguồn tài nguyên vĩ đại nhất của chúng ta, đó chính là con người, kỹ năng và tài năng của họ dù họ sống ở thành thị hay nông thôn. Đó chính là hình thức đối tác mà Mỹ có thể đem lại. Chúng tôi rất vui mừng là trường Đại học Fulbright sẽ chính thức mở cửa vào mùa Thu năm nay ở thành phố Hồ Chí Minh…

 

- Chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế VN có thể phát huy hết tiềm năng của mình thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tại VN, TPP sẽ giúp các bạn xuất khẩu được nhiều hàng hóa ra thế giới và giúp thu hút thêm nhiều đầu tư. Với cương vị tổng thống Mỹ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TTP bởi điều này cũng đồng nghĩa với việc các bạn có thể mua được nhiều hàng hóa sản xuất tại Mỹ. Hơn thế nữa, tôi ủng hộ TTP bởi nó mang lại những lợi ích chiến lược cho VN và giúp VN giảm sự phụ thuộc vào một đối tác thương mại cụ thể nào đó, và có thể mở rộng mối quan hệ với nhiều đối tác khác trong đó có Mỹ. Đó là tương lai rộng mở cho tất cả chúng ta và chúng ta cần phải hoàn tất việc thông qua TPP để đảm bảo sự thịnh vượng về kinh tế và an ninh quốc gia. Điều này đưa tới lãnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác với nhau để đảm bảo an ninh chung. Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua rằng Mỹ quyết định dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí đối với VN. Giờ đây VN đã có thể tiếp cận mọi trang thiết bị cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia...

 

- Trong thế kỷ 21, các quốc gia to hay nhỏ đều phải được tôn trọng chủ quyền. Các nước lớn không được bắt nạt các nước nhỏ. Các tranh chấp cần được giải quyết hòa bình dựa theo luật pháp quốc tế. Về vấn đề biển Đông, dù Mỹ không phải là nước có tranh chấp trực tiếp nhưng chúng tôi sẽ kề vai sát cánh với các đối tác trong việc tuân thủ những nguyên tắc cốt lõi như tự do hàng hải và tự do đi lại. Giao thương hợp pháp không được bị cản trở, các tranh chấp cần phải được giải quyết thông qua các quy định của luật pháp quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục điều

tàu và máy bay hoạt động tại bất kỳ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ hỗ trợ mọi quốc gia làm điều tương tự…

 

- Tôi muốn nói với tất cả các bạn trẻ tại đây. Tài năng, động lực và ước mơ của các bạn là tất cả những gì VN cần để có thể phát triển và số phận nằm trong tay các bạn. Đây là thời điểm của các bạn và khi các bạn theo đuổi tương lai của mình, tôi muốn các bạn hiểu rằng nước Mỹ luôn ở bên các bạn với tư cách là một đối tác và là một người bạn.

 

Tôi mong các bạn nhớ đến khoảnh khắc này và có được hy vọng từ những gì mà tôi mang đến cho các bạn từ tầm nhìn của mình ngày hôm nay. Nói cách khác, tôi xin dẫn hai câu Kiều như sau: “Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một chút này làm ghi”.

 

Cám ơn các bạn rất nhiều!

 

 

Ngày xưa, tại vườn sau của nhà Thúy Kiều, Kim Trọng đã cùng Kiều “Giở kim thoa với khăn hồng trao tay”. Đây là hai của tin ghi dấu ngày Kim & Kiều đính ước trăm năm. Ngày nay, tại thủ đô nước VN, tổng thống Mỹ đã nói lên triển vọng của mối quan hệ đối tác toàn diện mới giữa VN và HK như là của tin của lời cam kết hai nước sẽ hợp tác sâu sắc, lâu dài, bền vững và thực chất. Tôi tin ở lời cam kết của ông vì tổng thống thứ 41 của H.W.Bush trong diễn văn tuyên thệ nhậm chức đã nói: “Những quốc gia vĩ đại cũng như những vĩ nhân phải giữ lời hứa. Khi Hoa Kỳ nói điều gì, Hoa Kỳ nói lên định tâm của mình, hoặc đó là một hiệp định quốc tế, một lời giao ước hay một lời nguyền trên thềm cẩm thạch” (Great nations like great men must keep their word. When America says something, America means it, whether a treaty or an agreement or a wow made on marble steps)

 

Để thực hiện điều mà TT Obama đã phát biểu về biển Đông, đầu tháng 3/2018, lần đầu tiên trong lịch sử, HK đưa một Hàng không mẫu hạm vào cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Cũng vào thời điểm này, 53 năm trước, hai tiểu đoàn TQLC Mỹ đã đổ bộ lên Đà Nẵng, bắt đầu giai đoạn HK can thiệp trực tiếp vào chiến tranh VN.

