MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News

v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 25
Trước ngày lễ Độc lập


HẾT KHÓ KHĂN NÀY LẠI ĐẾN KHÓ KHĂN KHÁC
Trong một thời gian ngắn ngủi 8 ngày, các sự kiện ở Hà Nội đă phá vỡ các kế hoạch của Đồng minh nhằm chuyển sang một cách có trật tự từ thời chiến sang thời b́nh. Một cuộc tiếp thu đầu hàng về quân sự theo như thường lệ, không có cảnh báo trước, sẽ làm nảy sinh một cơn lốc chính trị có tầm cỡ quốc tế. Những sự xung đột về quyền lợi của nhiều nước đă nhanh chóng bùng ra liên tục và đă đặt ra cho cơ quan OSS chúng tôi nhiệm vụ phải thỉnh thị, hoà giải hay quyết định.
Tôi cho rằng sự thay đổi trong những diễn biến t́nh h́nh này là trực tiếp do sự chậm trễ cố t́nh của Tưởng trong việc thực hiện nhiệm vụ chiếm đóng của ḿnh. Điều đó đă góp phần gây ra t́nh trạng hỗn loạn và vô chính phủ tiếp theo. Nó đă giúp cho người Nhật có thời gian để tung ra trận đấu cuối cùng nhưng vô tích sự để nhằm giành ưu thế về tư tưởng. Nó đă cung cấp cho ông Hồ cơ hội để thiết lập cơ cấu chính trị của ông mà không bị chống đối từ bên ngoài. C̣n đối với người Pháp th́ sự chần chừ của Tưởng chỉ càng làm cho họ dễ bảo hơn nữa trong cuộc thương lượng của Tưởng với Paris.
Hiến binh Nhật đă tiến hành một chiến dịch bỉ ổi chống người da trắng trong người Việt và người Hoa ở Đông Dương, nhằm vào các cường quốc phương Tây ở châu Á. Người Pháp, sau khi đă mất hết quyền kiểm soát thuộc địa cũ của ḿnh, đă rơi vào một t́nh trạng thất vọng tập thể, chửi bới thậm tệ người Việt Nam, Trung Quốc và người Mỹ. Những tin đồn đại về một cuộc chiếm đóng lâu dài của Quốc dân Đảng đă làm cho dân chúng của ông Hồ và thực dân Pháp kinh hoàng. Họ mường tượng ngay đến những tháng năm đầy áp bức độc đoán, cướp đoạt, đói khát và chết chóc.
Vị trí của chúng tôi trong OSS trở thành không thể chịu đựng được nữa. Quyền hạn của tôi bị bó hẹp trong các vấn đề quân sự nhưng phần lớn các sự việc và vấn đề chúng tôi phải đương đầu thực chất lại là chính trị. Tôi báo cho Côn Minh và Trùng Khánh biết rơ t́nh h́nh phức tạp và rất dễ bùng nổ ở đây nhưng h́nh như các nhà chức trách quân sự và ngoại giao đều không quan tâm lắm. Tôi đă đề nghị với Heppner gặp thảo luận với Đại sứ Hurley và giục ông phái một viên chức ngoại giao có thẩm quyền để đến đối phó với cái ḷ lửa Hà Nội đang sôi sục này, nhưng chỉ dược đáp lại “chuyển tất cả mọi vấn đề cho các nhà chức trách đảm nhiệm việc chiếm đóng ngay sau khi họ tới”. Thế là hay, nhưng khi nào th́ người Trung Quốc sẽ tới? Chúng tôi đă biết các đơn vị tiền trạm đă vượt qua biên giới vào ngày 27, nhưng không rơ Lư Hán và cơ quan chính trị của ông ta ở đâu? Thời gian ông ta đến có thể đoán chừng là c̣n phụ thuộc vào sự thành công của Tưởng trong việc vô hiệu hoá được viên thống đốc Vân Nam và những thắng lợi trong cuộc thương lượng của Tưởng với Pháp ở Trùng Khánh và Paris. Điều đó đ̣i hỏi phải có thời gian. Trong khi chờ đợi, chúng tôi làm được ǵ th́ làm để biểu thị sự có mặt của nhà chức trách Đồng minh và duy tŕ một cái có vẻ như là một nền trật tự.
Những yêu cầu khẩn khoản của tôi về chỉ đạo chính trị và sự giúp đỡ để đối phó với t́nh h́nh bấp bênh của Hà Nội đă làm cho Đại sứ quán chúng ta nổi cáu và bức công hàm của ông Hồ gửi Tổng thống Truman lại như đổ dầu thêm. Đại sứ Hurley đă phật ư v́ ông vẫn cho rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh của ông Hồ chỉ là một sụ mở rộng của “mối đe doạ đỏ ở phương Đông” của Mao Trạch Đông. Sự bực tức của Đại sứ lại được bồi thêm bằng những lời kết tội của Pháp quy cho đại diện Mỹ ở Hà Nội là “chống Pháp” và có cảm t́nh với “Cộng sản”. Hurley đă điên lên về việc Heppner ngoan cố không chịu gọi tôi về Trung Quốc và cho tôi xuống tàu về Mỹ.
Ở cấp Chiến trường, cơ quan của Wedemeyer đă chất vấn OSS về các “hoạt động chính trị của tôi tại Hà Nội”. Sau này (vào tháng 10), Q. Roosevelt cho tôi hay là Tai Li đă phàn nàn với đại tá Dickey, thủ trưởng G-2(1) Chiến trường Trung Quốc, là tôi đă thân thiện quá với Việt Minh và không hợp tác với nhà đương cục Trung Quốc.
Ngày thứ bảy 1-9, tôi nhận được một bức điện khá nghiêm khắc của Helliwell nhắc nhở tôi rằng hành dinh của Wedemeyer “rất không bằng ḷng về hoạt động của OSS ở Đông Dương”. Trong bức điện có ghi: “ở đây nhận được báo cáo là Patti đă tổ chức các cuộc gặp gỡ và đứng làm môi giới cho người Pháp và An Nam”, như thế là trái với các chỉ thị của Chiến trường và “Chiến trường muốn bằng bất cứ giá nào, tránh các hoạt động chính trị nếu các hoạt động đó đặt Mỹ vào một thế đứng giữa”. Bức điện kết luận bằng một lời cảnh cáo: “Chúng ta có nguy cơ nghiêm trọng là cả phân đội có thể bị gọi về”.
Tôi rất buồn phiền về thái độ của những người chúng ta ở Trung Quốc nhưng cũng không có ǵ phải ngạc nhiên. Tôi biết họ đang phải chịu áp lực của người Pháp và người Trung Quốc, nhưng tôi cũng ư thức được trách nhiệm trong nhiệm vụ của ḿnh. Wedemeyer, Heppner và Helliwell đều biết rơ một cách đầy đủ các mệnh lệnh Donovan chỉ thị cho tôi không được giúp đỡ người Pháp trong mưu đồ của họ trở lại Đông Dương. Họ cũng đă được thông báo đầy đủ về việc lựa chọn tôi để đảm nhiệm công việc này là trên cơ sở tôi thông suốt các chính sách Mỹ đối với “các dân tộc lệ thuộc”, như đă nhiều lần nói đến trước đây. Tôi cảm thấy sâu sắc rằng chính sách Mỹ đă thay đổi, tôi sẽ được khuyên nhủ về vấn đề đó và bị gọi về.
Mặc dù các lư do đưa ra đă được cường điệu lên (một cách khá khéo léo), tôi vẫn muốn tŕnh bày cho OSS - Trung Quốc biết rơ sự việc. Tôi điện báo cho Heppner biết từ khi tôi đến, tôi chỉ thu xếp có được một cuộc gặp gỡ giữa Sainteny và Giáp, và đó là một cuộc gặp gỡ do Sainteny yêu cầu. Không hề có vấn đề làm môi giới chính trị, tuy rằng gần như ngày nào chúng tôi cũng phải can thiệp với các nhà chức trách địa phương về việc đảm bảo an ninh cho người Âu, nhất là đối với người Pháp. Trong nhiều trường hợp chúng tôi đă phải thay mặt người Pháp xin giùm cho một số tay sai đi khiêu khích bị bắt quả tang.
Tôi cũng nhắc lại cho Côn Minh những điều mà tôi đă nêu ra trước đây… Tôi đă yêu cầu Chiến trường và AGAS, ngay từ khi tôi mới tới, cho một nhân viên chuyên môn để phụ trách vấn đề tù binh chiến tranh và để tôi chuyển về công tác của OSS. Một tổ công tác nhỏ dưới quyền đại tá Norlinger(2) đă được đưa tới ngày 28-8. Nhưng thực không may, Norlinger cũng chẳng có ǵ thành công hơn tôi trong công tác đối với người Nhật về vấn đề tù binh.
Chỉ ít lâu sau, Narlinger và toán của ông cũng bị lôi cuốn vào các vấn đề chính trị Pháp - Việt. Norlinger thông thạo tiếng Pháp và là người thân Pháp trong Thế chiến thứ nhất nên đă dễ dàng trở thành một mục tiêu cho Pháp làm áp lực để giải thoát các tù binh người Pháp ra khỏi Thành. Người Pháp đă nắm lấy những “người Mỹ mới”, thuyết phục Norlinger rằng cộng đồng thường dân Pháp tại Hà Nội đang bị bọn Cộng sản Việt Nam “đe doạ giết” và chỉ có việc thả các tù binh Pháp ra để tổ chức một “lực lượng bảo vệ chống lại cuộc tấn công của người An Nam” th́ mới có thể cứu được họ. Tất nhiên, luận điệu đó chỉ là một thứ cặn nước rửa bát dể cho lợn. Chính phủ Lâm thời đă đảm bảo với tôi rằng sẽ tránh dùng bạo lực đối với người Pháp bằng mọi cách, do đó không có lư do ǵ để mà hốt hoảng, mặc dù có những sự khiêu khích của người Pháp.
Tôi thảo luận với Norlinger về cái thế cân bằng mong manh về chính trị, trên cơ sở đó người Nhật và Chính phủ Việt Nam mới đang duy tŕ một nền trật tự công cộng hết sức bấp bênh; và tôi đă mạnh mẽ nhắc nhở ông đừng để mắc mưu vào các vấn đề chính trị. Ông đồng ư t́nh h́nh có độ nhạy cao và rất dễ dàng bùng nổ, nhưng tôi lại thấy ở ông một cảm t́nh ngầm cho những “người Pháp - các đồng minh cũ của chúng ta đang bị đàn áp”. Những người Pháp có quan hệ với ông cũng cảm nhận được điều đó và họ đă khai thác đến cùng, để cho người Mỹ phải trả giá. Trước mắt, người Pháp và người Trung Quốc đang chống đối lại phái đoàn OSS th́ nhóm của Norlinger đă trở thành một lực lượng thứ ba trong vấn đề gây rối. Họ đă không hài ḷng về những điều hạn chế của tôi đối với các hoạt động thân Pháp chống Việt Minh của họ và trong những tháng sau khi tôi c̣n đang phụ trách phái đoàn OSS, th́ những thủ đoạn chia rẽ của họ mặc dù có động cơ tốt, chính là nguồn gốc của nhiều sự trao đổi chẳng hay ho ǵ giữa Hà Nội và Côn Minh.
MỘT NHĂN HIỆU ĐẶC BIỆT CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Sáng thứ bảy đó, tôi và Grélecki đi một ṿng thành phố.
Hôm sau, 2 tháng 9 là ngày lễ lớn, Ngày Độc lập, khắp nơi tưng bừng không khí ngày hội. Ai cũng bận rộn, hớn hở, và vội vàng nhưng không ai tỏ ra hấp tấp. Trước cửa nhà, trên ban công, ngoài cổng ra vào đầy các loại cờ đỏ hoa, đèn. Nhiều toán người hăm hở giăng lên ngang trên đường phố, những khẩu hiệu hô hào “Độc lập và Tự do cho Việt Nam”, và hoan nghênh Đồng minh, đặc biệt là Mỹ. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng xe nhường đường cho một toán Scout(3), một đội nữ du kích hoặc một đơn vị vũ trang vượt qua. Giữa một vườn hoa nhỏ, một đội quân nhạc đang biểu diễn.
Người Việt Nam hướng dẫn chúng tôi giải thích một cách trịnh trọng: “Ngày mai Chính phủ mới sẽ ra mắt dân chúng và chế độ của người Pháp đă bị băi bỏ”. Tôi hỏi ai sẽ cầm đầu Chính phủ mới, và anh ta trả lời ngay “Hồ Chí Minh”. Anh ta chưa hề trông thấy ông Hồ, mà cả ảnh cũng không. Anh cũng chẳng rơ ông ở đâu về, ngoài việc chỉ được nghe nói Hồ Chí Minh đă “ở ngoại quốc lâu năm” nhưng cũng không rơ ở đâu, Tôi hỏi anh ta có biết ǵ về xu hướng chính trị của ông Hồ. “Ồ, có chứ, ông Hồ là Việt Minh, một đảng của nhân dân”. Có biết Việt Minh là Cộng sản không? Người hướng dẫn tỏ vẻ lúng túng rồi thú thật rằng anh ta thực sự không hiểu tôi muốn nói ǵ về Cộng sản. Tôi không tiếp tục câu chuyện nhưng cũng nhận thấy ngay được rằng khi nói đến Hồ Chí Minh, giọng anh ta đượm vẻ tự hào cứ như ông Hồ là một người thân thuộc trong gia đ́nh ḿnh vậy. Tôi đă gặp hiện tượng này nhiều lần trong các tuần lễ sống ở Hà Nội.
Trong buổi sáng, tôi cũng có dịp nói chuyện với một số thương gia. Nói chung, họ tỏ ra vui mừng trước triển vọng một Chính phủ gồm toàn người Việt, nhưng một số cũng tỏ ra vô thưởng vô phạt, c̣n một số ít th́ hoài nghi không biết rồi sẽ có ǵ khác trước nhiều không. Tôi cũng thường gợi hỏi xem họ hiểu về Việt Minh và Cộng sản thế nào. Nhưng chỉ có ba hoặc bốn người có thể trả lời, các câu trả lời của họ rất lộn xộn, từ “không tốt” đến “tuyệt vời”, “bây giờ th́ nhân dân sẽ chăm lo mọi việc”.
Trong chiến tranh tôi đă sống với những người kháng chiến Pháp và Ư (trong đó có nhiều người Cộng sản). Giống như người Pháp, người Ư có ít nhiều không giống với các dân tộc khác về động cơ chính trị. Cả hai dân tộc đă đấu tranh để lật đổ một khái niệm tư tưởng mà Hitler và Mussolini đă đặt lên đầu họ, ngoài ra không có ǵ khác hơn. Khi đă đạt được mục đích đó, cả hai nước lại chuẩn bị để quay trở lại nguyên t́nh trạng cũ, chỉ không có khái niệm về chủ nghĩa quốc xă hoặc phát xít mà thôi.
Tôi thấy phải chờ đợi một t́nh huống hoàn toàn khác ở Việt Nam. Người Việt Nam sẽ không thoả măn chỉ với sự đánh bại chế độ phát xít của Vichy và Tokyo. Họ không muốn quay trở lại t́nh trạng trước chiến tranh của họ. Họ muốn có thay đổi. Họ muốn đ̣i lại đất nước họ và làm cho nó tự do và độc lập đối với sự đô hộ của bên ngoài. Đó cũng chính là điều tôi đă thấu hiểu được từ các nhà hoạt động chính trị trong 6 tháng trước đây ở Trung Quốc.
Nhưng sáng nay tôi đă không bắt gặp cái động cơ chính trị đó trong những người dân mà tôi có dịp nói chuyện. Họ đă cũng không phải là người Việt Nam mà mới chỉ hai tuần lễ trước đây đă khuấy động Hà Nội lên để chiếm lấy chính quyền. Không, đây chỉ là những người dân ngụ ở thành thị, số dân đô thị đă được liên kết vào cộng đồng người Pháp, đă quen với sự giàu có và lối sống đầy đủ tiện nghi. Từ những câu trả lời rối rắm của họ, tôi kết luận họ không phản đối thay đổi. Đúng là họ đă không được thực là sung sướng với người Pháp hoặc các chúa tể Nhật, v́ dù sao th́ đó cũng vẫn là người ngoại quốc và không thể tin cậy được. Họ cảm thấy dễ chịu hơn với những người đồng chủng của họ, dù cho nhưng người đó là quan lại hay “chức dịch”, miễn họ là người Việt Nam. Nhưng rơ ràng là số dân chúng thực sự muốn có thay đổi không phải là trong giai cấp tư sản ở Hà Nội.
Tôi nhớ lại điều ông Hồ đă nói với tôi hồi tháng 4 tại một gian buồng nhỏ ở biên giới Trung Quốc: Việt Nam là một nước nông nghiệp, 90% dân chúng sống nhờ vào ruộng đất, họ đă bị một chế độ phong kiến và quan lại đàn áp bóc lột dă man như đối với những người nô lệ; do đó, giống như các nước phương Đông, sự thay đổi kinh tế - xă hội ở Việt Nam phải do nông dân khởi xướng và được sự ủng hộ của công nhân. Nhưng muốn thắng lợi, phải có sự ủng hộ hoàn toàn của nông dân.
Trên đường về biệt thự Gauthier, ngẫm nghĩ về điều ông Hồ nói, cuối cùng tôi đă hiểu sâu sắc rằng: quần chúng tiến hành cuộc cách mạng là từ ở miền thôn quê, các làng xóm và rừng núi - họ là nông dân.
Một vị khách đă đợi tôi tại biệt thự. Đó là ông Bửu(4), một người Việt Nam dáng ưu tú, có thể khoảng gần 30. Tôi nhớ h́nh như đă trông thấy ông ở đâu nhưng không chắc chắn. Tôi và Bernique bắt tay và ông tự giới thiệu là do “Bộ Nội vụ cử tới”, nhưng phát âm tiếng Anh hoàn hảo và giọng Oxford không che lẫn được của ông làm tôi sửng sốt, ngạc nhiên. Ông đưa cho tôi một thư viết tay trên hai mặt tấm danh thiếp của Giáp: Bộ trưởng Bộ nội vụ gửi lời chào v.v… Ông Bửu là đại diện cho cá nhân Bộ trưởng(5) và mong rằng phái đoàn sẽ làm dễ dàng cho công việc của ông.

Bửu nói mục đích cuộc đến thăm là để báo cho tôi biết một “t́nh h́nh nguy hiểm” đang làm cho Hồ Chủ tịch rất không yên tâm. Đó là việc phải đối phó với các hoạt động bí mật của Pháp được điều khiển từ Calcutta. Tôi đă tóm tắt câu chuyện của ông trong bản báo cáo gửi Côn Minh.
Đă nhận được nhiều báo cáo của Việt Minh tại chỗ nói rằng nhiều nhân viên của Pháp đă được thả dù xuống nhiều nơi và đă bị Việt Minh bắt giữ coi như tù binh chiến tranh. Người mới nhất, đại uư Dupré Louis, có mang theo mệnh lệnh do De Raymond kư thay cho tướng De Gaulle, nói rằng người cầm mệnh lệnh được Chính phủ Cộng hoà Lâm thời Pháp uỷ nhiệm hoạt động ở Đông Dương, chỉ thị cho các nhà chức trách dân sự và quân sự hết sức giúp đỡ… và yêu cầu tất cả người thuộc Nhóm Kháng chiến nội địa của Pháp mà chưa bắt được liên lạc với một phái đoàn nào khác, th́ phải tự đặt ḿnh dưới quyền điều khiển của ông ta và phải tuyệt đối tuân theo chỉ thị của ông… Nhiệm vụ là chiếm lấy tất cả các dinh thự và công sở dân sự cũng như quân sự, cả của tư nhân nếu cần. Ông sẽ thay mặt Chính phủ Cộng hoà Lâm thời Pháp để giải quyết mọi vấn đề dân sự, hành chính và quân sự trong ṿng được uỷ nhiệm. Tất nhiên, ông ta sẽ từ bỏ chức trách của ḿnh ngay sau khi có các đại diện chính thức có thẩm quyền của Pháp tới”.
Bửu hỏi xem tôi có được báo cho biết về các hoạt động này của Pháp không và cần giải thích cho ông rơ về ư đồ của người Pháp. Tất nhiên là tôi có biết ư đồ của người Pháp mặc dù không được báo riêng cho biết về kế hoạch cụ thể của họ và tôi đă bảo thẳng Bửu là đă có nhiều quan chức cai trị dân sự được phái tới Việt Nam trong thời gian phái đoàn chúng tôi tới Hà Nội. Tôi giải thích thêm, dựa vào kinh nghiệm trước đây ở châu Âu, người Pháp đă cho xúc tiến một thời kỳ quân dân quản trong các vùng mới được giải phóng và các toán được thả dù xuống Việt Nam h́nh như đúng là những nhân viên cai trị để nhằm thực hiện công việc đó. Tôi nói thêm là đă hỏi Giáp chung quanh vấn đề Messmer nhưng Bửu trả lời không biết ǵ. (Giáp cũng đă không trả lời ǵ khác).
Qua việc cử Bửu tới, Giáp cũng ngầm cho biết Việt Minh đă ở khắp mọi nơi, nắm được chính xác tất cả những ǵ xảy ra ở Việt Nam, và Chính phủ Lâm thời sẽ không ngồi yên một cách vô tích sự trong khi người Pháp âm mưu quay trở lại bằng vũ lực. Tôi cảm ơn Bửu đă thông báo tin tức nhưng cũng không để lộ ra tôi sẽ có làm ǵ hay không. Bửu cũng chẳng hỏi tôi xem có hành động ǵ không, nhưng cho rằng (rất đúng) tôi sẽ báo cho Trùng Khánh. Thực là không may, câu chuyện của Bửu đă chẳng mang lại được điều ǵ để làm yên ḷng cho Sainteny. Tôi cũng chẳng rơ được các toán người Pháp ở đâu và hoàn cảnh của họ bị bắt giữ như thế nào.
Ông Hồ mời Gréleki và tôi đến dự bữa cơm chiều trước ngày Độc lập. Đúng 4 giờ 30, lần đầu tiên chúng tôi vào cổng cuốn Bắc Bộ phủ, trước đây là dinh của Thống sứ Pháp. Người gác chào một cách lịch sự và một sĩ quan trẻ tuổi dẫn chúng tôi đến một pḥng trên tầng hai. Một pḥng rộng, thanh nhă nhưng bày biện đơn sơ, chỉ có một đi văng, một số ghế thông thường và một bàn trà. Rơ ràng trái ngược với nhũng pḥng choáng lộn của Sainteny ở dinh Toàn quyền.
Chủ tịch Hồ, có Giám và Giáp bên cạnh, ra đón chúng tôi một cách sốt sắng như là đă lâu lắm không gặp nhau. V́ rằng chúng tôi chính đă họp với nhau chỉ 2 ngày trước đây trong một ngôi nhà cũ ở phố Hàng Ngang, nhưng đây mới thật là lần đầu tiên gặp nhau trong khung cảnh chính thức. Ông Hồ giới thiệu với tôi những người có mặt khác(6) rồi cũng đi sang pḥng bên cạnh, ở đó đă có bày sẵn bàn ăn. Tôi ngồi bên phải ông Hồ, c̣n Grélecki ở bên trái. Giám ở bên phải tôi và Giáp bên trái Grélecki, đối diện vối tôi. Các món ăn, như thường lệ, cũng giản đơn, ngon và theo kiểu Việt Nam.
Người ta thấy ngay, đây cũng là một dịp mang nhiều ngụ ư chính trị. Ông Hồ mở đầu câu chuyện và nói rằng cuộc đi thăm phố phường của tôi buổi sáng đă gây ra một sự “xôn xao nho nhỏ”. Dân chúng đă vui sướng khi thấy tôi quan tâm đến công việc chuẩn bị của họ cho buổi lễ ngày mai và ông cũng muốn được nghe tôi nói về đdiều đó. Tôi có thoả măn về những điều đă được nghe và thấy không? Ông tỏ ra ṭ ṃ và quan tâm một cách nghiêm chỉnh. Không phải ông không biết những điều đă được phát biểu ra đâu, v́ trong số những người ṭ ṃ ở dọc đường nhất định có nhân viên cảnh sát và chắc rằng họ đă báo cáo lại mọi câu chuyện đă nói. Nhưng chính là ông muốn thấy phản ứng cá nhân của tôi v́ ông biết rằnng những phản ứng đó sẽ được phản ảnh trong báo cáo của tôi gửi về Trung Quốc. Để tránh khỏi dính líu vào các vấn đề chính trị và tư tưởng, tôi phát biểu đă có ấn tượng mạnh mẽ đối với công tác chuẩn bị cho ngày lễ và sự cởi mở của dân chúng mà tôi đă bắt chuyện. Tôi ca tụng tài tổ chúc của nhũng người điều khiển các hoạt động ngày hôm sau và sự hân hoan của quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của họ.
Các vị khách tỏ ra hài ḷng và Giám đă phấn khởi nói xen vào là mặc dù quỹ để tổ chức buổi lễ do Thành phố đài thọ, nhưng hiện nay th́ chính bản thân nhân dân đă bỏ tiền ra thanh toán các chi phí để sửa sang, làm sạch và trang trí cho thành phố. Ông nói thêm là không phải sử dụng đến các quỹ của Chính phủ và thực ra th́ Chính phủ cũng chẳng có. Ngân hàng Đông Dương và các ngân hàng phụ thuộc vẫn c̣n nằm trong tay người Nhật và Chính phủ Lâm thời cũng chẳng có cách nào để có được tiền.
Tôi hỏi xem có chuẩn bị diễu binh không. Với một giọng chán ngán, Giáp trả lời cũng muốn có một số đơn vị đi diễu hành, nhưng bộ đội “vừa mới ở rừng về” không có đủ thời gian luyện tập, nên đành phải bằng ḷng với những đơn vị “sắp hàng đứng tại chỗ” vậy. Ông Hồ ngắt lời và nói điều đó không hề ǵ, bộ đội sẽ đến đó để cho dân chúng xem, và “quân đội nhân dân” cũng có thể xem Chính phủ của họ mới được thành lập.
Chúng tôi trở lại gian pḥng lớn để dùng trà. Trừ ông Hồ, Giáp, và Giám, c̣n những người Việt khác đều rút lui, có thể phải đi chuẩn bị cho ngày mai. Năm người chúng tôi quay quần lại chung quanh bàn trà trong khi ông Hồ rót cà phê nóng của Pháp vào trong những tách nhỏ Trung Quốc xinh xắn. Với một giọng thân mật, ông phát biểu mời chúng tôi dự bữa cơm trước ngày lễ Độc lập của Việt Nam, để tỏ ḷng biết ơn của cá nhân ông và các đồng sự của ông trong Chính phủ đối với Mỹ về sự ủng hộ vật chất và tinh thần mà phong trào của ông đă nhận được trong những năm gần đây. Ông đặc biệt cảm ơn OSS(7), về sự cộng tác từ năm 1943 và mong rằng tinh thần “hợp tác hữu ái” đó sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới. Nhớ lại sự cộng tác trước đây của ông với người Mỹ ở Trung Quốc và sau này tại vùng núi rừng Bắc Kư, ông đă nhắc tới tướng Chennault, đại tá Helliwell, tới Glass với những lời lẽ đầy nhiệt t́nh, và tới cả các “bạn chiến đấu” của ông, các thiếu tá Thomas và Holland cùng với những người khác trong các toán của họ.
Trong một lúc dừng chuyện tṛ, Giám nhận xét rằng qua Hội nghị San Francisco( 8 ) của Liên Hợp Quốc, người ta có thể rút ra kết luận là Mỹ đă không hiểu thấu một cách đầy đủ về cảnh ngộ của người Việt Nam. Ông tự hỏi không hiểu tại sao vấn đề “thực sự” của Đông Dương lại không được nêu lên, ngoại trừ trong những lời lẽ nói về vai tṛ của Pháp như là một cường quốc thực dân. Chẳng phải rơ ràng là người Việt Nam cũng rất thiết tha với cái mà người Mỹ đă đấu tranh cho công cuộc cách mạng của họ, “giải phóng khỏi ách áp bức của ngoại quốc và giành độc lập dân tộc đó sao?”, người Mỹ “từ năm 1776 đă mở đường cho thế giói bước vào một kỷ nguyên độc lập dân tộc”, hơn ai hết, cần phải đánh giá được cái điều mà người Việt Nam đang ra sức làm cho bản thân ḿnh. Và, chắc là để nhắc nhở tôi, ông nói thêm rằng, “ngay cả nước Ư” năm 1848 cũng đă học tập một trang lịch sử của Mỹ.
Trong khi ông Hồ gật đầu tỏ vẻ bằng ḷng, c̣n Giáp vẫn ngồi phớt lạnh th́ Giám làm một tràng phê phán các tội lỗi xấu xa của người Pháp. Người Pháp đă cho họ là những “người cách mạng” và “dân An Nam vô ơn bạc nghĩa”. Đúng, họ là những “người cách mạng”! Họ đă nổi dậy chống thực dân Pháp, các chúa tể ngoại quốc bóc lột họ. C̣n “vô ơn”, th́ họ đă chịu những ân huệ ǵ? Phải chăng là quyền ưu đăi được làm lao động khổ sai, làm những con đường đẹp đẽ dẫn đến các dinh thự nguy nga, những đồn điền trù phú của người Pháp…
Giáp không thể ḱm chế được nữa và nói xen vào là Pháp đă xây dựng nhiều nhà tù hơn trường học, nhiều trại lính hơn nhà ở cho dân… Tất nhiên Pháp cũng lập ra một số trường tốt cho một số ít người Việt Nam được ưu đăi, nhưng chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích thực dân của họ. Nếu có người muốn ra nước ngoài du học, họ cũng không được tự do, ngay cả sang Pháp.
Điều nhận xét trên gợi cho tôi cảm thấy h́nh như ông quá gay gắt và tôi có phần dè dặt trong việc nhận định chính ông cũng đă được sự giáo dục của Pháp, giống như Giám, Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu và nhiều người khác nữa; họ đều là sản phẩm của hệ thống giáo dục Pháp. Làm sao có thể dung hoà được điều đó với những lời kết tội của ông đối với Pháp trong lĩnh vực giáo dục? Giáp thừa nhận có ngoại lệ và nói rằng một vài người trong số cộng sự của ông xuất thân từ những tầng lớp giàu sang, nhưng phần lớn th́ không phải thế. Số đông này thường phải chịu đựng những điều sỉ nhục tàn tệ và sự phân biệt đối xử trong học tập…

Ông Hồ nói chắc chắn là tôi đă rất thông thạo về chế độ thuộc địa của Pháp nên cũng không cần bàn luận về dĩ văng làm ǵ, và tốt hơn hết là nên nh́n vào tương lai. Ông nói ư nghĩ của ḿnh về những tháng sắp tới sẽ có tính chất quyết định cho Việt Nam, v́ vậy người Việt Nam có nhiệm vụ phải biểu thị cho các nước Đồng minh biết ḷng tin tưởng sắt đá và quyết tâm không ǵ lay chuyển nổi để tự giải thoát ḿnh khỏi “mọi sự cai trị của bên ngoài dù cho đó là người Pháp, Nhật, Trung Quốc hay bất kỳ ai”, và nhân dân Việt Nam đă đạt tới một “tŕnh độ trung thành về chính trị” cho phép họ có quyền được quản lư lấy ḿnh. Ông Hồ luôn luôn nhắc tới “14 điểm” của Wilson và Hiến chương Đại Tây Dương, và ông trích dẫn lời hứa hẹn riêng cho Việt Nam của Mỹ.
Tiếp đó, ông nêu lên những lời đặt điều xung quanh vấn đề xu hướng chính trị của ông, và tôi chăm chú nghe. Ông nói có được biết nhiều về những lời buộc tội của Pháp, Anh, Trung Quốc cho ông là một “tay sai Xô viết” và Việt Minh là sự bành trướng của “bộ máy Moskva ở Đông Nam Á”. Nhưng Mỹ, dưới “sự lănh đạo sáng suốt của Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, đă công nhận quyền của tất cả các đảng phái được cùng tồn tại sẽ không bận tâm ǵ về cái nhăn hiệu Cộng sản được người ra gắn cho phong trào của ông. Ông Hồ giữ vững quan điểm là trong lúc đặc biệt này, Việt Minh là một “phong trào dân tộc, bao gồm một cách dân chủ tất cả các đảng phái cách mạng Việt Nam”. Tất nhiên, ông công nhận, Đảng Cộng sản Đông Dương là một nhân tố lănh đạo trong phong trào giành độc lập dân tộc, nhưng các đảng viên của họ “trước hết phải là người dân tộc chủ nghĩa, sau đó mới là đảng viên của đảng”.
Giáp, thường khó mà im lặng được lâu, đă phát biểu một điều khá bất ngờ “Việt Minh đă làm theo kỹ thuật và chiến thuật tổ chúc của Cộng sản để lập ra các đảng chính trị khác nhau nhằm đấu tranh cho một nền độc lập trong một trật tự xă hội giống như chủ nghĩa Cộng sản, nhưng không phải v́ thế mà nó có ư định thay thế một cường quốc bên ngoài khác vào chỗ của người Pháp của Việt Nam”. Tôi đă có ư muốn hỏi ngay xem ông có ư gồm Liên Xô vào lúc đó không, nhưng cảm thấy khiếm nhă và vô vị, nên thôi. Giáp không phải chỉ là một người Cộng sản mà c̣n là một người Việt Nam trung thực và thẳng thắn.
Ông Hồ tiếp tục nói, riêng ông muốn Mỹ biết các yêu cầu của ông cho nhân dân Việt Nam rất “nhỏ nhặt và giản đơn”. Họ muốn có một nền “độc lập hạn chế”, không có sự cai trị của Pháp, có quyền sống tự do trong gia đ́nh các nước. Ở đây có một sự thay đổi trong đường lối cứng rắn của đảng. Việc ông Hồ nói tới một nền độc lập “hạn chế” chứ không phải hoàn toàn, gợi cho thấy trong suy nghĩ của ông có điều nghi ngờ không biết có thể đạt được mục tiêu cuối cùng ngay trong ṿng đầu này không. Có thể ông cũng đang muốn thoả hiệp với người Pháp, hay cũng có khả năng với người Trung Quốc. Tôi phân vân và chỉ biết nghe.
Ông Hồ nói tiếp, dân chúng Việt Nam khao khát được đi tham quan các nước ngoài, “đặc biệt là sang Mỹ, như tôi đă làm từ lâu”. Họ mong đợi đến ngày mà nước Pháp không c̣n chỉ là nơi duy nhất để học tập, ngày mà học vấn không chỉ hạn chế trong một số người được ưu đăi, ngày mà các sinh viên cũng có thể tới học tập tại nước Mỹ.
Ông Hồ muốn được các chuyên gia kỹ thuật Mỹ giúp thiết lập một số công nghiệp mà Việt Nam có khả năng đảm đương được. Thấy Giám muốn nói, ông Hồ dừng lại. Theo quan điểm của Giám th́ Việt Nam cần và muốn trước hết là quyền tự do buôn bán, các cảng tự do, và vốn của nước ngoài - ngay cả vốn của Pháp, mặc dù ông không tin rằng Pháp có khả năng cung cấp được. Theo ư kiến ông, điều mong muốn trước hết là vốn của Mỹ và việc buôn bán với Mỹ, và khi Việt Nam đă có diều kiện, sẽ mở mang các sân bay và bến tàu để có thể tiếp nhận hàng hoá của Mỹ một cách điều hoà(9). Giám tiếp tục nói dài về vấn đề này, về tương lai của Việt Nam.
Ông Hồ nêu ngay lên một vấn đề hết sức cấp bách, t́nh h́nh nguy ngập về lương thực. Ông nói về nạn đói khủng khiếp năm 1944. T́nh h́nh lương thực năm nay cũng không khá hơn v́ mưa lớn và lụt lội. Thực tế th́ số thóc dự trữ để làm giống cho vụ sau cũng đă mang ra ăn hết. T́nh h́nh lương thực “vào đúng lúc này đă cực kỳ nguy hiểm”. Nếu như quân chiếm đóng Trung Quốc định tiếp tế bằng thị trường địa phương tại chỗ, th́ “mọi người sẽ chết đói”. Những báo cáo mới nhất từ phía bắc gửi về cho ông Hồ đă chỉ ra rằng quân đội Vân Nam “vô kỷ luật và không ai kiểm soát được”. Và ông Hồ e rằng họ tiến về Hà Nội và Huế th́ t́nh h́nh lương thực ở đó đă khó khăn sẽ trở thành không sao chịu nổi. Do đó ông nói tôi cần phải kêu gọi sự chú ư của Chính phủ Mỹ cho tiến hành kiểm tra đối với quân chiếm đóng Trung Quốc và yêu cầu người Trung Quốc mua bán chứ đừng trưng thu các vật phẩm và lương thực trong thời gian họ chiếm đóng “để tránh gây ra” t́nh h́nh người Việt Nam bắt buộc phải tiến hành chiến tranh đối với người Trung Quốc để bảo vệ cuộc sống và gia đ́nh họ. Tôi đồng ư chuyển lời yêu cầu của ông.
Đến 7 giờ 30, chúng tôi cho là đă đến lúc phải cáo lui v́ ngày hôm sau là một ngày nặng nhọc. Ở cầu thang, Giáp nói riêng với tôi về những mưu toan xâm nhập của Pháp bằng cách thả dù một số “viên chức cao cấp”. Tôi hỏi có phải những người mà Bửu đă nói với tôi hôm trước không. “Phải”, ông trả lời và nói thêm là cũng có những người khác nữa. Ông nhắc tới “thiếu tá Messmer từ Calcutta tới” cùng với 2 nhân viên khác thuộc toán của ông. Đến thứ hai, Bửu sẽ mang tới cho tôi một bản báo cáo đầy đủ. Giáp lắc đầu và b́nh: “Không biết đến bao giờ họ mới hiểu được rằng họ không được hoan nghênh ở Việt Nam, trong t́nh huống hiện nay?”.
Chú thích
(1) Ban t́nh báo
(2) S.L. Norlinger, đại tá, thuộc G-5, Bộ tham mưu chiến trường, cầm đầu đơn vị cứu tế xă hội đối với tù b́nh Đồng minh ở Hà Nội.
(3) Hướng đạo sinh
(4) tức Tạ Quang Bửu, một nhà chính trị độc lập
(5) tức Vơ Nguyên Giáp
(6) Tôi không nhớ được tên 3 trong 4 người đă đến.
(7) tức muốn nói về những cố gắng của OSS Trùng Khánh trong những năm 1943-1944 để xin thả ông ra khỏi nhà tù của Trương Phát Khuê
( 8 ) tức Hội nghị Liên Hợp Quốc từ 25-4 đến 26-6-1945.
(9) Câu chuyện được các nhà viết sử (Devillers, B. Fall…) nhắc lại nhiều lần là cả ông Hồ và tôi đă thảo luận về các nhân nhượng kinh tế sau chiến tranh hoặc sự điều đ́nh để đồi lấy việc Mỹ bào đảm nền độc lập của Việt Nam và những câu chuyện đồn đại ra ngoài phạm vi của vấn đề, đều là bịa đặt do các nhà văn Pháp đặt ra, giống như bài của Dessinger đăng trong Le Monde ngày 14-4-1947.

 

Chương 26
Ngày lễ Độc lập


TÔI NÓI ĐỒNG BÀO NGHE RƠ KHÔNG?

Ngày chủ nhật đầu tiên trong tháng 9 là ngày lễ các Thánh tử v́ đạo của riêng hơn một triệu dân Thiên chúa giáo ở Bắc Việt Nam(1). Có thể cũng chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà ông Hồ đă chọn ngày đó làm Ngày lễ Độc lập. Tại các nhà thờ Thiên chúa giáo, cũng như các chùa Phật giáo, buổi lễ vẫn tiến hành long trọng, các bài thuyết pháp có thêm những ư chính trị ủng hộ chính phủ mới thành lập và nền độc lập của Việt Nam.
Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như các bầy ong, từng đoàn lúc lớn lúc nhỏ, lượt dần dần kéo đến cạnh quảng trường Ba Đ́nh.
Ở nhiều chỗ là cả một khối dân chúng các làng ngoại ô. Đi theo trong biển người đó, có cả toán dân miền núi với y phục địa phương của họ và nông dân trong những bộ khăn áo cổ truyền.
Giữa các khối khác nhau, người ta dễ dàng nhận ra các tổ chức của công nhân, sơ mi trắng, quần dài hoặc quần soóc trắng hoặc xanh. Phụ nữ mặc áo dài trắng hay màu sáng, tay khoác nón.
Cho đến tận trưa, cả toán OSS chúng tôi lăn lộn ở ngoài phố, chụp ảnh, ghi chép về các nhóm người, các sự kiện, các khẩu hiệu, biểu ngữ, áp phích… Có nhiều khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, Anh, một số bằng tiếng Việt Nam: “Việt Nam của người Việt Nam”, “Hoan nghênh Đồng minh”, “Hoan nghênh phái đoàn Mỹ”, “Thà chết, không nô lệ”…
Khoảng trưa, Knapp, Bernique, Grelecki và tôi đi về phía quảng trường Ba Đ́nh. Tôi đă quyết định từ chối lời mời của ông Hồ đến khu vực lễ đài dành cho quan khách, để đi xem buổi lễ chỉ như một người quan sát trong quần chúng. Chúng tôi chọn được một điểm thuận lợi ngay trước lễ đài giữa đám viên chức địa phương.
Trong khi chờ đợi ông Hồ và các quan chức tuỳ tùng tới, tôi nh́n thấy một toán cố đạo Thiên chúa giáo mặc áo thầy tu trắng và xanh den, có cả các chức sắc mang khăn quàng và giải viền đỏ.
… Cách họ không xa, là các nhà sư Phật giáo khoác áo cà sa màu da cam, rồi đến các chức sắc Cao Đài, áo dài trắng có tua và khăn quàng sặc sỡ.
Đội danh dự và công tác bảo vệ được giao cho bộ đội của Giáp và Chu Văn Tấn, lực lượng được huấn luyện, trang bị, có kỷ luật nhất của họ. Mũ bấc, đồng phục kaki, quần soóc, tất cao, họ trưng bày các vũ khí mới một cách hănh diện, lúc trong tư thế “đứng nghiêm”, lúc “nghỉ” Ở đó c̣n có các đơn vị “tự vệ”, dân quân mặc áo lẫn lộn quần áo nhà binh Pháp hoặc Nhật hoặc quần áo ngắn xanh hay đen, mang theo một loạt các vũ khí cũng lộn xộn, từ súng kíp, gươm, dao rùa, mă tấu có cán gỗ dài và cả gậy tày… Có thứ h́nh như họ mới lấy từ các đ́nh, chùa ở làng ra. Tất cả dựng lên một cảnh tượng sinh động và kinh hoàng(2).
Mặt trời đă lên cao. Không khí oi bức. Nhưng đôi lúc cũng có cơn gió nhẹ thổi làm phất phới cả cái biển cờ trên quảng trường. Cao trên cột trước lễ đài, lá cờ đỏ với ngôi sao vàng lớn phấp phới bay.
Bất chợt có tiếng c̣i và các hiệu lệnh quân sự phát ra từ các đội h́nh. Đội danh dự và các đơn vị bộ đội đứng thẳng và chăm chú theo dơi có người đă bắt đầu xuất hiện trên lễ đài. Mấy phút sau, nổi lên tiếng hô “bồng súng, chào”, quần chúng bỗng im lặng trong khi các vị chức quyền t́m chỗ đứng vào đằng sau cái bao lơn được trang trí bằng màu trắng và đỏ. Trên lễ đài, mọi người đều bận đồ trắng, thắt cà vạt và để đầu trần, trừ một người nhỏ nhắn, mặc áo kaki màu sẫm và có cái ǵ như là cái khăn trùm đầu - đó là Hồ Chí Minh.
Lê Xuân, nguyên là người liên lạc của chúng tôi, đă đến và sẵn sàng b́nh luận, nhận xét. Anh ta cũng đă đi một ṿng và cho rằng quần chúng hết sức ṭ ṃ và quan tâm đến vị lănh đạo “mới” của Chính phủ. Mọi người đều muốn biết “ông Hồ Chí Minh bí ẩn” này là ai? Ông ở đâu về?
Nhưng không phải chỉ có người Việt Nam mới không quen thuộc với cái tên đó đâu. Ngay cả đến cơ quan Bộ Ngoại giao chúng ta ở Côn Minh và Trùng Khánh cũng không biết ǵ về vấn đề này, mặc dù là đă có nhiều báo cáo cụ thể của tôi. Một tháng sau, khi đọc một công văn của Sprouse, lănh sự ở Côn Minh, tôi ngạc nhiên thấy c̣n nói đến “Ho Chi Minh”. Lúc đó ai cũng nghĩ rằng đă biết tên thật của ông Hồ.
Một tiếng trong loa phóng thanh nổi lên phá vỡ sự im lặng, giới thiệu “ông Hồ là người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc”. Quần chúng được hướng dẫn của các đảng viên, lên tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang “Độc lập”. Ông Hồ ngồi yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm cỡ, nhưng đại trong sự hoan hô của nhân dân ông. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn, nay thành nổi tiếng của ông với những lời:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: “Tôi nói đồng bào nghe rơ không?”. Quần chúng hô vang đáp lại: “Rơ!”. Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy. Từ lúc đó, quần chúng lắng nghe, nắm lấy từng lời. Chúng tôi không hiểu ông Hồ đă nói ǵ. Lê Xuân phải cố gắng lắm để dịch nhưng cũng rất khó khăn. Nhưng cứ nghe giọng nói của ông Hồ, b́nh tĩnh và rơ ràng, ấm cúng và thân mật, và nghe thấy được quần chúng trả lời th́ chúng tôi không c̣n nghi ngờ ǵ nữa là ông đă thấu tới quần chúng.
Ông Hồ tiếp tục:
“Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Sau đó, quay về bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp năm 1791, nói về quyền con người và quyền công dân, ông Hồ nói:
“Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối căi được”(3).
Đến khoảng 2 giờ, ông Hồ kết thúc bản Tuyên ngôn. Tiếp sau đó là Vơ Nguyên Giáp nói về vai tṛ của Việt Minh, nhấn mạnh vào công tác của Đảng trong lĩnh vực chính trị - quân sự, phát triển kinh tế xă hội, chương tŕnh giáo dục và văn hoá. Trong các vấn đề quan hệ đối ngoại, Giáp đă vạch ra rằng Mỹ và Trung Quốc là những đồng minh đặc biệt và liên tục ủng hộ đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Điều thú vị là không thấy nói ǵ đến Liên Xô. Tôi không bao giờ bỏ không ghi những lời Giáp nói, nhưng sáng ngày hôm sau, báo chí Hà Nội lạl đăng tin Giáp đă phát biểu “Mỹ đă góp phần lớn nhất cho sự nghiệp giải phóng của Việt Nam và đă cùng với nhân dân Việt Nam đấu tranh chống phát xít Nhật, v́ thế Cộng hoà Mỹ vĩ đại là một đồng minh tốt của chúng ta”.
Sau bài diễn văn, các Bộ trưởng mới được chỉ định, từng người một được giới thiệu ra mắt nhân dân. Buổi lễ kết thúc bằng việc các Bộ trưởng tuyên bố nguyện trung thành và triệt để ủng hộ Chính phủ Dân chủ Lâm thời Việt Nam.
Măi đến tận khuya hôm đó, báo chí địa phương mới cung cấp cho chúng tôi một bản nguyên văn lời tuyên bố của ông Hồ; chúng tôi dịch và chuyển ngay bằng điện đài cho Côn Minh. Tôi cũng gửi kèm theo bằng đường hàng không bài tường thuật và nhận định của tôi…
Sau khi các phần thủ tục kết thúc, chúng tôi cũng phải mất đến 30 phút mới t́m đường ra khỏi được nơi tập trung. Nhờ đi tắt qua khu vực Thành được dành riêng, tránh được những phố đầy người, nên chúng tôi trở về nhà Gauthier đúng vào giờ cơm chiều. Tôi đă mời tất cả các người Mỹ ở Hà Nội đến cơ quan của OSS để tham dự ngày lễ “14-7” lặng lẽ và không pháo hoa của người Việt Nam. Để đề pḥng những chuyện xung đột có thể xảy ra giữa những người Việt Nam vui mừng hớn hở và người Pháp tuyệt vọng, và để giữ cho người Mỹ tránh khỏi các cuộc hỗn loạn, tôi đă yêu cầu đại tá Nordlinger và đại uư Mekay, thủ trưởng toán AGAS cùng với cả nhóm đến ăn cơm cùng với chúng tôi…

MỘT NGÀY CHỦ NHẬT ĐEN TỐI Ở SÀI G̉N
Mọi việc trôi chảy cho đến 9 giờ tối th́ tôi nhận được một bức thư của Imai báo ở Sài G̣n xảy ra rối loạn nghiêm trọng. Ngày Độc lập ở Hà Nội đă biểu thị cho ḷng tự hào dân tộc, danh dự của địa phương, và một sự biết kiềm chế đáng khen, nhưng tại Sài G̣n th́ bạo lực và chết chóc đă kéo dài thêm danh sách những người “Việt Nam hy sinh”. Theo báo cáo của Imai th́ những người lănh đạo Việt Minh ở Sài G̣n, hoặc các chỉ thị của Hà Nội hoặc muốn biểu thị một sự đoàn kết với Hà Nội, đă tổ chức một cuộc biểu t́nh khổng lồ nhân Ngày Độc lập. Những người tổ chức đă mất nhiều công sức để duy tŕ trật tự và tránh các cuộc xô xát với người Pháp. Người ta đă nói với dân chúng rằng các người đại diện Anh và Mỹ sẽ đến Sài G̣n vào ngày hôm ấy(4) và đó cũng là một dịp rất tốt cho người Việt Nam để biểu thị một cách hoà b́nh, trong trật tự sự thống nhất dân tộc trước các nước Đồng minh. Nhưng các lănh tụ Việt Minh đă kinh ngạc khi thấy trong đám quần chúng khoảng 20 vạn người đi diễu hành dọc phố Catinat, các đảng phái chính trị hợp thành liên minh miền Nam, đă trương lên những biểu ngữ, bích trương đầy tính chất tranh giành chia rẽ đảng phái.
Khi những người biểu t́nh tiến đến trước cửa Nhà thờ Lớn th́ nghe có tiếng súng nổ từ phía nhà Câu lạc bộ Pháp ở phố Norodom. Cha Tricoire, một giáo sĩ Thiên chúa giáo trong nhà thờ của trại giam và rất được người Việt mến đă bị bắn gục trong khi đang đứng trên bậc cửa nhà thờ. Nghe nói ông bị thương nặng và nằm gục ở đó nhiều giờ.
Tin đồn người Pháp tấn công lan ra hết sức nhanh chóng và tiếp đó là sự hoảng sợ. Không điều tra xem nguồn phát súng ở đâu, cảnh sát Việt Nam đă có bắt ngay hàng trăm người Âu và những người thân Pháp. Bọn lưu manh địa phương nắm ngay lấy cơ hội lộn xộn, xông vào một số nhà và cửa hàng người Pháp và Hoa, cướp đi mọi thứ mà chúng có thể mang được. Cuộc biểu t́nh có trật tự đă biến thành một sự điên loạn của quần chúng, nghi ngờ lẫn nhau, đưa đến cho đất nước mới sinh một tương lai chính trị không chắc chắn.
Những tin tức mà Hà Nội nhận được qua đài phát thanh Delhi đă khơi cho t́nh h́nh bùng cháy to lên. Tin nói về việc tướng Mac Arthur (trong buổi tiếp nhận Nhật đầu hàng trên chiến hạm Missouri sáng hôm đó) đă khuyến khích đại diện Pháp, tướng Leclerc, sử dụng ảnh hưởng của ḿnh đối với Chính phủ Paris để gửi quân đội sang chiến trường Thái B́nh Dương. Ở Hà Nội người ta được tin rằng, sau khi kư hiệp ước, Mac Arthur đă kéo Leclerc ra một chỗ và nói “Nếu tôi cần phải khuyên ông th́ tôi sẽ nói với ông đưa quân tới, nhiều quân hơn nữa, theo khả năng cao nhất của ông”. Lời của Leclerc trên đài Delhi cộng thêm với sự rối loạn ở Sài G̣n đă nâng niềm hy vọng của người Pháp ở Hà Nội lên điểm cao mới. Quá tin vào một cuộc quay trở lại của quân đội Pháp đang giơ cao ngọn cờ tam tài có Đồng minh hỗ trợ, họ cho là tin tức đă báo hiệu một sự sụp đổ nhanh chóng của Việt Minh.
Một giờ sau, Imai tới để báo cho tôi thêm những tin nhận được từ Bộ ch́ huy tối cao Nhật và cho biết câu chuyện của Leclerc đă khuấy động xôn xao và gây gổ nhỏ ở trong Thành. Nhưng Bộ tư lệnh Nhật vẫn nắm chắc được t́nh h́nh. Trong mấy tuần trước, tướng Mordant, “lănh tụ” của những người “kháng chiến” theo De Gaulle(5) và cũng là một tù binh trong Thành, đă định làm một cuộc nổi dậy, hy vọng để mở màn cho việc quân đội dưới quyền của Leclerc quay trở lại. Chúng tôi đă có tin nhóm Mordant cất những kho lớn vũ khí và đạn dược tại các nhà và cửa hàng của người Pháp, chuẩn bị sẵn sàng cho lúc nổi dậy.
Nhưng không phải chỉ có riêng tôi biết được kế hoạch của Mordant: Giáp cũng có những nguồn tin của ông. Như mọi lần, tin của ông bao giờ cũng chính xác hơn của tôi. Ông biết rơ người Pháp đă cất dấu vũ khí ở đâu và tên tuổi của các người lănh đạo.
Cũng c̣n nguy cơ thực sự là một số Việt Minh nóng đầu nào đó có thể tự động “thủ tiêu” số tù binh Pháp ở trong Thành cùng với những lănh tụ Pháp ở bên ngoài mà người ta đă biết. Tôi trao đổi những mối lo lắng của tôi với Giáp và Imai, tất nhiên là với riêng từng người. Cả hai đều đảm bảo với tôi rằng đă có những biện pháp đề pḥng cẩn thận, ít nhất cũng cho tới khi các lực lượng Đồng minh tới.
Nhưng các sự kiện xảy ra ở Sài G̣n đă cho thấy t́nh h́nh dễ bùng cháy đến chừng nào. Rốt cuộc không có ai là thủ phạm của phát súng đầu tiên - Người Pháp bị kết tội không có chứng cớ, một số kẻ hiếu chiến trong phong trào liên minh Việt Nam cảm thấy bị lợi dụng, chính người Nhật hay những người thân Nhật, hay đơn giản chỉ là một người mất trí. Ai mà biết được? Tôi thực sự không muốn những chuyện tương tự xảy ra ở Hà Nội.
Các rối loạn ở Sài G̣n, sự náo động trong người Pháp tại Hà Nội, và lời công bố khiêu khích của Leclerc, cộng với báo cáo của Bửu và mối lo lắng của Giáp xung quanh vụ xâm nhập bí mật của một số quan chức “cao cấp” Pháp, đ̣i hỏi chính sách Mỹ đối với Pháp phải được làm sáng tỏ rơ ràng. Đêm đó tôi đă điện báo cho Helliwell biết sự quan tâm của tôi đối với t́nh h́nh náo động ở bên ngoài và t́nh h́nh an ninh của chúng tôi. Tôi nói nhiều về nguy cơ hai mặt ở trong Thành và yêu cầu cho phép được thực hiện các biện pháp đề pḥng đặc biệt. Tôi khuyên phải ngăn ngừa việc thả sớm các tù binh Pháp đang chờ hồi hương v́ sợ rằng, được thả ra, họ sẽ xúc tiến thực hiện các kế hoạch “kháng chiến” của Mordant và sẽ làm nổ ra cuộc xung đột trong thường dân. Đồng thời tôi muốn gia tăng bảo vệ cho các quân nhân cũng như các thường dân Pháp trong trường hợp người Việt trả thù lại đối với sự việc đă xảy ra ở Sài G̣n hay khi họ thấy bị đe doạ v́ quân đội Pháp quay trở lại. Đó là những vấn đề sinh tử nhưng lại không thuộc phạm vi nhiệm vụ của tôi và phải được giải quyết ở cấp Chiến trường, v́ vậy tôi đề nghị phải có một cuộc họp bàn ở Côn Minh vào ngày 5-9.
Quá nửa đêm, sự vật mới trở lại yên ắng trong ngôi nhà Gauthier. Nhưng đèn vẫn c̣n cháy sáng cho tới rạng đông trong mái nhà cũ ở phố Hàng Ngang, trong căn buồng của Pháp tại dinh Toàn quyền, và trong nhà một số lănh tụ chính trị Pháp và Việt Nam. Đó quả là một đêm không dễ dàng ở Hà Nội.
Chú thích
(1) Người Thiên chúa giáo ở Bắc Việt Nam có khoảng chừng hơn 1 triệu. Dấu hiệu tính chất quần chúng của ông Hồ thể hiện trong lời kêu gọi của ông đối với các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có nhiều nhóm tôn giáo khác nhau. Người ta đồn rằng, năm 1945, ông Hồ v́ kính trọng đối với Thiên chúa giáoViệt Nam nên đă cử một người Công giáo nổi tiếng là Nguyễn Mạnh Hà làm Bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ đầu tiên của ông. Thiên chúa giáo Việt Nam đă ủng hộ chủ nghĩa Quốc gia của ông Hồ cho đến tháng 12-1946, khi bắt đầu nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước đó, vào tháng 3-1946, Giám mục Lê Hữu Từ, vùng Phát Diệm, đă được cử làm Cố vấn Tối cao thay cho Bảo Đại đă bỏ trốn sang Hongkong.
(2) Ước lượng khoảng 50 đến 60 vạn người, theo không ảnh của Mỹ chụp ngày hôm đó.
(3) Đây là một bản dịch lời của ông Hồ do một phiên dịch Việt Nam thông thạo tiếng Anh, có được nghe tại chỗ.
(4) Điều này có liên quan đến toán OSS - AGAS dưới quyền trung uư Mỹ, R. Counasse ngày 2-9 được đưa đến sân bay Sài G̣n để giải phóng các tù binh Đồng minh, trong đó có 214 người Mỹ.
(5) Trong bản tướng thuật này, vẫn giữ lại danh từ “kháng chiến” mà người Pháp đă dùng. Nhưng cũng cần nói rơ là từ khi đă có ngừng chiến với Nhật th́ hoạt động của Pháp chỉ là nhằm mục đích đánh đổ Chính phủ Lâm thời Việt Nam

Chương 27
Hậu quả của ngày chủ nhật đen tối


NHỮNG SUY ĐOÁN
Sáng sớm ngày thứ Hai, Hà Nội nhận được các báo cáo thiệt hại đầu tiên qua đài phát thanh Sài G̣n.
Từ các nguồn không được xác nhận, tung ra tin một cuộc “thảm sát lớn” đă xảy ra trong “ngày chủ nhật đen tối” ở khu vực Sài G̣n - Chợ Lớn, có tới “một trăm người chết - hàng ngàn người bị thương”. Nhưng theo tài liệu chính thức ngày hôm sau th́: 3 người Pháp, cộng với Cha Tricoire, và 14 bốn người Việt chết, trong đó có một em gái nhỏ. Cuộc “thảm sát” là như thế đó.
Các câu chuyện xuyên tạc mới và những tin đồn dại lan nhanh ở Hà Nội. Và trong người Pháp người ta nghe thấy những lời bàn tán độc ác về một cuộc trả thù đối với người “An Nam”. Cũng có những sự ức đoán vô căn cứ rằng cảnh sát Việt Minh phối hợp với Hiến binh Nhật đang chuẩn bị một cuộc vây ráp để bắt những người Pháp kháng chiến đă lộ mặt.
Tôi hỏi lại tướng Tsuchihashi, ông cũng nhận được tin về những hoạt động của Pháp, nhưng theo chỗ ông biết th́ không có một hành động bạo lực công khai nào xảy ra và ông cũng không nhận được yêu cầu giúp đỡ từ phía những người cảnh sát Việt Nam. Sài G̣n cũng báo cho ông biết số thiệt hại là 5 người chết, hàng tá người bị thương và một số vụ cướp bóc. Bản doanh thống chế Terauchi(1) cho biết cảnh sát Sài G̣n đă bắt giữ độ 200 người Pháp, đă lộ mặt là “những kẻ gây rối”.
Sau khi trao đổi về phương hướng hoạt động, tôi nêu lại lời căn dặn nhắc nhở trước đây là vấn đề duy tŕ trật tự công cộng vẫn thuộc trách nhiệm của ông ta và nói thêm, mặc dù tôi không có quyền ra lệnh cho các chỉ huy Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, họ vẫn có trách nhiệm trong khu vực đó giống như ở đây, cho tới khi lực lượng của Anh tới. Tới đây, Tsuchihashi gợi ư là tốt hơn hết, cả hai chúng tôi nên thảo luận t́nh h́nh với Hồ Chí Minh. Trong khi đó, trong chừng mực có thể ông sẽ chuyển ư kiến của tôi cho Bộ chỉ huy Tập đoàn quân Nam và đảm bảo với tôi rằng quân đội của ông ở phía Bắc sẽ làm mọi cách để bảo vệ tính mạng và tài sản của người Âu và Việt Nam.
Từ Hành dinh của Tsuchihashi tôi đi thẳng tới Bắc Bộ phủ. Ông Hồ tiếp tôi ngay và chúng tôi nhận định về t́nh h́nh ở Sài G̣n và các ảnh hưởng có thể của nó tới toàn quốc. Ông Hồ cung cấp thêm một số chi tiết về Sài G̣n nhưng không có ǵ quan trọng, trong khi một số nhân viên tham mưu thân cận của ông tới. Trong số đó có Trần Huy Liệu, Bộ trưởng tuyên truyền và Giáp. Theo gợi ư của ông Hồ, Liệu nói lại cho tôi nghe ư kiến của ông về sự việc đă xảy ra.
Theo Liệu, từ hội nghị ngày 13 - 16 tháng 8 ở Tân Trào, tất cả các đại biểu đă thông suốt và thống nhất ư kiến là cuộc cách mạng sẽ “dân chủ”, cố gắng hết sức tránh không dùng bạo lực và lập ra một mặt trận thống nhất và có kỷ luật của tất cả các đảng phái chính trị đấu tranh cho độc lập để ra mắt với Đồng minh. T́nh h́nh đó đă thực hiện được ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng “một số đồng bào miền Nam” đă không thấy hết sự quan trọng của việc phải duy tŕ “trật tự xă hội và kinh tế”, đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp này.
Liệu có ư nói đến tính chất mờ ám của một số phần tử chính trị ở Nam Kỳ và Kampuchia, đặc biệt là các nhóm Quốc gia không Cộng sản. Ông đă đưa ra một thí dụ, đó là “bọn cướp” B́nh Xuyên. Tôi không biết, nên hỏi cho rơ thêm. Nhóm này được mô tả do một tướng cướp nổi tiếng là Bảy Viễn chỉ huy, hoạt động từ làng B́nh Xuyên trong vùng lầy phía nam Chợ Lớn, có khoảng từ 500 đến 1.000 tên cướp, thường đánh phá cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn và các nhà giàu Pháp ở ngoại ô Sài G̣n. Có tin Bảy Viễn đă đi theo với bọn Phục Quốc sau cú 9-3, nhưng chỉ nhằm để xoay tiền và tranh thủ được công nhận công khai hoạt động.
Tôi hỏi xem có phải cuộc rối loạn hôm trước là do Bảy Viễn gây ra không. Có người trả lời “h́nh như không phải”. Bọn B́nh Xuyên đến sau, thủ phạm chính là người Pháp. Sau đó, người ta giải thích thêm là các phần tử khác cũng có nhiều lư do cụ thể để gây rối trật tự và đặc biệt là để làm mất uy tín của Việt Minh mà chính sách ôn hoà đă làm cho họ không đồng t́nh. Nhóm Troskism đang kiểm soát ngành cảnh sát là một trong số những phần tử đó, ngoài ra c̣n có nhóm chính trị tôn giáo Cao Đài và Hoà Hảo, cũng ác cảm đối với Việt Minh.
Thấy tôi lúng túng trong việc phân biệt Việt Minh và mục tiêu của những người Troskism. Liệu giảng giải là cả hai về căn bản đều thống nhất với khái niệm độc lập dân tộc, nhưng đối lập nhau hoàn toàn trong việc xác định các ưu tiên để hoàn thành giai đoạn “dân chủ - xă hội chủ nghĩa”.
Nhóm Troskism chủ trương vũ trang quần chúng, xoá bỏ mọi tàn dư của nền thống trị ngoại quốc, chống lại các cố gắng của Đồng minh nhằm phục hồi chủ quyền của Pháp và cho thi hành ngay các cải cách xă hội. C̣n Việt Minh th́ ít cực đoan hơn, vẫn ít nhiều chấp nhận cơ cấu chính quyền cũ, và sẵn sàng thương lượng với Đồng minh. Việt Minh ủng hộ một sự chuyển tiếp từng bước - từ chế độ dân chủ cộng hoà sang xă hội chủ nghĩa tiến bộ rồi chủ nghĩa cộng sản, v́ thế tránh được va chạm của một sự thay đổi đột ngột về kinh tế xă hội và cuộc đấu tranh giai cấp gắn liền với nó.
Nhũng sự khác biệt này phản ảnh chủ nghĩa thực dụng của Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng một t́nh huống khá tế nhị, trong đó người Việt Nam phải tự khẳng định ḿnh và trong cuộc chiến tranh giành giữa các đảng phái để nắm được quyền lănh đạo chính trị. Thực tế, sự lănh đạo của ông Hồ trong tháng 9-1945, ngoài Bắc Kỳ ra, th́ rất mong manh. Sự kiểm soát của ông đối với khu vực miền Nam có thể nói đúng ra là không vững vàng.
Để làm giảm nhẹ nhược điểm thiếu kỷ luật của Đảng trong sự việc xảy ra ở Sài G̣n, Liệu phát biểu là Chính phủ Hồ ở Hà Nội chưa có dịp thuận lợi để khích lệ chính quyền của Giàu. Nhưng điều đó có nghĩa là những tên quấy rối chưa bị Giàu trừng trị và điều đó làm cho mọi người ở Hà Nội lo lắng. Ông Hồ gật đầu tán thành và nói với một cử chỉ nhẹ nhàng, ra hiệu cho mọi người rút lui, trừ Liệu và Giáp.
Ông Hồ tỏ ra thấm mệt với sự căng thẳng trong những tuần lễ vừa qua. Ông trông già đi và mệt mỏi, với những vết nhăn sâu ở trán. Khi người khác nói, ông hơi nhắm mắt lại và nhẹ nhàng ngả đầu ra thành ghế, không hút thuốc. Khi những người khác đă ra khỏi pḥng, ông ngả người trên ghế, hai tay đan vào nhau, và hỏi ư kiến tôi. Nhớ lại các nhận xét của tôi lúc đó mạnh mẽ và quá tự tin, nhưng điều lo lắng trước mắt của tôi là tránh đổ máu. Tôi nêu ra vấn đề nghiêm trọng của t́nh h́nh (lúc dó chưa biết cụ thể về sự thiệt hại) và tôi sợ sẽ có những ảnh hưởng lớn trong khắp nước, nếu như ông Hồ không làm một cái ǵ đó để trấn an người Pháp, cho họ biết rằng hành động ngày hôm qua không phải do Việt Minh gây nên. Tôi báo cho ông Hồ biết là tôi đă trao đổi với tướng Tsuchihashi và ông này nhận thức rơ ràng được nhiệm vụ bảo đảm trật tự và an ninh công cộng của ḿnh; cơ quan của ông sẽ tiếp xúc với Chính phủ Lâm thời để phối hợp kế hoạch đối phó với những sự bất ngờ. Giáp lại muốn biết có sử dụng quân đội Nhật không, nếu có th́ phải phối hợp kế hoạch với tướng Chu Văn Tấn. Tôi nói tôi không biết nhưng cho rằng điều đó có thể nêu trực tiếp với người Nhật.
Trở lại vấn đề ở Sài G̣n, ông Hồ muốn các nhà chức trách Đồng minh biết rằng, bất chấp việc đảng nào hay nhóm nào đă gây ra cuộc rối loạn, Việt Minh sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo không để cho t́nh h́nh tái diễn trở lại. Tôi đă định hỏi xem ông làm thế nào để giữ được lời hứa, nhưng lại thôi. Ông Hồ lại hỏi tôi có ư kiến ǵ cần nêu nữa không. Tôi gợi ư bước thứ nhất là nên ra lệnh thả “hàng trăm” người Pháp nghe nói đă bị bắt ở Sài G̣n. Sau đó, phải có một chương tŕnh giáo dục cho người Việt Nam về các mục tiêu và mục đích trước mắt của Chính phủ mới. Có như thế th́ mới có thể xua tan được những nghi ngờ và các tin đồn đang lan tràn trong dân chúng. Ông Hồ tỏ ư tán thành, lần đầu tiên trong tối nay ông đă mỉm cười và tuyêu bố đă cho họp phiên đầu tiên của Chính phủ vào sáng nay và Hội đồng Chính phủ đă thông qua một chương tŕnh 6 điểm.
Theo ông Hồ, điểm thứ nhất của chương tŕnh là có kế hoạch tăng gia sản xuất lúa gạo để ngăn chặn nguy cơ nạn đói. Trước mắt, ông đề nghị mỗi gia đ́nh, bắt đầu từ bản thân ông, cứ 10 ngày để dành ra một bát gạo rồi tập trung lại mang chia cho những người thiếu thốn. Các điểm khác trong chương tŕnh gồm có: một cuộc vận động chống nạn mù chữ; tổng tuyển cử; vận động phong trào cần, kiệm, liêm, chính; huỷ bỏ thuế thân, thuế đ̣, thuế chó; cấm hút thuốc phiện; cuối cùng là hoàn toàn tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo.
Có phần nào phấn khởi và cũng vui v́ đă nắm trước được ư của tôi, ông mỉm cười một cách độ lượng và hỏi: “C̣n ǵ nũa không?”. Tôi nêu ra vấn đề nên cử một nhân vật nào nổi tiếng của Việt Minh ở Hà Nội vào làm đại diện cho cá nhân ông, đồng thời có cố vấn chủ chốt cho Giàu trong thời kỳ quá độ này. Tôi cho rằng như thế sẽ tăng thêm được uy tín cho Giàu. Ư kiến của tôi đă được chấp nhận và ông Hồ hứa sẽ xem xét vấn đề những người Pháp bị bắt giữ ở Sài G̣n đă được thả ngay chưa. Quay sang phía Liệu, ông hỏi về phương hướng tuyên truyền cho công chúng. Liệu đáp lại là sáng nay đă cho phép công bố tất cả các pháp lệnh mới trên tờ công báo(2) và ra tuyên bố công khai lên án những người phá rối trật tự ngày hôm qua.
Giáp, Bộ trưởng Nội vụ đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm về an ninh nội địa, tỏ ra lo lắng về giọng bài diễn văn Leclerc đọc trên đài phát thanh Delhi. Ông hỏi xem tôi có thể nói rơ thêm vê câu nói của Mac Arthur với Leclerc cho phép “đưa quân đội” đến Đông Dương. Tôi phân bua không rơ và cho rằng nhận xét của Leclerc không có liên quan ǵ đến vấn đề này hoặc đă bị người ta cố t́nh xuyên tạc đi. Nhưng mọi người đều biết rằng Pháp đang xúc tiến điều đ́nh với người Anh và Anh sắp vào chiếm đóng Nam Việt Nam, và chắc chắn quân đội Leclerc sẽ đi theo cùng. Giáp tỏ ra ngán ngẩm trước sự phân tích của tôi, nhưng cũng nhận ra là ông cũng đồng ư với tôi, ông cảm thấy nếu người Anh cho phép người Pháp tái chiếm lại Đông Dương th́ trước sau rồi cũng sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh lâu dài. Ông tin tưởng rằng phong trào độc lập nhất định không thể từ bỏ sự nghiệp của ḿnh mà không có đấu tranh.

CÁC ỦY VIÊN CỘNG H̉A PHÁP
Sau khi tôi từ biệt ông Hồ, Giáp đi cùng tôi sang pḥng lớn và kể cho tôi nghe về t́nh h́nh của Cédile và Messmer. Trong đêm 22 - 23 tháng 8, sau khi toán OSS của chúng tôi tới Hà Nội th́ hai phi cơ C.47 của không lực Hoàng gia Anh (RAF) từ Calcutta tới cũng cho thả dù hai toán người Pháp, mỗi toán 3 người, một toán gần Sài G̣n và một toán ở phía bắc Hà Nội.
Toán vào Sài G̣n rơi xuống một ruộng lúa cạnh Biên Hoà, đă bị nông dân bắt giữ và sau đó được trao trả cho các nhà chức trách Nhật. Phụ trách toán này là một nhân viên dân sự tự xưng là “đại tá” J. Cédile, Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Kỳ. Cédile đă được người Nhật đưa về giữ ở Sài G̣n nhưng đă được thả ra ngày 24-8. Từ đó, ông ta xúc tiến điều đ́nh với Giàu và Lâm uỷ Nam Bộ nhưng không đạt kết quả ǵ nhiều.
Toán thứ hai hạ xuống gần thị trấn Phúc Yên, tây bắc Hà Nội. Thủ trưởng toán này là thiếu tá Pierre Messmer, được chỉ định làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong toán c̣n có một dược sĩ, đại uư Brancourt, đă sống ở Việt Nam trước cú 9-3, và một nhân viên điện đài, đội Marmot, người đă đi cùng Langlade trong các lần công tác đến gặp Decoux và Mordant trước cuộc đảo chính. Messmer và toán của ông đă bị du kích của Giáp bắt giữ nhiều ngày, sau dó đă được thả ở gần biên giới Trung Quốc để cho về với đồng bào của họ ở bên đó.
Tôi hỏi Giáp tin tức về vụ Dupré; ông cười và cho biết “Dupré” chỉ là bí danh của Messmer. Khi tôi nói lại với Sainteny về những điều Giáp kể về số phận của Messmer, ông không tin và cho đó chỉ là một tṛ đánh lừa độc ác của dân “An nam mít”.
ĐỘI TIỀN TRẠM CỦA LƯ HÁN
Hội nghị Trung - Nhật ở Khai Viễn đă kết thúc vào ngày 2-9 và phái đoàn Nhật, trừ Imai, đă trở về Hà Nội ngày 3. Imai đă được giao mang một bức thư chỉ thị cho tướng Tsuchihashi nên đă đáp trên một phi cơ liên lạc đặc biệt về Hà Nội ngay từ đêm 2-9. Đi cùng với bộ phận c̣n lại của phái đoàn Nhật c̣n có đơn vị tiền trạm của bộ tham mưu Lư Hán. Đây là những người Trung Quốc đầu tiên trong số 150.000 người sẽ đặt chân tới Hà Nội và phải một năm sau mới rời khỏi đất Việt Nam(3). Chiều hôm đó, đại tá Sakai báo cho tôi biết tướng Tsuchihashi đă nhận được bản giác thư về việc đầu hàng và yêu cầu tôi thông báo cho Trùng Khánh biết.
Đến đêm, máy bay chở các sĩ quan Mỹ thuộc cơ quan của tướng Gallagher(4) cũng tới. Họ bắt liên lạc với phái đoàn chúng tôi và thu xếp chỗ ăn ở cho phái đoàn USMAAG(5) của tướng Lư Hán. C̣n tướng Gallagher sẽ đến sau, trong tháng.
Sáng hôm sau, thiếu tá Stevens trong. nhóm tiền trạm, nói với tôi đi t́m trụ sở cho tướng Gallagher và giúp kiếm một biệt thự thích đáng cho tướng Lư Hán. Tôi đề nghị lấy chỗ tôi ở, một toà nhà rộng răi của Bộ Tài chính cũ. Nhưng Stevens, không rơ được ai gợi ư, lại cho rằng phải đóng ở dinh Toàn quyền mới xứng đáng với một sĩ quan cao cấp Mỹ, nên đă định trưng thu nơi đó mà không cho tôi biết.
Sau bữa cơm chiều, Stevens điện cho tướng Gallagher: “Đă đến xem dinh Toàn quyền, định lấy làm trụ sở. Nhưng lại có vấn đề chính trị v́ thiếu tá ở đó nói nhận được lệnh của De Gaulle phải ở lại trong Dinh. Ông nhường lại toà nhà nhưng giữ lại gian buồng đang ở cho đến khi Bộ chỉ huy Tối cao Pháp đến tiếp quản. Tôi có nên cho qua vấn đề này và chấp nhận một vai tṛ thứ yếu không?”.
Tôi có thói quen chỉ kiểm tra điện tín muộn về khuya nên chậm phát hiện sai sót này, nhưng đă thảo luận ngay với Stevens và dứt khoát yêu cầu t́m trú ở nơi khác v́ Sainteny chắc chắn đă phản đối ầm ĩ cái âm mưu nham hiểm của Mỹ và Trung Quốc nhằm đuổi Pháp ra khỏi dinh Toàn quyền.
T̀NH H̀NH CĂNG THẲNG TĂNG THÊM
Trong hai ngày, Hà Nội h́nh như bị nén lại qua sự biểu thị lạc quan ôn hoà của Pháp và sự chịu đựng gắng gượng của người Việt Nam th́ những tin tức từ Sài G̣n tới vẫn c̣n rất đáng lo ngại. Vẫn tiếp tục xảy ra những sự thái quá như ngày 2-9, mặc dù Giàu đă cố gắng ngăn chặn. Những tin phát thanh của Anh, Pháp từ các đài Delhi và Sài G̣n đă loan báo chính quyền Việt Minh đă không c̣n kiểm soát được t́nh h́nh. Trái lại, Imai lại cho tôi hay Tổng hành dinh Nhật ở Sài G̣n cho biết Lâm uỷ Nam Bộ, và đặc biệt là Dương Bạch Mai, viên cảnh sát trưởng địa phương(6) vẫn làm chủ được t́nh thế. Tôi có cảm tưởng như người Nhật muốn lẩn tránh v́ họ hy vọng không bị bắt buộc phải dính líu đến việc giữ ǵn trật tự.
Đài Sài G̣n cũng đă loan tin những người bị bắt v́ phá rối trật tự trong ngày lễ Độc lập đă được thả ra. Nhưng trái với điều mong đợi, người Pháp ở Sài G̣n và Hà Nội lại có thái độ nghi ngờ và sợ sệt. Họ ngại rằng những người được tha có thể sẽ bị người Việt trả thù ngay sau khi ra khỏi nhà tù. Sở dĩ như vậy v́ họ cũng được tin là Dương Bạch Mai cho tước vũ khí các phần tử Cao Đài và Hoà Hảo nhưng không đạt kết quả. Trong trường hợp đó, người Pháp lại cảm thấy ở trong tù được an toàn hơn.
Báo Dân chúng, cơ quan của Việt Minh ở Sài G̣n cũng đưa ra những tin tức gây lộn xộn. Với những đầu đề chữ lớn, tờ báo kêu gọi nhân dân giữ b́nh tĩnh, tái lập lại trật tự, và biểu thị một sự trưởng thành về chính trị. Nhưng nội dung bài th́ lên án những người Quốc gia không phải Việt Minh đă gây rối loạn trong ngày chủ nhật và phá hoại sự nghiệp độc lập bằng cách tấn công vào các “người Việt Nam yêu chuộng hoà b́nh”. Chúng tôi hiểu rằng ở đây họ muốn vạch mặt những người Troskism đă bán rẻ ḿnh cho các phần tử cực đoan.
Các báo chí chống Cộng ở Sài G̣n, được nhóm Troskism tiếp tay, liền phản kích lại, kết tội Giàu và “đồng bọn” là thân Pháp, có mưu đồ khôi phục lại nền cai trị cũ của Pháp và như thế là phản bội sự nghiệp độc lập của dân tộc.
Triển vọng tỏ ra ác liệt. Nếu cái tinh thần sôi sục chống Pháp đó lan ra miền Bắc th́ tôi không dám chắc rằng Chính phủ của ông Hồ đă có đủ khả năng để đối phó được.
Trên đường ra sân bay, tôi dừng lại ở dinh Toàn quyền. Sainteny tiếp tôi một cách rất thân mật và hỏi han về “việc rắc rối ở Sài G̣n”. Tôi đă kể lại nhũng ǵ tôi biết nhưng Sainteny không đặc biệt quan tâm lắm. Quan niệm của ông là Việt Minh đă mất quyền kiểm soát t́nh h́nh và việc cả đất nước sẽ trở nên hỗn loạn chỉ c̣n là một vấn đề thời gian, không nhất thiết v́ chống Pháp mà là giữa những người Việt Nam tranh chấp nhau. Rơ ràng là những “người Pháp khốn khổ” sẽ bị kẹt vào giữa, nhưng biết trách ai được? Chắc chắn không phải là những người Pháp “đă bị bỏ rơi”. T́nh h́nh chỉ có thể cứu văn được nếu như người Anh hoặc người Trung Quốc đến kịp thời.
Thái độ b́nh thản của Sainteny trong lúc này đă gây cho tôi một cảm giác rơ rệt là ông đă biết nhiều hơn những điều ông đă nói với tôi. Phải chăng ông đă lường trước được việc quân đội của Leclerc sắp tới? Hay ông ta có thể đă sẵn sàng chờ thấy cờ tam tài tung bay trong tiếng quân nhạc? Ngay cả đến việc sai sót dự định trưng dụng dinh Toàn quyền, ông cũng bỏ qua cho là nhỏ nhặt. Sự có mặt của người Mỹ sẽ kết thúc chỉ sau vài ngày đi đường nữa, khi quân đội Trung Quốc tới Hà Nội, do đó tôi cũng rất lo lắng và cũng rất ṭ ṃ muốn biết về cuộc rối loạn mà Pháp có thể đang trù tính.
Ở sân bay, tôi đă gặp Imai và thiếu tá Miyoshi đang chờ ở đó. Họ đến để thông báo cho tôi biết kế hoạch của Nhật trong trường hợp có sự bùng nổ tại các đô thị bắc tuyến 16. Bộ tư lệnh Nhật yêu cầu tôi chuyển báo cho các nhà chức trách Trung Quốc biết họ đă hoàn toàn sẵn sàng thi hành trách nhiệm của họ trong việc giữ ǵn an ninh và trật tự công cộng nếu được Chính phủ Lâm thời yêu cầu giúp đỡ, hoặc nếu, theo ư họ, Chính phủ tỏ ra bất lực hay hoạt động không có hiệu quả. Chúng tôi đồng ư là trách nhiệm về vấn đề trật tự vẫn thuộc quyền viên tư lệnh Nhật cho tới khi họ được chính thức thay thế. C̣n về việc Nhật muốn dựa vào khả năng của Chính phủ Lâm thời th́ đó là một vấn đề phải bàn bạc thống nhất với Chính phủ này và không có liên quan ǵ tới Đồng minh. Tôi chỉ nhắc lại là Tưởng thống chế mong rằng tư lệnh Nhật thông hiểu đầy đủ các điều khoản trong bản giác thư về đầu hàng.
Tôi gợi ư cho Imai và Miyoshi là các nhà đương cục Nhật nên chính thức thông báo kế hoạch của ḿnh cho Chính phủ Lâm thời biết. Họ cũng có thể, nếu họ muốn, nói rằng họ đă thảo luận vấn đề này với tôi.
… Chúng tôi lên máy bay vào khoảng 6 giờ 30 và hạ cánh xuống Côn Minh trong đêm. Helliwell dón tôi tại sân bay, với một bộ mặt nhăn nhó. Rơ ràng là Đông Dương đă thu hút được sự chú ư của Trùng Khánh từ khi xảy ra các sự kiện trong “ngày chủ nhật đen tối”.
Chú thích
(1) Thống chế Bá tước Hisaichi Terauchi, Tư lệnh Tập đoàn quân Phương Nam Nhật
(2)  Việt Nam Dân quốc Công báo
(3) Theo Hiệp định Pháp - Hoa 1946 th́ chậm nhất là ngày 31-3-1946, quân Trung Quốc phải rút hết khỏi Việt Nam. Nhưng sự thật th́ đơn vị Trung Quốc cuối cùng (Sư đoàn 2 danh dự) rời Hải Pḥng vào tháng 10-1946
(4) trong chuyến bay có các sĩ quan: trung tá Stodter (t́nh báo), thiếu tá Stevens (hành chính) và trung uư Unger (tuỳ tùng của tướng Gallagher)
(5) US Military Assistance Nhóm Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ
(6) Một người Cộng sản cựu trào

Chương 28
Đi t́m chính sách của Truman


TÂM TRẠNG LO ÂU Ở TRUNG QUỐC
Đến tuần đầu tháng 9 là sự tưng bừng vui vẻ, phấn khởi v́ chiến thắng ở Côn Minh đă phải nhường bước cho một bầu không khí đầy lo âu, nghi kị và mưu đồ đen tối. Người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ đều thất vọng, chán nản và ở trong một trạng thái bực dọc. Nếu Đông Dương là một ḷ lửa th́ Trung Quốc là ngọn núi lửa đang sôi sục và sẵn sàng bùng nổ.
Trong khu vực của OSS, xuất hiện nhiều bộ mặt mới. Một số là những tay kỳ cựu đă hoạt động lâu năm trong nội địa Trung Quốc. Số khác mới toanh, mới từ Mỹ đến, quá chậm để phục vụ chiến tranh nhưng lại lợi hại cho các hoạt động hậu chiến.
Helliwell cho tôi biết đủ thứ chuyện đă xảy ra ở Côn Minh, Trùng Khánh và Diên An, hàng loạt vấn đề mà OSS, Wedemeyer, Hurley và Tưởng đang phải đương đầu. Các toán Mercy của chúng tôi đă gặp vô vàn khó khăn với người Nga, Nhật và quân của Mao, từ vụ t́m cứu thê thảm tướng Wainwright từ một trại tù binh Nhật ở Măn Châu Lư cho đến cái chết vô nghĩa của John M. Birch trong khi tiến hành chiến dịch t́m cứu ở Suchow.
Một vấn đề hoàn toàn khác và t́nh h́nh rối loạn ở Côn Minh, đang lan tràn một cách nguy hiểm những tin đồn đại về nội chiến. Thống đốc Long Vân đe doạ làm đảo chính chống lại Quốc dân đảng và định bắt giữ tất cả người Mỹ và các đồ viện trợ của Đồng minh ở Vân Nam để làm con tin. Wedemeyer đă yêu cầu Heppner bảo vệ tính mạng và tài sản người Mỹ trong trường hợp có nổi loạn và trung tá A.T. Cox(1) đă được lệnh bố pḥng các cơ sở của OSS, toà Lănh sự Mỹ, trụ sở Hội Chữ thập đỏ và các quyền lợi khác của Mỹ.
Nhưng vấn đề hàng đầu đối với Wedemeyer và Hurley vẫn là họ đang bị Pháp và Anh làm áp lục về việc kiểm soát Đông Dương. Heppner lại ở Côn Minh nên ngay đêm hôm tôi tới, Helliwell và tôi đă cùng ông bay về Trùng Khánh để gặp các đại diện Đại sứ quán và Chiến trường thảo luận về các hoạt động của tôi ở Đông Dương và về chính sách của Mỹ.
Giữa lúc t́nh h́nh nóng bỏng th́ USS - Trung Quốc lại phải cải tổ tổ chức. Không c̣n cần đến nhũng tổ phá hoại biệt kích và đánh du kích nữa, nên phải đưa họ về nước. Nhiệm vụ phái đoàn OSS sau chiến tranh ở Trung Quốc hoàn toàn chuyên về công tác t́nh báo và phản gián mà thôi. Helliwell đă được chỉ định cầm đầu Nha Mật vụ mới lập.
Đến trưa, Heppner cho chúng tôi biết c̣n có nhiều vấn đề khác đă gây phiền toái cho người Mỹ. Quentin Roosevelt đă được xem những lời trích dẫn trong một bản giác thư của Bộ ngoại giao do J.C Dunn(2) viết. Bản giác thư nói về cuộc gặp gỡ ngày 29-8 giữa Tưởng phu nhân với Tổng hống Truman, trong đó Tổng thống đă chỉ rằng “đă không đi tới một quyết định nào” liên quan đến tương lai của Đông Dương trong cuộc thảo luận mới đây của Tổng thống với tướng De Gaulle(3). Tôi rất băn khoăn về t́nh trạng mập mờ trong lập trường của Mỹ và hỏi Heppner nhưng ông cũng lúng túng. Đại sứ Hurley đă tỏ ra muốn thấy không có ǵ tốt hơn là một “Đông Dương dân chủ”, và hay nhất là thuộc quyền bảo trọ của Quốc dân Đảng. Trong các công văn chính thức mới đây gửi về Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao, ông đă có nhiều dịp lên án “đế quốc” Anh, Pháp và Hà Lan. Nhưng rơ ràng là ông không vừa ḷng với Hồ Chí Minh và việc Cộng sản nắm chính quyền nên đă muốn cho rút toán OSS về và để Tưởng đối phó với mọi vấn đề. Đại sứ cũng đă yêu cầu có một sự giải thích làm sáng tỏ chính sách Mỹ nhưng chỉ nhận được của Washington một câu trả ḷi ngắn gọn “không có ǵ thay đổi”. Nhưng chính sách lại đang thay đổi, ít nhất cũng trong phạm vi thi hành. Mặc dù có điều xác nhận “không có quyết định” của Tổng thống Truman và “không thay đổi” của Bộ Ngoại giao, thực tế lại cho thấy chúng ta không c̣n chống đối một cách tích cực những mưu mô của người Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương bằng vũ lực nếu cần.
Tôi nêu vấn đề có thể đă đến lúc OSS nên rút lui khỏi hội trường. Heppner không đồng ư - OSS nhất định sẽ vượt qua được khi nào mà chúng ta có được một lập trường dứt khoát rành mạch của Nhà Trắng.
ĐI BÊN R̀A CÁC LỐI THOÁT
Chúng tôi tới Trùng Khánh lúc khoảng 2 giờ 30 và đi thẳng ngay tới Đại sứ quán. Tướng Olmsted(4) chủ tŕ cuộc hội nghị và mở đầu nói rằng Đông Dương trước đây phần nào đă bị lăng quên giữa nhiều vấn đề cấp bách khác. Nhưng những sự kiện mới xảy ra đă đ̣i hỏi Chiến trường phải đi thẳng vào các vấn đề của khu vực này. Heppner tỏ ư vừa ḷng và giới thiệu tôi báo cáo cho hội nghị biết t́nh h́nh mới nhất.
Tôi nêu ra nhiệm vụ chung đối với toàn Đông Dương, nhấn mạnh vào chỉ thị đặc biệt tháng 4 của Nhà Trắng về hoạt động của chúng tôi ở Trung Quốc, và các mối quan hệ với M.5 ở Côn Minh, sau đó nói đến vai tṛ hiện nay của phái đoàn OSS ở Hà Nội. Tôi báo cáo tổng hợp về các sự kiện xảy ra từ khi chúng tôi đến Hà Nội, tả lại tóm tắt sự xung đột của các thế lực chính trị và mối quan hệ giữa người Mỹ, người Pháp và người Việt Nam. Tôi vạch rơ vị trí trung lập của chúng tôi đối với nguyện vọng của nước Pháp và hoài băo của người Việt nhằm nắm quyền kiểm soát Việt Nam. Nhưng, tôi nói trên trường chính trị chúng ta đă đạt tới một điểm, mà ở đó chúng ta gặp cực kỳ khó khăn để tiếp tục giữ được lập trường trung lập, v́ vậy vấn đề được đặt ra là phải có một sự xem xét lại lập trường này.
Tướng Olmsted đă hỏi một cách chính xác về những chỉ thị công tác ban đầu của tôi và sau này đă có ǵ thay đổi trong đó không? Tôi đáp lại là tướng Donovan đă chỉ thị cho tôi một cách đơn giản là tiến hành các hoạt động bí mật chống Nhật ở Đông Dương, và thiết lập một mạng lưới t́nh báo có hiệu lực để phục vụ cho tướng Wedemeyer. Đáp lại câu hỏi của bí thư Đại sứ quán Paxton(5) về những chỉ thị sử dụng các lực lượng và phương tiện của Pháp; tôi nói là hoàn toàn chính đáng được sử dụng họ trong chừng mực mà điều đó không phải là một cách để khuyến khích hay giúp đỡ người Pháp thực hiện ư đồ muốn chiếm lại thuộc địa cũ của họ bằng vũ lực. Tôi lại nhắc lại rằng tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley đều biết rơ về các chỉ thị công tác nói trên và tôi đă được sự ủng hộ đầy đủ của Hành dinh Chiến trường và ở một mức độ thấp hơn, của Đại sứ quán.
Paxton phát biểu là nhiệm vụ của tôi thuộc lănh vực quân sự nên Đại sứ quán không có sự lănh đạo trực tiếp, trừ trường hợp cố vấn về mặt chính trị nếu được hỏi ư kiến. Chúng tôi hoàn toàn đồng ư về điểm này, nhưng vấn đề chính sách Mỹ là một vấn đề của Đại sứ quán nên tôi hỏi là từ tháng 4, chính sách đă có ǵ thay đổi không. Paxton trả lời là chỉ thị cuối cùng của Bộ Ngoại giao đă được ghi trong công hàm ngày 7-6 của Thứ trưởng Ngoại giao Grew. Heppner và tôi xác nhận là có được biết công hàm đó và hỏi thêm là như thế chúng tôi có thể hiểu là chỉ thị tháng 4 vẫn c̣n có giá trị đối với tôi. Lúc này, tướng Olmsted xen vào, tỏ ư muốn biết bản công hàm tháng 6 là ǵ.
Paxton tuyên bố bản công hàm ghi “không thay đổi” trong chính sách nhưng cũng thêm vào đó những điều nhập nhằng. Thứ trưởng Grew đă vạch ra rằng khái niệm của Roosevelt về vấn đề uỷ trị đối với Đông Dương hầu như đă bị gạt bỏ ở hội nghị San Francisco. Lúc đó Mỹ đă nhấn mạnh vào việc phải có một biện pháp tự trị tiến bộ cho tất cả các nước phụ thuộc. Grew đă nêu rơ ư kiến của Tổng thống Truman là vấn đề sẽ được giải quyết sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng vào thời điểm thích hợp nào th́ phải hỏi chính phủ Pháp để có được một “sự trả lời tích cực”. Theo ông, chính qua những lời gián tiếp này mà Tổng thống muốn nói là đă không đạt tới một quyết định nào về tương lai của Đông Dương.
“Được!”, Olmsted lại hỏi, “Thế rồi sao?”. Trong tuần lễ đó (tuần lễ từ 2-9), Đại sứ Hurley đă phải thảo luận với Wedemeyer một dự án khá hóc búa của Pháp ở Washington, đề đạt coi Đông Dương như là một vùng đất đai của địch đầu hàng trong khu vực của Anh dưới quyền đô đốc Mounbatten. Người Pháp c̣n đề nghị thêm: đối với viên chỉ huy Nhật, tướng Tsuchihashi th́ bản thân tướng này sẽ đầu hàng với người Trung Quốc trên lănh thổ Trung Quốc, nhưng c̣n việc đầu hàng của quân ông ta th́ sẽ giao cho người Pháp thuộc quyền Bộ chỉ huy Anh tiếp nhận.
Theo Paxton, đề nghị của Pháp đă đặt Đại sứ chúng ta vào một vị trí rắc rối đối với Tưởng. Thực may mắn là Washington đă không chịu khuất phục hoàn toàn và đă giữ lập trường là nếu người Pháp tranh thủ được sự đồng t́nh của Anh và Trung Quốc về vấn đề đó th́ Mỹ cũng sẽ vui ḷng chấp nhận hành động theo, và tướng Mac Arthur sẽ không có ǵ bị phản đối trên các lănh vực quân sự.
Olmsted ngắt lời, nói rằng rơ ràng là tướng Mac Arthur sẽ khó mà biện minh được cho việc sửa đổi lại Mệnh lệnh chung số 1 qua việc cắt xén các nghị quyết của Hội nghị Potsdam và đưa người Pháp vào số các nước Đồng minh đă được chỉ định tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Nhưng ông thêm, Tưởng sẽ không bao giờ đồng ư cho phép một nước không tham gia vào cuộc chiến tranh châu Á - Thái B́nh Dương - nước Pháp - đứng ra nhận sự đầu hàng các lực lượng Nhật trên chiến trường do ông phụ trách. Theo Olmsted, tướng Wedemeyer đă thảo luận các vấn đề này với Thống chế và bác sĩ K.C. Wu(6) và người Trung Quốc sẽ trả lời dứt khoát là “không!”.
Đến đây, Heppner nhận xét vấn đề khó xử của Đông Dương khi nào cũng là một điều rnâu thuẫn của Mỹ trước những quyền lợi của Pháp và các nguyên tắc về dân chủ của Mỹ. Qua việc trao đổi thư tín riêng với một người nào đó trong Bộ chỉ huy Đông Nam Á (SEAC), ông đă được biết vào khoảng 30-8, Bộ Ngoại giao Mỹ đă báo cho Bishop, bí thư uỷ ban Mỹ ở New Delhi, rằng Mỹ không có ư định phản đối việc Pháp quay lại cai trị Đông Dương, và nói rộng ra, không có vấn đề xem lại chủ quyền Pháp đối với Đông Dương. Nhưng Bộ Ngoại giao vẫn không ngớt nhắc lại đó không phải là chính sách của Mỹ nhằm giúp Pháp chiếm lại Đông Dương bằng vũ lực. Heppner nói tiếp: Bộ c̣n báo cho Bishop biết Mỹ mong muốn Pháp phục hồi lại quyền cai trị với danh nghĩa là yêu sách của Pháp đă được nhân dân Đông Dương ủng hộ và sự ủng hộ đó đă được chứng minh bằng những sự kiện tiếp sau. Nói một cách khác đi, lập trường của chúng ta sẽ là đứng ngoài và để cho Pháp chiếm lại quyền cai trị, ngay cả bằng vũ lực, miễn là chúng ta không giúp đỡ và chỉ chờ xem kết quả.
Helliwell, vẫn ngồi yên từ đầu, bật lên nói là điều mà tất cả chúng tôi thắc mắc: chính sách ǵ mà như vậy? Chúng ta có giúp người Pháp chiếm lại quyền hay không? Chúng ta có giúp Hồ Chí Minh thiết lập một chế độ “dân chủ” cho đồng minh Nga của chúng ta không? Hay là chúng ta đă “hoá dại” và quên hết những lời lẽ hào nhoáng trong Hiến chương Bắc Đại Tây Dương, trong bản Tuyên ngôn Độc lập, và v.v…?
Tất cả chúng tôi chờ Paxton trả lời, nhưng tướng Olmsted đă phá vỡ sự im lặng kéo dài và tuyên bố là chúng ta không thể thay đổi được chính sách cũ mà cũng chẳng làm ra được chính sách mới, nhưng chắc là chúng ta có đầy đủ khả năng để giải thích được chính sách hiện hành. Cuối cùng, Paxton đă gợi ư là chúng tôi nên xem xét đến một điểm trong chính sách nói trên có liên quan cả đến người Pháp và Việt Minh.
Đối với người Pháp, chúng ta ở trong một thế không hay ho ǵ là không có khả năng hỗ trợ về tiếp tế hậu cần để giúp họ từ Chiến trường Trung Quốc trở lại Đông Dương. Do đó chúng ta phải để cho người Trung Quốc, tuy không muốn, nhưng lại là người duy nhất có điều kiện giúp đỡ cho người Pháp. Không cần phải có chúng ta xen vào giữa họ. V́ vậy chúng ra sẽ không làm ǵ cả.
C̣n về Hồ Chí Minh, ông đă chiếm lại được vị trí của ḿnh, nhưng đang cưỡi trên con ngựa rừng không yên, và chỉ cầm được một dây chằng. Trong khi Mỹ chưa có quan hệ ngoại giao chính thức với Chính phủ lâm thời Việt Nam th́ không thấy có ǵ phải cam kết giúp đỡ họ. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể ủng hộ về mặt tinh thần, một cách không chính thưc và kín đáo nhưng không có ǵ quan trọng. Chúng ta sẽ biến, khi người Nhật đă được giải giáp và hồi hương.
Đó là quan điểm của Paxton và đó cũng là một ư kiến giúp đỡ khá hay ho, đẹp đẽ của một nhân viên Đại sứ quán. “Nhưng”, tôi hỏi, “thế c̣n OSS”? Cảm thấy có ít nhiều gay gắt nên Olmsted vội trả lời: “Trước đă làm ǵ th́ các anh cứ đúng như thế mà làm. Nhiệm vụ của các anh là thu xếp với người Nhật và người Trung Quốc về việc đầu hàng của người Nhật. Các anh c̣n phải làm hồ sơ về các tội phạm chiến tranh. Và sau hết là nhiệm vụ lâu dài của các anh. Vấn đề quan hệ quốc tế với Pháp, Trung Quốc và Việt Nam là một vấn đề thuộc Bộ Ngoại giao giải quyết”.
Chúng tôi chuyển sang các vấn đề khác. Cơ quan tham mưu Chiến trường đă theo dơi các báo cáo và đặc biệt chú ư đến các sự kiện xảy ra mới đây ở Sài G̣n. Tướng Wedemeyer lo lắng t́nh h́nh đó có thể vượt ra ngoài tuyến 16 và muốn thường xuyên nắm được tin tức. Theo gợi ư của Heppner, tôi kể lại tất cả những điều mà tôi đă được nghe nói ở Hà Nội: sự lo sợ của người Pháp, phản ứng của người Việt và mối quan tâm của người Nhật. Tôi cho rằng, mặc dù sự rối loạn xảy ra trên khu vực của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) nhưng nó cũng có thể tác động mạnh mẽ một cách dễ dàng sang khu vực thuộc chiến trường Trung Quốc. Lúc này, vấn đề được thu hẹp trong sự tranh chấp chính trị giũa những người Việt đang t́m cách kiểm soát chính phủ và chỉ có những tác động ngoài lề đối với dân chúng Pháp và Trung Quốc. Nhưng với việc quân Anh sắp tới Sài G̣n để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và lại có người Pháp theo đuôi người Anh th́ có thể nổ ra rối loạn nghiêm trọng. Một điều quan trọng cuối cùng tôi nêu lên là đă có một toán chuyên gia OSS - AGAS Mỹ nào đó đi cùng với đội tiền trạm Anh và chắc chắn rằng họ cũng sẽ phải đối phó với những vấn đề mà chúng tôi đă gặp ở Hà Nội.

Olmsted và nhiều sĩ quan đă ngạc nhiên khi nghe nói một toán OSS đă được phái đi theo các hoạt dộng của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và đă yêu cầu được biết rơ thêm. Heppner nói ngay đó là một hoạt động quan trọng và ông chỉ được phép tiết lộ rằng Uỷ ban hỗn hợp Bộ Ngoại giao, Chiến tranh và Hải quân (SWNCC) đă ra lệnh tiến hành hoạt động này và đă thông báo cho tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley biết.
Olmsted muốn kết thúc hội nghị và hỏi xem có ai hỏi ǵ thêm không. Tôi đưa ra một câu hỏi cuối cùng: Nếu tôi tiếp tục xúc tiến các hoạt động chiến tranh chính trị ở Đông Dương th́ nhóm chúng tôi sẽ ra sao? Mọi người im lặng. Sau hết Olmsted hỏi lại tôi muốn nói ǵ qua danh từ chiến tranh chính trị và theo ông nghĩ th́ Paxton đă trả lời câu hỏi đó trước rồi. Nhưng Paxton lại nói ngay là ông không đả động ǵ đến vấn đề này mà chỉ làm việc giải thích chính sách đă được công bố của Mỹ.
Một cách bộc trực, Olmsted nhận là đă không hiểu câu hỏi của tôi và nói rằng nếu chỉ thị mà tôi nhận được là xúc tiến chiến tranh chính trị và cái mà tôi làm trong chiến tranh chính trị đó phù hợp với chính sách của Mỹ th́ tôi có thể bằng mọi cách “cứ cho tiến hành”. Mọi người đều cười, cuộc hội nghị bế mạc.
Cũng như trong phần lớn các cuộc hội họp ở cấp Chiến trường và Đại sứ quán, mọi người đều vui vẻ và không phải cam kết điều ǵ. Đối với tôi, các cuộc hội họp như vậy chỉ có mỗi một mục đích để nói cho những người làm quyết định biết rằng người chấp hành đă quyết định làm việc này hay việc khác, tuỳ theo vấn đề được đưa ra thảo luận.
Chúng tôi được Walt Robertson, Bộ trưởng cố vấn về các vấn đề kinh tế, mời dự buổi cơm chiều và đêm đó ở lại Trùng Khánh. Nhưng đại tá W.P. Davis(7) bên cơ quan OSS đă báo cho Heppner có công văn khẩn từ Côn Minh gửi tới. Davis đưa ra 2 tin làm náo động mọi người. Một là việc sơ tán các tù binh chiến tranh Mỹ từ Sài G̣n. Hai là lính của Long Vân đă cướp phá các kho tiếp tế của Mỹ trong vùng Côn Minh. Thiếu tướng H.S. Aurand, chỉ huy hậu cần, yêu cầu OSS giúp đỡ ngăn chặn không để cho các kho tàng khác của Mỹ tiếp tục bị cướp đoạt. Heppner đă điện trao đổi với Aurand và sau 15 phút nói chuyện liên tục, đă quyết định trở về Côn Minh ngay tức khắc. Ông xin cáo từ Robertson và chúng tôi chạy đi t́m toán lái máy bay. Phải sau nhiều giờ nữa, chiếc C.47 của chúng tôi mới cất cánh nổi. Tiếp đó, chúng tôi được mời ăn lương khô và nước lạnh. Tất nhiên trên máy bay không có đá…

PHƯƠNG ÁN “EMBANKMENT”( 8 )
Trong lúc nghỉ xả hơi sau một ngày kiệt sức, tôi hỏi Heppner cho biết có điều ǵ không b́nh thường đă xảy ra chung quanh chiến dịch của OSS trong Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và ở phía nam Đông Dương. Về mặt này, tôi biết quá ít, ngoài tin Ed Taylor đă ṛi Kandy đi hoạt động, tin ở đó chúng ta tham gia vào việc giúp đỡ phong trào “Thái tự do”, xúc tiến điều đ́nh với Chính phủ Giải phóng Thái; và Heppner cũng c̣n có ít nhiều mối quan hệ ràng buộc với các lợi ích của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á.
Heppner đă kể cho Helliwell và tôi nghe phần đầu câu chuyện mà không đầy ba tuần lễ sau đă kết thúc bằng tấn bi kịch và đưa đến người Mỹ nạn nhân thương vong đầu tiên sau chiến tranh ở Đông Dương.
Vào tháng Giêng, Bộ trưởng Stettinius đă báo cho tướng Donavan biết về những cố gắng của Bộ Ngoại giao để điều tra t́nh h́nh các tù dân sự Mỹ (CIS) và tù binh chiến tranh ở Nhật và trên đất Nhật chiếm đóng. Hội Chữ thập đỏ quốc tế đă thực hiện được một số vụ cứu trợ nhân đạo nhưng chỗ được chỗ không và c̣n tuỳ thuộc vào ư thích nhất thời của người chỉ huy Nhật tại chỗ. Stettinius thấy cần phải báo cho Chính phủ biết các trại tù binh ở đâu, số lượng và t́nh trạng các công dân Mỹ bị giam giữ v.v…
Bộ Ngoại giao đă nhờ Marcel Junod(9), F.B. James(10), và Camille George(11) điều đ́nh lập một mạng lưới thông tin giữa Mỹ và Nhật thông qua chính phủ Thuỵ Sĩ. Đồng thời, Bộ Chiến tranh cũng đặt ra Ban MIS - X trong Cục T́nh báo quân sự để giúp giải thoát các quân nhân trốn tránh khỏi bị bắt giữ v.v…
Ở Chiến trường Trung Quốc, nhiệm vụ này được giao cho AGAS. Nhưng các tù nhân dân sự th́ không được tổ chức nào quản lư, nên chỉ c̣n nhờ vào hoạt động của Hội Chữ thập đỏ Quốc tế. Donovan được giao nhiệm vụ này và đă chỉ thị cho Ban T́nh báo (SI) thuộc SEAC và Chiến trường Trung Quốc đảm nhận việc xác định các trại, lập danh sách tù binh chiến tranh và tù thường dân, cộng tác chặt chẽ với AGAS. Trong những tháng c̣n chiến tranh năm 1945, OSS đă rất thành công trong các chiến dịch t́nh báo này mà đỉnh cao là việc tung ra hoạt động các toán “Mercy”.
Allen Dulles đă báo cho Donovan biết việc Nhật thăm ḍ hoà b́nh qua các cuộc tiếp xúc với OSS, Donovan cũng được biết về sự tiến triển của bom hạt nhân và ít nhiều tin tức về kết quả thử nghiệm ở New Mexico. Trong thời kỳ Hội nghị Potsdam, Donovan đă lường trước được việc đầu hàng sắp xảy ra của Nhật và đă thông báo cho Taylor ở Kandy và Heppner ở Trùng Khanh biết. Dựa vào các báo cáo của OSS về sự ngược đăi, lộng hành trong một số trại của Nhật, Donovan đă đề nghị với Tham mưu trưởng Liên quân là phải có biện pháp bảo vệ các công dân Mỹ trong các trại tù binh ở Đông Nam Á trong trường hợp Nhật đầu hàng một cách đột ngột. Uỷ ban phối hợp Bộ Ngoại giao, Chiến tranh, Hải quân đă nghiên cứu vấn đề Mỹ tham gia công tác hậu chiến ở Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và đă đồng ư để các nhân viên người Mỹ sẽ phải ở lại SEAC ít nhất cho tới khi có các sĩ quan Cục Đối ngoại Mỹ đến làm việc tại Thái Lan và các nơi khách chỉ có những người Mỹ, nhân viên của OSS mới được miễn trừ.
Nhưng Bishop lại báo qua con đường không chính thức, cho Heppner biết là Bộ Ngoại giao Anh đă phân công cho các quan chức ngoại giao và lănh sự ở nhiều Bộ chỉ huy các lực lượng ở Đông Nam Á làm cố vấn chính trị dưới quyền Maberly Ester Dening(12) của SOE(13). Theo Bishop th́ nhiệm vụ của của số cán bộ này là điều tra bảo cáo về t́nh h́nh kinh tế và chính trị vùng Nhật chiếm đóng trước đây. Ngoài ra, Dening cũng nói cho Bishop biết tự người Anh sẽ phụ trách vấn đề “bảo vệ” quyền lợi của Đồng minh trong các vùng đất chiếm đóng và các vấn đề liên quan đến quyền lợi Mỹ th́ có thể giải quyết thông qua ông ta, Dening, cho tới khi các cơ quan lănh sự Mỹ mở cửa trở lại.
Đó quả là một t́nh h́nh không thể chấp nhận được. Donavan đă chỉ thị cho OSS - Đông Nam Á và Heppner ở Trung Quốc cứ lặng lẽ theo gương người Anh, tổ chức ra các toán OSS ở Đông Nam Á để đi theo quân đội chiếm đóng Anh vào Thái Lan, Đông Dương, Nam Dương, Malaysia và Bornéo. V́ vậy, vào cuối tháng 7, phương án Embankment đă được đưa ra thực hiện nhằm phái khoảng 50 sĩ quan, binh lính được huấn luyện và trang bị cho những nhiệm vụ đặc biệt của OSS, AGAS để đi cùng các “đơn vị xung kích” đầu tiên của Anh vào Đông Dương.
Người Mỹ liền bị đơn vị đặc nhiệm 136 của SOE coi như là những người cạnh tranh, và thực tế đơn vị này đă đỡ đầu cho các toán SLFEO của Pháp vào hoạt động ở Đông Dương, đồng thời chống lại toán t́nh báo Mỹ. Người Mỹ vẫn được coi là chống thực dân và bị người Pháp nguyền rủa, do đó càng bị ghét cay ghét đắng.
Và trong một quyết định vào giờ chót, thiếu tướng D.D. Gracey(14), Tư lệnh lực lượng chiếm đóng Anh ở Đông Dương đă gạt bỏ hoàn toàn phương án Embankment ra khỏi chiến dịch Đông Dương. Heppner điện cho huân tước Mounbatten phản đối hành động độc đoán này của Gracey và Mounbatten đă phải bắt ông bạn ḿnh cho phép một toán t́nh báo Mỹ đă bị thu nhỏ lại rất nhiều, chỉ có 17 người, được phép hoạt động vào ngày 2-9, đi trước cả đội quân của Gracey.
Phụ trách phương án Embankment là một thiếu tá nổi tiếng 28 tuổi (sau là trung tá) A. Peter Dewey(15). Trước đó, anh ta đă được Whitaker chọn, định để bổ sung cho hoạt động của tôi ở Bắc Đông Dương. Chúng tôi đă biết Dewey từ khi c̣n ở Bắc Phi, biết rơ các thành tích nổi bật của anh trong công tác t́nh báo và chiến tranh chính trị. Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi đều bằng ḷng, v́ có Dewey ở miền Nam th́ toán Đông Dương của chúng tôi sẽ được tăng cường rơ rệt, nên chúng tôi đồng thanh yêu cầu giao nhiệm vụ cho anh ta.
Dewey đến hành dinh của SEAC vào cuối tháng 7, và việc đầu tiên là bắt liên lạc với tôi Chúng tôi thoả thuận cùng nhau phối hợp hoạt động, trao đổi tin tức và nhận xét. Tất cả công văn và báo cáo của chúng tôi dều được chuyển theo hai chiều qua Côn Minh.
Mặc dù tuyến công tác của chúng tôi bị hạn chế bởi ranh giới quân sự ở vĩ tuyến 16, nhưng hoạt động của OSS Đông Nam Á và OSS Chiến trường Trung Quốc đă được phối hợp với nhau, theo tín hiệu của Heppner.
Từ khi nổ ra sự kiện Ngày Độc lập, tôi không theo dơi được t́nh h́nh kế hoạch Embankment nữa, tôi phải nhờ đến Heppner. Khi tướng Gracey bị Mounbatten gạt bỏ th́ chỗ dựa của Dewey vào người Anh cũng “bị suy yếu”. Dewey trở thành con người không được hoan nghênh ở đó. Gracey đă cho phối thuộc toán OSS nhỏ bé của anh vào Ban Chỉ huy Đơn vị xung kích của SEAC vào SàI G̣n, dưới quyền trung tá người Anh Cass. Người ta cho Dewey biết phải tự xoay xở lấy, không nên chờ đợi sự hỗ trợ về tiếp tế quân sự của người Anh. Điều đó cho phép Dewey tự do hoạt động mà không cần phải có sự giải thích đối với Cass hoặc Gracey trong vấn đề tù binh và tù thường dân của Đồng minh, quyết định quy chế tài sản Mỹ, điều tra các tội phạm chiến tranh và thực hiện các chỉ thị khác của OSS.
Được hành động một cách độc lập, Dewey đă không để phí thời gian. Trong khi người Anh chuẩn bị một cách chu đáo cho một cuộc hành quân “thực sự” để vào Sài G̣n, dự kiến vào tuần lễ thứ hai trong tháng 9, th́ Dewey đă phái một tổ tiền trạm bốn người(16) do trung uư Counasse cầm đầu để tiến hành trước các hoạt động về tù binh chiến tranh và tù thường dân. Chiếc phi cơ C.47 của họ đă hạ cánh vào lúc 3 giờ chiều ngày chủ nhật 2-9, xuống một đường bay nhỏ của Nhật gần sân bay chính Sài G̣n.
Sau bất ngờ của sự việc toán chúng tôi hạ xuống Hà Nội ngày 22-8, người Nhật chắc cũng đă dự đoán sẽ có nhiều khả năng nhiều toán khác của Đồng minh tới nên họ không c̣n bị bất ngờ. Khi phi cơ đỗ lại, nhiều xe quân sự đă lao tới để gặp người Mỹ. Theo báo cáo của Counasse th́ một toán Nhật khoảng 30 sĩ quan và lính do một đại tá có sĩ quan tuỳ tùng đă ra đón toán t́nh báo “một cách trịnh trọng”. Để cho đoàn có một quy chế chính thức, Counasse đă tự phong quân hàm cấp thiếu tá, các người khác là đại uư, trung uư.
Ngày 4-9, trong khi tôi từ Hà Nội bay đi Côn Minh, Dewey cùng với 4 người nữa đă đến tăng cường thêm cho toán ở Sài g̣n(17). Chiều hôm đó, Dewey đă điện cho hành dinh ở Candy là Counasse đă phát hiện được 4.549 tù binh chiến tranh Đồng minh(18) trong đó có 214 người Mỹ(19), bị giam tại hai trại trong vùng Sài G̣n. Những người ốm nặng đă được bắt đầu chuyển đi từ ngày 5: chính là ngày mà chúng tôi đang hội họp ở Trùng Khánh; tất cả người c̣n lại sẽ được sơ tán vào sáng ngày 6. Bức điện Heppner nhận được chiều hôm đó nói về việc người Anh tranh giành với người Mỹ về việc sử dụng đường không và các tù binh Mỹ đă không được ưu tiên trước. Sợ rằng các tù binh của chúng ta bị bỏ bê, tướng Wedemeyer ngay chiều hôm đó đă ra lệnh cho máy bay Mỹ từ Côn Minh bay tới Sài G̣n để giúp cho việc sơ tán người Mỹ.
Vào khoảng nửa đêm th́ phi cơ của chúng tôi tới gần Côn Minh, chúng tôi đă nh́n lờ mờ thấy cái hồ lớn ở đó và đến đúng 1 giờ sáng ngày 6 chúng tôi về tới khu nhà vắng vẻ của OSS. Heppner và Helliwell phải đối phó ngay với các vụ cướp phá trụ sở OSS của quân lính Long Vân trong khi tôi tiếp tục nghiền ngầm về những điều lộn xộn tối nghĩa của cái gọi là hội họp “chính trị” mà chúng tôi đă tiến hành ở Trùng Khánh.
Chú thích:
(1) Sĩ quan OSS phụ trách trung tâm huấn luyện biệt kích Trung Quốc ở Côn Minh
(2)  Trợ lư Ngoại trưởng
(3) Tổng thống Truman gặp tướng De Gaulle tại Nhà Trắng ngày 22-8-1945 và sau đó đă nói với bà Tưởng rằng De Gaulle đă đảm bảo với ông là nước Pháp sẽ cho tiến hành ngay từng bước để cho Đông Dương được độc lập. Tổng thống cũng nói với bà Tưởng biết là không có vấn đền “thảo luận về quyền uỷ trị”.
(4)  Thiếu tướng J. Olmsted, G.5 Hành dinh quân Mỹ ở Trung Quốc, thay mặt Hành dinh tại hội nghị.
(5)  J.H. Paxton, bí thư thứ hai Đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh, thay mặt Đại sứ quán tại hội nghị
(6)  Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
(7)  Đại tá Davis, Phó Ban OSS - Trung Quốc
( 8 ) “Đập ngăn sông”
(9)  Trưởng phái đoàn của Uỷ ban Quốc tế Chữ thập đỏ tại Nhật
(10)  Đại diện Hội Chử thập đỏ Mỹ tại Genève
(11)  Bộ trưởng Thuỵ Sĩ tại Nhật
(12)  tức Sir Esler, Cố vấn chính trị Anh thuộc Bộ Tổng tư lệnh tốc cao SEAC, Giám đốc SOE ở SEAC
(13)  Nha Công tác đặc biệt Anh, tương tự OSS của Mỹ
(14)  Thiếu tướng Douglas D. Gracey, sinh năm 1894, tư lệnh Lục quân Đồng minh ở Đông Dương năm vĩ tuyến 16, cầm đầu phái đoàn kiểm tra Đồng minh của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á và Đông Á (SEAC - SAC), tư lệnh sư đoàn 20 Ấn Độ. Đến Sài G̣n ngày 13-9-1945, đi ngày 28-1-1946.
(15) Trung tá A. Peter Dewey (1917-1945), sĩ quan chỉ huy kế hoạch Embankment của OSSNam. Nghiên cứu lịch sử Pháp ở Yale, thạo tiếng Pháp, phóng viên ở Paris của báo Chicago Daily News (1930-1940), gia nhập quân đội Ba Lan ở Pháp mùa xuân 1940, sau khi Pháp thua trận, trốn sang Lisbon và trở về Mỹ, làm ở cơ quan điều chỉnh công tác Xô Mỹ. Gia nhập quân đội Mỹ năm 1942, hoạt động t́nh báo ở châu Phi và Trung Đông. Được OSS tuyển mộ ở Alger 1943 và phái sang công tác ở hành dinh SEAC tháng 7-1945. Bị du kích Việt Minh giết nhầm ở ngoại ô Sài G̣n ngày 26-9-1945. đột nhập vào Nam Việt
(16)  Nhóm tiền trạm gồm Trung uư Counasse, thượng sĩ Nardella, thượng sĩ Hejna và trung sĩ Paul
(17) gồm Đại uư Bluechel, đại uư Frost, trung uư Bekker, trung uư Wicker. Ngày hôm sau đến thêm 3 người nữa là các đại uư White, Coolidge và Warner.
(18)  gồm: trại BOBT 1.681 người (920 Anh, 592 Hà Lan, 194 Úc, 5 Mỹ), trại 5E 2.686 người (1.394 Anh, 1.164 Hà Lan, 101 Úc, 209 Mỹ)
(19)  gồm của sư đoàn 36 (120 người), Hạm tàu Houston (86 người), VPB 117 (3 người), VPB 25 (2 người), trung đoàn phóng pháo cơ 308 (3 người)

 

Chương 29
Không ai chịu nghe


QUÁ NHIỀU VIỆC RẮC RỐI
Chuyến đi Trung Quốc của tôi nhằm t́m kiếm một sự chỉ dẫn về chính trị đă thất bại.
Wedemeyer và Hurley đang bận chuẩn bị đi Washington để xin chỉ thị(1) nên không thể hoặc không muốn để th́ giở gặp tôi nữa.
Đáp lại yêu cầu của Heppner, Wedemeyer đă trả lời: “Thấy thế nào tốt nhất th́ cứ làm!” đối với những vấn đề không thuộc phạm vi các chỉ thị hiện hành - trừ phi bị Washington bác bỏ. Thật chẳng khác ǵ nói “Những cái anh làm đều đúng cả, nhưng đừng có vượt qua Washington”. Nhưng lại chẳng có ai nói cho biết là Washington đang làm ǵ. Ba ngày thảo luận, bàn bạc đă chẳng mang lại được một kết luận đáng giá nào.
Một trong các vấn đề cần phải được chú ư là sự có mặt của các lănh tụ Đồng minh Hội trong những người thân cận của Lư Hán. Họ mà vào Việt Nam dưới sai bảo trợ của Quốc đân Đảng th́ chỉ gây ra hỗn loạn và nội chiến. Chúng tôi yêu cầu thiếu tướng R.B. Mac Clure(1) trao đổi vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm và nhấn mạnh đến nguy cơ tiềm tàng trong nhiệm vụ của Lư Hán. Tôi cho rằng nếu nổ ra một cuộc xung đột quy mô lớn giữa Việt Minh và Đồng minh Hội th́ quân lính của Lư Hán có thể phải có nhiệm vụ chẳng hay ho ǵ là đàn áp người Việt Nam bằng vũ lực, do đó sẽ gây ra một tinh thần chống Trung Quốc mạnh mẽ và làm tŕ hoăn công việc giải giáp quân Nhật. Tướng Mac Clure hứa sẽ nói với Hà Ứng Khâm nhưng cũng không tin là sẽ có hành động ǵ được v́ tướng Hà c̣n phải đương đầu với nhiều vấn đề quan trọng khác. Điều quan ngại nổi bật của Quốc dân Đảng lúc bấy giờ là phải đối phó với Cộng sản Trung Quốc đang tiếp quản một cách êm thấm và rất có hệ thống các vùng đất do Nhật chiếm trước đây ở phía bắc. Hà Ứng Khâm và bộ tham mưu của ông ta phải tập trung hết tâm trí vào việc chuyển và điều động các đội quân Quốc dân Đảng trung thành lên phía bắc Trung Quốc. Đồng thời ông ta lại phải ngăn chặn nguy cơ nổi loạn của Long Vân ở phía nam, và chống đỡ với áp lực của người Pháp và Anh đối với Thống chế trong việc chiếm lại Đông Dương.
Trước khi tôi trở về Hà Nội, tướng Mac Clure đă cho tôi biết ông đă đặt vấn đề Đồng minh Hội ra với tướng Hà nhưng không có kết quả. Hà đă không sẵn sàng can thiệp vào các cuộc thu xếp của Lư Hán. Đặc biệt là nếu chúng chống Cộng. Thảo luận với Helliwell và các nhân viên OSS khác, tôi cho rằng đứng về quan điểm của Đồng minh th́ vấn đề này mang tính chất quân sự hơn là chính trị, nếu cuộc nội chiến nổ ra - và các nhân tố để gây ra đă có sẵn - th́ sẽ có bắn giết và hỗn loạn, và có khả năng một số lính Nhật vũ trang nào đó sẽ tham gia. Sẽ là một t́nh trạng hỗn độn! Nhưng tôi cũng thống nhất với các đồng sự là chúng tôi đă làm hết cách để báo động cho các nhà đương cục và cũng không thể làm ǵ khác hơn.
SÀI G̉N -THEO CÁCH THUẬT LẠI CỦA NGƯỜI MỸ
Ngày 7-9, Dewey điện bản tường thuật đầu tiên của Mỹ về những việc đă xảy ra ở Sài G̣n trong ngày Lễ Độc lập. Nạn nhân người Pháp đă được rút xuống chỉ có 3 người chết và nhiều tá bị thương. Về phía Việt Nam th́ khó mà tính được. Theo cảnh sát, tất cả chỉ có 19 người chết và 6 người bị đưa vào bệnh viện v́ nhiều người Việt đă không đến xin thuốc, họ sợ bị nghi có tham gia cùng với các người biểu t́nh và sẽ bị trả thù.
Một báo cáo dễ hiểu của Dewey đă giúp giải thích cho chúng tôi nhiều hoạt động chính trị rối rắm ở miền Nam. Anh ta khẳng định việc Cédile nhảy dù xuống trong đêm 22 - 23 tháng 8, ngày 24 đă gặp một số người Pháp cánh tả lúc đó ở Sài G̣n và đến ngày 27 đă gặp Trần Văn Giàu(3).
Cũng là một sự t́nh cờ mà cuộc gặp gỡ đă trùng thời gian với việc Sainteny gặp Giáp và Hiền ở Hà Nội. Ở Sài G̣n, Cédile có ư định đi tới một cuộc điều đ́nh để cùng tồn tại có thể chấp nhận được. Điều đó không thành. Cũng như ở Hà Nội, cuộc gặp gỡ ở Sài G̣n chỉ cho thấy các quan điểm của Pháp và Việt Nam về tương lai chính trị của Đông Dương hoàn toàn đối lập nhau. Cédile đă nhấn mạnh việc tương lai chính trị của Đông Dương chỉ có thể được đưa ra bàn sau khi người Pháp đă khôi phục lại được quyền hành và phải được đặt trong khuôn khổ của Bản tuyên bố ngày 24-3(4). Giàu và các cộng sự của ông giữ quan điểm là vấn đề quan hệ tương lai với nước Pháp chỉ được thảo luận với điều kiện Pháp trước hết phải công nhận nền độc lập của Việt Nam. Rơ ràng hai bên không đứng trên một lập trường chung.
Những người Troskism đă sớm biết được tin Giàu thương lượng với Cédile và ông đă không thuyết phục được người Pháp chấp nhận Việt Nam “đă độc lập trên thực tế”. Nhóm Troskism thuộc Liên đoàn Quốc tế Cộng sản(5) liền kết tội Giàu bán ḿnh cho Pháp và tố cáo Giàu cùng đồng sự của ông ta là “phản cách mạng”. Trong những ngày tháng 8, nhóm này đă đưa ra một chương tŕnh cách mạng xă hội trong công nhân và nông dân Nam Kỳ. Ở Sài G̣n, trật tự vẫn được duy tŕ cho đến ngày Chủ nhật đen tối, nhưng các vùng nông thôn th́ xáo trộn mạnh mẽ hàng ngày. Nhóm Liên đoàn Quốc tế Cộng sản, kéo theo ở nhiều nơi các nhóm Cao Đài, Hoà Hảo và B́nh Xuyên đă khuyến khích nông dân các vùng quê lật đổ chế độ cũ - hệ thống quan lại, chức dịch địa phương và công chức - và thay vào đó bằng các uỷ ban nhân dân. Nhiều địa chủ đă bị tước đoạt tài sản và ruộng đất được đem chia cho nông dân. Nhiều người đă bị giết.
Sự phiến động này đă bị Việt Minh phản đối, và theo Dewey th́ Nguyễn Văn Tạo đă nói: “Tất cả những người nào đă xúi giục nông dân chiếm tài sản của địa chủ sẽ bị trừng trị nghiêm khắc” và “chúng tôi chưa làm cách mạng Cộng sản chủ nghĩa nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất. Chính phủ hiện nay chỉ là một chính phủ dân chủ, v́ thế mà không có nhiệm vụ nói trên. Chính phủ của chúng tôi”, Tạo nhắc lại, “là một chính phủ tư sản dân chủ, mặc dù có những người Cộng sản hiện nay đang giữ chính quyền”.
Sau ngày “chủ nhật đen tối”, tờ Tranh đấu, cơ quan của nhóm Troskism, đă đăng một bài xă luận ngày 7-9, tố cáo Lâm uỷ Nam Bộ đă sai sót trong việc không có những biện pháp bảo đảm an toàn cho cuộc biểu t́nh, mặc dù lúc đó đă thấy có thể xảy ra một vụ hỗn loạn.
Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, một trong những người tiếp xúc đầu tiên với Dewey ở Sài G̣n, đă cho Dewey xem một bản kêu gọi dân chúng Sài G̣n - Chợ Lớn của Lâm uỷ do Giàu kư, trong lúc đó những kẻ phá trật tự và gây ra chết chóc hôm “chủ nhật đen tối” đă bị vạch mặt là bọn “khiêu khích” và c̣n nói thêm: “Hiện nay, những người này đă tổ chúc một cuộc mít tinh để yêu cầu vũ trang cho quần chúng”. Dewey cho rằng: nói “những người đó” là ám chỉ vào những phần tử Troskism thuộc Liên đoàn Cộng sản Quốc tế và các đảng liên kết với họ. Bản kêu gọi c̣n viết: “Người Nhật và các nhà chức trách Đồng minh được tin đó sợ rằng sẽ xảy ra nhiều chuyện rắc rối đổ máu mới”, và:
“Căn cứ vào sự thoả thuận quốc tế, quân đội Nhật có nhiệm vụ phải đảm bảo trật tự cho tới khi quân đội chiếm đóng Đồng minh tới và mọi người không nên quên rằng mặc dù phải đầu hàng nhưng lực lượng quân đội Nhật vẫn c̣n nguyên vẹn. Do đó Tổng hành dinh Nhật có thể:
1. tước vũ khí quân đội quốc gia,
2. tịch thu các súng máy và các vũ khí khác,
3. cấm chỉ các phong trào chính trị nào làm rối trật tự và an ninh,
4. cấm các cuộc biểu t́nh nếu không được phép trước của Tổng hành dinh Nhật, và
5. tước vũ khí quần chúng”.
Bản kêu gọi kết luận:
“V́ lợi ích của đất nước chúng ta, chúng tôi kêu gọi mọi người hăy tin cậy ở chúng tôi và đừng để bị lôi kéo bởi bọn phản bội Tổ quốc. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể làm dễ dàng cho việc giao dịch của chúng ta với các đại diện Đồng minh”.
Ngày hôm sau, 8-9, chúng tôi được Dewey cho biết là bản kêu gọi của Giàu đă đẩy sự tranh căi giữa Việt Minh và phái đối lập phải bật ra công khai. Nhóm Troskism, từ trước vẫn hoạt động một cách ít nhiều hoà hợp, nay ra mặt thách thức Lâm uỷ. Họ dùng cuộc mít tinh để yêu cầu cấp vũ khí cho dân chúng và kích động những người theo họ chống lại quân đội Anh(6). Các uỷ ban nhân dân ủng hộ yêu sách của họ và ở các tỉnh đă xảy ra một số xung đột giữa bộ đội Việt Minh và các đơn vị vũ trang Hoà Hảo và Cao Đài.
Cũng trong khoảng thời gian chúng tôi nhận được tin của Dewey, Quentin Roosevelt đă trao đổi với Helliwell nhiều vấn dề mà người Anh quan tâm và cũng đụng đến nhiệm vụ của chúng tôi ở Đông Dương. Một trong những vấn đề đó là bức điện của huân tước Mounbatten gửi Wedemeyer báo động việc “dân chúng An Nam gây phiến động và chuẩn bị phá rối trật tự”. Ông có ngụ ư sẵn sàng tiếp quản phần việc “trong Chiến trường Trung Quốc”.
Một tin khác có liên quan đến cuộc thương lượng giữa Anh và Pháp đang được tiến hành. đầu tháng 9. Báo chí Pháp đă tiết lộ nhiều chi tiết về cuộc điều đ́nh này và đại sứ Mỹ Caffery đă báo cho Washington biết đó là vấn đề một “Bộ máy cai trị dân sự Pháp” được xem như là chính quyền duy nhất ở phía nam vĩ tuyến 16 của Đông Dương. Sự có mặt nhất thời của quân Anh chỉ là một vấn đề ngoại lệ chủ yếu nhằm xúc tiến việc tiếp nhận đầu hàng của Nhật và đảm bảo cho tù binh và tù thường dân Đồng minh hồi hương. Các nhà chức trách Pháp ở Trùng Khánh và Kandy hy vọng rằng điều thống nhất dă được nêu lên đó sẽ sớm thành một “việc đă rồi” vào tuần lễ đầu tháng 9. Nhưng thực ra th́ đến tận ngày 9-10, điều đó chưa được hai bên thương lượng kư kết.
Những cuộc vận động mờ ám đó của người Anh đă gây ra một bất đồng nguy hiểm giữa Anh và Mỹ, một nguy cơ mà thực ra chúng tôi ở Trung Quốc, không được chuẩn bị để đối phó. Đến thời kỳ kết thúc chiến tranh, Mỹ đă tự đặt ḿnh trên cương vị một người trung gian môi giới giữa Pháp - Trung Quốc, giữa Anh - Trung Quốc và giữa Pháp - Việt Nam. Nếu đó quả thực là vai tṛ của chúng tôi ở Trung Quốc th́ Bộ chỉ huy Chiến trường cũng như Đại sứ quán đều đă không nhận được chỉ thị nào như thế.
V́ vậy mọi nguười đều mong rằng Wedemeyer và Hurley đến dự hội nghị ở Washington dự định vào giữa tháng 9 sẽ giải quyết được bằng cách này hay cách khác các vấn đề nói trên của chúng tôi.

TÀI LIỆU CHO WEDEMEYER
Ở Côn Minh tôi đă chuẩn bị một tập hồ sơ cho “quyển sách đen” của Wedemeyer, một bản báo cáo đánh giá tổng hợp của OSS - Trung Quốc về t́nh h́nh Đông Dương khi kết thúc chiến tranh(7). Theo tôi, bản báo cáo đă nêu lên được nhiều điểm có giá trị trong khuôn khổ các sự kiện và các quyết định đă xảy ra sau đó và dẫn tới sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam…
Sau này tôi được biết là tập hồ sơ đă được trao cho tướng Tổng tham mưu trưởng ngày 10-9 để ông đi Washington. Tôi không rơ ông có đọc hoặc dùng phần nào trong cuộc họp không, nhưng dù cho có một cấp lănh đạo chính trị nào đă ngó tới nó th́ tác dụng của nó cũng đă phải bị gạt bỏ.
KẾ HOẠCH CHO OSS SAU CHIẾN TRANH
Khi tôi c̣n ở Côn Minh, Heppner đă thông báo cho tôi biết về những sự thay đổi có thể có trong cơ cấu tổ chức của OSS. Từ sau hội nghị Potsdam, Donovan đă sang phía Đông để gặp Taylor ở Kandy và Heppner ở Côn Minh, báo trước cho hai thủ trưởng OSS ở Viễn Đông về kế hoạch sau chiến tranh của ngành t́nh báo. Donovan cho biết đă được xúc tiến báo cáo thanh toán với Uỷ ban ngân sách( 8 ) và sẽ kết thúc nhiệm vụ thời chiến vào cuối tháng 12-1945… Đề án cải tổ OSS của ông đề đạt từ 1944 đă không thực hiện được v́ những xung đột chính trị ở trong nước và sự tranh chấp giữa các cơ quan t́nh báo quân sự và dân sự. Nhưng Donovan đă dự định cho OSS ngừng hoạt động ngay sau Ngày Chiến thắng.
Ở Chiến trường Trung Quốc, sẽ có một tổ chức giao thời là Nha T́nh báo(9) bao gồm tất cả cơ sở các tổ chức OSS cũ ở Trung Quốc. Vào cuối tháng 9, cả hai tổng hành dinh OSS và Chiến trường đều chuyển về đóng ở Thượng Hải. Nhân viên c̣n lại ở Trùng Khánh đi theo chính phủ Tưởng về Nam Kinh, tiếp tục công tác t́nh báo chính trị.
Đối với tôi đó là một việc cải tổ tất nhiên và b́nh thường, nhưng người Pháp đă nắm lấy cơ hội đó để tung ra một chiến dịch chống Mỹ mới. Từ Hà Nội, Bernique đă điện cho tôi hay là người Pháp ở đây đă loan báo rộng răi tin tức nói là tôi bị gọi về Washington v́ tội có “hoạt động thân Việt Minh” và toàn bộ OSS ở Đông Dương cũng sắp bị rút về. Helliwell phát cáu lên, tôi nói phải trở lại Hà Nội ngay tức khắc và phải chặn đứng những điều xằng bậy đó.
Do đó, chủ nhật ngày 9-9, tôi đă trở lại Hà Nội mà vẫn chưa nhận được một sự hướng dẫn có tính chất quyết định nào về chính sách của Mỹ nhưng vẫn ấp ủ hy vọng là sự có mặt của Hurley và Wedemeyer ở Washington sẽ giúp giải quyết các nghi ngại và lo lắng của chúng tôi.
Chú thích
(1) Hai người rời Trung Khánh ngày 19-9-1945
(2) tướng Robert B. Mc Clure, tham mưu trưởng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Quốc, kiêm Phó tư lệnh của Tổng tư lệnh Hồ Hán Dân.
(3) Trong cuộc gặp cũng có mặt Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và Nguyễn Văn Tạo
(4) của Bộ trưởng Thuộc địa, chính phủ lâm thời Pháp, về chính sách đối với Đông Dương, ngày 24-3-1945
(5) Nhóm tả khuynh của Troskism
(6) Trung tá Cass (Anh) đă đổ bộ vào Sài G̣n ngày 6-9 cùng một đơn vị Ấn Độ thuộc sư đoàn Ấn Độ thứ 20 và đội đặc nhiệm 136 của một nhóm nhân viên SLFEO.
(7) R&A của OSS và các nhân viên sứ quán ở Trùng Khánh đă giúp chuẩn bị bản báo cáo này.
( 8 ) Cố vấn kinh tế của Sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh đă lập nhóm Kinh tế
(9) trước là Nha Mật vụ SI

 

Chương 30
Quân phiệt và bọn đầu cơ chính trị


NHỮNG CON TẮC KÈ TRUNG QUỐC
C̣n 15 phút bay nữa th́ tới Hà Nội, khi phi cơ bay dọc theo đường thuộc địa số 2, phi công gọi chúng tôi phải chú ư đến một ḍng người rất dài đang hỗn độn kéo về phía Nam. Máy bay hạ xuống thấp hơn và ḍng người đi hiện rơ ra trước mắt. Đó là một mớ lẫn lộn nào xe quân sự, xe đạp, xe ḅ kéo xen lẫn vào những đám đông người đi bộ chập chờn, khó tả. Nhiều người gánh gồng hoặc đeo những bó tướng trên lưng, lùa đi hoặc dắt theo súc vật chăn nuôi. Chúng tôi c̣n thấy cả lồng gà, ngỗng, các đàn lợn, trâu và nhiều con vật khác được kéo theo đi trên đường… Đó chính là đội quân chiếm đóng của Tưởng Giới Thạch…
Máy bay chúng tôi hạ xuống Gia Lâm vào sáng chủ nhật 9-9. Hôm đó cũng là ngày đánh dấu buổi đầu của một chương mới trong lịch sử Cách mạng tháng Tám, ngày mà đám quân của Lư Hán đến Hà Nội, không bị chống đối nhưng cũng chẳng được hoan nghênh. Đó là những người Trung Quốc đại diện cho các nước Đồng minh châu Âu chiến thắng, tuy chưa phải thật sự là những nước lớn. Nhưng trước mắt người Việt, họ chỉ là những tên đầy tớ của thế giới phương Tây được phái đến để ḱm giữ Việt Nam trong ṿng nô lệ phục dịch cho quyền lợi của ngoại quốc. Ba mươi năm sau, trong hồi kư “Những năm tháng không bao giờ quên”, Vơ Nguyên Giáp vẫn c̣n nhắc đến mối ác cảm của nhân dân Việt Nam đối với quân đội Lư Hán lúc đó…
Ở sân bay, tôi không thấy người Trung Quốc mà chỉ thấy nhân viên phục vụ người Nhật. Khi qua cầu Doumer (Long Biên), xe tôi bắt gặp một đơn vị hậu tập của Sư đoàn 93 Vân Nam Trung Quốc. Một sĩ quan, nhận ra lá cờ Mỹ nhỏ ở đầu xe, đă ra lệnh cho lính dạt vào bên phải, nhanh nhẹn chào và vẫy tay. Ở đầu hàng quân, một số phân đội rất có kỷ luật đă chuyển từ đi thường sang đi nghiêm theo nhịp của đội quân nhạc. V́ đă quá quen với các đơn vị quân đội vô kỷ luật ở Trung Quốc, tôi khá xúc động trước sự xuất hiện của các đơn vị đặc biệt này. Họ mang quân phục màu xanh chững chạc và vác các vũ khí Mỹ của họ một cách hănh diện.
Suốt ngày hôm đó, quân đội Trung Quốc tiếp tục đến. Và đến chiều tối, đoàn xe tải và xe Jeep của sĩ quan và nhân viên tham mưu làm một cuộc diễu binh lớn để vào thành phố. Lính Nhật đứng ở trong các ô cửa và cố gắng không để mọi người dễ thấy trong khi người Việt Nam nh́n một cách thèm muốn những vũ khí và xe cộ Mỹ ở trong tay của người Trung Hoa. Người Việt Nam như những người ṭ ṃ đứng ngoài xem, dáng tự hào mà không kiêu căng, tỏ ra quan tâm và chưa có ǵ chống đối hoặc dễ bảo. C̣n người Âu th́ vắng bóng.
MỘT SỐ NGƯỜI PHÁP TỰ DO
Khuya hôm đó, có nhiều người Pháp “tự do” không ở trong số thân cận Sainteny đă tới nhà Gauthier, mang đến cho tôi những tin tức từ Sài G̣n và về t́nh h́nh trong “Thành Mordant”, tên họ gọi một cách châm biếm phong trào kháng chiến của Pháp ở Hà Nội. Hai người trong số họ thuộc Đảng Xă hội Pháp, một người là hội viên tích cực của phong trào Cộng hoà B́nh dân Thiên Chúa giáo. Họ từ Alger đến từ tháng 1-1945 để công tác cho trường đại học Hà Nội, sau khi đă tham dự vào cuộc khởi nghĩa Paris (8-1944) trong lực lượng kháng chiến nội địa Pháp. Hoạt động chống Nhật cùng với số sinh viên ở Việt Nam Học xá nhưng họ kín đáo nên đă thoát chết sau cú 9-3 và đă cộng tác với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và Tạ Quang Bửu trong việc tổ chức sinh viên Hà Nội thời kỳ Cách mạng tháng Tám. Tôi và họ vẫn thường gặp nhau để trao đổi tin tức và nhận xét t́nh h́nh.
Chiều hôm đó, họ tỏ rất quan tâm đến sự có mặt “kinh khủng” của người Trung Quốc trong thành phố. Họ sợ rất có thể nổ ra cuộc xung đột tai hại giữa người Trung Quốc và Việt Nam cường các lực lượng của Pháp là c̣n cần thiết và nên làm, ngay cả khi xảy ra rối loạn. sẽ là một cái cớ cho những người theo De Gaulle vin vào đó để dùng quân đội của Leclerc can thiệp. Tôi phát biểu là sau khi đă được thấy những đơn vị rất có kỷ luật của Trung Quốc, tôi không tin là việc tăng
Ông Gouin(1), đảng viên Xă hội chuyển câu chuyện sang nói về De Gaulle và nước Pháp, cho rằng trong lúc này, mặc dầu đă mất Syrie(2) nhưng Đế quốc Pháp vẫn c̣n nguyên vẹn. Ở Pháp, có thể trừ De Gaulle ra th́ chẳng ai quan tâm nhiều đến những ǵ đang xảy ra ở Đông Dương. Theo Gouin, đó cũng là một điều dễ hiểu. Mùa đông 1944-1945, đời sống ở Pháp đă trở nên cực kỳ khó khăn… Nội chính hoàn toàn hỗn loạn và De Gaulle, một lănh tụ tầm cỡ quốc tế đă phải chịu một đ̣n tai hại không thể tưởng được v́ đă bị gạt ra ngoài cuộc hội nghị nguyên thủ các nước ở Yalta và Potsdam. Điều đó là một thử thách nghiêm trọng đối với toàn bộ “chính sách cao siêu” của De Gaulle và ông đă không chấp nhận điều sỉ nhục đó. Người ta cũng đă phải làm một ít ǵ đó để phục hồi lại cho nước Pháp vị trí xứng đáng trong hàng ngũ các cường quốc lớn thế giới.
Những người khác gật đầu tán thành và ông bạn Lebrun(3), phái Cộng hoà B́nh dân của chúng ta đă nêu lên vai tṛ cứu thế mà “Charles vĩ đại” (De Gaulle) đă tự gán cho ḿnh. Lebrun nhắc lại việc De Gaulle đă rất đau ḷng khi người Mỹ v́ lư do này khác đă khước từ đề nghị của ông được tham gia vào chiến tranh Thái B́nh Dương. Ông cảm thấy sâu sắc rằng đó là một điểm danh dự của nước Pháp v́ đă tỏ ra có đủ tư cách để yêu cầu được dự phần trong hoạt động ở Viễn Đông. Theo Lebrun, De Gaulle quan niệm cú 9-3 của Nhật ở Đông Dương lại là một điều may mắn hơn là tai hoạ cho Pháp.
Vài năm sau, khi đọc hồi kư của De Gaulle(4), tôi đă nhớ lại những lời b́nh luận này của Lebrun…
Các vị khách Pháp đă chất vấn tại sao người Mỹ chúng tôi đă rộng tay để cho Tưởng chiếm đóng bắc Đông Dương? Tại sao chúng tôi lại chia cắt nước này ra làm hai? Phải chăng Mỹ và Anh đă có mưu đồ chính trị, kinh tế ở Đông Nam Á và muốn gạt nước Pháp ra khỏi kế hoạch của họ? Họ có cảm t́nh với các hoài băo của người Việt Nam nhưng họ cũng c̣n là người Pháp và tin rằng Pháp có đủ khả năng thực hiện một nền công bằng xă hội. Một khi mà khối liên minh Xă hội - Thiên Chúa giáo - Cộng sản lên cầm quyền ở Pháp th́ Việt Nam sẽ được công nhận như là một nước chị em trong cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp.
Tôi tự nhiên cảm thấy họ có cái ǵ dó rất giống với Sainteny và các bạn theo De Gaulle của ông ta. Họ tỏ ra rất phẫn nộ và nói là chắc tôi đă biết rơ hơn. Tôi trả lời là đă nghe quá nhiều những lời xuyên tạc cho rằng Mỹ có trách nhiệm trong việc chia cắt Đông Dương và nói rộng ra, với hàm ư là Mỹ có những động cơ đen tối về kinh tế. Gouin đồng ư với tôi và hỏi cho biết sự thật là như thế nào? Ông thấy khó mà bảo vệ được lập trường của Đồng minh nếu như không nắm được thực chất của vấn đề.
Tôi đă tŕnh bày một cách tỉ mỉ quyết định, trước khi có hội nghị Potsdam, của tham mưu trưởng Liên quân Mỹ nhằm điều chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái B́nh Dương và giải thích sự cần thiết phải tập trung lực lượng Mỹ vào cuộc tấn công chủ yếu vào chính nước Nhật. Chính v́ thế Mỹ không cần thiết và không có lợi lộc ǵ trong việc tiếp tục ngăn chặn hoặc đánh đuổi Nhật trong các vùng đất đai c̣n lại của thuộc địa Anh, Hà Lan, Pháp ở Đông Nam Á. Và sau các cuộc thảo luận trong giới lănh đạo quân sự Đồng minh, th́ chỉ đi đến một quyết định hoàn toàn quân sự; không có một cái ǵ khác. Sau này, người ta cũng có thể nói rằng trong khi người Mỹ chỉ chú tâm đến vấn đề quân sự th́ người Anh lại lo lắng nhiều hơn đến việc bảo vệ quyền lợi thực dân của ḿnh và họ vui mừng trước thái độ “chống thực dân” của người Mỹ.
Việc lên án Mỹ lợi dụng vấn đề điều chỉnh giới tuyến cho những mục đích kinh tế đă được bộ máy tuyên truyền của Sainteny thổi phồng lên bằng cách tung tin có một sự thoả luận “bí mật” ở Yalta nhằm “cướp đoạt” địa vị chính đáng của Pháp ở châu Á và quyết định ở Potsdam chỉ là một trong những quyết định cốt để xoa dịu Tưởng, đền bù cho việc bị mất cho người Nga những đất đai ở Trung Quốc. Mặc dù tôi đă làm hết sức ḿnh để giải thích chống lại những điều xuyên tạc nói trên nhưng những điều đó vẫn được các cây bút Pháp, Anh và Mỹ(5) liên tục nhắc đi nhắc lại đến mức một độc giả không chuyên về lịch sử vẫn có thể chấp nhận đó là nhũng sự thật. Nhưng thực ra chúng không đúng.
MỘT ĐỘI QUÂN XÂM LƯỢC
Suốt đêm hôm đó, quân Lư Hán tràn vào thành phố, ầm ầm tiếng xe cộ đi lại, tiếng máy nổ, tiếng hô các hiệu lệnh… Nhưng chỉ sáng hôm sau, chúng tôi đă chứng kiến một cảnh tượng trái ngược hẳn. “Quân đội” Trung Quốc đă biến chất đi một cách ghê gớm!
Đội quân tinh nhuệ hôm qua đă trở thành đội quân đi cướp chiếm đất. Ra phố, tôi chỉ thấy một cảnh tượng lộn xộn không thể tả được cùng với những người Trung Quốc lang thang không mục đích…
… Không c̣n thấy bóng các đơn vị có kỷ luật mang quân phục màu xanh, tiến bước theo tiếng quân nhạc đâu nữa. Họ đă được phân tán vào trong góc Thành trên băi cỏ trước dinh Toàn quyền, trong các trại cũ của Pháp và Việt. Chỉ c̣n thấy các đơn vị dân binh Trung Quốc quần áo rách rưới lộn xộn, đi dép cao su làm từ các lốp xe Jeep Mỹ và mang đủ các loại vũ khí linh tinh Mỹ, Pháp, Anh và Nhật.
Cái đống nhân mạng vô thừa nhận này chính là đội quân Vân Nam của Lư Hán; nó giống như một đám quân tụt hậu hỗn độn đang rút lui chứ không phải là một đội quân chiến thắng đến để giải giáp và tiếp nhận sự đầu hàng của quân thù.
Người Việt Nam, trong đó có Vơ Nguyên Giáp, vẫn nghe ngóng, đón chờ và sẵn sàng trước đoàn người di trú kỳ dị này…(6).
Những ngày tiếp theo là những ngày tôi hiểu sâu thêm về phong cách cư xử phương Đông. Những người Trung Quốc mới tới, lác đác có một số cố vấn Mỹ đi cùng, đă tạo ra bầu không khí vừa có sự tha thiết vô tư, vừa gợi sự ṭ ṃ cá nhân lẫn với một sự sợ sệt cho mọi người. Sự thân thiện giữa người Việt Nam và những người mới tới chỉ ở mức tối thiểu. Chỉ có sự giao tiếp theo phép xă giao cần thiết và nhất thời và ngôn ngữ khác nhau đă làm trở ngại cho mọi sự tiếp xúc rộng răi giữa hai nhóm người. Nhưng những đồ Mỹ sản xuất, xe cộ, điện đài và vũ khí súng ống ở trong tay người Trung Quốc chỉ làm tăng thêm sự ṭ ṃ của những người Việt Nam táo bạo. Các nhà buôn đă thay đổi mặt hàng ngay từ ban đêm. Chỉ những ǵ ế ẩm mới được trưng ra và với giá đă được tăng lên rất cao. Các cửa và cửa sổ hướng ra thành phố đều bị đóng khoá chặt. Ngay giữa ban ngày, không có người phụ nữ Việt Nam và Âu nào dám đi ra phố mà không có nam giới đi cùng…
Nhưng cộng đồng người Hoa ở Hà Nội là một ngoại lệ. Ban đầu họ xô ra đường để đón chào các đồng hương của họ. Nhưng sau khi đoàn hậu quân đă tới th́ sự phấn khởi của dân địa phương cũng tan biến đi. Hơn nữa, v́ lo cho tương lai, các nhà lănh đạo cộng đồng người Hoa ở đây muốn được có an ninh nên đă yêu cầu phái đoàn chúng tôi chuyển cho Lư Hán bức điện sau đây:
“Hoa kiều ở Hà Nội xin gửi đến ngài những lời chào mừng nhiệt liệt và sự kính trọng sâu sắc nhất trước sự nghiệp sáng láng của ngài trong cuộc chiến thắng cuối cùng và chuẩn bị đón mừng một cách nồng nhiệt nhất ngày ngài tới Đông Dương”.
Vào thời kỳ đó, dân chúng Hoa kiều ở toàn Đông Dương có khoảng 50 vạn người. Tuyệt đại bộ phận họ tập trung tại Chợ Lớn, thành phố toàn người Hoa sát với Sài G̣n và tại Pnom Penh, thủ đô Kampuchia. Một số đáng kể sống ở Sài G̣n, Hải Pḥng và Hà Nội. Họ giữ một vai tṛ có ưu thế trong đời sống kinh tế của đất nước, kiểm soát rộng răi về tài chính các ngành thương mại và buôn bán. Những người Hoa ở Việt Nam hợp thành một tập đoàn dân tộc cần cù có những mối quan hệ gia đ́nh và chính trị khá chặt chẽ với Trung Quốc, nơi mà họ bày tỏ ḷng trung thành duy nhất với đất nước của họ…
Hoa kiều ở đây không sống riêng biệt mà quây quần với nhau trong những khu vực của lớp người trung gian được gọi là các “bang”. Hiệp ước Nam Kinh 1935 đă coi những Hoa kiều này như là những “người ngoại quốc có quy chế ưu đăi”, phải tuân theo pháp luật của Pháp và đóng thuế cho người đại diện cho mỗi “bang”. Theo quy định đó th́ họ chẳng có ǵ phải ngại đối với người Việt cũng như người Âu hay Nhật.
Những người Hoa kiều này hy vọng Lư Hán, với toàn quyền cai trị nhân danh Tưởng, sẽ giải thoát họ khỏi sự thống trị của người Pháp, khỏi cái mà họ coi như một quy chế tốn kém và phụ thuộc. Và họ đă được tưởng lệ thích đáng: Chỉ hai ngày sau khi tới Hà Nội, Lư Hán đă chỉ thị cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam băi bỏ “chế độ các bang” trong việc đối xử với cộng đồng người Hoa ở Đông Dương. Đó cũng là một trong nhiều đ̣n đánh vào uy tín của Pháp trong quá tŕnh Trung Quốc chiếm đóng và cũng là một bước mới trong việc làm suy yếu cái trật tự cũ đă già nua.
Hai ngày sau khi trở lại Hà Nội, tôi được ông A. Evard(7) cho biết thêm một đ̣n mới giáng vào uy tín của Pháp. Người Trung Quốc đă không kèn không trống tống Sainteny và nhóm thân cận ông ta ra khỏi nơi độc nhất c̣n lại của sự đại của nước Pháp, để chiếm dinh Toàn quyền dành cho Lư Hán sắp tới. Trong chiến tranh, thường kẻ chiến thắng bao giờ cũng có quyền đóng tại các toà nhà nguy nga và có ư nghĩa chính trị nhất trong vùng đất đai bị chiếm. Nhưng ở đây người Trung Quốc chỉ muốn phô trương thế trội của ḿnh, chứ không phải là chủ quyền, được tính toán để gây xúc động cho người Pháp cũng như người Việt Nam.
Nhưng đó cũng là một cách để làm nhục người Pháp, hạ thấp địa vị quan trọng của họ và ác nghiệt đặt họ trong vai tṛ của nhũng người ngoài cuộc được phép đứng xem hơn là những kẻ chiến thắng.

Ngày 11-9, Sainteny đă được chuyển đến đóng ở một biệt thự nhỏ sát nách với Nhà Ngân hàng Đông Dương. Theo Evard, công việc đó đă nhờ được một nhân viên của SLFEO, đại tá Cavalin( 8 ), và người bạn J. Laurent(9) thu xếp. Tôi cho rằng Sainteny cũng c̣n muốn đề xuất ra yêu sách về Nhà Ngân hàng cho người Pháp. Như nhiều người địa phương đă nói một cách dí dỏm rằng nếu Sainteny không thể bảo vệ được danh dự của nước Pháp tại dinh Toàn quyền th́ chí ít ông ta cũng làm một cái ǵ đó để giữ được ngân khố cho nước Pháp chứ.
Nhà Ngân hàng Đông Dương đă giữ một vai tṛ khá quan trọng suốt thời kỳ cộng tác trong chiến tranh của Pháp và Nhật. Người Nhật đă trao trả toàn bộ đất nước này cho Chính phủ ông Hồ, trừ Nhà Ngân hàng mà họ vẫn c̣n ngoan cố giữ chặt lấy toà nhà cũng như các tài sản bên trong. Người Pháp cho Ngân hàng là một vật sở hữu độc quyền của họ và khi thấy người Nhật vào Việt Nam không đề ra yêu sách ǵ đối với Nhà Ngân hàng th́ họ chỉ có thể coi đó như là đă thuộc về họ. Nhưng bất kỳ một yêu sách nào hay một sự tịch thu tài sản nào của Ngân hàng bởi người Trung Quốc th́ nhất định cũng sẽ bị cả người Pháp lẫn người Việt phản đối. Tôi không rơ người Việt Nam đă có cách nào để mong nắm lấy quyền kiểm soát Ngân hàng Đông Dương không, nhưng rơ ràng lúc đó, họ đang có lợi thế để mà đưa ra một yêu sách ít nhất cũng để giữ được bản thân ngôi nhà đó. Sự việc đă tới. Sau ngày Sainteny dọn đến trụ sở mới của họ, ông Saurent đă gửi cho tôi một bản công bố chính thức của Ngân hàng, ngắn gọn và gay gắt, do giám đốc Ngân hàng kư: “Kể từ ngày 12-9-1945, Chính phủ Lâm thời vỡ nợ”. Tôi đă hỏi xem Ngân hàng có c̣n tài sản nào không và được trả lời là c̣n, nhưng không thuộc tài khoản của Chính phủ.
TIÊU VĂN: NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC DÂN ĐẢNG
Ngay sau khi bộ phận tiền trạm của Trung Quốc đến Hà Nội th́ tướng Tiêu Văn, một bộ hạ tin cậy của Trương Phát Khuê cũng tới. Tiêu mang ba chức vụ: phó tư lệnh của Lư Hán, Tư lệnh tập đoàn quân 62 Quảng Tây và Thủ trưởng Pḥng chính trị Ban Công tác hải ngoại(10). Nhưng lúc đó ông ta c̣n có một nhiệm vụ khác nữa, nhiệm vụ bí mật bảo vệ các quyền lợi của Trương ở phía Nam biên giới Trung Quốc.
Cuối tháng 9, tôi được Tiêu Văn trực tiếp cho biết nếu không có sự chỉ đạo tích cực của Trương th́ Trung Quốc không thể hy vọng thiết lập được những quan hệ thân thiện với Việt Nam sau thời kỳ chiến tranh. Theo ư Tiêu Văn và ông ta vẫn giữ ư kiến này cho đến cuối 1947, việc chọn Lư Hán để chỉ huy cuộc chiếm đóng là một việc tồi tệ nhất. Tiêu cho Lư Hán không biết ǵ về “vấn đề” ở Việt Nam, có nhăn quan rất hạn chế, hẹp ḥi và chỉ huy những đội quân hoàn toàn không thích đáng với nhiệm vụ chiếm đóng. Trái lại, Trương, theo quan điểm của Tiêu, đă từ lâu có công xây dựng nền móng cho một sự thân thiện Việt - Hoa có hiệu lực mà trong đó Tiêu đă giúp “đạt được ít nhiều thắng lợi”. Việc thay đổi đột ngột nhằm phái Trương và đội quân tinh nhuệ nhất của ông ta tới Quảng Đông thay v́ cho Hà Nội có nguy cơ làm mất Đông Dương vào tay người Pháp và theo ư Tiêu, đó là một quyết định tai hại.
Tiêu Văn đến Hà Nội trong thời gian tôi đi Côn Minh và đă có nhiều lần gặp gỡ không chính thức với ông Hồ. Ông Hồ đă cung cấp cho người cai ngục và che chở cũ của ḿnh một biệt thự đẹp không xa phái đoàn OSS Mỹ, cùng nhiều tiện nghi khác và chắc chắn rằng họ đă nối lại nhũng quan hệ cũ.
Sáng ngày 10-9, tôi được Chu Văn Tấn, lúc đó là Bộ trưởng Quốc pḥng, mời tới dự một buổi gặp gơ do ông Hồ tổ chức để chào mừng tướng Tiêu Văn. Sau bữa tiệc, ông Hồ mở đầu bằng một lời phát biểu hoan nghênh ngắn bằng tiếng Trung Quốc, rồi giới thiệu Tấn.
Hướng về phía Tiêu Văn, Bộ trưởng Tấn nói tiếng Việt ca ngợi sự hợp tác và giúp đỡ của các lực lượng Đồng minh trong việc giải giáp quân Nhật và duy tŕ trật tự công cộng. Tấn đề nghị cho đặt liên lạc ngay giữa Bộ chỉ huy Trung Quốc và “Lực lượng vơ trang Việt Nam”(11) để cho vai tṛ mỗi nhóc được phục vụ một cách có hiệu quả hơn. (Tôi chỉ biết ngạc nhiên không hiểu Tấn đào đâu ra được “Lực lượng vơ trang Việt Nam”). Tấn tỏ biểu hiện hào phóng trong việc “phân phối” lương thực và đồ tiếp tế mà họ có, nhưng lại chua xót nhận xét là các lănh đạo Việt Nam chẳng c̣n ǵ trong tay. Sau ít lời nhận xét chung, Tấn mời Tiêu Văn phát biểu.
Tiêu chậm răi đứng lên, tay đặt vào đốc gươm chỉ huy bên sườn, một cử chỉ của người chúa tể mà người Việt không bỏ qua, và mỉm cười một cách hạ cố.
Bằng tiếng Trung Quốc, Tiêu cám ơn ông Hồ về sự hiếu khách và thông hiểu lẫn nhau và cảm tạ đối với đề nghị giúp đỡ của Tấn. Tiêu nói rơ một cách thẳng thừng rằng người Trung Quốc đă được trang bị rất tốt để hoàn thành nhiệm vụ của họ trong việc đối xử với người Nhật. Về vấn đề an ninh công cộng, ông nói, trong lúc này người Trung Quốc dựa vào “cảnh sát địa phương”; rồi sau đó sẽ tuỳ tướng Lư Hán quyết định. Đối với vấn đề lương thực và nói đóng quân cho “Quân đội Đồng minh”, ông tuyên bố Bộ chỉ huy Trung Quốc sẽ tiếp tế những thứ cần thiết từ nền kinh tế địa phương theo một chế độ trưng thu lương thực và dịch vụ, và tất nhiên là các chủ nhân và người bán hàng được chính phủ Trung Quốc trả tiền theo giá thị trường thoả thuận và hợp lư(12).
Tiêu cũng gợi ư trực tiếp với ông Hồ một cách rất ngoại giao là trong buổi đầu này nếu ở mỗi Bộ trong Chính phủ của ông Hồ mà đặt một sĩ quan chuyên môn người Trung Quốc để làm liên lạc th́ thật là thích đáng; v́ như thế người Việt thông hiểu hơn những nhu cầu và cách làm của người Trung Quốc. Khi những nhận xét của Tiêu được dịch sang tiếng Việt th́ những nụ cười thân thiện tắt ngấm ở ông Hồ và các cộng sự của ông, nhưng họ chẳng bộc lộ ra có ǵ là bị bất ngờ và thất vọng. Mặt họ trở nên lạnh lùng và không khí im lặng chống đối bao trùm. Giọng của Tiêu gay gắt và rất đáng ngại. Nghe những lời tuyên bố chính thức của Trung Quốc âm vang trong gian pḥng lớn Bắc Bộ phủ, ai cũng phải kinh ngạc.
Bất chợt, Tiêu làm như một diễn viên và nhà ngoại giao bậc thầy, đă xua tan bầu không khí căng thẳng bằng một câu nói đùa ǵ đó mà tôi không hiểu nhưng rơ ràng là được mọi người tán thưởng. Ông ta lớn tiếng cười khi đánh giá cao sự đón tiếp “nồng nhiệt” của người Việt NamNam chống phát xít. đối với người Trung Quốc mới tới. Ông ta hứa hẹn một cách hùng hồn rằng chính phủ Trung Quốc sẽ không quên sự đối xử thân mật của người Việt Nam đối với những người đồng bào ở nước ngoài của ông trong 6 tháng bị Nhật hành hạ vừa qua. Tôi thực sự không hiểu nổi lời hứa đó như thế nào, theo tôi th́ chẳng có sự ưu ái nào đă bị mất đi giữa những người Trung Quốc “thoả hiệp” (với Nhật) và những người Việt
Viên tướng đă kết thúc lời phát biểu bằng việc ca tụng “t́nh hữu nghị bất diệt”…, “cùng chung một mục đích…và kiên tŕ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc bên ngoài” và vân vân… Tôi có cảm giác mạnh mẽ rằng Tiêu đă cố gắng để có một giọng nói nhân đức mặc dù vẫn rất quan cách, ít ra th́ cũng cho đến khi người Trung Quốc đă sẵn sàng để điều đ́nh những vấn đề quan trọng hơn.
Ông Hồ hướng cho những người tham gia cuộc họp hoan hô và sau đó đă mời Tiêu sang pḥng bên cạnh để nói chuyện riêng. Liệu, Giám, Tấn và Giáp ở lại uống nước và chuyện tṛ, qua phiên dịch, với các sĩ quan đă cùng tới với Tiêu cho đến khi Tiêu và ông Hồ trở lại, miệng mỉm cười. Mấy phút sau, người Trung Quốc cáo lui sau khi đă chào theo kiểu quân sự, ôm, bắt tay thân mật… Một công tác ngoại giao theo kiểu Á Đông tuyệt vời.
Tôi cũng đă định xin rút lui, nhưng ông Hồ nói tôi ở lại uống trà với ông nên chúng tôi đă ngồi lại trên các ghế bành thoải mái ngay trong pḥng mà ông Hồ và Tiêu đă nói chuyện. Ông Hồ hỏi tôi có biết rơ Tiêu Văn không. Tôi nói đây là lần đầu tôi gặp Tiêu nhưng đă được nghe nói về vai tṛ của ông ta trong các công tác giữa người Hoa và Việt ở Trung Quốc. Ông cười và trách tôi một cách rất tự nhiên, “ông có thể nói cho tôi biết; nhưng thực tế, tôi cũng đă rơ ông ta mới được cử làm Trưởng Ban Mật vụ Chính trị ở Hà Nội đấy”. Tôi không biết và cũng đă không nghĩ tới điều đó. Tôi có biết vai tṛ của Tiêu là một sĩ quan chính trị, nhưng tôi không mong muốn cho ông ta dính líu vào các mưu đồ của người Trung Quốc. Tôi cũng chẳng muốn tiết lộ cho ông Hồ hay về việc OSS đă làm ǵ để giúp ông thoát khỏi sự cầm tù của Trương Phát Khuê năm 1944 và việc Tiêu có liên quan đến vấn đề này. Nhưng về phía ông Hồ, ông cũng không đặc biệt muốn ám chỉ đến sự hợp tác trước đây của ông với Tiêu, tuy ông đă kể lại những cố gắng của ông nhằm hoà hợp các người quốc gia Việt Nam hải ngoại ở Liễu Châu năm 1943 và sự ủng hộ của Tiêu đối với ông lúc đó.
Ông Hồ nói riêng với tôi là ông vừa mới yêu cầu Tiêu đứng làm trung gian môi giới giữa Quốc dân Đảng (Trung Quốc) và Việt Nam. Nghĩ cho kỹ, theo ông nói, th́ đó cũng không phải là một hành động khôn ngoan. Ông đă hy vọng rằng Tưởng, đi theo chính sách đă được công bố “không có tham vọng đất đai ở Việt Nam” sẽ sử dụng ảnh hưởng của ḿnh đối với các cường quốc Đồng minh để ngăn chặn các nhà quân sự Pháp không cho lật đổ Chính phủ Lâm thời. Tiêu dă gợi ư ngay là Quốc dân đảng và các nước Đồng minh sẽ có thái độ thân thiện hơn đối với chế độ của ông Hồ nếu ông chịu mở rộng cơ sở chính trị của Chính phủ bằng cách chẳng hạn như để Đồng minh Hội tham gia. Đi nước cờ cuối cùng, ông Hồ đă nói cho Tiêu biết là ông đă có ư định “dân chủ hoá” Chính phủ, nhưng cũng cần có thời gian, có thể phải sau cuộc bầu cử tháng Chạp(13).
Ngoài mặt, Tiêu tỏ ra thoả măn với câu trả lời của ông Hồ; ông ta khẳng định lại chính sách láng giềng tốt của Tưởng và hân hoan mong muốn sẽ có những cuộc thương lượng hai bên cùng có lợi, trong đó Trung Quốc sẽ coi Việt Nam là một nước được hưởng chế độ ưu đăi về thương mại và sử dụng các bến cảng ở Đông Nam Á.
Mặc dù sau buổi họp riêng, họ đều cười, nhưng tôi cho là ông Hồ đă không đạt được điểm nào đối với Tiêu Văn. Trước khi chúng tôi ra về, ông Hồ phàn nàn là t́nh h́nh sẽ rất khó khăn và có chiều hướng hoàn toàn xấu. Nhưng ông Hồ nói cuối cùng th́ Việt Nam cũng sẽ được giải phóng khỏi người Pháp, Trung Quốc hay bất kỳ nước ngoài nào khác. Ông nói tiếp: “Tôi biết Tiêu Văn đă cho đưa hai tên Việt Nam bù nh́n về cùng để tổ chức một chính phủ do Quốc dân đảng đỡ đầu vào lúc thuận tiện - nhưng Tiêu đă không nói trắng điều đó ra với tôi. Những tên này cũng không có đến cả lương tri là phải ẩn đi cho khuất mắt. Nếu họ bị một số thanh niên chúng tôi nhận được mặt, th́ tôi cũng biết sẽ xảy ra chuyện ǵ đây”.
Trong một phút linh cảm trước, ông Hồ đă nhận xét là sẽ có đổ máu trong tương lai. Nếu người Trung Quốc thực sự chống đối lại nền độc lập của Việt Nam, nhân dân ông nhất định sẽ kháng cự lại bằng vũ khí. Nếu bọn bù nh́n của Trung Quốc đánh vào Việt Minh, nhất định sẽ có nội chiến. Và nếu sự đe doạ của Pháp trở thành hiện thực th́ sẽ có cuộc chiến tranh toàn diện. Bất kỳ t́nh huống nào đă nói trên xảy ra th́ cũng đều sẽ được “phán quyết bằng máu”.
Ông Hồ trông già đi. Sau khi đă nói lên được t́nh trạng căng thẳng trong cuộc đấu với Tiêu Văn, ông Hồ xin lỗi về tâm trạng bi quan của ḿnh và ở đầu cầu thang, ông cho biết là sự có mặt của quân đội Trung Quốc trên đất đai Tổ quốc ông đă làm ông phiền muộn.
LƯ HÁN VÀ BỌN PHÁ HOẠI
Lư Hán đến sân bay Gia Lâm chiều ngày 14-9(14) mà không hề có báo trước. Sau khi được cơ quan Tiêu Văn điện thoại cho biết, tôi đến thẳng ngay dinh Toàn quyền để dón ông ta. Khoảng 4 giờ 30, tướng Lư Hán đến trong một đoàn xe nhỏ và tôi là một trong những người được gặp chào ông đầu tiên. Tướng Tiêu Văn giới thiệu tôi là trưởng phái đoàn OSS và đă nhă nhặn nói thêm là đơn vị chúng tôi đă giúp đỡ ông ta nhiều trong việc giao dịch với người Nhật và Chính phủ Việt Nam. Lư Hán cảm ơn tôi và hỏi tôi nếu cần ông ta có thể làm việc ǵ th́ cứ nói và ông mong rằng sẽ tiếp tục công tác chặt chẽ với phái đoàn chúng tôi v.v…
Trái với dự đoán chung của mọi người cho rằng Lư Hán tới sẽ được đón tiếp một cách long trọng ầm ĩ, ông ta và Bộ tham mưu của ông vẫn đóng kín đáo trong dinh Toàn quyền. Do đó đă lan tràn nhiều tin đồn đại về việc sắp sửa thi hành thiết quân luật, thực hiện chế độ quân quản, các đội hành quyết, lệnh giới nghiêm v.v… Nhưng chẳng có ǵ như thế đă xảy ra trong thời kỳ Trung Quốc chiếm đóng. Tuy vậy, cuộc chiếm đóng vẫn là một thời kỳ tai hại, gây chấn thương cho nhân dân Việt Nam trong lịch sử hiện đại của họ.
Tác động của sự chiếm đóng của độ 5 vạn quân(15) đối với một nền kinh tế đă lung lay đă đe doạ ngay cuộc sống của mỗi người Việt Nam, khi họ vẫn chưa được hồi phục sau trận đói ghê gớm mùa đông trước. Nhưng sự cướp đoạt một cách có tổ chức và gần như là công khai các tài nguyên đất nước bởi bọn quân phiệt vô lương tâm và bộ hạ của họ, lại c̣n nguy hại hơn nhiều.
C̣n các đề nghị liên tiếp của tôi với các nhà chức trách Đồng minh nhắc họ đảm nhận cung cấp lương thực và tiếp tế cho quân chiếm đóng th́ chẳng được ai chú ư đến. Và số này đă đến, chân đất, bụng đói và quyết tâm sống nhờ vào của cải ở địa phương. Họ lấy ngay thứ ǵ họ cần hay họ muốn, bất kể thứ đó là của người Pháp, người Việt hay của người Hoa địa phương, không kể giàu nay nghèo. Các chỉ huy của họ hiện đại hơn nhưng cũng tham tàn và ăn sống nuốt tươi mạnh hơn. Đồng quan kim, giấy bạc đă bị lạm phát một cách hết sức bừa băi và ở Côn Minh người ta đă phải tiêu hàng bó để mua một phẩm vật thường ngày, nay đă trở thành một công cụ để họ bóc lột người Việt về phương diện tài chính.
Ngay trong buổi thảo luận về việc quân đội Tưởng tiến xuống phía nam, Giáp đă cho biết ở Hải Pḥng, quân Trung Quốc đă cưỡng ép các nhà buôn địa phương khi họ từ chối không nhận tiền quan kim v́ đă được định theo một giá hối đoái không thực tế. Ở Tuyên Quang, các nhà chức trách quân sự Trung Quốc đă quy định (ít ra cũng là tạm thời) giá 1 quan kim ăn 20 đồng bạc Đông Dương. Tại Hà Nội, các nhà buôn Hoa kiều lại đổi 1 quan kim ăn 1 đồng bạc. Giáp rất bực bội và nói cho tôi biết lập trường của Chính phủ ông là không chấp nhận bất kỳ đề nghị về giá cả hối đoái nào cho đến khi có một “phái đoàn Mỹ tới”, và lúc đó có thể lấy đồng dollar làm trung gian để điều chỉnh các sự chênh lệch trong giá hối đoái các loại tiền tệ.

Kết quả cuộc gặp đầu tiên của ông Hồ với Lư Hán ở Hà Nội ngày 16-9 đă loại trừ hẳn hy vọng của ông Hồ muốn đặt giá hối đoái tiền tệ đối với đồng dollara Mỹ. Khi Lư Hán “gợi ư” với ông Hồ là giá hối đoái được ổn định ở mức 14 quan kim ăn 1 đồng bạc, ông Hồ liền yêu cầu nên để vấn đề này lại cho tới khi thành lập một uỷ ban tài chính. Nhưng chỉ mấy ngày sau, không có thảo luận ǵ thêm, Lư Hán ấn định một cách chính thức và một chiều giá hối đoái là 14 ăn 1. Tỷ lệ này đối với đồng quan kim mất giá, cùng với các thủ đoạn tài chính khác, đă đặt khuôn khổ cho một hoạt động chợ đen đồ sộ thực sự đă tàn phá nền kinh tế Việt Nam.
Với những đồng quan kim mà ở Trung Quốc phải có hàng tấn mới có giá trị, các sĩ quan Trung Quốc ở Việt Nam có những quan hệ kinh doanh riêng, đă kết hợp chặt chẽ với con buôn, chủ nhà băng, và thầu khoán để mua bằng một giá rẻ mạt mọi công cuộc kinh doanh có lợi mà họ thấy ở Việt Nam. Số này hoạt động không chỉ trong cơ cấu tổ chức quân sự Trung Quốc mà c̣n qua hệ thống của Đoàn Cố vấn Việt Nam(16) do Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh đỡ đầu. Các công ty và trust(17) nhanh chóng được thành lập để nắm quyền làm chủ hoặc kiểm soát các lợi ích ở Việt Nam hoặc các đồn điền của chủ Pháp, các trang trại, dinh thự, nhà máy, hầm mỏ, bến cảng và phương tiện giao thông vận tải… Nhà ở tư nhân, nhà hát, tiệm nhảy, khách sạn, cửa hàng và các nhân viên phục vụ đều được các ông chủ trả theo một giá rất thấp. Nếu họ phản đối hoặc dám bác bỏ đề nghị của các hiệp hội th́ giới quân sự đă có cách để cưỡng ép họ…
Trở lại cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ông Hồ và Lư Hán, nhiều vấn đề cực kỳ khó khăn khác đă được nêu lên. Vấn đề tu sửa các đường giao thông từ biên giới tới Hà Nội đă được đặt ra. Trong những ngày Trung Quốc chiếm đóng đầu tiên ở các tỉnh biên giới, Việt Minh đă đáp lại sự hống hách và coi thường Chính phủ Lâm thời Việt Nam của họ bằng cách cắt một số đường liên lạc điện tín điện thoại và phá hoại các đoạn đường dẫn tới Hà Nội, Hải Pḥng. Lư Hán không rơ nguyên nhân t́nh trạng phá hoại đó và “gợi ư” người Việt Nam phải tiến hành sửa chữa ngay để quân đội của ông ta kịp thời chuyển tới. Ông Hồ nói lại là cần phải có thời gian nếu như quân đội Trung Quốc không đảm nhận lấy việc này, nhưng Lư Hán kiên quyết không chịu nên ông Hồ phải đồng ư nhận cung cấp nhân công nếu như được Trung Quốc giúp đỡ về vật liệu. Lư Hán chỉ đáp là ông ta sẽ xem xét.
V́ không biết rơ thực lực của Việt Minh và chưa tin chắc ở khả năng của quân đội trong việc đụng đầu với ông Hồ, nên Lư Hán lúc đầu c̣n điều tra, sau đó yêu cầu ông Hồ cho biết rơ lực lượng và tổ chức quân đội Việt Nam lúc đó. Một lần nữa ông Hồ lại bác bỏ, cho rằng vấn đề đặt ra không thích đáng v́ Việt Nam không phải bị chiếm đóng mà “trong thực tế là một bộ phận của lực lượng Đồng minh”. Lư Hán cứ khăng khăng đ̣i và cuối cùng ông Hồ đă phải chấp nhận, nhưng ông đă nghĩ ra được một cuộc rút lui khá hay… Về sau ông đă giải thích cho tôi biết ông đă phải đi theo một đường lối tránh mọi khiêu khích và đối đầu có thể dẫn đến xung đột với quân Trung Quốc suốt trong thời gian Tưởng c̣n đại diện cho Đồng minh.
Để thực hiện chính sách hy sinh đó, ông Hồ đă lẩn tránh một cách tài t́nh bằng cách đổi tên Giải phóng Quân của ông thành Vệ quốc Đoàn và phân tán nó vào các vùng hẻo lánh xa xôi, cho nó bớt vẻ quan trọng và tránh được xung đột với quân đội Lư Hán.
Sau đó, ông Hồ đă đề cập với Lư Hán vấn đề cung cấp lương thực cho quân chiếm đóng, đồng thời tiếp tế cho dân chúng. Lư Hán tỏ ra quan tâm và đồng ư về nguyên tắc với đề nghị của ông Hồ cho quân Trung Quốc t́m biện pháp tiếp tế gạo từ Nam Kỳ ra. Nhưng miền Nam lại thuộc quyền kiểm soát của người Anh nên Lư Hán không tin là có thể thu xếp được vấn đề này nếu không có su giúp đỡ của Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ đáp lại là khả năng của ông rất hạn chế v́ hiển nhiên ông không có quyền lực, tài chính cũng như phương tiện vận tải. Đó là một cuộc đối thoại vô hiệu quả giữa sự không khoan nhượng của Trung Quốc và sự bất lực của Việt Nam.
Một vấn đề khác gây cho ông Hồ nhiều điều lo lắng là khả năng xảy ra các vụ xô xát, giết người Việt Nam và Trung Quốc. Lư Hán đảm bảo với ông Hồ rằng đă ra những mệnh lệnh nghiêm ngặt nhất cho toàn thể đội quân của ông phải cư xử đúng mức và tránh mọi va chạm, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Với thái độ chủ động và cốt để ông Hồ cảm nhận được quyền lực của Trung Quốc, Lư Hán nhắc nhở ông Hồ là sự hoà hợp phải có đi có lại và ông Hồ phải thực hiện sự hợp tác và giúp đỡ quân chiếm đóng trong việc duy tŕ trật tự và đặc biệt là làm cho dân chúng trấn tĩnh lại.
Khi cuộc gặp gỡ kết thúc, như chợt nhớ ra, Lư Hán báo cho ông Hồ biết là phải cho lùi giờ Hà Nội lại một tiếng đồng hồ ngay theo như giờ Trung Quốc để tránh mọi sự lộn xộn và rắc rối về quản lư hành chính không cần thiết. Yêu sách tai hại cuối cùng này đă gây ra bất măn cao độ v́ đối với ông Hồ, điều đó thể hiện sự kiêu căng trịch thượng và sự can thiệp vào công việc nội bộ của người Trung Quốc, nhưng tất nhiên, ông cũng đă phải đồng ư.
Xong các vấn đề cụ thể, Lư Hán lấy một giọng điệu hoà giải hơn và tuyên bố rằng sự có mặt của Trung Quốc ở Đông Dương là vấn đề “thuần tuư quân sự và nhằm đáp ứng lại yêu cầu của các cường quốc Đồng minh để giải giáp và hồi hương quân Nhật”. Thực hiện xong điều đó, nhiệm vụ của Trung Quốc ở Việt Nam sẽ kết thúc.
Mặc dù Lư Hán đă có một thái độ quân phiệt sống sượng trong khi đề ra các yêu sách trong cuộc gặp gỡ, nhưng rơ ràng ông Hồ lại coi đó là một dấu hiệu tốt. Ông xác định nó cũng mang lại được kết quả là “đă xây dựng được một sự quan hệ thân thiện”. Tôi thực khó mà hiểu được cách nói và lập luận kiểu phương Đông này, nhưng ông Hồ đă kiên tŕ giải thích đây không phải là những cái đă được nói ra mà là những điều bao hàm ở trong đó. Tỉ dụ như việc Lư Hán thể hiện đă ngầm cam kết không giải tán hoặc gây trở ngại cho Chính phủ Lâm thời mà lại cũng làm việc với Chính phủ khi mà Chính phủ vẫn nắm được quyền quản lư nội bộ đất nước. Ông Hồ cũng cho rằng điều cam kết đó c̣n có nghĩa là Lư Hán sẽ không ủng hộ và giúp đỡ những người Quốc gia thân Trung Quốc thuộc bè lũ Trương Phát Khuê, “nhóm Lưỡng Quảng” (Quảng Đông và Quảng Tây) thuộc quyền của những lănh tụ như Nguyễn Hải Thần và Trương Bội Công(18). Lần đầu tiên, ở đây tôi khám phá ra vết rạn nứt chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn, cố vấn chính trị của ông ta. Và tôi cũng rất kinh ngạc trước diễn biến của t́nh h́nh sắp tới, khi biết tin Đồng minh Hội, một con bài quan trọng trong kế hoạch chính trị tương lai của Tiêu Văn, đă sẵn sàng ở Hà Nội và đang lo toan việc thách thức với Việt Minh.
Chú thích
(1) Marcel Gouin, giáo sư kiến trúc trường Đại học Hà Nội
(2) Pháp đă bị thất bại trong mưu đồ lập lại chế độ thuộc địa trước chiến tranh ở Syrie (trái với lời cam kết của Đồng minh đă hứa với chính phủ Syrie) v́ Churchill đă ép De Gaulle phải ra lệnh rút quân Pháp ra khỏi Trung Đông để đưa đi chiến đấu cùng với quân Đồng minh ở Ư và Bắc Phi
(3) André Lebrun, hoạt động trong phong tráo kháng chiến Pháp cho đến khi được chuyển sang Sài G̣n tháng 1-1945. Ông đă t́m đường ra Hà Nội vào tháng 2 để hoạt động cùng với số bạn bè cấp tiến trong phong trào thanh niên giành độc lập, nguỵ trang làm cha đạo trong Thành để giúp người Việt Nam trong lúc khởi nghĩa.
(4) Charles De Gaulle, “Hồi kư chiến tranh
(5) Sainteny, “Lịch sử”; B. Fall, “Hai Việt Nam”
(5) Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không bao giờ quên”
(7) André Evard, mật thám của OSS tại Hà Nội, đáng nghi ngờ nhưng đă có lúc làm thông tín viên chó hăng UP, đồng thời là trợ lư giám đốc hăng Air France ở Hà Nội.
( 8 ) Viên đại tá này đă thoát được cú vét lưới 9-3 của Nhật và tiếp tục liên lạc với những người Pháp hoạt động bí mật. Bà Calavin, vợ ông ta, cũng cộng tác với phong trào của Mordant cưới quyền của bà Sarraut (chị dâu Sainteny) nhưng đă không xâm nhập được vào phái đoàn OSS ở Hà Nội trong tháng 8-1945.
(9) Jean Laurent, Tổng giám đốc Ngân hàng Đông Dương
(10) trước là Ban công tác đối ngoại Đệ tứ chiến khu
(11) Nguyên văn: Vietnamese Armed Forces, cũng có thể đọc là “Quân đội Việt Nam”, hoặc “Quân đội Quốc gia Việt Nam”
(12) Chi phí chiếm đóng do chính phủ Trung Quốc bắt Pháp phải chịu bằng cách hàng tháng Trung Quốc rút ra một khoản tiền (40 triệu đồng) của Ngân hàng Đông Dương để chi cho “các nhu cầu cấp bách về quân sự”. Khoản tiền này đă được thanh toán teo “Hiệp ước Pháp - Hoa” sau này.
(12) Cuối cùng, cuộc bầu cử đă được tiến hành ngày 6-1-1946. Đồng minh Hội được 20/300 ghế trong chính phủ mới. Nguyễn Hải Thần được “bầu” là Phó Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp
(14) Có tin Lư Hán tới Hà Nội vào khoảng từ 9 đến 18-9. Nhưng ngày chính xác th́ như đă nói ở trên và đă được báo cáo cho OSS đện số 119 ngày 14-9 của Patti gửi Indiv.
(15) Nhiều nhà báo đă ấn định số quân chiếm đóng của Lư Hán là 18 vạn. Con số này ch́ là áng chừng tổng số quân đă qua lại ở đây trong thời gian chiếm đóng (9-1945 - 10-1946). Chính phủ Trung Quốc đă nêu con số 15 vạn quân để tính chi phí chiếm đóng cho người Pháp gánh chịu. Có thể trong mỗi lúc nhất định th́ không quá 5 vạn quân đồn trú tại chỗ.
(16) gồm Shao Pai - Chi’ang (Quân quản), Ling Chi - han (Ngoại giao), Chu Hseich (Tài chính), Chuang Chih - Huan (Kinh tế), Cheng Fang - Heng (Giao trông), Ma Ts’an - Yung (Lương thực) và Hsing Shen - Chow (Quốc dân Đảng)
(17) công ty uỷ thác
(18) Trương Bội Công tới Trung Quốc sau cuộc đàn áp Yên Bái 1930 và đi theo phái Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kinh

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: