* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ESPNSport -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3.  

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

     LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

-07/2008 -08/2008 -09/2008 -10/2008 -11/2008 -11/2008

-12/2008 -01/2009 -02/2009 -03/2009 -04/2009 -05/2009

-06/2009 -07/2009 -08/2009 -09/2009 -10/2009 -11/2009

-12/2009 -01/2010 -03/2010 -04/2010 -05/2010 -06/2010

-07/2010 -08/2010 -09/2010 -10/2010 -11/2010 -12/2010

-01/2011 -02/2011 -03/2011 -04.2011 -05.2011 -06.2011

-07/2011 -08/2011 -09/2011 -10/2011 -11/2011 -12/2011

-05/2012 -06/2012 -12/2012 -01/2013 -12/2013 -03/2014 -09.2014 -10.2014 -12/2014 -03/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2015 -02/2016 -02/2016 -03/2016 -07/2016 -08/2016

-09/2016 -10/2016 -11/2016 -12/2016 -01/2017 -02/2017

-03/2017 -04/2017-05/2017 -06/2017 -07/2017 -08/2017

-09/2017 -10/2017 -11/2017 -12/2017-01/2018 -02/2018

-03/2018 -04/2018 -05/2018 -06/2018 -07/2018 -08/2018

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019 

 

Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. Mar/2017. 

Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017. Jul/2017. Aug/2017.

Sep/2017. Oct/2017. Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018.

Feb/2018. Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018. Nov/2018.

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

THÁNG 6-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT- EPOCH

   

 

 

Hãy biểu dương

cùng tận

                                                                                                  

PHAN NHẬT NAM

 

Biểu dương, hãy biểu dương cùng tận

Vinh hiển lầm than một kiếp người.

(Tô Thùy Yên)

 

Dẫn Nhập.

7 Tháng 9, 1981 nơi Trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam.

Cửa thứ nhất khu kỹ luật mở ra.. Anh ngó trân trân lên khối sắt sơn xanh không cảm giác, vô hồn bước vào khoảng sân vắng tanh, lau sậy khô teo, vàng úa, xao xác hỗn loạn. Viên cán bộ kỹ luật và gã tù hình sự phải vạch lối đi qua để dẫn anh tới trước tấm cửa bên ngoài dãy buồng giam. Thanh sắt chắn ngang khung cửa gỗ thứ hai được kéo ra, rút bỏ xuống.. Âm rền rĩ siết lê gay gắt, gào chìm rờn rợn. Đi tiếp vào căn phòng tối lạnh, chiếc bàn gỗ xiêu vẹo dựa vách tường trên có chiếc chén nhựa bẩn, cơm, khoai, sắn đọng khô nâu quanh vành chén (có lẻ từ lâu không được dùng đến), anh nhìn quanh, dãy buồng kỹ luật tối im chập choạng, kín như khối nhà mồ chất chứa xương cốt của những người chết để lâu không chôn cất. Tử khí ẩm ẩm tanh tanh. Cuối cùng, anh bước vào căn buồng hẹp sau cánh cửa thứ ba (đúng nghĩa chỉ là chiếc hộp dựng đứng), đặt chân vào khoen cùm hình chữ U. Bên ngoài, tiếng động ổ khóa khóa lục cục, xong thanh sắt giữ chân cùm chuyển động, day day chạy ngang cổ chân anh. Căn phòng hoàn toàn chìm đẫm vũng tối sau loạt động âm do những tấm cửa đóng lại. Không biết bây giờ là mấy giờ?Hôm nay thứ mấy?! Anh quên ngay ý nhiệm thời gian, ngày, tháng vừa tách rời. Nơi nầy năm trước, 1979 anh đã một lần vào, và khoảng một năm sau anh được cho ra, trở về trại chung với đồng ngũ. Nhưng lúc ấy thân thể anh bền bỉ, rắn chắc; trí tuệ mạnh mẽ cương nghị.. và nhất là chung quanh, bên ngoài, ở cạnh những bức tường phòng giam nầy còn có một tập thể bạn tù Miền Nam - Những người bạn anh mà có thể phân biệt cụ thể, chính xác từng âm nói của mỗi người.. Cách phát âm của Phan Văn Giỏi (với âm sắc Quảng Nam được nhấn mạnh) đang múc nước ở khu nhà bếp (sát tường buồng kiên giam).. nhớ nghe không..Nhớ uống cà phê.. nghe Phượng (“Cà-phê phượng”- biệt danh các bạn đặt cho, do anh uống cà phê pha chế bằng những hạt phượng rang cháy). Trước kia, năm ngàn người của lần chuyển trại đến đây (tháng Tám, năm 1978) đã chiếm dụng toàn thể bốn dãy nhà giam chính của khu giam giữ; nay chỉ còn hai-mươi-hai người ở gọn đúng vào một chiếc buồng (của dãy nhà cuối cùng) luôn khóa kín sau giờ lao động. Đúng hai mươi-hai người. Anh là người cuối cùng của nhóm người khốn khổ còn lại nơi Miền Bắc nầy. Chung quanh anh nay không còn ai. Chung quanh anh nay không có người. Có ai chia sẻ với mình đây?! Anh cố gắng nghĩ đến điều xót xa nầy nhưng không nổi. Hình như ý nghĩ cũng gây đau. Anh sờ tay lên bức tường.. Động tác vô nghĩa nhưng để chứng tỏ mình đang còn sống, biết suy tính. Là con người biết xê dịch bàn tay.. Có ai chia sẻ với mình không? Ý nghĩ được kết thúc như thể hoàn thành xong lần cố gắng.

 

.. Ta ngồi dậy

và như một thói tật,

Gõ gõ hỏi han

Hai bên tường tả hữu.

Có ai không?

Không có ai sao?

Ta khắc khoải chờ nghe

Những tiếng động của người

Tiếng động nào bất kể

..

Ta phải cố quên quên bằng mọi cách

Nỗi điêu đứng sống còn

Trong hằng hằng tĩnh chết..

(Thức giấc trong biệt giam, Thơ Tuyển- Hoa Kỳ, Thu 1996; trg168)

 

Năm 1992, nơi khu vườn của Như Phong ở Nhị Bình, Hốc Môn, Gia Định, trước ngày ra khỏi nước, anh nói cùng Tô Thùy Yên: Cám ơn Bạn đã viết những giòng Thơ chính xác, với ý nghĩa Thơ là Sức Nâng Đở. Anh nói không quá lời, e rằng bày tỏ chưa đủ ý, chưa diễn tả được hết lòng tin cậy đối với Thơ. Đối với Bạn. Lời kẻ chết là lời thiêng. Lời kẻ kinh qua cơn khốn cùng là lời thật. Người Viết Thơ Tô Thùy Yên là người làm chứng thuần thành nhất – Làm chứng về Sự Khổ – Cảnh Chết.

 

* * *

 

Phần Một-Thơ là cớ chứng thật nhất

16 tháng Ba, năm 1996 nơi phi cảng New York, Nước Mỹ.

 

Anh đến đây từ Houston (Texas), trên đường đi lên một nơi thuộc vùng bắc lục địa Bắc Mỹ. Một nơi nào đó. Anh không cố ý tìm hiểu chốn ấy ở đâu, như thế nào, dẫu đã là người chuyên nghiệp xử dụng bản đồ, tìm hiểu địa hình trong nhiệm vụ quân sự ở những năm tháng cách đây không mấy xa. Người bạn dặn, cứ theo chỉ dẫn trong vé máy bay mà đi.. Sẽ đến nơi đây, tiếp tới nơi kia. Trời đang mùa xuân nhưng ẩm ướt, giá rét. Tuyết đóng dày đẩy ùn ra hai bêân hệ thống những đường băng phụ thành đống khối lớn. Anh ngó mông ra phi đạo mù mù. Anh nhìn quanh quẩn khối người đông đảo di chuyển, thúc hối, nhưng rì rầm yên nặng.. À đây là New York, chỗ nầy có bức tượng Nữ Thần Tự Do. Tượng đó ở đâu? (Anh đảo mắt qua lại như thể đang cố ý tìm kiếm một điều gì đã rành rẽ, một người thân quen).. Chắc đâu đó ngoài khu bến tàu, tượng ấy đâu ở phi trường. (Anh cười thành tiếng chứng tỏ đã hiểu biết về một nơi chốn, một tình thế). Tượng nhìn ra cửa biển vào New York mà, thành phố nầy to nhất nước Mỹ đấy. To nhất thế giới nữa..” Anh tự hỏi, xong trả lời, buộc trí não phải bận rộn; cũng như để chứng tỏ không bị khuất lấp bởi hoạt động lôi cuốn ầm ầm chuyển dịch đang vây bọc. Không ai biết mình là ai cả? Và mình đi đâu đây? Cuối cùng, anh mở Tập Thơ Tuyển, viết lên phần trống những tờ giấy sau trang bìa.

 

Tôi đọc Thơ ông,

Tận trống trải..

Trống vơ, trống vốc.

Khi đến New York vừa rời Houston.

...

Phi trường xuống,

Không một ai.

Thật.

Không một ai.

Chỉ Tập Thơ ấm sâu trong ngực.

 

Và anh sống lại. Sống đầy đủ. Sống cùng tận nỗi bàng hoàng xa xót khi đọc qua những chữ nghĩa bình thản đến lạ lùng - Những chữ nghĩa nói về một cuộc sống-chết mà bản thân anh (cũ#ng của nhiều người) hằng mang nặng, nhưng không khả năng xóa mờ, vất bỏ. Mà vất bỏ nơi đâu? Xóa bỏ xong thì trí nhớ anh còn những gì?

 

Quán chật xanh lên rừng lính ướt

Mặt bơ phờ dính gió bao la

Khí ẩm mù bay, mùi thuốc khét

Chuyện tình cờ nhúm ấm cây mưa

....

Tiếp tế khó – đôi lần phải lục

Trên người bạn gục đạn mươi viên

Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc

Trong vết thương người bạn nín rên.

(Qua Sông; sđd, trg25)

 

Vào buổi chiều mù tối nơi chốn xa lạ hôm nay, qua những giòng thơ, cảnh sống tàn nhẫn tội nghiệp một cách bình thường trong chiến tranh kia thoắt trở lại tận đầy đủ.. Và anh nghe ra tiếng cười, giọng nói của những người lính; âm âm báng súng, giây đeo đạn, nón sắt.. va chạm lục cục trên mặt đất, nơi thành bàn, dưới chiếc ghế gỗ của một chòi quán ẩm ướt nào đó ở Long Sơn, Long Định vùng quê Long An ngày mới ra đơn vị, 1963; hoặc nơi Bồng Sơn, Lại Giang, Bình Định cuối năm sáu-mươi sáu, sau kỳ sinh nhật hai mươi-ba tuổi. Có thể anh không nhớ đủ hết tên họ, nét mặt những người đã cùng sống, kẻ đã chết thuộc những đơn vị nhảy dù mà anh hằng dự phần, có mặt. Nhưng lạ thay, anh nhớ chính xác mỗi chi tiết nhỏ nhặt của tiếng động, mùi nước bùn ẩm ướt thấm qua lớp áo trận, từng khuôn mặt của những người lính (quen và lạ) dồn chật trong chiếc quán nhỏ, lần dừng quân ngày mưa năm xưa. Và anh nghe lại giọng chậm, đục của hạ sĩ Ty vác súng trung liên khi mở lời xin anh điếu thuốc giải khuây cùng sắc mắt vô hồn, buồn phiền của những người lính địa phương quân đồn Long Sơn khi họ thoáng nghe, nhìn lướt qua trao đổi thân mật, gần gũi của thầy trò anh.. Sinh hoạt ngắn ngủi, nhỏ nhặt mà họ không thể có do phải ở lại đây giữ trách nhiệm ngặt nghèo giữa vũng tối sũng nước của vùng ruộng đồng hoang vắng, nơi chiếc đồn đang im im bốc khói cháy ngầm khi đơn vị nhảy dù cứu viện rút đi.. Hỏi chủ quán còn chai bia nào không, mời luôn mấy anh nầy. Anh đưa bao thuốc cho Ty, chỉ về phía những người lính địa phương.. Dạ, cám ơn, cám ơn thiếu úy,

 

Thiệt tình tên bạn ta không nhớ

Nhưng mà trông mặt thấy quen quen

Hề chi, ta uống cho say đã

Nào có ra gì một cái tên.

