Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không ǵ nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.

Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.

La Fontaine

 

 

 

LỆNH ĐUỔI NHÀ ÔNG ĐẠI SỨ MỸ

NGÀY 29/4/1975 Ở NƯỚC VNCH

 

Nguyễn Thành Trí

 

1

Ông Graham Martin Đại Sứ Mỹ ở nước VNCH, sau khi đă rời khỏi Sài G̣n lúc 4 giờ sáng ngày 30/4/1975, ông đă tới chiến hạm USS Blue Ridge của Hải Quân Mỹ ở ngoài khơi Biển Đông, và được các phóng viên báo chí tây phương phỏng vấn.

Photo Credit Designer: Nguyen Phan Thanh

 

 

Phải nói cho đúng là “Dân Chúng Miền Nam Việt Nam Hoảng Sợ Chạy Trốn Cộng Sản Việt Nam!”, v́ thật rơ ràng không phải Đồng Minh Mỹ tháo chạy bởi đă thua trận như những cách nói hàm hồ của luận điệu tuyên truyền xảo quyệt của cộng sản quốc tế và CSVN để làm nhục Chính Phủ Mỹ. Trong ṿng sáu mươi ngày sau khi Hiệp Định Hoà B́nh Paris 1973 được kư kết th́ toàn bộ các đơn vị quân sự Đồng Minh, Mỹ và Bộ Chỉ Huy MACV trở về nước Mỹ trong danh dự bởi v́ họ đă làm xong nhiệm vụ chặn đứng cuộc xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt để bảo vệ tự do cho nhân dân miền Nam Việt Nam được thực hiện quyền Dân-Tộc-Tự-Quyết tự do chọn lựa chính thể. Trái với thực tế của luận điệu tuyên truyền gian trá của cộng sản là người Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam để biến miền nam thành một thuộc địa kiểu mới, hoặc là trở nên Tiểu Bang thứ 51 của Đế Quốc Mỹ.

 

Cho dù Cộng Sản Bắc Việt và VC Miền Nam đă quá gian manh, quỷ quyệt, nhưng chính họ không nghĩ tới việc họ cố ư vi phạm Hiệp Định Hoà B́nh Paris 1973, cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, loại bỏ chính phủ VNCH, lại là một cơ-hội-tốt cho người Mỹ rửa sạch tiếng xấu là đế quốc xâm lược miền Nam Việt Nam. Cho tới ngày 30/4/1975 th́ nhân dân miền Nam Việt Nam và nhân dân miền Bắc Việt Nam cũng như nhân dân các nước khác đă biết rất rơ ai chính là kẻ xâm lăng miền Nam Việt Nam. Thật quá bất hạnh cho nhân dân miền Nam Việt Nam khi không được chính thức bầu cử tự do trong một cuộc tổng tuyển cử có quốc tế giám sát th́ họ cũng có thể “bầu-cử-bằng-chân” của họ từ-chối-cộng-sản và cũng có quốc tế quan sát nhận thấy “kết-quả-không-cộng-sản” trong sự tự do chọn lựa của nhân dân miền Nam Việt Nam bắt đầu kể từ ngày TT Thiệu ra lệnh “Di Tản Chiến Thuật” bỏ trống Miền Trung cả hai Vùng I và Vùng II Chiến Thuật. Nhân Dân VNCH tự do đă liều chết chạy lánh nạn cộng sản. Nhân Dân VNCH, người Việt Nam nói chung, đă công khai bỏ phiếu lựa chọn giữa cộng sản độc tài và cộng hoà tự do một cách rất rơ ràng.

 

Ngày 30/4/1975 cũng chính là ngày Chính Phủ Mỹ đă triệt để tôn trọng Chủ Quyền của Chính Phủ VNCH, nghiêm chỉnh làm đúng theo lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu là tất cả người Mỹ phải đi khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ. Như vậy th́ Đồng Minh Mỹ đă không phải bị thua trận mà tháo chạy; ngược lại, Đồng Minh Mỹ đă phải vội vă ra đi v́ bị chính Đồng Minh VNCH “đuổi-nhà-không-cho-ở-chung-nữa”. Thường thường người trí thức tự do tây phương hay tự nói về những thành công hay thất bại, những ủng hộ thuận lợi hoặc áp lực trở ngại, để phân tích t́m hiểu rút kinh nghiệm cho chính ḿnh và cho người khác; c̣n đối với ông Vũ Văn Mẫu th́ có vẻ “cam-ḷng-chịu-đựng-sự-phũ-phàng-nhục-nhă” khi chính ông Mẫu đă phải giữ im lặng cho tới chết.