 

Trong cuộc chiến vừa qua, người ta thường cho rằng Mỹ đã bỏ rơi đồng minh…Nhưng ít ai đề cập đến mục tiêu của Mỹ ở ĐNÁ trước khi HĐ Genève 1954 ra đời.Tháng 4/1954, Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles đã nhấn mạnh “Đông Nam Á là vùng then chốt trong chiến lược của các cường quốc Tây phương, đòi hỏi một sự hợp tác và hành động chung, chớ không thể giao trong tay một cường quốc nào. Trong trường họp Pháp và Trung Cộng đi đến một thỏa thuận chia cắt Đông Dương thì Minh ước phòng thủ Đông Nam Á sẽ được thành lập”. Dulles hy vọng “tổ chức quân sự này sẽ ngăn chận được mưu đồ bành trướng của Trung Cộng, bảo vệ hòa bình và an ninh ở ĐNÁ, vì mục tiêu của Mỹ là để tránh tham chiến ở đây”.

 

Quả thật, sau HĐ Genève 20/7/1954, Minh ước phòng thủ ĐNÁ (SEATO) đã ra đời (8/9/1954). Nhờ can thiệp vào VN, HK đã bảo vệ Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai, Singapore và Nam Dương khỏi lọt vào tay TC. Khi HK chuẩn bị đàm phán với CSVN để chấm dứt chiến tranh, năm nước kể trên liền thành lập Hiệp hội các quốc gia ĐNÁ tức khối ASEAN (8/8/1967) Họ ra tuyên bố ĐNÁ là khu vực hòa bình, tự do và trung lập.

 

Tóm lại, HK can thiệp vào chiến tranh VN là để phá vỡ mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh trên lục địa các nước ĐNÁ. Còn miền Nam VN, sau khi HĐ Paris 1973 ra đời, HK rút lui để chính quyền hai bên ở đây quyết định công việc nội bộ của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Việc Hà Nội không tôn trọng hiệp định, xua quân cưỡng chiếm miền Nam đã giúp Mỹ thực hiện mục tiêu chiến lược: phân hóa mối quan hệ Xô-Trung, đưa đến sự sụp đổ của khối Quốc tế Cộng sản.

 

Ngày nay, Quân đội HK đến Đà Nẵng, không đưa quân lên đất liền mà điều Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson, cùng với khu trục hạm USS Wayne E. Meyer và tuần dương hạm Lake Champlain đến đây, là để ngăn chận mưu đồ bành trướng trên biển của TC ở ĐNÁ.

 

Ngoài ra, khi HK đưa chiến hạm vào hải phận VN và Vịnh Đà Nẵng, cho thấy họ thừa nhận vùng biển phía Đông của VN thuộc chủ quyền của VN. Với hành động này, HK muốn bày tỏ “Hoa Kỳ cùng các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam” được ghi trong Điều 1 của HĐ Paris 1973.

 

Theo truyền thuyết thì chúng ta là con Rồng cháu Tiên xuất sinh từ bọc trăm trứng nở trăm con: Nửa trăm xuống biển cùng cha, Nửa trăm theo mẹ dựng nhà trên non”. Bao giờ nước trở về non là ước mơ của nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trong Lời Thề Non Nước mà chúng ta ghi mãi trong lòng:

 

                    “Nước non nặng một lời thề, 

                     Nước đi đi mãi, không về cùng non… 

                     Nước đi ra bể lại mưa về nguồn. 

                     Nước non hội ngộ còn luôn… 

                     Nghìn năm giao ước kết đôi. 

                     Non non nước nước không nguôi lời thề”.

 

Giờ đây vì lợi ích chiến lược, Mỹ cùng nhiều cường quốc khác đưa tàu chiến đến biển Đông để vô hiệu hóa mưu đồ độc chiếm của TC. Nhờ đó nước trở về non, biển Đông là thế mạnh giúp đất nước phú cường. Con cháu giống giòng Hồng Lạc phải đoàn kết một lòng, chung sức bảo vệ non sông đất nước, mở ra một thời đại huy hoàng cho dân tộc. “Lầm than giải nghiệp, trùng hưng sơn hà. Âm cùn dương nẩy gần xa, Vòng tay tái tạo quốc gia phú cường”. Đây là 3 câu thơ của cố Giáo sư Lê Tấn Lợi (1923-1993)

 

Ông là một chuyên gia kinh tế, giáo sư Đại học Chính trị Kinh doanh Đà Lạt. Năm 1956, ông sáng lập Tuần báo Chấn hưng Kinh tế. Năm 1960 ông được cấp học bổng tu nghiệp IMEDE và hoàn tất chương trình Tiến sĩ, đậu thủ khoa Kinh tế Thương mại tại Đại học Lausanne (Thụy Sĩ). Sau đó tu nghiệp tại Mỹ (World Bank) Ông đã đãm nhận nhiều chức vụ như Giám đốc Nha Tiểu thương Tín dụng, Giám đốc Nha Khuếch trương Xuất cảng, Phụ tá Tổng Giám đốc Thương vụ Bộ Kinh tế và Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Đầu tư Phát triển SOFIDIV và IDEBANK thời VNCH.

 

Năm 1983 ông được trưởng nam bảo lãnh sang Úc. Lúc ông còn sống, tôi thường gặp ông để cùng chia xẻ nổi ưu tư về tiền đồ đất nước. Ông tặng tôi nhiều bài viết nặng tình quê hương như bài thơ “Đường Về Quê Mẹ”, ông gởi gấm dòng tâm niệm “Thương về quê mẹ trầm luân khổ, Trí kiếm trùng quang vạn lý tình”. Ông viết kịch thơ Một Thanh Bình. Là một kinh tế gia với hoài bão góp phần vào chính trị xây dựng đất nước, ông chủ trương Tri hành hợp nhất theo chu trình Tư (suy nghĩ) Ký (viết) Thuyết (nói) Hành (làm).

 

Ông đã vạch ra “Lập thuyết đồ Việt Nam trên đường phát triển” và chỉ vẽ cho đám môn sinh “Muốn xây nhà phải đấp xây nền, Phải phác họa lược đồ kiến trúc. Muốn xây dựng nước, Xuất sinh thành lập thuyết cứu nhân sinh. Vì đồ án kiến xây là cả một công trình, Phải minh họa từng li, từng tí. Từ thượng tầng tâm chí, Đến hạ tầng, sâu vào uẩn khúc tâm linh”.

 

Trở lại tình hình VN hồi cuối thập niên 1960, khi nhận thấy HK thực sự muốn chấm dứt chiến tranh để mở đầu giai đoạn hợp tác quốc tế mới: kinh tế thay cho quân sự. Ông đã cấp bách soạn thảo mô hình Nhân Đạo Pháp Trị. Theo ông cuộc xung đột Đông Tây sắp chấm dứt thực sự, một thế giới muốn sống trong hòa bình lâu dài cần có một chủ thuyết trung hòa, hướng về mục tiêu chung là phục vụ nhân sinh chớ không phải thống trị con người. Ông đề ra thuyết Ngũ Nhân: nhân tộc độc lập, nhân quyền tự do, nhân sinh hạnh phúc, nhân lực sung túc, nhân khí hùng cường.

 

Và Kinh Tế Đạo là con đường để đáp ứng những nhu cầu thiết thực của con người là: Thực (lương thực đầy đủ) Y (mạng lưới y tế rộng khắp) Cư (mọi người đều có chỗ ở) Hành (ai cũng có công ăn việc làm) Khang, Lạc (cuộc sống đầy đủ hạnh phúc). Đó là nội dung Lục Cầu: “Nhân sinh, nhân tộc, nhân quyền, Nhân lực, nhân khí, tương truyền ngũ nhân. Lục cầu cung ứng toàn dân, Thành Kinh Tế Đạo Mỹ Chân Thiện toàn”.

 

Từ chủ thuyết trên, khi tham dự hội nghị phát triển kinh tế cấp bộ trưởng vùng ĐNÁ (1969) ông đã phôi thai Đề án Cộng Đồng Kinh tế Thái Bình Dương với cảng Cam Ranh nằm trong trung tâm khu vực mậu dịch quốc tế này.Theo ông “Đấy là một dự án Kinh Tế Đạo làm đòn bẩy để phóng mô hình Nhân Đạo Pháp Trị vào quỹ đạo quốc tế” những mong đóng góp một cái gì nhỏ nhoi cho nước nhà thoát nạn binh đạo, tiến lên đường phát triển. Nên dề án nguyên thủy mang tên Việt Nam trên đường phát triển. Ông nhờ hai thượng nghị sĩ Lê Tấn Bửu và Nguyễn Mạnh Bảo chuyển kế hoạch này đến TT Richard Nixon.

 

Hồi ký ngắn “Đường Ra Sơn Hải Khẩu”. Sơn Hải Khẩu là mỹ danh ông trao tặng hải cảng Cam Ranh sau khi ông đến quan sát địa điểm này để thiết lập cảng chuyển tàu (Transit point) biến quân cảng thành thương cảng với sự hợp tác yểm trợ của công ty Sea Land Inc C.A- USA. Trong hồi ký này ông viết “vào một thời thiên định, người Việt nào nắm thời cơ trấn giữ cảng Cam Ranh, thì hãy giữ lấy cho người Việt làm chủ với bất cứ giá nào, dù phải lấy xương máu của mình để vun bồi phần đất địa linh này. Đây là nguyệt đạo trung tâm nằm trong long mạch ấn uy Tiền Đồ Tổ Quốc. Đừng vì quyền lợi hay quyền lực nào áp bức mà để mất đi vùng đất thiêng liêng lọt vào tay khống chế của nước ngoài bất cứ từ đâu đến”.

 

Trước khi qua đời, sắp đến ngày 30/4 ông nhờ tôi chuyển đến Tuần báo Việt Luận (Úc Châu) bài viết “18 năm Quốc hận: Thử tìm huyền cơ đoan chỉnh Việt Nam”. Ông căn dặn chúng ta đoàn kết và căn bản đoàn kết như thế nào để có sức mạnh đối tác với cộng sản nắm quyền để góp phần cứu nước cứu dân.

 

Nhớ lại lần gặp ông lần cuối vào một buổi chiều cuối năm 1992. Tôi mang theo bản thảo quyển Việt Nam-Thắng và Bại đến nơi ông cư ngụ được ông gọi là Trúc Thiền Trang. Đây là căn nhà của chính phủ, phía trước ông trồng một cây Bồ đề xen lẫn với các khóm trúc nằm trong vịnh có cây cầu nổi tiếng Sydney Harbour Bridge. Nhà ông nằm trong địa phận Glebe của Tiểu bang NSW, nhưng với lòng hoài vọng cố hương, ông Việt hóa địa danh Glebe thành Giác Đạo Thành, New South Wales thành Tân Nam Bang.

 

Buổi chiều hôm đó, ông nghe tôi trình bày nội dung cuốn sách từ đầu đến cuối. Nghe xong, ông bước tới bàn thờ Phật, đốt mấy nén nhang và lâm râm khấn vái. Sau đó ông nói: Anh cầu Trời khấn Phật chứng giám tấm lòng của em đối với đất nước. Anh sẽ có bài Huệ cảm đề và đôi dòng để chia xẻ tâm tình với em về quyển sách.

 

Mấy hôm sau, ông gởi đến tôi bài thơ Cảm đề Việt Nam Thắng Bại Luận

 

                                     Trung chánh hoài tâm ký sự truyền, 

                                    Thực bình nhân nghiã khảo truy nguyên. 

                                    Trình cơ đoan chỉnh trầm luân giải. 

                                    Việt chủng phát huy vĩnh lạc tuyền. 

                                    Nam quốc sơn hà qua bĩ ngạn, 

                                    Thắng quang xã tắc phục trường yên. 

                                    Bại thần dân nghiệm suy chân giả, 

                                    Luận thuyết trùng hưng quả đắc tuyên.

 

                                                             Lam Sơn Lê Tấn Lợi

 

Phía dưới bài thơ là những lời giới thiệu quyển sách với độc giả:

 

“….Suốt mấy giờ Lâm đã trình bày từng chương của quyển sách gói trọn tâm tư của mình, thai nghén trong trường kỳ gian khổ trong trại tù cộng sản.

 

Tôi rất cảm thông tâm trạng của tác giả, muốn nói lên những sự thật ở hậu trường chiến cuộc mà nhờ vị trí phục vụ tác giả đã cố công tìm hiểu để vạch ra con đường giải cứu quê hương. Tuy nhiên tác giả lại lo ngại “lời thật mất lòng”. Trong trạng thái giằn co ray rức đó, Lâm bộc lộ tâm tình và tôi góp phần chia xẻ trấn an.

 

Người xưa bảo rằng: “Thuốc đắng đả tật, lời thật mất lòng”. Sau 18 năm quốc hận, những người thật tâm lo nghĩ đến Tiền Đồ Tổ Quốc phải cảm thông: “Lời thật mát lòng”.

 

Thâm cung chính trị Việt Nam còn nhiều bí ẩn. Nếu mỗi người từ ngoài nhìn vào chưa thấu rõ, đương nhiên sẽ suy đoán mỗi cách khác nhau, đâm ra chia rẽ dòng tư tưởng “Đồng Sàng Dị Mộng” thì làm sao tập trung nổ lực Hành động một cách hữu hiệu, dù chung một con đường giải cứu quê hương.

 

Tôi tâm tình với Lâm rằng: “Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu. Đồng sầu tương khốc…” Tôi đã khóc cho quê hương bằng máu tim và máu óc sau bao nhiêu năm đi và sống, chảy dài trong mấy ngàn trang bản thảo đang nằm im trong tủ sách ngậm ngùi. Người xưa từng viết: “Ngô dự bất thành vọng ư ngô tử” tôi xin thêm vào…ngô đệ, ngô tôn”. Việc ta làm không thành thì kỳ vọng vào thế hệ con cháu và anh em trẻ còn nhiều hứa hẹn ở tương lai. Vậy Lâm hãy chọn vài bản thảo nào mình ưa thích và tùy nghi khai thác, rải thêm vài viên sỏi đá lát đường về Quê Mẹ, góp phần xoa dịu vết tang thương.

 

                                     Hành trang tãi đạo lên đường,

                                      Vui câu tiếu ngạo dậm trường bớt xa.

                                      Dấn thân vạn lý sơn hà,

                                      Nghe trời lạnh ít, nghe ta lạnh nhiều

 

Trúc Thiền Trang, Giác Đạo Thành, Úc Đại Lợi, Mùa Giáng sinh 1992- Lam sơn Lê Tấn Lợi 

 

 Hôm nay, tôi viết bài này trùng họp với ngày giỗ cố Giáo sư Lê Tấn Lợi (16/4/1993) tôi xin có đôi dòng để tưởng niệm một chiến sĩ Quốc gia nặng lòng với đất nước đến giờ phút cuối cùng.                                                   

                                                                           

 

 Lê Quế Lâm (Mùa Quốc Hận thứ 43 - 30/4/2018)

 

 

Giáo sư Lê Đình Thông kính mến, 

Quyển Thời Đại Của Tôi Cuốn II: Đời Tôi Trải Qua Các Thời Biến được chuyển dịch sang Anh ngữ với tựa đề My Epoch: My Life Through The Wars.

Theo Giáo sư, thuật từ “thời biến” được dịch là The Wars, chưa diễn tả hết ý nghĩa sâu xa của tác giả. Thời biển, ngoài ý nghĩa loạn thời, còn có ý nghĩa là “biến đổi”. Phải chăng khi viết “thời biến” tác giả kín đáo bày tỏ tâm nguyện được gói ghém trong sách Kinh Dịch: “Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”. Cùng tắc biến, sau khi đọc hồi ký của GS Vũ Quốc Thúc đối chiếu với hiện tình đất nước, ta vững tin rằng thế nào vận nước cũng đổi thay.

Nay tôi xin ghi hai câu tiếp: “Thị dĩ tự Thiên, Cát vô bất lợi”.

Toàn bộ mấy câu trên được một học giả diễn Nôm như sau:

“Việc đời biến hóa thần kỳ,

 Cùng rồi lại biến, biến thì mới thông.

 Thông rồi bền vững, mới mong,

 Có Trời phù trợ, nên công tốt lành”.

 

Tôi tin rằng đất nước ta đến hồi chung cuộc cũng sẽ tốt lành.

 

Kính thưa Giáo sư,

 

Giáo sư, cô Tống Mỹ Loan và cá nhân tôi, vinh dự được GS Vũ Quốc Thúc đề tên ở trang đầu tác phẩm của Cụ, cho thấy chúng ta được Giáo sư coi như là những đứa học trò tâm đắc của Thầy. 

Bài viết đính kèm này, tôi kính tặng GS Vũ Quốc Thúc, và cũng xin kính tặng Giáo sư Lê Đình Thông và Cô Tống Mỹ Loan.