Ngô Đ́nh Nhu 

 

 

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

 

  (Tùng Phong dịch)

 

 

9

 

MỘT LẬP TRƯỜNG THÍCH HỢP

VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN

 

(tiếp theo)

 

 

 

 

Khối kinh tế

 

Trong một xă hội, sống trên một nền kinh tế nông nghiệp, đơn vị hoạt động kinh tế đương nhiên là gia đ́nh. Trong một xă hội sống trên một nền kinh tế kỹ nghệ, đơn vị hoạt động kinh tế vô định. Những lực lượng sản xuất kỹ nghệ hùng hậu cho đến đỗi nhu cầu của khắp nhân loại có thể thoả măn được. Như vậy th́ đáng lư ra đơn vị hoạt động kinh tế của một xă hội đă kỹ nghệ hoá là tất cả nhân loại.

 

Nhưng, như chúng ta đă biết, đồng thời với sự bành trướng của các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, ư thức chủ quyền quốc gia, xây dựng trên tinh thần dân tộc, cũng trưởng thành một cách mạnh mẽ không kém. Xu hướng của các lực lượng sản xuất kỹ nghệ là bỏ hết các ranh giới địa phương để tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế bao trùm hết nhân loại. Ngược lại xu hướng của ư thức chủ quyền quốc gia là đặt những ranh giới bất khả xâm phạm phân chia nhân loại thành những khối người cùng ngôn ngữ, một di sản tinh thần và một quyền lợi. Đối với nhân loại ngày nay, ư thức chủ quyền quốc gia là một lực lượng tinh thần mà khả năng không kém lực lượng sản xuất kỹ nghệ, trên phương diện vật chất. Hai lực lượng đó hoạt động theo những chiều hướng trái ngược với nhau.

 

Cho đến ngày nay, xét theo các sự kiện lịch sử, th́ lực lượng tinh thần của ư thức chủ quyền quốc gia vẫn thắng thế. V́ vậy cho nên, trên khắp thế giới, các đơn vị hoạt động kinh tế phải uốn ḿnh theo các ranh giới lănh thổ quốc gia. Như thế nếu ranh giới các quốc gia càng rộng, th́ tầm hoạt động kinh tế càng thích nghi với bản chất các lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Ngược lại nếu ranh giới các quốc gia càng hẹp th́ tầm hoạt động càng đi ngược với bản chất và các lực lượng sản xuất càng mất hiệu lực.

 

V́ lư do trên đây mà ngày nay chúng ta mục đích hai việc. Trước hết các khối kinh tế hùng mạnh là các quốc gia kiểm soát một lănh thổ rộng lớn và một dân số trù mật, và đương nhiên có một đơn vị hoạt động kinh tế vừa tầm cho các lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Các đế quốc sau khi trả độc lập cho các dân tộc bị trị, đương nhiên phải thu hẹp phạm vi vùng kiểm soát chính trị của ḿnh. Nhưng đồng thời, các đế quốc cũ t́m đủ mọi cách để duy tŕ một phạm vi hoạt động kinh tế rộng lớn, dưới h́nh thức những Liên Hiệp, hoặc những chương tŕnh viện trợ hỗ tương.

 

Một mặt khác, các quốc gia có lănh thổ nhỏ và dân số ít cũng t́m cách liên kết với nhau, dưới những h́nh thức cộng đồng, để có thể tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế rộng lớn chung, thích hợp với bản chất các lực lượng sản xuất kỹ nghệ, đồng thời vẫn tôn trọng ư thức chủ quyền quốc gia mà lịch sử đă thừa nhận.

 

Giải pháp sau này là giải pháp mà các quốc gia nhỏ và yếu như chúng ta hiện nay, cần phải áp dụng. Những thành kiến về chủng tộc, sự bất đồng ngôn ngữ, những di sản tinh thần chung, sẽ c̣n duy tŕ ư thức chủ quyền quốc gia trong nhiều giai đoạn lịch sử. Và sự hợp nhất về chính trị, của dân tộc ở chung trong một vùng hoạt động kinh tế, sẽ c̣n phải trải qua rất nhiều thế hệ mới có thể thực hiện được.

 

Ngược lại, một sự hợp tác về kinh tế với h́nh thức một Liên bang hay một cộng đồng, trong đó chủ quyền của mỗi quốc gia vẫn được tôn trọng, trong phạm vi chính trị, là điều kiện thiết yếu để tạo những đơn vị hoạt động kinh tế có thể đứng vững được.

 

Sự liên kết các quốc gia thành một vùng kinh tế thịnh vượng chung là một việc không thể phủ nhận. Nhưng chúng ta không nên quên rằng, lư do thiết yếu nhất để bênh vực sự liên kết nói đây là để tạo ra một đơn vị hoạt động kinh tế thích nghi với các lực lượng sản xuất kỹ nghệ. Như vậy th́, sự liên kết chỉ cần thiết khi nào các lực lượng sản xuất kỹ nghệ đă hoạt động. Nếu liên kết được để thành lập và thực hiện một chương tŕnh sản xuất kỹ nghệ chung, th́ lại c̣n quư hơn nữa. Nhưng với tinh thần dân tộc rất cao và ư thức chủ quyền quốc gia rất dễ đụng chạm của các nước mới thâu hồi độc lập, việc liên kết trước khi các lực lượng sản xuất hoạt động cụ thể, khó mà thực hiện được. Do đó, vấn đề kỹ nghệ hoá riêng cho từng quốc gia, vẫn là vấn đề tiên quyết cho mọi sự liên kết thành khối kinh tế thịnh vượng chung cho các quốc gia ở cùng một vùng. Nhưng sự liên kết là một yếu tố quyết định cho công cuộc phát triển kinh tế, vừa cho chung tất cả vùng, vừa cho từng quốc gia một trong vùng.

 

Lĩnh vực văn hoá

Văn minh Tây phương và đặc tính dân tộc

 

Công cuộc Tây phương hoá có hướng dẫn của một cộng đồng dân tộc bắt buộc phải trải qua hai giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất, các nỗ lực đều hướng vào sự hấp thụ các kỹ thuật Tây phương. Giai đoạn thứ hai bắt đầu, khi nào cộng đồng đă chế ngự được các kỹ thuật đă hấp thụ và dùng nó làm những dụng cụ sáng tạo. Lúc bấy giờ, các đặc tính dân tộc sẽ xuất hiện trong các sáng tạo.

 

Trong giai đoạn thứ nhất, không có sự tranh giành ảnh hưởng và sự xung đột giữa đặc tính dân tộc và đặc tính văn minh Tây phương, bởi hai lẽ:

 

Nếu đă nhất quyết Tây phương hoá, th́ như chúng ta đă biết, điều cần thiết là phải sẵn sàng hấp thụ tất cả, một cách không đắn đo, dù những điều thu thập không thích hợp với dân tộc. Một thái độ rơ ràng như vậy, tự nó đă bao hàm ư chí không chống lại những điểm không hợp với dân tộc tính.

 

Chỉ trong những công cuộc Tây phương hoá không được hướng dẫn, sự xung đột nói trên mới gay go và làm trở ngại công cuộc Tây phương hoá. Trái lại, trong một công cuộc Tây phương hoá có hướng dẫn, người chủ trương công cuộc đó, khi thấy sự xung đột vừa manh nha, đă phải t́m cách làm chấm dứt ngay.

 

Trái lại, trong giai đoạn thứ hai, dân tộc tính hết bị ḱm hăm trong sự ràng buộc của nhu cầu hấp thụ, đương nhiên xuất hiện mạnh mẽ trong các sáng tạo. Nhưng các sáng tạo sẽ được thực hiện với những dụng cụ của Tây phương, đă được chế ngự. Tinh thần dân tộc nằm trong sự sáng tạo. Tinh thần văn minh Tây phương nằm trong dụng cụ sáng tạo. V́ vậy cho nên, sự tranh giành ảnh hưởng, và do đó sự xung đột giữa hai tinh thần không làm sao tránh được.

 

Trong bất cứ lĩnh vục nào, chính trị, quân sự, kỹ thuật, kinh tế, xă hội hay văn hoá, một cộng đồng dân tộc đều có thể vượt qua giai đoạn thứ nhất và đạt đến giai đoạn thứ hai của công cuộc Tây phương hoá.

 

Tuy nhiên, kinh nghiệm rút ở các quốc gia đă thâu thập được nhiều kết quả trong công cuộc Tây phương hoá, lại chứng tỏ rằng, chỉ trong lĩnh vực văn hoá mới thường xảy ra cuộc xung đột nói trên giữa đặc tính dân tộc và đặc tính của văn minh Tây phương, nằm trong các dụng cụ sáng tạo, vẫn chiếm ưu thế. Nguyên nhân của sự kiện này là v́, chỉ trong lĩnh vực văn hoá, phần lớn các dân tộc đang thực hiện công cuộc Tây phương hoá, mới có một di sản gồm nhiều sáng tạo mà giá trị không kém hay hơn, các sáng tạo cùng loại của Tây phương.

 

Trong phần đầu của quyển sách này đă có dẫn một bằng chứng khác về sự xung đột giữa đặc tính dân tộc và đặc tính văn minh Tây phương trong lĩnh vực văn hoá. Hiện nay trong lĩnh vực văn hoá, thế giới vẫn chia ra làm năm khu vực, như trước khi Tây phương chinh phục thế giới. Trong khi đó, ví dụ trong lĩnh vực kỹ thuật hay kinh tế, th́ Tây phương đă đặt bá quyền của họ.

 

V́ những lư do vừa tŕnh bày trên đây, nên trong các phần liên quan đến những lĩnh vực chính trị và kinh tế, chúng ta không có bàn đến vấn đề sáng tạo và vấn đề xung đột giữa dân tộc tính và đặc tính văn minh Tây phương. Ngược lại, trong các đoạn dưới đây, liên quan đến lĩnh vực văn hoá, hai vấn đề trên sẽ chiếm một phần quan trọng.

 

Cũng v́ những lư do vừa tŕnh bày trên, các đoạn dưới đây liên quan đến lĩnh vực văn hoá, sẽ được chia làm hai phần. Phần thứ nhất gồm các vấn đề văn hoá trong giai đoạn hấp thụ. Phần thứ hai gồm các vấn đề sáng tạo văn hoá.

 

Mặc dù sẽ đề cập đến các khía cạnh của một tổ chức giáo dục, theo nghĩa thường dùng, các đoạn dưới đây hoàn toàn không phải là để phác hoạ một tổ chức giáo dục, công việc đó thuộc thẩm quyền của các nhà mô phạm chuyên môn. Nhưng cũng như trong các phần liên quan đến lĩnh vực chính trị và kinh tế, trong phần liên quan đến lĩnh vực văn hoá dưới đây sẽ phân tích các nhu cầu và điều kiện mà một tổ chức giáo dục cần phải thoả măn, trước thử thách Tây phương hoá của dân tộc.

 

Phần hấp thụ

 

Trước tiên, tác dụng của công cuộc Tây phương hoá là để chống lại sự xâm lăng của Tây phương. Nhưng lần hồi sự diễn tiến và tính cách phức tạp của công cuộc Tây phương hoá đă biến mục tiêu sơ đẳng của buổi đầu thành một mục tiêu khác, sâu rộng và bao quát hơn: Phát triển toàn thể cộng đồng dân tộc, trong mọi lĩnh vực của đời sống, bằng cách hấp thụ và chế ngự các kỹ thuật Tây phương.

 

Kỹ thuật Tây phương

 

Kỹ thuật của Tây phương không phải như đa số thường hiểu là những cái máy móc tinh vi, nhỏ lớn hay khổng lồ, mà họ sáng tạo, biết sử dụng và khai thác hết và vừa đúng khả năng. Tất cả các máy móc của Tây phương, từ cái bóng đèn điện nhỏ bé cho đến các chiến hạm vượt trùng dương và các trung tâm kỹ nghệ khổng lồ mà cả thế giới đều thán phục, đều là những sản phẩm của kỹ thuật Tây phương.

 

Kỹ thuật Tây phương là một lề lối đến với vấn đề, t́m hiểu vấn đề, giải quyết vấn đề và tổ chức vấn đề, mà tinh thần chính xác của văn minh Tây phương đă sáng tạo. Tây phương đă dùng lề lối đó, nghĩa là kỹ thuật đó, để t́m hiểu và chế ngự các vấn đề. Họ đă dùng cái lợi khí sắc bén đó để giải phẫu, chẳng những vũ trụ bao quanh chúng ta, mà cả vũ trụ tâm linh ở ngay trong người của chúng ta. Chớ không phải như nhiều người lầm tưởng, kỹ thuật của họ chỉ soi thấu được vũ trụ vật chất, và nếu muốn soi thấu vũ trụ tâm linh phải kêu gọi đến trực giác của Đông phương.

 

Nói một cách khác, thường thường văn minh Tây phương được xem là duy vật và minh văn Đông phương là duy tâm. Không đi sâu vào vấn đề, và để tôn trọng lập trường không đứng vào vị trí lư thuyết, chúng ta sẽ không bàn đến vấn đề duy tâm hay duy vật. Chúng ta chỉ biết rằng, suy luận trên thường thường được dùng để che giấu một sự không nh́n nhận chiến bại của Đông phương. Chúng ta không thắng Tây phương được trong phạm vi vật chất, một phạm vi cụ thể và dễ thấy, nên thường hay tự an ủi rằng trong phạm vi tâm linh, một phạm vi trừu tượng và khó thấy, kỹ thuật của chúng ta hơn. Đó cũng là phản ứng của tự ti mặc cảm, và của sự không dám nh́n sự thật. Vả lại, kỹ thuật của Tây phương và trực giác của Đông phương không cùng một loại lợi khí. Kỹ thuật của Tây phương có thể truyền lại được từ một người cho nhiều người khác, trái lại trực giác không thể truyền được. Đặc tính đại chúng đó là một ưu thế đáng sợ của kỹ thuật Tây phương, bởi v́ nhân thế, kỹ thuật Tây phương có thể trở thành sức mạnh, trong khi trực giác lúc nào cũng giam ḿnh trong phạm vi tuyển lựa cá nhân.

 

Lợi khí giải phẫu của Tây phương, tức là kỹ thuật của họ, thành công trong phạm vi vật chất nhiều hơn trong phạm vi vũ trụ tâm linh. Lư do ở chỗ vũ trụ vật chất v́ tính chất cụ thể của nó nên dễ được soi thấu, c̣n vũ trụ tâm linh v́ tính chất trừu tượng của nó, nên không dễ khảo sát, dù với một lợi khí nào. Bằng chứng là trên địa hạt tâm linh, sự thành công của Tây phương suy cho tận cùng, vẫn thắng thế hơn sự thành công của Đông phương; Nhận xét quần chúng của đôi bên, ẩn tượng càng rơ rệt là tổng số người trong quần chúng Tây phương đạt đến mức độ quang tỉnh trong tâm hồn, vẫn cao hơn tổng số tương đương trong quần chúng Đông phương.

 

Hấp thụ kỹ thuật Tây phương

 

Kỹ thuật Tây phương tự nó là một ư thức rất bao quát và phong phú. Như thế th́, việc hấp thụ kỹ thuật Tây phương là một công cuộc to lớn và khó khăn.

 

Các quốc gia đă vượt qua các giai đoạn Tây phương hoá, đă để lại một số kinh nghiệm liên quan đến các giai đoạn của công cuộc hấp thụ. Lẽ cố nhiên, công cuộc hấp thụ bao giờ cũng bắt đầu trong những địa hạt kỹ thuật thực tế và giản dị và lần lần lan rộng đến các địa hạt kỹ thuật càng ngày càng phức tạp và càng trừu tượng.

 

Lúc đầu th́ t́m hiểu và ghi nhớ những sản phẩm của kỹ thuật Tây phương, và tự nhiên không bận tâm đến những cái nguyên lư sâu xa của nó. Công việc này phải để sau và dành cho số người đă đạt đến mức độ chế ngự được kỹ thuật Tây phương.

 

Ngay từ lúc đầu, công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương không nên giới hạn trong bất cứ một phạm vi nào của đời sống. Trái lại, công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương phải được thực hiện trong tất cả các địa hạt cùng một lúc: chính trị, văn hoá, kinh tế, xă hội, quân sự và trong từng địa hạt, tất cả các ngành phải được lưu ư tới. Ví dụ trong địa hạt khoa học th́ cũng trong một lúc, ngành căn bản là toán học phải được nghiên cứu với tất cả các ngành liên hệ và phụ thuộc, như vật lư học, y học, canh nông học, luật học, sử học, tâm ư học v.v.

 

Và ngay từ lúc đầu, công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương không nên đóng khung trong một giới hạn nào. Trái lại, ngay từ lúc đầu, công cuộc thu thập phải được quan niệm rộng răi để ăn sâu vào đại chúng. Công cuộc thu thập phải được quan niệm rộng răi và mênh mông như hải triều đang dâng lên.

 

Một quan niệm bao quát như vậy đương nhiên bao hàm ư nghĩa là công cuộc thu thập, chẳng những phải gồm tất cả các ngành của kỹ thuật Tây phương, mà ngay đến cả các địa hạt thông thường và nhỏ nhặt của đời sống. Ví dụ làm sao sử dụng cho đúng mức và khai thác cho hết khả năng phục vụ, những dụng cụ hết sức tầm thường, mà đương nhiên chúng ta thâu nhận của Tây phương. Làm sao sử dụng xà bông cho hợp lư và một cách tiết kiệm. Săn sóc và ǵn giữ một đôi giày như thế nào để giữ cho nó được tốt và bền. Quần áo theo Tây phương phải được ăn vận làm sao, và ǵn giữ các thứ hàng vải, nhập cảng và nhân tạo, đ̣i hỏi những điều kiện ǵ, khác hơn những điều kiện mà đại chúng đă quen biết, đối với sự ǵn giữ các hàng vải cổ truyền.

 

Sau hết công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương phải được liên tục và không bao giờ ngừng. Ngay đến khi cộng đồng đang Tây phương hoá, đă đạt đến mức độ chế ngự được kỹ thuật Tây phương và bắt đầu sáng tạo th́ công cuộc thâu thập vẫn phải được tiếp tục với một cái đà dũng mănh như trước. Có lẽ lúc bấy giờ, nhờ ở cái vốn đă thu thập được rồi, th́ nỗ lực đ̣i hỏi ở cộng đồng không lên đến mức cao độ như lúc đầu. Nhưng chính cũng nhờ đó, mà cái đà thu thập có thể duy tŕ ở một cường độ dũng mănh như trước hay hơn trước. Và đây là một điều kiện vô cùng thiết yếu, bởi v́ trong khi chúng ta nỗ lực thâu thập kỹ thuật Tây phương, th́ Tây phương không lúc nào gián đoạn công cuộc càng ngày càng cải thiện kỹ thuật của họ bằng những loại phát minh mới.

 

Như thế th́, trong công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương, có hai công tác chính rất là rơ rệt. Một mặt thâu nhận kỹ thuật Tây phương trong mọi lĩnh vực. Một mặt phổ biến các kỹ thuật đă thâu nhận ra đại chúng.

 

Công tác thứ nhất là trách nhiệm phần lớn của tổ chức giáo dục chính danh, công tác thứ nh́ là trách nhiệm của tổ chức giáo dục quần chúng.

 

Vấn đề chuyển ngữ

 

Công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương đặt ra nhiều nhu cầu, trong đó, vấn đề chuyển ngữ là một điểm rất quan trọng. Vấn đề này đă được mang ra, làm đề tài thảo luận trong rất nhiều cơ hội. Chủ trương dùng ngoại ngữ cũng được nhiều người tán thành như chủ trương dùng Việt ngữ. Lấy sinh ngữ nào để làm chuyển ngữ, trong các ngành giáo dục chính danh và giáo dục quần chúng? Những người chủ trương nên lấy ngoại ngữ dựa trên lập luận rằng, nếu muốn Tây phương hoá th́ phải Tây phương hoá cho đến nơi và phải rút cho hết cái tinh tuư của Tây phương. Như vậy chỉ có ngoại ngữ mới giúp chúng ta đạt mục đích đó: Việt ngữ không đủ phong phú trong danh từ, và không đủ khả năng diễn tả các lư luận khúc chiết và các tư tưởng trừu tượng siêu thoát. Nhưng những người chủ trương như vậy quên rằng một công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương như trên chỉ có thể thực hiện được cho một thiểu số của cộng đồng, và đă như vậy th́, như chúng ta đă biết, sẽ không giải quyết được vấn đề của cộng đồng.

 

Những người chủ trương lấy Việt ngữ làm chuyển ngữ, lại lập luận rằng quần chúng là trọng. Nếu công cuộc Tây phương hoá không phổ biến được đến đại chúng, th́ công cuộc đó kể như đă thất bại. Và như chúng ta đă thấy, lập luận của họ là đúng. Đă như thế th́ chỉ có Việt ngữ mới giúp cho chúng ta đạt mục đích trên. Nhưng, những người chủ trương như vậy lại quên rằng tất cả các kho tàng kiến thức liên hệ đến kỹ thuật Tây phương, mà sự thâu thập đối với chúng ta đă là một vân đề thiết yếu và mất c̣n, tất cả các kho tàng đó, đều nằm trong ngoại ngữ. Nếu chúng ta không dùng ngoại ngữ một cách rộng răi và đến một mức độ tinh vi, th́ vấn đề thâu thập kỹ thuật không làm sao thực hiện được.

 

Thật ra, chủ trương trên đây không đối chọi nhau, mà phải bổ túc cho nhau. Sở dĩ có sự đối chọi chỉ v́ những người tán thành hai chủ trương đều nh́n vấn đề chuyển ngữ từ hai vị trí khác nhau, do đó, chỉ nh́n thấy phân nửa vấn đề. Trường hợp này, tuy ở trong một lĩnh vực khác, nhưng cũng giống như trường hợp mang lập trường quốc gia đối chọi lại với lập trường quốc tế, mà chúng ta đă xét qua trong phần chính trị.

 

Theo kinh nghiệm của các nước đă thực hiện công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương, th́ vấn đề chuyển ngữ phải được giải quyết như sau đây.

 

Như trên vừa giải thích, công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương gồm hai công tác chính, công tác thâu thập kỹ thuật và công tác phổ biến các kỹ thuật đă thâu nhận.

 

Như thế th́ chuyển ngữ của công tác thâu nhận là ngoại ngữ và chuyển ngữ của công tác phổ biến là Việt ngữ. Ranh giới giữa hai chuyển ngữ hoạch định như thế nào? Thật ra không có ranh giới, và hai loại chuyển ngữ phải song hành tồn tại trong mọi địa hạt và trong mọi giai đoạn của công cuộc thâu thập.

 

Trong các nước, đă hay đang thực hiện công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương, vấn đề chuyển ngữ đều được giải quyết một cách giản dị như trên. Sở dĩ ở Việt Nam vấn đề trở nên gay go, v́ một hiện tượng tâm lư do thời kỳ đô hộ tạo ra. Tinh thần quốc gia đă đi quá mức. Khi chủ quyền đă được thu hồi, tự nhiên và đồng thời với ách thống trị, ngoại ngữ của người thống trị cũng phải được đ̣i bỏ đi, v́ được xem như là một vết tích của thời kỳ nô lệ.

 

Vấn đề chuyển ngữ đă được giải quyết như trên, việc ấn định trong trường hợp nào, Việt ngữ sẽ đóng vai tṛ chủ yếu, là thẩm quyền của tổ chức giáo dục và tổ chức giáo dục quần chúng. Nhưng bất cứ trong trường hợp nào, công việc phiên dịch các loại tài liệu ngoại quốc sang Việt ngữ vẫn là một công tác tối quan trọng. Nói một cách rơ ràng hơn nữa, công việc phiên dịch các tài liệu ngoại quốc là một cái vận tống, nhờ đó công cuộc thâu thập mới có thể tiến tới được và không có đó, th́ công cuộc thâu thập không thể thực hiện được.

 

Sau khi giải quyết vấn đề chuyển ngữ như trên, th́ câu hỏi đương nhiên sẽ nảy ra trong óc chúng ta là: chọn ngoại ngữ nào? Câu trả lời sẽ như sau đây:

 

Chúng ta đă đi học kỹ thuật của Tây phương th́ đương nhiên, có lợi mà đi học tận gốc kỹ thuật đó. Nếu chúng ta đi học của những người cũng đang đi học của Tây phương hoặc mới học rồi, th́ mặc nhiên chúng ta tự hạ chúng ta xuống mức độ học tṛ của người học tṛ. Trong trường hợp đó, bắt kịp người học đă là khó, c̣n nói chi đến việc bắt kịp người thầy, chính là Tây phương. Như vậy th́, ngoại ngữ mà chúng ta chọn, sẽ là một trong các ngoại ngữ của Tây phương, đang là chuyển ngữ cho một nền kỹ thuật tiến bộ nhất.

 

Cho tới Đệ Nhị Thế Chiến, th́ các ngoại ngữ thoả măn điều kiện trên là Anh, Đức và Pháp. Trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, nước Pháp bị chiếm đóng trong bốn năm, các thơ-loại tham khảo về kỹ thuật của Pháp sút kém hẳn đi. Và sau Đệ Nhị Thế Chiến, nước Đức cũng lâm vào một t́nh trạng tương tự, tuy có nhẹ hơn. Rốt cuộc lại, tiếng Anh phải được chọn trước hết, làm chuyển ngữ ngoại quốc cho chúng ta.

 

Đối với chúng ta, nhiều sự kiện lịch sử đă làm cho Pháp ngữ c̣n chiếm một ưu thế trong nền giáo dục ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhu cầu của công cuộc Tây phương hoá bắt buộc chúng ta phải đoạn tuyệt lần lần với Pháp ngữ một cách không luyến tiếc. C̣n có một lư do khác thuộc về phạm vi chính trị, bắt buộc chúng ta phải thay thế Pháp ngữ bằng Anh ngữ trong vị trí ưu tiên ngoại ngữ ở nước ta. Nh́n vào bản đồ Á châu, chúng ta nhận thấy ngay sự kiện sau đây: Ba nước Việt Nam, Cam Bốt và Lào thuộc lănh thổ Đông Dương trước đây là ba nước duy nhất dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ ngoại quốc, trong khi tất cả các nước chung quanh đều dùng Anh ngữ, ngoại ngữ thông dụng nhất trên thế giới. Sự cô lập khủng khiếp đó là một trở lực vô cùng to tát trong phạm vi ngoại giao.

 

Vượt qua các sáng tạo của kỹ thuật Tây phương

 

Chúng ta đă thấy trong nhiều đoạn trước đây, rằng một công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao sẽ không thực hiện được, nếu sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương chỉ giới hạn trong công tác thu thập những sáng tạo của kỹ thuật Tây phương. Dù mà sự thâu thập này, có lan rộng và bao gồm khắp các địa hạt của kỹ thuật như chúng ta đă phân tích ở trên, nhưng chỉ giới hạn trong các sáng tạo của kỹ thuật Tây phương, th́ kết quả cũng như vậy. Cộng đồng đang theo đuổi công cuộc Tây phương hoá, sẽ măi măi lệ thuộc Tây phương, bởi v́ công cuộc Tây phương hoá thực hiện nửa chừng như vậy, sẽ đưa cộng đồng lên đến mức độ cao lắm là chỉ sử dụng được các sáng tạo của kỹ thuật Tây phương.

 

Một công cuộc Tây phương hoá, đến mức độ đủ cao, chỉ thực hiện được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ, người hấp thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên ḿnh sáng tạo. Và đương nhiên muốn chế ngự được kỹ thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lư của khả năng sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó.

 

Trong khuôn khổ này, một quan niệm thông thường sai lầm cần phải được chỉnh đốn. Đa số các cộng đồng theo đuổi công cuộc Tây phương hoá đều nghĩ rằng, Tây phương mạnh nhờ khoa học của họ. Vậy nếu chúng ta học được khoa học của Tây phương th́ chúng ta cũng chưa mạnh bằng Tây phương. Bởi v́ khoa học cũng như tất cả các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương, là những hiện tượng nh́n thấy được của kỹ thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ thuật Tây phương. Các sáng tạo kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới là gió.

 

Vậy, nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật Tây phương là cái ǵ? Câu hỏi này vô cùng quan trọng cho công cuộc Tây phương hoá. Có trả lời được, chúng ta mới thoả măn được một điều kiện của công cuộc Tây phương hoá đến mức độ đủ cao. Điều kiện thứ hai, là thực hiện được những điểm mà câu trả lời sẽ nêu lên.

 

Kỹ thuật Tây phương hùng mạnh nhờ hai đức tính vô cùng quư báu thừa hưởng của văn minh cổ Hy Lạp La Mă. Hai đức tính đó là: Chính xác về lư trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.

 

Ngay trong thời kỳ khoa học chưa được phát minh, hai đức tính trên đă xuất hiện trong các sáng tác văn hoá và trong ngôn ngữ của Hy Lạp La Mă.

 

Quan niệm sai lầm nói trên đây, sở dĩ đă sai lầm v́ trụ đóng vào một tin tưởng sai lầm. Tin tưởng sai lầm đó cho rằng v́ khoa học của Tây phương chính xác, ngăn nắp và minh bạch, th́ nếu chúng ta hấp thụ được khoa học đó, chúng ta cũng hấp thụ được cái chính xác, ngăn nắp và minh bạch kia. Lập luận trên chỉ đúng một phần nhỏ và phần lớn không đúng. Sở dĩ khoa học Tây phương mang trong ḿnh các đức tính trên là bởi v́ khoa học Tây phương là sáng tạo của kỹ thuật Tây phương. Đă là con, th́ đương nhiên cũng mang ít nhiều những đức tính của mẹ. Nhưng thật ra, những đức tính đó là của thừa hưởng, cũng như sức mạnh của sóng là thừa hưởng của gió. Và bởi v́ khoa học cũng chỉ là một trong những sáng tạo của kỹ thuật Tây phương, cho nên việc hấp thụ được khoa học chưa đủ để cho chúng ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương. Lời tục thường nói: “Con chó ngoắc đuôi là sự thường, chớ không thấy cái đuôi trở lại ngoắc con chó”.

 

Đoạn vừa qua rất quan trọng ở chỗ nó vạch trần một quan niệm sai lầm của chúng ta lâu nay. Quan niệm sai lầm đó rất tai hại, v́ nó biến thành một trở lực không lay chuyển nổi cho công cuộc Tây phương hoá đối với bất cứ ai, lấy quan niệm đó làm kim chỉ nam cho sự thâu thập kỹ thuật Tây phương: Chúng ta cần phải ghi nhớ rằng, một khi đă đóng khung vào quan niệm sai lầm trên, th́ một sự thu thập khoa học Tây phương dù có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho chúng ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương. C̣n nói ǵ đến khả năng sáng tạo, th́ đương nhiên không làm sao luyện được. Một công cuộc Tây phương hoá chỉ chú trọng vào sự thu thập khoa học Tây phương (sao chép), sẽ măi măi là một công cuộc Tây phương hoá không đúng mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích thu thập khoa học Tây phương, th́ măi măi sẽ lệ thuộc các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương và không bao giờ thoát lên đến mức độ sáng tạo như Tây phương.

 

Tŕnh bày trên đây là sáng tỏ ba điểm:

 

1. Kỹ thuật Tây phương rút sinh lực trong hai nguồn:

- Chính xác về lư trí.

- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.

2. Các đức tính trên đă có trước mọi phát minh khoa học và đă sinh ra khoa học.

3. Sự thâu thập khoa học của Tây phương thôi, không giúp cho chúng ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương.

 

Như thế th́ vấn đề đă trở nên rất rơ. Nếu chúng ta muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta cần phải luyện được hai đức tính:

 

- Chính xác về lư trí

- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.

 

Sự thâu thập dù mười phần kết quả, khoa học của Tây phương, hoặc bất cứ một hay tất cả các sáng tạo của kỹ thuật Tây phương không thể cho phép chúng ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương, bởi v́, sự thâu thập đó chưa đủ để chúng ta luyện được hai đức tính trên.

 

Vấn đề đă như thế, th́ phương pháp nào sẽ giúp cho chúng ta đạt đến kết quả mong mỏi? Các tài liệu nghiên cứu về nguồn gốc của hai đức tính trên, trong nền văn minh cổ Hy Lạp La Mă đều nh́n nhận rằng hai đức tính ấy đă thể hiện ngay trong sự tổ chức đời sống hằng ngày và nhất là trong ngôn ngữ của hai dân tộc trên. Cũng nên nhắc lại rằng các đức tính ấy đă có trước mọi phát minh khoa học của hai dân tộc Hy Lạp La Mă.

 

Sự hai đức tính trên đă thể hiện trong sự tổ chức đời sống hằng ngày và trong ngôn ngữ là một điều vô cùng quan trọng. Bởi v́ như vậy th́ những người hằng ngày giữ theo nếp sống đó, và lúc nào cũng sử dụng ngôn ngữ đó, đương nhiên đă hấp thụ huấn một cách không ngừng để rèn luyện hai đức tính trên.

 

Kỹ thuật của Tây phương ngày nay là kết quả của một công cuộc rèn luyện kiên nhẫn của không biết bao nhiêu triệu người trải qua không biết bao nhiêu thế hệ. Và nếp sống hằng ngày cùng với ngôn ngữ là những lợi khí sắc bén và duy nhất có thể giúp cho chúng ta rèn luyện được hai đức tính trên.

 

Như vậy th́ vấn đề lại càng rơ, nếu chúng ta muốn rèn luyện được hai đức tính trên th́ chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và minh bạch, và ngôn ngữ của chúng ta phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp và minh bạch. Có như vậy, đời sống hằng ngày của chúng ta và ngôn ngữ của chúng ta sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho chúng ta rèn luyện chính xác về lư trí và ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và ngôn ngữ đă được chỉnh đốn lại trở thành một khí cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật lư và vũ trụ tinh thần.

 

Lịch sử của nhân loại cung cấp cho chúng ta rất nhiều ví dụ để xác nhận các sự kiện trên, về ảnh hưởng của sự tổ chức đời sống và của ngôn ngữ, trong sự phát triển của văn minh.

 

Thời kỳ bắt đầu từ thế kỷ thứ XIV gọi là thời kỳ Phục Hưng của xă hội Tây phương là điển h́nh nhất. Trước đó gần một ngàn năm, văn minh của Hy Lạp và La Mă đă sụp đổ trong cuộc xâm lăng vĩ đại của các dân tộc c̣n man rợ đang sống chung quanh. Tất cả các tổ chức đời sống đều tan ră, và ngôn ngữ thành hồ đồ dưới ảnh hưởng của các thổ ngữ man rợ.

 

Ṛng ră trong gần một ngàn năm, xă hội Tây phương ch́m đắm trong đêm tối dày đặc của tàn bạo và dốt nát. Riêng một số tu viện của Gia Tô giáo, c̣n giữ được ánh sáng của văn minh cũ và di sản của những ngôn ngữ đă mất. Giáo hội Gia Tô giáo dốc hết nỗ lực để bảo vệ ngọn đuốc lờ mờ đó, chống với làn sóng xâm lăng kinh khủng.

 

Sau nhiều thế kỷ của một cuộc chấn động ghê gớm t́nh thế lắng dần. Và giáo hội mới bắt đầu phổ biến càng ngày càng rộng, di sản đă được bảo vệ. Nhờ đó, các quốc gia xuất h́nh từ những dân tộc man rợ trước kia, mới bắt đầu tổ chức đời sống theo kiểu mẫu ngăn nắp Hy Lạp La Mă và chỉnh đốn ngôn ngữ phôi thai theo kiểu mẫu ngăn nắp và minh bạch của các ngôn ngữ Hy Lạp La Mă.

 

Trong thời đại gọi là Trung Cổ, vào thế kỷ thứ X và XI, đời sống ở các quốc gia Tây phương đă lần lượt bắt đầu có tổ chức. Nhưng ngôn ngữ vẫn c̣n hồ đồ. Chỉ vài thế kỷ sau ngôn ngữ chỉnh đốn mới lần lần xuất hiện và trở thành những lợi khí sắc bén cho suy luận. Và nhờ đó, mới đến lượt sự phát triển của văn minh Tây phương trên mọi lĩnh vực của đời sống, càng ngày càng mănh liệt và càng bao quát như chúng ta mục kích ngày nay.

 

Một ví dụ khác trong lịch sử, cũng chứng minh ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với sự phát triển suy luận và do đó, đối với sự phát triển văn minh. Ngôn ngữ của Trung Hoa vừa khó học, vừa không phải là một dụng cụ suy luận sắc bén. V́ vậy mà Hoa ngữ là một trở lực cho sự phổ biến các kiến thức và một trở lực cho sự phát triển tư tưởng. Văn minh của Trung Hoa mặc dù trong nhiều lĩnh vực đă đến cao độ, nhưng thiếu śnh lực phát quang, là v́ vấp phải trở lực ngôn ngữ. Và ngay trong thời đại này, khi Trung Hoa đang dốc hết sức nỗ lực của ḿnh để phát triển dân tộc, bằng cách Tây phương hoá, Hoa ngữ vẫn là một trở lực to tát. Nếu các nhà lănh đạo Trung Hoa không giải quyết được vấn đề ngôn ngữ, công cuộc Tây phương hoá đúng mức của Trung Hoa sẽ gặp nhiều khó khăn không vượt nổi.

 

Vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ

 

Trở lại vấn đề rèn luyện hai đức tính chính xác về lư trí và ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức, chúng ta thấy rằng hai lợi khí sắc bén là sự tổ chức đời sống hằng ngày và sự sử dụng một ngôn ngữ chỉnh đốn.

 

Việc tổ chức đời sống hằng ngày cho ngăn nắp, trật tự chúng ta có thể, một cách không khó khăn lắm, h́nh dung phải được làm như thế nào. Bởi v́ ngay trong truyền thống Á Đông của chúng ta, việc tổ chức đời sống hằng ngày cho ngăn nắp là một việc đă có. Ngày nay chỉ cần thích nghi hoá những tập quán đă có sẵn với nhu cầu đặt ra bởi một nhịp sống thúc dục hơn và một xă hội máy móc hơn.

 

Vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ phức tạp hơn nhiều.

 

Chúng ta quan niệm việc chinh đốn làm sao? Và làm thế nào để thực hiện sự chỉnh đốn?

 

Như chúng ta đă nói trên đây, giai đoạn đầu của công cuộc Tây phương hoá là giai đoạn nặng về sự hấp thụ các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương.

 

Sau đó mới đến giai đoạn chế ngự kỹ thuật Tây phương. Và trong giai đoạn này, một ngôn ngữ có khả năng của một dụng cụ suy luận tinh vi, mới thiết yếu hơn. Như vậy th́ việc chỉnh đốn Việt ngũ có thể xem là một việc không cấp bách chăng?

 

Chắc là không, bởi v́ một ngôn ngữ đă chỉnh đốn xem như là một dụng cụ suy luận tinh vi, có thể thiết yếu nhiều hơn trong giai đoạn thứ hai của công cuộc thâu thập kỹ thuật Tây phương. Nhưng điều mà chúng ta đ̣i hỏi nhiều nhất ở một ngôn ngữ chỉnh đốn là cái ảnh hưởng của nó đối với sự rèn luyện sự chính xác về lư trí. Như vậy th́ ngay trong lúc đầu của công cuộc Tây phương hoá, chúng ta phải đặt ngay vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ.

 

V́ sao phải chỉnh đốn Việt ngữ?

 

V́ Việt ngữ nghèo và không đủ chữ để diễn tả hết các tư tưởng khúc chiết và trừu tượng, như nhiều người đă nghĩ chăng?

 

Vấn đề Việt ngữ nghèo không thành vấn đề, bởi v́ nếu chúng ta thiếu chữ để diễn tả một ư mới th́ chúng ta đặt chữ mới. Chẳng những Việt ngữ mà bất cứ sinh ngữ nào cũng không sợ nghèo chữ. Trong phạm vi này, có lẽ việc cần được chú trọng là các quy củ để tạo chữ mới. Đă có nhiều loại sách Danh từ…, Từ điển… v.v. dùng nhiều chữ mới. Tuy nhiên, quy củ để tạo ra chữ mới mà sinh ngữ nào cũng có, th́ Việt ngữ chưa có.

 

Nhưng đây là phương pháp làm giàu thêm Việt ngữ chớ không phải việc chỉnh đốn Việt ngữ.

 

Sở dĩ vấn đề chỉnh đốn Việt ngữ cần phải đặt ra là v́ những lư do dưới đây: 

Các sinh ngữ thường chia làm hai loại. Từ ngữ trừu tượng và từ ngữ cụ thể. Các sinh ngữ trừu tượng thường dùng danh từ. Danh từ diễn tả một ư niệm trừu tượng. Các sinh ngữ cụ thể thường dùng động từ. Động từ diễn tả một tác động cụ thể. 

Ư niệm trừu tượng bao giờ cũng phong phú và bao quát hơn một tác động cụ thể. Ví dụ: Giữa động từ “phát triển” và danh từ “sự phát triển”, chúng ta phân biệt ngay tác động cụ thể “phát triển” giới hạn trong tác động “phát triển” và ư niệm trừu tượng “sự phát triển” bao gồm tất cả những sự kiện liên quan đến tác động “phát triển”. 

Theo định luật thông thường, văn hoá càng tiến bộ, ngôn ngữ của cộng đồng càng phong phú về những ư niệm trừu tượng. Và song song, ngôn ngữ cũng phải được trừu tượng hoá để diễn tả các ư niệm trừu tượng. Trừu tượng hoá ngôn ngữ bằng cách đặt ra nhiều danh từ, hoặc đặt quy củ để danh từ hoá các động từ hay tính từ. 

Trong Việt ngữ đă có lối danh từ hoá bằng cách sử dụng chữ “sự” trước động từ. Ví dụ, hô hấp, sự hô hấp. Nhưng lối này vẫn chưa thành quy củ và lối danh từ hoá này chưa được thông dụng.

 Như thế th́ lư do đầu tiên để chỉnh đốn Việt ngữ là phải trừu tượng hoá Việt ngữ, bằng cách đặt ra quy củ danh từ hoá. Và phổ biến sự dùng danh từ.

 

Lư do thứ hai là lư do sau đây. 

Việt ngữ trước kia cũng như Hoa ngữ, thuộc về loại sinh ngữ gọi là sinh ngữ biểu ư, nghĩa là ghi ư niệm, trái với loại sinh ngữ kư âm, nghĩa là ghi âm thanh. V́ đặc tính này mà Hoa ngữ và Việt ngữ khi xưa không phổ biến được. 

Ngày nay Việt ngữ đă thoát khỏi ṿng kềm toả đó nhờ phương pháp ghi âm bằng những mẫu tự Latinh. Nhờ đó Việt ngữ trở nên dễ học và dễ phổ biến. Khi Nguyễn Văn Vĩnh nói rằng: “Việt Nam sau này hay, hay dở là nhờ ở Quốc ngữ” là ông nghĩ đến sự Việt ngữ, nhờ phương pháp ghi âm, đă thoát khỏi trở lực mà chúng ta c̣n thấy cho Hoa ngữ. 

Nhưng trong lối hành văn, Việt ngữ c̣n chịu ảnh hưởng nặng nề của Hoa ngữ, nghĩa là của các sinh ngữ biểu ư. 

Lối hành văn của các sinh ngữ này đặc biệt ở tính cách “khiêu ư” và không chú trọng đến kiến trúc của câu văn. 

Lối hành văn “khiêu ư” có nhiều ưu điểm và nhiều khuyết điểm. 

Người đọc câu văn khiêu ư, nh́n thấy ngay những h́nh ảnh mà tác giả muốn diễn tả, không bị những giây ràng buộc của kiến trúc câu văn làm mất thông ứng giữa tác giả và độc giả. Văn “khiêu ư” chỉ cần nêu lên những h́nh ảnh, bằng nhũng chữ rời rạc, không cần phải liên lạc với nhau trong một kiến trúc nào. Người đọc câu văn “khiêu ư” tự ḿnh tưởng tượng lấy cách bố trí các h́nh ảnh. Sự thông tin giữa tác giả và độc giả vừa mau lẹ vừa đầy đủ. Trực giác làm việc nhiều hơn suy luận. 

Do các đặc điểm trên đây, câu văn “khiêu ư” rất thích hợp cho thi thơ. Cái tuyệt diệu của một câu Đường thi, như “Bồ đào mỹ tửu, dạ quang bôi”, hay cái thi vị của một câu Kiều như “Lơ thơ tơ liễu buông mành” là do đặc điểm trên đây của lối văn “khiêu ư” trong thi thơ. Cái tuyệt diệu đó mà say mê cho đến nỗi có nhiều thi hào Âu, Mỹ, chủ trương t́m cách làm sao cho lối văn kiến trúc của họ gội bỏ được những cái ràng buộc của kiến trúc, để mong đạt được cái tuyệt diệu của thơ Đường. Cố nhiên, họ không thành công, v́ lối văn kiến trúc của họ không làm sao gột bỏ được bản chất của nó. 

Và cũng v́ lư do trên mà thơ Đường, khi được dịch ra Âu ngữ, mất hết cái hay của nó.

Như vậy th́ về thi thơ, Việt ngữ là một dụng cụ rất là sắc bén. Nhưng được ưu điểm đó trong thi thơ, th́ ngược lại, lời văn “khiêu ư” mang rất nhiều khuyết điểm, khi được đem sử dụng như là một dụng cụ suy luận sở trường của lối văn kiến trúc. 

Như trên đă thấy, trong lối văn “khiêu ư” tác giả chỉ nêu lên những h́nh ảnh. Người đọc phải tự ḿnh sắp xếp lấy các h́nh ảnh theo óc tưởng tượng của ḿnh. Như vậy th́ mỗi người đọc có một lối bố trí khác nhau. Đó là cái khuyết điểm thiếu chính xác của lối văn “khiêu ư”. Làm sao có thể cùng nhau thảo luận được về một vấn đề ǵ, nếu cùng đọc một câu văn, mà mỗi người hiểu một cách khác nhau. Nếu muốn thảo luận được th́ sự bố trí các h́nh ảnh hay ư thức, nêu ra trong câu văn, không phải chỉ để cho óc tưởng tượng của người đọc, mà phải nằm ngay trong câu văn. Nghĩa là câu văn phải có kiến trúc, nghĩa là những chữ nêu lên những h́nh ảnh phải được nối liền với nhau bằng những chữ, tự nó, không có nghĩa và đương nhiên làm nặng câu văn. 

Nhưng sự chính xác về lư trí phải được trả bằng cái giá đó. Hoặc chúng ta, suốt đời thả hồn theo thơ mộng, hoặc chúng ta phải bắt buộc câu văn có kiến trúc để diễn tả tư tưởng một cách chính xác. 

Và lư do thứ hai để chỉnh đốn Việt ngữ là như vậy đó. Nếu chúng ta muốn rèn luyện được chính xác về lư trí th́ điều kiện cần phải thoả măn trước tiên là kiến trúc hoá câu văn Việt ngữ. 

Trên kia chúng ta có nói đến trường hợp nhiều thi hào Âu, Mỹ muốn “khiêu ư hoá” lối văn kiến trúc của họ, để diễn tả những ư thơ. Và họ đă thất bại. Vậy nếu chúng ta kiến trúc hoá câu văn “khiêu ư” của chúng ta, liệu chúng ta có thành công chăng? Sở dĩ các thi hào Âu Mỹ không thành công là v́ sinh lực của văn minh Âu Mỹ chính là lối văn kiến trúc của họ. Và ư muốn “khiêu ư hoá” câu văn chỉ là một xu hướng mới nhất thời trong một phạm vi nhỏ. 

Trái lại, đối với chúng ta, sự kiến trúc hoá câu văn là một điều tối quan trọng, liên quan đến sự mất c̣n của chúng ta, cho nên, chúng ta phải thực hiện cho kỳ được. Và nếu v́ sự kiến trúc hoá mà câu văn của chúng ta mất bản chất của nó đi nữa, chúng ta cũng phải làm; bởi v́ sự mất bản chất, ở đây không làm cho văn minh của chúng ta mất sinh lực, trái lại, chính là để t́m sinh lực cho văn minh của chúng ta, nên chúng ta mới nhất quyết thực hiện công cuộc Tây phương hoá, trong đó, việc kiến trúc hoá Việt ngữ là một yếu tố quyết định.

 

Làm thế nào để kiến trúc hoá Việt ngữ?

 

Ít lâu nay, có nhiều quyển sách về văn phạm Việt ngữ, trong đó cũng có sự phân tích câu văn Việt ngữ thành mệnh đề, và sự phân tích mỗi mệnh đề thành chủ từ, động từ và bổ sung từ, v.v. Cũng có sự phân biệt các loại từ ngữ. Như thế có phải là đă kiến trúc hoá Việt ngữ chăng? 

Chắc là không. Những quyển sách trên biểu hiện cho sự tự ti mặc cảm của tinh thần quốc gia. Nhiều người nhận thấy sự thiếu kiến trúc của câu văn Việt. Nhưng sau khi đă nhận thấy khuyết điểm đó, th́ thay v́ t́m cách kiến trúc hoá câu văn, lại t́m cách chứng minh rằng câu văn đă có kiến trúc. Để đạt mục đích đó, những người trên đă mang một dụng cụ phân tích của một câu văn kiến trúc, áp dụng cho một câu văn không kiến trúc, với hy vọng rằng, nếu đă làm được sự phân tích đó th́ đương nhiên đă chứng minh rằng câu văn có kiến trúc. 

V́ thái độ thiếu thực tế đó, cho nên chúng ta nhận thấy ngay, tất cả tính cách miễn cưỡng và giả tạo của các sự phân tích nói trên. Miễn cưỡng và giả tạo v́ những điều phân tích, thật sự ra, chưa có nằm trong câu văn được phân tích.

 

Việc kiến trúc hoá Việt ngữ phải được xét từ các căn bản sau đây:

 

1.- Câu văn có kiến trúc khi nào giữa các loại từ ngữ, có sự phân biệt về h́nh thức (thể loại), chớ không phải chỉ về vị trí (vị trí của từ ngữ trong câu văn). 

2.- Câu văn có kiến trúc khi nào các từ ngữ chính trong câu được nối liền với nhau, bằng những phụ từ, tự nó không có nghĩa, nhưng đóng một vai tṛ rất quan trọng. 

3.- Câu văn có kiến trúc khi nào một mệnh đề chính được nối liền với một hay nhiều mệnh đề phụ, bằng những phụ từ được đặt để ra với nhiệm vụ đó.

 

Như vậy th́ muốn kiến trúc hoá câu văn, chúng ta phải:

 

1.- Quy củ hoá sự phân biệt bằng h́nh thức các từ ngữ.

2.- Đặt các phụ từ cho những từ ngữ của mệnh đề.

3.- Đặt những phụ từ cho những mệnh đề. Và phổ thông hoá sự áp dụng kiến trúc câu văn.

 

Việt ngữ và Hoa ngữ

 

Trong một đoạn ở trên, so sánh hoàn cảnh phát triển của Trung Cộng và của Việt Nam, chúng ta đă chứng minh rằng, hoàn cảnh phát triển của Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, trong đó có nhiều điều kiện về ngôn ngữ.

 

Ngôn ngữ của một cộng đồng dân tộc, đương nhiên là dụng cụ của nền văn hoá của cộng đồng. Nhưng ngôn ngữ chỉ trở thành một dụng cụ sung măn của nền văn hoá khi nào ngôn ngữ gồm được hai đức tính: dễ học để trở thành một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại chúng; và chính xác để trở thành một dụng cụ suy luận tinh vi và sắc bén.

 

Hoa ngữ là một loại sinh ngữ biểu ư, mỗi một chữ ghi một ư niệm. V́ thế cho nên, một người Tàu muốn sử dụng được Hoa ngữ một cách trung b́nh phải nằm ḷng một số tối thiểu là từ ba ngàn đến bốn ngàn chữ. Sự cố gắng về lư trí vượt mức thông thường đó, đă tạo ra sự tôn sùng nhà nho, trong xă hội Trung Hoa và trong xă hội Việt Nam khi xưa. Hoa ngữ hoàn toàn bất lực khi phải đóng vai tṛ dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng cho văn hoá. Cũng v́ trở lực tạo ra bởi một sinh ngữ biểu ư, mà văn minh Tàu khi xưa, mặc dầu lên đến cao độ, vẫn không có sinh lực bành trướng như văn minh Tây phương ngày nay.

 

Lối hành văn của Hoa ngữ là lối hành văn “khiêu ư” cho nên câu văn không có kiến trúc. Mà câu văn không có kiến trúc là một câu văn không có chính xác. Và một sinh ngữ không chính xác không thể trở thành một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi được. V́ không có dụng cụ ngôn ngữ suy luận sắc bén và tinh vi để sử dụng trong công cuộc thám cứu vũ trụ vật chất và vũ trụ tâm linh, nên người Trung Hoa xưa đă thay thế suy luận bằng trực giác. Chúng ta đă xem qua trong một đoạn trên, ưu và khuyết điểm của trực giác. Tuy nhiên, có một sự kiện thiết thực không thể phủ nhận được là trong các nền văn minh cổ, chỉ có nền văn minh Trung Hoa là rất yếu kém về toán học và rất nghèo nàn về triết lư. Nguyên do là Hoa ngữ, với lối văn khiêu ư, hoàn toàn bất lực khi đóng vai tṛ dụng cụ suy luận tinh vi và sắc bén.

 

Và chính ngày nay, mặc dầu Trung Hoa đang áp dụng những biện pháp huy động độc tài Đảng trị Cộng Sản cực kỳ tàn nhẫn, để dốc hết nỗ lực của tám trăm triệu dân vào công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hoá, chúng ta cũng có thể đoán biết rằng, công cuộc phát triển của Tàu, nếu có vượt được những trở lực vật chất và chính trị to tát, mà chúng ta đă biết, sẽ không vượt được một giới hạn ấn định bởi ảnh hưởng ḱm hăm của một ngôn ngữ, không thể là một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại chúng, và một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi.

 

Việt ngữ xưa kia dùng chữ Hán và chữ Nôm hoàn toàn lệ thuộc Hoa ngữ, nên đă có một thời kỳ cũng bất lực trong vai tṛ dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng. Chỉ xét qua di sản văn hoá, vừa nghèo nàn vừa giới hạn của chúng ta, chúng ta càng ư thức được hậu quả tai hại của sự lệ thuộc và sự bất lực đó trong một ngàn năm. Nhưng từ ngày Việt ngữ được ghi âm bằng mẫu tự La Mă th́ đă được giải thoát khỏi sự bất lực trên. Một sự kiện rất cụ thể tiêu biểu cho sự giải thoát này là, trong tất cả các sinh ngữ trong xă hội Đông Á ngày nay, Việt ngữ là sinh ngữ duy nhất, có thể dùng máy đánh chữ mà viết ra được. Sự kiện trên lại làm bộc lộ tầm xoay trở rộng răi của lối ghi âm, sánh với lối biểu ư.

 

Sự ghi âm Việt ngữ bằng mẫu tự La Mă thay thế cho chữ Nôm và chữ Hán, là một ví dụ thành công của công cuộc Tây phương hoá của chúng ta, trong một phạm vi nhỏ, nhưng quan trọng và quyết định, phạm vi ngôn ngữ. Sự thành công này, đương nhiên gieo cho chúng ta một sự tin tưởng mănh liệt vào những thành công phong phú hơn nữa, trong những phạm vi rộng lớn của công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta đang theo đuổi.

 

Riêng sự ghi âm Việt ngữ bằng mẫu tự La Mă đă là, như chúng ta vừa thấy, một ưu thế không phủ nhận được của Việt ngữ đối với Hoa ngữ, trên nhiều phương diện. Nhưng sự ghi âm, bằng mẫu tự La Mă c̣n mở cửa cho Việt ngữ một sự phát triển khác mà hậu quả sẽ có một tầm quan trọng bội phần hơn. Sự ghi âm Việt ngữ bằng mẫu tự La Mă, sẽ cho phép chúng ta kiến trúc câu văn như chúng ta đă thấy trong một đoạn trên. Và câu văn, một khi đă được kiến trúc hoá, Việt ngữ đương nhiên sẽ trở thành một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi.

 

Lúc bấy giờ Việt ngữ vừa là một dụng cụ phổ biến thông dụng và đại chúng, vừa là một dụng cụ suy luận sắc bén và tinh vi, sẽ là một dụng cụ hữu hiệu cho nền văn hoá Việt Nam. Sánh với Hoa ngữ, ưu thế lại càng rơ rệt hơn nữa.

 

Lúc bấy giờ, chẳng những văn hoá Việt Nam hoàn toàn không c̣n lệ thuộc văn hoá Tàu, mà sự phát triển văn hoá của chúng ta sẽ lên đến một tŕnh độ ước mong, khả dĩ góp một phần đáng kể vào di sản của văn minh nhân loại, nhờ sinh lực dồi dào mà một dụng cụ ngôn ngữ hữu hiệu sẽ tạo ra cho văn hoá chúng ta.

 

Triển vọng về ngôn ngữ, dụng cụ văn hoá đă như vậy, thế hệ của chúng ta không có một lư do nào để không vận dụng tất cả nỗ lực, nắm lấy cơ hội đưa đến cho chúng ta để thực hiện trong lĩnh vực văn hoá, ư chí của tiền nhân: cởi bỏ ách tâm lư thuộc quốc đối với nước Tàu, cho dân tộc. Và thế hệ của chúng ta, không có một lư do nào, để từ bỏ sự phát triển văn hoá dồi dào mà chắc chắn Việt ngữ chỉnh đốn sẽ dành cho chúng ta, để cam chịu một sự lệ thuộc, đối với một văn hoá, mà Hoa ngữ không bảo đảm sự phát triển. Và các nhà lănh đạo, v́ vô t́nh hay cố ư, làm cho cộng đồng quốc gia của chúng ta lỡ cơ hội này, chẳng những sẽ phản bội quyền lợi dân tộc mà c̣n phải mang hết trách nhiệm của một cuộc sống lệ thuộc, không vùng vẫy nổi, mà các thế hệ trong tương lai, v́ lầm lỗi của họ, sẽ phải quy phục trong nhiều ngàn năm nữa.

 

Chúng ta đă chứng minh trong một đoạn trên rằng, sự quy phục thuyết Cộng Sản của một số nhà lănh đạo của chúng ta, đă làm cho công cuộc tranh đấu giành độc lập trở nên vô cùng tiêu hao sinh lực của dân tộc. Tuy nhiên, những sự hy sinh cao cả của các phần tử của cộng đồng không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được tính kiêu hùng của dân tộc trong các cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù.

 

Trong một đoạn khác, chúng ta đă phân tích rằng, v́ bị sự chi phối của tâm lư thuộc quốc, đối với nước Tàu trong hơn tám trăm năm, đè nặng trên đời sống của dân tộc, nên một số nhà lănh đạo đă cố tṛng vào thân thể Việt Nam, cái áo Tam Dân Chủ Nghĩa, mà Tôn Văn đă gắng công nghiên cứu may cắt cho dân tộc của ông. Tuy nhiên, những thành tích chiến đấu giải thoát dân tộc của các nhà cách mạng quốc gia, không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được những trang vẻ vang, mà họ đă nhân danh Tam Dân Chủ Nghĩa, viết bằng xương máu trong lịch sử dân tộc.

 

Chúng ta lại vừa tŕnh bày rằng, thế hệ của chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để nắm lấy cơ hội đưa văn hoá chúng ta thoát khỏi sự chi phối của văn hoá Tàu, và nhân đó tiêu diệt yếu tố quan trọng nhất trong hai yếu tố, đă trong hơn một ngàn năm, bồi đắp cho tâm lư thuộc quốc của chúng ta, đối với Trung Hoa. Tuy nhiên, di sản văn hoá của dân tộc thoát thai từ nền văn minh chung của xă hội Đông Á, không bao giờ phủ nhận được, cũng như không phủ nhận được những kiến thức uyên thâm và những mẫu người thoát thường, mà nhiều cá nhân Việt Nam đă đạt đến được, nhờ một sự trụ đúng mức vào các tiêu chuẩn giá trị của nền văn minh Tàu.

 

Trong ba trường hợp trên, thái độ của chúng ta là thái độ của một nhà bác học về quang học, khi nhận thấy rằng, thuyết ánh sáng phát quang theo đường thẳng không c̣n giải thích được nhiều hiện tượng quang học, và cần phải được thay tế bằng một thuyết khác. Nhưng không phải v́ vậy mà phủ nhận tất cả các định luật về quang học, đă được phát minh khi nhà bác học đă trụ vào thuyết ánh sáng phát quang theo đường thẳng, bởi v́ những định luật này đă thuộc vào di sản phát minh của ngành quang học.

 

Tính khí

 

Một khi đă sử dụng được những dụng cụ để rèn luyện những đức tính làm căn bản cho kỹ thuật của Tây phương, sự chế ngự được kỹ thuật của họ thành công hay thất bại tuỳ thuộc rất nhiều ở một đức tính khác: Tính khí. 

Trong một đoạn trước đây, liên quan đến việc kê khai cái vốn sẵn có của chúng ta, trước khi bắt tay vào công cuộc Tây phương hoá, chúng ta đă nhận thấy rằng tính khí của cá nhân thiết yếu cho cộng đồng hơn cả thông minh của trí óc. 

Các dân tộc đă thành công trong mọi sự nghiệp đều là những dân tộc có tính khí rất cao. Và giữa hai dân tộc, cùng một hoàn cảnh, một cái vốn cùng đứng trước một thử thách và cùng áp dụng một giải pháp th́ dân tộc nào có tính khí cao hơn, sẽ thắng lợi nhiều hơn. Một ví dụ mà chúng ta đă nêu lên là hai dân tộc Anh và Pháp. 

Cũng như đối với nhiều đức tính khác cao quư của con người, định nghĩa chi tiết tính khí là một việc không dễ. Bởi v́ tính khí thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Và tính khí thể hiện một cách mạnh bạo nhất không phải chỉ ở trong những cơn khủng hoảng kích thích đến tột độ các khả năng của cá nhân. Trong những cơn khủng hoảng tương tự, ví dụ, đứng trước một nguy cơ trầm trọng, con người có thể trong một thời gian ngắn tập trung đến mức tối đa tất cả năng lực lúc b́nh thường tản mác các nơi. Và nhân thế có thể có những hành động phi thường, khắc phục trở lực bên ngoài đưa đến. 

Nhưng không phải những lúc đó là những lúc tính khí đương đầu với những thử thách gian nguy nhất. Ngược lại những lúc b́nh thường của đời sống, mới vừa có năng lực tiêu hao tính khí, vừa rèn luyện tính khí. Đời sống thường ngày mới là chiến trường, thử thách trường kỳ đối với tính khí. Và cũng chính đời sống thường ngày mới là phạm vi phát triển của tính khí.

Tính khí có điều kiện phát triển, ở một cá nhân hay trong một cộng đồng, khi nào cá nhân hay cộng đồng tin tưởng một cách vũng chắc vào một số tiêu chuẩn giá trị làm nền tảng cho đời sống cộng đồng. Bất cứ trong một xă hội nào, nếu các tiêu chuẩn giá trị c̣n giữ nguyên vẹn uy tín, th́ tính khí đương nhiên sẽ nảy nở ra những hoa quả vô cùng tốt đẹp. V́ vậy cho nên, những điều kiện có khả năng bảo vệ các tiêu chuẩn giá trị, cũng có khả năng phát huy tính khí. Chúng ta đă thấy, ở một đoạn trên, rằng một trong các điều kiện nói đây là sự liên tục trong vấn đề lănh đạo cộng đồng.

 

Xă hội của Việt Nam trước đây theo Nho giáo, toàn thể cộng đồng đều tin, một cách mănh liệt vào các tiêu chuẩn giá trị của Khổng Mạnh. Nhờ đó xă hội chúng ta đă sản xuất được rất nhiều gương tính khí hùng mạnh. Cái tiết tháo của nhà Nho xưa ta là một hiện tượng của tính khí.

 

Nhưng cùng với sự sụp đổ về quân sự của quốc gia, nước chúng ta bị đô hộ, xă hội chúng ta tan ră v́ các tiêu chuẩn giá trị cũ bị văn minh Tây phương đả phá đến tột độ. Đồng thời với sự mất uy tín của các tiêu chuẩn giá trị cũ, tính khí của dân tộc chúng ta suy đồi. Xă hội càng tan ră, tính khí càng mất. Và tính khí càng mất, xă hội càng tan ră hơn.

 

Như vậy th́ công cuộc đào luyện tính khí cho cộng đồng phải bắt đầu bằng sự nêu lên các tiêu chuẩn giá trị làm nền tảng cho đời sống của cộng đồng.

 

Tiêu chuẩn giá trị

 

Trong hiện t́nh của văn minh nhân loại, có nhiều tiêu chuẩn giá trị đă trở thành những di sản bất di bất dịch của loài người. 

Ví dụ tiêu chuẩn giá trị nằm trong câu: “Quân tử dĩ tự cường bất tức” là một tiêu chuẩn giá trị đă trở thành di sản của nhân loại. 

Tổ chức gia đ́nh là một tiêu chuẩn giá trị khác mà nhân loại đă thâu thập được sau nhiều năm t́m kiếm.

Cộng đồng nhân loại là một tiêu chuẩn giá trị đang h́nh thành. 

Lẽ đương nhiên các tiêu chuẩn giá trị thuộc loại trên, sẽ là những tiêu chuẩn giá trị mà xă hội chúng ta sẽ tin tưởng.

Có nhiều tiêu chuẩn giá trị khác mặc dù chưa lên hàng những tiêu chuẩn giá trị mà tất cả nhân loại đều tin tưởng, chúng ta cũng chia sẻ sự tin tưởng vào các tiêu chuẩn giá trị đó với nhiều cộng đồng dân tộc khác.

 

Ví dụ tiêu chuẩn giá trị cộng đồng dân tộc, tiêu chuẩn giá trị tự do con người. “Lư do của cuộc sống là một lư do cá nhân, điều kiện của cuộc sống là một điều kiện cộng đồng” cũng là một tiêu chuẩn giá trị mà chúng ta chia xẻ với nhiêu cộng đồng khác trên thế giới.

 

Lănh đạo là tạo một trạng thái thăng bằng động tiến giữa cá nhân và cộng đồng” là một tiêu chuẩn giá trị khác.

 

Nhiều tiêu chuẩn giá trị tương tự, hoặc đă nằm trong các phần được tŕnh bày trong các trang trên đây, hoặc là những kết luận đương nhiên của các suy luận, cũng là những tiêu chuẩn giá trị mà chúng ta tin thưởng. Ví dụ: công b́nh xă hội.

 

Ngoài ra v́ công cuộc Tây phương hoá mà dân tộc theo đuổi để sinh tồn, chúng ta sẽ tin tưởng vào những tiêu chuẩn giá trị của kỹ thuật Tây phương.

 

Chúng ta sẽ tin tưởng ở sự tiến bộ không ngừng của kỹ thuật Tây phương. Chúng ta sẽ tin tưởng ở các đặc tính chính xác về lư trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.

 

Lại có tiêu chuẩn giá trị là di sản của truyền thống văn minh Á Đông. Chúng ta tin rằng sự phát triển vật chất phải được thực hiện đồng thời với sự phát triển tâm linh.

 

Thực luyện tính khí

 

Tiêu chuẩn giá trị đă có rồi, tính khí sẽ có cơ hội nảy nở. Tuy nhiên sự nảy nở của tính khí vẫn c̣n tuỳ thuộc hai điều kiện. 

Trước hết các phần tử của cộng đồng phải tin tưởng vào các tiêu chuẩn giá trị đă được chấp nhận. Đó là nhiệm vụ của tổ chức giáo dục chính danh và tổ chức giáo dục quần chúng. 

Điều kiện thứ hai là có những phương pháp vật chất, hoặc cá nhân, hoặc tập thể, để luyện tính khí. Mục đích trực tiếp của các phương pháp trên là huấn luyện cho mỗi cá nhân tập quán chế ngự cơ thể và tư tưởng của ḿnh. Sự huấn luyện lúc nào cũng bắt đầu với những phương pháp chế ngự cơ thể, bởi v́ hành động đối với vật chất cụ thể dễ hơn hành động dối với tư tưởng trừu tượng. Trong những phương pháp này, th́ cho đến ngày nay, các môn thể thao có hướng dẫn đă tỏ ra có hiệu quả nhất. Các môn thể thao tập cho ư chí chủ động các bắp thịt và các phản ứng của cơ thể. Ư chí đă chủ động được cơ thể th́ lần lần đạt được lên tŕnh độ chủ động được tư tưởng. Các môn thể thao tập thể c̣n được khả năng huấn luyện ư thức cộng đồng và trang bị cá nhân với những phản ứng cần thiết cho một đời sống cộng đồng. Chính trong các môn thể thao tập thể thể hiện ra một cách cụ thể, dễ nh́n hơn hết, ư nghĩa của mệnh đề “Lư do của đời sống là cá nhân, điều kiện của đời sống là cộng đồng.”

 

Một bằng chứng cho tính cách hữu hiệu của thể thao trong sự thực hiện tính khí, là các dân tộc yêu chuộng đến cao độ các môn thể thao đều là những dân tộc có nhiều tính khí. Nhiều môn thể thao cũng là những phương pháp để tập trung tư tưởng trong đó có các môn vơ.

 

Vượt lên các phương pháp thể thao đó có những phương pháp vật chất khác, cũng giúp cho cá nhân chế ngự được cơ thể và dần dần lên đến tŕnh độ chế ngự được tư tưởng. Phép yoga của Ấn Độ, phép Thiền Định của Phật và Lăo Tử, phép tu dưỡng tinh thần của đạo Hồi và đạo Gia Tô, đều nhằm mục đích chế ngự cơ thể để lần lần lên đến mức chế ngự tự tưởng. Các phép sau này kiến hiệu hơn phương pháp thể thao nói trên rất nhiều, và chóng đưa con người đến chỗ tự chủ với một tŕnh độ rất cao. Tuy nhiên các phương pháp này đều không có tính cách tập thể như những phương pháp thể thao. Mỗi cá nhân dưới sự hướng dẫn của một người được ḿnh tôn kính làm Thầy, cố gắng tập trung tư tưởng vào một đối tượng để t́m cách chế ngự bản thân. Các phép luyện thần này đều dựa trên căn bản khổ hạnh.

 

Tất cả các phép luyện thần và phương pháp thể thao đều dựa trên căn bản huấn luyện cơ thể và trí óc làm việc cho đến hết khả năng và cho có quy củ. V́ vậy cho nên hai cách luyện tính khí trên không có đối chọi nhau, mà ngược lại bổ sung cho nhau.

 

Giáo dục quần chúng

 

Chúng ta đă thấy rằng, ngay trong những thời kỳ b́nh thường của cộng đồng, nhu cầu của sự lănh đạo cộng đồng cũng đă đặt thành một vấn đề rất quan trọng, sự đa số chịu lănh đạo hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Đă như thế th́, ngay trong những thời kỳ b́nh thường của cộng đồng, việc giáo dục quần chúng đă là một vấn đề trọng hệ. 

Tuy nhiên, trong những thời kỳ b́nh thường như vậy, chúng ta đă biết sự mâu thuẫn đương nhiên giữa quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của cộng đồng, không lên mức độ căng thẳng có thể là một mối đe doạ cho sự tồn tại của cộng đồng. Do đó, sự giáo dục quần chúng mặc dầu rất cần cho sự thực hiện trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cộng đồng và quyền lợi cá nhân, vẫn không khẩn thiết như ở những thời kỳ mà cộng đồng phải qua các cơn khủng hoảng. 

Ngày nay cộng đồng dân tộc Việt Nam đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng vô cùng trầm trọng. Trong lịch sử của chúng ta, dân tộc Việt Nam đă trải qua nhiều thời kỳ khủng hoảng rất là ác liệt, các cuộc ngoại xâm, các cuộc nội chiến tàn sát, chúng ta đều có trải qua. Nhưng cuộc khủng hoảng lần này nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Nó đă bắt đầu từ hơn một thế kỷ nay và cho đến ngày giờ này chúng ta vẫn chưa giải quyết được. Chỉ riêng sự kiện thời gian đó, cũng là một yếu tố đủ để chứng minh tính cách vô cùng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng. 

Trong các cuộc khủng hoảng trước đây, cộng đồng của chúng ta bị những sức mạnh vật chất tàn phá kinh khủng làm chấn động. Tuy nhiên, những sức mạnh đó, mặc dầu đă gây cho cộng đồng dân tộc của chúng ta những vết thương mà ảnh hưởng đă kéo dài trong nhiều thế hệ, vẫn không đủ mănh lực để động đến những tiêu chuẩn giá trị làm căn bản cho đời sống của cộng đồng. Nhờ đó mà, sau khi cơn băo tố đă qua, cộng đồng của chúng ta vẫn tiếp tục được cuộc tiến hoá trên những căn bản cổ truyền vững chắc. 

Trái lại, trong cuộc khủng hoảng này, ngoài những lực lượng vật chất tàn phá không kém ǵ những lần trước, thêm vào những lực lượng tinh thần ghê gớm hơn mười lần, đă tấn công và đánh phá đến tận gốc rễ tất cả các tiêu chuẩn giá trị của xă hội Việt Nam. Chính v́ lư do sau này mà cuộc khủng hoảng đă kéo dài đến từ hơn một thế kỷ nay. Sau khi những cuộc sóng gió do những lực lượng vật chất gây ra, đă qua rồi, cộng đồng dân tộc của chúng ta vẫn chưa t́m lại được trạng thái thăng bằng thiết yếu cho sự tồn tại và sự tiến hoá của cộng đồng: bởi v́ các tiêu chuẩn giá trị căn bản đă bị mất mà những tiêu chuẩn giá trị mới chưa được thâu nhận. 

Xem thế chúng ta ư thức ngay lư do và mức độ trầm trọng của thời kỳ khủng hoảng này của cộng đồng. Cho đến khi nào chúng ta lập lại được các tiêu chuẩn giá trị, lúc bấy giờ cơn khủng hoảng mới hết. 

Đă như thế th́, sự đa số chịu lănh đạo phải hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, không lúc nào, trong lịch sử của chúng ta, lại thiết yếu như lúc này và v́ vậy cho nên vấn đề giáo dục quần chúng không lúc nào mà cần phải được đặt ra và thực hiện như trong lúc này.

 

Thực hiện giáo dục quần chúng

 

Kỹ thuật khoa học ngày nay đă cung cấp cho chúng ta những phương tiện giáo dục quần chúng hữu hiệu và mănh liệt. Theo thứ tự thời gian phát minh, chúng ta có thể kể: sách báo, phim ảnh, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền h́nh...  

Tất cả đều là những dụng cụ sắc bén trong vấn đề giáo dục quần chúng. Tuy nhiên, một sự giáo dục quần chúng có quy củ, mặc dầu đương nhiên áp dụng những dụng cụ nói trên, phải lấy sự tổ chức quần chúng làm một điều kiện tiên quyết. 

Tổ chức quần chúng phải được quan niệm như thế nào, phải được thực hiện ra sao, chúng ta đă phân tích với nhiều chi tiết trong đoạn trên đây nói về bộ máy quần chúng.

 

(c̣n tiếp)

Tùng Phong Lê Văn Đồng

 

 

 

 

 

* Trang Chủ

* Kim Âu

* Báo Chí

* Quảng Cáo

* Tác Giả

* Mục Lục

* Pháp Lư

* Cộng Đồng Georgia

* Một Trang Lịch Sử /details

* Một Trang Lịch Sử /djvu.txt

* Một Trang Lịch Sử /org/3

* Một Trang Lịch Sử/pdf

* Biệt kích trong gịng lịch sử

* Hồi Chuông Báo Tử

* Mapquest

* Thời Thế

* Tháng 07-2008

* Tháng 08-2008

* Tháng 09-2008

* Tháng 10-2008

* Tháng 10.2008

* Tháng 11-2008

* Tháng 12-2008

* Tháng 01-2009

* Tháng 02-2009

* Tháng 03-2009

* Tháng 04-2009

* Tháng 05-2009

* Tháng 06-2009

* Tháng 07-2009

* Tháng 08-2009

* Tháng 09-2009

* Tháng 10-2009

* Tháng 11-2009

* Tháng 12-2009

* Tháng 01-2010

* Tội Ác của nhóm PG Ấn Quang

* Vụ Đài Việt Nam Hải Ngoại

* Vấn đề Cựu Tù CT

* Về Tác Phẩm Vô Đề

* Hồng Y Và Lá Cờ

* Giấc Mơ Lănh Tụ

* Biến Động Miền Trung

* Con Đường Đạo

* Gian Đảng Phở Ḅ

* Băng Đảng Việt Tân

* Gian đảng bịp bợm

* Mộng Bá Vương

* Phía Nam Hoành Sơn

* Vô đề - Khuyết danh

* Lưu Trữ

* Nguyễn Mạnh Trinh

* Phùng Ngọc Sa

* Nguyễn văn Chức

* Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

* Hoàng Đạo Thế Kiệt

* Dương Như Nguyện

* Đinh Thạch Bích

* Hoàng Hải Thủy

* Đỗ Hoàng Gia

* Trúc Đông Quân

* Nguyễn Mạnh Quang

* Đào Vũ Anh Hùng

* Đỗ Văn Phúc

* Đinh Lâm Thanh

* Nam Nhân

* Nguyễn Đạt Thịnh

* Phạm Thanh Phương

* Thuư Đặng (BN 587)

* Trương Minh Ḥa

* Tân Dân

* Trần Thanh

* VietEdit

* ChinhNghia Forum

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     Trang Chủ . Kim Âu . Video . Lưu Trữ . Báo Chí . BBC . RFI . RFA . Tác Phẩm . Kỹ thuật . Dịch Thuật . Tự Điển . Groups . Portal . Forum .Tinh Hoa . Da Lat . Thư Quán . ChinhNghia Media . Liên lạc

 

Một Trang Lịch Sử (tài liệu US Senate)