.....

Người thuở trước tìm vàng khẩn đất

Tiêu xác thân, để lại oan hồn.

Ngày nay ta bạn đến đây nữa,

Đất thì không khẩn, vàng không tìm.

(Anh Hùng Tận; sđd, trg 28)

 

Tuy nhiên, hoạt cảnh lặng lẽ kể trên dẫu sao cũng là lần “ bình an, hạnh phúc”, khi chiến tranh chưa nặng độ (đầu thập niên 60), và lần dừng quân còn có một chái quán lợp lá dừa, chai bia, điếu thuốc của vùng thôn quê Miền Nam – vùng đầt trù phú với sức sống ứ tràn trong mạch nước dầm dề phù sa. Vì tiếp liền theo sau đó, chiến tranh mở rộng, giăng dầy, chụp xuống chiếc cánh âm u tai họa.. Và Thơ không chỉ là lời miêu tả cảnh Khổ, nhưng chạm đến mối Đau khi con người bị ném vào lần tận tàn sát, thực hiện cuộc tận diệt.

 

Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ

Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma

.....

Ta ngó thấy nhà cửa trốc nốc

Từng ngôi như mặt đất đang gào..

Nhưng cũng không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, nhà cửa tang hoang, tiêu hủy mà đã đến lúc, đôi tượng hứng chịu tai ương - Con người trong chiến tranh - Người lính của hai bên lâm chiến, kẻ thụ nạn của một cuộc tương tranh tàn tệ, phải đối diện (thực sự đối diện) câu hỏi sững sờ vì mức độ phi lý, phi nghĩa, tận vô ích, và cực độ phí phạm của nhiệm vụ họ phải nhận lãnh..

Vì sao ngươi tới đây?

Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói

..

Vì sao ta tới đây?

Lòng xót xa thân xác mõi mòn.

 

Câu trả lời không có. Nếu có chăng cũng chỉ tăng thêm cường độ cay đắng của một vấn đề đã hư hoại, độc địa từ khởi đầu.

Ví dầu ngươi bắn rụng ta

Như tiếng thét

Xé hư không bặt im

Chuyện cũng thành vô ích.

Ví dầu ngươi gục

Nào có chi đáng kể.

 

Bi thảm hơn hẳn những nhân vật trong kịch và tiểu thuyết “phi lý” của Samuel Beckett – Trong đó, con người còn khả năng luận lý (cho dù luận về một điều “phi lý”); hoặc còn có điều chờ đợi (dẫu là một điều không tưởng).. Đấy, đời sống cứ qua đi.. Cũng vậy, chẳng có quan hệ gì nếu tôi đã sinh ra đời hay không, tôi đã chết đi hay đang lâm tử.. (Malone meurt; Minuit, Paris, Fr. 1952); hoặc trong kịch En attendant Godot; Minuit, Paris, Fr. 1953, hai nhân vật Estragon và Gladimir, sau một loạt đối thoại không mạch lạc, rối mù về những bàn tay, bàn chân, cái bàn, chiếc ghế.. xoay qua đối tượng gọi là Godot – Bất ngờ xuất hiện như một đồ vật cốt làm đầy cho câu chuyện vô nghĩa, của lần chờ đợi (không biết đợi cái gì).. Bởi: Godot khi là một nguồn động lực bắt con người phải chờ đợi, phải nói đến..Nhưng cũng chính là con người với sự chờ mong (vô vọng, vô nghĩa) của chính họ. Godot chỉ là điều tưởng tượng. Ở Việt Nam, trong chiến tranh, qua Thơ Tô Thùy Yên, diễn tiến sống-chết cụ thể với chính thịt xương con người, qua từng giờ khắc chịu đựng, bày ra như một điều hài hước. Bi kịch và hài tính đã nhập lại thành một khi cùng đối diện với sự chết. Kết thúc bởi sự chết.

 

Ta phá lên cười, ta phá lên cười

Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ

Ở cõi âm nào người vốn không tin,

Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa:

Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh

Cho Tổ Quốc Việt Nam- một tổ quốc..?

Các việc ngươi làm,

Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm

Các việc ta làm

Ta xét thấy chẳng ra chi

Nên người hăng điên, còn ta ảm đạm

Khi cùng làm những việc như nhau.

Và kết luận cuối cùng không thểâ khác,

..Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng

Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm

Có cùng gom góp lại,

Mặt đất nầy đổi khác được bao nhiêu?

Người há chẳng thấy sao

Phá Tam giang, phá Tam Giang ngày nầy đâu đã cạn?

(Chiều trên Phá Tam Giang; sđd, trg 74)

 

Cuộc máu lửa, súng đạn chấm dứt với ngày 30 tháng Tư, 1975, Thi Sĩ kẻ thụ nạn khốc liệt nhất trong mọi tầng lớp xã hội Miền Nam-cùng một lúc thực hiện hai chức năng, nạn nhân lẫn chứng nhân của lần xĩ nhục, đọa đày Con Người – Sinh vật nhận biết đau trong trái tim, trên xác thân.

 

Thức dậy, những ai còn sống đó,

Nhìn ra nhớ lấy phút giây này.

Tàu đi như một cơn giông lửa

Cuồn cuộn sao từ ống khói bay

.......

Toa nêm lúc nhúc hồn oan khốc,

Đèn bão mờ soi chẳng thấy ai.

Ta gọi rụng rời ta thất lạc.

Ta còn chẳng đủ nửa ta đây.

.......

Dường như ta chợt khóc đau đớn.

Lệ nóng cường toan cháy ruột gan

Lệ chảy không ra ngoài khóe mắt.

Nghẹn ngào đến cả tiếng than van.

(Tàu Đêm; sđd 117)

 

Người phải sống và Thơ phải viết bởi lần đau không chỉ riêng đối với một cá nhân, nhiều giới người, hoặc giai cấp cầm quyền chính trị, hay một tầng lớp xã hội.. mà toàn bộ lịch sử – đời sống bị xáo tung, ngụy trá, mạo danh, miệt thị và hủy hoại. Không chỉ nơi Miền Nam, không riêng của Việt Nam, mà chung cho cả địa cầu, lần con người tận diệt.

 

Mà thôi hãy nuốt lệ còn nghẹn

Tỉnh thức, lòng ơi nhìn tận tường

Thời đại đang đi từng mảng lớn

Rào rào những cụm khói miên man

.....

Người bạn đường kia chắc vẫn thức

Mong tàu đi đến chỗ đêm tan

Có nghe lịch sử mài thê thiết

Cho sáng lên đời những rỉ han

Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục

Cho tiếng rền vang dậy địa cầu

Lay động những tầng mê sảng tối

Loài người, hãy thức, thức cùng nhau.

(Tàu Đêm; sđd 117)

 

Thi Sĩ phải sống để đi cho hết cuộc hành trình tưởng như không hề có thật- Hành trình băng qua thống khổ máu lệ cường toan - Khóc không nỗi, nói không nên lời, chỉ biết cúi đầu im lặng trước bi thương chập chùng oan nghiệp mà phận người phải gánh nặng từ một thuở bắt đầu vòng sinh-diệt.. Cũng để tận thấm hiểu nghĩa xa xót mong manh từ hạt sương, tiếng dế, giếng nước, sợi tơ trời nơi bản quán đã thật sự nhạt nhòa, hư vỡ.

 

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

........

Ta về như hạt sương trên cỏ

Kết tụ sầu nhân thế chuyển đời

Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.

Tội tình chi lắm nữa, người ơi!

(Ta Về; sđd 126)

 

Người ơi! Người nào? Không người nào cả. Chỉ riêng ta với tiếng gọi xé lòng.. Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ- Thanh Tâm Tuyền. Hãy gọi lên một lần. Cho gọi thêm đến nhiều lần.. Gọi đến lay động chiếc bóng của chính ta ngã dài trên dặm trường thăm thẳm cô quạnh. Hãy gọi lên. Kêu lên.. Không còn ai.

 

* * *

 

Phần Hai – Thi Sĩ luôn hiện sống - Sống ròng

Gần mười năm sau Thơ Tuyển (1995), Thắp Tạ (2004) đã là một lần vượt thoát toàn diện, và Thi Sĩ thật sự Sống Ròng-Với Thơ.

Nếu những năm tháng trước đây trong chiến tranh, tiếp tù ngục và cảnh khổ Việt Nam (sau 1975) đã hé mở ra những vấn nạn không thể nào trốn thoát.. Gõ lấy đầu mình như gõ cửa. Liên hồi kêu cứu giữa đêm khuya.. (Mùa Hạn; Thơ Tuyển, trg 103); hoặc phải chứng kiến những kinh hoàng không thể quên.. Trăm họ lần lượt bỏ xứ trốn. Biển thì hung hãn, thuyền mong manh. Ta nghe kể lại xác lên bãi. Nằm dài dài như lúc chiến tranh. (Nỗi Đợi; TT, trg 163). Nhưng dẫu gì tại lúc nguy nan kia con người cũng còn đôi chút hy vọng - cách hy vọng bền bỉ của người không chịu khuất phục (bởi khuất phục có nghĩa tiêu vong) - nên người lại kiên nhẫn lên đường, vẫn luôn trên đường đi, dẫu đường vô hạn lẻ loi.. Con đường vô định chưa ai tới. Hay tới nơi, thôi chẳng trở về. Hởi gã du hành, hãy nói lại. Những điều người thoáng thấy như mê. (Và Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai; TT, trg 53). Nhưng hôm nay, cuối thế kỷ bão táp, sang đầu thời đại mạt pháp, Con Người tự tìm ra và phải tìm ra với sáng suốt, tận bình yên, bởi người hiểu nên rằng, sẽ không đi tới đâu cuối cuộc hành trình miên viễn khó nhọc suốt một cuộc đời. Không xa, không gần, không non cao, không biển rộng, không biên giới và cũng “không còn biên giới”.

 

Đi như đi lạc trong rời đất,

Thủy tận sơn cùng, xí xóa ta.

Cõi chiều, đứng lại, khóc như liễu:

Có thật là ta đã đi xa?

(Đi Xa; Thắp Tạ - Hoa Kỳ, 2004, trg 10).

Điều chứng ngộ nầy không đâu xa..

Chỉ là một bước, bước trờ..

Hỏi chưa ra, đã trăm năm sững sờ

(BiệtTăm; sđd, trg 11).

 

Phải, chỉ một bước thôi, bước ngắn ngủi, chóng vánh, cô đọng như một công án thiền đạo –Thi Sĩ thấy ra (thấy chính xác, cụ thể) kích thước tận cùng trong phần, đoạn hữu hạn.

 

Tưởng thôi, nháng tưởng thôi.

Trí năng nào chạy kịp

(Sát Na; sđd, trg 11).

 

Công phá tuyệt luân nầy phải do mỗi cá nhân tự chứng – Đây là Sự Thường nhưng không hề tầm thường - Chỉ được xác lập bởi những trí tuệ thật sự khắc khoải mới hiểu nên điều nguyên lý: Sự thất vọng về hữu hạn là do thiếu đi tính vô hạn (Soren Kierkegaard); hoặc chỉ từ khổ đau vô lượng của kiếp người - Bất cứ người nào khi gặp những cảnh ngộ.. Buồn trông nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất một màu xanh xanh; hay khi đối diện, Bốn phương mây trắng một màu, trông vời cố quốc biết đâu là nhà – Mà thiển nghĩ (chắc nghĩ không sai), đây không là tình cảnh của một cô gái tên gọi Vương Thúy Kiều, nhưng thật phải là của người đã viết nên những giòng chữ xót xa nầy - Tâm cảnh thắt thỏm của Nguyễn Du lúc ở Huế nhìn về phương Bắc với lòng quặn đau: Bắc thành thập khẩu khẩn đề cơ – Mười miệng người kêu đói ấy không ai xa lạ, chính là vợ, đúng là con. Là đứa con mà Đỗ Phủ đã phải ôm chặt vào người, bịt miệng lại do trẻ quá đói cứ nhè ông mà cắn, và để đứa bé bớt la khóc (sợ hùm, sói nghe được) trên đường chạy loạn ngã Bành Nha: Si nữ cơ giảo ngã. Đề úy hổ lang văn. Hoài trung yểm kỳ khẩu.. Kinh qua những giờ khắc thương tâm đáng sợ nầy (không phải chỉ trong một khoảng thời hạn tại một hoàn cảnh nhất định), con người phải tự cứu.. Và không còn con đường nào khác ngoài thái độ bình thản vô vàn cao thượng trong tất cả mọi tình huống, cho dẫu gặp phải kết thúc đậm dấu bi ai nơi một chốn mịt mùng không định hướng.

 

Mai có ai về ngang quãng sông nầy

Xin ném cho hòn đất hỏi thăm.

......

Những nấm mộ đá chồng rỗng kiệt

Hình hài người chết đã tiêu tan.

Nhưng chắc đâu hồn mộng chẳng còn chạy giỡn bạt ngàn

Cho tàn hã cuộc mê man cùng Vô Biên độc nghiệt.

(Viễn Tây; sđd, trg 45).

 

Thế nên, không cần đến giải oan nơi sông Tiền Đường, cũng chẳng nên khóc than người nằm dưới nấm mộ dàu dàu ngọn cỏ bên đường, cuộc nhân sinh ai cũng thế mà thôi, mỗi người một cảnh, vô vọng , đơn lẻ như gió thổi qua cõi ngoài.

 

Một mai, ngoài cõi gió hao đuối

Ai hỏi ai về ai trước kia?

(Chim Kêu Bãi Quạnh; sđd, trg 32)

 

Ai hỏi ai? Và hỏi về ai? Không phải là cách chơi chữ nghĩa nhưng quả thật Người Viết Thơ đã nắm bắt được tiêu điểm tận cùng của biên giới tâm cảnh mà con người luôn gọi tên bằng những tính tự “tuyệt vọng, đau thương”. Và tuy biết bên ngoài vùng mông mênh “ngoài cõi gió” kia không còn nữa những “đơn vị gọi là ai”, nhưng Thi Sĩ không hề tuyệt vọng (như khi Tây Phương kiêu ngạo đối diện với Hư Vô; kẻ chinh phục thấy ra điều suy hoại, sụp đỗ đế quốc xây dựng bởi thành quả bạo tàn) - Vẫn vững tin và bình thản cậy trông.

 

Khắc khoải chim kêu mùa hóa giải

Hành nhân về bên giếng quê nhà

Ngõ trúc chiều ngát hoa gạo mới

Ngọn đèn thắp đợi đã rền hoa

.....

Chiêm bao, âu cũng chiêm bao cả

Mưa lớn chừng như rợp hải hà.

(Chim Kêu Bãi Quạnh; sđd, trg 33)

 

Đau thương thay và đáng được kính trọng thay, qua suốt cuộc biển dâu ba mươi năm với những cảnh huống trầm luân, khi hái rau nơi vực suối triền núi sâu đất Bắc.

 

Làm người, đã phải làm sao?

Thêm bề rau thấp, cỏ cao, tội người.

.......

Giá cho ta hỏi một lời

Rau nầy trăm họ mấy người đã ăn?

(Hái Rau; sđd, 37-38)

 

và khi thảng thốt về Nam chứng kiến cảnh xé lòng.

 

Làng đã cháy, im lìm bất trắc..

Người nhớ người mà cũng sợ người.

Trời ơi, những xác thây la liệt,

Con ai, chồng ai, anh em ai?

(Nhớ có lần, trên bến bắc khuya.; sđd, 70)

 

Nhưng Con Người đi hết chặng đường bão táp ấy vẫn sắc son bền bỉ vẫn tận sống từng khắc giây sung mãn với lòng yêu thương con người, hoa cỏ, lá cây, lát gừng cay, hạt muối mặn lấy ra từ Đất. Người còn, trời đất còn chan chứa.. Muối mặn, gừng cay trắng tóc xanh.. cho dẫu đã hơn một lần (rất nhiều lần) hiểu rõ nghĩa “được-mất; có-không”sau những lần bị tước đoạt trần trụi như tình cảnh của Job trong Cựu Ước; bị lấy đi cả tiếng sáo hót thắm thiết trong buổi ngày thơ.. Tình cảnh của miền Nam, của cả nước bị bóc vỡ đến những ngưồn vui trong sáng nhỏ bé sau 1975.

 

Con sáo trong lòng con đã chết

Bé ơi, sao bé còn đi tìm?

Còn kêu lạc giọng sáo ơi sáo.

(Con Sáo; sđd, trg 29)

 

Chẳng phải đợi đến khi có lời nguyền rũa từ Tây Phương về lần bức tử Thượng Đế, những dân tộc Đông Phương (điễn hình cảnh huống người Việt, các dân tộc trên Bán Đảo Đông Dương suốt bao thế kỷ lầm than do những cuộc phân tranh khởi từ đời Lê Mạt, thế kỷ 16, 17 kéo dài đến cuối thế kỷ 20) đã hằng thấm cơn đau về một, “Lão tạo hóa đành hanh qua ngán. Giết đuối người trên cạn mà chơi” (Nguyễn Gia Thiều- Cung Oán Ngâm Khúc) – Giết vì một đố kỵ khắc nghiệt, “Trời xanh quen thoái má hồng đánh ghen” (Nguyễn Du- Kiều) – Giết như một trò chơi. Nhưng những con người thuần phác bền bĩ chịu đựng kia vẫn hằng nuôi dưỡng đức tin nhu thuận: “Trời luôn đến cùng người khốn cùng, kẻ khờ dại, và những trẻ thơ” Nên dẫu, Tạo hóa tham công hay lỗi lầm? Hoặc giả, Vũ trụ tạo hủy dở dang mãi, Con Người qua tuyên ngôn của Thi Sĩ vẫn nhận ra điều kỳ diệu:

 

Mới hay sống chết dễ mà khó,

Mệnh nghiệp không là chuyện dững dưng.

(Hành Giả Âu Sầu; sđd, trg 109)

Có Dân Tộc nào bản lãnh đến ngần ấy? Có Con Người nào mạnh mẽ đến nhường kia? Quả thật, chỉ riêng Thi Sĩ đã hoàn tất xử dụng chữ, nghĩa thanh khiết tạo nên lời ca ngợi vô vàn:

 

Thế nhưng ngươi sẽ vẫn yêu đến giọt nước mắt cuối,

......

Cũng như ngươi sẽ vẫn yêu đến giọt nước mắt cuối.

* * *

 

Kết Từ

Kể từ khi “người vượn- homo erectu” dựng đứng được xương sống và dùng hai tay để viết nên những ký hiệu đầu tiên, đến nay trong những trước tác của tổ chức nhân loại văn minh với Bộ Bách Khoa Toàn Thư (Encyclopedia Britannica) gồm hai mươi-chín cuốn, hoặc Tự Điển Từ Nguyên, Từ Hải đồ sộ của người Trung Hoa.. Tất cả nội dung trình bày trong những ấn phẩm to lớn nầy không gì khác hơn do một NÉT VẠCH ĐƯỢC SẮP XẾP theo một hệ thống từ con người dần xác lập, và đồng thuận xử dụng. Hệ thống nầy do Hai Mươi- Bốn chữ cái La-tinh, hoặc Bảy nét cơ bản của Hán Tự cấu tạo nên thành Chữ Viết tồn tại bền vững qua hàng ngàn năm cho đến nay. Và chắc chắn dẫu tiến đến một tương lai kỹ thuật cao đến bao nhiêu – CHỮ VIẾT-CON NGƯỜI (dưới nhiều dạng tự khác nhau, Phạn Ngữ. Á-Rập Ngữ..) VẪN VĨNH HẰNG TỒN TẠI. Thế nên, chúng tôi vô cùng tin cậy rằng: Trong những ký hiệu Chữ Viết kia ẩn chứa Thần Tính – Siêu Việt Tính nhưng cũng là Nhân Tính.

Chúng ta nhắc nhở với nhau như thế, đồng thời xác lập điều tự hào cảm động: Tiếng Việt qua vận động của Thi Sĩ đã trở nên thành nguồn nội lực đủ sức cất chứa những rung cảm tế vi của tâm hồn, và biểu hiện nên Lời Thơ hùng vĩ.

 

Chúng ta vẫn sống như rừng cây

Chúng ta vẫn sống như mặt biển

Bởi vì đã đi nên sẽ đến

Người và bóng tối phải chia tay.

 

Cảm ơn Người Bạn Viết Thơ Đinh Thành Tiên – Thi Sĩ Tô Thùy Yên.

 

PHAN NHẬT NAM

Mùa Lễ Tạ Ơn. Cali, tháng 11, 2004.

 

Tô Thùy Yên-Thân phận lưu vong quay cuồng nhớ Việt Nam

  • 26 tháng 5 2019
Thi sĩ Tô Thùy Yên và ca khúc "Chiều trên phá Tam Giang" do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ từ thơ của ông
Image captionThi sĩ Tô Thùy Yên và ca khúc "Chiều trên phá Tam Giang" do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ từ thơ của ông

Ý kiến nói thơ của Tô Thùy Yên "không dễ đọc" và ông là "nhà thơ phản kháng theo nghĩa đẹp nhất của trí thức, văn nghệ".

Tô Thùy Yên, một thi sĩ lớn của miền Nam Việt Nam vừa qua đời ngày 22/5.

Ông vừa nằm xuống thì đã thấy ngay một số việc quan trọng: hầu hết các thông tin về ông đều ở một phía người Sài gòn và hải ngoại. Các dòng chủ lưu viết về ông trên Facebook, các trang mạng xã hội cũng đều là người miền Nam và các bạn viết miền Nam là chính.

Điều đó cho thấy vết hằn văn nghệ Nam - Bắc vẫn là hai cực trái dấu chưa bao giờ được xóa mờ thậm chí ngày càng sâu trầm, dữ dội.

Nhớ Tô Thùy Yên và 'Chiều trên phá Tam Giang'

'Quê hương yêu dấu bao người chờ trông...'

Nguyễn Thị Thụy Vũ và tâm tình ngày trở lại

Tập thơ nạm vàng vẫn say đắm người thời nay

Cũng có ý kiến nói rằng ông là nhà thơ lớn của Việt Nam chứ không của chỉ miền Nam. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là ghi nhận rộng mở thiện chí qua mỗi trái tim yêu thơ chứ chưa được nhìn nhận như thông tin khách quan trong nước.

Riêng cái nhìn cá nhân của người viết thì, ông là biểu tượng thơ độc đáo, đầy kiêu hãnh của Sài gòn cũ. Một nền cộng hòa nhân bản đã sụp đổ. Là một chứng nhân thơ. Tên tuổi, cuộc đời đã trải qua nhiều đế chế, chứng kiến sự thăng trầm nguyệt quế của vinh quang, cay đắng, của tù tội, địa ngục… và qua những bài thơ còn lại khiến ông bất tử trong tâm hồn những người yêu nghệ thuật và tự do.

Nói về văn hóa Sài Gòn và thơ miền Nam khó có thể quên ông. Như vậy liệu còn cần nhân danh sớm để tung hô ông là nhà thơ lớn Việt Nam không? Tôi nghĩ không cần thiết. Và thi sĩ cũng không cần điều đó. Trước hết, việc bình đẳng trong văn học, văn hóa Việt Nam đến nay vẫn chưa xảy ra. Các thi phẩm của ông và nhiều thi sĩ chưa được chính thức in lại một cách công bằng. Nếu thi ca, âm nhạc không hằn gắn nỗi những vết thương, nỗi đau thì hóa ra tâm thế người Việt hôm nay còn lâu mới nói đến chuyện hòa giải hòa hợp được!

Thơ 'không dễ đọc'

Tuy vậy, đọc Tô Thùy Yên hoàn toàn không dễ. Ông là một con người mâu thuẫn.

Nói như thi sĩ William Butler Yeats: "Tôi đang tìm bộ mặt tôi hằng có. Trước khi thế gian được tạo ra (I'm looking for the face I had/Before the world was made). Tô Thùy Yên có bốn gương mặt. Một thi sĩ phóng đãng, một chiến binh thất bại, một tù nhân luyện ngục và một thiền sư suy mặc. Là một trong những tác giả chủ trương nhóm Sáng Tạo cùng với các thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Ngọc Dũng, từng có thơ in báo từ năm 17 tuổi và sáng lập nhà xuất bản Kẻ Sĩ nhưng tuyệt đối ông lại chưa bao giờ in cho mình một tập thơ.

Nếu nói ở Sài Gòn trước 1975 việc tự do viết, tự do xuất bản ồn ạt dễ dàng như vậy nhưng Tô Thùy Yên lại không có tập thơ nào thì thật khó tin. Lý giải việc này trong lần gặp nhau Đức, thi sĩ kể với tôi ông chưa khi nào thấy hài lòng về thơ của mình. Mãi đến khi ở trong tù ra, đã qua đến Mỹ ông mới tự in một "Thơ Tô Thùy Yên", mang danh nhà xuất bản An Tiêm. Sau đó là thi phẩm "Thắp tạ' (2005) ông ký tặng tôi. Với thi ca ông luôn sống với những hoài nghi.

Nhà thơ phản kháng

Tô Thùy Yên là một nhà thơ phản kháng theo nghĩa đẹp nhất của trí thức, văn nghệ. Phản kháng vì luôn đặt ra những câu hỏi, truy xét, vầu vò ngôn ngữ. Ông luôn đặt mình ở tư thế phản diện để phản biện. Thành ra ông cũng là người mâu thuẫn. Theo dõi hành trình thơ của ông đôi khi tôi ngạc nhiên tự hỏi tại sao người ta nói nhiều về ông nhưng rất ít người hiểu đúng ông. Là người khai phóng và khai sáng nhóm Sáng tạo nhưng thơ ông về thể thức rất Tân cổ điển, hoàn toàn không chủ trương ý thức làm mới hẳn như Thanh Tâm Tuyền. Vì vậy suốt một thời gian dài hình như nhóm Sáng Tạo cũng dè dặt khi đặt ông vào. Mãi đến về sau này với độ lùi khoảng 50 năm thì người ta lại thấy bóng ông vượt lên "Ta về một bóng trên đường lớn" trong khi rõ ràng Thanh Tâm Tuyền mờ hẳn đi.

Điều này cho thấy sự nghiệt ngã của thơ. Sau những trào lưu, đột phá vẫn chính là lòng người yên nghĩ. Độc giả có thể quay cuồng với một câu thơ bão bùng trong một giai đoạn, nhưng theo thời gian để lắng lại chỉ có thể là những câu thơ dễ thuộc, vần vè, bình yên.

Thanh Tâm Tuyền từng cổ súy rất văn hoa nói rằng Tô Thùy Yên là là thơ miền Nam nhưng ngôn ngữ thơ của ông hoàn toàn miền Bắc chứ không phải miền Nam. Khen như thế đồng nghĩa với việc đã ngầm nói ông đã phản bội lại tử ngữ của mình. Với lại, nếu so sánh bằng cấp độ ngôn ngữ tôi đòi hỏi một mức độ cao hơn nữa, ví như sao chưa thấy ai phê phán Phạm Công Thiện là Bắc kỳ với những triết luận, đả phái của ông khi Thiện là dân Mỹ Tho Nam kỳ rặt? Thành thử nhận định này thoạt đầu nghe có vẻ êm ái nhưng sau đó rất khó chịu. Đó là sự miễn cưỡng khi nói về cái mới ấu trĩ!

tô thùy yên

Nhân văn

Giá trị của thơ Tô Thuỳ Yên nằm ở chất nhân văn, cái nhìn xoáy vào thân phận con người. Điều mà hình như ông đã thấu tình đạt lý khi ở trong tù cộng sản ra. Không rõ hành trình đạt tới cảnh giới ý niệm này có được trên tiến trình làm thơ của ông hay khi sự bắt bớ giam cầm quá lâu - 13 năm tổng cộng cả của hai lần của thi sĩ đã khiến ông mệt mỏi? Có thể đây là chung cục của sự suy tư rốt ráo hoặc tư thế buộc phải chọn lựa chứ không còn cách nào khác! Để tồn tại hoặc chết? Nhưng rõ ràng tuy không nói ra thuyết trung dung này đã thuyết phục được tâm lý khác nhiều người. "Ta về cúi mái đầu sương điểm / Nghe nặng từ tâm lượng đất trời / Cám ơn hoa đã vì ta nở / Thế giới vui từ mỗi lẻ loi".

Những suy tư đầy yếm thế của "chiến binh thua trận" kiểu này tội thấy khá ít ỏi, hay gần như chưa thấy rõ dung mạo trong tác phẩm của các nhà văn, thi sĩ miền Nam ở Sài gòn cũ hiện vẫn còn sống ở Hải ngoại. Vì hơn ai hết, ngoài phẩm chất một thi sĩ, Tô Thùy Yên là một tướng quân đội. Ông là thiếu tá Tâm lý chiến của quân đội miền Nam Cộng hòa. Ông phải giải mã, trả lời câu hỏi hậu thế đó cho lịch sử. Đành rằng "chính trị là một con điếm" và tư thế của một nhà thơ và một sĩ quan cấp tá vẫn khó liên quan, rằng buộc với nhau.

Khắc kỷ nghệ thuật

Một lý giải khác khá quan trọng với thơ Tô Thùy Yên đó là thi sĩ theo trường phái khắc kỷ nghệ thuật. Hay lý giải theo quan điểm Albert Camus "Sáng tạo là cho số phận ta một hình thù". Như như thế cũng đồng nghĩa từ trong nguyên ủy, ông phản lại, chống lại thơ tự do.

Một lần nói chuyện với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ bà cho biết ông làm thơ như cực hình không có gì là sung sướng cả! Ông nghiêng hẳn về tứ và ngôn ngữ! Đè nén cảm xúc trong các hình tượng mẫu tự nghiêm nhặt. Vì thế ông chọn thể thức thơ cổ phong, tứ tuyệt hoặc 5 chữ, 7 chữ. Ông đọc và tìm hiểu điển tích rất nhiều.

Bà Thụy Vũ cho biết ông thường "vắt nát óc" cùng kiệt cho một bài thơ. Ông chép đi chép lại một bài thơ và thường vò xé bản thảo viết lại từ đầu nếu thấy câu chữ dó chưa thật đắt, chưa thật ưng ý. "Vì thế mỗi đêm ông làm thơ thì sáng dậy tôi thường phai đem một sọt rác đi đổ vì trong đó đầy ngập những trang viết chưa ưng ý của ông".

Về hình thức ông theo quan điểm của Adgar Allan Poe cho rằng độ dài của bài thơ không nên quá ngắn vì "một bài thơ cực ngắn có thể lúc này hay lúc khác sẽ gây được tiếng vang nhưng sẽ không bao giờ tạo ra được ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài" (Nguyên lý thơ ca - The Poetic Pr - NHHM dịch).

Vì thế những bài thơ nổi tiếng của ông như "Trường Sa hành", "Ta về", "Chiều trên phá Tam giang"… đều có một độ dài cần thiết về hình thức đáng nể. Gây được ấn tượng cho người đọc. Tuy vậy, dưới mắt những người làm thơ đôi khi vẫn thấy ông cũng khá tham lam bày tỏ "thi bất tận ngôn" dẫn đến thừa thãi và quên "ý tại ngôn ngoại". Ngay cả ông trong bài thơ "Ta về" khá dài ông vẫn còn tiếc rẻ "Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/Đành không trải hết được lòng ta".

Chưa được dịch giả quan tâm

Một điều rất đáng tiếc, một giọng thơ ngoại hạng như Tô Thùy Yên vẫn chưa được các dịch giả quan tâm đúng mức dịch để chuyển ngữ, dịch giới thiệu ra với thế giới. Từ trường phạm vi phổ biến thơ ông cũng chỉ ở trong nước, đặc biệt là người Sài Gòn.

Năm 2005, lần đầu tiên trung tâm LiteraturWERKstatt và Viện Goethe có tổ chức một chuyên đề thơ "105 kinh độ đông" ở Đức đã mời nhà thơ Tô Thùy Yên (từ Hoa Kỳ) và tôi (Việt Nam). Phần thơ của ông và tôi được các nhà nghiên cứu Sollozz, tiến sĩ Thái Kim Lan và dịch giả Hồ Phạm Huy Đôn chuyển ngữ.

Dịp này ông và tôi có hai buổi giao lưu với khán giả yêu thơ ở Berlin và Munich. Bài thơ "Cánh đồng con ngựa, chuyến tàu" của Tô Thùy Yên được xem như bài thơ tiều biểu của ông giai đoạn khởi đầu cùng nhóm Sáng tạo. Bài này có được ông chọn lại trong dịp một số thi phẩm của ông được chuyển ngữ.

Chuyến đi khá ấn tượng vì chúng tôi có dịp được gần nhau. Tôi lại phát hiện thêm một mâu thuẫn kỳ lạ trọng tâm hồn thi sĩ Tô Thùy Yên. Ông nói bằng tiếng Anh và phản đối đến cùng chế độ toàn trị độc tài Cộng sản khi giao lưu với khán giả. Một chế độ cầm tù và làm nhục văn nghệ sĩ. Hoàn toàn khác với những bài thơ ngỡ đã đạt đến cảnh giới giác ngộ của ông, "Ta về khai giải bùa thiêng yểm/Thức dậy đi nào gỗ đá ơi/Hãy kể lại mười năm mộng dữ/Một lần kể lại để rồi thôi…".

Ông nói với tôi "Thi sĩ, không ai có thể làm nhục được hắn ngoài chính nó". Và đọc cho tôi câu thơ của W.Emest Henley: "I am the master of my fate, I am the captain of my soul".

Vâng, ông đã đúng. Cái chết của ông cũng là một cột mốc gần như cuối cùng bị phá đổ bởi thủy triều thời gian nghiệt ngã dành cho một nền Dân chủ Cộng hòa sớm tàn lụi. Như ngọn lửa danh dự mà ông đã giữ được đến phút cuối cùng. Ông làm chủ số phận mình, chữ nghĩa... Ông đã là và sẽ mãi là thuyền trưởng của hồn thơ, một con tàu thơ!

Nhớ đến Tô Thùy Yên, phút chốc mắt tôi nhòa lệ khi nhớ lại những ngày hai anh em lang thang giữa biên giới Đức và Pháp. Anh nói thân phận lưu vong làm anh luôn quay cuồng nhớ Việt Nam. Và nhớ đứa con tật nguyển còn mắc lại ở rửng núi Lộc Ninh không rõ sống chết thế nào? Tại sân bay Munich, không kiềm nổi lòng mình, anh ngửa mặt lên trời khóc lớn. Rồi buồn thảm kéo vali đi giữa tuyết trắng Berlin.

Rồi sẽ còn những câu thơ anh Tô Thùy Yên ạ! Như anh đã đọc câu thơ của Saint - Pol Roux mà em thấy hay quá nhờ anh chép lại vào sổ tay, anh nhớ không? "Cây thơ ca cắm rễ của nó vào tương lai!".

Bài thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà thơ hiện đang sống tại Sài Gòn




Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *