Tạp Ghi Văn Nghệ.

 

Độc Hành Ca.Thơ như tiếng khóc cho đời.

 

Nguyễn Mạnh Trinh.

 

 

 

 

 

Ngày lễ Lao Động trôi qua.Những thời khắc bận bịu, đón bạn bè ở xa tới đă hết.Những đêm ngày vui chơi đă tàn không một âm vọng nào để lại . Tự nhiên ngày hôm nay thấy ḷng man mác , trống rỗng.

Buổi tối, một ḿnh đi dạo quanh băi biển . Trời lạnh lạnh , mây ch́ đen thẳm giăng giăng, tự nhiên thấy ḷng buồn buồn vô cớ. Đời sống ở đây vẫn b́nh lặng , đất trời vẫn đất trời quen thân từ bao lâu, sao bữa nay có một điều ǵ đổi khác. Chẳng phải là buồn thuê sầu mướn , nhưng có những câu thơ nào lạ lùng trong óc. Về nhà, vào pḥng đọc sách. Tôi đọc thơ Trần Huyền Trân, cảm khái.

Tôi nghĩ Trần Huyền Trân là người thơ mà không suốt đời ở trọn với thơ. Không hiểu sao, sau khi tham gia Việt Minh, làm việc ở Đoàn Kịch Tháng Tám rồi sau năm 1954 ông về lại hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực sân khấu. Oạng lập nhóm chèo Cổ Phong và sưu tầm , sửa chữa những vở chèo cổ , và tham dự vào các hoạt động để bảo tồn nghệ thuật chèo cổ.

Tại sao ông lại chuyển hướng như vậy? Tôi cứ thắc mắc hoài. Hay là v́ “ cơm áo không thường với khách thơ”? hay là v́ trong chế độ mới , những đóng góp có tính thực tiễn được ưu tiên hơn là làm những bài thơ lăng mạn . Như bài thơ “ Những cánh thơ vàng ‘ mà ông làm thuở xa xưa, thời của ḍng thơ mới thời tiền chiến :


”Đời tôi- em hỏi làm chi

Đời tôi là chuyến tàu đi không người

Sông tần bao ngả ngược xuôi

Đă vắng cái bến lại dài con sông

T́nh tôi-em hỏi làm chi

T́nh muôn ngàn lối tôi đi một ḿnh

Một ḿnh dốc chén ly sinh

Men day dứt măi ḷng mênh mông buồn

Duyên tôi em hỏi làm chi

Mây bay trái hướng gió đi sai chiều

Nước bèo nào được bao nhiêu

Tuy giàu gặp gỡ nhưng nghèo yêu thương

Ḷng toi em hỏi làm chi

Ḷng rồ dại ấy c̣n ǵ nữa đâu

H́nh như nó chết từ lâu

Bởi thương , bởi nhớ , bởi sầu , bởi vui

Thơ tôi ố em hỏi làm chi

Một nguồn hương dại đi về ngẩn ngơ

Thơ người là trái chín vừa

Thơ tôi là trái không mùa không tên

Ḱa em đừng hỏi nữa em

Chim lồng đă vụt theo lên gio ngàn

Rung ḷng, lá động chiều tan

Nhặt đi em cánh thơ vàng đang rơi”

 

Thơ như một tiền định, của những ngă đường nhân thế dở dang , của những khối tâm sự nặng nề đè nén , của những khát vọng cứ ngậm ngùi với tháng, với ngày. Thơ như phủ định những câu hỏi, những câu “ em hỏi làm chi?” như một điệp khúc để nối liền những mảnh đời , những niềm tâm sự.Từ cuộc đời đến cuộc t́nh, từ duyên phận đến tâm cảm , rồi th́ thơ cũng chỉ là “ rung ḷng, lá động chiều tan/nhặt đi em cánh htơ vàng đang rơi” Thơ sao buồn trong nỗi mênh mang phẫn chí , và h́nh như thơ đă chết trong ḷng thi nhân . Có phải?

Tôi thấy ḿnh đang đi nhặt những lá vàng. Có khi tưởng như ḿnh đang lần theo những suối ḍng tâm sự. Những câu thơ đă cũ càng , viết từ khi tôi chưa sinh ra đời , sao có lúc lại đồng vọng về tưởng như tâm sự của ai! Thi sĩ Trần Huyền Trân sinh năm 1913 và mất năm 1989 , và có những bài thơ hay lúc vừa hai mươi tuổi khi phong trào thơ mới đang thịnh hành. Những bài thơ viết trước năm 1945 lại là những phần tinh hoa của ông , về sau năm 1986 được in lại trong tập Rau Tần. Ông làm thơ, với cái u uẩn của đời sống và cái u uất của thời thế trộn lẫn vào thành men cay của thi ca và chính điều ấy đă làm cho thơ ông được những kẻ hậu sinh như tôi thâm cảm.

Có người cho rằng bây giờ mà đọc những bài thơ lục bát , những bài bảy chữ ,như thế là một phong cách đi giật lùi khi thưởng thức thi ca. Thời bây giờ, phải đọc thi ca hậu hiện đại , phải nóng người lên với những câu thơ phô bày thân xác đàn bà và phải có một điều cảm nhận từ sự pha trộn giữa triết lư tưởng tượng và cảm giác của thực tế.

Với tôi, tôi đă cố gắng tạo cho ḿnh không vương vấn nào với những thiên kiến làm cho ḿnh bị lạc hướng khi cảm nhận thơ. Tôi thích đọc thơ hay đă đành mà c̣n muốn có sự cảm thông sâu xa từ ngôn ngữ và ư t́nh.Có lúc, tôi thú vị với những điều mới mẻ với tôi và khám phá được cho ḿnh từ thi ca những chân trời thú vị, cao rộng và khoảng khoát.. Nhưng có khi , ḷng cũng mềm đi v́ những câu lục bát , hay thổn thức v́ những câu âm hưởng ca dao hay thấy tự nhiên bâng khuâng khi đọc lại những câu quen thuộc lắm trong tiềm thức thành một kỷ niệm đang ngủ yên giờ thức dậy.

Có những bài thơ của Trần Huyền Trân viết ở trong một hoàn cảnh chẳng đặng đừng không viết không thể nào dừng lại được. Tô Đông Pha đời Tống xa xưa có nói : “Hữu sở bất năng tự dĩ nhi tác giả “ trong tập Nam Hành Tiền Tập Sự có đoạn đại ư:”Những người làm văn trước kia không phải là chỉ có nỗ lực cố gắng là có thơ văn hay và cũng không thể không nỗ lực cố gắng th́ mới có thơ văn hay. Tựa như sông núi có mây mù, có cây cỏ hoa quả khi nào chứa chất đầy đủ ở bên trong th́ biểu hiện ra bên ngoài, dù lúc ấy muốn không có cũng có được chăng? Ta từ nhỏ được nghe phụ thân ta bàn về văn chương nói rằng thánh nhân thời xưa khi nào không dừng được mới sáng tác. V́ vậy Thức này cùng với em là Triệt sáng tác cũng nhiều mà chưa từng dám cho là có ư làm văn vậy!”

Với Trần Huyền Trân làm bài thơ “Độc Hành Ca” cảm khái sau một cuộc rượu của những người t́m ở văn chương một lối thoát trong đời sống bị bủa vây v́ sinh kế, v́ thời thế. H́nh như, có sự thúc đẩy để tâm sự ̣a ra thành ngôn ngữ thi ca. Không thể nào chịu đựng được nếu không cầm bút. Nổ bùng xúc cảm , vỡ ̣a đáy tâm tư, thơ như tiếng kêu thất thanh vọng trong lồng ngực. Thơ phải trào, ùa ra theo mênh mông cảm hứngà

Nhà văn Tân Hiến đă kể lại trường hợp viết bài thơ này trên tạp chí Phổ Thông số 205 tháng 12 năm 1967 của nhà thơ Nguyễn Vỹ :

“..Bữa rượu thịt gà chọi ấy , đúng như câu thơ của nhà thơ Nguyễn Tố cháu của Tản Đà tiên sinh:

 

Rồi có một chiều ngọn gió thu

Thổi đâu về mấy gă đầu bù

Đảo cây rượu bố rồi sang sảng

Con cái ngây người lắng nhạc thơ,

Ba thằng , trời rét , hứng lên, mà có nửa cây , sao đủ! Rượu ít nhưng tâm trạng kẻ “tại đào “ mang mang muôn sự.Thằng trốn pḥng nh́ Pháp, thằng tránh hiến binh Nhật , thi nhau chửi chán rồi Trần Huyền Trân hô “ văn pḥng tứ bảo”. Bút giấy đem lại nhà thơ Trần Huyền Trân ngà ngà say đă thảo bài Độc Hành Ca , lời thơ khí thơ khác tất cả những vần điệu “ thoán, năo, tỉ, ta” từ trước tới nay..”

Bây giờ , tôi đọc Độc hành Ca, không nghĩ tới hoàn cảnh của thi sĩ mà lại chạnh nhớ tới nỗi ḿnh. Lâu lắm rồi, cách nay hai mươi mấy năm , Sài G̣n năm 1980, tôi cùng với người bạn , hai kẻ lang thang trên bến xe miền đông ở Ngă Bảy một đêm mưa, cũng cùng một tâm trạng ấy của những kẻ “tại đào” với câu than trời đất vô cùng rộng mà sao ta chẳng có chỗ dung thân. Đọc Độc Hành Ca, nghe như ḿnh có những bước chân đi về quá khứ lúc ấy:

Đêm nay cùng đổ bụi giày

Miệng cười hả hả, thơ mày rượu tao

Say đời uống lẫn chiêm bao

Thơ ra miệng dại, sầu vào mắt điên

Đầu bù khí núi đang lên

Sá ǵ bóng tối đắp lên thân c̣m

Gặp thời xô xát nước non

Ta trôi, người chảy, ḷng c̣n ngó theo

Đưa nhau qua bữa cơm nghèo

Đứa sầu gào rượu, đứa nheo mắt cười

Thế rồi thí bỏ rủi may

Đứa giam cơi bụi. Đứa đày rừng sâu

Vai cày chẳng quản làm trâu

Dong xe chẳng quản tóc râu làm bờm

Nẻo về chật chội áo cơm

Dặm đi chắc rụng từng cơn lá rừng

Ḷng ta không sóng không đừng

Thơ vang lại vướng mấy từng cửa quan.”

 

Thơ buồn, nhưng cảm khái.Trong cái lũi lầm của cuộc nhân sinh, với cái ngất ngưởng cao ngạo của tâm t́nh thi sĩ, thơ đă đi qua những eo sèo nhân thế, vượt qua những nổi nênh lận đận, để thành một phác họa cho những cảnh đời trong một xă hội đang nhiều biến chuyển. ƠƯ trong những mái nhà tranh tuềnh toàng mưa gió , hay ở những lều vó quẩn quanh trên mặt nước đen bẩn, có những tâm hồn tuy mỉa mai với cuộc sống nhưng vẫn không nguôi những nỗi hờn căm, những niềm u uất của những cuộc đời nḥa nhạt trong bóng tối.

Trong những năm tháng mà nhà văn Doăn Quốc Sỹ đă ví von là “ba sinh hương lửa “ với gông xiềng đè nặng lên dân tộc : Pháp thực dân, Nhật đế quốc và Việt Cộng Sản, rồi nanỳ đói kinh khiếp giết chết cả triệu người, h́nh như những người có tâm huyết đều nghĩ đến những chuyến ra đi để làm một điều ǵ, góp một bàn tay vào thời thế.Trần Huyền Trân cũng thế , cũng có một cuộc lên đường. Bài “ Từ biệt Lê Văn Trương”:

 

“Thôi thế anh về yên xóm cỏ

Có buồn khêu lại ngọn tàn đăng

à thôi anh về đi tôi đi đây

chim nào có cánh không thèm bay?

Cây nào có gió không buồn lay

Ḷng nào có máu không thèm say?

Tôi sẽ giẫm lên nguồn huyết mạch

Mà lau nguồn lệ chúng sinh rơi.. “

 

Trần Huyền Trân cũng đă ra đi, cũng đă viết những bài thơ như” Hải Pḥng ,19/11/1946” , bài thơ dài nhưng không lôi cuốn được người đọc vào một thời thế đầy băo dông của lịch sử. Có lẽ, những tâm hồn đầy góc cạnh như thi sĩ họ Trần khó ḷng làm thơ hay được trong cái môi trường mà văn chương là phương tiện để phục vụ cho chính trị.Tôi đọc tiểu sử của Trần Huyền Trân th́ thấy những bài thơ được đời sau nhắc đến đều là những bài thơ sáng tác trước năm 1945, c̣n về sau th́ ông lại xoay sang viết kịch với các tác phẩm như Lên Đường,Tú Uyên, Giáng Kiều , Cô Thúy, kịch thơ Hoàng văn Thụ,àĐến măi năm 1986 ông mới in tập thơ Rau Tần dù đă làm thơ từ năm của thập niên 1930 khi ông vừa ở tuổi đôi mươi.

Có một bài thơ Trần Huyền Trân làm vào năm 1938 “Uống rượu với Tản Đà “biểu lộ rất nhiều cá tính của riêng ông. Tản Đà, một nhà thơ của những ngày tân học và cựu học c̣n tranh giành ảnh hưởng, một nghệ sĩ của” trăm năm thơ túi rượu ṿ , ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai?” và cũng chính là một thi sĩ được cung chiêu anh hồn ở những trang mở đầu tập “ Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân với những ngôn từ trân trọng và thân kính nhất.Trần Huyền Trân và Tản Đà có những khoảng cách tuổi tác nhưng trong cảm nhận lại có điều gần gũi. Cũng là điều t́nh cờ, Tản Đà là thi sĩ mở đầu cho Thi nhân Việt Nam “ th́ Trần Huyền Trân là người đi chuyến tàu vét , để đóng lại những trang thơ của một thời kỳ văn học. Hoài Thanh & Hoài Chân viết:

“Viết đến đây tôi đă định khép cửa lại, dầu có thiên tài đến gơ cửa cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa : Trần Huyền Trân. Trần . Huyền. Trân.con người có tên lạ ấy, không phải là một thiên tài. Nhưng tôi ưa những vần thơ hiền lành và ít nói yêu đương.

Cũng có lần thi nhân tả t́nh tương tư:

 

Xa nhau gió ít lạnh nhiều

Lửa khuya tàn chậm , mưa chiều đổ nhanh..”

 

Với Tản Đà , cuộc đời có lẽ đáng để ư nhất là thơ với rượu. Với Trần Huyền Trân, cũng thế . Và hai người coi như bạn vong niên đă trải ḷng ra, để tâm sự man mác theo lời thơ đầy cảm xúc:

 

“ Cụ hâm rượu nữa đi thôi

Be này chừng sắp cạn rồi c̣n đâu

Rồi lên ta uống với nhau

Rót đau ḷng ấy vào đau ḷng này

Tôi say?- Thưa trẻ chưa đầy

Cái đau nhân thế th́ say nỗi ǵ?

Đường xa ư cụ? Quản chi

Đi gần hạnh phúc là đi xa đường

Tôi là nắng.. cụ là sương

Tôi bừng dậy sớm, cụ nương bóng chiều

Gió mưa tóc cụ đă nhiều

Ḷng c̣n gánh nặng bao nhiêu khối t́nh

Huống tôi mái tóc đang xanh

Vâng, tôi trăm thác ngàn ghềnh c̣n đi

Với đời một thoáng say mê

C̣n hơn đi chán về chê suông đời

Rót đi, rót nữa đi thôi

Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu

Nguồn đau cứ rót cho nhau

Lời say sưa mới là câu chân t́nh”

 

Không phải rót rượu mời nhau mà chính là rót những khổ đau tâm sự . Người trẻ, rượu chắc chẳng bao nhiêu nhưng lại cứ đ̣i rót măi và với người già, dù vẫn trân trọng cái tâm t́nh gánh nặng của người tiền bối nhưng vẫn có một chút ǵ tự hào về thời đại của những người đang thanh xuân.” Tôi là nắng.. cụ là sương/tôi bừng dậy sớm cụ nương bóng chiều”. Sương cũng phải tan đi khi nắng lên dù trong thâm tâm người trẻ vẫn có một chút ǵ trân trọng thương cảm ”gió mưa tóc cụ đă nhiều/ḷng c̣n gánh nặng bao nhiêu khối t́nh” .

Người trẻ trong cơn say đă khẳng định :

 

“Huống tôi mái tóc đang xanh

Vâng, tôi trăm thác ngàn ghềnh c̣n đi

với đời một thoáng say mê

C̣n hơn đi chán về chê suông đời.”

Từ xưa tới nay có rất nhiều bài thơ say. Khi men đă bốc , th́ mọi chuyện trên đời sẽ thành không có gía trị ǵ lúc ấy và cái ảo giác đă làm cho chữ nghĩa có một vóc dáng khác. Nhưng trong bài thơ “Uống rượu với Tản Đà “ này, thơ say mà thi sĩ lại “ tỉnh “ hơn bao giờ hết.Trong tâm tưởng có chút chia sẻ của người đồng điệu nhưng cũng có cái hứng khởi của kẻ đang vào cuộc văn chương. Dù, con đường đi c̣n trăm thác ngàn ghềnh nhưng vẫn có cái ngạo nghễ của kẻ khởi hành vừa cất bướcà

Trần Huyền Trân c̣n làm một bài thơ khác về Tản Đà cũng chan chứa niềm thương cảm về cuộc sống nghèo túng của một người mang nặng gánh văn chương:

“Người là một kiếp thi nhân

tóc xanh đă nhuốm mấy lần biển dâu

nhà người bên một ḍng sâu

xác xơ khóm trúc hàng cau lạnh lùng

hồn thơ về lánh bụi hồng

quyển vàng tóc bạc nằm chung một lều

có đàn con trẻ nheo nheo

có dăm món nợ eo sèo bên tai

chừng lâu rượu chẳng về chai

nhện giăng giá bút một vài đường tơ

nghiên son lớp lớp bụi mờ

mọt om tờ lại từng tờ cổ thi..”

 

trong thơ có tiếng cười vọng lại.Tiếng cười của một người đă qua những nổi nênh của cuộc đời và bây giơ ợcó chút ǵ đau xót có chút ǵ cảm khái thương thân:

“nh́n tôi người bỗng cười khà

Đời là thế ấy-ta là thế thôi.”

Thơ Trần huyền Trânkhông phải toàn những nỗi buồn mà có khi lại rất nhẹ nhàng mơ mộng. Những h́nh ảnh, mang theo những ư t́nh, rất mượt mà , ngôn ngữ của những người yêu nhau mà xa nhau, của nỗi niềm lan trải ra rừ người đến cảnh:

 

“mưa bay trắng lá rau tần

thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa

có người về khép song thưa

để rêu ngơ trúc tương tư lá vàng.”

 

Không biết có phải tác giả thích bài thơ này nhất hay không mà mấy chục năm sau khi in tập thơ đầu tiên lại lấy nhan đề là Rau Tần.

Nhà văn Tô Hoài trong bài viết “Lai lịch cái bút danh” đă kể lại thiên t́nh sử của chàng thi sĩ. Cái tên Trần Huyền Trân có vẻ yểu điệu thục nữ quá có vẻ không hợp với vóc dáng chàng:

“Ngaỳ trước Trần Huyền Trân có viết một tiểu thuyết tên là “Sau ánh sáng”. Những cảnh và người quen thuộc ở Khâm Thiên trong tiểu thuyết được mô tả như một tự truyện những lều kéo cá, những bè rau muống trên các ao chuôm cống rănh khúc khuỷu cạnh ngơ Sơn Nam, ngơ Liên Hoa quanh Cổng Trắng. Thời ấy , những người cơ cực các nơi lên thành phố kiếm việc t́m chỗ ở băi Sông Hồng và bám vào ŕa quanh thành phố như thế. Sau lưng cái phố Khâm Thiên đủ loại trác táng và bài bạc, những lầu xanh cho kẻ phong lưu, những nhà thổ cho kẻ kiết xác. Các tiệm nhảy Tanaka, Pagode thời thượng Pháp Nhật.

Cô Hiền . Trần Nguyệt Hiền mà Trần huyền Trân gặp cũng ở trong đám người có những cái tên hoa lá cành được khách làng chơi đặt cho như thế nào Mộng Điệp, Mộng Hồ, nào Tuyết Hấp, Nguyệt Lim, đại khái vậy.

Cũng không phải gốc gác “rằng xưa vốn là người kẻ chợ” mà Hiền đă trôi từ đồng quê ra , có lẽ có lần đă đứng ở phố Mới buôn người đợi kẻ có tiền đến dắt đi làm con sen, con nụ hay làm lẽ mọn cho nhà giàu bạc ác. Rồi người ta tống khứ thản nhiên con sen ra khỏi cửa.Hiền bước vào nhà hát làm đào rượu với cái thai trong bụng và khi đến ngày ở cữ th́ lại là lúc phải cuốn gói- có nhà hát nào lại chứa một đứa đào nuôi con mọn!

Những con người hoạn nạn cơ nhỡ gặp nhau. Hiền trở dạ. Cũng chỉ có anh chứng kiến, một ḿnh anh lo cho Hiền được mẹ tṛn con vuông với đủ việc : niêu nước mắm chưng, tiền đút nhà thương làm phúc, cái áo xé làm tă và làm tờ đứng tên khai sanh cho cháu bé. Chút duyên chết đuối trong cảnh ngộ ấy của hai con người họ Trần giữa cơn đau đớn đời người đă khiến cho họ nghĩ ra cái dấu nối đẫm nước mắt. Trần nối với Trần bằng dấu huyền là Trần Huyền Trân, đấy là tên con và rồi là tên thơ yêu dấu của anh..”

Trần Huyền Trân có bài thơ vô cùng thống thiết viết về thân phận những đứa trẻ vô thừa nhận lớn lên như những cây cỏ dại.

Bài thơ “Cái hoang thai”


Ơi hỡi đứa con không có tên

Nằm tṛn xác mẹ bụng vô duyên

Con lên mầm sống trong ḷng chết

Bởi mẹ con là một gái đêm

Người mẹ đi hoang kiếp ái t́nh

Đời c̣n ai tưởng chuyện khai sinh

Cho con hạt máu rơi vơ vất

Đang cựa trong thai kết lấy h́nh

Con sẽ ra đời con của ai?

Ngoài này đương lắm bước chông gai

Ǵ nuôi con đói ḷng dao cắt

Ǵ đắp che thân rét buốt giời

Thuế sống rồi con đóng nặng nề

Rồi con viết mướn hay may thuê

Về đâu nương náu đi đâu thóat

Hay sớm đi hoang tối ngủ hè..”

 

Cuộc sống thực đen tối và đứa con ấy lớn lên trong nỗi tuyệt vọng của những mảnh đời quen bị dày ṿ bầm dập. Thi sĩ đă nói với đứa con:

 

“nhưng trong đây với cả ngoài kia

chân tóc ba ngh́n vẫn loạn ly

tâm sự dưới trời mưa nắng măi

lều hoang lộng gió lấy ǵ che?

Tuổi sạm ba mươi giở khóc cười

Đời nhiều cám dỗ lắm con ơi!

Lợỳi danh có gái men như rượu

Một nhắp lên môi chuếnh choáng rồi

Thôi nói làm chi căm hận ta

Đến ngày gọi cửa mẹ con ra

Mẹ con : một lứa vô thừa nhận

Con cứ t́m ta con với cha

Rồi lớn lên con mở mắt nh́n

Khóc cùng bách tính sống như đêm

Nhưng không! Đừng khóc thêm gân cốt

Ta : bậc thang đời con giẫm lên..”

 

Trần Huyền Trân làm thơ bằng máu lệ đời ḿnh. Thơ như những tiếng than u uất của những phận đời đen tối. Thơ của những người ráng sống để chịu đựng , ráng làm thơ để có thanh âm vọng lên từ nỗi uất nghẹn thâm tâm.

Đọc thơ Trần huyền Trân, để rồi thấy ḷng như bâng khuâng, bởi v́ đời sống ấy thê thảm qúa. Có những bài thơ t́nh sầu nhưng cũng có những bài thơ đau xé ruột của một xă hội điêu linh, của những người cùng khốn suốt đời trong tuyệt vọng. ...

 

 

 

 

 

 

 

     
Bài Cũ :  Tháng 6/08. Tháng 7 /2008   Tháng 8/08.  9/08. 10/08. 11/08. 12/08  xin mời quư vị vào phần lưu trữ c̣n có  nhiều tài liệu, bài vở mới dùng vào việc nghiên cứu , tham khảo