 

Một cách rất đáng ngạc nhiên là chẳng những không có một tên lănh đạo CSVN nào trên b́nh diện chính trị và quân sự, mà cũng không c̣n có một tên trí thức cộng sản ở trong đảng CSVN và trí thức VN ở ngoài đảng trên b́nh diện lịch sử, có đủ can đảm và ḷng tự-trọng-trí-thức để nói tới chuyện ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu đă “đuổi-nhà” ông Đại Sứ Mỹ trong thời hạn một ngày để cho họ, CSVN, cưỡng chiếm toàn bộ lănh thổ VNCH một cách quá dễ dàng. Cũng có thể CSVN đă lường gạt cả hai ông tổng thống và thủ tướng cuối cùng của VNCH một cách quá dễ dàng trong những ngày sau cùng của một chế độ cộng ḥa ở miền Nam Việt Nam tự do.

 

Cũng có thể v́ ở trong một chế độ cộng sản không có tự do ở nước Việt Nam nên họ, những người trí thức cộng sản cũng như không cộng sản, cũng không có ḷng tự-trọng-trí-thức để nói về một sự thật, một sự kiện lịch sử quan trọng ở Việt Nam đă xảy ra trong ngày 29/4/1975. Đó không phải là một chiến thắng quân sự. V́ làm thế nào có chiến thắng quân sự khi đă kư kết Hiệp Định Hoà B́nh Paris 1973.  Đó cũng là nguyên nhân sâu xa khiến cho tên Lê Đức Thọ không dám nhận Giải Nobel Hoà B́nh. Quả thật, đó đúng là một sự gian xảo lường gạt.

 

Đó cũng chính v́ một lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH đă tạo ra một h́nh ảnh của ông Đại Sứ Mỹ với một lá cờ Mỹ xếp gọn theo h́nh tam giác được ôm trong tay ông ta và vội vă cùng với vài người lính Mỹ bảo vệ cho ông bước lên một chiếc trực thăng TQLC Mỹ bay ra khỏi Sài G̣n. Họ là những người Mỹ sau cùng phải vẩy tay chào từ giả Sài G̣n vào lúc 4 giờ rưỡi sáng sớm ngày 30/4/1975. Đối với ông Đại Sứ Mỹ th́ luôn luôn phải tôn trọng và bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, và T́nh Người. Tổ Quốc là lá cờ Mỹ ông đang ôm trong tay. Danh Dự là khi “được yêu cầu ra đi th́ sẵn sàng ra đi!” Nếu ông Thủ Tướng VNCH đă không “đuổi người Mỹ phải đi khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ”, mà ngược lại đó là một lời “chính thức yêu cầu nước Mỹ cứu nạn nước VNCH trước thảm hoạ CSBV”, th́ biến chuyển t́nh h́nh ở Sài G̣n vào ngày cuối tháng Tư và những ngày đầu tháng Năm 1975 chắc có lẽ đă khác hơn là cuộc cưỡng chiếm lănh thổ VNCH một cách quá dễ dàng. Sau khi đă kư kết Hiệp Định Hoà B́nh Paris 1973, các hành động của nước Mỹ đối với nước VNCH phải bị ràng buộc có “danh chính ngôn thuận”. Tại sao trên làn sóng phát thanh của Đài Sài G̣n vào buổi sáng sớm ngày 29/4/1975 ông Vũ Văn Mẫu Th. T. VNCH đă không công khai yêu cầu nước Mỹ cứu nạn thảm hoạ cộng sản, thay v́ đuổi người Mỹ đi khỏi miền Nam VN. Nếu người Mỹ không đi, th́ rơ ràng người Mỹ đă vi phạm chủ quyền quốc gia VNCH.

 

Rất nhiều người Việt Nam đă không biết, hoặc đă bị tuyên truyền cộng sản nên hiểu lầm rằng “Đồng Minh Mỹ tháo chạy”, hoặc họ đă có biết nhưng họ lại cố quên rồi chuyện “Ông-Thủ-Tướng-Một-Ngày” chỉ một ngày 29/4/1975 làm thủ tướng VNCH, nhưng ông thủ tướng này lại có đủ thẫm quyền ra lệnh cho Đồng Minh Mỹ phải “tháo-chạy” trong thời hạn chỉ một ngày. Quả thật rơ ràng đây là một thứ “định-mệnh-cay-nghiệt” dành cho ông Đại Sứ Mỹ! Ông Thủ Tướng VNCH Một Ngày đúng là khắc-tinh của ông Đại Sứ Mỹ đă hơn một ngàn ngày làm việc và sống tại Sài G̣n! Vấn đề tôn trọng danh dự và mạng sống của chính ḿnh là một chuyện quan trọng, nhưng Trách Nhiệm và T́nh Người lại là một chuyện khác quan trọng hơn nhiều nữa.

 

V́ vậy ông Đại Sứ Mỹ đă từ chối lên chiếc trực thăng TQLC đầu tiên bay đi. Trong thời hạn 24 giờ đồng hồ của ngày 29/4/1975 th́ ông đại sứ đă quyết định ở lại cho tới những phút sau cùng để ông chắc chắn rằng tất cả công-dân-Mỹ ở miền Nam Việt Nam đă ra đi an toàn, và nhất là những người Việt Nam, có lẽ có gần ba ngàn người đă vào được “lănh địa của toà Đại Sứ Mỹ” có nghĩa là họ “vào-được-cái-nhà-của-ông-đại-sứ”, và họ đă được 75 chiếc trực thăng TQLC Mỹ đưa đi ra những chiếc tàu HQ Mỹ ở ngoài khơi Biển Đông. Nếu ông Đại Sứ Mỹ có một thứ “quyền-năng-đặc-biệt” như Siêu-Nhân có thể nắm giữ trái đất lại không cho xoay tṛn hết một ngày để thời gian ngừng lại, th́ ông đă di tản hết những người Việt Nam ngồi chờ chuyến trực thăng TQLC Mỹ bay đi. Khi hiểu cái giới hạn khả năng của ông đại sứ trong thời hạn một ngày, th́ người ta hiểu được cái ư nghĩa sâu sắc của một tấm h́nh chụp chiếc trực thăng đậu trên nóc toà đại sứ và một đoàn người tiếp theo nhau leo cầu thang để vào bên trong chiếc máy bay di tản.

 

Quả thật, “Những Ngày Cuối Tháng Tư Ở Việt Nam” đúng ra là của ông Graham Martin, Đại Sứ Mỹ ở nước VNCH. Ông Graham Martin đă hết sức giúp đở di tản rất nhiều người miền Nam Việt Nam lánh nạn Cộng Sản Việt Nam. Ông Đại Sứ Mỹ là người đại diện cho nước Mỹ trong quan hệ ngoại giao với nước VNCH. Ông đại sứ đă phải giả từ Sài G̣n, thủ đô của nước VNCH, trong thời hạn một ngày dựa trên lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH. Ông đại sứ đă đi khỏi nước VNCH v́ Tổ Quốc, Danh Dự, và Trách Nhiệm của ông. Sự ra đi vội vàng của ông đại sứ là v́ cái thời hạn 24 giờ đồng hồ phải chắc chắn rằng tất cả những người ra đi được an toàn; tuy nhiên, sự ra đi quá nhiều mệt mơi này, v́ cho tới 4 giờ rưỡi sáng ngày 30/4/1975 ông đại sứ mới lên chuyến bay trực thăng cuối cùng rời khỏi Sài G̣n, cũng đă gián tiếp có thể làm phục hồi danh dự cho MACV, một phái bộ quân sự cũng giống như ông đại sứ luôn luôn tôn trọng tôn chỉ hành động bảo vệ “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và T́nh Người”.

 

Phái bộ MACV đă an toàn trở về nước Mỹ trong danh dự sau khi hiệp định ḥa b́nh đă được kư kết. C̣n hơn thế nữa, sự ra đi của ông đại sứ chẳng những phục hồi danh dự cho MACV, mà c̣n có thể gián tiếp phục hồi danh dự cho Quân Lực VNCH, một quân đội cộng hoà đă từng được sự trợ giúp của MACV để trở nên một quân đội đứng hàng đầu ở Đông Nam Á. Quân Lực VNCH đă bị rối loạn hàng ngũ bởi v́ những quyết định sai lầm nghiêm trọng của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH và có một số ít sĩ quan cao cấp đă phạm lỗi tự ư bỏ đơn vị ra đi trước để được an toàn cá nhân, nhưng cả một tập thể QLVNCH không để mất danh dự. Cả hai, MACV và QLVNCH, đă không để mất Danh Dự của ḿnh bởi v́ sau hiệp định hoà b́nh đă không thực sự giao chiến với địch quân cộng sản.

 

Người ta nhận thấy một cách khách quan là “chính hai vị tổng tư lệnh cuối cùng của QLVNCH đă phạm sai lầm làm tan ră hàng ngũ quân đội sau khi lệnh ngưng bắn có hiệu lực.” Có một nghi-án của Quân Sử VNCH là “Ai đă bày-mưu-hiến-kế cho TT Thiệu quyết định “Di-Tản-Chiến-Thuật” bỏ trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật. Một cách cụ thể là TT Thiệu đă “gián tiếp giao cả Miền Trung Việt Nam cho CSVN!” Một bằng chứng điển h́nh là vào ngày 2/4/1975 các cấp chỉ huy đơn vị VNCH ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà đă nhận lệnh của “Người Nào” để “di-tản-chiến-thuật” bỏ trống thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hoà, mặc dù đă không có một cuộc tấn công lớn nhỏ nào của bộ đội CS Bắc Việt. Cho tới ba ngày sau, 5/4/1975, chỉ có vài đơn vị nhỏ của bộ đội CS Bắc Việt với VC địa phương tới tiếp quản thành phố này.

 

Sự kiện “Di-Tản-Chiến-Thuật” bỏ trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật đă được ghi lại trong các bản báo cáo của ông William Colby, Trưởng Cơ Quan CIA và của ông Đại Tướng Fred Weyand,Tham Mưu Trưởng Lục Quân Mỹ và là Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, sau khi trở lại miền Nam VN quan sát thực tế t́nh h́nh để tường tŕnh lên TT Gerald Ford. Ông TT Thiệu đă yêu cầu giải quyết các đơn vị CS Bắc Việt hiện ở dưới vĩ tuyến 17 bằng những chuyến bay B52, nhưng Tướng Weyand và ông Đại Sứ Martin đă không đồng ư áp dụng chương tŕnh B52. Sau khi phân tích t́nh h́nh, chỉ có ông Đại Tá William LeGro, Trưởng T́nh Báo Tuỳ Viên Quốc Pḥng của toà đại sứ là cùng quan điểm với TT Thiệu yêu cầu áp dụng chương tŕnh B52 trên các mục tiêu chỉ định CS Bắc Việt. Tuy nhiên, người Mỹ sẽ “hành-động-tự-vệ” chỉ khi nào bộ đội CS Bắc Việt hoặc VC địa phương đánh vào toà đại sứ hay các văn pḥng lănh sự của Mỹ. V́ vậy không thể “vô-cớ” áp dụng chương tŕnh B52 theo yêu cầu của TT Thiệu. Đấy là lần cuối của Đại Tướng Fred Weyand, Cựu Chỉ Huy Trưởng MACV, đă trở lại với VNCH ở miền Nam Việt Nam, trước khi đi vào lịch sử chiến tranh hải ngoại của Quân Đội Mỹ và quân-sử của QLVNCH.

 

Quân-sử của QLVNCH chắc chắn phải ghi lại sự kiện TT Thiệu đă quyết định “di-tản-chiến-thuật” bỏ trống Vùng I và Vùng II Chiến Thuật để cho CSVN chiếm lấy cả miền Trung Việt Nam một cách quá dễ dàng! Hơn nữa, cuộc “Di-Tản-Chiến-Thuật” của TT Thiệu cũng trực tiếp gây khó khăn cho TT Ford trước Quốc Hội Mỹ trong việc yêu cầu quốc hội chấp thuận tài khoản quân viện cho VNCH, mà việc yêu cầu này phải nói tránh-tiếng là “tài-khoản-viện-trợ-nhân-đạo-cho-người-tỵ-nạn-cộng-sản” ; bởi v́ Quốc Hội Mỹ đă biết rơ là kể từ ngày 25/3/1975 có chừng 150000 người lính ĐPQ/NQ và lính chính quy QLVNCH thuộc Vùng I và Vùng II đă “biến-mất-trong-cuộc-di-tản-chiến-thuật”. Họ đă bỏ lại cho bộ đội CS Bắc Việt chiếm lấy tổng số hơn một tỷ đô la gồm có quân trang, quân dụng, súng đạn, kho xăng dầu, quân xa, vân vân…, và gần 400 chiếc máy bay quân sự đủ loại! Với một thực tế t́nh h́nh của hai vùng chiến thuật đă như vậy, th́ hỏi làm sao Quốc Hội Mỹ “vui-ḷng-chi-tiền”. Ngay cả những Con-Diều-Hâu-Mỹ hiếu chiến nhất cũng không muốn chi-thêm-tiền cho TT Thiệu! Sau chuyến đi thực tế ở Sài G̣n trở về Mỹ, Tướng Weyand đă tường tŕnh cho TT Ford biết là VNCH rất cần một “tài-khoản-khẩn-cấp” càng sớm càng tốt, và TT Thiệu sẽ phải “từ chức”.

 

Ông Thiệu đă độc tài và quá ích kỷ khi chỉ lo cho bản thân của ông. Một bằng chứng quá rơ là Ông Thiệu đă điều động Sư Đoàn Dù thiện chiến của QLVNCH từ Quảng Trị về Sài G̣n chỉ để bảo vệ cho ông chống lại “cuộc-đảo-chính-tưởng-tượng-xảy-ra-trong-đầu-của-ông-Thiệu” trong lúc Sư Đoàn Dù vừa đánh tan cuộc tấn công của những đơn vị CS Bắc Việt ở phía đông Quốc Lộ 1 tỉnh Quảng Trị. Ông Thiệu v́ quá sợ bị đảo chính nên đă cách chức ông Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, một tướng lănh đă từng chỉ huy cuộc đảo chính trước đây. Ông Thiệu đă bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Quốc Hội VNCH giữ chức thủ tướng để thành lập một “chính-phủ-chiến-tranh”, nhưng Ông Cẩn đă không thể thành lập được chính phủ mới, v́ thế khiến cho nước VNCH kể từ ngày 4/4/1975 không có một chính phủ đủ chức năng quản lư.

 

Ông Thiệu đă có nhiều nỗi lo sợ, và càng lo sợ hơn nữa khi Ông Nguyễn “Cao-Bồi-Kỳ” hăm doạ “giết-Thiệu-cướp-quyền”. Bởi v́ độc tài nên Ông Thiệu đă lo sợ phải chia sẻ “quyền-lực-lănh-đạo-của-ông” cho những người đối lập với ông trong một chính phủ liên hiệp, ở đây phải nói cho rơ là “liên hiệp các đảng phái quốc gia”, nhưng Ông Thiệu đă không muốn “chia sẻ quyền lực” cho ai khác, nên ông khẳng định rằng “ai chống lại ông th́ là cộng sản”. Sau sự kiện “di-tản-chiến-thuật” bỏ miền Trung Việt Nam và để mất thành phố Nha Trang-Khánh Hoà th́ Quốc Hội VNCH cũng đă lên án Ông Thiệu “độc tài, tham nhũng, bất công” và đề nghị Ông Thiệu thành lập một “chính phủ đoàn-kết-quốc-gia”. Rất rơ ràng là trong tất cả những nỗi lo sợ, Ông Thiệu sợ nhất là “bị-đảo-chính” bởi những người quốc-gia VNCH!

 

Khi thực tế rơ ràng là Ông Thiệu đă không thể thành lập được một “chính phủ đoàn kết quốc gia”, kể cả Cha Nguyễn Văn B́nh, Giám Mục Sài G̣n cũng kêu gọi Ông Thiệu từ chức v́ lợi ích của quốc gia và của nhân dân miền Nam Việt Nam. Hơn nữa, Quốc Hội VNCH cũng đă chống đối Ông Thiệu v́ tính cách “độc tài, tham nhũng, bất công” của ông, đưa tới kết quả là Ông Thiệu phải từ chức vào ngày 21/4/1975, một sự từ chức quá muộn sau khi ông đă làm mất Vùng I và Vùng II Chiến Thuật về phía CS Bắc Việt. Ông Thiệu đă được đánh giá là “không có khả năng làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH” v́ thực tế chứng minh rằng cuộc “Di-Tản-Chiến-Thuật” đă khiến cho một số tư lệnh và những sĩ quan chỉ huy các đơn vị tác chiến VNCH bị lúng túng, bối rối không hiểu được Ông Thiệu muốn làm ǵ!

 

Diễn biến t́nh h́nh đă xảy ra như vậy mà khi Ông Thiệu tuyên bố từ chức th́ ông lại nói Đồng Minh Mỹ đă “tháo chạy, bỏ rơi chúng ta”; ngược lại, một cách rất mỉa mai là vào ngày 28/4/1975 chính Ông Martin đă gởi cho Ông Kissinger một bức điện-văn-mật thông báo rằng “người Mỹ sẽ có thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu thêm một năm hay nhiều năm nữa”. Có lẽ Ông Martin đă quá lạc quan tin tưởng rằng một biện pháp chính trị sẽ giải quyết hết vấn đề tranh chấp quyền lực lănh đạo xă hội miền Nam Việt Nam như trong tinh thần, ư nghĩa cao quí của Hiệp Định Hoà B́nh Paris 1973 đă được người Việt Quốc Gia và người Việt Cộng Sản kư kết với nhau hai năm trước. Ông Đại Sứ Pháp cũng đă tích cực vận động ủng hộ cho Tướng Dương Văn Minh và Luật Sư Vũ Văn Mẫu là những người có lập trường Trung-Lập thay thế Ông Thiệu để thành lập một chính phủ mới VNCH có đủ khả năng hiệp thương với VC miền Nam Việt Nam và CS Bắc Việt.

 

Thật đáng tiếc! Vào sáng sớm ngày 29/4/1975 Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh đă gặp ông Sĩ Quan Tuỳ Viên Quân Sự Mỹ ở toà đại sứ và đă yêu cầu toàn bộ văn pḥng tuỳ viên quân sự phải rời khỏi Sài G̣n càng sớm càng tốt. Nên ghi nhận ở đây là TT Minh chỉ yêu cầu toàn bộ văn pḥng tuỳ viên quân sự Mỹ, chứ không phải là tất cả người Mỹ ở Miền Nam VN. Ông Martin và những người có thẫm quyền ở toà đại sứ c̣n chưa hiểu được “Ông Big Minh muốn giỡ tṛ quỷ quái ǵ đây”, th́ chừng 30 phút sau đó đài phát thanh Sài G̣n loan báo lời yêu cầu của ông Thủ Tướng VNCH Vũ Văn Mẫu, “yêu cầu tất cả người Mỹ phải lập tức rời khỏi miền Nam Việt Nam trong thời hạn 24 giờ đồng hồ”. Như vậy th́ quá rơ ràng, không c̣n thắc mắc ǵ nữa! Thật là oái oăm vô cùng, có hai lời tiên đoán, một đúng một sai, một của Ông Thiệu đă nói vào ngày 21/4/1975 là “người Mỹ tháo chạy, bỏ rơi chúng ta”, một của Ông Martin đă viết trong bức điện-văn-mật gởi cho Ông Kissinger là “người Mỹ sẽ có thể ở lại miền Nam Việt Nam lâu thêm một năm hay nhiều năm nữa”. Bởi v́ Ông Martin đă tiên đoán sai, ông viết ra câu này hôm trước th́ ngay hôm sau ông phải vội vă khăn gói ra đi không được chần chờ!

 

Vừa rồi kể lại như trên chỉ là sơ lược những nét chính của những “Ngày Cuối Tháng Tư Ở Miền Nam Việt Nam”, chắc chắn là c̣n nhiều thiếu sót, nhưng khả dĩ cũng giúp cho người đọc có thể nh́n lại một phần nhỏ quá khứ của miền Nam Việt Nam, của QLVNCH một quân đội dũng mănh đă từng đứng đầu ở Đông Nam Á nhưng phải chịu đựng một số phận cay nghiệt do chính Tổng Tư Lệnh gây ra, và của MACV một phái bộ quân sự Mỹ đă trợ giúp QLVNCH lớn mạnh hơn trong mọi lănh vực chuyên môn, tác chiến của tất cả các quân-binh-chủng. Rơ ràng đă có một sự liên đới, một t́nh cảm anh-em-đồng-đội giữa QLVNCH và MACV. Cả hai QLVNCH và MACV đă luôn luôn tôn trọng bảo vệ Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm và T́nh Người. Như đă nói ở phần trên, sự ra đi vội vă của Ông Martin và sau đó vài giờ trong buổi sáng 30/4/1975, ông TT VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng CSVN và với tư cách Tổng Tư Lệnh đă giải tán QLVNCH, một quân đội không thực sự được tác chiến sau khi ngưng bắn, đă chịu thua dễ dàng!

 

Như vậy rất rơ ràng là sau hai năm MACV và tất cả các đơn vị tác chiến Mỹ và Đồng Minh đă hoàn toàn “về-nước-trong-danh-dự”, th́ chính phủ VNCH mới bị sụp đổ, QLVNCH mới bị giải tán, và cái h́nh ảnh chiếc trực thăng di tản trên nóc Toà Đại Sứ Mỹ trong ngày 29/4/1975 đă được CSVN dùng để tuyên truyền cho cuộc chiến “giải-phóng-miền-Nam-Việt-Nam-đại-thắng” đối chiếu với sự thất bại của “đế-quốc-Mỹ-xâm-lược”. Có một câu hỏi vẫn c̣n nhức nhối trong tâm tư từ ngày 30/4/1975 cho tới nay đă hơn 40 năm là “Chính Phủ VNCH bị sụp đổ, QLVNCH bị giải tán, nước VNCH bị mất tên trên bản đồ thế giới bởi Cái-Ǵ đă gây ra?” Bởi v́ sự thiếu hụt Tiền VN, Vàng, Đô Mỹ? Cho tới ngày 30/4/1975 những thứ này vẫn c̣n đầy trong các kho bạc của Ty Ngân Khố ở các tỉnh, các ngân hàng tỉnh, và Ngân Hàng Quớc Gia Việt Nam tại Sài G̣n. Nếu nói Chính Phủ VNCH đă bị sụp đổ v́ “không-có-tiền” là nói hài hước châm biếm cay độc, v́ cái chính phủ cộng sản quản lư miền Nam VN vào thời gian kế tiếp đó “đă đổi 500 đồng VNCH lấy 1 đồng CS Bắc Việt”! Như vậy, trên thực tế Chính Phủ VNCH đă có rất nhiều tiền, vàng, và đô la để ở trong kho của các Ty Ngân Khố và Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam.

 

Hơn nữa, đối với chiến tranh Việt Nam mặc dù có chung một mục đích bảo vệ Tự Do, nhưng tâm lư của người Mỹ khác với tâm lư của người Việt. Trong khi người Việt đă có “những cuộc xung đột vũ trang như một cuộc nội chiến” để tranh giành quyền lực lănh đạo xă hội Việt Nam theo mô h́nh phàt triển cộng sản hay mô h́nh phát triển tư bản, th́ người Mỹ đă nh́n thấy nó như một “chiến tranh khu vực bành trướng chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á” sau khi người Mỹ đă thành công ngăn chặn Bắc Hàn và Trung Cộng ở khu vực Đông Á. Nói cụ thể là Chính Phủ Mỹ đă không muốn nước VNCH ngă xuống làm các nước khác ở Đông Nam Á ngă theo, và cái quan niệm này khiến cho người Mỹ nghĩ rằng “Mỹ đánh CSVN dùm cho VNCH” khi CSVN là tên “lính-xung-kích-cộng-sản-quốc-tế” của Trung Cộng-Liên Sô. CSVN luôn xác định là một nước VN có miền Nam VN bị đế quốc Mỹ chiếm đóng, trong khi Mỹ và VNCH luôn xác định là “hai nước VN”như Nam Hàn-Bắc Hàn, Đông Đức-Tây Đức, vấn đề thống nhất đất nước được thảo luận, thương lượng sau khi đă ngưng bắn, kư kết hiệp định hoà b́nh.

 

Vấn đề tranh giành quyền lực lănh đạo xă hội, quản lư đất nước được giải quyết bằng những phương tiện ôn hoà bầu cử ứng cử dân chủ tự do; ngược lại, không được áp dụng bạo lực cách mạng bằng súng đạn cưỡng đoạt chính quyền. Có hiểu như vậy mới hiểu tâm lư của người Mỹ là sau khi có Hiệp Định Hoà B́nh Paris 1973 th́ “họ đă yên tâm để cho người Việt có quyền tự quyết định, tự chọn lựa chính thể giữa cộng hoà và cộng sản, tự giải quyết vấn đề thống nhất nước VN trong hoà b́nh.” Đối với người Mỹ th́ Chiến Tranh Đông Dương II hay Chiến Tranh VN đă chính thức chấm dứt, v́ cả khu vực Đông Nam Á được ổn định lâu dài tiếp theo đó. Có hiểu tâm lư của người Mỹ như thế mới nhận thấy được CSVN đă sai lầm khi muốn “làm-nhục-người-Mỹ”, nhất là những quân nhân Mỹ đă phục vụ tại VN và MACV, bởi v́ họ đă làm xong nhiệm vụ của họ rất tốt.

 

Chính Phủ VNCH của TT Minh và ThT Mẫu đă bị sụp đổ nhanh chóng trong một ngày bởi v́ cả hai TT Minh và ThT Mẫu đă bị CSVN lường gạt họ. Chính Phủ VNCH của TT Minh và ThT Mẫu đă yêu cầu Ông Đại Sứ Mỹ và tất cả người Mỹ phải lập tức rời khỏi nước VNCH trong thởi hạn 24 giờ đồng hồ để người Việt, gồm có VNCH và CSVN, giải quyết vấn đề nội bộ với nhau. Người Mỹ không được phép xen vào chuyện nội bộ của người Việt! Tuy nhiên, CSVN đă xảo quyệt lừa gạt hai ông Minh và Mẫu, khi bắt buộc hai ông này đầu hàng vô điều kiện.

 

Đối với rất nhiều người th́ cuộc di tản ngày 29/4/1975 “hổn loạn kinh khủng”. Lẽ tất nhiên là phải “hổn loạn kinh khủng” v́ có quá đông người phải ra đi trong thời hạn ngắn 24 giờ đồng hồ. Cũng có lẽ cái lệnh của ông ThT Mẫu “đuổi-nhà-ông-đại-sứ-Mỹ” đă được loan đi lặp lại nhiều lần trên làn sóng phát thanh của đài Sài G̣n làm cho toàn thể người dân miền Nam Việt Nam lúc đó rất hoảng hốt lo sợ, và đă có rất nhiều người dân miền nam bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, tài sản, thân nhân của ḿnh để vượt biên lánh nạn cộng sản ngay trong ngày 29/4/1975./.

 

Nguyễn Thành Trí, Sài G̣n 29/4/2016

 

 

 


 

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 

 

Tặng Kim Âu



Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


 

 

 

 

  Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearningLịch SửTác PhẩmChính NghĩaVấn ĐềĐà LạtDiễn ĐànChân LưBBCVOARFARFISBSTác GỉaVideoForum

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

 

NT Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Ross Perot  Cố Vấn An Ninh Đặc Biệt của TT Reagan và NT Sám

 


 

New World Order

Daily Storm

Observe

Illuminatti News

American Free Press

Federation of American Scientist

Thư Viện Quốc Gia

Tự Điển Bách Khoa VN

Bảo Tàng Lịch Sử

QLVNCH

Đỗ Ngọc Uyển

Thư Viện Hoa Sen

Vatican?

RomanCatholic

Sai Gon Echo

Viễn Đông Daily

Người Việt

Việt Báo

Việt List

Xây Dựng

Phi Dũng

Việt Thức

Hoa Vô Ưu

Đại Kỷ Nguyên

Việt Mỹ

Việt Tribune

Bia Miệng

Saigon Times USA

Người Việt Seatle

Cali Today

Dân Việt

Việt Luận

Nam ÚcTuần Báo

DĐ Người Dân

Tin Mới

Tiền Phong

Xă Luận

Dân Trí

Tuổi Trẻ

Express

Lao Động

Thanh Niên

Tiền Phong

Tấm Gương

Sài G̣n

Sách Hiếm

ThếGiới

Đỉnh Sóng

Eurasia

ĐCSVN

Bắc Bộ Phủ

Nguyễn Tấn Dũng

BaSàm

Thơ Trẻ

Văn Học

Điện Ảnh

Cám Ơn Anh

TPBVNCH

1GĐ/1TPB

Propublica

Inter Investigate

ACLU Ten