* Kim Âu -Chính Nghĩa -Tinh Hoa -Bài Vở Kim Âu

* Chính Nghĩa Media -Vietnamese Commandos 

* Biệt kích  -StateNation -Lưu Trữ. -Video/TV

* Dictionaries -Tác Giả -Tác Phẩm -Báo Chí

* Khảo  Cứu -Dịch Thuật -Tự Điển -Tham Khảo

* Thời Thế -Văn Học -Mục Lục -Pháp Lý

* FOXSport -Archives -ĐKN -Lottery

* Constitution -Làm Sao -Tìm IP -Computer

 

ĐẶC BIỆT

  1. Served  In A Noble Cause

  2. Hào Kiệt For Rent

  3. Trò Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

  4. Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

  5. Văn Kiện Về Quyền Con Người

  6. Liberal World Order

  7. The Heritage Constitution

  8. The Invisible Government Dan Moot

  9. The Invisible Government David Wise

  10. Montreal Protocol Hand Book

  11. Death Of A Generation

  12. Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư

  13. Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  14. Phân Định Chính Tà

  15. Giáo Hội La  Mã:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

  16. Secret Army Secret War - CIA Giải mật

  17. Mật Ước Thành Đô: Trò Bịa Đặt

  18. Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

  19. Lãnh Hải Việt Nam ở Biển Đông

  20. Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

  21. Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

  22. Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

  23. Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

  24. Trò Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

  25. Hài Kịch Nhân Quyền

  26. CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

  27. Tội Ác PG Ấn Quang

  28. Âm mưu của Ấn Quang

  29. Vụ Đài VN Hải Ngoại

  30. Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

  31. Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

  32. Lịch Sử CTNCT

  33. Tượng Đài: Lưu Xú - Lưu Manh

  34. Về Tác Phẩm Vô Ðề

  35. Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh

  36. Bút Ký Tôi Phải Sống

  37. Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

  38. Đặc Công Đỏ Việt Thường

  39. Kháng Chiến Phở Bò

  40. Băng Ðảng Việt Tân

  41. Mặt Trợn Việt Tân

  42. Tù Binh và Hòa Bình

  43. Nước Mắt Trước Cơn Mưa

  44. 55 Ngày Chế Độ Sài Gòn Sụp Đổ

  45. Drug Smuggling in Vietnam War

  46. The Fall of South Vietnam

  47. Giờ Thứ 25

  48. Economic assistant to South VN 1954- 1975

  49. RAND History of Vietnam War era

  50. Chiến Sĩ Vô Danh 

 

 

LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

-09/2018 -10/2018 -11/2018 -12/2018 -01/2019 -02/2019

-03/3019 -04/2019 -05/2019 -06/2019 -07/2019 -08/2019

 

THAM KHẢO

Dec/2018. Jan/2019. Feb/2019. Mar/2019. Apr/2019

May/2019. Jun/2019. Jul/2019. Aug/2019

 

Beginner's Guide Web Design

Responsive Web Design

Professional Web Design

Learning Web Design 4

A List Apart Responsive Web Design

Responsive Web Design Ethan

The Book of CSS3

Mastering Resposive Web Design HTML 5

HTML Tutorial

HTML5 CSS3 Responsive Cookbook

Principle of Web Design

Real Life Responsive Wed Design

Learning Responsive Web Design

Learn HTML and CCS

Pro HTML 5 Accessi

Thiết Kế Web


http://www.expression-web-tutorials.com/

https://www.w3schools.com/howto/howto

_css_social_media_buttons.asp

https://archive.org/details/pdfy-Skb-ch_k7psDm90Q

https://www.codecademy.com/en/forum_

questions/532619b28c1ccc0cac002730

https://www.w3schools.com/html/html_responsive.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://www.w3schools.com/css/css_rwd_intro.asp

https://archive.org/details/pdfy-Cj2ZiIXHRr7NZ6Ro

https://archive.org/details/responsivewebdesign

https://speckyboy.com/free-web-design-ebooks/

Computer Page

 

https://vimeo.com/

http://www.imdb.com/

https://www.crackle.com/

https://www.popcornflix.com/pages/movies/d/movies

https://archive.org/details/feature_films

https://capitalhill.org/2019/03/10/cnns-fake-news-story-hit-with-massive-lawsuit/

 

 

Kim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAP NewsWhite HouseLearningTrang Chủ Tác PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaCongressHouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFA NewsRFISBSTác  GỉaYouTubeFederal RegisterUS Library

 

THÁNG 9-2019

 

UPI - REUTERS - APVI - THẾ GIỚI - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - TỬ VI - VTV - HTV

PLUTO - INTERNET - SONY - FOXSPORT  NBCSPORT  ESPNSPORT - EPOCH

   

Từ trái qua phải: Bùi AnhTrinh, Nguyễn Đình Chiến, Chu Di Tuyển, Kim Âu Hà Văn Sơn, Trương Văn Hùng

 

 

trinh bui <trinhbui49@yahoo.com>

15:10, Th 7, 31 thg 8 (20 giờ trước)

tới tôi

 

Bạn hiền thân mến.

Tao rất vui vì thấy mày hiểu tao rất dễ dàng, nghĩa là chúng mình vẫn còn là tri kỷ như thời còn đi học.  Thuở đó tụi mình đều được hun đúc trong một cái lò văn hóa của đất trời Đà Lạt, cùng được học chung thầy cô, cho nên chuyện mày hiểu tao cũng như tao hiểu mày là điều có thể lý giải được.

Vừa qua tao đã gởi đến cho mày đọc 2 bài viết mà tao nhận xét và minh oan cho hảo hớn Bảy Viễn cũng như 1 bài minh oan cho hảo hớn Nguyễn Ngọc Loan.  Sở dĩ tao tặng mày 3 bài đó là để cho mày biết tao nhìn con người không bao giờ sai trật.  Và riêng đối với hảo hớn Hà Văn Sơn thì cho tới nay tao vẫn nhìn không sai. 

Không phải tao minh oan cho 2 hảo hớn Bảy Viễn và Nguyễn Ngọc Loan không mà thôi, còn có rất nhiều nhân vật lịch sử của VNCH đã được tao minh oan. Nếu mày không chán thì tao sẽ lần lượt gởi tặng mày và mày nên tặng lại cho con cháu Việt Nam Cọng Hòa để chúng nó biết rõ hơn những uẩn khúc của lịch sử mà đã bị các thế lực chính trị làm biến dạng.

Bây giờ tao gởi tới cho mày một tài liệu ngón nghề của tao, đó là biên khảo về quân sử.  Tao gởi đến mày tập tại liệu “BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP”.  Hiện nay chỉ có tao mới đủ trình độ để lật mặt thật của nhân vật huyền thoại này. http://quanvan.net/bui-anh-trinh-bien-khao-ve-vo-nguyen-giap/

Đây là tập tài liệu quân sử đầu tay của tao, tao viết rất dễ dàng mà chẳng cần tham khảo nhiều tài liệu, tao chỉ cần căn cứ vào 4 quyển hồi ký của ông ta.  Tất cả những gì tao cần biết về sự thật của ông ta đều được ông ta vô tư huênh hoang trên giấy trắng mực đen, cho nên không thể chạy chối đi đâu được.

BÙI ANH TRINH

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP,

 

 

(35) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, SAI LẦM CỦA TƯỚNG NAVARRE

Sai lầm chiến lược của Tướng Navarre

 Điện văn của Mao Trạch Đông khuyến cáo Võ Nguyên Giáp phải chú ý bảo vệ tuyến vận chuyển từ Lạng Sơn đến Điện Biên Phủ chứng tỏ 60.000 quân của Võ Nguyên Giáp và 100.000 dân công được tiếp tế nuôi ăn bằng xe tải.  Thế mà bộ chỉ huy quân sự của Tướng Congy tại Hà Nội không nghĩ ra, mặc dầu các sĩ quan tại Bộ Tư lệnh quân đội Pháp ở  Sài Gòn không tin rằng CSVN có thể tiếp vận bằng cách khiêng vác.

Một đoạn hồi ký của Tướng Giáp cho thấy :  “Mỗi sáng, đã trở thành thói quen, khi mới ngủ dậy, tôi nhìn ngay vào tấm biểu đồ hậu cần treo trên vách liếp bên cạnh bản đồ chiến sự.  Cán bộ tham mưu đã ghi số gạo nhập kho đêm trước bằng một gạch đỏ.  Một buổi sớm, tôi bổng nhìn thấy một đường gạch đỏ dốc gần như thẳng đứng.  Đêm hôm trước gạo nhập kho không đầy 1 tấn!” (trang 324).

Số lượng gạo nhập kho 1 tấn trong 1 ngày cũng đủ làm cho Tướng Giáp hoảng hốt; thì suốt chiến dịch 5 tháng trời quân đội CSVN đã vận chuyển biết bao nhiêu tấn gạo mỗi ngày qua tuyến đường 600 cây số.  Vậy mà quân đội Pháp không chận được lấy 1 ngày hay chận được 1 xe tải.

Lẽ ra Navarre phải bắt các sĩ quan tham mưu của mình tính xem 1 người dân công đi từ Hòa Bình lên Điện Biên Phủ là bao nhiêu ngày đường với lượng hàng khiêng vác tối đa trên vai. Và họ cần bao nhiêu gạo ăn cho chính họ trong suốt chặng đường đi và về.  Dĩ nhiên bất cứ một người nông dân Việt Nam nào cũng có thể cho họ một đáp số hiển nhiên là 1 người không thể nào gánh gạo ăn cho mình đủ để đi 300 cây số và cả số gạo cho lúc trở về.

Tài liệu của quân đội Pháp cho thấy các sĩ quan tình báo tại Hà Nội đã được một số dân chúng từng phải đi dân công đã chạy về vùng do Bảo Đại kiểm soát và cho biết hằng chục ngàn dân công từ Ninh Bình, Thanh Hóa được điều động gánh gạo lên Sơn La trong trận Na Sản vào cuối năm 1953.  Thế là các sĩ quan tình báo Pháp tin chắc là chuyện này có thật vì có rất nhiều người cho biết và mọi công tác kiểm chứng sau đó đều xác nhận đúng như vậy.

Kể từ đó các sĩ quan tình báo Pháp in trí rằng mọi khâu vận chuyển lương thực của quân đội CSVN do dân công khiêng vác.  Tuy nhiên nhân viên tình báo Pháp dở ở chỗ là họ không hề hỏi thêm những người cho tin là họ gánh được bao nhiêu ký và đi trong bao nhiêu ngày.  Nếu nghe được câu trả lời thì có lẽ các sĩ quan tham mưu của Quân đội  Pháp phải đặt lại vấn đề.

Bởi vì quả thật năm đó đã có 40 ngàn dân công từ Ninh Bình, Hòa Bình gánh gạo lên cho chiến trường Na Sản tại Sơn La.  Nhưng sau khi đi được 4/5 đoạn đường, còn cách Sơn La gần 50 cây số, thì toán dân công đã tiêu thụ hết 98% số gạo mà họ mang vác được.  Chưa kể số lượng gạo mà họ phải ăn trên đường về.  Kể từ đó CSVN không bao giờ dám nghĩ tới chuyện vận chuyển lương thực cho chiến trường bằng cách khiêng vác.

Ngày nay nhìn lại mới thấy Tướng Giáp vô cùng may mắn vì các sĩ quan tham mưu và các Tướng lãnh Pháp không hề nghĩ tới chuyện tung quân làm chốt chận lưu động dọc theo tuyến vận chuyển.  Chỉ cần 1 chốt chận khoảng 1 tiểu đoàn Nhảy Dù đủ để chận cả tuần lễ tại một địa điểm.  Sau đó nếu có dấu hiệu quân CSVN tập trung nhổ chốt chận hoặc đi vòng tránh chốt chận thì rút đi và nhảy dù chận tại một đoạn khác.  Khoảng 3 lần chận liên tục trong 1 tháng thì quân của Tướng Giáp ắt phải bị đói ( 60.000 quân và 100. 000 dân công ).

Ngoài ra cơ quan tình báo Pháp cũng không ghi nhận được là kể từ  năm 1950 Quân đội CSVN được Trung Quốc tiếp tế gạo ăn cho mỗi trận đánh.  Thí dụ như trận Cao Bằng, tháng 10 năm 1950, Trung Quốc đã chi 2.600 tấn gạo trong tổng số 2.700 tấn gạo ăn của 30 tiểu đoàn và dân công tham dự trận Cao Bằng.  Nếu biết được nguồn gạo ăn của Quân đội CSVN xuất phát từ các kho gạo Trung Quốc thì các Tướng lãnh Pháp đã có cách đối phó hữu hiệu đối với tuyến vận chuyển Lạng Sơn- Sơn La.

 

Thực tình mà nói thì tìm hiểu cho ra chuyện này thì đâu có gì là khó.  Số lượng sĩ quan và binh sĩ CSVN bị thanh trừng qua các đợt chỉnh quân đã chạy về vùng Bảo Đại kiểm soát thừa sức cung cấp cho tình báo Pháp những tin tức chính xác về nguồn tiếp liệu của Quân đội CSVN.

Sang tới đợt tấn công cuối cùng của trận Điện Biên Phủ thì CSVN đã bắt dân Thanh Hóa nộp 11 ngàn tấn lúa giống; chứng tỏ là trong giai đoạn này Trung Quốc cũng hết gạo.  Trong khi nông thôn trong vùng CSVN chiếm đóng hoàn toàn thiếu ăn do hậu quả của chiến dịch cải cách ruộng đất.  Vậy mà các vị chỉ huy quân đội của Pháp đã tính tháo chạy ra khỏi Hà Nội sau khi nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ.

Chỉ cần họ tiếp tục giữ vững thêm cỡ 1 tháng nữa thì quân và dân trong vùng của ông Hồ Chí Minh sẽ đói ăn bởi vì Mao Trạch Đông ngưng tiếp tế; và vì thế Võ Nguyên Giáp sẽ không có đạn và gạo để đánh tiếp một trận nữa, cho dù là trận nhỏ.

Sai lầm chiến thuật của Tướng Navarre

Lúc quyết định thiết lập cứ điểm Điện Biên Phủ, Tướng Navarre và bộ tham mưu quân đội Pháp không nghĩ tới chuyện quân đội CSVN có thể đánh với chiến thuật “công kiên chiến”, nghĩa là giàn thành trận tuyến đánh nhau với xe tăng và máy bay trong nhiều ngày nhiều tháng và đánh tới đâu lập công sự phòng thủ tới đó chứ không phải là chiến thuật cường tập hay kỳ tập như quân đội CSVN thường sử dụng.

Cường tập là đánh nhanh và ào khạc, còn kỳ tập là đánh bất ngờ và gọn . Với một căn cứ quân sự gồm hàng sư đoàn quân phòng thủ với xe tăng và máy bay, nếu quân Cọng sản muốn cường tập thì phải huy động lực tượng gấp 5 hoặc gấp 7 lực lượng phòng thủ mới mong hạ được cứ điểm;  điều này không thể có được vì CSVN không có khả năng tiếp vận để điều động từ 50.000 đến 70.000 quân trên khắp lãnh thổ Bắc Việt vào một trận địa được.

Theo hồi ký của Navarre thì Phòng 2, tức là phòng tình báo của bộ Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Sài Gòn, đã tính toán là CSVN không có khả năng nuôi ăn cho trên 2 sư đoàn và 20.000 dân công cho mặt trận Tây Bắc Bắc Việt, và tình trạng vận chuyển trong rừng không cho phép di chuyển đến Điện Biên Phủ các loại súng trên 75 ly cùng với cấp số đạn cho 7 ngày đánh nhau.

Vì vậy mặc dầu đã lập ra cứ điểm để phòng thủ diện địa và để ngăn chận quân CSVN tràn qua Lào nhưng các sĩ quan Pháp cứ cầu mong cho Võ Nguyên Giáp chấp nhận đánh Điện Biên Phủ như là trước đây Salan mong cho quân CSVN đánh Na Sản.

Sau khi hai tiền đồn phía bắc thất thủ vào ngày 14-3-54 thì sáng ngày 16-3 chỉ huy trưởng pháo binh tại cứ điểm Điện Biên Phủ là Trung tá Piroth tự tử vì pháo binh của ông không làm gì được đối với pháo binh của CSVN, trái với mọi ước đoán chủ quan của ông ta trước đây.  Ngoài ra, Tham mưu trưởng cứ điểm Điện Biên Phủ cũng bị xuống tinh thần đến nổi phải cho theo chuyến phi cơ chở thương binh về Hà Nội.

Cái chết của Piroth và sự mất tinh thần của Tham mưu trưởng cho thấy rõ là tình thế đã đảo ngược những tính toán trước đây của các sĩ quan tham mưu Pháp.  Khi De Catries tới nhận nhiệm vụ chỉ huy Điện Biên Phủ thì ông ta đã được sự bảo đảm của Tham mưu trưởng và Chỉ huy trưởng pháo binh. Trước khi gặp Decastries thì hai ông này cũng đã thuyết trình cho Navarre, Congy và các tướng lãnh Anh, Pháp, Hoa Kỳ.

 

Vì vậy khi phát hiện ra pháo binh của mình bị tê liệt trước pháo binh của địch thì hai ông này hứng trọn cơn thịnh nộ của De Catries.  Tâm lý này luôn luôn xảy ra cho các trận địa lớn với hàng tá sĩ quan tham mưu. Chính vì chịu không nổi những lời chê trách của De Castries mà một ông phải tự tử và một ông bị khủng hoảng.  Nhưng sau đó tới phiên De Catries cũng bị khủng hoảng nặng vì từ đó ông giao nhiệm vụ chỉ huy lại cho Langlais và Laland. Còn ông thì hầu như biến mất trong các bài viết kể lại trận đánh.

Sưu tầm của sử gia Bernard Fall ghi lại lời nói cuối cùng của chỉ huy trưởng Pháo binh Piroth nói với bạn thân là Trung tá Trancart :  “Tôi mất hết danh dự. Tôi đã đảm bảo với Castries và với cấp trên rằng pháo địch sẽ không giải quyết được gì cả, thế mà ta sẽ thua mất thôi. Tôi đi đây”.

Và cũng theo sưu tầm của Bernard Fall thì Piroth đã đến chỗ của Trung tá Langlais và nói những lời tương tự thì Langlais đã lạnh lùng trả lời : “Cũng phải có ai đó phải chịu trách nhiệm về sự phá sản của Pháo binh chứ”. Đây là những lời kể lại của những sĩ quan nhân chứng; nó nói lên nguyên nhân vì sao Điện Biên Phủ thất bại, một thất bại được thấy rõ ngay từ ngày đầu tiên khi trận chiến nổ ra.

Cho tới giờ phút đó Tướng Navarre vẫn không có phản ứng trước việc pháo binh và phi cơ của quân Pháp bị vô hiệu hóa. Tất cả những gì ông ta lập ra tại Điện Biên Phủ là nhử cho quân CSVN tới đánh để pháo binh và phi cơ của ông ta sẽ tiêu diệt. Thế mà cho đến khi Trung tá Piroth tự tử vì khám phá ra người Pháp đã lầm và không thể làm gì được với các họng súng của pháo binh CSVN thì Tướng Navarre vẫn không nhớ ra là ông ta đưa quân tới Điện Biên Phủ để làm gì.

Ông ta lập ra phi trường Điện Biên Phủ cho phi cơ có thể lên trời tiếp ứng chiến trường ngay, nhưng kết quả là các phi cơ hoàn toàn bị tê liệt trước các họng súng pháo binh CSVN. Vậy thì phi cơ không có, pháo binh cũng không;  ông ta lấy lý do gì để lưu lại hàng chục tiểu đoàn trong cái vòng vây khốn khổ đó?

Trước tình hình đó, bất cứ một nhà quân sự hạng bét nào cũng thấy là phải tung hết quân hiện có để gải vây cho Điện Biên Phủ và cứu thoát 12.000 con người ở trong đó. Thế nhưng đàng này Hà Nội lại thả nhỏ giọt thêm từng tiểu đoàn vào trong cái chảo lửa đó, hễ mất 1 tiểu đoàn thì thảy thêm 1 tiểu đoàn, hễ mất 2 tiểu đoàn thì thảy thêm 2 tiểu đoàn, rồi tới khi không còn tiểu đoàn nào để thảy thì thảy cặp lon thiếu tướng cho Đại tá De Castries.

Sau này các sử gia Pháp cố tình không nói tới trách nhiệm của các vị tướng lãnh tại Hà Nội, chứ nếu thực sự phân tích thì phản ứng của các tướng lãnh và sĩ quan tham mưu tại Hà Nội quá tệ. Các ông cứ chờ xem tướng Navarre ở Sài Gòn ra lệnh gì để mà sau này có cớ chạy tội cho chính mình.

Bất cứ một sĩ quan tham mưu nào cũng biết rằng cứ điểm Điện Biên Phủ được lập ra để nhử cho quân CSVN đánh vào và sẽ bị tiêu diệt bởi ưu thế của pháo binh và phi cơ.  Nhưng qua hai trận chiến ngày 13 và 14-3 đã đủ chứng tỏ rằng pháo binh và phi cơ hoàn toàn mất hết hiệu lực.

Cái chết bằng cách tự tử của Trung tá chỉ huy trưởng pháo binh đã đủ chứng minh rằng cái bẩy bằng pháo binh đã bị phản phé, tức là phe địch sẽ có ưu thế tuyệt đối về pháo binh còn ta thì “Zéro”.  Thế mà mọi người cứ tiếp tục thảy thêm nạn nhân vào chảo lửa mặc dầu biết rằng đây là một trận danh dự của quân đội Pháp đối với toàn thế giới.

 

(36) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, BẦY CHUỘT SÔNG NẬM RỐN

Bầy chuột sông Nậm Rốn

 

Tình trạng căng thẳng thần kinh và mệt mỏi đã đưa tới trường hợp binh sĩ Thái bỏ trốn, binh sĩ Lê Dương đào ngũ, binh sĩ Bắc Phi cải lại lệnh của cấp chỉ huy hoặc thanh toán cấp chỉ huy đã bắt đầu phổ biến trong đoàn quân trú đóng tại Điện Biên Phủ.  Lại thêm có 2.400 tù binh CSVN bị bắt làm lao công chiến trường tại ĐBP ngay từ ngày đầu khởi công xây cất Cứ điểm.

Số 2.400 tù binh này thực ra là những nạn nhân bị bắt trong vùng quân Pháp hành quân, hễ họ chụp được một người nào là đàn ông con trai thì cho là Cọng sản và bắt về làm tù binh sau khi tha không giết.  Sau đó những người này bị đưa đi làm công tác lao công chiến trường, một thứ tù khổ sai vô cùng nguy hiểm.

Khi chiến sự nổ ra, đoàn quân lao công bỏ trốn trước tiên, họ nghĩ rằng người Pháp sẽ thanh toán họ trước khi họ có thể giật súng hoặc ăn cắp súng chạy về phía quân CS. Vì vậy họ phải trốn trước.  Họ không thể đi xa vì quân CSVN đã bao vây bên ngoài, quân Cọng sản cũng bắt họ làm tù binh hoặc làm lao công chiến trường cho quân Cọng sản.

Do đó họ phải sống lẫn trốn vùng dọc bờ sông Nậm Rốn, tránh xa các căn cứ, đào hang tránh bom đạn bên bờ sông.  Thức ăn của họ là do săn nhặt hoặc đánh cắp các dù tiếp tế cho Điện Biên Phủ bị rơi ra ngoài vòng rào. Các dù này được thả vào ban đêm nhưng quân trong Cứ điểm phải chờ tới sáng mới mang xe và người ra nhặt.

Những người trốn tránh đã đến thăm các kiện hàng trước khi quân Pháp ra nhặt và họ lựa những kiện hàng có thức ăn khuân về nơi bí mật để cất giấu ăn dần và chia sẻ với những nạn nhân mới gia nhập đội quân.  Tới cuối tháng 4 -54 thì đội quân này được ước tính lên tới 4.000 người, gồm người Thái, người Việt, người Bắc Phi, người Ả Rập, người Châu Âu.

Càng ngày các kiện hàng tiếp tế càng rơi nhiều ngoài vòng rào nhưng quân Pháp không đủ xe để đi nhặt, một số lại nằm trong các hàng rào kẽm gai, chỉ có Chuột Nậm Rốn mới dám bò vào thám thính những kiện hàng này, họ bò vào mà không bị mìn là do chính họ đã gài nên biết công thức ngụy trang có thể rà tìm dấu hiệu nơi có  mìn.

Ngoài ra, tài liệu lưu trữ tại Văn khố Quân đội Trung Quốc được giải mã cũng đã có đề cập tới việc quân lính của Tướng Giáp bỏ ngũ, gia nhập đoàn quân Chuột ở sông Nậm Rốn.  Họ đã giúp nhau cùng mưu sinh trong một thế giới toàn tiếng bom tiếng đạn và máu lửa.  Tất cả đều bị khiếp đảm trước những hình ảnh khốc liệt của chiến tranh, hầu hết họ là những người có thần kinh rất yếu .

Những người bị gọi một cách khinh bỉ là “chuột” không thể sống đường hoàng, mà phải lén lút đến nỗi ngay cả giữa ban ngày cũng phải thập thò núp lén, di chuyển bằng cách bò theo những bụi bờ hay mương nước, họ cũng tự đào những lỗ lớn dưới các bụi cây bên bờ sông đễ làm chỗ ngủ và tránh bom.

Tâm trạng này không phải chỉ có trong đội quân Chuột mà cũng thấy trong thành phần những quân nhân bị hoảng loạn thần kinh vì bị kề cận với cái chết . Cứ sau mỗi trận đánh là có một số binh sĩ thoát chết nhưng bị hoảng loạn thần kinh, không thể nào ép buộc họ tiếp tục chiến đấu vì chắc chắn họ sẽ bị điên loạn.  Người ta đã sử dụng những binh sĩ này trong công tác hậu cần và tiếp vận.

Sau khi toán lao công chiến trường 2.400 người đã trốn gần hết thì những binh sĩ không có khả năng chiến đấu làm nhiệm vụ đi nhặt dù tiếp tế.  Nhưng những người này cũng thường xuyên chôn dấu những món ăn được và ăn ngon như sữa hay thịt hộp;  hoặc là họ thi nhau thưởng thức trước khi mang về.

Tệ trạng này đưa tới một kết quả nực cười là những chàng thanh niên không chiến đấu càng ngày càng béo mập ra, trong khi những người thay phiên nhau ghìm súng ngoài sương gió, trong lửa đạn, lại càng ngày càng kiệt sức vì thiếu ngủ mà không có gì để bồi dưỡng, nhất là chất tươi và chất đạm.

Các sĩ quan chỉ huy biết rõ chuyện này nhưng họ không dám áp dụng những biện pháp gắt gao để trừng trị vì theo kinh nghiệm từ ngàn xưa, những đồn binh bị bao vây lâu ngày thường xảy ra tình trạng rối loạn, nếu áp dụng những biện pháp cứng rắn sẽ đưa tới bùng nổ chống đối hoặc nổi loạn.  Bởi vậy họ chỉ biết lấy lời để khuyên răn mà thôi .

Báo chí Pháp thời đó gọi những người chiến binh bị thần kinh căng thẳng là những con chuột của sông Nậm Rốn.  Nhưng nói cho ngay, những người viết báo toàn là những người chuyên môn ngồi lê đôi mách bên các quán cà phê vĩa hè nhưng nhát như thỏ đế.  Họ không bao giờ có hân hạnh biết được nỗi hiểm nguy của những người đứng trước đầu tên mũi đạn nơi địa đầu giới tuyến.  Họ chê cười lính một cách vô tư, bởi vì họ chưa bao giờ họ có hân hạnh nhìn đồng hồ để đếm thời gian còn sống của mình.

Những con chuột của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Riêng về phía các chiến binh CSVN, lâu nay báo chí của Pháp cũng như của Việt Minh đều mô tả các chiến sĩ CSVN không hề sợ chết, họ chỉ biết lao tới trước với nụ cười ngạo nghễ. Nhưng  hồi ký của Tướng Giáp đã cho thấy sự thực sau đợt tổng tấn công thất bại:

“Qua đợt chiến đấu vừa rồi nổi lên những gương chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, nhưng trong cán bộ cũng nảy sinh một số biểu hiện tiêu cực, như ngại hy sinh, gian khổ, chấp hành mệnh lệnh không nghiêm, cá biệt có cán bộ đã bỏ nhiệm vụ giữa trận đánh”.( trang 326 ).

“Bỏ nhiệm vụ giữa trận đánh” có nghĩa là từ chối quyền chỉ huy, từ chức giữa trận địa.  Hóa ra các sĩ quan của ông Giáp cũng chỉ là những con người, họ cũng biết suy nghĩ trước sự sống và sự chết của anh em binh sĩ.  Họ cũng nhân danh quyền sống thiêng liêng của con người mà cãi lại những mệnh lệnh bắt họ phải chết một cách ngu xuẩn.

Theo như cung khai của các tù binh CSVN bị bắt tại trận Huguette 6 và trận Eliance 1 thì tinh thần bộ đội CSVN bắt đầu rung chuyển sau khi bị chết và bị thương quá nhiều.  Con số chết lên tới 6.000 người, và bị thương là 17.000 người. Số người bị thương đã khiến phải gởi trả lại hậu phương 30.000 dân công vận chuyển thương binh . Tâm trạng hoang mang nao núng đã lan tràn trong các Đại đoàn CSVN.  Số bộ đội CSVN gia nhập đội quân Chuột Nậm Rốn cũng lên đến hằng ngàn người.

Hồi ký của Tướng Giáp có nói đến hiện tượng “Hữu khuynh, tiêu cực” trong quân đội CSVN nhưng không nói rõ là hiện tượng gì, nhưng hồi ức của Tướng Lê Trọng Tấn giải thích :

“Vấn đề còn lại bây giờ là chống hữu khuynh, tiêu cực biểu lộ dưới hai hình thức; một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ, muốn dứt điểm ngay trong khi điều kiện khách quan chưa cho phép; hai là chủ quan khinh địch”.

Tướng Tấn gọi là ngại thương vong, ngại tiêu hao, nhưng thực sự là “sợ chết”.

 

Chiến công tâm đắc nhất của Tướng Giáp

Sau này các sử gia Quốc tế luôn luôn tưởng tượng Tướng Giáp là một người hùng với phong thái chỉ huy của một viên võ tướng chuyên sông pha ngoài trận mạc.  Thế nhưng trong hồi ký của mình, Tướng Giáp chỉ nhắc tới một chiến công mà ông tâm đắc nhất, đó là ông đã áp dụng sách vở của Stalin mà mở một chiến dịch chống lại tâm lý sợ chết trong hàng ngũ binh sĩ :

“Đảng ủy Mặt trận thấy không thể bỏ qua những hiện tượng mới này, quyết định tập họp các bí thư đại đoàn ủy, các đồng chí phụ trách tổng cục, những người có trách nhiệm nặng nhất trong chiến dịch, để tiến hành kiểm điểm tư tưởng hữu khuynh tiêu cực …*( Sợ chết, ngại gian khổ ).

Ngày hôm sau, phần lớn cán bộ cơ quan chính trị chia nhau xuống giúp đỡ các đơn vị triển khai một đợt giáo dục cấp tốc cho toàn thể bộ đội…Một khí thế mới dâng lên khắp nơi sau đợt học tập.  Đây là một thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt trận Điện Biên Phủ, một trong những thành công lớn trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta”.(trang 329).(sic).

Đây là thành công của chính trị chứ không phải là chiến công.  Nhưng mà là chính trị theo kiểu Stalin và Mao Trạch Đông.  Con người ta khác con vật là ở chỗ biết suy nghĩ, thấy người đi trước trúng đạn ngã gục thì tự nhiên mình phải chùn bước ngừng lại hay nằm xuống để tránh đạn hầu bảo vệ mạng sống của mình.

Xưa nay xã hội dạy cho con người càng ngày càng phản ứng khác xa với phản ứng của con vật.  Nhưng đằng này các ông đã bày cho dân chúng Việt Nam đi từ phản ứng của con người xuống thành phản ứng của loài vật.  Mà rốt cuộc là chỉ chết oan mạng để xây đường vinh quang cho các ông!

Cái đau nhất cho 23 ngàn bộ đội CSVN chết tại chiến trường Điện Biên Phủ là gia đình họ chỉ nhận được một cái bằng liệt sĩ bằng giấy.   Trong khi đó nhà cao cửa rộng, phố mặt tiền, đất hạng nhất đều do đồng đảng của Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp … chia nhau.

Thậm chí

(37) TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ, TIỂU ĐOÀN 5 DÙ VIỆT NAM

Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam :

Hồi ký của các vị sĩ quan chỉ huy Cứ điểm Điện Biên Phủ đều nhắc lại cảm nghĩ thất vọng của các ông khi nghe Hà Nội báo tin Tiểu đoàn Dù đầu tiên tăng viện cho Điện Biên Phủ là một Tiểu đoàn Việt Nam, có người đã kêu “trời” và người ta hỏi thăm nhau về người chỉ huy của Tiểu đoàn đó.

Nhưng trải qua suốt cuộc chiến Điện Biên Phủ thì các sĩ quan Pháp bắt buộc phải thay đổi quan niệm.  Thành tích chiến đấu của Đại đội 1/ Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam tử thủ Huguette 7 trong đợt 2;  rồi tử thủ Huguette 6 và Huguet 4 trong ngày cuối cùng.  Và thành tích của Đại đội 3 do Phạm Văn Phú chỉ huy đã chứng minh rằng binh sĩ Việt Nam chiến đấu hay nhất và cảm động nhất so với các sắc quân hiện diện tại trận địa.  Sau trận tái chiến Eliance 1 Trung Úy Phạm Văn Phú đã được đặc cách vinh thăng đại úy mặc dầu ông mới lên trung úy có vài tháng.

Ngoài 2 đại đội của Trung úy Phú và Đại úy Bizard.  Hai đại đội còn lại của Tiểu đoàn 5 Dù Việt Nam đã bị tước khí giới và đưa đi làm lao công chiến trường từ ngày 2-4 vì tất cả các sĩ quan Việt chỉ huy 2 đại đội này từ chối chiến đấu.  Đại úy Tiểu đoàn trưởng Botella cố thuyết phục nhưng không được, bèn trình lại cho Trung tá Langlais và Đại tá De Castries.  Sau khi điều đình với các sĩ quan không thành công, Bộ chỉ huy quyết định thu hồi vũ khí của cả 2 đại đội và binh sĩ 2 đại đội này chấp nhận nhiệm vụ lao công chiến trường.

Các sĩ quan Pháp không tìm thấy một điều gì khác nhau trong 4 đại đội, tất cả đều có một mẫu số chung là người Việt Nam. Vậy thì chuyện gì đã xảy ra cho 2 đại đội từ chối chiến đấu?  Cho tới nay câu hỏi này chưa được giải đáp.

Tuy nhiên một giả thuyết đã được đặt ra là các vị sĩ quan chỉ huy 2 đại đội này đã bất mãn cách đối xử của Langlais và Botella.  Ngay ngày đầu tiên khi Tiểu đoàn 5/ Dù VN nhảy xuống Điện Biên Phủ lúc 4 giờ 30 chiều giữa lằn đạn của Việt Minh rồi phải đào hố chiến đấu ngay giữa các vòng rào đầy bùng nhùng dây kẽm gai.

Đến 7 giờ 30 thì bị tràn ngập bởi pháo của CSVN khiến 2 khẩu súng cối 81 của Tiểu đoàn bị hư hại. Vậy mà mờ sáng hôm sau Langlais lại chỉ thị cho tiểu đoàn đang vướng rải rác giữa đám bùng nhùng ở bên kia sông Nậm Rốn phải tập trung lại để kéo nhau trong đêm chạy cho hết bề ngang của căn cứ Điện Biên Phủ rồi chạy thêm một nửa chiều dọc của căn cứ để tiếp ứng cho tiền đồn Gabrielle trong khi tại Trung tâm Điện Biên Phủ đang có 2 tiểu đoàn Dù thiện chiến của Pháp là Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 8 lại nằm chơi không.

Rồi tới khi đoàn quân bị chặn lại tại Bến lội vì bị phục kích thì Langlais đã hết lời nguyền rủa các cấp chỉ huy của TĐ 5/Dù VN. Và sau đó thì Langlais trừng phạt bằng cách cách chức đại đội trưởng của Trung úy Ty và đưa một số quân nhân ra lao công chiến trường.  Sau đó lại xé lẻ tiểu đoàn để đi tăng cường cho các đơn vị khác.

Nhưng cho đến khi Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 Thái bỏ trốn, và sau trận đánh Huguette 7 cũng như Eliance 1 thì cả Bộ chỉ huy Cứ điểm phải đánh giá lại khả năng và tinh thần chiến đấu của các đơn vị quân đội Việt Nam.  Nhưng đến khi họ biết tôn trọng các quân nhân Việt Nam thì đã quá muộn bởi vì họ đã đối xử tàn tệ với đơn vị Việt Nam duy nhất tại Căn cứ , họ đã sử dụng tiểu đoàn như một đứa con ghẻ.  Dĩ nhiên các sĩ quan Việt Nam không thể chịu đựng nổi sự bất công này. Và hành động chấp nhận lao công chiến trường là một hình thức phản kháng cuối cùng.

Langlais là Liên đoàn trưởng của Liên đoàn 2 Nhảy dù Pháp, ông tin tưởng vào các Tiểu đoàn Dù của ông vì cho rằng đó là những quân nhân Lê Dương rất liều lĩnh và cam đảm.  Trong khi đó ông luôn luôn có thành kiến không tốt về các quân nhân Việt Nam.

Nhưng ông không có hân hạnh nhìn vào danh sách các tiều đoàn này để thấy rằng Tiều đoàn 6 Dù Thuộc địa của Bigeard có 613 người nhưng có 332 người là Việt Nam.  Tiểu đoàn 2/1 Dù của Bréchignac có 827 người nhưng có 420 người Việt Nam.  Tiểu đoàn 1 Dù Thuộc địa của Jean Souquet có 911 người nhưng có 413 người Việt.  Tiểu đoàn 1 Dù Lê Dương có 653 người nhưng có 336 người Việt.

Đa số những người tình nguyện vào binh chủng dù của Pháp là con em của những nạn nhân bị đấu tố trong chiến dịch thu thuế kiểu Cọng sản năm 1950 và chiến dịch Cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh năm 1953.  Họ muốn trả thù cho thân nhân của họ, tinh thần chiến đấu của họ thì khỏi chê.

Dầu sao qua những cuộc thử thách đẫm máu tại Điện Biên Phủ cũng đã khiến Langlais phải có một cái nhìn khác về tinh thần chiến đấu của các quân nhân Việt Nam.  Lúc hai đại đội của Tiểu đoàn 5 Dù từ chối chiến đấu là lúc ông ta đã hiểu ra những sơ sót bất công của ông ta.  Ông cố gắng thuyết phục các sĩ quan của hai đại đội tiếp tục chiến đấu nhưng lúc đó ly nước đã tràn.

 

Đại úy Phạm Văn Phú

Phạm Văn Phú nhập học khóa 8 Võ bị Quốc gia Việt Nam ngày 1-7-1952, lúc đó ông 29 tuổi và đang là Chuẩn úy của quân đội Quốc gia xuất thân từ binh chủng nhảy dù Pháp.  Tính tình ít nói và nói không hay, vẻ hiền lành chất phác chứ không có vẻ gì là một tay yên hùng, một hạ sĩ quan cao cấp của binh chủng nhảy dù.

Nếu nói theo quan điểm của CSVN thì Phạm Văn Phú thuộc thành phần có “xuất thân tốt”, không phải trí thức mà cũng không phải tư sản.  Cùng theo học với Phạm Văn Phú lại có một người đã mang cấp bậc Thiếu úy là ông Nguyễn Bá Thìn tự Long.  Ông này trước kia là một tiểu đoàn trưởng của Việt Minh, không hiểu ông ta gia nhập quân đội Quốc gia hồi nào và lên Thiếu úy ngày nào nhưng cuối khóa học ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 8 Võ bị Quốc gia.

Ngày 28-6-1953 có 163 ông thiếu úy ra trường, trong đó có Thiếu úy Thìn và Thiếu úy Phú.  Tới ngày 20-11-1953 Thiếu úy Phú cùng với Tiểu đoàn 5 Dù VN nhảy xuống Điện Biên Phủ lần thứ nhất để chiếm đóng và thiết lập căn cứ.  Sau đó 1 tháng, tháng 12 năm 1953 ông được thăng cấp Trung úy trong trận giải cứu Tiểu đoàn 8 Dù của Pháp bị tấn công tại Mường Pồn khi tiểu đoàn này đang cố gắng cứu các đơn vị Biệt kích rút khỏi Lai Châu.

Đầu năm 1954 Tiểu đoàn 5 Dù VN cùng với Tiểu đoàn 6 Dù Thuộc địa rời Điện Biên Phủ để ứng chiến cho mặt trận Luangbrabang đang bị Đại đoàn 308 của CSVN uy hiếp.  Đến tháng 3 năm 1954 Trung úy Phạm Văn Phú trở lại Điện Biên Phủ với chức vụ Đại dội trưởng Đại đội 3/ TĐ 5/ Dù Việt Nam.

Và một tháng sau, tháng 4-54 ông mang lon đại úy.  Cuộc đời binh nghiệp của ông sau này có nhiều thăng trầm nhưng các sĩ quan Pháp vẫn nhắc tới ông mỗi khi nói về Điện Biên Phủ hoặc nhắc tới Điện Biên Phủ mỗi khi nói về ông.

Đặc biệt sau này Tướng Phú cũng luôn luôn lên lon đặc cách tại mặt trận, từ Đại úy lên đến Thiếu tướng.  Lần thăng cấp sau cùng là chiến công trong trận Hạ Lào.  Ông đã đưa Sư đoàn 1 Bộ binh tấn công chiếm Tchepone rồi trở về mà chỉ bị tổn thất 1 tiểu đoàn.

Đáng tiếc là sau năm 1975 ông bị những kẻ tiểu nhân dèm pha sau khi ông đã chọn cái chết để đền nợ nước.  Một trong những nguyên nhân để dèm pha là do ông đã bị bắt làm tù binh tại Điện Biên Phủ (sic).  Hãy nghe Đại tá Lê Khắc Lý nói xấu về ông :

“Tướng Phú thường hay ở Nha Trang. Nhiều người bảo ông ấy sợ. Tôi nghĩ có lẽ đúng. Ông đã từng bị bắt làm tù binh trong trận Ðiện Biên Phủ năm 1954, cho nên cứ nghĩ đến việt cộng là ông ấy đủ sợ rồi. Tôi không có lòng tin nơi Tướng Phú mỗi khi chúng tôi đụng trận.

Ông quyết định không rời Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II về Nha Trang nữa, nhưng cá nhân ông đã chuyển một số lớn của cải và gia đình đi Nha Trang và hầu hết các Nhân Viên cũng đi theo với ông. Tôi là người phải điều động mọi việc ở Pleiku.

Ðây là sự thật, tôi không hề có ý khoe khoang. Tướng Phú có mâu thuẫn cá nhân với hai ông Tư Lệnh Phó là Chuẩn Tướng Lê Văn Thân và Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm. Không có Sĩ Quan chấp hành, ông bèn đặt ra một số sĩ quan riêng ( Larry Engelmann, Tears befor The Rain, bản dịch của Nguyễn Bá Trạc ).

Gia đình Tướng Phú sống tại biệt thự Sóng Nhạc tại Nha Trang ( Tư dinh dành cho Tư lệnh Quân khu 2 ) cho nên chuyện ông ta chuyển gia đình và của cải từ Pleiku về Nha trang là chuyện không bao giờ có. Vả lại “một số lớn của cải” nghĩa là sao ? Đây là Lý tiết lộ cho tác giả người Mỹ, người Mỹ dễ bị mắc hỡm với câu ỡm ờ này.

Nói cho cùng, dẫu cho chuyện này có thật đi nữa thì nghĩa tử là nghĩa tận, ông Tướng đã đền xong nợ nước thì Lý không nên moi móc ra làm gì.  Dĩ nhiên là Lý không có thù oán gì với ông tướng nhưng thực ra nếu không nói xấu ông tướng thì Lý biết lấy cái giỏ nào để chứa tội phản bội tổ quốc của ông ta?  Rõ ràng Lý đạp Tướng Phú, Tướng Cẩm, Tướng Thân dưới chân của mình cốt để chứng minh rằng ông ta là người duy nhất “điều động mọi việc ở Pleiku” (sic).

Trong khi sự thực thì lài liệu được giải mã của CIA đã cho biết rằng chính CIA đã bốc Tham mưu trưởng Lê Khắc Lý khỏi Pleiku ngay trong ngày đầu tiên, biến Bộ tham mưu Quân đoàn trở thành rắn không đầu. Toàn bộ Quân đoàn II bị loạn từ lúc đó.

Lý phê phán rằng Tướng Phú sợ bị Việt cộng bắt (sic) trong khi bản thân Lý tuy mang danh là Đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn nhưng cả đời chưa bao giờ ra trận.  Giờ đây ông ta về hùa với Cao Văn Viên, cho rằng Phú đã trốn khỏi  Pleiku từ ngày 15-3, bỏ mặc Bộ tham mưu Quân đoàn cho một mình ông ta điều động (sic).

Giờ đây để bôi tro trát trấu lên vong linh Tướng Phú, Lý cho rằng tướng Phú sợ bị bắt;  trong khi Tướng Phú đã nổi danh anh hùng chỉ 6 tháng sau khi ra trường, khi ông chỉ huy giải cứu Tiểu đoàn 8 Nhảy dù Pháp tại Mường Bồn, được thăng cấp Trung úy.  Bốn tháng sau đó ông lại được vinh dự thăng cấp Đại úy trong trận tử chiến tại Điện Biên Phủ.  Và ông trở thành ông tướng duy nhất của quân đội VNCH được thăng cấp tại mặt trận cho mỗi cấp, từ thiếu úy lên thiếu tướng.

 

(38) PHONG CÁCH CHỈ HUY CỦA TƯỚNG GIÁP

Đổ cho cấp dưới

Hồi ký của Võ Nguyên Giáp kể lại về sau này, khi Nguyễn Hữu An trở thành Tư lệnh sư đoàn 325, gặp lại Võ Nguyên Giáp tại Đồng Hới, Tướng An vẫn còn ức vì chuyện bị đổ tội do chậm khai hỏa trong trận tấn công đầu tiên vào Eliance 2.  Ông phân trần với ông Giáp là lúc đó đường dây điện thoại bị pháo cắt đứt cho nên ông không nhận được lệnh tấn công.

Nghe như vậy Tướng Giáp giả vờ ngạc nhiên:  “Sao ngày đó cậu không nói ngay?” (Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, in lần 2, trang 281) rồi ông nói sang chuyện khác.  Nhưng nếu lật ngược lại trang 265 thì ngay lúc diễn ra trận đánh Võ Nguyên Giáp đã biết là Nguyễn Hữu An bị đứt đường dây điện thoại:

“Chờ mãi vẫn chưa có tin A1 và các mũi thọc sâu.  Hỏi 316, đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba báo cáo:  từ đầu trận đánh không liên lạc được với 174 do đường dây điện thoại bị đại bác cắt đứt, đang cho nối lại…” (trang 265).  Như vậy là ngay từ đầu ông đã biết Nguyễn Hữu An không có lỗi gì cả.

Cuộc tổng tấn công bị thất bại là do các chuyên gia TC không tính tới sức kháng cự mãnh liệt của Đại đội 1/5 Dù Việt Nam với 4 khẩu 105 ly bằn trực xạ khiến cho nguyên trung đoàn 167 CSVN bị tiêu diệt tại đồn Huguette 7.  Còn tại mặt phụ thì các chuyên gia không ngờ có một hầm ngầm bằng bê tông trên đồn Eliance 2.

Lẽ ra trong hội nghị sơ kết các cố vấn phải nhận khuyết điểm về mình trước, nhưng thói đời không có ai tự nhiên nhận khuyết điểm cả cho nên họ đổ lỗi cho Tướng Giáp là đã ra lệnh cho Đại đoàn 308 tấn công vào Huguette 7 trong khi chưa chiếm được Eliance 2. Theo kế hạch tác chiến thì Tướng Giáp chỉ ra lệnh cho Tướng Vương Thứa Vũ tấn công sau khi biết chắc đã chiếm được 4 đồn mặt Đông, gồm cả Eliance 2.

Trước lời phê bình của các chuyên gia, Tướng Giáp đành phải đổ cho Nguyễn hữu An.  Ông ta nói rằng trước khi tấn công thì ông An cam kết sẽ chiếm Eliance 2 trong vòng 2 tiếng đồng hồ cho nên ông ta đợi đúng 2 tiếng đồng hồ thì mới cho lệnh tần công Huguette 7.  Tướng Giáp dẫn chứng nguyên văn lời Nguyễn Hữu An :

Tôi lại hỏi: – Các đồng chí có tin tưởng không?/ Vũ Lăng nhanh nhảu: – Báo cáo anh, tin tưởng nhất định làm được./ – Đánh C1 ( tức là Eliance 1) trong bao lâu?  – Xin anh 45 phút./  – Có thể để hẳn cho đồng chí một tiếng./

Tôi quay sang Nguyễn Hữu An: – Còn A 1 (tức là Eliance 2), Đồng chí cần bao nhiêu thời gian?/  Mức thời gian Vũ Lăng đặt cho đơn vị mình làm cho Nguyễn Hữu An hơi lúng túng. – A 1 khó hơn, hai tiếng, đồng chí làm được không?/  Nguyễn Hữu An vui vẻ đáp: – Báo cáo, làm được./” (trang 262).

Nhờ dẫn chứng này mà người ta thấy được phong cách chỉ huy “trời ơi đất hỡi” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.  Đánh trận cũng như thi đấu thể thao, trước một địch thủ kinh nghiệm hơn mình, được trang bị hơn mình, lại chiếm thượng phong trong tư thế phòng thủ, không ai nắm chắc được thắng lợi chứ đừng nói là chiến thắng trong mấy giờ hay mấy phút.

Thế nhưng “thiên tài quân sự” Võ Nguyên Giáp đã làm như thế, ông ta ấn định trước thời hạn phải chiến thắng là 2 tiếng đồng hồ cho Nguyễn Hữu An đối với một cái đồn mà sau này phải do Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ rồi Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba đích thân chỉ huy chỉ hạ được vào giờ phút cuối của trận chiến, nghĩa là 37 ngày sau, tức là 888 giờ sau, gấp 400 lần mức ấn định của Võ Nguyên Giáp.

Bắt cấp dưới phải nhận lỗi thay cho mình

Ngày 2-4-1954 Trung đoàn trưởng Hùng Sinh dẫn 2.500 quân tấn công đồn Eliance 2 và cuối cùng thì cả trung đoàn 2.500 người chỉ còn 50 người;  nhưng hồi ký của Tường Giáp cho thấy ông ta đối xử với Hùng Sinh như thế nào vào sáng hôm sau:

“Hùng Sinh cao lớn bước vào với một chiếc băng trên trán và đôi mắt sâu trũng vì thiếu ngủ.  Tôi hỏi – Vết thương thế nào?/ – Thưa, vết xước mãnh đạn thôi, băng để tránh  nhiểm trùng./  Tôi nói  – Tin tức ở đây nắm được thì quân địch ở A1 tổn thất rất nhiều, có lúc bọn chỉ huy Mường Thanh tưởng là đã mất A1!  Tại sao các đồng chí đánh mãi vẫn không giải quyết được?/  – Báo cáo anh, chúng tôi rất cố gắng nhưng vướng phải cái hầm ngầm trên đỉnh đòi.  Anh em đã đặt vào đó 80 kilôgam bộc phá giật nổ, nhưng nó vẫn trơ trơ./  – Sao không tìm cửa hầm mà đánh vào?/… “

Con người ta đánh suốt 1 ngày 2 đêm, đến nỗi 2.500 người chỉ còn 50 người, thế mà ông Tướng lại còn hạch “Tại sao các anh không giải quyết được?”. Dĩ nhiên ông Tướng thừa biết nguyên do không hoàn thành kế hoạch là vì cái hầm ngầm, ông biết ngay lúc trận đánh đang diễn ra bởi vì chính ông đích thân chỉ huy và ra lệnh trên điện thoại trong suốt trận đánh.

Chắc chắn câu này đã được hỏi rất nhiều lần và được trả lời rất nhiều lần trong khi trận đánh đang diễn ra.  Như vậy câu hỏi lần này không phải là hỏi để biết, mà là hỏi để khiển trách theo lối phủ đầu.  Tuy nhiên nếu phân tích kỹ thì đây là một câu khiển trách rất vô trách nhiệm, ông Tướng muốn đổ hết trách nhiệm cho thuộc cấp.  Hễ đánh không được là do các anh chứ không phải do tôi.

Lẽ ra ngay khi trận đánh đang diễn ra, biết được kế hoạch bị khựng lại vì cái hầm ngầm thì ông Tướng phải ngay tức khắc ra lệnh cho công binh sử dụng biện pháp kỹ thuật hoặc ra lệnh sử dụng cảm tử quân giải quyết bằng chiến thuật đặc công, hoặc ra lệnh rút ra rồi bao vây để cô lập và vô hiệu hóa đồn A1.  Có rất nhiều biện pháp từ hay đến dở để giải quyết, nhưng đằng này ông Tướng không có được một lệnh, cho dù là một lệnh rất dở.

Rồi sau khi được Hùng Sinh xác nhận là tại cái hầm ngầm thì ông Tướng lại hỏi : “Sao không tìm cửa hầm mà đánh vào?”.  Đây là một câu hạch sách vô tội vạ, chứng tỏ ông Giáp không phải là một quân nhân.  Câu hỏi giống như của một đứa bé con.  Dĩ nhiên là khi đánh một cái hầm ngầm thì ai cũng phải tìm cửa hầm mà đánh vào chứ đâu có ai đào hang dưới đáy hầm mà đánh lên.

Cho nên đây chỉ là một câu phủ đầu nhằm trấn áp Hùng Sinh, có nghĩa là “Hễ ông không biết đánh vào bằng ngõ cửa hầm thì tức là ông không xứng đáng là trung đoàn trưởng, một đứa bé con nó cũng biết là phải tìm cửa hầm mà đánh vào”.  Dĩ nhiên nghe như vậy thì ông Hùng Sinh hoảng quá và vội thanh minh rằng ông ta có tìm cửa hầm chứ, nhưng tìm không ra.

Và cũng vì vội vàng thanh minh cho mình mà ông Hùng Sinh quên hỏi lại cái câu hỏi mà đúng ra Hùng Sinh phải hỏi ngay từ đầu là :

“Ông giao cho tôi đánh cái đồn có cái hầm ngầm bằng bê tông mà tại sao ông không cho tôi biết trước để tôi chuẩn bị đồ nghề, hoặc chuẩn bị quân, hoặc nghiên cứu trước cách đánh.  Đằng này khi tôi phát hiện ra sự kiện bất ngờ này thì ông cũng chẳng giúp cho tôi một ý kiến nào cả mà ông chỉ hô tôi tiến lên là sao? Vậy thì tôi chỉ theo lệnh ông mà tiến lên cho nên quân của tôi 2.500 chỉ còn có 50 đứa và bản thân tôi cũng bị thương như ông thấy đây”.

Nếu hỏi được như vậy thì Hùng Sinh “ngon” rồi nhưng rõ ràng là Hùng Sinh thua trí một tay láu cá, cuối cùng ông vẫn nghĩ rằng mình có tội đối với Tổng Tư lệnh.

Chỉ huy đầy kịch tính

Một đoạn hồi ức của tướng Lê Trọng Tấn chứng minh cách chỉ huy đầy kịch tính của Tướng Giáp  khi ông ra lệnh khai hỏa tấn công đồn Béatric:  “Tôi nghe rõ tiếng Đại tướng Chỉ huy trưởng vang lên trong máy:  “Pháo binh đã sẵn sàng cả chưa?/”  – “Báo cáo tất cả đã sẵn sàng chờ lệnh đồng chí./”    “Bộ chỉ huy chiến dịch đồng ý với các để nghị của các đồng chí.  Trận mở đầu mở màn cho chiến dịch lịch sử, tôi hạ lệnh cho các đồng chí:  bắn trúng, bắn nhanh, bắn mạnh./”.  Chiến dịch lịch sử bắt đầu, tôi nhìn đồng hồ 17 giờ 10 phút”.

Việc ra lệnh bắn trúng hay bắn nhanh là lệnh của ông hạ sĩ quan khẩu đội trưởng súng đại bác chứ đâu phải của ông tướng. Còn lệnh khai hỏa là lệnh của ông Tiểu đoàn trưởng có mặt ngay tại trận địa chứ đâu phải của cái ông ngồi ở hậu cứ.

Ngoài ra bất cứ một người xạ thủ pháo binh nào cũng luôn luôn thao tác nhanh với tất cả khả năng mà họ có, không cần ông tướng phải ra lệnh. Và lúc nào cũng chủ tâm bắn trúng chứ không phải đợi có lệnh của ông tướng mới chịu bắn trúng.  Hơn nữa, bắn mạnh nghĩa là thế nào?  Một khẩu súng đại bác bắn mạnh hay yếu là tùy theo lượng thuốc nạp, mà lượng thuốc nạp nhiều hay ít là tùy theo mục tiêu ở xa hay ở gần.

Không ai biết bắn mạnh nghĩa là thế nào. Tuy nhiên cũng nhờ có lệnh như vậy người ta mời biết ngoài lệnh bắn trúng còn có lệnh… bắn trật, ngoài lệnh bắn nhanh còn có lệnh… bắn chậm, ngoài lệnh bắn mạnh còn có lệnh… bắn yếu.  Chẳng qua là ra một cái lệnh cho có để ghi lại cái giây phút hạ lệnh “vô cùng thiêng liêng” đối với lịch sử.

Không bao giờ nhận khuyết điểm

Ngoài cách đổ lỗi cho thuộc cấp, Tướng Giáp luôn luôn bào chữa cho các sai sót của mình nghe rất xuôi tai. Ví dụ như trong trận tổng tấn công:  Ngay ngày đầu ông đã chiếm được cao điểm Dominique 1, đây là một vị trí lý tưởng để bố trí pháo binh bắn trực xạ vào trung tâm phòng thủ của Căn cứ Điện Biên Phủ. Thế mà ông không biết lợi dụng vị trí này mà ra lệnh cho bộ binh chiếm giữ.

Sau này các  nhà quân sự  Quốc tế đã đến thăm trận địa Điện Biên Phủ và họ thấy ngay lợi thế của đồi này và họ viết báo nêu thắc mắc :

“Sau này, một số nhà quân sự nước bạn tới thăm Điện Biên Phủ, khi đi nghiên cứu địa hình khu Đông thường cho rằng cao điểm quan trọng nhất là đồi E.  Đồi E và đồi D1 cao nhất trong dãy đồi phía Đông, khống chế cả khu trung tâm.  Đúng là khi chiếm được những vị trí này ta có một lợi thế trong tay, nhưng lại không có điều kiện triệt để khai thác lợi thế đó” (trang 297).

Mới nghe qua thì lời bào chữa này nghe cũng xong, nhưng nghĩ lại thì ông không giải thích vì sao ông không có điều kiện để biết khai thác triệt để.  Phải chăng ông không có điều kiện để theo học một trường lớp quân sự nào cho nên ông không biết?  Phải chăng ông không có điều kiện làm một người lính thực sự lăn lộn ngoài chiến trường cho nên ông không biết?

So lại với cung cách chỉ huy của Quân đội Việt Nam Cọng Hòa thì  không bao giờ người làm Tướng lại có cái cách đổ lỗi phủ đầu cho thuộc cấp.

Tướng Phan Đình Thứ  ( Lam Sơn ) là người nổi tiếng nghiêm khắc với các sĩ quan thuộc quyền nhưng vì xuất thân là một Cử nhân Văn chương cho nên các lời khiển trách của ông rất lịch sự.  Nhưng mỗi khi ông lên tiếng là chết lý, người bị khiển trách tự thấy tội của mình rõ ràng không thể chối được, và không bao giờ có ý nghĩ ông Tướng trách oan mình, chỉ biết tự trách mình quá dở.                                                         

Một ông tướng khác nổi tiếng là mỗi khi nóng giận ưa chưởi thề và hay dùng lời lẽ thô tục là Tướng Nguyễn Văn Toàn.  Tuy nhiên ông chỉ nổi nóng lên khi cái lỗi của đối tượng rõ ràng là quá tệ.  Nhưng mỗi khi như vậy ông chỉ chửi thề một mình và có cử chỉ vò đầu bứt tai chứ không bao giờ ông trách người phạm lỗi.

Còn đối với các lỗi do diễn biến bất ngờ không lường trước thì không bao giờ ông quy thành lỗi. Trái lại đối với các thuộc cấp bị sơ hở do thiếu kinh nghiệm luôn luôn được tướng Toàn chia sẻ như là lỗi của chính ông, ông ưa hỏi:  “Vì sao mà đến nỗi như rứa hả toa?”.  “Toa” là một tiếng thân mật mà ông thường dùng để gọi cấp dưới của mình.

Và một ông tướng khác nổi tiếng độc đoán là ông Đỗ Cao Trí, ông ra lệnh rất dứt khoát cho nên ông không ưa những câu nói dông dài hay nói loanh quanh.  Trong các buổi họp hành quân ông luôn luôn ngồi im nghe thuộc cấp trình bày trước.  Sau đó ông thường nói :  “Có ai có ý kiến gì nữa không?  Nếu không thì tới phiên tôi, tôi quyết định như thế này, như thế này…”.

Sau khi ông đã quyết định mà có ai lên tiếng thêm ý kiến thì ông gạt phăng, ông nói : “Các ông đã cho ý kiến xong thì tôi mới quyết định. Và tôi đã quyết định thì tôi chịu trách nhiệm, nhưng nếu quyết định của tôi bị sai do vì các ông cho ý kiến sai thì các ông sẽ lãnh đủ với tôi”.                                                           

                                                                                                                                                                   

Chỉ có phong thái chỉ huy như vậy mới được chọn làm tướng, mới được binh sĩ và sĩ quan dưới quyền hết lòng kính phục. Còn phong thái của ông Tổng tư lệnh Quân đội CSVN trông giống như một ông tướng thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, hễ thắng trận thì lãnh hết vinh quang, còn bại trận thì lôi đầu các tướng tá dưới quyền ra mà chém.

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP, (39) VÕ NGUYÊN GIÁP BỊ MẤT QUYỀN LỰC

Võ Nguyên Giáp được vào Bộ chính trị

Năm 1956, ngày 24-8, nhật báo Nhân Dân nhìn nhận hậu quả của Cách mạng cải cách ruộng đất:  “Anh em trong cùng một gia đình không còn dám đến thăm nhau, và dân chúng không dám chào hỏi khi gặp nhau ngoài đường phố”.

Năm 1956, ngày 29-9, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng họp trong 1 tháng để kiểm điểm những sai lầm và đề ra phương pháp sửa sai. Trường Chinh từ chức Tổng bí thư.  Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương bị loại ra khỏi Bộ chính trị, Hồ Việt Thắng bị loại ra khỏi ban chấp hành Trung ương Đảng.

Năm 1956, ngày 29-10, tại một cuộc mít tinh tại sân vận động Hàng Đẫy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chủ tịch đọc báo cáo của hội nghị Trung ương ĐCSVN chính thức công nhận những sai lầm trong Cải cách ruộng đất.

*Chú gải :  Hồ Chí Minh lợi dụng sự phẫn nộ của dân chúng để từ chối sự can thiệp của cán bộ Trung Quốc, đồng thời dùng quân đội của Võ Nguyên Giáp làm áp lực đẩy phe đảng của Trường Chinh ra khỏi trung tâm quyền lực.

HCM giao cho Võ Nguyên Giáp liên lạc với Đại sứ của Liên Xô là Séc Ba Cốp để tiến hành cách mạng vô sản theo chiều hướng xét lại của Krushcheve.   Đưa Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng vào Bộ Chính Trị của ĐCSVN thay thế Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương.

Rốt cuộc thì cánh Đồng Minh Hội là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan đã thực sự khống chế được trung tâm quyền lực của ĐCSVN.  Xa hơn nữa, các ông dự tính đưa Võ Nguyên Giáp vào Trung ương Đảng và vào thẳng Bộ chính trị để VNG có thể thay Trường Chinh lãnh đạo ĐCSVN.

Tuy nhiên người lãnh đạo cao cấp nhất còn lại của ĐCSVN là Lê Đức Thọ đã thấy ngay toan tính của HCM cho nên ông ta đã nhanh tay cứu vãn Trung ương Đảng bằng cách vận động đưa Lê Duẩn từ trong Miền Nam ra thay thế Trường Chinh, lấy lý do Lê Duẩn là người duy nhất đã không thi hành lệnh cải cách ruộng đất của La Quý Ba và Kiều Hiểu Quang.

Sự vận động của Lê Đức Thọ có ngay kết quả vì lúc bấy giờ đa số những người lên tiếng chống đối Cải cách ruộng đất là nhóm cán bộ ăn ngay nói thẳng của Miền Nam gồm có Ung Văn Khiêm, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Văn Trấn, Hà Huy Giáp, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Nguyễn Thị Thập…

Ngoài mặt Lê Đức Thọ lấy cớ là Lê Duẩn sáng suốt trong vụ cải cách ruộng đất, nhưng bề trong ông biết Lê Duẩn có lá bùa để trị ông Hồ Chí Minh.  Lá bùa đó đã được người phụ tá của Lê Đức Thọ là Hoàng Tùng thú nhận trong hồi ký:  “Anh Lê Duẩn có nói với tôi là Hà Huy Tập báo cáo với Quốc tế ( Cọng sản Quốc tế 3 ) về việc mật thám ( Pháp ) đưa bà Thanh ( Chị của Nguyễn Tất Thành ) đi Trung Quốc tìm Nguyễn Ái Quốc”.

Quả nhiên Lê Duẩn hạ HCM rất dễ dàng, cách của Lê Duẩn là nhân danh Tổng bí thư ĐCSVN đề nghị Liên Xô cho xem hồ sơ của HCM còn lưu trữ tại Mạc Tư Khoa mà trong đó có 2 thư tố cáo của Trần Phú, một thư tố cáo của Hà Huy Tập, và 1 thư tố cáo của Trần Ngọc Danh.  HCM sợ chân tướng bị bại lộ cho nên đành chịu lép vế cho tới cuối đời.

Năm 1960, ngày 5-9, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 chính thức bầu Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất  ( Do vì ở Liên Xô cũng không có chức vụ Tổng bí thư, Krushcheve cũng chỉ là Bí thư thứ nhất của Liên Xô ).  Đặc biệt kỳ này sửa đổi điều lệ Đảng, đặt ra chức Chủ tịch Đảng dành cho ông Hồ Chí Minh nhưng không có điều lệ nào quy định nhiệm vụ của Chủ tịch Đảng.

Đại hội cũng quyết định Đại tướng Võ Nguyên Giáp thôi giữ chức Phó thủ tướng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội, xuống giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Tướng Chu Văn Tấn thay Võ Nguyên Giáp giữ chức Tổng tư lệnh.  *( Thực ra việc ngưng chức đã xảy ra trước đại hội 2 tháng ).

Năm 1960, ngày 2-11,  phái đoàn Việt Nam gần 50 người do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu tham dự Hội nghị các nước Cọng sản tại Mạc Tư Khoa.  Sau khi nghe đọc bản dự thảo của nghị quyết, ông Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ung Văn Khiêm thảo ra văn bản tuyên bố tán thành nghị quyết của Mạc Tư Khoa.

Hạ bệ Hồ Chí Minh

Năm 1960, ngày 28-12, họp Đại hội lần thứ 2 Trung ương Đảng CSVN để nghe tường trình của phái đoàn tham dự Hội nghị tại Liên Xô.  Đại hội biểu quyết không ngã theo chủ trương sống chung hòa bình của Krushcheve.  Nghĩa là đi ngược chủ trương của  HCM.

Ngoài ra quyết định Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ra khỏi Quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Phát triển nông nghiệp;  Đại tướng Văn Tiến Dũng thay Nguyễn Chí Thanh giữ chức Bí thư Quân ủy và Trung tướng Song Hào thay Nguyễn Chí Thanh giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Đây là một cuộc âm thầm đảo chánh cho nên quyết định của đại hội Trung ương chỉ phổ biến trong nội bộ 47 người, và được bảo mật tuyệt đối.  Tuy nhiên theo hồi kí của Trần Quỳnh thì không chuyện gì giấu được tình báo của Trung Quốc và Liên Xô :

“Cái phức tạp hơn là ở chỗ khác. Tình báo của Trung Quốc cũng như của Liên Xô đầy dẫy khắp nơi. … những cuộc họp của Bộ chính trị ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân diễn ra thì trong ngày tin tức về nội dung cuộc họp đã đến tai Liên Xô và Trung Quốc”.

*Chú giải : Tại sao Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh bị hạ ?

Sở dĩ hai ông Đại tướng bị hạ thấp quyền lực vì sau vụ cải cách ruộng đất 1956 ông HCM đã bắt TC phải từ chức Tổng bí thư, đuổi Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt ra khỏi Bộ chính trị,  và giao cho VNG đứng ra ổn định tình thế, rồi đưa VNG vào Trung ương đảng ( Trước đó VNG đứng ngoài Trung ương, theo hồi ký “Đường tới Điện Biên Phủ” của VNG ).

Võ Nguyên Giáp đã thẳng tay triệt hết vây cánh của Trường Chinh đê âm mưu nhảy lên thống trị ĐCSVN.  Điều này đưa tới sự căm ghét ngầm của phe Trường Chinh.  Còn Nguyễn Chí Thanh thấy cánh Trường Chinh thất thế bèn ngã theo cánh HCM, thậm chí có tin đồn HCM nhận NCT làm con nuôi.

Hồi ký của Vũ Thư Hiên cho rằng Tướng Giáp bị hạ tầng công tác là do năm 1954 người ta phát hiện một lá đơn của ông gửi Toàn quyền Pháp để xin được đi du học, lời lẽ trong thư rất tệ mạt.  Còn Tướng Nguyễn Chí Thanh thì bị ông Đặng Xuân Thiều tố cáo là thời 1941 Thanh đã phản bội tổ chức, khai báo cho thực dân bắt các đồng chí.

Và hồi ký Mặt Thật của ông Bùi Tín cũng cho biết năm 1975 người ta tìm được bằng chứng phản bội của Tướng Nguyễn Chí Thanh trong hồ sơ lưu trữ của Chính quyền Sài Gòn.  * [Cho tới nay chưa có một thông tin nào khác để có thể kiểm chứng nguồn tin của ông Vũ Thư Hiên cũng như của ông Bùi Tín ].

Sự thật sau khi Trung Quốc cho bạch hóa hồ sơ mật về trận Điện Biên Phủ mới lòi ra Võ Nguyên Giáp không phải là người làm nên chiến thắng tại ĐBP nhưng ông ta vẫn ưỡn ngực nhận vinh quang trước thế giới.  Cho nên thời đó, 1960, Lê Duẩn chỉ cần công bố VNG không phải là người chỉ huy trận ĐBP thì sự nghiệp vĩ đại của VNG đi đời.  Vì vậy mà VNG đành chịu lép.

Còn Nguyễn Chí Thanh cũng bị phát hiện khai man lý lịch là do năm 1957 Lê Duẩn từ Miền Nam ra Hà Nội nắm quyền thì gặp lại Tôn Quang Phiệt và Tố Hữu ( Phiệt là người kết nạp Duẩn vào Đảng Tân Việt năm 1928.  Và cả hai cùng gia nhập ĐCSĐD năm 1938 do Hà Huy Tập và Trần Ngọc Danh kết nạp.  Còn Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, được Lê Duẩn và Nguyễn Khoa Văn kết nạp vào ĐCSĐD năm 1938 ).

Gặp lại Lê Duẩn thì Phiệt và Thành tố cáo Nguyễn Chí Thanh không xứng đáng ngồi trong ban chấp hành Trung ương do vì xuất thân không phải gai cấp cố nông, chỉ là khai man lý lịch ( Con nhà quan lại, học trường Tây ).

 

(40) VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM

Thú nhận của chính Võ Nguyên Giáp

Cho tới nay giới nghiên cứu quân sự của Hoa Kỳ vẫn đinh ninh rằng mọi chủ trương, mọi điều động tại chiến trường Miền Nam đều do Đại tướng Võ Nguyên Giáp phụ trách.  Do vậy mọi sách vở, báo chí của Mỹ từ trước tới giờ đều được xây dựng trên căn bản Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người kiến tạo nên mọi chiến thuật chiến lược của quân đội CSVN tại chiến trường Miền Nam Việt Nam.

Tuy nhiên người ta bắt đầu đặt một dấu hỏi lớn khi quyển sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của Đại tướng Văn Tiến Dũng được phát hành vào năm 1976 mà trong đó Võ Nguyên Giáp chỉ là một cái bóng rất mờ.

Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp đã viết quyển “Mùa Xuân Toàn Thắng” để thanh minh rằng ông ta vẫn là một Bộ trưởng bộ Quốc phòng và là tư lệnh của chiến dịch Mùa Xuân năm 1975.  Nhưng ông càng viết thì càng lòi ra sự thật, ví dụ ngày 29-4-1975 tướng Lê Trọng Tấn đánh điện báo cáo là quân của ông ta đã đến bờ sông Đồng Nai, còn cách Sài Gòn 15 cây số.  Tướng Giáp viết:

“Lúc đó vào nửa đêm, tôi đến nhà anh Ba (Lê Duẫn) đề nghị cho cánh phía Đông đánh vào 18 giờ chiều, sớn hơn giờ G mười hai tiếng.  Anh Ba đồng ý và nói:  “Đánh, đánh thôi anh ạ!  Lúc này, cánh quân nào phát triển thắng lợi là tạo thắng lợi chung cho toàn chiến dịch”/.  Tôi hỏi: “Điện ký tên anh chứ?/”. Anh Ba đáp:  “Không ! anh là Tổng tư lệnh, ký tên anh”/.  Một thoáng sau, anh Ba nói thêm:  “Ký thêm tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba nhất trí” (Võ Nguyên Giáp, Mùa xuân toàn thắng, trang 333).

Vô tình Tướng Giáp thú nhận mọi mệnh lệnh quân sự quan trọng ông đều phải hỏi Lê Duẩn;  thậm chí đã được Lê Duẩn đồng ý rồi mà ông cũng không dám ký tên vào mệnh lệnh, ông đã rụt rè hỏi lại Lê Duẩn là ông có ký tên vào lệnh đó được không? Với cách hỏi khiêm tốn của Tướng Giáp thì Tổng bí thư thấy tội nghiệp và cho phép ông ký vào, nhưng chỉ một thoáng sau Tổng bí thư đổi ý và bảo ghi thêm vào rằng đó chính là lệnh của ông ta.

Quyển sách của Tướng Giáp khiến cho giới nghiên cứu quân sự bắt đầu chú ý và cố gắng tìm hiểu thêm vai trò thật sự của ông Giáp trong cuộc chiến Miền Nam cũng như trong trung tâm quyền lực của ĐCSVN dưới thời Lê Duẩn.  Và rồi mọi sự bắt đầu hé lộ vào năm 1991 khi ông Bùi Tín xuất bản cuốn sách Hoa Xuyên Tuyết, trong đó cho thấy :

Rõ rệt nhất là ở tòa soạn báo Nhân Dân tháng 3.1983 nói chuyện từ vụ trưởng trở lên, ông (Lê Duẩn) ngang nhiên nói “Hồi đó ( hồi đánh Mỹ ), Bộ trưởng Quốc phòng nhát như thỏ đế, vừa đánh Mỹ mà vừa run như vậy này ( ông co người lại run rẩy ).  Do đó chúng tôi không để cho chỉ huy, chúng tôi phải trực tiếp nắm tình hình và chỉ đạo chiến tranh, và trên thực tế đã thay người khác trong nhiệm vụ Bộ trưởng Quốc Phòng”( Bản in lần 2 trang 137 )… … Thật ra không phải chỉ gần đây, mà từ năm 1962, ông Giáp đã bị đụng chạm khá mạnh…”( trang 141)… …

Tiết lộ của nhà văn Vũ Thư Hiên

Sang năm 1996 ông Vũ Thư Hiên phát hành quyển sách “Đêm Giữa Ban Ngày” xác nhận chuyện ông Giáp bị mất quyền lực là từ năm 1954 chứ không phải 1962, theo ông Hiên thì sau khi tiếp thu Hà Nội người ta lục được trong hồ sơ của Pháp để lại có một lá đơn của ông Giáp xin đi học trường Hậu Bổ là trường dạy làm quan của Pháp, trong thư lời lẽ rất là tệ mạt.

Chính vì vậy mà sau khi Trường Chinh bị mất chức Tổng bí thư thì lẽ ra Võ Nguyên Giáp mới là người lên thay thế nhưng ngược lại, uy thế của Tướng Giáp bị sụt giảm dần dần cho tới khi xảy ra vụ án xét lại chống đảng vào đầu năm 1964;  đến năm này Võ Nguyên Giáp trở thành một tội đồ mang án treo của ĐCSVN.

Tố cáo của Phó thủ tướng Trần Quỳnh

Rồi đến năm 1998 ông Trần Quỳnh là cựu bí thư của Lê Duẩn đã cho lưu hành tài liệu “Những kỷ niệm về Lê Duẩn”, trong đó xác nhận rõ ràng vai trò của Võ Nguyên Giáp trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam :

“Trong khi toàn Đảng ta tiến hành cuộc đấu tranh để khỏi bị ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại, và trong khi trào lưu thân Trung Quốc đang cuồn cuộn thì xảy ra một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của Đảng, đó là vụ án chống Đảng. Không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta, một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng.

Họ lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ chính trị làm mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên trong Trung ương. Trong tổ chức đó có Đặng Kim Giang, Lê Liêm. Theo lời khai của Đặng Kim Giang thì linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. …

Ngoài ra, năm 2008 tài liệu “Bách khoa toàn thư mở Wikipedia” trong mục tiểu sử Võ Nguyên Giáp có ghi : “Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước”.

Thực ra không phải là kiêm nhiệm mà sự thực là tại Đại hội toàn quốc lần thứ 3 ngày 5-9-1960 ông Giáp bị chính thức thôi chức Tổng tham mưu trưởng, Tướng Chu Văn Tấn thay thế;  và cũng ngưng chức Bộ trưởng bộ Quốc phòng của ông Giáp nhưng không cắt người thay thế.  Việc ngưng chức đã xảy ra trước Đại hội 2 tháng.

Cũng một cách như vậy, tài liệu Wikipedia ghi về tướng Nguyễn Chí Thanh : “Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng. Cuối năm 1960, ông được cử giữ chức Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương”

Nhưng thực ra là tại Đại hội trung ương Đảng họp ngày 28-12-1960 ông Thanh bị ngưng chức Tổng bí thư Quân ủy, giao cho Đại tướng Văn Tiến Dũng;  còn chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị giao cho Trung tướng Song Hào ( Thực ra việc thay thế diễn ra vào tháng 3-1960 ).

Ông Dũng và ông Hào là cán bộ của Đảng Cọng sản Đông Dương từ thời 1930, luôn luôn có địa vị trong Đảng cao hơn Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp.  Ông Thanh chỉ mới vào Đảng năm 1937, còn ông Giáp thì theo như lời chứng của “bác Hồ” thì ông vào Đảng năm 1940 ở bên Trung Hoa.  Không ai biết có đúng như vậy hay không bởi vì có nhiều bằng cớ cho thấy “bác” làm chứng gian rất nhiều chuyện.  Riêng hồi ký của ông Hoàng Văn Hoan cho thấy năm 1944 ông Giáp và ông Phạm Văn Đồng còn ở ngoài Đảng CSVN.

Thông tin tình báo của Mỹ và VNCH

Một bằng chứng khác :  Mùa hè năm 1966, để đáp lại vận động hòa đàm của phía Hoa Kỳ, tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư quân ủy Trung ương cục Miền Nam viết một bài đăng trên báo Quân đội Nhân dân với tựa đề  “Chiến lược chiến tranh bảo vệ tổ quốc”:

 “Ý đồ chủ yếu của chúng ta là chiến thắng quân sự…Chúng ta phải đạt được thắng lợi quân sự trước khi nghĩ đến những cuộc đấu tranh ngoại giao.  Và thậm chí khi nào chúng ta đấu tranh về ngoại giao, chúng ta cũng phải tiếp tục nỗ lực chiến tranh của chúng ta, chúng ta sẽ thừa thắng xông lên nếu chúng ta muốn đạt thành công trong mặt ngoại giao” ( Hồi ký của tướng Westmoreland, bản dịch của Duy Nguyên trang 284 ).

Sau khi đọc bài viết của Tướng Thanh dưới bút hiệu Trường Sơn, Tướng Giáp viết một bài báo với tựa đề “Về chiến lược chiến tranh bảo vệ tổ quốc”, trong đó ông phản bác chủ trương dùng chiến thắng trên chiến trường để làm lợi thế đàm phán.

Tướng Giáp cho rằng chiến tranh tại Miền Nam không giống như thời Điện Biên Phủ bởi vì nhân lực và tài lực của Hoa Kỳ hầu như vô tận cho nên kiếm được chiến thắng quân sự như trận Điện Biên Phủ là chuyện không thể nào thực hiện được.  Chẳng qua Hoa Kỳ buộc phải nghĩ tới đàm phán là do kết quả của chiến tranh du kích, như vậy muốn kiếm lợi thế trên bàn đàm phán thì phải tăng cường hoạt động du kích chiến.

Không ngờ bài báo của Tướng Giáp đến tay Tổng bí thư Lê Duẩn.  Hồi ký của Phó thủ tướng Trần Quỳnh ghi lại :

“Xem bài báo đó Lê Duẩn gọi Giáp đến hỏi: “Anh viết bài báo nhắm mục đích gì vì nội dung của nó tôi thấy sai hết.  Viết để đánh lừa quân địch chăng?  Nếu thế thì quân đội ta khi đọc bài của anh cũng sẽ bị lừa nốt.  Viết cho quân đội ta chăng, thế thì anh tiết lộ bí mật về ý đồ của mình cho địch biết”.  Giáp cứng họng thanh minh ấp úng, xin lỗi rồi về”.

Sau đó Lê Duẩn chỉ thị cho tờ Quân đội Nhân Dân đăng bài của Nguyễn Chí Thanh chỉ trích Võ Nguyên Giáp: “Ông ta (VNG) là một người bảo thủ, chỉ biết sử dụng những phương pháp cũ rích và những kinh nghiệm lỗi thời.  Mọi người đều biết là ông ta chỉ lập lại một cách máy móc những gì của quá khứ chứ không có khả năng để phân tách những tình hình cụ thể tại địa phương đòi hỏi những đáp ứng mới mẻ kịp thời” ( Hoàng Ngọc Lung, Những Trận Tổng Tấn Công Năm 1968-1969, trang 29).

Đây là một bằng chứng cho thấy năm 1966 Tướng Giáp cũng không có một chút thực quyền nào về mặt chỉ huy quân sự;  ông ta chỉ được sử dụng như một ông tượng đất nhằm hù dọa các chuyên gia quân sự Hoa Kỳ và dư luận báo chí thế giới.  Còn Lê Duẩn mới là người đích thực điểu khiển bộ máy chiến tranh Miền Nam.

 

(41) VỤ ÁN “XÉT LẠI CHỐNG ĐẢNG”

Tình hình nội bộ Bắc Việt năm 1967

Năm 1967, ngày 5-7, Tướng CSVN Nguyễn Chí Thanh đến chào Chủ tịch HCM để chuẩn bị lên đường trở lại Trung ương cục Miền Nam sau 5 tháng điều trị vết thương do một trận B.52 dội bom tại Cam Bốt..  Không ngờ chiều hôm đó ông bị lên cơn nhồi máu cơ tim và chết tại bệnh viện vào sáng hôm sau.

Cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh được giữ bí mật cho đến năm 1984 sau khi ông Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc và viết hồi ký tố cáo Lê Duẩn giết Nguyễn Chí Thanh bằng thuốc độc.  Để phản biện, Lê Duẩn cho người viết sách kể rõ về cái chết của Nguyễn Chí Thanh với lời chứng của gia đình Tướng Thanh.

Năm 1967, tháng 7, hai tuần sau đám tang của Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và vợ đi nghỉ mát dài hạn tại Hungaria. Chuyến nghỉ mát kéo dài đúng 6 tháng. Mãi đến ngày 29-1-1968 VNG mới được trở về Hà Nội.  ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc ).

Trước khi lên đường Tướng Giáp phải viết sẵn một bài báo nhan đề “Chiến thắng vĩ đại, trách vụ to lớn”.  Bài viết được đăng báo và đọc trên đài phát thanh vào giữa tháng 9 năm 1967 để cho CIA in trí rằng tới tháng 9 năm 1967 Tướng Giáp mới lên đường nghĩ mát, và lúc này Tướng Giáp thôi không nghĩ đến chiến tranh.

Năm 1967, ngày 24-7, Ông Hồ Chí Minh và Thủ tướng CSVN Phạm Văn Đồng tiếp hai sứ giả hòa bình của Tổng thống Johnson là Raymond Aubrac và Herbert Marcovich.  *( Aubrac là người quen biết với HCM thời 1946, khi HCM tham dự hội nghị Fontainebleu có trú ngụ tại nhà của Aubrac ).  Hà Nội  đã gần như thỏa thuận đàm phán với điều kiện Johnson phải tuyên bố ngưng ném bom Bắc Việt.

Năm 1967, ngày 25-8, tại Paris;  Aubrac và Marcovich chuyển tới đại diện của Hà Nội tại Paris thông điệp sẵn sàng ngưng ném bom của Tổng thống Johnson.  Tuy nhiên lúc đó Lê Duẩn đang có một kế hoạch khác mà ngay cả HCM cũng không được phép biết.

Thực ra là Lê Duẩn quyết định đánh chiếm Miền Nam sau khi biết rõ Johnson muốn cầu hòa. Thư cầu hòa là một bằng chứng để Lê Duẩn có thể cầm nó sang Bắc Kinh xin Mao Trạch Đông cung cấp vũ khí và chiến phí cho trận Tổng công kích Mậu Thân.

Năm 1967, ngày 5-9, sau khi dự lễ Quốc Khánh CSVN, Hồ Chí Minh lên đường đi Bắc Kinh để chữa bệnh.  *( Lê Duẩn biết Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã từng cọng tác với tình báo Mỹ năm 1944-1945, cho nên LD cũng e ngại HCM và VNG có thể mật  tiết lộ kế hoạch Tổng công kích Mậu Thân của Hà Nội cho Mỹ ).

Năm 1967, ngày 11-9, Thứ trưởng Ngoại giao CSVN Mai Văn Bộ chuyển cho Aubrac và Markocich thư của Hà Nội trả lời thông điệp ngày 25-8 của Tổng thống Johnson :  Hà Nội kiên quyết bác bỏ đề nghị đàm phán nếu Mỹ không ngưng ném bom Bắc Việt.

Ngày 11-9-67, Tổng thống Johnson trả lời thư của Hà Nội : Mỹ sẵn sàng ngưng ném bom để đàm phán nếu Hà Nội cam kết không lợi dụng việc ngưng ném bom để chuyển quân vào Miền Nam.  Ngày 29-9-67, Hà Nội bác bỏ đề nghị của Johnson. ( Bởi vì Lê Duẩn đang chuẩn bị Tổng công kích Mậu Thân ).

Năm 1967, ngày 20-9, từ Hungaria Tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh văn phòng bộ TTM/CSVN, để hỏi thăm tình hình tại Hà Nội. Cùng lúc này Lê Duẩn cho thẩm lậu tin Võ Nguyên Giáp và vợ đang nghỉ mát tại Hungaria nhằm đánh lừa tình báo Mỹ.

Năm 1967, ngày 11-11-1967, Tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư cho Đại tá Hiếu, hỏi thăm về số phận của cá nhân ông : “Lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc như thế nào ?” ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, Chương XV ).

Năm 1968, ngày 6-1; Lê Duẩn cho lệnh phát động chiến dịch bắt giam toàn bộ nhóm “thân Liên Xô” để rảnh tay chỉ huy chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân tại Miền Nam.

Đại tá Lê Trọng Nghĩa Cục trưởng Cục tình báo CSVN, bị bắt cùng với cục trưởng Cục tác chiến Đỗ Đức Kiên; Đại tá Lê Minh Nghĩa, Phó văn phòng Bộ TTM CSVN…Riêng Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh văn phòng Bộ TTM, bị đưa đi an trí tại Học viện Quân sự Tam Đảo.

Cùng lúc này, Lê Duẩn ra lệnh cho VNG trở về Hà Nội bởi vì Lê  Duẩn cần sự có mặt của VNG tại Hà Nội để Washington tin rằng chuyện VNG đi Hungaria chỉ là đánh lừa, còn sự thực lâu nay Võ Nguyên Giáp đang nằm tại Miền Nam để âm thầm tổ chức trận Mậu Thân.

Năm 1968, ngày 29-1, Tướng Võ Nguyên Giáp về tới Hà Nội.  Ngày 30-1, ông được Đại tá Vũ Lăng, Cục trưởng cục Tác chiến, báo cáo về kế hoạch tồng công kích tại Miền Nam sẽ khai diễn vào ngày mai.  *( Theo hồi ký của Vũ Kỳ thì VNG có ghé thăm HCM tại Bắc Kinh trên đường về Hà Nội ).

Năm 1968, ngày 6-2, sáu ngày sau khi VNG trở về, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Thứ trưởng bộ quốc phòng, bị cách chức vì có liên quan đến vụ “âm mưu chống Đảng” mà người ta nghi là do Võ Nguyên Giáp cầm đầu.  Theo hồi ký của Vũ Thư Hiên thì những người này bị ép phải khai ra là do Võ Nguyên Giáp lãnh đạo.

 

BÌNH LUẬN

 

Đoạn tài liệu trên đây cho thấy vào năm 1968 Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp được đối xử như hai kẻ tội đồ đối với ĐCSVN.

Hai người này đã từng cùng nhau lập ra Việt Minh Hội vào tháng 10 năm 1940, cùng liên minh với Trường Chinh lập ra Mặt trận Việt Minh năm 1944, cùng cọng tác với tình báo Mỹ năm 1945, cùng đến gặp đại diện của Mỹ vào ngày 26-8-1945 để xin phép thành lập Chính phủ Lâm thời trong khi Việt Nam vô chính phủ ( Tài liệu của Viện sử học CSVN;  Dương Trung Quốc; “Việt Nam, Những Sự Kiên Lịch Sử 1919-1945”, trang 421 ).

Thế nhưng nực cười là mãi cho tới năm 2001 Mỹ vẫn đinh ninh rằng HCM và VNG là hai nhân vật đầy quyền lực đã làm nên chiến thắng Mậu Thân tại Miền Nam (sic).  Hồi ký của Tướng Westmoreland xuất bản năm 1989 đã viết :

“Giữa năm 1967, Bắc Việt đang ở thế yếu trông thấy rõ… Do đó Tướng Giáp lúc bấy giờ làm bộ trưởng Quốc phòng cũng nhiều nhân vật đầu não của Hà Nội quyết định phải thay đổi chiến lược….”,  “Vì vậy mà Bắc Việt quyết định làm một cuộc đột phá bằng cách tổ chức một cuộc tổng tấn công trên toàn lãnh thổ Miền Nam…” ( Bản dịch của Duy Nguyên trang 589 ).

Và tài liệu của cựu Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến năm 2001:

“Cuộc tổng công kích Mậu Thân, Giáp nhằm vào chiến lược đó.  Giáp muốn qua trận tấn công này chứng tỏ ông ta vẫn còn ở thế chủ động”.( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 201 ).

Nghĩa là Mỹ tin rằng Tướng Giáp là người chỉ huy trận Mậu Thân 1968.  Kết quả của trận này đã khiến cho Bộ trường Quốc phòng Mc Nammara và Westmoreland mất chức.  Tổng thống Johnson công khai kêu gọi Hà Nội hãy ngừng tay ( Đàm phán).

(42) VÕ NGUYÊN GIÁP VỚI TRẬN MẬU THÂN

Giấc mơ của Lê Duẩn

Tổng bí thư Lê Duẩn quyết định tổng tấn công đánh chiếm Miền Nam sau khi ông nhận được bức thư cầu hòa của Tổng thống Johnson vào tháng Hai năm 1967.  Lúc đó Hà Nội chưa nhận được vũ khí và tiền bạc của ông Mao Trạch Đông nhưng Mỹ đã thua xiểng niểng.  Vậy thì một khi CSVN có được vũ khí chống tăng, chống máy bay thì không tội gì mà không đánh rấn tới để chiến thắng đế quốc Mỹ.

Quyết tâm của ông càng trở nên mạnh mẻ sau khi Nguyễn Chí Thanh ra Hà Nội để chữa bệnh vào đầu năm 1967.  Từ đầu năm cho tới tháng 7 Nguyễn Chí Thanh và Lê Duẩn, Phạm Hùng cùng bàn bạc để lập kế hoạch tổng tấn công, tổng nổi dậy trên khắp Miền Nam Việt Nam.

Cuộc chuẩn bị không hề có sự tham gia của Võ Nguyên Giáp, vì vậy Võ Nguyên Giáp đã vô tình viết một bài báo đả kích chủ trương đánh lớn của Nguyễn Chí Thanh khiến cho Lê Duẩn nổi giận bắt Võ Nguyên Giáp phải im tiếng.  Không ngờ vừa xong vụ đó, Nguyễn Chí Thanh lăn đùng ra chết ngay trong ngày sửa soạn lên đường trở vào Nam.

Năm 1967, tháng 7, hai tuần sau đám tang của Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và vợ đi nghỉ mát dài hạn tại Hungaria. Chuyến nghỉ mát kéo dài đúng 6 tháng. Mãi đến ngày 29-1-1968 VNG mới được trở về Hà Nội.  ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc ).

Trước khi lên đường Tướng Giáp phải viết sẵn một bài báo nhan đề “Chiến thắng vĩ đại, trách vụ to lớn”.  Bài viết nhằm đánh lừa tình báo của Mỹ.  Trong đó ông Giáp cho rằng:

(1) Phải chiến đấu lâu dài, cho dù 10 năm hay 20 năm.  (2) Ưu tiên tấn công các đơn vị quân đội Mỹ và các nước đồng minh.  (3) Tập trung đánh lớn tại vùng giới tuyến.  (4) Nhân dân Miền Bắc chuẩn bị đối phó với việc Mỹ có thể đổ bộ tấn công tại Quảng Bình hay Hà Tĩnh.

Đọc được bài báo của Võ Nguyên Giáp, Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam là  Westmoreland bèn: (1) Tính tới chuyện rút quân và giao nhiệm vụ chiến đấu 10 năm, 20 năm cho VNCH.  (2) Tăng cường hệ thống phòng thủ tại các căn cứ đóng quân của Mỹ.  (3) Tăng cường phòng thủ khu vực phía Nam sông Bến Hải bằng cách chuyển Sư đoàn 101 Không vận từ An Khê, Bình Định ra Quảng Trị ( Hồi ký của Westmoreland ).

Trong khi đó sự  thực kế hoạch  tấn công của Lê Duẩn là nhắm vào các mục tiêu ngược lại;  nghĩa là: (1) Chiếm ngay Miền Nam Việt Nam trong năm 1968. (2) Chỉ tấn công các cơ sở hành chánh và các đơn vị không tác chiến của quân VNCH. (3) Đánh khắp Miền Nam. (4)  Còn chuyện chuẩn bị chống quân Mỹ đổ bộ ra Bắc chỉ là động tác giả.

Ngày 19-10-1967, Hà Nội tuyên bố hưu chiến trong 7 ngày để nhân dân ăn tết, bắt đầu từ ngày 30-1-1968.  Để đáp lại thiện chí của CSVN, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng tuyên bố hưu chiến trong 3 ngày tết.

Vai trò của ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp trong trận Mậu thân

Theo bài tùy bút “Bác Hồ với tết Mậu Thân năm ấy” của Vũ Kỳ, Bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên báo Văn Nghệ, số báo tết Mậu Dần 1998:

Ngày 21-12-1967 : Văn phòng Trung ương điện sang mời Bác trở về dự hội nghị sẽ khai mạc vào sáng ngày 28-12-1967 (Lúc này HCM đang nghỉ dưỡng bệnh ở Bắc Kinh).

Ngày 23-12-1967 :  Máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà Nội… Trước khi đi ngủ Bác gọi điện sang Văn phòng Quân ủy, hỏi sức khỏe của đồng chí Võ Nguyên Giáp – Lúc này đang nghỉ ở Hung Ga Ri – và nhắc gửi thiếp và quà cho vợ chồng chú Văn (VNG).  Bác nói : – Dịp nô-en và Tết dương lịch bên ấy như Tết ta ở bên mình. Tâm lý những người xa quê hương rất mong có một món quà của Tổ quốc.

Ngày 31-12-1967, Bác Hồ ra Phủ chủ tịch để thu thanh sẵn lời chúc mừng năm mới Mậu Thân ( Sẽ phát đi đúng 1 tháng sau ).  Ngày 1-1-1968, Năm mới, Bác đi thăm một số nơi bị máy bay Mỹ bắn phá tại Hà Nội…Buổi chiều Bác lên đường sang Trung Quốc.

Ngày 29-1-1968, lúc 12 giờ, tại Bắc Kinh.  Tiếng pháo nổ ran…cùng lúc từ chiếc đài bán dẫn, tiếng Bác Hồ vang lên sang sảng : “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua…”…  Trong căn phòng vắng chỉ có 2 người ( HCM và Vũ Kỳ, hai bác cháu ngồi nghe lời chúc tết được thu trước đó 1 tháng )…!

Năm 1968, ngày 29-1, Tướng Võ Nguyên Giáp về tới Hà Nội.  Ngày 30-1, ông được Đại tá Vũ Lăng, Cục trưởng cục Tác chiến, báo cáo về kế hoạch tổng công kích tại Miền Nam sẽ khai diễn vào ngày mai.  Nghĩa là VNG chỉ được biết trước 1 ngày về kế hoạch tổng công kích Mậu Thân.

Sự thật về Võ Nguyên Giáp trong trận Mậu Thân là như vậy, nhưng rất đáng tiếc là cho tới năm 2001, giáo sư Stephen Young viết ra quyển sách Lost Victory sau khi tham khảo các tài liệu của CIA và của Ngũ Giác Đài.  Ông đã viết về vai trò của Võ Nguyên Giáp như sau:

“ Vào mùa hè 1967, khi kế hoạch tổng công kích vào dịp tết đã được đặt ra, chiến lược gia hàng đầu của Hà Nội là Võ Nguyên Giáp đã tiên liệu, nỗ lực mà Lyndon Johnson để ứng phó vào cuộc chiến đã lên đến tột đỉnh… Giáp viết thêm, Hoa Kỳ đã cạn khả năng để leo thang chiến tranh.  Xuất phát từ nhận định đó, Hà Nội cho rằng thời điểm đã chín mùi để họ giải quyết cuộc chiến Việt Nam”( Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng, trang 177).

Chắc có lẽ giáo sư Stephen Young sẽ đau lòng lắm lắm khi ông biết được sự thực rằng không bao giờ các tướng lãnh hay chính trị gia CSVN phơi bày chiến lược hay sách lược của họ lên báo!  Nhưng nếu các chiến lược gia Mỹ tin rằng đó là gan ruột của các nhà lãnh đạo CSVN thì các chiến lựơc gia này còn ngu hơn là dân ngu của CSVN.

Khi tung ra bài tiểu luận đó Lê Duẩn chỉ mong xí gạt được các bình luận gia báo chí của Mỹ chứ ông không hề mong CIA hay Ngũ Giác đài coi đó là chiến lược chiến thuật của các nhà lãnh đạo CSVN.  Thế mà chuyện đó đã xảy ra thật, có nằm mơ Lê Duẩn cũng không tưởng tượng ra nổi.

Lê Duẩn cho VNG và vợ đi nghỉ mát Tại Hung Ga Ri là để đánh lừa tình báo Mỹ.  Một khi Tướng Giáp và vợ ăn tết lại Châu Âu thì có nghĩa là chiến trường miền Nam chẳng có gì nổi bật.  Trong khi đó Hà Nội tuyên bố hưu chiến trong 7 ngày tết.  Rõ ràng là chiến trường Miền Nam sẽ được yên lắng ít ra là trong mấy ngày tết.

Nhưng rồi Tướng Giáp bất thần xuất hiện tại Hà Nội trong mấy ngày Tết khiến cho tình báo Mỹ lại tin rằng chuyện đi nghĩ mát tại Hung chỉ là động tác giả, giờ đây thì động tác thật của ông ta là chỉ huy chiến trường Miền Nam…!  Tòa Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài càng mất hồn hơn nữa.

Sau năm 1975, Trung tâm Quân sử của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã mời Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng phòng tình báo của Bộ tổng tham mưu QLVNCH viết về những điều mà ông rút ra được trong cuộc chiến.  Đại tá Lung đã viết quyển “The General Offensives 1968-1969”.  Trong đó ông thú nhận :

Bài viết “Chiến thắng vĩ đại, trách vụ to lớn” của Võ Nguyên Giáp cũng góp phần vào sự sai lầm nghiêm trọng cho những chuyên viên phân tích tình báo của chúng ta.  Cái sai lầm nhất là tưởng rằng Giáp sẽ theo đuổi một cuộc chiến kéo dài trong nhiều năm nữa.  Với ý tưởng này, các chuyên viên của chúng ta kết luận rằng không thể có một cuộc tổng tấn công trong một thời gian gần được ( Bản dịch của Kiều Công Cự ).

Năm 1976 Trung tâm Quân sử của Hoa Kỳ đã phổ biến tài liệu của Đại tá Hoàng Ngọc Lung, xác nhận rằng không nên lấy quan điểm cá nhân của ông Võ Nguyên Giáp để làm căn bản khi nghiên cứu về cuộc chiến Việt Nam.  Thế nhưng cho đến nay, và không biết đến bao giờ, mọi tài liệu sử học của Hoa Kỳ đều dựa trên căn bản Đại tướng Võ Nguyên Giáp là linh hồn của cuộc chiến chống Mỹ tại Miền Nam.

 

(43) VÕ NGUYÊN GIÁP BỊ PHẾ THẢI

Đại Thắng Mùa Xuân

 

 Sau 30 tháng 4 năm 1975 báo chí thế giới ca ngợi chiến thắng của quân CSVN thì ít nhưng ca ngợi Võ Nguyên Giáp thì nhiều.   Sự kiện này khiến cho người thực sự điều động cuộc chiến chống Mỹ là ông Lê Duẩn cảm thấy chạnh lòng.

 

Bởi vì sự thực người làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ là Tướng Vi Quốc Thanh với đoàn cố vấn 79 người của Trung Quốc nhưng Hồ Chí Minh đã để cho Võ Nguyên Giáp hưởng trọn vinh quang.  Và vì biết Võ Nguyên Giáp chẳng có tài cán gì cho nên Lê Duẩn để cho Võ Nguyên Giáp ngồi chơi xơi nước trong suốt cuộc chiến với Mỹ.

Lê Duẩn cũng thừa thông minh để biết rằng oai danh của Võ Nguyên Giáp có thể hù dọa được các chuyên gia quân sự Mỹ và Thế giới, vì vậy ông ta quyết định duy trì chiếc ghế của Võ Nguyên Giáp trong Bộ chính trị cũng như trong Bộ Quốc phòng mà thực chất chỉ là hư vị để đánh lừa con mắt nhòm ngó của tình báo và báo chí Quốc tế.

Lẽ ra nếu VNG biết chuyện, cứ tuyên bố kín đáo rằng mọi chuyện do tổng bí thư Lê Duẫn lãnh đạo thì xong rồi.  Nhưng đằng này ông ta ưỡn ngực trả lời phỏng vấn của báo chí Quốc tế, vô tư nhận lấy vinh quang về mình, khiến cho Lê Duẩn dầu có là thánh cũng không nhịn nổi cho nên ông ta mới xúi ông Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng viết sách kể rõ ai là người chỉ huy trực tiếp tại chiến trường Miền Nam trong chiến dịch Mùa Xuân năm 1975.

Tinh thần của toàn bộ quyển sách cho thấy cuộc chiến thắng quân Mỹ là do công lao của Bộ chính trị ( Lê Duẩn ) và Quân ủy Trung ương ( Lê Duẩn ).  Đặc biệt Văn Tiến Dũng khiêm tốn không nhận công về mình nhưng luôn luôn kín đáo đề cao vai trò chỉ huy của Tổng bí thư Lê Duẩn.

Khi cuốn sách Đại Thắng Mùa Xuân được tung ra thì cả thế giới bật ngữa, kể cả CIA.  Người ta nửa tin nửa ngờ, cứ cho rằng có thể Văn Tiến Dũng viết bịa, cố tình cướp công của Võ Nguyên Giáp.  Và người ta chờ đợi phản ứng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Mùa Xuân Toàn Thắng

Quả nhiên sau khi đọc sách của Đại tướng Dũng thì Đại tướng Giáp bèn nhờ Trung tá Hữu Mai là người chuyên viết hồi ký cho ông, viết một cuốn sách tựa đề là Mùa Xuân Toàn Thắng để chứng tỏ rằng ông ta là người thực sự chỉ huy Văn Tiến Dũng vào thời điểm đó. ( Sau này sách được in lại với tựa đề “Tổng Hành Dinh Trong Mùa Xuân Toàn Thắng” )

Cuốn sách được in năm 1978, nhưng vừa phát hành thì Lê Duẩn cho lệnh tịch thu.  Sau đó là căng thẳng do chiến tranh với Campuchia và Trung Quốc cho nên mọi chuyện được xếp lại.  Nhưng khi cuộc chiến với Trung Quốc vừa xong thì Lê Duẩn đuổi Võ Nguyên Giáp ra khỏi Bộ Chính Trị, cách chức Bộ trưởng Quốc phòng, đưa xuống làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch sinh đẻ Nhà nước.

Thực ra khi viết ra cuốn sách đó Đại tướng VNG đã rào trước đón sau;  một điều “anh Ba bảo”, hai điều “anh Ba nói” .  Nhưng nội dung toàn quyển sách đều toát lên một ý là “tôi đã bàn với anh Ba” và “anh Ba đồng ý với tôi”, nghĩa là mọi chiến lược chiến thuật là do tôi nghĩ ra, anh Ba chỉ là người tuyên bố những kế hoạch của tôi.  Dĩ nhiên là Lê Duẩn đủ thông minh để thấy ra sự léo lận của Đại tướng, nhưng khổ nỗi Đại tướng nói có lý quá, với bề dày thành tích có sẵn từ trận Điện Biên Phủ thì ai mà không tin.

Ngay trong tựa đề Mùa Xuân Toàn Thắng đã cho thấy mục đích của cuốn sách là nhằm chọi lại cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, là cuốn sách ca ngợi Lê Duẩn.  Vì vậy chẳng những Lê Duẩn bị chạm nọc mà cho tới Văn Tiến Dũng và những người viết sách cho Văn Tiến Dũng cũng phẫn nộ vì lối viết léo lận, không thành thật của Võ Nguyên Giáp.

Trong chương 3, Võ Nguyên Giáp cho biết đầu năm 1974 ông ta bị bệnh đường ruột phải đi chữa bệnh tại Liên Xô, cho tới tháng 4 mới trở về nhưng còn dưỡng bệnh cho nên mọi tình hình quân sự ông chỉ nghe ngóng qua các sĩ quan làm việc trong bộ Tổng tham mưu.  Đến tháng 8 Đại tướng Văn Tiến Dũng bị bệnh phải đi trị bệnh ở nước ngoài thì VNG mon men đến “xin việc” nơi Tổng bí thư :

“Mùa hè năm 1974, anh Văn Tiến Dũng và tôi đều không được khỏe. Anh Dũng ốm phải đi nghỉ ở nước ngoài. Tôi vẫn còn trong kỳ dưỡng bệnh thường ra nghỉ ở Đồ Sơn.  Tình hình chuyển biến rất nhanh. Không một ai có thể ngồi yên. Tôi tranh thủ làm việc với đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn hồi này cũng thường nghỉ ở đấy.

 Anh Ba bàn với tôi về một loạt vấn đề chiến lược.  Chúng tôi trao đổi cùng tìm đáp án cho những câu hỏi nóng bỏng: Cuộc chiến tranh ở miền Nam đã đến giai đoạn nào? Thời cơ lớn đã xuất hiện chưa? Đã có điều kiện chín muồi cho một cuộc tổng tiến công chưa? Nếu có, tiến công và nổi dậy như thế nào? Phương hướng chiến lược ra sao?”

 Ý của VNG là ngay mùa hè 1974 ông ta đã có bàn chuyện tình hình chiến sự với TBT, nghĩa là ông ta đã truyền cho TBT mọi chiến lược chiến thuật của ông ta.

“ Thấy sức khỏe của tôi đã dần dần hồi phục, một hôm anh Ba bảo: “Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”.

Rõ ràng TBT không giao cho một việc cụ thể nào cho VNG mà chỉ nói “anh coi có việc gì đó làm được thì làm”.  Chứng tỏ là từ trước tới giờ Đại tướng chẳng có việc gì để làm cả.  Thậm chí Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đi chữa bệnh ở nước ngoài cũng không cho VNG tạm thay thế.

Vì vậy ngày 20-9-1974 Lê Duẩn cho gọi hai ông Tổng tham mưu phó là Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn xuống Đồ Sơn để chuẩn bị tài liệu cho hội nghị Trung ương Đảng sắp tới mà chẳng kêu Võ Nguyên Giáp để cùng bàn bạc.  Do vì có thân tình giao hảo với Tướng Giáp cho nên trước khi đi gặp Tổng bí thư, hai ông tướng có ghé qua nhà của Tướng Giáp.

Sau khi gặp xong, ngày 22-9 hai ông trở về và cho Tướng Giáp biết TBT đã hỏi những gì, nói những gì.  Khi viết lên chuyện này, Tướng Giáp cho rằng TBT đã biết được ý kiến riêng của ông qua ông Thái và ông Tấn, trong đó có 2 ý quan trọng là “Đánh ở Nam Tây Nguyên và sẽ chiến thắng trong vòng vài ba năm tới”.

Không biết có thật như vậy hay không nhưng có một sự thật hiển nhiên là TBT chỉ làm việc với hai ông Phó của tướng Dũng mặc dầu Tướng Dũng đang nghỉ bệnh, còn Tướng Giáp thì chỉ biết “nghe ngóng” qua hai ông kia.  Nếu Tướng Giáp thực sự có làm việc thì hai tướng kia phải gặp ông tại Văn phòng Quân ủy Trung ương hoặc Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng trước khi đi gặp TBT hay sau khi gặp TBT.

“Trong một buổi làm việc, anh Hoàng Minh Thảo, với nhãn quan một nhà nghiên cứu khoa học quân sự, đã nêu ý kiến:  khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất. Khó khăn phải vượt qua để tiến công trên hướng này là thiếu đường hành quân và thiếu nước. Tôi rất tán thành ( Mùa Xuân Toàn Thắng ).

“Sáng thứ ba tuần sau, trước khi thảo luận, anh Tấn nói lại ý của anh Dũng và anh Văn cho toàn tổ: “Anh Dũng chỉ thị đánh đúng vào Buôn Ma Thuột là chỗ yếu chí tử của địch. Đánh được vào đấy mới thắng to”.

Nghĩa là sáng kiến đánh Ban Mê Thuột không còn là của Tướng Hoàng Minh Thảo nữa, mà là ý của anh Văn, tức là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Trong khi đó sách của Văn Tiến Dũng lại cho rằng người ra lệnh đánh Buôn Ma Thuột là Bí thư Quân ủy Lê Duẩn :

“…đồng chí Lê Duẩn nói tiếp:  Ta phải giáng đòn chiến lược trong năm 1975. … Chúng ta đồng ý năm nay mở đầu bằng đánh Tây Nguyên.  Đồng chí chỉ tấm bản đồ treo phía sau lưng nói : Cần đánh mở ra ở Buôn Ma Thuột và Tuy Hoà” ( Đại Thắng Mùa Xuân, chương 2 ).

Đã vậy Võ Nguyên Giáp còn chơi ác, ông ta kể lại từng câu từng chữ của Tổng bí thư vào buổi sáng kết thúc hội nghị đó, nhưng TBT phát biểu huyên thuyên như một người điên :

“Vui vẻ, linh hoạt, anh Ba nói:… … Về cách đánh chiến lược, anh Ba nhắc lại cần nắm vững phương châm, phương pháp của ta là: Tiến công, nổi dậy, nổi dậy, tiến công, ba mũi giáp công, ba vùng chiến lược, tiêu diệt, làm chủ;  làm chủ, tiêu diệt, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Vẻ quyết tâm và nhiệt tình hiện rõ trên nét mặt, anh nói rất nhanh: Phải nắm vững chiến lược tổng hợp để tạo ra sức mạnh tổng hợp, luôn luôn tạo ra sức mạnh mới, thế mới, đánh liên tục và bất ngờ, tiến tới tổng phản công và nổi dậy”…

Nghĩa là Lê Duẩn chỉ biết hô khẩu hiệu chứ chẳng biết gì về chiến thuật chiến lược quân sự.  Cho nên mọi chuyện chỉ huy tại chiến trường Miền Nam đều do một mình Võ Nguyên Giáp cáng đáng hết.

Đến nông nỗi này thì Lê Duẩn chịu hết thấu, rõ ràng là Tướng Giáp chơi ông ta sát ván.  Vậy thì ông ta còn nhân từ gì nữa mà không cho Tướng Giáp xuống làm Ủy ban Kế hoạch hóa gia đình cho biết nhục.

 

(44) VÕ NGUYÊN GIÁP VÀ SÁCH VỞ QUÂN SỰ HỌC CỦA MỸ

Hào quang Võ Nguyên Giáp với chiến thắng Điện Biên Phủ

Năm 1954, ngày 6-4, sau trận tổng tấn công vào căn cứ Điện Biên Phủ thất bại, Tướng Giáp ra lệnh cho quân CSVN rút ra khỏi vành đai chung quanh ĐBP và tiến hành họp kiểm điểm.  Lúc này tướng Giáp đã nướng hết 23 ngàn quân trong số 42 ngàn quân CSVN tham chiến tại ĐBP.

Nhận được báo cáo sơ kết của Tướng Giáp, Bộ chính trị cử Hoàng Tùng, Phó trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng, đến Điện Biên Phủ để bàn xem nên tiếp tục đánh hay rút về vì mùa mưa sắp tới.

Trong buổi kiểm điểm Hoàng Tùng chứng kiến các cố vấn TQ vạch ra những sai lầm tệ hại của VNG, và ông cũng chứng kiến VNG trút hết mọi tội lỗi cho thuộc cấp của mình bằng những mánh khóe gian xảo.  Sau đó Hoàng Tùng trở về mang theo thư đề nghị của Võ Nguyên Giáp về việc tiếp tục đánh chiếm cho bằng được Điện Biên Phủ bằng cách đưa thêm 25 ngàn tân binh vào Điện Biên Phủ, trong khi quân Pháp chỉ còn 4.200 đã mất tinh thần sau 2 tháng tử chiến.

Hoàng Tùng biết rõ trận Điện Biên Phủ là do Trung Cọng chỉ huy.  Và 23 ngàn binh sĩ thương vong là do tài cầm quân “trời ơi đất hỡi” của Võ Nguyên Giáp.  Vì vậy mà sau trận Điện Biên Phủ, với cương vị Phó trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng ông cương quyết bác bỏ mọi đề nghị thăng thưởng cho VNG. *( HCM đề nghị thăng Thống tướng ).

Rồi sau đó Hoàng Tùng về làm Tổng Biên tập báo Nhân Dân,  với cương vị này ông phải nén lòng nín nhịn trước hình ảnh VNG ưỡn ngực huênh hoang với toàn thế giới mà không hề áy náy về hằng vạn cái chết oan uổng, phi lý của lính CSVN tại Điện Biên Phủ.

Chính vì sự nín nhịn lâu ngày đã khiến Hoàng Tùng bùng nổ thái độ miệt thị sau khi VNG bị tước quyền lực.  Phải nói Hoàng Tùng là người đi đầu trong việc lật mặt VNG, trả sự thật lại cho lịch sử.

Hồi ký “Đèn Cù” của Trần Đĩnh cũng cho thấy không phải VNG bị tước hết quyền lực từ năm 1981, mà VNG đã bị coi khinh ngay từ 1963 :

Xong Nghị quyết 9 ( 1963 ) , tôi được nghe truyền đạt rằng từ nay Cụ Hồ thôi họp Bộ chính trị – vì “sức khoẻ” – còn Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm thì ngồi chơi xơi nước và học nhạc lý cùng piano. Đảng ra tay trấn áp rất nhanh. Nghe nói lục soát cả chỗ làm việc ( trang 266 ).

Sáng ấy, báo Nhân Dân đăng bài kỷ niệm thành lập quân đội, có bức ảnh đơn vị Giải phóng quân đầu tiên với Giáp đội mũ phớt.  Họp toàn cơ quan, Hoàng Tùng giơ bức ảnh lên nói với tất cả hội trường: “Lại còn đi bê cái mũ phở  này lên làm gì nữa đây?” Giọng đầy miệt thị ( trang 268 ).

Hào quang Võ Nguyên Giáp với chiến thắng Mậu Thân

Trước trận Mậu Thân 1967, Tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng bộ Quốc phòng CSVN được Lê Duẩn cho đi nghỉ mát vô hạn định tại Hungaria. Sách “Bên Thắng Cuộc”

của Huy Đức ghi lại :

Khoảng chín giờ sáng ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi máu cơ tim”….Sự ra đi đột ngột của Tướng Thanh cũng làm cho ông Giáp bị sốc, ngay sau tang lễ Nguyễn Chí Thanh, Tướng Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh…

…“Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh…

…“Hai mươi ngày sau khi Nguyễn Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một tháng sau khi Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký thân cận nhất của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là “Chống Đảng” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động… ( Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, Chương 15 )

Những chi tiết trên đây do Huy Đức trích trong sách “Lê Duẩn” của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, sách “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên và bài viết của Đại tá Hiếu, chánh văn phòng của Tướng Giáp chứ không phải do HĐ bịa ra.  Huy Đức cũng kể rõ số phận của VNG trong những tháng bị lưu đày :

… Từ Hungary, ngày 20-9-1967 Tướng Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn mình còn ở lại đây ít hôm nữa. Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên lạc với anh Thạch, anh Tiến, khi nào có đoàn sang thì gửi mình”.

…Ngày 11-11-1967, Tướng Giáp gửi cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu lá thư thứ hai từ Hungary:

“Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ. Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào để có thể chuẩn bị trước”… ( Nghĩa là VNG muốn biết Lê Duẩn quyết định số phận của ông ta như thế nào ? )

Và ngày VNG được phép trở lại Hà Nội :

… Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ Chí Minh về tới Gia Lâm…

… Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu tiên mà Hồ Chí Minh làm là gọi điện tới Quân ủy Trung ương để hỏi thăm sức khỏe Tướng Giáp. Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân ủy nói Đại tướng đang ở nước ngoài, Hồ Chí Minh nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”..

Chú Văn là VNG, nghĩa là vợ chồng VNG đi Hungaria từ giữa tháng 7 cho tới cuối tháng 12 vẫn chưa được phép trở về.  Trong thời gian này Lê Duẩn ráo riết đưa AK.47, B.40, B.41 hỏa tiễn 107 ly, hỏa tiễn 122 ly vào Nam.

…. Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, Hồ Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” …

… Máy bay Trung Quốc đưa Tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được Tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày…

Sách Bên Thắng Cuộc của Huy Đức được in và phát hành tại Mỹ vào cuối năm 2013, cùng lúc cũng được in tại Nhà xuất bản Thanh Niên tại Sài Gòn và bán công khai nhưng không có quảng cáo.  Chứng tỏ đây là một tài liệu có giá trị mà cả trong và ngoài nước đều thừa nhận.

Võ Nguyên Giáp và sách vở quân sự học của Mỹ

Người đời không rõ tình hình nội bộ ĐCSVN nên thường thắc mắc tại sao một nhân vật đầy uy tín, đầy công lao của chế độ như VNG lại bị hạ một cách tàn tệ như vậy.  Người ta cũng thắc mắc tại sao người hùng của Điện Biên Phủ và cũng là người hùng của Mùa Xuân 75 lại chịu lép vế một cách nhục nhã, hoàn toàn không đáng mặt con nhà binh.  Trong khi đó các ông tướng Pháp và tướng Mỹ luôn luôn xem ông Giáp là người đã hạ họ một cách oanh liệt, họ tự cho rằng họ thua Tướng Giáp cũng là xứng đáng.

Năm 1961, nhà báo và cũng là nhà sử học Mỹ Bernard Fall đến Hà Nội để thu thập tài liệu viết về trận Điên Biên Phủ.  Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp ông rất niềm nỡ và giới thiệu cho ông gặp ông Phạm Văn Đồng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương ĐCSVN và cũng là Thủ Tướng.

Ông Đồng đã tận tình trả lời tất cả các câu hỏi của Bernard Fall về Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Điện Biên Phủ nhưng không cho gặp Tướng Giáp.  Bởi vì lúc này Tướng Giáp đã bị tước hết quyền lực và đang giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước. Lê Duẫn biết Tướng Giáp có thân tình với Mỹ nên phòng ngừa Tướng Giáp có thể tiết lộ vài điều không hay với sứ giả của Mỹ.

Mãi cho tới năm 2005 các nhà viết sử Hoa Kỳ sắp xếp cho ông  McNammara là cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ sang Hà Nội gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên tinh thần cùng nhau rút kinh nghiệm về chiến tranh.

Dĩ nhiên một khi McNamara đã cất công sang Việt Nam thì các nhà đạo diễn đã liên lạc trước với Đại tướng VNG và hai bên đã thỏa thuận những điều sẽ tuyên bố.  Thế nhưng các ông bô lão như Lê Đức Anh, Đỗ Mười sợ ông Giáp phát ngôn “chệch hướng”, ( lợi dụng diễn đàn để tố cáo trước dư luận việc ông bị Tổng cục 2 vu oan giá họa trong năm 1990 ) nên vận động Ban bí thư Trung ương ĐCSVN không cho VNG gặp McNamara.

Đại tướng quá tức mình nhưng đành phải chờ 2 năm sau mới có dịp trả lời cho ký giả Walter Cronkite của cơ quan truyền thông CBS Hoa Kỳ :

“Cho tới nay tôi vẫn không hiểu nổi tại sao người Mỹ các anh lại chấm dứt thả bom Hà Nội (1972). Các anh đã tròng cổ được chúng tôi rồi.  Nếu các anh nhấn thêm một chút nữa, chỉ một hoặc hai ngày nữa, chúng tôi đã sẵn sàng đầu hàng.  Cũng giống như trận tết Mậu Thân, các anh đã đánh bại chúng tôi rồi”.

Nguyên văn : “What we still don’t understand why you Americans stopped the bombing of Hanoi.  You had us on the rops.  If you had pressed us a little harder, just another day or two, we were ready to surrender. It was the same at the battles of Tet.  You defeated us”. ( Cuộc phỏng vấn tại Hà Nội ngày 8-12-2007.  Nguyên văn do Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn sưu tầm và đăng trong tác phẩm “Chiến Tranh Việt Nam, Một Nước Cờ Độc”, trang 24 ).

Đây không phải là hiểu biết của một Đại tướng bộ trưởng Bộ quốc phòng CSVN, mà là dư luận của dân chúng Hà Nội thời đó.  Sau năm 1975 những người Hà Nội vào thăm thân nhân của mình ở Miền Nam cũng đã cho biết chuyện này.  Vậy mà 30 năm sau ông Đại tướng lại phát biểu quan điểm của ông giống hệt như quan điểm của một thường dân Hà Nội vào thời 1972.

Tiết lộ của Tướng Giáp với Walter Cronkite chứng minh sự hiểu biết về bí mật quốc phòng của Tướng Giáp thời 1960-1975 chẳng khác gì sự hiểu biết của những người dân thường.

Dầu sao thì lời xác nhận của Tướng Giáp giúp cho giới nghiên cứu quân sử của thế giới có được kết luận sau cùng về cuộc chiến Việt Nam :  Mỹ thua không phải vì các tướng CSVN quá giỏi, mà vì tình báo của Mỹ quá dở.

Vì thế các chiến lược gia Hoa Kỳ đành quyết định giữ nguyên các sách vở về cuộc chiến Việt Nam tại các thư viện của các trường đại học Hoa Kỳ, mà trong đó quân đội Hoa Kỳ đã thua do Tướng Võ Nguyên Giáp quá giỏi.

Có lẽ các sử gia Hoa Kỳ sẽ sửa lại quan niệm này sau khi ông Võ Nguyên Giáp qua đời, lúc đó dư luận sẽ đánh giá lại sự nghiệp của ông Đại tướng và phát hiện ra ông ta không phải là kẻ làm nên chiến thắng trong cả hai cuộc chiến.

Nhưng nếu như vậy thì hơi kẹt cho sử sách Hoa Kỳ, bởi vì quân đội Pháp thua Tướng Trần Canh và Tướng Vi Quốc Thanh của Trung Quốc thì còn có lý.  Trong khi đó tại chiến trường Miền Nam chỉ có Nữ tướng Nguyễn Thị Định là người được CSVN công nhận có công đầu trong cuộc chiến Miền Nam.

Không lẽ lịch sử Hoa Kỳ lại ghi rằng quân đội Hoa Kỳ thua bà Nguyễn Thị Định với câu nói nổi tiếng : “Đánh Mỹ cho tới còn cái lai quần cũng đánh”(sic).  Nghĩa là các ông tướng Mỹ thua một bà nhà quê Việt Nam,  mà bà nhà quê này chẳng qua một trường lớp quân sự nào cả.

Nói một cách nghiêm chỉnh thì quả thực quân đội Mỹ không chết vì xe tăng T.54 hay đại bác 130 ly của CSVN, mà chết vì bị pháo kích, bị sụp hầm chông, bị bà già gài mìn trong quán bar và bị các em bé chăn trâu bắn tỉa.  Những hoạt động này do bà Nguyễn Thị Định chỉ huy (sic).

 

BÙI ANH TRINH

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP I

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP II

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP III

BIÊN KHẢO VỀ VÕ NGUYÊN GIÁP IV

 

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lãng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


VIETNAMESE COMMANDOS

  1. Một Trang Lịch Sử

  2. Viết Lại Lịch Sử  Video

  3. Secret Army Secret War Video

  4. Đứng Đầu Ngọn Gió Video

  5. Con Người Bất Khuất Video

  6. Dấu Chân Biệt Kích Video

  7. Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

  8. Huyền thoại về:"Những người lính một thời bị lãng quên" Kim Âu

  9. Phản Bội Kim Âu

  10. Tiếng Nói Công Lý Kim Âu

  11. Vietnam’s ‘Lost Commandos’ Gain Recognition in Senate

  12. President Unit Citation at Fort Bragg

  13. Vietnamese Commando never knew U.S. declared him dead

  14. Back from the dead

  15. Bill of Compensation

  16. Miami! Gian Hùng Lộ Mặt  Kim Âu 

  17. Honoring Vietnamese Commandos

  18. Honoring South Vietnamese Army

  19. Vietnamese Commandos Win Last Battle

  20. Uncommon Betrayal

  21. Go to congress

  22. Trong Giòng Lịch Sử Kim Âu

  23. Oplan 21 Kim Âu

  24. Biệt Kích Gỉa, Biệt Kích Thật Kim Âu

  25. Xuyên Tạc Lịch Sử Kim Âu

  26. Cảm Nghĩ Đầu Xuân (2011)

  27. Những Tên Miệng Hùm Gan Sứa Kim Âu

  28. Loretta Sanchez Không Hề Gian Dối Kim Âu

  29. Ăn Qủa Nhớ Kẻ Trồng Cây Kim Âu

  30. The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.

  31. Lá Thư Tự Thú

  32. Người Tù Kiệt Xuất

  33. Hồi Chuông Báo Tử I

  34. Hồi Chuông Báo Tử II

  35. Hồi Chuông Báo Tử III

  36. Hồi Chuông Báo Tử IV

  37. Thư Trả Lời Mai Nhuệ Anh

  38. Thánh Nhân Vô Phí Vật

  39. Đặc Biệt Cho Nhóm 10%

  40. Phân Định Chính Tà

  41. Phân Ðịnh Chính Tà 1

  42. Phân Ðịnh Chính Tà 2

  43. Phân Ðịnh Chính Tà 3

  44. Hư Danh - Hư Cấu

  45. Kim Âu Trả Lời Phỏng Vấn Hồng Phúc

  46. Hồng Phúc Phỏng Vấn Tourison. Lê Ngung

  47. Sư Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

  48. Tri Nhân Tri Diện Bất Tri Tâm

  49. Nguyên Uỷ Một Vụ Kiện

  50. Trả Lời Câu Hỏi Của Một Vi Hữu


 

 

Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn * Một Trang Lịch Sử

Vietnamese Commandos' History * Vietnamese Commandos vs US Government * Lost Army Commandos

Bill of Compensation * Never forget * Viết Lại Lịch Sử  Video * Secret Army Secret War Video

Đứng Đầu Ngọn Gió Video * Con Người Bất Khuất Video * Dấu Chân Biệt Kích Video * Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.* Gulf of Tonkin Incident * Pentagon Bạch Hóa * The heart of a boy

U.S Debt Clock * Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton * None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) * Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

The World Order Eustace Mullin * Trăm Việt trên vùng định mệnh * Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis * Lyndon Baines Johnson Library Musuem

Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn * Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc

Nghi Thức Ngoại Giao * Lễ Nghi Quân Cách * Sắc lệnh Cờ Vàng * Quốc Tế Cộng Sản

How Does a Bill Become Law? * New World Order * Diplomacy Protocol. PDF

The World Order Eustace Mullin * Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

Vietnam War Document * American Policy in Vietnam

Foreign Relations Vietnam Volum-1 * The Pentagon Papers * Pentagon Papers Archives

Vietnam and Southeast Asia Doc * Vietnam War Bibliogaphy * Công Ước LHQ về Luật Biển

CIA and NGOs * CIA And The Generals * CIA And The House Of Ngo * Global Slavery

Politics of Southeast Asia * Bên Giòng Lịch Sử

Dấu Binh Lửa * Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

Bách Việt  * Lược Sử Thích Ca  * Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

Douglas Mac Arthur 1962 * Douglas Mac Arthur 1951 * John Hanson, President of the Continental Congress

Phương Pháp Biện Luận * Build your knowledge

To be good writer * Ca Dao -Tục Ngữ * Chùa Bái Đính * Hán Việt

Top 10 Crime Rates  * Lever Act * Espionage Act 1917 * Indochina War * Postdam * Selective Service Act

War Labor Board * War of Industries * War Production Board * WWII Weapon * Supply Enemy * Wold War II * OSS

Richest of The World * Truman Committee   * World Population * World Debt * US Debt Clock *

An Sinh Xã Hội - Cách Tìm IP Email * Public Holiday * Funny National Days

Oil Clock * GlobalResearch * Realworldorder * Thirdworldtraveler * Thrivemovement *Prisonplanet.com *Infowars

Rally protest *Sơ Lược VềThuyền Nhân  *The Vietnamese Population in USA *Lam vs Ngo

VietUni * Funny National Days  * 1DayNotes   

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 


 

 

Your name:


Your email:


Your comments:


MINH THỊ

LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

 

 

 

.

 

 

 

CNBC .Fox .FoxAtl .OAN .CBS .CNN .VTV

.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank

.Fed Register .Congr Record .History .CBO

.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState

.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee

.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate

.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive

.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect

.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND

-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost

.SourceIntel .Intelnews .Reuter .AP .QZ .NewAme

.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics

.Infowar .TownHall .Commieblaster .Examiner

.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL

.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters

.Diplomat .News Link .Newsweek .Salon

.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .EpochTim

.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite

.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale

.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider 

.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above

.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen

.Online Books .Breibart .Interceipt .PRWatch

.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS

.N PublicRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes

.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign

.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media  

.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty

.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState  

.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity

.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua

.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị

.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen

.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại

.BảoTàngLS .NghiênCứuLS .Nhân Quyền

.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu  

.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc

.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn

.Viễn Đông .Người Việt .Việt Báo .Quán Văn

.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng

.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu .ChúngTa .Eurasia

.NVSeatle .CaliToday .NVR .Phê Bình .Trái Chiều

.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism

.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức

.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương

.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG

.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT

.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN

.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa

.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân

.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử * Diễn Đàn *

.Tác Phẩm * Khào  Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *