MINH THỊ

 

LỊCH SỬ ĐĂ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA M̀NH. 

DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA M̀NH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ. 

 

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

֎֎֎֎֎֎֎

 

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP

֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

     ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

 

 

 

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù CT

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Trang ChủKim ÂuBáo ChíDịch ThuậtTự ĐiểnThư QuánLưu TrữESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVFOX NewsReutersAssociaed PressWhite HouseLearning Tác  PhẩmLịch SửKim ÂuTinh HoaUS CongressUS HouseVấn ĐềNVR RadioĐà LạtDiễn ĐànBBC RadioVOA NewsRFARFISBSTác GỉaVideosFederal RegisterUS Library

 

 

 

 

 

v WhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

v Federal Register vCongr Record v CBO

v US Government vCongressional Record

v C-SPAN v VideosLibrary vNational Pri Project

v JudicialWatch vAssociatedPress vReuter News

v RealClearPolitics vMediaMattersvLawNews

v NationalReviewv Hill v Dailly vStateNation

v Infowar vTownHall vCommieblaster v Examiner

v MediaBiasFactCheck vFactReport vPolitiFact

v MediaFactCheck v FactCheck v Snopes

v OpenSecret v SunlightFoundation v Veteran

v New World Order vIlluminatti News vGlobalElite   

v New Max v CNSv Daily Storm v ForeignPolicy

v Observe v American Progress vFair vCity

v Guardian v Political Insider v Law v Media

v Ramussen Report  v Wikileaks  v Federalist

v The Online Books Page v Breibart  Interceipt

v AmericanFreePress v PoliticoMag v Atlantic

v National Public Radio v ForeignTrade v Slate  

v CNBC vFoxvFoxAtl vOAN vCBS v CNN

v Federation of American Scientist v Millenium

v Propublica vInter Investigate vIntelligent Media  

v Russia Newsv Tass Defense vRussia Militaty

v Science&Technology vACLU Ten v Gateway  

v Open Culture v Syndicate v Capital Research

v Nghiên Cứu Quốc Tế v Nghiên Cứu Biển Đông 

v Thư Viện Quốc Gia 1 vThư Viện Quốc Gia 

v Học Viện Ngoại Giao v Tự Điển BKVN  

v Ca Dao Tục Ngữ v Học Viện Công Dân

v Bảo Tàng Lịch Sử v Nghiên Cứu Lịch Sử

v Dấu Hiệu Thời Đại v Văn Hiến v Sách Hiếm   

v QLVNCH v Đỗ Ngọc Uyển v Hợp Lưu

v Thư Viện Hoa Sen v Vatican? v Roman Catholic

v Khoa HọcTV v Đại Kỷ Nguyên v Đỉnh Sóng

v Viễn Đông v Người Việt v Việt Báo v Quán Văn

v Việt Thức v Việt List  v Việt Mỹ v Xây Dựng

v Phi Dũng v Hoa Vô Ưu v Chúng Ta  v Eurasia

v Việt Tribune v Saigon Times USA v Thơ Trẻ

v Người Việt Seatle v Cali Today v

v Dân Việtv Việt Luận v Nam Úcv DĐ Người Dân

v Tin Mới vTiền Phong v Xă Luận vvv

v Dân Trí v Tuổi Trẻv Express v Tấm Gương

v Lao Động vThanh Niên vTiền Phong

v Sai Gon Echo v Sài G̣n v Thế Giới 

v ĐCSVN v Bắc Bộ Phủ v Ng T Dũng v Ba Sàm

v Văn Học v Điện Ảnh v Cám Ơn Anh

v TPB v1GĐ/1TPB v Bia Miệng

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

PHẦN II
CÔN MINH
Chương 7

Điều mà Washington đă không biết

 

HỖN LOẠN
Chuyến bay của tôi đến Côn Minh lúc đó mất khoảng độ một tuần, qua chừng 13.000 dặm từ New York. Chiếc phi cơ C.47 lăn bánh vào sân bay Côn Minh chiều tối ngày 13-4-1945, không ai nghênh đón và cũng chẳng ai biết đến. Một lái xe người Hoa đến gặp và đưa tôi về nhà nhân viên OSS. Ở đó người quản ly chia cho tôi một mảnh giấy của trung tá Paul L.E. Helliwell(1) “Hoan nghênh dă đến Trung Quốc, sẽ gặp ở buổi điểm tâm”. Sáng hôm sau, ở Câu lạc bộ sĩ quan, một sĩ quan người cao, dáng dễ coi, đă nhẹ nhàng đi qua pḥng ăn và giơ tay chào đón tôi. Ông tự giới thiệu là “Paul” với một nụ cười gượng trên môi. “Tôi sung sướng được gặp anh”, và ông nói thẳng cho tôi biết rằng mọi việc ở đây đều “rối tung lên” và Washington đă “chẳng được giúp đỡ ǵ cả”. Sau bữa ăn, chúng tôi về khu vực của OSS, một khu có sáu hay bảy nhà cao tầng chung quanh sân và có tường bao quanh. Cơ quan treo cờ rủ - Tổng thống Roosevelt đă mất trước đây hai hôm.
Chúng tôi đến thẳng dăy nhà hai tầng dài và vào nhiệm sở của đại tá Heppner. Thông thường Heppner điều khiển công việc từ cơ quan đóng ở Trùng Khánh, cạnh hành dinh của Wedemeyer, Đại sứ quán Mỹ và chính phủ Trung ương Tưởng Giới Thạch. Nhưng khi tôi tới th́ Heppner cũng đến Côn Minh chủ tŕ một cuộc hội nghị hoạch định kế hoạch cho các hoạt động của OSS ở Đông Dương.
Cuộc đảo chính mới nổ ra của Nhật và các cuộc chuyển quân làm cho người ta phải tính đến khả năng người Nhật tiến về phía Côn Minh và các điểm khác dọc sườn phía nam quân Tưởng, Bộ tư lệnh của Wedemeyer đă chỉ thị cho OSS phải ngăn chặn cuộc tiến quân của Nhật và hội nghị phải làm sáng tỏ các quan hệ Mỹ - Pháp và quyền hạn của OSS được hoạt động ở Đông Dương. Heppner muốn tôi tham dự hội nghị và cuộc gặp mặt đă chuyển thành buổi giới thiệu tôi tham gia vào giới hoạt động ở Trung Quốc, liền ngay sau khi tôi mới chân ướt chân ráo rời khỏi cái bầu không khí đầy cao thượng và thanh khiết của Washington. Cứ như là một cuộc nhảy ào vào nước lạnh. Heppner mở đầu hội nghị và nói rằng t́nh h́nh đ̣i hỏi phải có hành động cấp bách nhưng chính sách Mỹ th́ không rơ ràng. Đặc biệt là OSS không biết phải giúp cho người Pháp đang rút lui ở Bắc Kỳ chống cự lại Nhật hay chạy trốn sang Trung Quốc. Người phát ngôn của Đại sứ quán cũng như của Chiến trường có mặt ở đó đều không ai có thể trả lời được câu hỏi này. Đại diện của tướng Chennault giữ lập trường là cả hai việc đều cần được xúc tiến và đưa ra hai bức công điện để hỗ trợ cho quan điểm của ḿnh.
Bức thứ nhất của tướng Marshall gửi cho Chennanlt đề ngày 19-3, trong đó có một đoạn nói: “thái độ mới của Chính phủ là giúp đỡ cho người Pháp với điều kiện là không được để cho sự viện trợ đó ảnh hưởng đến các chiến dịch đă được hoạch định. Đội không quân thứ 14 có thể tiến hành các trận đánh vào quân Nhật ở Đông Dương để chi viện cho người Pháp trong khuôn khổ đă định của chính sách nói trên”.  
Bức thứ hai, mới hơn, của Tham mưu trưởng Liên quân gửi cho Wedemeyer và đề ngày 9-4, yêu cầu Wedemeyer “nghiên cứu việc thả dù một số hàng tiếp tế nào đó (v́ những mục đích nhân đạo) nhưng việc thi hành th́ vẫn do chiến trường Trung Hoa quyết định”. Rơ ràng là Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân muốn tránh không đi thẳng vào vấn đề và muốn chuồi cho Wedemeyer trách nhiệm quyết định ra lệnh: đó là điều mà Heppner muốn được thấy chiến trường chấp nhận trước khi ông ta quay về Trùng Khánh. Hội nghị ngừng họp vào buổi trưa.
Trong khi tôi vắng mặt, Helliwell đă nắm lấy chồng hồ tài liệu trong cơ quan tôi, và với một niềm thích thú độc ác, đă ghi lại cho tôi mấy chữ: “Để đánh giá tốt hơn nữa đối với tổ Đông Dương sự vụ (FIC Affair) lộn xộn”. Các tập hồ sơ này mang những cái tên cũng nói lên được một cách không úp mở: “Chính sách Mỹ - Đông Dương thuộc Pháp”, “kế hoạch Quail”(2), “người Pháp ở Đông Dương”, “phái đoàn quân sự Pháp - M.5”, “Người An Nam trong các hoạt động của SI – SO” và v.v... Khi xem lại các tài liệu, tôi mới thấy rơ rằng nhiều vấn đề chính sách c̣n rất mù mờ và trong các quan hệ quốc tế về địa phương của chúng tôi th́ đầy rẫy những cuộc đấu tranh chính trị nội bộ tương tàn và xung đột về mục tiêu chiến tranh và các vấn đề về tác chiến đ̣i hỏi phải có sự quyết định của cấp cao nhất. Trước khi khởi sự hoạt động, tôi thấy cần phải có một cuộc thảo luận sâu sắc, đưa ra quyết định cuối cùng về các vấn đề nói trên và nó phải được đưa tới các cấp ở Trùng Khánh và Washington.
Ngày hôm sau, Helliwell triệu tập các sĩ quan tham mưu, chủ yếu để bàn về “kế hoạch Quail”, một hoạt động quan trọng của SI ở Đông Dương mới được trên thông qua. Trong những người có mặt, tôi thấy có đại uư (sau là thiếu tá) Robber E. Wampler, thủ trưởng pḥng SO, ông R. Dulin, đại diện cho pḥng Mountbatten, một đại diện của X2 (phản gián), một báo cáo viên của cơ quan R&A(3), và thiếu tá (sau là đại tá) A.R. Wichtrich thay mặt cho AGAS.
Ngay từ lúc tôi phụ trách kế hoạch “Quail”, Helliwell đă giúp tôi cho kiểm điểm lại t́nh h́nh từ khi ông đến chiến trường (vào ngày 25 tháng Giêng trước) và nghiên cứu các vấn đề phải đối phó, các tiến bộ đă đạt được trước khi đi vào thảo luận các vấn đề mới.
Báo cáo viên của R&A nêu tóm tắt về các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương. Theo ông, từ những ngày Nhật chiếm Đông Dương, các giới liên quan người Pháp, Anh và Trung Hoa thỉnh thoảng cũng đặt được những trạm thu tin, đường giao liên và mạng lưới điện đài để nhằm đáp ứng các yêu cầu riêng của họ, nhưng những hoạt động đó thường không kết hợp với các mục tiêu của Đồng minh và nhiều khi lại cạnh tranh với nhau. Chỉ có nhóm GBT là ngoại lệ và đă cung cấp được nhiều tin tức quân sự cho Bộ chỉ huy Đồng minh. Nhưng cả nhóm này cũng chỉ là một tổ chức không có h́nh thức rơ rệt, theo đuổi những mục đích khả nghi, và chỉ được đặt dưới một sự kiểm tra mơ hồ của Đồng minh. Dẫu sao đi nữa th́ từ khi có cuộc đảo chính của Nhật, mọi nguồn tin t́nh báo từ Đông Dương, bao gồm cả nhóm GBT đều im lặng.
Báo cáo của R&A lại cho biết là ngay từ đầu tháng 11-1944, tướng Wedemeyer đă quyết định cho tiến hành mạnh mẽ một chương tŕnh hoạt động bí mật ở chiến trường Trung Quốc và đă yêu cầu tướng Donovan xúc tiến thực hiện vấn đề này.
Trước sự phản ứng của Nhật đối với thắng lợi của Đồng minh ở Thái B́nh Dương và hoạt động của Pháp ở Đông Dương, Helliwell, ngày 1-3 (trước cú Nhật Bản) đă phải vội vă xin chỉ thị hướng dẫn của Bộ tư lệnh chiến trường. Helliwell đă được trả lời là ông không được làm việc với “người bản xứ hoặc các nhóm cách mạng” và “trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được gửi tiếp tế cho bất kỳ ai ở Đông Dương...(cũng như) không được làm việc với người Pháp nếu không thông qua những tiếp xúc cấp cao ở Trùng Khánh”. Helliwell lại c̣n được Hepper nhắc thêm “theo lệnh trực tiếp của Tổng thống, OSS bị cấm không được ra những quyết định về chính sách đối với Đông Dương thuộc Pháp”.
Cú mồng 9-3 đă gây ra một t́nh trạng cực kỳ hỗn độn ở Trung Quốc. Giữa lúc đó, cả tướng Wedemeyer lẫn đại sứ Hurley đều ở Washington họp với Tổng thống, Tham mưu trưởng liên quân và người cầm đầu Bộ Ngoại giao và Bộ Chiến tranh. Tướng Chennault thay Wedemeyer khi vắng mặt và đại diện lâm thời Atcheson điều khiển đại sứ quán. V́ không có tin tức cụ thể từ Đông Dương nên không thể lường được những ư đồ về chiến lược của Nhật. Tưởng lo sợ một cuộc tiến quân lên phía bắc vào đất Trung Quốc. Người Pháp kêu la xin được tiếp cứu và Chennault th́ không nhận được chỉ thị ǵ. Chennault tuy là người thú hai sau Wedemeyer nhưng thường không biết tới các cuộc thảo luận về đường lối chính sách ở cấp cao. Theo quan điểm của các nhà chính trị th́ vai tṛ sĩ quan không quân cao cấp của ông ở Trung Quốc là chiến thuật hơn là chiến lược. Do đó khi nổ ra cú 9-3, Chennault đă bị đặt vào t́nh thế khá tế nhị.
Chennault đă không được hay biết ǵ về cuộc thảo luận ngày 26-1 giữa Clarac, cố vấn Đại sứ quán Pháp, Wedemeyer và Hurley về vấn đề quan hệ Nhật - Pháp “đang đi đến một cuộc khủng hoảng” và cả vấn đề người Nhật yêu cầu Pháp bố trí một sư đoàn mới ở biên giới Bắc Kỳ và Trung Hoa v.v.... Chennault cũng chẳng được báo cho biết việc Wedemeyer có liên lạc trực tiếp với trung tướng J.F. Hull(4) ở Hội nghị Yalta, cũng như việc Wedemeyer đă được Hull thông báo cho biết là tướng Marshall đă trao đổi với Tổng thống về vấn đề các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương. Đặc biệt là: “Tổng thống đă cho Marshall biết rằng ông không có ǵ phản đối việc (Wedemeyer) cho tiến hành các hoạt động t́nh báo và lật đổ ở Đông Dương. Tổng thống đồng ư với bất cứ điều ǵ làm để chống lại người Nhật nhưng với điều kiện là chúng ta không đuợc sắp cùng hàng với người Pháp. Tổng thống cũng không thay đổi thái độ trong việc đối xử với các nhà chức trách Pháp về vấn đề công nhận chính thức quyền lợi của Pháp ở Viễn Đông”.
Những thông tin cơ bản này đă không có giá trị ǵ đối với Chennault và sau ngày 9-3, khi người Pháp lên tiếng cầu cứu, Chennault đă dùng quyền chỉ huy của ḿnh để đáp lại lời kêu gọi của Pháp. Chennault đă dựa vào một bức điện mơ hồ của Bộ Ngoại giao cho phép Wedemeyer “giúp đỡ người Pháp” trong trường hợp họ phải tới Trung Quốc để “xin viện trợ về thuốc men”, miễn là có thông báo cho người Trung Hoa biết.
Chennault đă gặp Tưởng Giới Thạch vào sáng 10-3 cùng với tướng Hà Ứng Khâm. Chennault hỏi Tưởng xem người Pháp có thể bị tước vũ khí không nếu như họ kéo vào Trung Quốc và không nghiêm chỉnh chống cự lại người Nhật. Tưởng chỉ đáp lại là người Pháp “có thể ở lại Trung Quốc trong một khu vực riêng..”. Đối với câu hỏi phải làm ǵ nếu như người Pháp tiến hành một cuộc chống cự kiên quyết, họ có bị phó mặc cho số phận của họ hay chúng ta sẽ đưa quân sang hỗ trợ cho họ; Tưởng đáp “nếu có chống cự kiên quyết th́ cũng có thể được giúp đỡ”.
Trong khi thiếu một chính sách rành rọt, Chennault đă quan niệm chỉ thị mập mờ của Bộ Ngoại giao và những lời phát ngôn nước đôi của Tưởng là ngọn đèn xanh cho phép ông giúp Pháp. Chennault đă phái các cơ quan t́nh báo của ḿnh (OSS/AGFRTS) đột nhập vào Đông Dương để tiếp xúc với các nhân viên hàng không người Pháp và thu xếp việc thả dù tiếp tế vũ khí, đạn dược, thuốc men và lương thực. Nhưng đến ngày 20-3, Bộ Chiến tranh đă ra lệnh cấm Chennault cung cấp vũ khí và đạn dược, mà chỉ cho phép thả bom và bắn phá quân Nhật ở Đông Dương.
Bốn năm sau tướng Chennault đă đánh giá t́nh h́nh của ông như sau:
“Chính phủ Mỹ rất quan tâm đến việc người Pháp bị đánh bật ra khỏi Đông Dương, v́ việc đó sẽ làm dễ dàng hơn vấn đề tách người Pháp ra ngoài thuộc địa của họ sau chiến tranh. Lúc đó, người Anh lại ra sức phục hồi lại hệ thống các thuộc địa của họ ở Viễn Đông và coi việc thất bại của người Pháp ở Đông Dương là vô cùng tai hại cho uy tín của chính đế quốc ḿnh. Khi các máy bay vận tải Mỹ tránh không đến Đông Dương th́ các phi đội hàng không Anh có nhiệm vụ tiếp tế mọi mặt cho người Pháp từ Calcutta, thả dù cho họ súng tiểu liên, lựu đạn và súng cối.
Tôi đă nghiêm chỉnh thi hành mệnh lệnh cấp trên đúng từng chữ, nhưng thực sự tôi đă chẳng thích thú ǵ với cái ư nghĩ phải để mặc cho người Pháp bị tàn sát trong rừng sâu khi mà tôi chính thức bị buộc không được biết đến cảnh ngộ của họ”.(5)
Trở lại cuộc hội nghị, các vấn đề của Helliwell đặt ra rất khác với tướng Chennault. Trong khi Chennault nhận được chỉ thị phải đ́nh chỉ gửi vũ khí đạn dược cho người Pháp ở Đông Dương th́ OSS lại nhận được lệnh phải xây dựng những mạng lưới t́nh báo mới ở đó. OSS đă nhận được hai bản chỉ thị. Cả hai bản đều do tướng Marvin E. Grose, quyền tham mưu trưởng, kư thay cho tướng Chennault, tư lệnh chiến trường Trung Hoa.
Bản chỉ thị thứ nhất cho phép thành lập các lưới t́nh báo ở Đông Dương và cho phép viện trợ bất kỳ “nhóm kháng chiến nào mà việc chống đối tích cực với quân đội Nhật sẽ làm tăng thêm thuận lợi cho các hoạt động của Mỹ và Trung Quốc”. Ở đây có hai điểm quan trọng: sự viện trợ được hạn chế trong những việc không được gây trở ngại cho các cuộc hành quân đă được hoạch định và đang được xúc tiến trên chiến trường Trung Hoa; phải hết sức thận trọng trong khi hoạt động để làm sao cho “tất cả các nhóm đều được phân phối công tác một cách không thiên vị, bất kể họ có nguồn gốc chính trị hay sự liên kết với một Chính phủ riêng biệt nào”. Bản chỉ thị thứ hai đ̣i OSS phải thành lập nhiều trạm vô tuyến điện để phục vụ cho cả OSS và Phái đoàn quân sự Pháp. Các bản chỉ thị nói trên đă thúc đẩy OSS hoạt động nhưng đồng thời cũng đặt OSS vào một t́nh thế khá tế nhị và dễ gây lúng túng cho Pháp. Helliwell giải thích là người Pháp đă nài ép để xin được tiếp viện nhiều vũ khí và trang bị chiến đấu, mà làm như thế th́ chỉ gây trở ngại cho các kế hoạch tác chiến của chiến trường v́ phải giảm bớt đi không ít khả năng của không lực và, “khối lượng hàng tiếp vận của Hump”. Theo các chỉ thị mới th́ cũng trong thời gian này, OSS lại được giúp đỡ người Việt Nam quốc gia. Những người này cũng đ̣i hỏi vũ khí và trang thiết bị chiến đấu nhưng với một khối lượng nhỏ bé, không cần đến một sự bảo đảm hậu cần quan trọng hoặc phải điều chỉnh lại các kế hoạch hoạt động đă được vạch ra.
Tôi nêu vấn đề là trong tháng qua không biết đích xác là Pháp đă có tiến hành một cuộc chống cự có tổ chúc nào không. Helliwell xẵng giọng đáp lại ngay: “Chết tiệt! Không có ǵ hết! Chúng ta đă thả dù hàng tấn vũ khí và đạn dược, nhưng không đâu báo là có cuộc chống cự của Pháp. Thực tế chúng ta nghĩ rằng Nhật đă tóm hết mọi thứ của chúng ta trong khi Pháp rút chạy gấp về phía biên giới”.

Helliwell nói, với hai bản chỉ thị mới, ông ta thấy rằng cần bắt đầu phái các t́nh báo viên xâm nhập vào Đông Dương, mặc dầu ngày hôm sau ông nhận được một bức điện của Bộ Chiến tranh ra lệnh cho OSS “không được làm ǵ cả đối với Đông Dương thuộc Pháp”. Bức điện cấm Chennault không được tiếp tục thả dù vũ khí cho nhân viên hàng không Pháp và hai chỉ thị của chiến trường cho phép triển khai các hoạt động t́nh báo ở Đông Dương đều được ghi cùng một ngày – 20-3.
Giữa t́nh h́nh lộn xộn gây ra do mớ điện tín nói trên th́ Helliwell nhận được sự đồng ư của chiến trường về “phương án Quail” mà người ta phải nóng ḷng chờ từ nhiều tuần nay. Nhưng ngày hôm sau, Helliwell lại nhận được một bức điện của đại tá Willis S. Bird, phó của Heppner, nói “không được làm ǵ cả trong việc thành lập các đài vô tuyến” định để phục vụ cho cả OSS và Pháp. Lại một chuyện kích động nữa trong quan hệ gay cấn giũa Mỹ và Pháp.
Helliwell tỏ ra rất bực ḿnh v́ không có sự phối hợp giữa các yêu cầu cấp bách về tin tức hoạt động của Nhật ở Đông Dương với mớ lệnh và phản lệnh quá hỗn độn của cấp trên. Ông đă phái nhiều sĩ quan Mỹ và hiệu thính viên người Việt tới biên giới để t́m gặp đội quân đang rút lui của tướng Sabattier(6) và thu lượm tin tức về Nhật. Tất cả điều mà những người này đă có thể báo cáo về được là “người Pháp đang bị Nhật đuổi chạy sát nút”. Và theo Helliwell, người Pháp cũng chẳng có thể cung cấp được tin tức ǵ về các đơn vị Nhật đang săn đuổi họ.
Helliwell cũng rất chán ngán bởi câu chuyện rắc rối mới đây xảy ra giữa Pháp, Anh, Mỹ và Trung Hoa. Câu chuyện đă được nhóm GBT báo cáo cho đại tá Bird ở Trùng Khánh rồi chuyển đến chỗ Helliwell. Theo GBT th́ nhà đương cục ở Đông Hưng(7) ngày 20-3 đă thấy hai phi cơ Đồng minh lượn trên vùng trời Móng Cái và thả dù vũ khí cùng với đạn dược của Anh. Nhưng ở đó không có ai thu nhận nên người Trung Hoa đă ra thu nhặt tất cả. Vài phút sau GBT nhận được tin điện của Pháp nói rằng người Pháp đă rút lui hết sang đất Trung Quốc và Nhật đă chiếm Đông Hưng, Móng Cái và Tiên Yên. Pháp yêu cầu cho ném bom vào cả ba vị trí nói trên.
Rơ ràng là người Pháp không muốn mạo hiểm quay trở lại Móng Cái v́ sợ đụng phải Nhật nhưng cũng không muốn cho người Trung Hoa thu lượm được món hàng thả dù khá quư giá nên đă yêu cầu cho thả bom ngay vào chỗ người Trung Hoa. Thật hiển nhiên là người Pháp đă t́m cách đánh lừa người Mỹ trong việc thả bom xuống các khu vực có quân đội Trung Quốc, và cũng may mắn mà nhóm GBT c̣n có liên lạc bằng điện đài với những nạn nhân mà đă được người ta nhắm sẵn.
Helliwell nói rằng Gordon đă cảm thấy người Pháp “hoàn toàn không đáng tin cậy” và mỗi hành động của Mỹ sau này đối với họ đều được xem xét kỹ lưỡng. Gordon cũng lại cảnh báo rằng theo ư kiến riêng của y th́ “người Anh đă cắn chặt được một miếng và tự ḿnh lao vào Đông Dương mà không có sự phối hợp của chiến trường”.

CÓ TIN G̀ VỀ “ÔNG HỒ” KHÔNG?

T́nh h́nh đă dẫn đến việc phải thảo luận xem sẽ làm ăn ra làm sao đây trong một t́nh huống chắp vá giữa cái được làm và không được làm. Qua các cuộc gặp gỡ và qua những điều mà tôi được biết ở Washington th́ quả nhiên trong lúc này người ta rất ít mong chờ được ǵ ở người Pháp nên tôi đă phải tự hỏi: “Thế c̣n người Việt Nam? Đă có ai đó tiếp xúc với họ chưa?”.
Thiếu tá Wichtrich cho biết AGAS đă có khá nhiều cuộc tiếp xúc với họ và cũng đă đạt được kết quả tốt. Ông Dulin đồng ư với Wichtric và nêu ư kiến là trái với những người Pháp không chịu công nhận giá trị của người Việt Nam và quan điểm của Chiến trường về “những sự rối rắm chính trị”, người Việt Nam có một tổ chức đang hoạt động và nếu được trực tiếp tiếp xúc với họ để làm việc th́ sẽ rất có ích. Nhưng ông nói thêm “cánh ở Đại sứ quán lại không thích làm ăn với họ. V́ người ta cho họ là Cộng sản và chống Pháp”. Helliwell đáp lại: “Bậy! Nếu họ có một tí ǵ là tốt th́ ta cũng t́m cánh dùng họ. Chúng ta đă được sự đồng ư của Washington và Trùng Khánh cho sử dụng tất cả mọi nhóm kháng chiến”.
Đại diện cơ quan R&A chủ động cho biết có nhận được những báo cáo mới về sự chống cự kịch liệt của người Việt Nam với quân Nhật trong vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Cạn và các cuộc chiến đấu của họ mang tính chất bán quân sự. Nhiều báo cáo của người Việt Nam cung cấp cho OSS/AGFRTS và GBT có giá trị làm cơ sở cho mệnh lệnh chiến đấu. Dulin, một chuyên gia về chiến tranh chính trị, nói rằng OWI đă sử dụng nhiều người của Việt Minh do một “ông già” tên là Hồ Chí Minh lănh đạo và trong thực tế th́ ông Hồ cũng đă tiến tŕnh inột số công tác chiến tranh tâm lư cho cơ quan tuyên truyền Trung Quốc, cùng với OWI. Lúc đó Wichtrich mới công nhận là AGAS đă thực hiện một công tác đối với ông Hồ để tổ chức cứu thoát phi công ở Đông Dương. Wichtrich gượng cười nói với Helliwell: “Fenn, người của anh đă làm om ṣm về con người ấy trong nhiều tuần đấy”. Helliwell không chịu kém, đă đáp lại: “Tôi biết! Tôi đă cấp cho ông ta một số vũ khí để tự vệ”.(8)
Tôi kể cho họ là tôi đă bắt gặp tên của “ông Hồ” trong các hồ sơ của Washington đề ngày tháng từ 1942 và cả trong các hồ sơ mới đây của Sprouse và Langdon thuộc Đại sứ quán và của Powell thuộc OWI. Thực tế chỉ trước đó một ngày, tôi cũng đă đọc bản báo cáo của Fenn nói về một cuộc điều đ́nh với ông Hồ để tổ chức một mạng lưới t́nh báo khắp Đông Dương để hỗ trợ cho OSS và AGAS. Ư định của tôi nếu như không ai phản đối, là đi sâu vào tổ chức của người Việt Nam nhằm để họ phục vụ cho “phương án Quail”, nhưng trước hết tôi lại muốn biết ư kiến có cơ sở của mọi người về phản ứng có thể của người Pháp.
Helliwell không nghĩ rằng chúng ta sẽ phải thảo luận với người Pháp và ngay cả với Đại sứ quán của ta, và cũng không hề thấy rằng sự hợp tác của Heppner đối với chúng ta là rất cần. Wichtrich bị bối rối ra mặt và đă trả lời tôi là anh ta không quan tâm ǵ đến người Pháp hay nhân viên ngoại giao nhưng anh ta muốn được có sự đảm bảo rằng SI sẽ không làm ǵ để gây trở ngại cho AGAS. Helliwell đă nói để Wichtrich yên tâm là sự cộng tác của ông Hồ phục vụ cho AGAS sẽ được SI chúng ta hỗ trợ cả về mặt tài chính và phương tiện thông tin liên lạc.
Hội nghị đă kết thúc với ư kiến thống nhất rằng tôi có thể càng sớm càng hay, thực hiện một cuộc thanh tra trên bộ tới Szemao(9) và dọc theo biên giới Đông Dương, cho khởi sự việc khôi phục lại nguồn t́nh báo, xác định t́nh trạng quân sự của Pháp và có khả năng thu xếp để tiếp xúc với các lănh tụ Việt Minh.
Về các mặt khác, trong số ít ngày đầu tiên của tôi ở Côn Minh, đă thể hiện ra một cách không được sáng sủa lắm. Tôi đă chẳng có tin tức ǵ về số nhân viên đă được đặc biệt chọn lọc mà tôi đă tuyển dụng tại Washington.
Cuộc viếng thăm đầu tiên của tôi đến phái đoàn quân sự Pháp (M.5) (10) cũng chỉ mang lại cho tôi một sự thất vọng. Phái đoàn đang thay đổi bộ máy chỉ huy và trong một t́nh trạng hoàn toàn rối loạn. Trưởng phái đoàn mới th́ vắng mặt, c̣n những người có mặt th́ chẳng ai tỏ ra có trách nhiệm ǵ cả. Những ngày tiếp theo, tôi trở lại thăm th́ t́nh h́nh cũng chẳng có ǵ khác hơn trước.
Tại trụ sở BIS của tướng Tai Li ở Côn Minh th́ sự tiếp đón hoàn toàn thân mật nhưng cũng không có ǵ đáng được tưởng lệ. Khá nhiều nước trà, nhiều nụ cười lịch sự và câu chuyện nói bằng tiếng Trung Hoa giữa những người phiên dịch cũng nhiều hơn. Và các vị khách của tôi chỉ nói rằng họ mới ở Tú Xuyên về và không hay biết ǵ về các hoạt động t́nh báo ở Vân Nam và Đông Dương.
Helliwell và Dulin đă cấp cho tôi một bản danh sách các Việt kiều di cư do Cha Jean Tống, một thầy tu Thiên chúa giáo người Hoa d́u dắt. Nhưng sau nhiều cố gắng để t́m kiếm họ mà không có kết quả nên tôi đă bỏ qua.
Suốt trong thời gian đó, Bộ Tư lệnh chiến trường vẫn tiếp tục đ̣i tin tức t́nh báo và nhấn mạnh việc OSS phải tiến hành quấy rối người Nhật dọc theo hành lang Hà Nội, Nam Ninh, Quảng Đông. Trong t́nh huống hỗn loạn lúc đó, nhiều toán OSS ở phía nam Trung Quốc và bắc Đông Dương đang bị mất liên lạc với Côn Minh, và đó cũng là một nguồn đẻ ra nhiều điều lo ngại nghiêm trọng.
PHÁI VIÊN CỦA “TƯỚNG” HỒ

Nhưng cũng đă có một sự kiện có tính chất tích cực đă xảy ra trong ngày đầu tiên tôi ở Côn Minh này. Việc tôi sục t́m các con chiên của Cha Tống chắc đă được bàn tán nhiều trong giới Việt kiều ở Côn Minh và tôi đă được một người là Vương Minh Phương t́m đến thăm. Giữa những lời xin lỗi quá thừa v́ đă quấy quả tôi vào một chiều thứ bảy, Phương tự giới thiệu là hội viên Mặt trận Độc lập Đông Dương. Tên ông ta cũng không phải là mới lạ ǵ đối với tôi. Tôi đă bắt gặp cái tên đó trong bản báo cáo của Langdon nói về cuộc nói chuyện với các hội viên của Mặt trận vào tháng 8-1944.
Phương mới ngoài 30 tuổi và nói tiếng Pháp lưu loát. Theo Phương kể th́ Phương vốn là sinh viên trường Đại học Hà Nội và đă tới Trung Quốc vào mùa thu năm l943, sinh sống cạnh cơ quan OSS, trong khách sạn Quảng Lạc, 39 Tai Ho Gai. Phương có quen ông Glass ở OSS, đă từng cộng tác với Powell thuộc OWI và đă gặp thiếu tá Stevens(11) ở Trùng Khánh và ông Langdon ở Lănh sự quán Côn Minh có biết. Rơ ràng là Phương quen biết toàn là những người đúng đắn nên tôi cũng thích thú chờ biết lí do cuộc viếng thăm.
Phương giải thích là cần phải làm cho tôi biết rơ rằng nhũng người mà tôi đang t́m kiếm không phải là “những người Việt Nam tốt nhất” ở Côn Minh mà họ đều là nhân viên của hai công ty do Pháp đỡ đầu(12) liên kết Hoa Việt Cách mạng Đồng minh Hội. Họ đă được định cư ở Trung Quốc và tự coi ḿnh là người dân Trung Quốc. Phương nói, c̣n những người Việt Nam tha thiết đánh “phát xít Nhật” th́ đều thuộc mặt trận của Phương, được nhiều người biết với cái tên là Việt Minh mà lănh tụ là “tướng” Hồ Chí Minh.
Phương mặc âu phục, tỏ ra là một người có học thức tốt và hoàn toàn thông thạo về vấn đề chiến tranh nói chung, và tất nhiên là giỏi về vấn đề Đông Dương. Phương quen thuộc với OSS và AGAS hơn là tôi đối vối Mặt trận Việt Minh của ông và ông ta cũng biết về tôi nhiều hơn là tôi biết về ông ta. Tôi lắng nghe ông lái một cách tài t́nh câu chuyện sang mục đích thực sự của cuộc viếng thăm.
Với một chút tự hào, Phương đă kể lại về các đồng sự của ông ở Đông Dương và Trung Quốc đă làm việc một cách rất chặt chẽ với một số người Mỹ của tướng Chennault và OSS, đă cung cấp tin tức về đội h́nh chiến đấu của quân Nhật và về các mục tiêu t́nh báo. Phương có nói đến hoạt động t́nh báo của OSS - AGAS mà Việt Minh có góp phần giải thoát “nhiều” phi công của Mỹ qua việc cung cấp chỗ trú ẩn và hướng dẫn họ đến nơi an toàn.
Sau đó Phương trượt nhẹ sang lĩnh vực chính trị, b́nh luận rằng người Việt Nam rất biết ơn người Mỹ về sự thông cảm đối với quyền lợi các dân tộc, sự quan tâm của họ đối với vấn đề thuộc địa và đă ghi nhận rằng cố Tổng thống Roosevelt trong nhiều dịp đă công khai ủng hộ độc lập chính nghĩa của họ. Tôi đă ngắt lời và nhắc với ông là tôi không phải là một nhà ngoại giao, cũng chẳng phải là một nhà chính trị mà chỉ là một quân nhân. Với nụ cười thông cảm, Phương chống chế là đă quá phấn khởi v́ đă có cơ hội để diễn đạt trước một quan chức Mỹ về những t́nh cảm tốt đẹp của nhân dân ông ta đối với nước Mỹ. Rồi sau đó Phương lại nói về các khả năng quân sự của Việt Minh.
Theo Phương, Việt Minh mặc dầu là một mặt trận chính trị nhưng cũng đồng thời là một lực lượng vũ trang, tổ chức thành những đơn vị du kích và đă tích cực tiến hành một cuộc chiến tranh không chính thống chống lại Nhật. Phương nói rộng ra là bên cạnh những trận ném bom của Đội không quân thứ 14 th́ không c̣n có một lực lượng nào khác ngoài Việt Minh đă chống cự lại với “kẻ thù chung”. Người Pháp “chưa bao giờ đánh lại bọn phát xít ở Đông Dương và đă từ lâu họ không c̣n ở đó nữa”. C̣n Việt Minh lại có lực lượng trên đất liền, đă quyết tâm và có khả năng “chiến đấu sát cánh” với Mỹ và các nước Đồng minh của Mỹ.
Trưa đến, tôi mời Phương dùng cơm ở nhà ăn OSS rồi sau đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Phương tỏ ra vui ḷng được nói chuyện thêm nhưng đề nghị đến ăn ở một khách sạn địa phương Trung Quốc cho đỡ lộ liễu. Chúng tôi liền đến một quán cơm b́nh thường ở gần trường Đại học Vân Nam và các toà lănh sự Mỹ, Anh. Trong bữa ăn, tôi khuyến khích Phương nói về Việt Minh, lập trường, mục đích của Mặt trận và theo ư họ th́ làm thế nào để có thể giúp cho Đồng minh đánh Nhật và họ có thể mong đợi ǵ ở các nước Đồng minh. Theo lời phát biểu của Phương (mà tôi đă tóm tắt lại để ghi vào băng ngay hôm đó): Việt Minh là một liên minh các đảng phái của những người quốc gia Việt Nam dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức theo đường lối của Đảng nhằm mục đích trước mắt là đánh đuổi người Nhật và ngăn ngừa Pháp quay trở lại. Cuối cùng, Việt Minh hy vọng thành lập được một “Cộng ḥa Đông Dương độc lập, dân chủ”. Phương tin rằng mặt trận có thể cung cấp cho Đồng minh những tin tức có ích về người Nhật, người Pháp và bọn bù nh́n ở Đông Dương. Họ có thể cộng tác với người Mỹ trong các hoạt động phá hoại, biệt kích và các trận đánh khác chống Nhật; họ sẽ hướng dẫn và giáo dục cho người Việt tiếp tục giúp đỡ cho các nhân viên hàng không Mỹ bị hạ và đưa họ đến những nơi an toàn. Đổi lại, Việt Minh chỉ yêu cầu Mỹ công nhận Liên minh Độc lập Đông Dương là tổ chức duy nhất hợp pháp và được phép đại diện cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống bọn phát xít và yêu cầu Mỹ cung cấp cho họ phương tiện để chiến đấu bên cạnh các nước Đồng minh. Khi tôi hỏi lại họ cần ǵ th́ Phương đáp: “Vũ khí, đạn dược, cố vấn, huấn luyện viên và phương tiện thông tin liên lạc với Bộ Tư lệnh Đồng minh”.
Phương chờ trả lời nhưng tôi đă cảm ơn và nói rằng đề nghị của họ thật phong phú và rất hay nhưng tôi c̣n cần phải bàn với các cộng sự của tôi. Trong khi đó th́ làm thế nào có thể gặp được “tướng” Hồ? Phương nói là trước đây mấy hôm ông có đến Côn Minh, nhưng nay đang trên đường trở về Việt Nam và có thể đang dừng lại ở Tŕnh Tây. Phương có thể báo tin cho ông Hồ và tin chắc rằng ông sẽ vui ḷng gặp tôi. Ông nói với Phương là tôi có thể đến Tŕnh Tây nhưng phải đợi đến sáng hôm sau mới khẳng định chắc chắn được điều đó.
Chúng tôi rời khách sạn khá muộn. Ngay chiều hôm đó, tôi bàn với Helliwell và Wampler về cuộc gặp gơ với Phương. Kế hoạch chung nhằm cộng tác với người Việt Nam mà chúng tôi đồng ư tiến hành mấy hôm trước nay lại có thêm một khía cạnh mới qua lời phát biểu khá đặc biệt của Phương. Sự khẩn khoản của họ đối với vấn đề công nhận chính thức là một vật chướng ngại quan trọng. Helliwell đồng ư với quan điểm được Heppner ủng hộ là không có vũ khí nào do OSS cung cấp lại được sử dụng để chống lại người Pháp. Nhưng Helliwell vẫn giữ quan điểm của ḿnh là trong khi AGAS sử dụng Việt Minh vào các hoạt động của họ th́ chúng ta cũng có thể mở rộng mạng lưới đó ra để bao gồm cả việc thu thập t́nh báo và đánh du kích.
Đêm đó, Heppner đă từ Trùng Khánh đến và chúng tôi đă đề đạt ngay ư kiến với Heppner. Thoạt đầu Heppner đă gạt bỏ và cho rằng ư kiến đó không thể thực hiện được về phương diện chính trị; ông đă gặp rất nhiều khó khăn với tướng Hurley(13) chung quanh việc những người Cộng sản Trung Quốc. Ông nói riêng cho chúng tôi hay rằng người phụ tá của ông, đại tá Bird(14), lúc đó đang công tác ở Diên An với đại tá David D. Barrett(15) để thu xếp một sự liên minh giữa những người Quốc dân đảng của Tưởng với nhũng người Cộng sản của Mao; và Hurley đă rất phẫn nộ với OSS, cho rằng OSS đă chen vào một việc mà ông cho đó là của Bộ Ngoại giao. Heppner tin chắc rằng người Trung Hoa sẽ đưa ra mọi sự phản đối về bất cứ một sự cộng tác nào với những người Cộng sản Việt Nam. Mà cả đến Đại sứ quán của chúng ta nữa cũng vậy. Và chúng ta cũng không được quên Phái đoàn Quân sự Pháp, chắc chắn là họ sẽ không hài ḷng nếu họ thấy được là chúng ta đang điều đ́nh với Việt Minh.
Nhưng khi Heppner đă biết được người Pháp và người Trung Hoa tiếp đón tôi như thế nào th́ ông cũng chấp nhận lập trường của chúng tôi, không có ǵ thay đổi thêm. Ông căn dặn tôi không được làm ǵ chống đối với người Trung Quốc cũng như với người Pháp v́ ông và Whitaken cũng sẽ phải làm việc với họ ở Trùng Khánh, c̣n tướng Donovan th́ đă được Nhà Trắng chỉ thị cho phải hợp tác với cả đôi bên. Chính v́ thế mà vấn đề làm việc với Việt Minh đă được để lại sau này sẽ xem xét khi t́nh h́nh phát triển thêm.
Sáng hôm sau, Phương, rất đúng giờ, đến cơ quan của tôi và cho biết đă gửi thư báo cho “tướng” Hồ nhưng không chắc là thư sẽ đến kịp trước khi ông Hồ rời đi biên giới. Phương gợi ư là nếu tôi có đến Tŕnh Tây th́ tôi nên dừng lại ở một quán trà nào đó và t́m một người Trung Hoa nói thạo tiếng Anh tên là Wang Yeh Li, người này có thể giúp tôi gặp được ông Hồ nếu ông c̣n ở đó.
Chú thích :

(1) trưởng ban mật vụ SI, OSS Côn Minh
(2) Kế hoạch hoạt động của OSS ở Bắc vĩ tuyến 16 Đông Dương
(3) Cơ quan nghiên cứu và phân tích, OSS
(4) Trợ lư Tham mưu trưởng, Cục tác chiến, VVD
(5) Chennault, “Con đường của một chiến sĩ”
(6) Tổng chỉ huy lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ và Tổng đại diện Pháp ở Đông Dương sau khi Aymé và Mordant bị bắt.
(7) Thị trấn biên giới Trung Hoa, giáp với thị trấn Móng Cái
(8) Đầu tháng 3, Helliwell đă cho phép lấy ở kho OSS 6 khẩu Colt 45 và nhiều đạn giao cho AGAS để chuyển cho ông Hồ
(9) c̣n gọi là Fu Hsing Chen, một thị trấn cổ, cách Côn Minh 200 dặm về phía nam.
(10) Đây có sự nhầm lẫn. Chỉ có một phái đoàn quân sự Pháp bên cạnh chính phủ Trung Quốc ở Trùng Khánh, dưới quyền tướng Pechkov; c̣n M.5 ở Trùng Khánh chỉ là một đơn vị của SLFEO/Calcutta, phụ trách về các hoạt động bí mật ở Đông Dương
(11) đại diện OSS ở Đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh
(12) Hội tương tế và Hội thể thao của người An Nam ở Vân Nam
(13) Đại sứ mới thay cho Gauss từ tháng 1-1945
(14) đại diện OSS/Chiến trường Trung Hoa
(15) thủ trưởng Nhóm quan sát Mỹ (DIXIE) ở hành dinh Cộng sản Trung Quốc ở Diên An

 

Chương 8
Vấn đề mới của Pháp

CUỘC ĐẢO CHÍNH MỒNG 9-3
Trước khi rời Szemao, tôi may mắn được đọc một bản báo cáo thảo ra dựa trên cơ sở của cơ quan R&A thu lượm những mẩu chuyện của những người Pháp dân sự và quân sự tị nạn và của OWI rút ra từ các bản tin phát nhanh của Nhật. Bản báo cáo tổng hợp những tin tức về “coup de force”(1) ngày 9-3 và hậu quả của nó, đă giúp cho tôi được rất nhiều trong khi tôi đi thị sát chiến trường. Qua bản báo cáo, tôi được biết là chiều ngày 9-3, đại sứ Nhật Shunichi Matsumoto và Tổng lănh sự Kono đă triệu Toàn quyền Decoux đến để ép Pháp phải có một sự cộng tác nhiều hơn và chân thành hơn với người Nhật. Kono đ̣i hỏi một sự gia tăng quy mô lớn của Pháp vào “quỹ chiến tranh” của Nhật, giảm bớt các biện pháp hạn chế việc thu mua thóc gạo của quân đội Nhật và bảo đảm sẽ không huỷ bỏ thoả hiệp Liên minh pḥng thủ Pháp - Nhật ở Đông Dương. Decoux chần chừ nói rằng cần phải có thời gian để trao đổi với Chính phủ của ông ở Hà Nội.
Cho rằng Decoux t́m cách lảng tránh, đến 6 giờ chiều ngày hôm đó, Đại sứ Nhật gửi cho viên toàn quyền một tối hậu thư. Lần này yêu cầu của người Nhật được nêu rơ ràng: người Pháp phải cùng với người Nhật pḥng thủ Đông Dương trong trường hợp có cuộc xâm lăng của Anh - Mỹ; tất cả các lực lượng quân sự và cảnh sát của Pháp phải đặt dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của quân đội Nhật; Pháp phải giao cho Nhật tất cả các hệ thống thông tin liên lạc, vận tải, hệ thống ngân hàng và các cơ quan hành chính. Các điều khoản trong tối hậu thư phải được chấp nhận vô điều kiện trong ṿng 2 giờ.
Đến 10 giờ 15 tối, quá hạn 2 giờ ấn định trong tối hậu thư, người Nhật nhận được công hàm của Decoux báo cho biết ông cần nhiều thời gian hơn nữa để c̣n “trao đổi ư kiến”, Matsumoto liền ra lệnh cho quân đội nắm quyền và đặt Decoux dưới sự “canh giữ bảo trợ” của quân đội.
Đến 2 giờ sáng (giờ Tokyo) ngày 10-3, Tổng hành dinh Thiên hoàng ở Tokyo ra thông báo về việc tiếp quản ở Đông Dương và nói rơ đó là do Bộ chỉ huy quân đội Nhật ở đó chủ động tiến hành. Tiếp đó, vào 9 giờ sáng (giờ Tokyo), sau một buổi họp nội các đặc biệt ở Hoàng cung, Chính phủ Tokyo công khai thừa nhận quyết định quân sự nói trên và đề xướng ra chính sách ủng hộ nền độc lập của Việt Nam:
“Ngay sau khi Đông Duơng tỏ ra có dấu hiệu đang tiến lên thành một nước độc lập th́ Chính phủ Nhật nhất định giúp đỡ cho các dân tộc  này đạt được “sự độc lập chủng tộc chân chính” dựa trên cơ sở những nguyên tắc đă được nêu lên trong bản tuyên ngôn chung của các nước Đại Đông Á”.
Khi người Nhật trong buổi chiều ngày 9 đang làm áp lực để người Pháp gia tăng sự ủng hộ cho Nhật th́ Hoàng đế Bảo Đại của An Nam trong bản thông điệp nhân dịp năm mới (Tết) ca ngợi Pháp và nêu lên rằng: “Nước Pháp đă phải chịu rất nhiều đau khổ để khôi phục lại đất nước và sự phục hưng đó là điềm báo hiệu của một thời kỳ hoà b́nh và thịnh vượng mà trong đó tất cả các dân tộc sống dưới sự bảo hộ của Pháp sẽ được thừa hưởng”. Ông ta c̣n nói: “Chúng ta tha thiết cảm ơn đô đốc Decoux, người đă lái con tàu Đông Dương qua cơn băo táp của thế giới. Nhờ đô đốc mà Đông Dương được hưởng hoà b́nh và an ninh”.
Hai ngày sau, trong một cuộc trở mặt vô liêm sỉ, Bảo Đại đă bác bỏ Hiệp ước Bảo hộ Pháp - An Nam 1884, tuyên bố độc lập của Vương quốc An Nam và tham gia khối các nước Đại Đông Á. Hoàng đế hứa đem tất cả quyền lực của nhà vua ra để cộng tác với người Nhật, tin tưởng ở sự thành thật và thiện chí của đế quốc Nhật.
Đến ngày 13-3, Hoàng thân Norodom Shihanouk ở Kampuchia cũng chuyển theo t́nh h́nh và tuyên bố đất nước ông độc lập. Ông ta công khai phát biểu: “Vương quốc Kampuchia đă lâu không c̣n cần đến sự bảo hộ của nước Pháp, v́ vậy tuyên bố Hiệp ước Bảo hộ kư kết với nước Pháp là không c̣n hiệu lực... đặt sự tin tưởng tuyệt đối vào Đế quốc Nhật... Kampuchia quyết tâm hợp tác với Nhật…”.
Một tháng sau, vua Sisavang Vong của Luang Prabang ở Lào cũng đi theo các vị Hoàng thân láng giềng, tuyên bố nước Lào không chấp nhận sự ràng buộc của người Pháp nữa và hoan nghênh người Nhật như là bạn bè và Đồng minh.
Ở Đông Dương, người Nhật đă nhanh chóng tuyên bố thiết quân luật, tước vũ khí và giam giữ các lực lượng quân đội và cảnh sát, bắt giữ các nhà cầm quyền quân sự và dân sự chủ yếu, đặt lệnh giới nghiêm, kiểm soát giao thông và tiếp quản toàn bộ cơ cấu bộ máy hành chính. Ngày 11-3, Bộ Tư lệnh tối cao Nhật công bố tên một số người đă bị bắt gồm Decoux, các tướng Aymé, Mordant và chánh sở mật thám Đông Dương nổi tiếng Louis (Paul) Amoux, người đă truy nă Hồ Chí Minh từ 1919.
Các sĩ quan nghiên cứu của OSS cho rằng sự sụp đổ của Pháp là do kế hoạch tổ chức kháng chiến của Mordant tồi, do họ không hoàn toàn coi trọng nguyên tắc hoạt động bí mật, và do thiếu một sự phối hợp giữa các phần tử quân sự và dân sự của cái gọi là phong trào kháng chiến. Điều đó quá rơ ràng v́ trong ngày 8-3 đă có một viên chức cảnh sát Việt Nam, mật vụ của SLFEO, đă báo cho Mordant biết là người Nhật có kế hoạch vô hiệu hoá quân đội Pháp vào một lúc nào đó giữa ngày 8 và ngày 10 tháng 3.
Ở Hà Nội, Mordant và Aymé đă đánh giá thấp tin báo của người mật vụ SLFEO. Mordant cho rằng dù sao đi nữa th́ cơ quan quân sự t́nh báo cũng chẳng có tín hiệu ǵ về vấn đề này, c̣n bên dân sự lại thường có xu hướng khuếch đại sự việc. Chỉ có tướng Gabriel Sabattier, chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ và là thủ lĩnh của phong trào kháng chiến miền Bắc, đă coi tin báo đó một cách nghiêm túc. Ông không hỏi ư kiến của Mordant hay Aymé, phát lệnh “t́nh trạng báo động thực sự” vào ngày 8-3 và rời khỏi Hà Nội để đến hành dinh dă chiến của ông. Sáng ngày 9, khi biết tin có cuộc “báo động” thật sự, Aymé liền quyết định băi bỏ lệnh của Sabattier, cho là không cần thiết và chỉ làm cho người Nhật hoảng sợ không đúng lúc. Nhưng hành động của Sabattier đă làm cho Alessandri cảnh giác, ông rút ra ngoài doanh trại và cho quân vượt sông Đà và sông Hồng, di chuyển về núi phía bắc và tây Bắc Kỳ.
Đến đêm ngày 9, khi người Nhật tấn công vào nơi có người Pháp ở th́ Mordant và Aymé đều bị bắt làm tù binh và quân đội của họ đă không sẵn sàng để chống cự lại. Ngoài số khoảng chừng 99.000 sĩ quan và binh lính người Pháp ở Đông Dương, chỉ có gần 5.000 quân (thuộc quyền Sabattier và Alessandri) được bố trí theo kiểu để đánh chặn hậu ở phía sau là được rút về bên giới Lào và Trung Quốc(2).
Suốt trong các ngày 10 và 11 tháng 3, đài phát thanh báo về tin cuộc đầu hàng “hoà b́nh” của các cứ điểm quan trọng của Pháp. Ngay ở các đồn xa xôi như Quảng Châu Loan (một nhượng địa của Pháp ở phía nam Trung Quốc) và Thượng Hải, với một đội quân thường trú 1.000 lính và 797 cảnh sát người Pháp, quân đội Pháp đă bị tước vũ khí mà không chống cự.
Nhưng cũng có những ngoại lệ. Ở đó nổi lên những hành động dũng cảm và anh hùng. Ở đồn Lạng Sơn, độ 1.200 quân đă quyết chiến suốt trong 2 ngày. Bị áp đảo về số lượng, thiếu nước và đạn dược, vài trăm người sống sót đă phải đầu hàng Sư đoàn 37 Nhật, nhưng chỉ huy đơn vị này tức giận v́ những tổn thất đă phải gánh chịu do sự ngang bướng của đồn quân Pháp gây ra nên đă ra lệnh tàn sát cho bằng hết số quân đầu hàng. Ở Đồng Đăng, quân Pháp cũng phải chịu một số phận tương tự, khi cũng bị chính viên tư lệnh nói trên sau khi đă được thêm một trung đoàn của Sư đoàn 22 tăng cường, đă tiến đánh và trừng phạt.
Ở Hà Nội, quân Pháp ở trong Thành cũng chống cụ chút ít sau nhiều giờ nổ súng rời rạc. Cũng có người chết và bị thương, nhưng Nhật coi đó chỉ là một hành động để giữ thể diện. Ở Hoàng thành Huế, đội Bảo an Pháp đóng ở doanh trại trung đoàn 10 RIC(3) cũng cầm cự được đến nửa đêm ngày 10. Suốt miền trung Trung Kỳ và Nam Kỳ chỉ có một vụ chống cự nhỏ đối với Nhật.
Trước cảnh ngộ đáng buồn của người Pháp, báo cáo của R&A nhận xét rằng với một sự chuẩn bị kháng chiến đă khá lâu năm và tất cả các đồn trại, kho tàng đều đầy ắp người và súng đạn như mọi người đều biết rơ, th́ sự giải thích duy nhất có thể chấp nhận được về một cuộc đầu hàng nhanh chóng đó của Pháp là do thiếu sự thống nhất tổ chức và lănh đạo. Một lư do phụ thêm vào đó nữa là có thể thiếu sự ủng hộ quần chúng, của những người Việt bị áp bức.
Báo cáo của R&A thêm vào những đoạn trích trong công điện của Tổng Lănh sự quán Langdon nói rằng người Pháp ở Côn Minhh đồng ư với luận điệu của Nhật, cho rằng người Nhật sở dĩ phải có hành động chống Pháp v́ họ sự Pháp và Mỹ hợp tác với nhau trong trường hợp Mỹ đổ bộ vào Đông Dương. Langdon đă ghi: “...Nếu người Pháp cũng có một kế hoạch nào đó th́ hiển nhiên họ đă không phối hợp với kế hoạch của người Mỹ và người Trung Quốc, và chờ đợi để sớm muộn cũng có lúc đưa ra thực hiện. Người Nhật đă chơi trội hơn người Pháp”.
Trước khi tôi tới vùng biên giới, tin tức cuối cùng tôi nhận được là một trong những toán SI được nhảy dù xuống chỗ người Pháp đang rút lui. Quân của Sabattier và Alessandri đi theo hướng tây Hà Nội về phía Sơn La và Điện Biên Phủ. Sau khi sục t́m các tướng nói trên, một sĩ quan của chúng tôi đă bắt gặp Alessandri ngày 3-4 ở Phong Saly thuộc Lào, nhưng không thấy tung tích Sabattier. Viên sĩ quan đă báo cáo là quân Pháp trang bị nghèo nàn và bị mệt mỏi, tinh thần thấp; để giảm bớt gánh nặng, họ đă bỏ lại nhiều vũ khí nặng và nhiều tấn đạn dược mà cũng không buồn phá huỷ đi nữa.

NHỮNG H̀NH ẢNH ĐANG THAY ĐỔI

Báo cáo của R&A chứa đựng một số nhận xét về mối quan hệ giữa người Pháp với người Việt, Trung Hoa và Mỹ. Các nhận xét đó rất đáng được b́nh luận v́ chỉ dựa trên cơ sở một số sự kiện lúc đó chưa được hoàn toàn bộc lộ rơ với một khoảng thời gian ngắn ngủi vài tuần hay vài tháng.
Về người Việt Nam:
- Một mặt: theo Langdon: “Phản ứng của dân chúng An Nam đối với cú của Nhật h́nh như đă làm cho người Pháp hoang mang, chán nản. Mặc dù một bộ phận lớn quân đội c̣n tỏ ra trung thành, nhưng nhiều người trong số họ đă đi theo người Nhật, c̣n thường dân th́ vẫn giữ thái độ nói chung là thụ động và thờ ơ.
- Mặt trái lại: Trong thực tế hơn 90% lính Việt Nam đă vứt bỏ vũ khí và trở về nhà khi họ biết rơ là phải sang Trung Quốc. Nhiều người đă đi theo phong trào chính trị giành độc lập ở Đông Dương và chỉ có một số rất nhỏ, chắc chắn không quá vài trăm, chạy theo Nhật. Rất nhiều nhà hoạt động chính trị trong giới quân sự đă chia xẻ số phận của họ với phong trào chống Pháp, chống Nhật.
Ở Hà Nội, Huế và Sài G̣n thấy có một số ít người Việt Nam mang băng tay “mặt trời mọc” và hợp tác với quân cảnh Nhật ở địa phương. Phần lớn họ là người thuộc các tổ chức bí mật thân Nhật bao gồm Cao Đài, Hoà Hảo và các phần tử tôn giáo và bảo hoàng ở Đông Dương.
Những người hoạt động chính trị Việt Nam thuộc ba phong trào quốc gia chủ yếu: Việt Nam Quang phục Hội, một tổ chức bí mật thân Nhật, chủ trương bảo hoành, Việt Nam Quốc dân đảng dựa vào Chính phủ Trùng Khánh và được Trung Quốc ủng hộ và Đông Dương Độc lập Đảng, một mặt trận cộng sản theo Matxcơva.
Điều người Pháp thất vọng đối với người Đông Dương không phải ở chỗ họ tỏ ra thờ ơ mà ở chỗ người Pháp cho là họ bội bạc. Trong hơn 80 nam, thực dân Pháp đă cho lan truyền câu chuyện thần thoại gán cho người Pháp vai tṛ của nhà khai hoá, ân nhân và là người bảo hộ vĩ đại của nhân dân Việt Nam “nghèo túng, bơ vơ và thấp hèn”. Trong câu chuyện đó, người Pháp ở Đông Dương có quyền đ̣i hỏi phải được người dân “bản xứ” lệ thuộc yêu quư và phục dịch và đồng thời lại có quyền xử phạt khi người “bản xứ” không làm được những việc hèn hạ của ḿnh. Qua thời gian, câu chuyện thần bí đă biến thành sự thực trong đầu óc của người Pháp và chi phối cuộc sống hàng ngày của họ. Điều đó đă quá ăn sâu vào tính nết của người Pháp nên đă không gạt bỏ đi được ngay cả sau các sự kiện ngày 9-3.
Trong những giờ “bi thảm” của cuộc đấu tranh chống Nhật, mặc dù người Pháp bối rối bởi thái độ gia trưởng và bề trên của ḿnh đối với người “bản xứ”, nhưng những người này vẫn tỏ ra nhă nhặn và không gay gắt ǵ đối với người Pháp. Người Việt đă giúp đỡ cho các ông chủ cũ của họ trốn tránh trước sự truy lùng của kẻ thù, chỉ dẫn cho họ vượt rừng rậm để sang Trung Quốc và có khi c̣n cho họ ẩn nấp ngay trong nhà ḿnh một thời gian. Rơ ràng đối với người Pháp đang chạy trốn th́ đây không phải là do ḷng trung thành hay v́ sợ sệt mà chính là trên cơ sở nhận thức được rằng họ, người Việt Nam, đang bước vào một thời đại mới. Vai tṛ của họ bất chợt đă được đảo ngược. Người Việt Nam không c̣n là dân thuộc địa lệ thuộc mà là người công dân tự do và độc lập của chính đất nước họ. Họ đă không hành động với tinh thần trả thù trong những ngày đầu tiên đó mà chỉ với động cơ mong muốn giải thoát cho đất nước họ khỏi gánh nặng người Pháp. Trong tháng 4-1945, người Pháp đă không thể hiểu nỗi được phản ứng của người Việt Nam; họ chỉ có thể cảm thấy chán ngán.
Về người Trung Hoa.
- Một mặt: quan hệ Pháp - Hoa đă không phải là hoàn toàn thân thiết. Nhiều lắm th́ cũng chỉ có thể coi các quan hệ đó là vừa phải và đúng đắn. Langdon đă báo cáo rằng phản ứng của người Trung Quốc đối với cú mồng 9-3 của Nhật “được coi như là một lời cảnh cáo đối với sự an ninh của Vân Nam, do đó những biện pháp được thi hành (tháng 3-1945) phản ảnh một thái độ thụ động”.
- Mặt trái lại: Tưởng đă rất phiền ḷng trước sự xoay chuyển t́nh h́nh ở Đông Nam Á, v́ nó làm tổn hại đến địa vị quân sự của ông ở Miến Điện và Trung Quốc. Ông ta đặc biệt bực ḿnh với người Pháp về chỗ sau khi đă đẩy cho Nhật tiến hành cú 9-3, họ đă không gây được cái ǵ coi như một cuộc kháng chiến đáng tin cậy để có thể buộc Nhật rút bớt đi một số lực lượng từ các mặt trận của người Trung Hoa ở Miến Điện và Trung Quốc. Không những thế, họ lại không giữ được nguyên t́nh trạng ở đó và làm cho quân đội Tnmg Quốc bị uy hiếp một cách vô ích bởi một cuộc tiến công của Nhật vào phía sườn đă yếu hướng tây nain. Hơn nữa, người Pháp đă làm cho vấn đề phúc tạp thêm qua việc rút quân sang đất Trung Quốc và tạo nguy cơ để Nhật rượt đuổi theo vào Vân Nam và Quảng Tây, gây ra những vấn đề khó khăn về chính trị và tiếp tế hậu cần.
Quan hệ Pháp - Hoa c̣n bị những sự chống đối nhau trong cấp cao nhất của Quốc dân đảng Trung Quốc làm cho nghiêm trọng thêm. Nhiều người Trung Quốc quyền thế đă va chạm vào quyền lợi với các nhân viên trong bộ máy cai trị của Decoux suốt trong những năm chiến tranh, họ cũng xung khắc với sự hoạt động của các phần tử theo De Gaulle ở Trung Quốc và Đông Dương. Tỷ dụ như tướng Hà Ứng Khâm đă tỏ ra bực bội v́ quân đội nước ngoài vào đất Trung Quốc và đă xem việc người Pháp rút lui là một điều đă có ảnh hưởng xấu đến mối bang giao giữa ông Hồ và Wedemeyer mà ông ta cho là có cảm t́nh với Pháp. Mặc dù bề ngoài tướng Hà đóng vai tṛ của một nhà bác ái và đă tự ḿnh cấp tất cả “giấy phép và giấy thông hành để cứu trợ cho những người Pháp tị nạn, ḷng tốt của ông chỉ làm chậm lại một quá tŕnh và cung cấp cho cảnh sát, mật vụ có cơ hội để phân hóa và sàng lọc các phần tử xấu”.
Tướng Long Vân ở Vân Nam, tỉnh mà người Pháp đi qua, cũng có nhiều va chạm từ trước với Pháp. Tướng Lư Hán, “cháu” của ông, đặc biệt ghét tướng Alessandri, người được nhiều người Trung Quốc gán cho là phải chịu trách nhiệm như là một trong những cố vấn chủ chốt của Catroux (và sau là Decoux) cho phép quân đội Nhật vào Đông Dương. Trong một thời gian dài, Tai Li đă xung đột với người Pháp ở Trung Quốc và Đông Dương về vấn đề hoạt động bí mật và buôn lậu. Các nhân viên OSS ở biên giới đă báo cáo về một điển h́nh người Trung Quốc chống lại người Pháp. Một đơn vị quân Pháp bị mất tất cả số lính người Việt, khoảng 3.000, bị tan ră hoặc chạy theo Việt Minh và bỏ mặc cho các sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp tự xoay sở lấy. Cuối cùng người Pháp cũng đến được điểm kiểm soát ở biên giới Trung Quốc gần Lào Cai nhưng phải chờ ở ngoài rừng cho đến tận khi được phép cho vào đất Trung Quốc.
Về ngươi Mỹ:
- Một mặt: Trong những tuần lễ đầu tiếp sau cú 9-3, người Pháp đă phê phán mạnh mẽ việc Mỹ đáp ứng lại những yêu cầu giúp đỡ của họ. Họ đă xin tiếp tế đạn dược. Nhưng đạn dược của chúng ta không thích hợp với vũ khí của họ. Họ đă yêu cầu vũ khí th́ vũ khí của chúng ta lại chỉ dể dành riêng cho người Trung Quốc.
Họ đă yêu cầu chi viện đường không và mặc dù điều đó không có trong kế hoạch của Đồng minh ở Trung Quốc. Đội không quân thứ 14 đă tiếp tế nhiều hơn mức phải làm. Họ đă yêu cầu được vận chuyển đến Trùng Khánh bằng máy bay quân sự nhưng người Trung Quốc đă không cho phép.
- Mặt trái lại: Về sau cả thường dân lẫn nhân quân Pháp ít nhiều cũng đă đánh giá được quan điểm tiếp viện của Mỹ, cũng như những khó khăn thực tế của việc giúp đỡ các đồng bào của họ ở Đông Dương. Họ cũng đă thấy chúng ta đă cấp một số lớn chăn, mền, giường, thuốc và quần áo. Họ cũng công nhận không quân của chúng ta phối hợp với AGAS để sơ tán hàng trăm phụ nữ và trẻ em sang Ấn Độ, đă táo bạo cứu vớt những người thường dân Pháp bị rớt lại trong vịnh Hải Pḥng.
Nhưng ở các giới chính quyền vẫn c̣n rơi rớt lại một sự hằn học dân tộc. Thí dụ như khi tổ chức UNRRA(4) giúp đỡ cho khoảng 24.000 dân Pháp tị nạn rải rác tại các trạm tại Vân Nam, tướng Pechkov đă phản đối, cho là một điều sỉ nhục v́ được cứu trợ bởi một cơ quan từ thiện chứ không phải được đối xử như một đồng minh quân sự hào hoa.
Nhân viên Đại sứ quán chúng ta đă bắt buộc phải giải thích cho ông rằng UNRRA là một tổ chức quốc tế do Liên Hợp Quốc đỡ đầu, trong đó Pháp là một nước hội viên, nên nhận sự giúp đỡ qua UNRRA tức là Pháp chỉ tự giúp ḿnh mà thôi.
Tuy vậy, qua những lời kêu ca của Pháp, điều mà người Pháp ở cấp cao cảm nhận thấy bực bội nhất vẫn là việc tướng Wedemeyer kiên quyết đặt ra những hoạt động của Đông Dương và người Pháp ở Trung Quốc, công khai cũng như bí mật, dưới quyền kiểm soát của người Trung Quốc.
Chú thích :

(1) cuộc đảo chính - tiếng Pháp
(2) Trong đó chỉ có 2.100 người Pháp, c̣n lại là người Đông Dương thuộc địa
(3) Trung đoàn bộ binh thuộc địa
(4) Tổ chức cứu trợ Liên Hợp Quốc

 

 

Chương 9
Một chuyến đi đến biên giới Trung Quốc

T̀NH TRẠNG LỘN XỘN
Chuyến đi ṿng mở đầu của tôi ở miền nam Trung Quốc bắt đầu ở Szemao, ở sân bay bận rộn của ḿnh(1), trung uư William A. Pye, người của trạm chúng tôi ở đây, đă đón tôi với nhiều chuyện phiền muộn về chủ trương phá rối của Trung Quốc, về những lời phàn nàn của người Pháp và về một cuộc tấn công “trước mắt” của Nhật Bản. Anh ta hoàn toàn thất vọng v́ không thấy tiến bộ trong việc xây dựng một mạng lưới t́nh báo và gán vấn đề này cho thái độ không cộng tác của người Trung Quốc dưới sự lănh đạo của Tai Li và cho sự thờ ơ của những người lánh nạn Pháp, họ đang cần giữ một khoảng cách giữa họ với người Nhật ở biên giói Đông Dương, cách đó chừng 40 dặm về phía nam.
Chúng tôi lái xe đến trạm OSS, ở đó một người Pháp là thiếu tá De Monpezat(2) đang đợi chúng tôi. Ông ta mô tả t́nh h́nh ở Szemao như là một sự hỗn loạn cực độ. Những đội quân “Annamite” bỏ ngũ hàng đoàn. Người Trung Quốc không hề có một sự cố gắng nào để quan tâm đến điều đó hay để di tản những người Pháp lánh nạn sang Ấn Độ; nhiều người trong số đó thiếu ăn, rách rưới, mắc bệnh kiết lị, sốt rét và bị kiệt sức và hết sức cần đến một sự chăm sóc y tế. Dân lánh nạn đă đạt tới “con số vô cùng lớn là 3.500 người hay hơn nữa”. De Monpezat muốn biết xem chúng tôi có thể làm được ǵ về vấn đề này. Điều duy nhất mà tôi có thể làm được là xem xét qua và báo cho Trùng Khánh biết, nhưng tôi đă gợi ư cho ông ta cùng với Pye chuẩn bị một bản báo cáo dễ hiểu nêu lên những nhu cầu và nói chi tiết về số người lánh nạn và các loại yêu cầu nổi bật. Thiếu tá có vẻ hài ḷng.
Viên quan ṭa nhăn nheo ở Szemao, Chao Cha Fung, cũng chờ đợi dể gặp tôi. Ông ta biết tin 400 người Pháp lánh nạn khác và nhân viên quân sự sẽ đến trong 4 ngày tới và bày tỏ nỗi lo sợ của ông ta là họ có vũ khí. Ông ta yêu cầu tôi khuyên các nhà chức trách Pháp thu vũ khí của những người lánh nạn ấy trước khi họ tới và đặt họ dưới sự bảo vệ của giới quân sự Trung Quốc. Tôi đă báo tin cho ông ta rằng đó là vấn đề của Pháp và Trung Quốc, không có liên quan ǵ tới người Mỹ. Tuy nhiên tôi nói thêm rằng theo tôi hiểu th́ giới quân sự Pháp không bị giải giáp và đă được người Trung Quốc đưa đến những khu vực tập trung để chờ đợi quyết định của Trùng Khánh. Viên quan toà rơ ràng không thích thú với tin tức ấy và đoán trước về t́nh trạng rắc rối giữa giới quân sự Pháp và Trung Quốc nếu vấn đề không được giải quyết. Ông ta phàn nàn rằng người Pháp kéo đến đông đảo sẽ gây những thiếu thốn về nhà ở và lương thực, t́nh h́nh đă trầm trọng hơn v́ ngôn ngữ bất đồng. Lính tráng đe doạ những người buôn bán địa phương v́ khó mua hàng hóa hơn và giá hàng lên cao. Đối với tất cả những vấn đề ấy, tôi gợi ư ông ta nên hỏi ư kiến Trùng Khánh. Ông ta cảm ơn tôi v́ sự “thông cảm” của tôi và rút lui.
Những vấn đề ở trạm OSS thật hỗn độn. Nhiều sĩ quan OSS đă đến biên giới một tháng, nhưng không ai biết chính xác ḿnh đến đâu. Những yêu cầu cấp bách của các tiền đồn OSS khác nhau đă bị chất đống ở Szemao mà không được giải quyết. Tôi yêu cầu Pye đưa công việc vào trật tự đến mức cao nhất và điện cho Helliwell phái thêm một người nào đó đến để giúp thêm cho Pye để cho anh ta có thể về Côn Minh báo cáo về t́nh h́nh người Pháp và về công việc của trạm.
Sáng hôm sau, tôi lên máy bay đến Tŕnh Tây (Ching Hsi) cách đó 300 dặm. Dọc đường chúng tôi dừng lại ở tiền đồn của chúng tôi tại Mương Sinh, một làng thuộc vùng núi Đông Dương, cách Szemao chừng 125 dặm. Chúng tôi dừng xuống đường băng một lát để xác định nó là một sân bay và đă gặp trung uư Charles D. Ambelang. Ba tuần nay, anh ta đă di chuyển từ đỉnh đồi này sang đỉnh đồi khác theo một con đường ṃn đầy bụi, đặt các trạm nghe và sẵn sàng tháo gỡ ngay khi thấy quân Nhật di động. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Người Pháp không ở lại và người Việt Nam ở địa phương không thể được huấn luyện nhanh chóng để làm những thao tác vô tuyến điện. Tôi yêu cầu ông ta rời bỏ khu vực này, đến móc nối với nhóm của tướng Sabattier ở Phong Saly, và sau đó cùng với họ về Szemao, ở đó tôi sẽ gặp anh ta.
Chỗ dừng sau đó của tôi là Mông Tự (Meng Tzu), thuộc Trung Quốc, một tiền đồn OSS khác, ở đó công việc kém sôi nổi hơn. Đội này đă thành công trong việc thu lượm một khối lượng khá lớn những thông tin về mệnh lệnh chiến đấu của Nhật và một ít tin tức t́nh báo chính trị về những liên hệ Pháp - Nhật ở Hà Nội và Hải Pḥng.
NGÔI NHÀ AGAS

Cuối cùng, một giờ trước lúc hoàng hôn, tôi hạ xuống Tepao, phía bắc Tŕnh Tây, và đi tới ngôi nhà AGAS. Chúng tôi dự một bữa ăn do một sĩ quan Pháp mời, những người đó đang làm việc với GBT và cộng tác với AGAS. Nóng người lên v́ rượu cognac tuyệt vời của Pháp, câu chuyện của chúng tôi t́nh cờ đụng tới chuyện nghề nghiệp, người Pháp phàn nàn về những điều rủi ro của họ và trách móc “các nhà chính trị”. Là một người khách, tôi tránh tranh căi khi một người nào đó nhắc tới những người “Annamites” như những người “không thể tin cậy” được và nói chung đó là một “vấn đề”. Để giữ câu chuyện dừng lại ở đề tài này, tôi nói với họ là tôi đă gặp một thành viên của Liên minh Độc lập Đông Dương, người đó nói tổ chức này không phải là một tổ chức chống Pháp, mà chỉ chống phát xít. Điều đó gây ra một sự tranh căi, tôi ngồi lùi ra và lắng nghe.
Người Mỹ giữ lập trường cho rằng người Việt Nam có thể cực kỳ có ích. Họ biết rơ địa h́nh, họ kín đáo và họ dễ huấn luyện. Họ tuyệt nhiên không phải là những người chống Pháp, bằng chứng là nhiều người Việt Nam phục vụ trung thành trong hàng ngũ quân đội thuộc địa Pháp. Dù sao, khi c̣n cần thiết, họ không có sự lựa chọn nào ngoài việc tuyển mộ người Việt Nam và điều đó có thể làm được.
Các sĩ quan Pháp chỉ thừa nhận đó là những tay chân riêng biệt, được M.5 của Pháp sàng lọc, có lẽ chỉ một số ít được sử dụng dưới sự giám sát của Pháp nhưng phải theo một sự hoạch định thận trọng và được bảo đảm hết sức an toàn. Họ khuyên tôi nên thận trọng hơn với Liên minh và tổ chức theo xu hướng Matxcơva của nó là Việt Minh. Tôi rất chú ư tới một điều người ta nói là “một số người Lê dương Nga trong sư đoàn Alessandri đă bị kết án v́ những hoạt động nổi loạn trong phong trào độc lập của người An Nam trong nấy năm vừa qua”. Ông nói rằng Việt Minh ở Đông Dương cổ động dân chúng bản xứ đă lâu rồi và đám dân chúng rộng lớn th́ theo “chủ nghĩa chủng tộc và thân Nhật”. Nếu họ giành được chỗ đứng ở Đông Dương, th́ điều đó báo hiệu sự kết thúc ảnh hưởng của người da trắng ở Đông Nam Á. Họ nhắc nhở tôi rằng nếu không có gần 80 năm sống dưới sự “nhân từ” của người Pháp th́ người An Nam đă phải quỳ gối xuống trước người Trung Quốc mà không hưởng dược cái lợi của nền văn hoá phương Tây và Pháp.
Không cần phải làm cho các vị khách người Pháp phải nổi giận, tôi đồng ư là nước Pháp chắc chắn đă góp phần vào việc phương Tây hoá Đông Dương, nhưng vấn đề sắp tới là làm thế nào để khôi phục một cách tốt nhất sự tiếp xúc với bên trong và đưa họ tới chỗ chống lại kẻ thù chung của chúng ta là người Nhật. Một người AGAS trở lại ư kiến lúc đầu của ḿnh là có thể sử dụng người Việt Nam và nước Pháp thừa nhận đó là một biện pháp, nhưng vẫn giữ ư kiến là điều đó có thể gặp nguy hiểm. Sau đó câu chuyện chuyển sang những đề tài khác.
Khi các vị khách đi khỏi, đội AGAS hỏi tôi suy nghĩ như thế nào đối với Việt Minh. Tôi chỉ nói rằng SI và AGAS có thể xem xét một hành động chung với Việt Minh và tôi hy vọng sẽ gặp được một người của Việt Minh không để cho người Pháp biết, và cần AGAS giúp t́m cho một người Trung Quốc. Họ đồng ư.
Hôm sau tôi đi sâu vào xem xét nhóm GBT.
Với sự giúp đỡ của đại tá Emblanc và một số sĩ quan khác thuộc phái đoàn quân sự Côn Minh, Gordon đă lập được một vài đường vô tuyến điện ở biên giới Đông Bắc. Ông ta cũng thành công trong việc tổ chức một số “hệ thống liên lạc” giữa Hải Pḥng và Hà Nội, và thỉnh thoảng đă cung cấp được thông tin OSS - Côn Minh và hạm đội Mỹ ở Trung Quốc.
ÔNG WANG YEH LI

Công việc tiếp đó của tôi là đi t́m Wang Yeh Li. Một người cộng tác với AGAS biết nói tiếng Trung Quốc đă giúp tôi t́m ra cho một quán trà tối tăm mà tôi đang cần t́m. Nó nằm trên một đường phố chật hẹp có những cửa hiệu đang mở của buôn bán và đầy những người có cả những đứa trẻ con ở trần mỉm cười chào thân mật “ting hao”. Bà Wang chào đón chúng tôi; chồng bà, như bà nói, đang đi ra đâu đấy một lát. Chúng tôi chờ đợi và gọi nước chè, thấy có một số người Trung Quốc đi vào. Họ không ăn cũng không uống ǵ mà đi thẳng vào cái pḥng gần đó. Một vài người trở ra sớm và đi khỏi đây; nhưng người khác th́ hoặc là những người trong nhà hoặc là đi ra bằng lối khác. Chúng tôi suy xét điều đó và kết luận rằng quán trà này c̣n là một cái ǵ hơn nữa ngoài một nơi uống trà và ăn bánh bao.
Một người Trung Quốc khá trẻ bước vào, đi thẳng tới bàn chúng tôi và không ngần ngại tự giới thiệu bằng tiếng Anh. Ông ta nói tên của ông ta là Wang và ông ta đang đợi gặp tôi. Tôi giới thiệu người bạn của tôi là trung uư “Karl” (nhân viên AGAS hiếm khi để lộ tên thật của họ). Wang không có cung cách xă giao phương Đông thường thấy và bằng tiếng Anh Hongkong của ḿnh, ông ta hỏi có tính chất thăm ḍ về những cảm tưởng của tôi đối với Trung Quốc và về việc Quốc dân đảng sẽ ra sao khi Mỹ có một Tổng thống mới. Ông ta không tin chắc rằng nước Nhật sẽ bị đánh bại trong mấy năm tới, có thể là chưa phải năm 1947 hay 1948, và lúc đó chắc là nước Nga sẽ tham chiến. Ông ta cho rằng tôi cùng với tướng Chennnault đang tiến hành một công việc t́nh báo nào đó. Ông ta như muốn đánh giá tôi, muốn biết những xu hướng chính trị của tôi và muốn biết xem mục đích của việc tôi đến thăm là ǵ. Chậm răi, tôi giúp ông ta nắm được những thông tin mà tôi thấy rằng cần để ông ta nắm được. Vâng, tôi làm t́nh báo với OSS. Dưới quyền của Wedemeyer, chứ không phải của Chennault. Không, tôi không quan tâm đến chính trị Trung Quốc mà chỉ quan tâm đến hoạt động của Nhật ở Đông Nam Á. Tôi cần tổ chức một mạng lưới những người hoạt động bí mật ở Đông Dương, tốt hơn cả là với sự giúp đơ của người Việt Nam. Cuối cùng, Wang nhận xét rằng chỉ có người Trung Quốc và người Việt Nam mới có thể thành công trong một công việc như vậy và có thể ông ta sẽ nói đúng cái người có thể giúp cho chúng ta. Liệu tôi có muốn gặp người đó không? Có, tôi trả lời, nhưng đó là người nào? Ông ta chỉ nói đó là “một người An Nam có ảnh hưởng và khoáng đạt”. Sau mọi chuyện tôi cảm thấy dường như ông ta nói đến ông Hồ, nhưng không một ai trong chúng tôi nhắc tới cái tên đó, và theo một ư nghĩa nào đó, đó là cách kiểm tra sự bí mật. Tôi muốn tin vào Wang và Wang sẽ có thể giới thiệu cho tôi đúng con người ấy. Tôi muốn liều một chuyến và đồng ư sẽ đến gặp Wang về mục đích này chiều hôm sau. Tôi sẽ tới một ḿnh.
“Karl” không tin đến như vậy. Trở về chiếc xe của chúng tôi, anh ta bày tỏ vẻ khó chịu của ḿnh. Tay chân của Tai Li ở khắp nơi và không ai chắc được về người Trung Quốc như ông ta. Tôi chợt nghĩ phải chăng ông ta đă biết ít nhiều về Wang? Tôi nói cho “Karl” biết ai bố trí cho tôi gặp Wang và tại sao, anh ta cảm thấy yên tâm nhưng vẫn thuyết phục tôi rằng có thể Wang là một người Cộng sản Trung Quốc, phải hết sức thận trọng, và đó là người có thể tin được. Tuy vậy anh ta nói là sẽ xem xét kỹ hơn nhóm của Wang.
Chiều tối hôm ấy tôi nhận được bức điện vô tuyến của Helliwell cho tôi biết đang xảy ra một chuyện cấp bách. G-2(3) hỏi về những hoạt động OSS ở Hà Nội và Sài G̣n. Bộ chỉ huy muốn biết tin tức về những đơn vị chiến đấu Nhật mới tới và xác nhận những sân bay và những căn cứ quân sự mới theo cách nh́n từ trên không. Bộ chỉ huy cũng đ̣i hỏi phải tiến hành cấp tốc một chiến dịch tuyên truyền chống lại quân đội Nhật thuộc sư đoàn 37 để làm giảm tinh thần và gây đào ngũ. Bộ chỉ huy muốn biết mọi điều và tất nhiên là họ có quyền làm như vậy. Rơ ràng là chúng tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bất cứ ai - người Trung Quốc, người Việt Nam hay người Pháp - để bắt đầu tiến hành hoạt động.
Để cho chắc chắ, tôi t́m quán trà nằm giữa những con đường hẻm rối rắm kia, và chúng tôi lại đến đó một lần nữa vào buổi chiều ngày hôm sau lúc c̣n sớm. “Karl” nói cho tôi biết rằng Wang đúng là một người Cộng sản Trung Quốc đă hoạt động tích cực trong Đồng minh Hội, tổ chức của những người lưu vong ở Liễu Châu và Quế Lâm. Tối hôm trước Wang bị nghi ngờ là có hướng chống Quốc dân đảng v́ sự liên hệ mật thiết của ông ta với Việt Minh, nên ông ta đă bị Đồng minh Hội khai trừ và hiện nay ông đang chờ cơ hội để lên phía bắc với nhóm của Mao ở Diên An.

MỘT QUÁN TRÀ TRONG LÀNG

Mặt trời đă lặn khi tôi và Wang đi vào một cái làng nhỏ gọi là Chiu Chow Chich. Phải mất 45 phút để đi xe qua 6 dặm từ Tŕnh Tây, trên một con đường hẹp (và chỉ có con đường đó). Cuối ngày, tất cả đều đi ngược lại chúng tôi - người, gia súc và xe ḅ - khiến chúng tôi phải dừng lại không biết bao nhiêu lần v́ bị trâu ḅ và xe chở lặc lè ngăn cản. Làng này chỉ là một cụm nhỏ 15 hay 20 ngôi nhà nhỏ bé có tường thấp và vôi gạch đổ nát bao quanh. Wang chỉ một ngôi nhà thấp nằm ở giữa.
Khi chúng tôi vừa đỗ xe gần đó, hai người ra gặp chúng tôi(4). Họ không phải là người Trung Quốc. Wang đi lên trước và nói mấy câu mà tôi tin đó là tiếng Trung Quốc. Người lớn tuổi hơn trong hai người đó là một người mảnh khảnh, thâm thấp, 50 hay 60 tuổi ǵ đó; ông ta đến gặp tôi với nụ cười niềm nở và ch́a tay ra. Ông ta nói tiếng Anh rất thành thạo. “ Xin chào! Người bạn tốt của tôi”. Tôi nắm lấy bàn tay gần như mỏng mảnh của ông Hồ và bày tỏ sự vui sướng của tôi v́ gặp được một người có nhiều người bạn Mỹ ở Côn Minh. Sau đó, ông Hồ giới thiệu người Việt Nam khác, ông Lê Tùng Sơn, như là một người cộng tác gần gũi của ḿnh trong Liên minh.
Wang dẫn mọi người vào một căn pḥng sáng lờ mờ, dường như có một cái bệ nhỏ. Ông Sơn vào sau cùng và cài cửa ra vào cũng như cửa sổ thật cẩn thận. Ông Hồ bước tới chiếc bàn duy nhất và mời chúng tôi ngồi. Vừa rót nước chè cho chúng tôi, ông Hồ vừa giải thích rằng ông Sơn không nói được tiếng Anh và tiếng Pháp, nhưng hiểu được tiếng Pháp đôi chút. Ông Hồ nói ḿnh thích dùng tiếng Anh v́ cần phải luyện tập.
Wang đi thẳng vào vấn để. Chi nhánh Côn Minh của Việt Minh hy vọng cộng tác với Đồng minh và chúng ta đến đây để thu xếp công việc. Không do dự, ông Hồ đáp lại rằng có thể cộng tác được, rằng ông Phạm Viết Tự đă tiếp xúc với Lănh sự quán Mỹ từ tháng 8 trước và ông Langdon đă có thái độ tốt đối với người Việt Nam (đó là một lời cường điệu về lập trường của Tổng lănh sự, như tôi đă biết). Thật ra, ông Hồ nói tiếp, AGAS và Việt Minh đang tổ chức một hoạt động bí mật ở trong nước để giúp những phi công bị rơi, nhưng ông coi điều đó có một ư nghĩa khác.
Ông Hồ nói ông cần nói trước hết tới những người bạn thân của chúng tôi. Ông rất muốn biết làm thế nào tôi biết đến Việt Minh và hơn nữa, tới ông. Tôi nói thẳng thắn nhưng chỉ nêu bật lên những điểm chính rằng, ở Washington tôi đă nghe nói ông bị Quốc dân đảng “bắt giam”, rằng ông làm việc trong Đồng minh Hội, rằng ông cộng tác với Đồng minh để cứu những phi công bị rơi, và tất nhiên nói đến cả cuộc chuyện tṛ của tôi với Phương. Tôi thấy ông Hồ rất quan tâm đến những điều tôi để lộ ra, và trong một thoáng, thấy ở ông một ánh mắt ngạc nhiên và hài ḷng khi biết rằng cái tên Hồ Chí Minh không phải không được giới chính thức ở Washington biết tới, nhưng ông trở lại b́nh thường rất nhanh. Ông hỏi tôi có biết thiếu tá Glass không; tôi nói với ông, Glass đă gợi ư cho tôi đi t́m một người “An Nam thân thiết” ở Bắc Kỳ và tôi ngạc nhiên thấy rơ ông có thể là người đó.
Con người mảnh khảnh, nhỏ bé và kỳ lạ ấy cười rộng miệng và dành mấy phút để ca ngợi Austin Glass, “người Mỹ Việt Nam”. Ông Hồ nhắc lại với một cảm t́nh rơ ràng là thật sự rằng người Việt Nam ở Hải Phong đă quư trọng Glass như thế nào, ông ta đă lấy một phụ nữ Việt Nam và đă sống ở Đông Dương hơn 30 năm. Theo ông Hồ, Glass biết tiếng Việt rất thạo, hiểu những vấn đ xă hội, kinh tế và chính trị của Việt Nam vớ một thái độ thân thiết và có thiện cảm. Ông nhắc lại trong khi người Nhật chiếm Bắc Kỳ năm 1940, Glass là một trong những người phương Tây đầu tiên bị Kempeitai(5) giám sát một cách khó chịu, không phải v́ ông ta thân Pháp mà v́ ông ta tán thành mạnh mẽ tinh thần độc lập và chống phát xít của người Việt Nam. Ông Hồ nhắc lại một cách sinh động những lời kể của nhiều người bạn Việt Nam của Glass ở Hải Pḥng đă từng lên tiếng chào Glass khi ông ta rời khỏi Hải Pḥng trong một cuộc trao đổi nhũng người dân sự Mỹ - Nhật. V́ chưa bao giờ gặp Glass cả, ông Hồ đă kể lại ở cương vị một người thứ ba.
Ông Hồ hút thuốc lá liên tục, ông hút thứ thuốc lá địa phương rất mạnh và hăng. Khi ông cuốn thứ thuốc lá ấy và hỏi ḿnh cuốn đă khá hơn chưa, tôi bèn mời ông một điếu Chesterfield. Mắt ông ánh lên thích thú khi ông đưa những ngón tay nhỏ nhắn và dài ra cầm lấy một điếu và nói thêm với một vẻ tự bào chữa rằng hút thuốc là một tật xấu khá nặng của ông. Về sau tôi thấy điều đó là sự thật. Khi sức khoẻ ông gặp gay go trong những ngày căng thẳng tháng 8 và tháng 9, ông rất thích hút thuốc Chesterfield của tôi. Ngay cả khi ông ho rung cả người lên, ông cũng hút. Dường như đó là một niềm vui thích của ông và tôi chưa bao giờ thấy thích thú nhưu khi thấy ông ưa những điếu thuốc lá của tôi.
Nhưng để trở lại với câu chuyện của chúng tôi, tôi cảm thấy một vài sự dè dặt của ông Hồ đối với tôi đă được xua tan, nhưng ông là một nhà cách mạng lăo thành, một bậc thầy về những âm mưu và bí mật, nên ông vẫn tiếp tục đi sâu vào câu chuyện với một vẻ thăm ḍ dễ mến và tế nhị. Tôi hiểu ông muốn biết những động cơ của tôi và cố khám phá thái độ của tôi đối với nhân dân Việt Nam và nói riêng để xem tôi là người đại biểu cho những quyền lợi thực dân hay đại biểu cho thái độ chống thực dân của Roosevelt. Tôi cần phải giành lấy sự tin cậy của ông và sẵn sàng tham gia cuộc đấu trí biện chứng của ông.
Ông Hồ cũng mô tả khá dài về đời sống khó khăn mà người Việt Nam phải chịu trong mùa đông trước ở Bắc Việt Nam. Vụ lúa tháng 10 bị băo tàn phá, đê bị vỡ, nước lụt tràn ngập. Những thiếu thốn về thuốc men, lương thực, áo quần và vận tải hồi mùa đông lại cộng thêm với việc không có những biện pháp đặc biệt nên đă đưa đến kết quả cuối cùng là nạn đói kinh khủng nhất trong toàn bộ lịch sử dân tộc đă xảy ra.
Những thiếu hụt về lương thực, cộng thêm nạn đầu cơ tích trữ tha hồ về thóc gạo, đă trở nên hết sức gay go hồi tháng Giêng khi sức khoẻ của người Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ xấu đi nhanh chóng. Nhiều người ốm đau hay quá yếu nên không thể làm việc được. Gia súc chết trên nhũng cánh đồng v́ không được chăm sóc và thiếu ăn. Hệ thống đê điều phức tạp do người Pháp phát triển và duy tŕ đă bắt đầu rơi vào t́nh trạng không được sửa sang trong suốt mùa đông v́ ngân sách công ích bị cắt đi. Nhân viên người Pháp ngừng làm việc và những người Việt Nam không được huấn luyện không thể thay thế họ. Những đường sá lớn ở đồng ruộng cuối cùng bị ngập lụt.
Khi tôi hỏi chính quyền Pháp đă làm ǵ dể giảm bớt t́nh h́nh ấy, ông Hồ xua rộng hai tay và thở dài. “Những ǵ họ làm bao giờ cũng là theo đuổi quyền lợi riêng của họ”. Ông coi chế độ Decoux là chế dộ của những quyền lợi tham lam, bám lấy những quyền lợi bất di bất dịch và hờ hững với cảnh ngộ của dân chúng Việt Nam. Đáng lẽ phải vạch ra một kế hoạch phân phát những kho lương thực lớn ở phía nam, Chính phủ Decoux lại áp đặt những h́nh phạt nặng nề, kể cả cái chết, cho những người đang cố sống sót.
Việt Minh đă nắm lấy vai tṛ lănh đạo trong cuộc khủng hoảng ấy. Các đơn vị du kích Việt Minh đă đánh vào những kho tàng ở nông thôn Trung Kỳ và Bắc Kỳ(6), chiếm lấy lương thực, đặc biệt là thóc gạo, để phân phát cho những người đang thiếu. Nhiều người đă được cứu giúp, những nạn đói vẫn tăng lên. Chỉ trong mấy tháng, từ 1,5 đến 2 triệu người Việt Nam đă chết đói. Không một người Pháp hay người Nhật nào bị chết đói cả, chỉ có người Việt Nam mà thôi. Các thành phố của người Pháp vẫn sống sót; chỉ có những làng xóm đầy rẫy những xác chết trên các ngả đường, các kênh mương, các cánh đồng, c̣n những người sống th́ rất yếu và hốc hác, vẫn cứ phải đi nhặt nhạnh và chôn cất người chết. Nhiều làng mất từ một phần ba tới một nửa số dân.
Ông Hồ mô tả tai họa của dân ḿnh bằng một giọng đầy xúc động và khi gần kết thúc, trông ông buồn rầu và mệt mỏi. Ông Hồ hứa sẽ gửi cho tôi một “tập ảnh bằng chứng” và một sự tường thuật chi tiết nhan đề “Sách trắng”, do một vài người của ông soạn ra. Tôi nói với ông là tôi muốn có một bản sao và tin chắc rằ nó sẽ được Bộ chỉ huy của tôi quan tâm đặc biệt.
Ông Hồ bày tỏ ư kiến là mọi việc sẽ khác đi sau chiến tranh. “Chúng tôi đang chuẩn bị cho một Chính phủ dân chủ độc lập, do người Việt Nam điều hành v́ người Việt Nam”. Với một vẻ trầm ngâm, ông Hồ thừa nhận rằng đó là một nhiệm vụ to lớn. Người Pháp chắc chắn sẽ chống lại một hoạt động như vậy. Người Trung Quốc có những lư do của họ để ủng hộ người Pháp, nhưng cũng có thể đứng về phía người Việt Nam. C̣n người Anh th́ chắc chắn không để cho cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á bị sụp đổ; và sẽ là một vấn đề nghiêm trọng nếu họ giúp sức cho người Pháp.
Mặc dù tôi đă tỏ ra khách quan và thận trọng một cách cố ư, không để ḿnh dính líu vào những khía cạnh chính trị của vấn đề Đông Dương, nhưng sự chân thành, thái độ thực dụng và sự hùng biện của ông Hồ đă gây cho tôi một ấn tượng khó phai mờ được. Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to những đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước ḿnh, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin cậy ông như một bạn Đồng minh chống Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương.
Đă gần nửa đêm, Wang nhắc tôi trở về Tŕnh Tây, nhưng ông Hồ khẩn khoản mời chúng tôi ở lại để tiếp tục câu chuyện, ông nói thêm- nếu như tôi không cảm thấy mệt hay phải trở về ngay. Chúng tôi ở lại.
Tôi hỏi về những nơi đóng của Bộ chỉ huy Việt Minh và những chi tiết về bộ máy của nó. Wang cắt ngay, theo kiểu Trung Quốc, và ra lệnh cho ông Hồ phải thận trọng. Nhưng ông Hồ giơ tay lên tỏ ư không tán thành những chỉ thị của Wang và trả lời những câu hỏi của tôi.
Bộ chỉ huy đóng ở một số hang tự nhiên phía ngoài gần Cao Bằng. Việt Minh không phải là một đơn vị đặc biệt có thể di chuyển đây đó, mà là một bộ phận rất rộng của người Việt Nam. Nó có mặt khắp nơi, trong công nhân công nghiệp và trong nông dân ở nông thôn. Những đơn vị công nhân và nông dân được tổ chúc thành những nhóm cơ động nhỏ dưới sự chỉ huy của một cán bộ được huấn luyện; mỗi đơn vị có thể hoạt động độc lập hay tập thể tuỳ theo nhu cầu. Chẳng hạn, nếu cần có tin tức về quân Nhật đóng ở Biên Hoà (gần Sài G̣n), th́ các đơn vị ở khu vực này sẽ được yêu cầu cung cấp tin tức, tin tức này sẽ được chuyển qua Đà Nẵng (Tourane) và cuối cùng đến Cao Bằng. Phải nhận rằng đó là quá tŕnh chậm chạp và những tin tức đến Côn Minh th́ đă cũ rồi. Cũng thế, nếu có lệnh tấn công theo lối biệt kích một đơn vị Nhật ở Sơn Tây (tây bắc Hà Nội), th́ tổ chức bán quân sự của Việt Minh ở vùng có thể thực hiện cuộc hành quân ấy.
Ông Hồ cho rằng đó là vấn đề thời gian và khoảng cách. Người của ông được trang bị nghèo nàn, gồm đủ thứ súng ống của Pháp, Bỉ, Anh và Nhật, với ít đạn dược, không có xe cộ và chỉ có rất ít máy vô tuyến điện. Họ bị phụ thuộc vào những vũ khí lấy được, đó là điều chủ yếu nhưng lại đ̣i hỏi một sự huấn luyện đặc biệt và những người huấn luyện. Nếu thu xếp được với Đồng minh để có những thiết bị liên lạc và một số hạn chế những vũ khí nhỏ để trang bị cho một số đơn vị nhỏ, và sử dụng được những huấn luyện viên Mỹ th́ t́nh h́nh sẽ thay đổi hẳn đi.
Trong sự tŕnh bày rất ngắn ấy, ông Hồ nói với tôi những ǵ ông có thể làm đuợc với những ǵ ông có và những ǵ ông đang cần có thêm. Bằng những lời lẽ thận trọng, ông nhắc đi nhắc lại đề nghị hấp dẫn của ḿnh mà ông cảm thấy chắc chắn sẽ được chúng ta chú ư một cách nghiêm túc. Với sự khôn khéo của ḿnh, ông không yêu cầu ǵ cả; ông chỉ tŕnh bày cho tôi nghe giá trị tiềm tàng của tổ chức quân sự - chính trị của ḿnh. Và ông muốn đợi thời cơ nên không yêu cầu một lời hứa nào cả.
Tuy nhiên khi chúng tôi đi vào những chi tiết ấy, tôi thấy ḿnh bắt buộc phải nói rằng tôi không chuẩn bị để cam kết một điều ǵ. “Ông già” kín đáo, giả vờ ngạc nhiên trước nỗi lo lắng của tôi, mỉm cười một cách ranh mănh và nói rằng ông không yêu cầu ǵ hết, ông chỉ trả lời những câu hỏi của tôi về Việt Minh mà thôi. Ông nói là ông hoàn toàn thông cảm, không sao hết. Ông sẵn sàng đi với người Mỹ khi nào người Mỹ thấy sẵn sàng. Tất cả nhũng ǵ tôi phải làm là làm thế nào để cho người của ông ở Côn Minh biết đang cần những ǵ và ông mong muốn những thứ đó sẽ được cung cấp.
Đă quá khuya khi Wang và tôi trở về, nhưng đường về vắng vẻ nên đi rất nhanh. Khi đi đường, Wang nói với tôi những lời bông đùa, nhưng tôi có cảm giác ông vẫn c̣n nh́n tôi với thái độ nghi ngại.
Về tới chỗ trú, tôi thấy rơ sự tương phản giữa cuộc gặp gỡ ấy và cung cách tiến hành những cuộc họp như vậy trong chiến tranh ở châu Âu và châu Phi. Ở đó, những đại diện bí mật thường đưa ra những lời xác nhận to lớn về những ǵ họ có thể thực hiện (thường là thổi phồng), chỉ cần họ được cung cấp vũ khí và tiền (những khoản tiền lớn). Ông Hồ thậm chí không nhắc ǵ đến chuyện tiền cả. Và ông đă thẳng thắn cho biết là người của ông đă lấy được vũ khí. Ở Nam Tư, các sĩ quan OSS biết rằng những người hoạt động bí mật đă chôn đi nhiều vũ khí lấy được của Đức và kêu ca thiếu vũ khí. Đó là một phương châm để khi kết thúc chiến tranh, họ muốn giải quyết những sự tranh chấp nội bộ của họ vơớ những kho vũ khí càng nhiều càng tốt. Về chuyện này, những điều như vậy cũng xảy ra ở Trung Quốc, khiến cho những viên chỉ huy Mỹ rối trí lên. C̣n ông Hồ th́ lại cho biết những vũ khí của ḿnh như hiện có và không yêu cầu ǵ về tiền nong cả. OSS thường quen trả tiền cho t́nh báo. Kết luận của tôi là cuộc gặp gỡ đêm nay sẽ mang lại nhiều điều tốt lành.

QUÂN ĐỘI CỦA SABATTIER

Sáng hôm sau, tôi đáp máy bay đi Poseh, cách Tŕnh Tây về phía bắc chừng 30 phút bay. Một người tiền trạm của chúng tôi đang làm việc với những nhân viên của GBT và của Hạm đội Mỹ và làm việc tốt. Poseh là một điểm tập trung khác của những lực lượng Pháp vừa rút lui nhưng v́ không cần nấn ná ǵ ở đây nên tôi lại bay trở về Szemao vào ngay chiều hôm ấy.
Khi tôi xuống khỏi máy bay, tôi được biết một trong hai đội SO của chúng tôi được gửi tới cho các lực lượng của tướng Sabattier ở Đông Dương đă bị một đơn vị tiền duyên Nhật phục kích, do lỗi của t́nh báo Pháp. Dưới lửa đạn nặng nề của người Nhật ở Don Chai (gần Mong Ou Tay), đội của thiếu tá Summers giữ được vị trí của họ nhưng những máy vô tuyến điện, mật mă và những thiết bị đặc biệt đă bị phá huỷ và sau đó đă chạy về phía bắc. Helliwell và Davis yêu cầu tôi theo dơi họ. Tôi t́m thấy họ ngày 2-5, sau nhiều lần bắn pháo sáng trên các đường núi và rừng rậm. Họ đă ở biên giới Cheng Tung (hay Keng Tung) bên phía Trung Quốc và c̣n nguyên vẹn sau những thử thách ngặt nghèo khi lang thang xuyên rừng rậm. Tôi đă thu xếp cho họ chuyển tới Côn Minh.
Tướng Sabattier, đang trên đường đến Szemao, đă phái De Monpezat tới trước báo cho tôi biết ông ta cần thảo luận với tôi về cuộc kháng chiến của người Pháp. Tôi báo cho Helliwell và được chỉ thị là “không cam kết ǵ cho đến lúc nào việc giải quyết mối quan hệ của Pháp với chiến trường được sáng tỏ”. Tuy nhiên, nếu các kế hoạch xem ra là tốt, Helliwell nói, th́ ông ta sẽ “thúc giục để có hành động ngay 1ập tức”.
Chúng tôi gặp nhau ngày 2-5 ở Szemao, và tướng Sabattier bày tỏ ḷng biết ơn về việc ủng hộ mà người Pháp đă nhận đuợc của OSS và của Đội không quân thứ 14 trong “giờ phút bi thảm” của họ và tỏ ư hy vọng người Mỹ tiếp tục sự giúp đỡ “hào hiệp và có thiện cảm” ấy. Ông ta cho tôi biết để khỏi bị hiểu sai rằng ông ta là “chỉ huy tối cao của tất cả các lực lượng Pháp ở Viễn Đông” và ông ta hành động theo những chỉ thị trực tiếp của chính phủ lâm thời Pháp. Ông ta định đóng sở chỉ huy của ḿnh ở Côn Minh, ở đó ông ta sẽ chỉ huy tất cả những hoạt động sau này của Pháp “trong sự hợp tác” với Đồng minh. Kế hoạch của ông ta là cải tổ những lực lượng của ông ta ở Trung Quốc dưới sự chỉ huy của tướng Alessandri và đại tá Seguin(7) và đặt họ dưới quyền điều khiển của tướng Wedemeyer.
Về những hoạt động bí mật, ông ta c̣n nắm trong tay vài trăm sĩ quan và binh lính đă được huấn luyện đặc biệt; những người này muốn và sẵn sàng trở lại Đông Dương và thiết lập lại những mối liên lạc với những nhân viên Pháp đă rời khỏi đó. Tôi hỏi những nhân viên ấy có phải là một bộ phận của mạng lưới của tướng Mordant không, và viên tướng này bày tỏ ngạc nhiên v́ tôi biết tổ chức bí mật của họ. Phần nào bối rối, ông ta nói rằng đúng như thế và nói thêm rằng ông ta c̣n có một mạng lưới riêng trong người Mán(8) , những người này “tuyệt đối trung thành” với ông ta. Sau đó chúng tôi thảo luận về những chi tiết trong kế hoạch của ông ta mà ông ta đă phác vẽ lên trên nhiều bản đồ và đồng ư tiếp tục những cuộc thảo luận ở Côn Minh. Viên tướng này mong muốn được dựa vào người Mỹ để được ủng hộ về hậu cần và huấn luyện, và muốn việc huấn luyện ấy sẽ được tiến hành ở Szemao để khỏi lộ những cán bộ Pháp - An Nam cho người Trung Quốc biết.
Thời tiết ở Szemao đă thay đổi. Mây đen phủ kín bầu trời và những trận mưa liên tiếp đổ xuống làm cho việc bay không thể thực hiện được và việc vận chuyển bằng đường bộ trở nên nguy hiểm và chậm chạp. Điều đó làm tăng thêm sự nguy khốn của những người lánh nạn. Ḍng người Pháp vào Trung Quốc ở trong t́nh trạng thê thảm. Mệt mỏi, đói khát, ốm đau, không giày dép, họ đă thiếu kiên nhẫn với bất cứ người chức trách nào. Họ yêu cầu những khu đóng quân thậm chí cũng không thể kiếm được cho quân đội Trung Quốc. Họ cố tịch thu xe cộ và các kho thực phẩm riêng mà không qua các nhà chức trách, kết quả là đă xảy ra những cuộc va chạm gay gắt. Khi họ biết là có người Mỹ đang ở trong khu vực này, th́ cơ quan của chúng ta bị bao vây với những yêu cầu của các sĩ quan trẻ tuổi để chúng tôi “ra lệnh” cho người Trung Quốc giải quyết những yêu cầu của họ. Chúng tôi giải thích rằng chúng tôi không có quyền hành ǵ cả, và đại sứ Pháp có thể cung cấp cho họ. Họ cho rằng đó là một sự trả ḷi rất không thoả măn.
Tôi xúc động sâu sắc trước t́nh cảnh khốn khổ của một đội quân phương Tây bại trận, bị người Nhật sỉ nhục và đang rời rạc đi vào cửa Trung Quốc để được bảo vệ và lánh nạn. Tôi đă từng trông thấy những đám lớn người Đức và Ư, tù binh chiến tranh cũng như dân sựu, rút về phía sau những chiến tuyến của chúng ta ở châu Phi và châu Âu; nhưng đó là những người phương Tây ở thế giới phương Tây. C̣n ở châu Á, t́nh h́nh lại mang những kích thước khác, không diễn tả được nhưng lại là có thật. Những sự khác nhau về chủng tộc và văn hoá hàng chục năm nay bị che đậy dưới những sự tế nhị ngoại giao và xă hội bỗng nhiên nổi rơ bề mặt. Người Pháp, tượng trưng cho văn hoá và sức mạnh quân sự châu Âu ở châu Á đă bị đập tan bởi một cường quốc phương Đông và đang chịu sự ơn huệ đầy khó chịu của một dân chúng phương Đông khác. Bề ngoài người Trung Quốc tỏ ra có thiện cảm, muốn giúp đỡ và nhân từ; ở phía trong họ lại theo đ̣i một thói quen đáng kinh tởm là chần chừ một cách lễ độ, rạch ṛi về chính trị và tôn trọng chặt chẽ những tập quán địa phương có thật hay tưởng tượng cũng như những hiệp nghị quốc tế. Đây là tinh thần “ngược đời của người châu Á, mà chúng ta phải gánh chịu”.
Về phía người Pháp, cũng có những vấn đề có liên quan với chủng tộc: những khó khăn về ngôn ngữ, những nhu cầu cá nhân và t́nh trạng mất mặt, tất cả đều góp phần tăng thêm nỗi thất vọng của người Pháp, thể hiện ra ở những yêu cần không hợp lư và tâm trạng kiêu ngạo quá mức của họ đối với tất cả nhũng người châu Á. Kết quả là những cuộc va chạm thường xuyên với những ngụ ư chủng tộc âm ỉ.

MỘT CHÂN DUNG THỰC DÂN

Trong 8 ngày từ khi tôi đặt chân lần đầu đến Szemao, nơi đây trở thành trại tập trung người Pháp. Tôi có một cơ hội tốt để thu lượm tin tức từ những người lánh nạn và tuyển mộ người Pháp cho những hoạt động bí mật, do đó tôi yêu cầu Helliwell cử đến một sĩ quan nói tiếng Pháp giỏi với một bộ phận giúp việc. Ông ta gửi trung uư John P. Spaulding và một số nhân viên mới tuyển, và tôi quyết định lưu lại ở đó một thời gian nữa. Suốt trong 10 ngày, tôi phỏng vấn có lẽ tới hơn một chục sĩ quan và gấp đôi số ngưuời ấy gồm có hạ sĩ quan và những nhân viên cấp thấp hơn, cả người Pháp lẫn người Việt Nam, cộng với những viên chức dân sự và những nhà kinh doanh. Nhưng cuộc nói chuyện ấy cho thấy một bức tranh không có ǵ hấp dẫn của thái độ hững hờ, tinh thần trả thù và quyền lợi ích kỷ.
Những thái độ của những người lánh nạn về căn bản phản ánh chính sách quốc gia của Pháp cũng như những kinh nghiệm của họ về tổ chức dân sự hay quân sự dưới chính phủ Decoux từ năm 1940. Họ cảm thấy cảnh ngộ hiện nay của họ sẽ sớm kết thúc và họ trở về Đông Dương để lấy lại những ǵ mà họ đă để lại. Sẽ không có ǵ thay đổi.
Tôi cảm thấy hầu hết những người lánh nạn đă sống những năm tháng của ḿnh ở Đông Dương mà không hề rời khỏi môi trường Pháp của ḿnh. Sự hiểu biết của họ về dân bản xứ, về những đặc trưng dân tộc và những nguyện vọng chính trị giống như sự hiểu biết của một người đi qua ngẫu nhiên. Họ coi những nhân viên Việt Nam trong quân đội của họ như “những binh lính và cu-li tầm thường” mặc dù nhiều người Pháp đă nhận được một sự ủng hộ trung thành của những đội quân và những người dân thường “bản xứ” trong những cuộc xung đột với người Nhật. Điều đó được coi là “b́nh thường và là bổn phận của họ”. Đối với những người đó, “cuộc kháng chiến bản xứ” không phải là một phong trào có xung lượng riêng mà là một bằng chứng thành công của chủ nghĩa tự do và của sự lănh đạo của Pháp.
Gần như nhất trí, những người Pháp mà tôi phỏng vấn đều cho rằng người Việt Nam không đủ sức gánh trách nhiệm chính trị. Họ thừa nhận những kẻ theo chủ nghĩa quốc gia đang tồn tại, nhưng “đă tỏ ra hèn kém khi đụng phải Sureté(9) hay Quân đội”. Thái độ của người Pháp tốt lắm cũng chỉ là thái độ cha chú. C̣n thái độ tệ hại nhất thấy có ở một số ít người là thuần tuư khinh miệt, được cô đọng lại trong thái độ của một sĩ quan cho rằng “không có một người An Nam chân thành nào”.
Đối với những Đồng minh phương Tây, tôi thấy có những thái độ rất khác nhau, nhưng số đông nhất có thái độ nghi ngờ những ư định của Đồng minh. Cá nhân tôi đă thấy những thành viên trong Phái đoàn quân sự Pháp ở Szemao tự ḿnh truyền cho những người mới tới sự nghi ngờ ấy, trước khi họ tiếp xúc với bộ phận của tôi. Sự bảo vệ quyền lợi người Pháp chống lại ḷng thèm khát đượcc gán cho người Anh và người Mỹ rơ ràng là cái cớ để biện hộ cho sự hợp tác vừa qua của họ với người Nhật.
Rất ít sĩ quan Pháp tỏ ra thẳng thắn như người cuối cùng đă hỏi tôi “có phải người Mỹ định sẽ sử dụng những con đường sắt Đông Dương sau chiến tranh không?”. Sau khi lẩn tránh những câu hỏi của tôi về vận tải Đông Dương, một số ít người bào chữa cho chủ trương gây trở ngại của giói cầm quyền và tỏ ra sẵn sàng cộng tác về những vấn đề t́nh báo nếu sự cộng tác của họ không bị những nhà chức trách Pháp biết. Một nhà kinh doanh bày tỏ ư muốn được thấy xứ này(10) phát triển lên bằng tư bản và tính năng nổ của nước ngoài nếu những nguồn tư bản của Pháp không thể đáp ứng với nhu cầu. Nhưng ông ta là người duy nhất nói ra điều đó với tôi.
Mặc dù thái độ của người Pháp đối với những Đồng minh phương Tây có vẻ lạ lùng đối với nhiều người Mỹ ở Trung Quốc, nhưng tôi không thấy thế. Trái lại, tôi hiểu đó là sự mở rộng tự nhiên của lập trường chính thức ở Paris, dưới chính quyền mới của De Gaulle. Người phát ngôn của Chính phủ Pháp đă công nhiên khiển trách những sự hoang tưởng nặng nề về chính trị của người Pháp ở Syria và Lebanon trước những hoạt động của người Anh và cũng lên án người Anh mưu toan thay thế người Pháp ở những thuộc địa ở Trung Đông của họ. Các Bộ trưởng Pháp khi tŕnh bày với Hội đồng tư vấn đă lên án Mỹ âm mưu chiếm Nouvelle Calédonie và những căn cứ ở Đông Dương. Sự phê phán của báo chí Mỹ về chính sách thuộc địa của Pháp đă bị Bộ trưởng Ngoại giao Bidault gạt bỏ một cách khinh bỉ với sự nhấn mạnh rằng “nước Pháp không cần phải học ai về những vấn đề này”. Thái độ xấu đối với Mỹ do chính sách chống thực dân của chúng ta có thể hiểu được, nhưng công kích người Anh, bạn Đồng minh mạnh mẽ duy nhất trong việc chống đỡ cho lư tưởng “đế quốc” bị nghiêng ngả, là một thái độ thiển cận và u uất.
Dù sao, tôi vẫn báo cáo cho cơ quan Chiến trường và Đại sứ về việc tôi từ Côn Minh trở về với thái độ nghi ngại và bực bội của Chính phủ Paris và của các nhà chức trách thuộc địa. Cả hai đều nhằm phục vụ mục tiêu của các giới cầm quyền Pháp là khôi phục vị trí của Pháp trước chiến tranh mà không chịu chấp nhận một sự thoả hiệp nào. Họ có thể dùng đến những phương pháp chắc chắn sẽ gây ra sự phê phán và làm suy yếu việc phối hợp nỗ lực chiến tranh của Đồng minh. Sự chống đối của Đồng minh tỏ ra không hiệu lực v́ Đồng minh đă có thái độ thiếu ngay thẳng và một quyết định giải quyết các vấn đề một cách quá nhanh và trọn vẹn bằng việc sử dụng những đội quân của Pháp ngay trước khi các vấn đề được hỏi đến. Như các sự kiện về sau này chứng tỏ, việc giao phó cho các nhà chức trách Pháp thực hiện chính sách đó nôn nóng đă bị hạn chế, và mức độ ủng hộ cần phải có của những người dân trong nước họ cũng đáng ngờ. Nhưng họ lại cần phải đặt nước Pháp và phần c̣n lại của thế giới trước một việc đă rồi - đó là một nhiệm vụ không thể làm được.
Những cuộc thảo luận của tôi trong những ngày ban đầu ấy với tướng Sabattier, tướng Alessandri, đại tá Emblanc và thiếu tá De Monpezat cũng cho thấy một vấn đề ít lộ ra công khai trong nội bộ Đồng minh mà chỉ có một số ít người Pháp hiểu được. Điều đó có liên quan đến nhiều cuộc tiếp xúc công khai và bí mật giữa Trung Quốc và Đông Dương.
Hoa Kiều ở Đông Dương nói chung đối địch với người Nhật. Sự hợp tác công khai của họ với với giới quân sự Nhật hồi đó không được người Pháp coi là không trung thành - đó chỉ là một yêu cầu của chiến tranh, một sự thu xếp thực dụng. Nhưng người Pháp mà tôi đă nói chuyện với họ, cho rằng cộng đồng người Trung Quốc ở Đông Dương sẽ chào đón sự cai trị của người Pháp quay trở lại, không phải v́ lư do nào khác ngoài lư do ổn định kinh tế.
Tuy nhiên các nhà chức trách Pháp lại rất quan tâm đến thái độ của Quốc dân đảng Trung Quốc. Họ lo ngại về những bài phát ra trên báo chí Trung Quốc, đă thông qua sự kiểm duyệt của Trùng Khánh, đang kêu gọi nhập lại Đông Dương vào Trung Quốc, trong khi những tờ báo bán chính thức của Trung Quốc th́ lại khuyến khích các nhóm cách mạng Việt Nam khác nhau. Những người cách mạng đă ủng hộ một cách khác nhau mọi chủ trương đoàn kết với Trung Quốc để hoàn thành nền độc lập của Việt Nam. Dù con số những người cách mạng ấy c̣n ít, nhưng họ họp thành những trung tâm tuyên truyền chống Pháp, điều duy nhất mà những người cách mạng đồng ư với nhau, và đó là nguồn rối loạn ở “thuộc địa”. Chính phủ Trung Quốc ít phân biệt những nhóm cách mạng ấy, dung nạp tất cả, nhưng cộng tác chặt chẽ nhất với chi nhánh An Nam của Quốc dân đảng. Hơn nũa, các nhà chức trách Pháp c̣n biết rằng Tai Li đang nắm giữ một mạng lưới tay chân khắp Đông Dương và mạng lưới này đang tránh né cả “Sureté” cũng như “Kempeitai”.
Các thủ lĩnh quân sự Pháp sẵn sàng thừa nhận rằng Decoux cũng giống như những người tiền nhiệm của ông ta, đă không thể đè bẹp được những đảng bí mật khác nhau ở Đông Dương hay ngăn ngừa được sự thâm nhập bí mật của Trung Quốc, cả hai đều được chỉ đạo từ Trung Quốc. Hơn nữa, sau cuộc đảo chính, người Nhật lại ban hành quy chế chính thức cho một nhóm quốc gia ở Đông Dương. Nhưng các thủ lĩnh quân sự Pháp vẫn thấy Việt Minh là mối đe doạ lớn nhất đối với chủ quyền của Pháp. Việt Minh đang tiếp tục những hoạt động ngấm ngầm chống lại người Nhật và người Pháp trong suốt cuộc chiến tranh, nhưng bị tất cả các phần tử chống Cộng ở Việt Nam khinh rẻ.
Chính quyền Decoux không có mấy cố gắng để tranh thủ sự ủng hộ của những người dân thường, do đó không có ǵ ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam ít tôn trọng nó. Tuyên truyền của Pháp vẫn hoàn toàn giữ lối nói rằng nền văn minh Pháp đă ban cho Đông Dương những điều may mắn về văn hoá. Những quy định cải cách thuộc địa khác nhau do chính phủ De Gaulle đưa ra trong những cuộc thương lượng Pháp - Anh - Mỹ được công bố rất ít. Khá lạ lùng là chính người Nhật đă dùng những quyết định ấy để đối chiếu với những cải cách ít ỏi được hứa hẹn và với mối đe doạ được giả định về sự bóc lột của Anh - Mỹ sau chiến tranh, với những mối lợi phi thường mà người Việt Nam có thể t́m thấy ở chương tŕnh của Nhật Bản về khối thịnh vượng chung Đại Đông Á.
Sau đảo chính, đường lối tuyên truyền của Pháp, trước kia cũng tỏ ra vô hiệu, bây giờ chỉ tập trung vào quyết định của Pháp giải phóng Đông Dương khỏi ách áp bức Nhật Bản. Sự tan ră của bộ máy tuyên truyền Pháp và sự kiểm soát của người Nhật đă làm cho người Pháp không đến được Việt Narn, là những người bất kể thế nào cũng không tin vào họ nữa. Tuy nhiên, vào tháng 4, người Pháp lại đặt hy vọng của ḿnh vào sự phản ứng thù địch của Việt Nam đối với sự chiếm đóng của Nhật, trái với điều mà họ từng thấy khi c̣n sự cai trị rộng lượng của họ. Họ tin chắc là người Nhật rốt cuộc sẽ đưa người Việt Nam trở lại những cánh tay của người Pháp. Hy vọng ấy được duy tŕ bằng một ảo tưởng về thiện chí bẩm sinh của các nhà vua ở An Nam, Cambốt và Lào. Đó là một sự tin tưởng sai lạc v́ không tính đến những người Việt Nam b́nh thường và nguyện vọng độc lập hoàn toàn của họ.
Trong khi tất cả những người Pháp hân hoan với sự chào đón mà người Việt Nam sẽ dành cho sự cai trị trở lại của người Pháp, vẫn có một số sĩ quan Pháp quyết định phải khôi phục sự cai trị của người Pháp, bằng cách sử dụng những đội quân Pháp ở châu Âu. Không một người Việt Nam nào được đại diện trong các hội đồng của những thủ lĩnh thuộc địa lưu vong. Những hạn chế có chủ tâm được áp đặt cho việc tham gia của những đội quân “bản xứ” vào việc giải phóng nước ḿnh. Người Việt Nam vẫn bị đặt ra ngoài ŕa những hoạt động bí mật của Langlade - Mordant - Sabattier, và các thủ lĩnh quân sự Pháp đă phản đối việc phát vũ khí cho cái họ gọi là “du kích bản xứ”. Họ vẫn thi hành chính sách tôn trọng những đội quân “bản xứ” đang chiến đấu trong quân đội Pháp với những cam kết mới đây mà ḷng trung thành tiếp tục của họ không có ǵ đáng nghi ngờ cả.
Chính sách khai trừ ấy rơ ràng không phải do yêu cầu chiến thắng nước Nhật mà được vạch ra v́ quyền lợi phiến diện của Pháp. Nó phải đảm bảo cho các lực lượng Pháp những cánh tay hoàn toàn rảnh rang để đối phó với hậu quả nổi lên sau khi đuổi được người Nhật. Nó phải đảm bảo chỉ có những đội quân người Âu dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp giữ được quyền kiểm soát về tiếp tế và vũ khí để người Pháp sử đụng khi họ trở lại “thuộc địa” bằng sức mạnh vũ khí.
Tôi đưa tất cả những điều đó vào bản báo cáo về người Pháp ở nam Trung Quốc, nói chung chúng được tiếp nhận tốt, nhưng có ai đó trong Đại sứ quán chúng ta cho rằng tôi đă giải thích quá nghiêm khắc về những động cơ của Pháp. Điều đó làm cho Côn Minh và Trùng Khánh tưởng rằng tôi là một người chống Pháp. Tuy nhiên sự cộng tác sau này của tôi với các nhà chức trách Pháp ở Trung Quốc đă chứng tỏ tôi không chống Pháp mà chỉ tán thành Đồng minh mà thôi.
Chúng tôi, những người Mỹ ở châu Á - Thái B́nh Dương, có một mục tiêu vượt lên tất cả - đánh bại nước Nhật ngay cả khi phải làm điều đó một ḿnh, biết rằng trong những Đồng minh của chúng tôi có những kẻ sẵn ḷng để cho người khác giành thắng lợi trong chiến tranh trong khi họ chuẩn bị để hái những trái quả chiến thắng.

“NƯỚC PHÁP TỰ DO” THỌC SÂU VÀO

Tôi gửi kế hoạch của tướng Sabattier cho Côn Minh ngày 2-5. Helliwell đă giành được một sự tán thành hạn chế của chiến trường nhằm tiến hành những hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ và ngày 6-5 đă điện vô tuyến rằng “O.K! Hăy thử thách Sabattier trước tiên ở Szemao”. Nhưng ông ta cũng cẩn thận dặn tôi nhớ tới “những giới hạn của chúng ta về trang bị và nhân sự” và hăy “tỏ ra kiên quyết để người Pháp bảo đảm rằng trong mọi trường hợp không được để chúng ta dính líu tới bất cứ chuyện ǵ có tính chất chính trị”. Ông ta c̣n nhắc nhở nghiêm khắc rằng “không được cung cấp vũ khí và đạn dược” cho người Pháp, ngoại trừ để tự vệ một cách có hạn chế và chỉ trong trường hợp “OSS nắm đầy đủ quyền kiểm soát hành động”.
Cho rằng sự cộng tác chặt chẽ của các tướng Sabattier và Alessandri là điều dĩ nhiên, tôi không ngạc nhiên khi Alessandri mời tôi đến vào chiều ngày 6-5 để hỏi về các kế hoạch của OSS cho những người Pháp hoạt động bí mật. Tôi nhiệt thành nói với ông ta rằng tôi vừa nhận được những tín hiệu từ Côn Minh về kế hoạch của Sabattier. Đứng phắt lên và với thái độ bực bội không cần che đậy, ông ta nói rằng “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương là một việc không dính ǵ đến Bộ chỉ huy tối cao cả”. Tôi hiểu sai ư của ông ta, tưởng là ông ta nói đến Bộ chỉ huy tối cao của Mỹ, nên sau đó tôi có nói rơ những mệnh lệnh của tôi đều từ đại bản doanh chiến trường đến. Alessandri lập tức lấy lại thăng bằng và nói: “Naturellement!”(11). Tất nhiên ông ta muốn ám chỉ tới Sabattier và sự thu xếp chỉ huy “tạm thời” của Pháp, và đây là sự ám chỉ đầu tiên khiến cho tôi hiểu là về mặt này mọi cái chưa phải là tốt đẹp.
Alessandri đột nhiên bỏ qua vấn đề những hoạt động bí mật, quay sang nói về vấn đề cấp bách hơn là vấn đề tiếp tế cho những đội quân của ḿnh. Ông ta chuyển sang một chuyện dàn hoà khi bày tỏ mối lo ngại của ḿnh về việc tập trung các đội quân đó lại, hiện đang đóng rải rác ở nam Trung Quốc, từ Szemao đến Fanch'eng. Ông ta tỏ ư hy vọng người Mỹ cung cấp cho những khu vực tập tnmg, những phương tiện vận chuyển và những đồ tiếp tế để phục hồi lại những đội quân của ông ta. Tôi bày tỏ sự thông cảm hoàn toàn của tôi đối với những vấn đề của ông ta nhưng buộc phải nói với vị tướng này rằng OSS không có thẩm quyền giúp đỡ và vấn đề này phải được giải quyết ở Trùng Khánh giữa Đại sứ Pháp và Tưởng Giới Thạch. Ông ta kiên nhẫn nhắc lại cho tôi rằng ông ta biết rất rơ những thủ tục thông thường, nhưng đây chỉ là những cố gắng để làm dễ dàng hơn cho một chức năng chỉ huy cấp bách của Đồng minh - những yêu cầu khẩn cấp của các đội quân của ông ta, “một thành phần các lực lượng Đồng minh ở Trung Quốc. Hy vọng làm cho ông ta yên tâm, tôi gợi ư rằng tôi sẽ lấy làm sung sướng hơn nếu thu xếp được cho ông ta hay cho đại diện ông ta gặp ông Snyder thuộc UNRRA, hiện đang ở Szemao; ông này đă được Mỹ uỷ quyền giúp đỡ người Pháp.
Nhưng Alessandri lại hết sức cáu tiết v́ tôi nhấn đi nhấn lại rằng ông ta phải giải quyết các vấn đề này ở những nơi khác và rơ ràng không bao giờ quên được cuộc gặp gỡ này. Về sau ông ta bị bắt buộc phải ngồi ở các cuộc hội nghị cấp chiến trường mà tôi cũng thỉnh thoảng tham gia với tư cách đại diện cho những quyền lợi của OSS ở Đông Dương, nhưng ông ta không bao giờ trực tiếp nói chuyện với tôi trong những cuộc gặp ấy. Tháng 9, ở Hà Nội, ông ta bày tỏ sự giận dữ của ḿnh đến mức từ chối tham dự một cuộc họp mặt với tướng Lư Hán(12) mà bản thân ông ta được mời đến, nhưng tướng Gallagher(13) cũng lại mời tôi đến cuộc gặp mặt ấy với tư cách đứng đầu Phái đoàn quân sự Mỹ; với lư do, theo lời ông ta, “thiếu tá Patti không thân thiện với người Pháp”.
Tướng Sabattier đă lên Côn Minh, đoán trước sẽ được một cuộc tiếp đón nồng nhiệt với tư cách là viên chỉ huy cao cấp của các lực lượng Pháp ở Trung Quốc và Tổng đại diện ở Đông Dương. Ông ta đă thất vọng khi không thấy người nào ngang hàng ra đón ḿnh. Côn Minh chỉ là bản doanh của cấp gần nhất. Nơi chỉ huy này cách Trùng Khánh 400 dặm; ở Trùng Khánh, ông ta sẽ có thể gặp Tưởng Giới Thạch và những cố vấn gần gũi của Tưởng, Phái đoàn quân sự Pháp, tướng Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông, và Đại sứ Mỹ. Cái gọi là phái đoàn quân sự Pháp ở Côn Minh thật ra là M.5 và đă bị SLFEO của “những bàn tay Trung Quốc cũ”(14) thanh trừng và trở thành trung tâm của phái De Gaulle ở Trung Quốc. Sabattier ở đây không có bạn bè.
Những người theo De Gaulle ở Côn Minh hy vọng sẽ có một nhân vật xuất sắc đại diện cho “nước Pháp mới” - một người nào đó có bóng dáng cao lớn như Leclec, Catroux hay thậm chí Blaizot. Sabattier chỉ là một người giúp việc khốn khổ. Chính trị của ông ta là chính trị của một sĩ quan điển h́nh của quân đội chính quy Pháp, trung thành với nước Pháp, ủng hộ chế độ đang cầm quyền và nghiêm ngặt tuân theo luật lệ truyền thống về danh dự nhà binh. Với việc Aymé bị bắt, Sabauier trở nên người có cấp cao nhất trên sân khấu nắm giữ chức Tổng chỉ huy tất cả các lực lượng Pháp ở Đông Dương. Sau đó, với sự “biến mất” của Mordant, Sabattier đă được chỉ định thay mặt cho ông ta.
Những người của SLFEO ở Côn Minh, rơ ràng chịu sự chỉ huy từ Calcutta, đă tung ra một chiến dịch làm mất uy tín của Sabattier trong con mắt của quân đội Pháp và của Phái đoàn quân sự Pháp ở Trùng Khánh, bằng cách để hở ra một phần bức điện ngày 10-4 của De Gaulle gửi Sabattier, trong đó nói: “Rơ ràng ông sẽ tiếp tục kháng chiến trên đất Đông Dương, bất chấp mọi khó khăn. Một điều cũng cần thiết như vậy là cá nhân ông phải ở lại Đông Dương cho đến giới hạn cùng tột...”(15). Cũng như những người ấy lúc đó đă cho lưu hành những lời lên án Sabattier rằng ông ta bao giờ cũng là người đầu tiên rời bỏ khu vực của người Nhật đe doạ - là người đầu tiên chạy khỏi Điện Biên Phủ 4 ngày trước khi quân của ông ta di chuyển, khỏi Phong Saly 3 ngày trước khi người Pháp tản cư khỏi khu vực và khỏi Muong Ou Tay 3 ngày trước khi rút lui.
Những sự việc đi trước ấy là những biện pháp bảo đảm an toàn b́nh thường đối với một vị Tổng chỉ huy, nhưng những việc đó đă bị đẩy đi quá mức và do đó đă đẻ ra một hiệu quả tự hạ thấp ḿnh xuống. Những người theo De Gaulle coi Sabattier là một “sự ngẫu nhiên trống rỗng của số phận”, nghi ngờ năng lực của ông ta trong việc mang croix de Lorraine(16) một cách lịch sự tới vũ đài chính trị ở Trùng Khánh.
Mặc dù có sự chống đối do M.5 để lộ ra, Sabattier vẫn quyết định thiết lập một sở chỉ huy ở Côn Minh cho các lực lượng Pháp và đă ra lệnh cho Alessandri tiếp tục tổ chức và huấn luyện trong khi ông ta đến Trùng Khánh để thảo luận về việc sử dụng các đội quân của Pháp với Wedemeyer và Hà Ứng Khâm. Sabattier có vẻ tự tin và tỏ ra rất ủng hộ những mục tiêu của Đồng minh, nhưng phái De Gaulle chỉ nh́n thấy có Đông Dương, và những ngày của Sabattier ở Trung Quốc không được bao nhiêu.
Chú thích :

(1) thuộc tổ liên lạc 19, đội không quân thứ 14
(2) chỉ huy chiến dịch Poitou để thu thập t́nh báo ở vùng biên giới Cao Bằng
(3) Ban t́nh báo
(4) Cuộc gặp gỡ đầu tiên diễn ra ngày 27-4-1945
(5) Hiến binh Nhật
(6) Các kho dự trữ của quân Pháp và Nhật
(7) chỉ huy trung đoàn 9RIC
(8) chỉ người dân tộc thiểu số ở miền núi cực bắc Việt Nam
(9) Sở mật thám Pháp
(10) tức Đông Dương
(11) Tất nhiên!
(12) khi đó là Tổng chỉ huy lực lượng chiếm đóng Đông Dương phía bắc vĩ tuyến 16
(13) trưởng đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ cho quân đội Trung Quốc chiếm đóng Việt Nam
(14) từ ngữ mà De Gaulle dùng để nói  về việc bắt cầm tù Mordant tiếp sau cú 9-3
(15) G. Sabattier, “Số phận của Đông Dương”
(16) huân chương Loraine

Chương 10
Một phiên họp của “bộ óc”

ĐỘI OSS
Vào lúc tôi rời Szemao ngày 12-5, Spaulding cùng với một đội 20 người đang điều khiển sau trạm thu tin dọc biên giới, tôi rất hài ḷng. Trở về Côn Minh, tôi suy ngẫm làm sao để mở rộng những hoạt động của chúng tôi ở bên trong bằng những phương tiện của Sabattier và của ông Hồ có tại chỗ.
Hồi đó Ban tham mưu của tôi ở Côn Minh đă tăng thêm những người mới từ Mỹ đến: trung uư (sau đó là đại uư) Roger P. Bernique, thuộc Lục quân; trung uư (sau đó là đại uư) Carleton Swift Jr., thuộc Hải quân và nhiều lính nghĩa vụ có tŕnh độ cao được huấn luyện về tiếng Pháp và tiếng Việt. Với đội ấy và với sự giúp đỡ của những chuyên viên khác ở ban tham mưu OSS, chúng tôi bắt đầu cuộc hoạt động SI đối với Đông Dương trên qui mô đầy đủ.
Ngay trước khi tôi bay trở về, một chỉ thị mới của chiến trường đă chỉ thị cho OSS “ngăn cản sự vận chuyển và phá hoại đường bộ và đường sắt từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội”. Chỉ thị có một giọng cấp bách khác thường: “…trong trường hợp tất cả các đường sắt nằm trong hoạt động này, những đường sắt nào có thể tháo dỡ được th́… phá hủy, cả cầu và đường hầm cũng phá hủy. Ít nhất phải có những khúc đường bộ hay đường sắt dài 10 dặm sẽ không thể hoạt động được nữa. Không để cho người Nhật sử dụng đuờng giao thông… tâấ cả các hầm hố và các ụ đất (sẽ) được gài ḿn… ( phải) tiến hành việc phá hủy các kho tàng tiếp tế của Nhật trong hoặc gần Hà Nội… các đội quân phá hoại phải bắt tù b́nh khi nào có thể đuợc”.
Helliwell và tôi thảo luận bức điện ấy. Thật lạ lùng, chỉ thị quá chi tiết nhưng lại không xác định được mục tiêu rộng lớn; và chúng tôi đều ngạc nhiên về một anh chàng tài tử nào đó ở Bộ tham mưu đă vạch ra chỉ thị đó.
Đây là một công việc thuộc SO/OG(1) chứ không phải thuộc SI, nhưng chúng tôi cũng hỏi Helliwell xem ông ta có chỉ thị ǵ cho tôi không. “Ngài đại tá hay nổi khùng” ấy, như ở một vài cơ quan thường gọi Helliwell như vậy, cáu kỉnh nói: “Đây là khu vực của anh, anh hăy tới đó”. Rơ ràng đó là lần đầu tiên tôi được báo cho biết là sựu phân công của tôi đi xa hơn việc t́nh báo bí mật. Với một giọng có phần gay gắt, Heliiwell báo cho tôi biết rằng nhiệm vụ của tôi bao hàm toàn bộ những hoạt động bí mật và chiến tranh chính trị. Helliwell nói rằng những chỉ thị của tướng Donovan cho Heppner đă đặc biệt nhấn mạnh rằng Whitaker và tôi sẽ chịu trách nhiệm trước ông ta(2) về những hoạt động ở Đông Dương. Vào lúc tôi vừa mới bắt tay vào hoạt động SI, tất cả những điều đó làm cho tôi ngạc nhiên phần nào nhưng Helliwell tiếp tục bảo đảm với tôi là tôi sẽ được tiếp xúc và được sự ủng hộ đầy đủ với tất cả các bộ phận tham mưu và ông ta tin rằng họ sẽ cộng tác với tôi.
Ngày hôm sau, Heppner, Whitaker và Quentin Roosevelt(3) từ Trùng Khánh đến ở lại đây một thời gian ngắn. Họ cùng nhập bọn với Helliwell, Duncan Lee và tôi trong một dịp hiếm có - một bữa ăn Trung Quốc được sửa soạn đặc biệt với nhiều món ăn và chúng tôi ngồi nhắm rượu trắng Trung Quốc với rượu mạnh Ecosse của Anh suốt đêm. Những chuyến đi thăm thường xuyên lẫn nhau giữa cái nhóm nhỏ bé tin cậy nhau của chúng tôi được coi như những phương tiện duy nhất để chúng tôi quan hệ với nhau và trao đổi ngay thẳng với nhau những tin tức và quan điểm về chính sách và những hoạt động của Mỹ và tăng cường những liên hệ làm việc của chúng tôi bằng một mối quan hệ cá nhân.
Heppner có một cái đầu lạnh và chúng tôi biết dựa một cách tin cậy vào sự phán đoán vững chắc của ông ta. Ông ta rất lịch thiệp và được ban tham mưu của ḿnh ủng hộ mạnh mẽ, nhưng khi cần có thể cứng rắn được. Được tướng Donovan hoàn toàn tin cậy và được biết riêng về những cuộc thảo luận của Nhà Trắng, ông ta thường đụng phải vấn đề tế nhị nhất với các thủ lĩnh Trung Quốc, nhưng ông ta không bao giờ tỏ ra một thái độ quá bận rộn với một sự mệt mỏi khi nghe hay xem xét những vấn đề của chúng tôi, hoàn toàn ngược lại, bao giờ ông ta cũng vui vẻ và sẵn sàng.
Whitaker dược Donovan giao cho thâm nhập các giới của người Pháp ở Trùng Khánh để báo cho Washington những kế hoạch của Pháp. Đối với công việc được giao ấy, ông ta có lợi thế là đă trải qua 20 năm ở châu Âu như một nhà văn và nhà báo Mỹ. Ông ta có bạn bè ở khắp châu Âu, đặc biệt trong những người Pháp, và có một phong cách tao nhă, một nhân cách xuất sắc và một sự hiểu biết sâu sắc về chính trị châu Âu. Ông ta có mặt trên sân khấu với tư cách là một nhà báo khi Hội Quốc liên suy tàn và chết, đă tới Matxcơva để t́m “sự thật” và trở về vỡ mộng, và đă viết cả một loạt bài từ Ethiopia đến Tây Ban Nha và từ cuộc thanh lọc của Hitler năm 1934 đến cuộc chính biến ở Viên với tư cách phóng viên chiến tranh. Ông ta cảm thấy rằng ḿnh bị ràng buộc một cách sâu sắc với cuộc chiến tranh chống nước Đức và nước Nhật, và hy vọng nước Mỹ cuối cùng sẽ khắc phục được sự yếu ớt của ḿnh là cái đă từng phá hoại Hội Quốc liên cũ.
Helliwell là một nhân vật quyết định và ông ta đau khổ như một người đang ốm ở khi những quyết định chính trị làm tŕ hoăn những kế hoạch và hành động của ḿnh. Ông ta ít tỏ ra sôi nổi, nhưng thỉnh thoảng những cơn bực dọc của ông ta làm cho ông ta trở nên giận dữ, ông ta không phải là một người ưa những sự nhỏ nhặt hay những ác cảm. Khi khí sắc tươi tỉnh, ông ta hăng hái thúc đẩy mọi hoạt động, ủng hộ và khích lệ, lôi kéo mọi người theo ḿnh và tự ḿnh lao vào việc một cách hăng hái nhất.
Quentin Roosevelt là cháu Tổng thống Theodore Roosevelt. Chắc chắn anh ta được đặt tên theo tên người chú đă bị giết trong Thế chiến thứ nhất. Hồi ấy anh ta mới 25 tuổi hay vào khoảng đó, và được bạn bè gọi là anh “Q”. Anh ta có vẻ rất thoải mái trong môi trường Trung Quốc và nói tiếng Trung Quốc khá thành thạo. Bố anh ta, Theodore Roosevelt Jr., là một người bạn cũ và thân thiết của Tưởng và vợ. Điều rất quan trọng đối với chúng tôi là anh ta hiểu biết sâu sắc suy nghĩ của các cố vấn của Tưởng, anh ta cũng là một người bạn tốt và là một người kể chuyện tế thị.
Duncan Lee là một nhà Trung Quốc học; đẻ ở Trung Quốc, bố mẹ là những nhà truyền giáo, nói thạo tiếng Trong Quốc, có phần văn vẻ nữa. Trong đời sống b́nh thường, ông ta là một luật sư cũng giống như những luật sư khác và cũng đă từng tốt nghiệp trường Đại học Oxford. Lee cũng đă từng làm trưởng chi nhánh Viễn Đông của OSS ở Washington, nơi chúng tôi gặp nhau lần dầu tiên, và kiến thức của ông ta rất có ích cho chúng tôi. Ông ta là người dễ ưa và dễ làm quen.
CARBONADO

Những tin tức quan trọng vào buổi chiều do Heppner cung cấp là tuyệt mật. Wedemever (vừa mới từ Washington về) đang chuẩn bị một cuộc tấn công đần tiên của Mỹ ở Trung Quốc, theo tên mật mă là Carbonado. Đó là một cuộc tấn công trên đất liền, dọc theo đường Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hongkong, sau đó mở những cảng lớn ở phía nam Trung Quốc để tiếp nhận quân đội từ châu Âu và Phillipine đến. Ngày mở đầu cuộc hành quân được dự định chỉ c̣n ba tháng rưỡi nữa, tức là vào ngày 1-9, và cuộc tấn công kết thúc vào ngày 1-11-1945.
Để dạo đầu cho Carbonado, Wedemeyer cần mở một cảng nhỏ Fort Bayard (Chanchiang) nằm trên bán đảo Lôi Châu, cách Quảng Châu chừng 250 dặm về phía tây nam, như là một căn cứ tiếp tế sắp tới để duy tŕ cuộc tấn công Carbonado.
Hepper nhấn mạnh tầm quan trọng của những hoạt động của OSS chúng tôi, v́ Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông ta buộc chúng tôi cung cấp rất nhiều tin tức t́nh báo và phải quấy rối người Nhật ở khu vực tấn công được dự tính. Tướng Mc Clure(4) cũng yêu cầu OSS mở đầu cuộc hành quân này bằng cách đánh du kích (SO), phá hoại (OG) và hoạt động tâm lư (MO). Điều đó đặc biệt quan trọng để ngăn quân Nhật ở Đông Dương tăng cường những vị trí của họ nằm trên khu vực của những cuộc hành quân Carbonado. Tất nhiên, đó là những điểm đặc biệt trong bản chỉ thị mà Helhwell và tôi đă chế giễu. Whitaker nói rằng khu Hà Nội - Trấn Nam Quan sẽ là “người yêu” của tôi và tuyến Trấn Nam Quan - Nam Ninh sẽ bị hạm đội Mỹ cắt đứt.
Khi báo cho tôi, Whitaker nói rằng ông ta đă gặp tướng Pechkov và Sabattier, thấy rơ họ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi và hỏi ư kiến của tôi. Helliwell nhăn mặt, tôi nhận thấy thế, khi Heppner và Lee ngồi lùi ra với những bộ mặt nghiêm trọng c̣n Q th́ nở một nụ cười sung sướng. Tôi suy nghĩ một lát và nói: “Chắc chắn như vậy, sao lại không? Chỉ cần chúng tôi có đủ thời gian và được ủng hộ về hậu cần, và nếu như người Pháp không phản đối đánh nhau ở Trung Quốc”. Nhưng tôi nói với ông ta rằng, theo chỗ tôi biết về điều kiện của họ và về những kế hoạch của họ, tôi hoài nghi việc đánh nhau ở Trung Quốc được đặt lên một vị trí cao trong danh mục những ưu tiên của họ. Hơn nữa, tôi cho rằng mục tiêu duy nhất của họ lúc này là tránh khỏi người Nhật càng xa càng hay. Thật ra nếu ông ta hỏi tôi, tôi sẽ gợi ư là nên gửi họ đến một trung tâm hồi phục ít ra là 6 tháng nữa. Whitaker im lặng một lát với một vẻ khổ sở, để lộ ra một sự thất vọng đối với tôi. Sau đó ông ta hỏi: “Làm thế nào ông định hoạt động Đông Dương mà không có người Pháp được?”. Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn và trong khi mọi người đều lặng thinh, tôi nói: “Ta hăy xem John có thật nghiêm túc không? Các ông đă nh́n thấy những người lánh nạn chưa? Những đội quân ấy, thật ra, không nh́n thấy bất cứ một thứ vũ khí hiện đại nào hay học những chiến thuật mới nào từ năm 1940. Họ vẫn c̣n sống trong Thế chiến thứ nhất”. Whitaker không thể giữ măi tư thế cũ. Mọi người phá lên cười v́ cái điều tôi đă phát hiện ra ấy, tôi trở thành cái bia của một sự đùa cợt nhỏ của Whitaker - ông ta giễu cợt tôi suốt buổi. Điều đó đă làm cho tôi rụt lại một lúc.
Khi những tiếng la hét và những tiếng cười ha hả lắng đi, Q nói với chúng tôi rằng Pechkov là một vấn đề nặng nề với tướng Hà Ứng Khâm, v́ ông ta đ̣i hỏi mọi thứ cung cấp và vậnn chuyển, và yêu cầu trang bị “4.000”(?) người Pháp chiến đấu để đánh người Nhật ở Đông Dương. Ông Jean Daridan, đại diện của Đại sứ quán Pháp ở Trung Quốc, đă khẩn nài Đại sứ quán Mỹ dùng ảnh hưởng của ḿnh đối với Tưởng nhằm tổ chức những hoạt động bí mật của Pháp ở Đông Dương. Tướng Cheng Cheng, Bộ trưởng chiến tranh Trung Quốc, đă hai lần từ chối gặp Pechkov cũng như Sabattier để thảo luận vấn đề về sử dụng các lực lượng Pháp ở Trung Quốc. Ông ta lịch sự bảo họ đến gặp tướng Hà.
Heppner ước đoán về con số quân đội mà Sabattier có thể tập hợp được trong thực tế. Ông ta nghe nói tới những con số khác nhau, từ 1.000 đến 6.000người. Dù nhiều đến đâu, ư kiến của ông ta là những số quân ấy có thể được sử dụng tốt nhất như những đội quân yểm trợ ở các khu vực hậu phương của Cục quân nhu (thuộc OSS). Whitaker nghĩ tới việc có thể sử dụng một số ít vào công tác t́nh báo, miễn là OSS giữ quyền kiểm soát các hoạt động. Helliwell gợi ư rằng nếu Sabattier tổ chức được vài trăm người tự nguyện và có năng lực th́ họ có thể sử dụng vào những hoạt động du kích và phá hoại. Rơ ràng là có một vai tṛ dành cho một số đội quân người Pháp trong các kế hoạch của Đồng minh nếu họ bằng ḷng chấp nhận sự lănh đạo và kiểm soát của Đồng minh.
Theo sự gợi ư của Whitaker và Helliwell, tôi đă đề nghị đưa M.5 về gần Côn Minh để thu xếp việc tuyển lựa và huấn luyện một đội quân nhỏ cho những hoạt động SI, SO và OG. Heppner không đồng ư. Thay vào đó, ông ta yêu cầu tôi triển khai một kế hoạch mà ông ta và Whitaker đă vạch ra với Sabattier ở Trùng Khánh. Wedemeyer và Donovan rất nhạy cảm với quan hệ với người Pháp và, ông ta nói, tốt hơn cả là nên bàn luận vấn đề đó lúc đầu ở cấp Chiến trường và Đại sứ quán. Mc Clure sẵn sàng thảo luận với tướng Sabattier về khả năng sử dụng một số hạn chế quân Pháp phối hợp với người Trung Quốc ở đông bắc Trung Quốc. Whitaker đồng ư rằng chúng ta ở Côn Minh không nên dính vào chuyện này cho đến lúc mọi việc được sáng tỏ ở Trùng Khánh. Đặc biệt về sự tranh chấp giữa những người Pháp theo De Gaulle ở M.5 và Bộ tham mưu Pháp ở Trùng Khánh. Ông ta cũng thấy những cuộc xung đột cá nhân giữa Sabattier, Alessandri và Pechkov. Hai người sau này đều là những sĩ quan lê dương(5), đă từng cộng tác với phái De Gaulle thuộc SLFEO/Calcutta trong một chiến dịch mà Sabattier bị gọi về Pháp, theo ông ta nói.
Tôi nêu lên vấn đề người Việt Nam, mô tả lại những cuộc tiếp xúc mới đây của tôi, và nói rằng tôi tán thành sử dụng lực lượng dự trữ chưa đặt quan hệ ấy. Phản ứng đầu tiên của những vị khách Trùng Khánh của chúng tôi là tiêu cực. Whitaker và Roosevelt đều cảm thấy người Pháp và người Trung Quốc sẽ mếch ḷng với sự tiếp xúc của chúng ta với những người Cộng sản Việt Nam. Heppner cũng thấy trước vấn đề ấy, nhưng cho rằng lúc này chúng ta vẫn chưa có một sự lựa chọn nào, và ông ta thấy không có ǵ gay go trong vấn đề ấy chừng nào chúng ta tách khỏi chính trị và hành động êm thấm, ở cấp thấp. Lee và Helliwell tán thành sử dụng người của Hồ Chí Minh, nhưng rất thận trọng. Với một vẻ hoài nghi, Lee muốn biết xem chúng tôi làm thế nào để cho Tai Li không khám phá ra được việc này. Tôi nói: “Để việc đó cho tôi”, và Whitaker hết sức ủng hộ tôi và nói với họ rằng tôi đă từng thành công ở Ư, khi làm việc bên cạnh những người Cộng sản, những người quân chủ và những kẻ phát xít Ư mà không để họ khám phá ra những hoạt động đồng thời tiến hành ấy.
Cuộc nói chuyện chuyển sang những sự kiện ở Trùng Khánh. Whitaker nói với chúng tôi rằng 6 tuần lễ trước khi xảy ra cuộc đảo chính của Nhật, đại tá Jacques Guilermag(6) đă đích thân báo tin cho Wedemeyer rằng người Nhật đang hoạt động mạnh mẽ ở Đông Dương và hậu quả là người Pháp thấy trước ḿnh sẽ bị tước mất vũ khí và quyền lực. Ấy thế mà, khi điều đó xảy ra, người Pháp đă tỏ ra ngạc nhiên và kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ. Sau đảo chính, Pechkov đă đưa ra những yêu sách vô nghĩa lư của một phong trào kháng chiến không tồn tại và muốn trách cứ Mỹ về sự sụp đổ ấy, đúng như Vichy và Catroux đă làm năm 1940. Việc họ thiếu nh́n xa và thiếu kiên quyết chống lại đă để cho Nhật giành được một sự kiểm soát chiến lược không chối căi được ở Đông Nam Á và đặt Trung Quốc vào một thế nguy hiểm. Cả Tưởng lẫn Wedemeyer đều tỏ ra hết sức thất vọng với người Pháp.

DE GAULLE VÀ QUỸ ĐẠO NƯỚC NGA

Ba ngày trước cuộc đảo chính, đại sứ Pháp ở Washington, Henri Bonnet, đă vẽ lên cho Bộ Ngoại giao chúng ta một bức tranh rực rỡ về “cuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương và có một số đông những người bản xứ tham gia”. Ông ta yêu cầu Mỹ giúp đỡ cho những người maquisards(7) giúp thành lập một tổ chức dân sự hỗn hợp và chấp nhận việc ủy nhiệm tướng Blaizot liên lạc với tướng Wedemeyer. Bonnet được nói cho biết là không có những người maquisards ở Đông Dương, những kế hoạch dân sự c̣n quá sớm và tướng Weaemeyer khi được hỏi đă trả ḷi rằng lúc này ông ta không cần đến một sĩ quan Pháp ở Bộ tham mưu của ḿnh.
Whitaker cũng được biết một sức ép nặng nề vẫn đang được thực hiện. Tướng De Gaullle đă nói với đại sứ chúng ta ở Paris, Jefferson Caffery, rằng người Pháp ở Đông Dương đă tổ chức một “cuộc chiến đấu thực sự” nhưng không được sự giúp đỡ của cả người Mỹ lẫn người Anh. De Gaulle cho biết rằng người Mỹ được chỉ thị không giúp đỡ ǵ cả và người Anh cũng đi theo sự lănh đạo của Mỹ. De Gaulle nói rằng ông ta không hiểu được chính sách của Mỹ. Chúng tôi phải làm thế nào đây, chẳng lẽ lại kéo nước Pháp vào quỹ đạo nước Nga chăng? Nước Pháp không cần trở thành Cộng sản, nhưng nếu như chính sách của chúng ta không thay đổi th́ ông ta sợ sẽ xảy ra như thế, dù ngược lại với ư muốn của ông ta.
Mườ́ ngày sau cuộc đảo chính, khi người Pháp đang vượt qua biên giới Trung Quốc, Bonnet vẫn cố thuyết phục Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao rằng những người maquisards vẫn chống cự một cách anh dũng ở Đông Dương, rằng chỉ v́ thiếu viện trợ của Mỹ nên họ không thể chiến đấu tốt được. Whitaker nói với chúng ta đă gửi hàng trăm tấn hàng cho người Pháp trong cuộc rút lui của họ, nhưng đă bị người Nhật nhặt được. Tôi không thể nào không nói lên nhận xét của ḿnh rằng khi nh́n thấy hoàn cảnh cơ cực của đội quân Pháp, th́ người ta không thể nào tin được rằng chúng ta đă không thả dù tiếp tế cho họ chút nào.
Sau đó Heppner báo cho chúng tôi rằng đă nghe được những tin đồn từ các nguồn của Pháp nói rằng chính sách của Mỹ về Đông Dương đă thay đổi và trong cuộc nói chuyện riêng với các nhân vật chính thức cao cấp Pháp ở Hội nghị San Francisco ở Liên Hợp Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao chúng ra đă nói rằng Mỹ không bao giờ nghi ngờ về chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Heppner nói rằng ông ta đă kiểm tra các nguồn tin ấy ở Hurley và Wedemeyer và biết rằng chính sách của Mỹ không thay đổi. Quay sang tôi, ông ta nói: “Những chỉ thị của Donovan cho ông vẫn giữ nguyên. Chúng ta không được cộng tác bằng bất cứ cách nào với kế hoạch trở về của Pháp. Nói cách khác, cho đến lúc nào ông không nghe thấy một cái ǵ khác từ 109 (tên mật mă của tướng Donovan), th́ vẫn tiếp tục làm như đă đồng ư”. Whitaker nói thêm rằng khi nào và nếu như chính sách thay đổi, 109 sẽ thay đổi sự phân công của tôi đối với bên nước.
Xen kẽ với những cuộc thảo luận ấy về Đông Dương, đă có những cuộc nói chuyện về những vấn đề khác, bao gồm cả hoạt động của Cộng sản Trung Quốc - OSS ở Diên An, dự án đặc biệt của Helliwel (“Chim ưng”) để thâm nhập Triều Tiên và dự án SEAC-OSS ở miền Nam Đông Dương và Thái Lan. Cuộc gặp mặt kết thúc rất muộn.
BẢN BÁO CÁO ĐẦU TIÊN CỦA ÔNG HỒ

Tôi đă nhận được một báo cáo t́nh báo thú vị của Hồ Chí Minh, cùng với hai bài viết chính trị gửi cho phái đoàn Mỹ ở hội nghị Liên Hợp Quốc. Tôi đưa hai bài ấy cho Whitaker, ông ta quyết định chuyển tiếp cho Đại sứ quán Mỹ; một bài gửi cho giới lănh đạo Mỹ, Trung Quốc, Anh và Liên Xô, và bài kia là một bức thư ngỏ cho Liên Hợp Quốc(8) . Cả hai bài đều kêu gọi ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
Những văn kiện ấy đều kư tên “Quốc dân đảng Đông Dương (Annam)”. Cái tên ấy có nghĩa là một chi nhánh của Quốc dân đảng (Trung Quốc); nhưng theo tôi, nguồn gốc thật sự của nó là Việt Minh. Đảng quốc dân Đông Dương là một nhóm gồm 5 đảng đă hợp nhất vào Đồng minh Hội năm 1942, nhưng sau đó đă lập thành Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội. V́ những văn kiện ấy là từ ông Hồ gửi đến, nên tôi không nghi ngờ ǵ rằng ông đă dùng cái tên cũ để không lộ ra chân tướng của Việt Minh. Ngay cả trong bản viết bằng tiếng Anh, đường lối của đảng ông đă được tŕnh bày mạnh mẽ và rơ ràng.
Bản báo cáo t́nh báo kèm theo những bài viết gồm một số trang đánh máy có pha thêm những mẩu chuyện về những mối liên hệ thân thiện Pháp - Nhật và sự đau khổ của người Việt Nam v́ cả hai đều làm cho họ thất vọng; tất cả những điều đó chúng tôi đều trừ hao đi v́ những lư do chính trị. Tuy nhiên, nó cũng cho một thông tin có ích để nhận biết một vài đơn vị của sư đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày và tên của một vài sĩ quan cao cấp. Mở đầu như thế không phải là xấu, Pḥng tác chiến của chúng tôi đă xác nhận một phần của nó và c̣n tỏ ra muốn chấp nhận những điều c̣n lại. Tôi lấy làm hài ḷng và Whitaker cũng tỏ ra cảm kích.
Mấy ngày sau đó, tôi nhận được qua đường dây một bản báo cáo thứ hai của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự hơn. Lần này báo cáo đă cung cấp những chi tiết về việc xây dựng công sự mới của Nhật và những cải tiến công sự hiện có do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng đă gây nên một hứng thú to lớn ở pḥng tác chiến của chúng tôi cũng như ở cấp Chiến trường.
Ông Hồ đă gắn một mảnh giấy nhỏ viết bằng tiếng Anh hỏi xem hai văn kiện chính trị có đáng gửi đi San Francisco không. Tôi nói với người mang thư đến - người này đợi tôi trả lời - rằng những văn kiện ấy đă được gửi đến các nhà chức trách hữu quan ở Trùng Khánh, nhưng tôi không thể chắc chắn là chúng đến được với phái đoàn ở San Francisco. Về sau, tôi đă có thể xác định rằng đó là lần đầu tiên ông Hồ có ư định đưa sự nghiệp của ḿnh tới sự chú ư của Liên Hợp Quốc. Tất nhiên, đó là 32 năm trước khi một Chính phủ Việt Nam độc lập được thừa nhận là hội viên của nó.
Chú thích ;

(1) Tổ công tác đặc biệt, lực lượng biệt kích phá hoại
(2) Heppner
(3) Thiếu tá, sĩ quan liên lạc của OSS với Tưởng
(4) Trung tướng, tham mưu trưởng chiến trường Trung Hoa, tư lệnh quân dă chiến Mỹ tại Trung Quốc
(5) Légions: lực lượng quân đội gồm những người nước ngoài mang quốc tịch Pháp.
(6) Tuỳ viên quân sự Pháp tại Đại sứ quấn ở Trùng Khánh
(7) Du kích chiến khu - tiếng Pháp
(8) Lời kêu gọi được viết bằng 2 thứ tiếng Việt và Anh

 

Chương 11
Một đồng minh miễn cưỡng

CUỘC XUNG ĐỘT ÂU – Á
Khi nh́n lại, một điều nổi bật lên trên tất cả là cái ǵ đang tiếp diễn ở châu Á: quan điểm về châu Á sau chiến tranh rất khác nhau trong các nước Đồng minh, tùy theo quyền lợi của mỗi nước. Mục tiêu của Mỹ chỉ đơn giản là đánh bại Nhật Bản và, với một sự dè dặt, phục hồi những quy chế “quo ante”(1) ở Viễn Đông. Nước Đồng minh đáng tin cậy nhất của chúng ta, nước Anh, lại quan tâm chủ yếu đến việc giữ ǵn sự nguyên vẹn của đế quốc Anh. Tham vọng của Pháp là giành lại địa vị “chính đáng” của nó trong các cường quốc lớn bằng cách đ̣i lại các thuộc địa đă mất. Trung Quốc của Tưởng đứng trước một nhiệm vụ hai mặt là giải quyết cuộc xung đột của nó với bọn xâm lược Nhật Bản và giữ vững chế độ Quốc dân đảng của ḿnh chống lại mối đe dọa Cộng sản của Mao.
Vào giũa cuộc xung đột Âu - Á ấy, lợi ích của thế giới thứ ba nổi lên làm mất thằng bằng “status quo”(2). Người Việt Nam, được kích thích bởi những lời tuyên bố cao quư của Hiến chương Đại Tây Dương hứa hẹn các nước Đồng minh sẽ “tôn trọng quyền của các dân tộc lựa chọn h́nh thức Chính phủ của ḿnh mà họ sẽ sống dưới đó”, đă cảm thấy kỷ nguyên mới đang tới đối với họ và đă bước vào cuộc xung đột.
T́nh trạng có nhiều mục tiêu ấy làm cho việc phối hợp kế hoạch của các nước Đồng minh trở nên cực kỳ khó khăn và đôi khi bị rối loạn - nhóm nước này hoài nghi các nhóm nước khác, và mỗi nhóm trong nước cũng ganh đua nhau với đảng phái đối lập của ḿnh như với kẻ thù. Những thủ đoạn đấu tranh dường như vô tận.
Người Mỹ ở Trung Quốc, mặc dù ít về số lượng, là những người duy nhất thật sự quan tâm đến việc kết thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Các cố vấn quân sự của chúng ta ở các đội quân Trung Quốc phải dùng hết sức mạnh lănh đạo của ḿnh để thuyết phục các chỉ huy Trung Quốc bám giữ và chiến đấu. Chennault dựa nhiều vào những máy bay Mỹ để chặn các lực lượng bộ binh Nhật lại. C̣n những hàng tiếp tế Vay - Mượn to lớn của Mỹ th́ được chuyên chở qua những vùng đồi núi và bằng những tầu chở hàng theo con đường Miến Điện để giữ cho Trung Quốc khỏi sụp đổ dưới sức mạnh của Nhật. Người Anh cũng như người Pháp không hề đóng góp ǵ về vật chất cho cố gắng chiến tranh ở Trung Quốc.
Trong lĩnh vực hoạt động bí mật và chiến tranh không chính quy, chỉ có OSS của Mỹ có một chương tŕnh tích cực và có hiệu quả. Trong bối cảnh hoạt động của tôi ở Đông Dương, trong thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945, chúng tôi đă tổ chức được 5 mạng lưới chính và 12 mạng lưới phụ, tất cả đều bí mật, từ đó chúng tôi thu lượm t́nh báo, tiến hành những cuộc đột kích vào các cứ điểm then chốt của địch, và tiến hành nhiều hoạt động phá hoại ở các đường giao thông của Nhật.
Vào lúc chót, những hoạt động đó được thực hiện với một sự giúp đỡ rất nhỏ bé của các Đồng minh Pháp, Anh và Trung Quốc. Bất chấp những ư đồ phá hoại, những cố gắng của Mỹ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đặc biệt người Pháp, với ḷng mong muốn cao nhất là nhanh chóng chiếm lại thuộc địa cũ của họ nên đă theo đuổi một hoạt động t́nh báo về chính trị và quân sự rất quyết liệt. Họ chiếm đoạt những vũ khí và đồ tiếp tế được dành cho những cuộc hành quân của Đồng minh và họ cố ngăn cản những ư định hoạt động của Mỹ bất cứ ở đâu trong xứ Đông Dương.
Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho đến lúc này, một số người Pháp cố hết sức ngăn cản cố gắng chiến tranh chống Nhật. Họ lớn tiếng tuyên bố rằng họ đă bị ngược đăi, bị lạm dụng và bị coi thường, và cho ḿnh là nạn nhân của một “âm mưu” - hoàn toàn ăn khớp với đường lối chính trị có chủ tâm của họ cho rằng quyền lợi chính đáng của họ bị xâm phạm.
MỘT SỰ DÀN XẾP CÓ ĐI CÓ LẠI

Chỉ thị ngày 10-5 yêu cầu OSS thực hiện nhiệm vụ chặt đứt đường hành lang của Nhật Bản từ Hà Nội đến Nam Ninh để chuẩn bi cho Carbonado. Nó đ̣i hỏi phải sử dụng các đội phá hoại và các đơn vị du kích đă quen thuộc ít nhiều với khu vực này và đă hiểu biết khá rơ về người Pháp hay người Việt Nam. Wampler đă có một số người mới từ châu Âu đến đă được huấn luyện cho những hoạt động SO và OG, nhưng chỉ có một số ít nói được tiếng Pháp. Trong khi Heppner và Whitaker gặp các tướng Sabattier và Pechkov ở Trùng Khánh, th́ tôi tiếp xúc với nhóm M.5 ở Côn Minh.
Sau khi tôi ghé lại lần đầu vào cuối tháng 4, tôi mắc bận nhiều vấn đề cấp bách nên không có ư định tiếp xúc cá nhân hay trở lại thăm nơi đó. Tuy nhiên, Bernique và Ettinger đă thiết lập được những mối liên hệ không chính thức, nhưng thân mật, với nhóm này và được biết rằng trung úy Flichy(3) đă bị thay thế bởi thiếu tá Jean Sainteny trong chức vụ chỉ huy nhóm M.5(4).
Tôi ghé thăm M.5 ngày 18-5 và được Sainteny và những người trong ban tham mưu của ông ta tiếp đón. Thiếu tá là một người dễ chịu, hơn 30 tuổi, rất đúng đắn, đă tỏ ra dè dặt và không thoải mải lắm. Ông phân trần về những thiếu sót của ḿnh v́ bị những nhiệm vụ mới thúc bách nên chưa gặp được tôi sớm hơn. Từ khi ông ta đến đây, cách đây một tháng, ông ta phải cải tổ lại “Phái đoàn” và, theo ông ta nói, mong đợi được làm việc với OSS. Ông ta yêu cầu Flichy mô tả cho tôi nghe vai tṛ của M.5, và lần đầu tiên ông ta được biết những người tiền nhiệm của ḿnh đă thiết lập đúng một mạng lưới những đơn vị t́nh báo đáng kể dọc theo biên giói Trung Quốc và một đội tuần tiễu đường biển nhỏ ở khu vực phía bắc Vịnh Bắc Bộ. Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp và chúng tôi đồng ư cộng tác với nhau trong tương lai trước mắt.
Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, Sainteny nêu lên rằng ông ta và trung tá Wichtrich thuộc AGAS đang thảo một dự án chung để tiến hành những hoạt động cứu giải ở khu vực Pakhoi(5). Trong vài ngày nữa ông ta sẽ đáp máy bay hạ xuống nơi đó và gợi ư rằng tôi có thể phái một sĩ quan của tôi nói được tiếng Pháp đến xem xét khu vực này cho những hoạt động hỗn hợp sau này. Tôi cảm ơn ông ta và đồng ư sẽ báo cho ông ta rơ. Trong thời gian đó, chúng tôi chỉ định các sĩ quan liên lạc cho những hoạt động hàng ngày.
Tôi báo cho Whitaker rằng M.5 vui ḷng hoạt động chung với OSS trên có sở có đi có lại, nhưng nghi ngại rằng họ đ̣i hỏi nhiều hơn. Về bề ngoài, Sainteny tỏ ra thẳng thắn khi yêu cầu vũ khí, trang bị và vận chuyển của Mỹ để đánh đổi nhân lực Pháp - Annam, nhưng bên trong tôi phát hiện ra rằng ông ta hy vọng giành được một sự thừa nhận đặc biệt cho cơ quan người Pháp duy nhất đảm nhận những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc. Điều đó bao hàm một sự độc lập của M.5 đối với Sabattier và Pechkov, và để cho SLFEO/Calcutta chỉ huy và kiểm soát M.5. Tôi nhấn mạnh rằng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi và chúng ta cần thăm ḍ ư đồ của Sainteny hơn nữa. Tuy nhiên, nếu những nghi ngại của tôi là đúng, th́ chúng tôi có thể nh́n thấy trước các vấn đề.

MỘT CUỘC CHẠY THỬ

Trong khi chờ đợi ư kiến từ Trùng Khánh về việc tiếp tục quan hệ với M.5, tôi đơn phương khởi sự 2 hoạt động do Chiến trường chỉ huy. Một hoạt động nhằm cắt đứt đường sắt và đường bộ từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội, c̣n hoạt động kia là một cuộc tuần tiễu giám sát bờ biển ở các cảng Hải Pḥng và Fort Bayard. Hoạt động thứ nhất phải chờ đến lúc nào lấy được người cho thiếu tá Gerald W. Davis(6) để đi bộ vào Đông Dương và làm nhiệm vụ. C̣n cuộc giám sát bờ biển th́ đ̣i hỏi phải có những thủy thủ được huấn luyện và một đội thuyền buồm nhỏ. Phải có thời gian tôi mới kiếm được những thứ đó nhưng Wedemeyer th́ lại sốt ruột về những kết quả nhanh chóng, và chỉ có một chiếc tàu thích hợp trong khu vực này là của người Pháp, nhưng tôi không có quyền sử dụng. Tôi nghĩ tới dự án AGAS với M.5 và “hạm đội” của nó ở vùng Pakhoi.
Tuân theo các quy tắc phần nào, tôi lập luận rằng một khi AGAS đă được phép cộng tác với người Pháp th́ không có lư do ǵ để tôi không được làm việc với AGAS và cùng nhau sử dụng tàu thủy của Pháp. Khi thảo luận điều đó với Whichtrich, chúng tôi đồng ư với nhau rằng tôi sẽ cung cấp cho AGAS những phương tiện vô tuyến điện của OSS để thực hiện những hoạt động cứu thoát để đánh đổi những tin tức về hạm đội Nhật mà nhân viên OSS - AGAS thu nhận được bằng những phương tiện của các đơn vị hải quân Pháp.
Trong khi tôi thương lượng với AGAS, tôi nhận được tin từ Trùng Khánh cho biết rằng Sabattier và Tưởng đă thỏa thuận với nhau rằng: “Tất cả các đội quân chính quy Pháp đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương thuộc Pháp được đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế”, rằng Sabattier đă được thừa nhận là “Tổng chỉ huy” của những đội quân ấy, và rằng tướng Alessandri đă được bổ nhiệm là “chỉ huy địa phương của Pháp”. Đó là một sự thỏa thuận lạ lùng. Toàn bộ kháng chiến của Pháp ở Đông Dương chống Nhật đă bị xóa bỏ từ lâu, khiến cho Alessandri hiện nay đă trở thành viên chỉ huy tất cả các lực lượng hiện có của Pháp ở Trung Quốc mà thôi. Vậy th́, Sabattier chỉ huy cái ǵ? Phải chăng đó là một cách gạt êm thấm Sabattier ra khỏi dây chuyền chỉ huy và trao cho Alessandri toàn bộ quyền kiểm soát tác chiến chỉ của những đội quân Pháp chưa bị Nhật bắt làm tù b́nh? Chúng tôi cảm thấy một sự bối rối và băn khoăn mới trong những mối liên hệ của ḿnh với Phái đoàn quân sự Pháp, DGER, SLFEO và M.5.
Ngày 24-5, khi chưa nhận được ư kiến của Heppner về việc sử dụng các đội quân Pháp, chúng tôi nhận được một bức điện của thiếu tá Davis nói rằng một đội quân Pháp lớn đă đến Posech mà không báo trước, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Revol; ông này nói rằng họ được trang bị và huấn luyện bởi OSS cho những cuộc hành quân ở Đông Dương.
Cuối cùng, ngày 26, Heppner nói cho chúng tôi rằng ông ta đă kư một thỏa thuận có dụng ư với SLFEO. Tôi lại đến gặp Sainteny để vạch các chi tiết và, một lần nữa, sự đón tiếp của ông ta tỏ ra nồng nhiệt và thân mật. Giọng khó tính đầu tiên mà Sainteny ném ra là khi ông ta bảo đảm với tôi rằng chúng tôi có thể cùng nhau vạch ra một kế hoạch “có lợi cho cả hai bên”. Nhận xét ấy không thích hợp với tôi, và tôi trả lời rành rọt rằng “mối lợi” duy nhất mà người Mỹ nghĩ tới là thu được t́nh báo của Nhật và tiến hành những hoạt động riêng biệt đằng sau các pḥng tuyến của họ. Tất nhiên, Sainteny đồng ư, nhưng nhận xét của ông ta làm tôi phải “qui vive”(7).
Những sự thỏa thuận của tôi với AGAS đă phù hợp với sự tán thành của bản doanh cho phép làm việc với M.5, và tôi được tự do bàn bạc với Sainteny về dự án Pakhoi. Đầu tháng, tôi lại phái Ambelang tới Maoming(8) để tiến hành những hoạt dộng giám sát ven biển phối hợp với cuộc hành quân Ford Bayard. Ngày 27, tôi gửi Ettinger đến Pakhoi để nhập với trung úy James W. Jordan(9). Với Ettinger và Jordan ở Pakhoi và Ambelang ở Maoming, tôi quyết định thiết lập một trạm căn cứ trong vùng và gợi ư với Sainteny rằng dự án OSS - AGAS đang tiến hành và với sự giúp đỡ của ông ta, chúng tôi có thể cùng nhau mở rộng hoạt động để giành những kết quả tối đa trong một thời gian tối thiểu. Ông ta đồng ư và sẵn sàng vạch kế hoạch.
Ngày 30-5, dự án Pakhoi được tiến hành. Đội tàu nhỏ của Pháp gồm hai chiếc tầu tuần tiễu, Crayssac và Frézouls, được nhiều thuyền máy yểm trợ, tất cả đều do thủy thủ Pháp điều hành, bắt đầu chuyển (bằng các đài vô tuyến của OSS) những tin tức có giá trị về hạm đội Nhật và giúp đội tầu ven biển của chúng ta thăm ḍ những độ sâu dọc vịnh Fort Bayard và vịnh Mandarin. Ettinger và Jordan, với sự giúp đỡ của các nhân viên Pháp do M.5 cung cấp đă tiến hành một công việc tuyệt vời, không những chỉ báo cáo về sự bố trí của quân Nhật và các hoạt động của Hạm đội Nhật (đặc biệt từ vùng Fort Bayard - Hải Pḥng), mà c̣n thu được một số tin tức từ bên trong Đông Dương.
NGƯỜI PHÁP TỔ CHỨC MỘT CUỘC BĂI CÔNG NGỒI

Một ngày sau khi Dự án PAKHOI được tung ra, chúng tôi kư kết với người Pháp ở Trùng Khánh một thỏa thuận thứ hai nhằm sử dụng 100 binh sĩ Việt Nam và 10 hay 12 sĩ quan Pháp. Sabattier và Pechkov đồng ư để OSS có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nhóm này và những tin tức t́nh báo thu được sẽ chia nhau. Chúng tôi vạch kế hoạch huấn luyện đơn vị ở Tŕnh Tây. Wampler chọn đại úy (sau đó là thiếu tá) Charles M. Holland và thiếu tá Allison K. Thomas đứng đầu hai đội với mật danh là “Con Mèo” (“Cat”) và “Con Nai” (“Deer”). Chúng tôi báo cho Davis và Poseh biết và yêu cầu họ phái Holland và Thomas đến Tŕnh Tây để đón nhận những người Pháp, đến ngày 12-6 th́ bắt đầu huấn luyện.
Nhóm người Pháp mới(10) đến đúng ngày giờ đă định nhưng lại từ chối huấn luyện như đă thỏa thuận ở Trùng Khánh. Viên sĩ quan cao cấp nhất của Pháp, thiếu tá Courthlac, yêu cầu OSS trả tiền cho nhóm ông ta và cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó không nằm trong sự thỏa thuận. Người Pháp phải lấy khẩu phần của họ từ Cục quân nhu Trung Quốc trước khi đến đây theo thủ tục thông thường và việc trả tiền cho đội quân người Pháp là trách nhiệm của Chính phủ Pháp ở Trùng Khánh. Thiếu tá Thomas không có quỹ để thỏa măn những yêu cầu của người Pháp và báo cho thiếu tá Courthlac biết điều đó; nhân đó người Pháp bèn tổ chức một cuộc băi công ngồi cho đến lúc có chỉ thị của M.5. Do đó, từ ngày 4 đến ngày 17 tháng 6, chương tŕnh huấn luyện ở Tŕnh Tây đă bị hoàn toàn đ́nh chỉ.
Một tia lóe lên sau đó vào sáng 12-6, khi Heppner nhận được một bức thư không đề ngày tháng của Sainteny, do Flichy kư tên, nói rơ ràng Sabattier đă chỉ thị cho M.5 phải chịu trách nhiệm về hoạt động du kích với sự cộng tác của các đơn vị Mỹ. “Do ưu thế của lực lượng Pháp” và sự nguy hiểm sẽ xảy ra, Sainteny yêu cầu được biết về mục đích của hoạt động này, về những mệnh lệnh cho người Mỹ, và những ǵ đă được thực hiện từ đây đến đó. Cho đến khi nhận được trả lời cho những câu hỏi của ông ta, Sainteny đă ra lệnh cho viên chỉ huy phân đội Pháp ngừng các hoạt động. Heppner lập tức không đồng ư với mệnh lệnh của Sainteny, coi đó là một hành động đơn phương và độc đoán và là một sự phá vỡ việc thỏa thuận Sabattier - Heppner ngày 31-5 và báo cáo điều đó cho tướng Wedemeyer. Rơ ràng đă có một sự đứt quăng trong những liên lạc giữa M.5 của phái De Gaulle và “Bộ Tham mưu” ở Trùng Khánh. Vấn đề đối với chúng tôi là phải giao dịch với ai trong những người Pháp?
Giai đoạn thứ ba của t́nh trạng này là sự bắt đầu một cuộc nổi dậy nhỏ của những người Pháp mới đến ngày 14-6, khi toàn bộ những liên lạc của mạng lưới PAKHOI im lặng. Tôi biết khá sớm qua Jordan rằng người Pháp đă ra lệnh đ́nh chỉ cung cấp luồng tin tức t́nh báo cho người Mỹ v́ bị đe dọa của “ṭa án quân sự”.
Khi mọi hành động Pháp - Mỹ ngừng lại và người Mỹ ở trong tâm trạng bực túc, thiếu tướng Douglas L. Weart(11) triệu tập một cuộc gặp mặt ở Côn Minh ngày 15-6 để dàn xếp mọi việc và đặc biệt đ̣i phải rút lại bức thư của Sainteny và các hoạt động phải đặt dưới sự kiểm soát của OSS. Weart mở đầu cuộc gặp mặt bằng việc nhắc lại cho Alessandri rằng giới quân sự Pháp đặt dưới quyền kiểm soát về tác chiến và cung cấp của tướng Hà Ứng Khâm và của OSS, và việc sử dụng các đội quân Pháp phải được cấp Chiến trường cho phép. Weart nói rằng không thể hiểu được M.5 nằm ở vị trí nào trong chuyện này, và nói cho Alessandri biết rằng “Sự kiểm soát tác chiến của tướng Hà không thừa nhận Phái đoàn quân sự Pháp như một nguồn liên lạc; mọi sự tiếp xúc chỉ dược tiến hành trực tiếp với tướng Sabattier...”. Tướng Alessandri biện bạch rằng M.5 đă hành động mà không biết ǵ đến thỏa thuận giữa Wedemeyer và Sabattier, và bức thư của Sainteny sẽ bị rút lại. Phân đội Pháp ở Tŕnh Tây sẽ được lệnh hoạt động dưới sự kiểm soát của OSS. Như vậy, đến ngày 17 mọi việc trở lại b́nh thường, hay ít ra chúng tôi cũng nghĩ như thế.
M.5 CỦA SAINTENY

Tại cuộc gặp mặt Weart - Alessandri, Flichy cố nhấn mạnh vai tṛ của M.5 trong những hoạt động bí mật, nhưng ông ta đă bị bác bỏ và Sainteny không gặp may. Một ngày sau cuộc gặp mặt, Sainteny yêu cầu tôi ghé lại ở một biệt thự Pháp: ông ta cần làm sáng tỏ những sự hiểu lầm. Ông ta cho rằng tôi hẳn đă biết tới việc SLFEO/Calcutta đă giao cho M.5 chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc; và ông ta, với tư cách người cầm đầu M.5, đă được cho phép giao dịch trực tiếp với OSS. C̣n về nhân lực, th́ ông ta đă được Calcutta giao cho sử dụng các đội quân của Sabattier được bổ sung bằng những chuyên viên của DGER lúc đó đang trên đường từ Pháp đến Ấn Độ. Về vấn đề chỉ huy và kiểm soát M.5 ở Côn Minh, Sainteny nhấn mạnh rằng ông ta chỉ nhận những chỉ thị và hướng dẫn của tướng Passy(12) ở Paris và đại tá Roos(13) ở Calcutta, những người này chỉ chịu trách nhiệm trước tướng De Gaulle.
Tôi hỏi Phái đoàn quân sự Pháp trực thuộc vào đâu, và Sainteny nói rất rơ ràng tướng Pechkov không có quan hệ ǵ với DGER cả. Ông ta nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, c̣n DGER th́ hoạt động dưới những chỉ thị trực tiếp của cá nhân De Gaulle.
Hoàn toàn không có dụng ư, Sainteny cho tôi biết rằng SLFEO/Calcutta đă có một số thỏa thuận rơ ràng với SOE của Anh về hoạt động ở Đông Dương. Những thỏa thuận ấy được tiếp tục cả sau khi kư kết thỏa thuận OSS - DGER. Đó là những thỏa thuận riêng rẽ và khác nhau: Pháp - Anh, Pháp - Mỹ. Tôi b́nh luận rằng đối với tôi, sự thỏa thuận ấy có vẻ cơ hội chủ nghĩa và rơ ràng nhằm giành lấy phần tối đa từ hai phía riêng rẽ. Sainteny đáp lại rằng người Anh đă đóng góp nhiều về vũ khí và vận chuyển cho sự nghiệp của Pháp ở Đông Dương, và nói thêm: “Vâng, chúng tôi là những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong trường hợp này - mọi cái đều nhắm tới cùng một mục đích, có phải thế không?”. Tôi trả lời rằng tôi không nghĩ thế, nhưng Sainteny nói tiếp rằng người Anh đă giúp đỡ lâu trước người Mỹ và đă có nhiều đội đang hoạt động tại chỗ, đă đem lại những kết quả tốt đẹp và ông ta không muốn chấm dứt những hoạt động của họ.
Sau đó, tôi đặt câu hỏi về quyền hạn của Chiến trường. Người Pháp ở Trung Quốc dù sao cũng nằm dưới sự chỉ huy của Tưởng và Đông Dương th́ nằm trong Chiến trường tác chiến Trung Quốc. Nhưng Sainteny khoát tay tỏ ra không cần phải băn khoăn ǵ về tất cả những điều đó và nói rằng chúng tôi không thể thông qua sự thỏa thuận Tứ cường ở cấp chúng tôi, khiến cho tôi gợi ư có lẽ ông ta nên nêu vấn đề này với tham mưu trưởng và đại tá Heppner. Chúng tôi không giải quyết được ǵ và đặt những vấn đề quyền hạn cho những cuộc thảo luận sau này.
Những hoạt động của Anh - Pháp từ SEAC khiến cho tôi rất quan tâm. Tôi không biết chắc rằng những hoạt động ấy có thể đưa vào kế hoạch chung của tôi không. Sainteny nói rằng ông ta không biết được nhiều chi tiết và bảo đảm với tôi rằng kết quả hoạt động của các đội ấy sẽ được chia cho M.5, M.5 sẽ chuyển cho Sabattier, và ông ta sẽ chuyển đi “theo những đường liên lạc t́nh báo”. V́ tôi biết sự ngăn cấm bí mật của người Pháp không cho người Anh giao tin tức cho người Mỹ, nên tôi lại càng hoài nghi hơn. Không để lộ việc tôi biết sự ngăn cấm bí mật ấy, tôi lưu ư với Sainteny về thỏa thuận giữa Tưởng và Sabattier nói rằng đường liên lạc duy nhất đối với người Pháp ở Chiến trường Trung Quốc để tuyền đạt tin tức t́nh báo là qua OSS, rồi OSS chuyển tới Sabattier. Sainteny đáp lại điều đó: “Đúng thế! Vậy th́ tôi sẽ chuyển tin tức t́nh báo cho ông, nhưng với điều kiện không để tŕ hoăn bởi nhũng thủ tục quan liêu thường thấy trong trường hợp ở châu Âu”. Chấp nhận câu trả lời dễ dăi của ông ta với một sự miễn cưỡng lớn, tôi bảo đảm với ông ta rằng sẽ không có những sự tŕ hoăn. Và, tất nhiên, những lo lắng của chúng tôi đă được chứng thực: chúng tôi không hề nhận được một tin tức nào cả.
Chúng tôi chuyển qua vấn đề cuối cùng, kế hoạch hoạt động của ông ta. Sainteny nói rằng kế hoạch đó sẽ được ông ta thảo xong ngày 18-6. Khi tôi từ giă, ông ta hỏi liệu có thể được thông báo cho biết về các kế hoạch của Chiến trường cho Đông Dương với những cuộc đổ bộ dự định được đặc biệt ghi rơ hay không. Tôi gợi ư ông ta nên thảo luận điều đó với Heppner.

M.5 GIÀNH ĐƯỢC QUY CHẾ CHÍNH THỨC

Kế hoạch Sainteny thảo xong ngày 18 là một kế hoạch rộng lớn cho những cuộc hành quân trên bộ và trên biển. Nó bao gồm khoảng 1.000 sĩ quan và binh lính Pháp - Việt, tất cả được trang bị bởi OSS. Helliwell và tôi rất ngạc nhiên và đề nghị Heppner chấp nhận kế hoạch ấy với những điều kiện: Các đơn vị này được đặt dưới sự kiểm soát của OSS; mỗi đơn vị có một sĩ quan cao cấp Mỹ chỉ huy; chỉ sử dụng mật mă vô tuyến điện của OSS; mỗi đơn vị chỉ hoạt động dưới sự đỡ đầu của OSS chống lại các mục tiêu của Nhật.
Sainteny và Flichy phản đối tất cả những điều kiện ấy Sainteny nói ông ta cảm thấy trái lương tâm khi yêu cầu các sĩ quan Pháp phục vụ dưới sự chỉ huy của những sĩ quan không phải người Pháp, dù cho đó là những sĩ quan Đồng minh. Heppner nói rằng đó không phải là một thủ tục ǵ khác thường; phải chăng tất cả chúng ta đều không nằm dưới sự chỉ huy của Thống chế (Tưởng) ở Chiến trường Trung Quốc? Chúng tôi đi tới một sự bất đồng.
Để khỏi mất th́ giờ hơn nữa, v́ ngày hạn định cho Carbonado đă gần đến, tôi gợi ư chúng tôi cùng vạch một dự án trước mắt và giải quyết vấn đề chỉ huy trên cơ sở mục tiêu và khả năng hiện có về sĩ quan có năng lực cho mỗi dự án. Sainteny đồng ư một cách miễn cưỡng, nhưng ông ta yêu cầu cung cấp vũ khí và trang bị cho tất cả 1.000 binh sĩ. Heppner nắm chặt lấy điểm đó. Mỗi đơn vị sẽ được cung cấp những ǵ cần thiết khi nó thật sự được giao cho một phái đoàn OSS được phê chuẩn.
Sainteny nêu lên vấn đề những cuộc đổ bộ của Đồng minh được dự tính và hỏi xem liệu ông ta có được thông báo về những ǵ sẽ được hoạch định không. Heppner nói với ông ta rằng Sabattier sẽ được thông báo khi tướng Hà Ứng Khâm thông qua để cho kế hoạch ấy có hiệu lực.
Đó là một cuộc gặp mặt hoàn toàn không thỏa măn. Người Pháp cảm thấy bị khước từ và người Mỹ chúng tôi rời ra với một cảm giác rơ ràng về tính mơ hồ của lập trường người Pháp. Helhwell và tôi, cùng với Heppner, biết rắng Sainteny không phải là một người ngay thẳng. Quá nhiều điều ông ta không nói ra và quá nhiều câu hỏi không được ông ta trả lời.
Trong 4 tuần lễ sau đó, chúng tôi dành nhiều th́ giờ để hội họp, hỏi han, bàn bạc và thảo luận, mà không di tới một sự thỏa thuận nào để có thể thực hiện được. Trong khi đó người Pháp đánh nhau ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc không có mục tiêu rơ ràng. Căn cứ của chúng tôi ở Pakhoi được báo cáo rằng một đơn vị biệt kích Pháp đang được tổ chức và huấn luyện trong vùng cho những hoạt động mà chúng tôi chưa biết. M.5 quấy phá các hệ thống t́nh báo của lực lượng không quân thứ 14, AGAS, Bộ tư lệnh chiến đấu Trung Quốc (CCC) và OSS bằng những loạt báo cáo không được xác nhận về các bố trí và vận động của quân Nhật. Khi ban kế hoạch của Chiến trường hỏi OSS về tính xác thực của những báo cáo ấy, tất nhiên chúng tôi không thể xác minh chúng được, cũng không thể bảo đảm tính chính xác của chúng v́ chúng tôi không được M.5 hỏi ư kiến.
Các báo chí địa phương của Trung Quốc ở Côn Ḿnh công bố một bản báo cáo, nói là của phái đoàn quân sự Pháp, cho biết một đơn vị Pháp ở Trung Quốc đă “xâm nhập và chiếm đóng” đảo Weichow của Trung Quốc(14). Vụ rắc rối ấy không có ǵ đáng nêu lên, ngoại trừ tướng Hà Ứng Khâm và đại bản doanh Chiến trường nổi cáu lên v́ hành động không được phép ấy của người Pháp. Như câu chuyện về sau được làm sáng tỏ ra, trong một kế hoạch rút lui về lục địa Trung Quốc, người Nhật đă bỏ ḥn đảo ấy. Khi biết tin người Nhật đă bỏ đảo Weichow, M.5 ra lệnh cho các tàu tuần tiễu của họ (Frézouls và Crayssac) chiếm lấy đảo này bằng một đơn vị nhỏ của Pháp. Sainteny kiêu hănh gửi một bức điện cho tướng Chennault báo tin đă “phá hủy sân bay Nhật và chiếm đảo này nhân danh Đồng minh”. Mấy ngày sau, Sainteny bị Tổng chỉ huy Trung Quốc ra lệnh rút khỏi ḥn đảo và phải chấm dứ cũng như chưa không được xúc tiến những hoạt động không được cho phép sau này để khỏi gây tổn hại lớn cho các kế hoạch của Chiến trường.
Trong khi gỡ M.5 ra khỏi hành động hoang toàng đáng tức cười ở Weichow, Sainteny nói với trung úy Fauchier - Magnon rằng ông ta đang chuẩn bị một đội để “đánh chiếm” đảo Nightingale(15) với một đơn vị t́nh báo và một máy vô tuyến điện được AGAS cung cấp. Chính tướng Wedemeyer đă ra lệnh đ́nh chỉ các kế hoạch ấy.
Tôi giải thích những tṛ cường điệu trẻ con ấy là một cách mà Sainteny dùng để thu hút sự chú ư, v́ DGER và đặc biệt là M.5 của Sainteny vẫn chưa được thừa nhận ở cấp Chiến trường Trung Quốc.
Hoàn toàn thất vọng v́ hành động của người Pháp, tôi khuyên Heppner chấm dứt sự ủng hộ đáng ngờ của DGER. Toàn bộ vấn đề này đă được đặt ra ở một hội nghị tại Trùng Khánh ngày 29-6, giữa tướng Paul W. Caraway(16) đại tá Joseph Dickey(17), Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi. Tôi phác lên những thỏa thuận OSS - DGER (M.5), những thành tựu và những thất bại của nó. Tôi thừa nhận rằng người Pháp có một tiềm năng to lớn cho những hoạt động bí mật, miễn là chúng ta chấp nhận DGER như một cơ quan b́nh đẳng trong Chiến trường và đưa họ vào các kế hoạch của Chiến trường. Tuy nhiên, tôi cảnh cáo rằng, nếu chúng ta đi theo con đường đó, th́ vai tṛ của tướng Sabattier với tư cách Tổng chỉ huy sẽ bị phụ thuộc vào quyền của DGER và chúng ta sẽ bỏ mất quyền kiểm soát đối với những hành động của Pháp trong Chiến trường.
Dickey và Whitaker đồng ư với sự đánh giá của tôi và nêu rơ rằng tướng Alessandri đă gặp tướng Gross ở Côn Minh ngày 22 và gặp tướng Ray T. Maddocks(18) ngày 27 để đi tới một thỏa thuận đúng về những điểm đó - thừa nhận vai tṛ của DGER và của Sabattier trong những hoạt động bí mật. Tướng Caraway nhận xét rằng: Mặc dù đó là một vấn đề riêng của người Pháp, chúng ta vẫn có trách nhiệm tinh thần và pháp lư đối với sự ủng hộ viên chỉ huy đă được bổ nhiệm một cách hợp thức là Sabattier.
Heppner, trước kia là một nhân viên tham mưu chủ chốt của đại bản doanh của huân tước Mountbatten, đă vạch rơ rằng sự thừa nhận chính thức DGER, bao hàm SLFEO thuộc SEAC cũng sẽ được phép hoạt động ở Chiến trường Trung Quốc; đó là một vấn đề quyền hạn nghiêm trọng, đ̣i hỏi phải được sự đồng ư của Thống chế (Tưởng). Heppner cũng nêu lên rằng người Pháp không phải chỉ là nguồn duy nhất gây hỗn loạn ở chiến trường Trung Quốc. Ông ta có nhiều báo cáo cho biết Nhóm yểm trợ Quân đội Anh (BAAG), dưới quyền chỉ huy của đại tá Ride đang hoạt động ở khu vực Hongkong - Quảng Châu, trang bị vũ khí cho du kích Trung Quốc nhằm sẵn sàng kiểm soát Hongkong trong trường hợp Đồng minh đổ bộ. Những hoạt động của cả Anh và Pháp ở chiến trường Trung Quốc không được Thống chế đồng ư và do đó sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động của OSS. Heppner đă báo cho tướng Wedemeyer biết về những hoạt động của BAAG và ông ta đă lưu ư trung tướng E.C. Hayes, Tổng chỉ huy quân đội Anh ở Trung Quốc về điều này. Hayes hứa sẽ điều tra vấn đề này và sẽ cung cấp một báo cáo đầy đủ. (Bảy tuần lễ sau đó, khi chiến tranh kết thúc, tướng Hayes vẫn chưa làm xong công việc này).
Chúng tôi kết luận rằng cần phải có một lập trường kiên quyết. Tuy nhiên, sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc không thể bị bỏ qua và cần được sử dụng, mặc dù có những vấn đề khó khăn về chính trị và hậu cần. Tướng Caraway báo cho Wedemeyer rằng ông ra đă khuyến cáo với tướng Marshall “ngay khi những lực lượng (của Pháp) ấy đă lại sung sức về thể chất, họ sẽ được sử dụng như những người bảo vệ sân bay, những đội tuần tiễu biên giới, những nhân viên t́nh báo, và những đội SCS(?)”. Như vậy, chúng ta đă cam kết thực hiện một cố gắng phối hợp để sử dụng họ vào những mục đích nào đó. Cho đến nay, họ đă được sử dụng ở tất cả các khu vực đă nói trên, trừ t́nh báo ra. Có lẽ, nếu chúng ta nêu ra một hay hai điểm, th́ M.5 có thể dễ chấp nhận một phần sự giám sát. Tướng Caraway sẽ báo cáo với tướng Maddocks và tôi phải chuẩn bị cho Heppner một giác thư về những sự vi phạm của Pháp đối với thỏa thuận DGER - OSS.
Ngoài những lư do đó, một thỏa thuận cụ thể mới với người Pháp đă được vạch ra ngày 3-7, giữa tướng Weart và tướng Alessandri. Mọi người có mặt đă biểu lộ sự thông hiểu và hài ḷng với những điểm chủ yếu sau đây:
- Hàng tuần phải báo cáo cho tướng Wedemeyer về mọi hoạt động của DGER ở Chiến trường Trung Quốc;
- M.5 phải bảo đảm kiếm được những tin tức t́nh báo do DGER đóng ở Ấn Độ và chuyển giao cho tướng Wedemeyer;
- DGER phải nhận những chỉ thị trực tiếp từ Paris hay từ Bộ thuộc địa, không nhất thiết qua Sabattier;
- DGER được thừa nhận là cơ quan t́nh báo Pháp về Đông Dương, cần biết về tất cả các hoạt động bí mật có liên quan với nhân viên người Pháp được tiến hành như thế nào, ở đâu và tại sao;
- Sabattier không được bác bỏ bất cứ sự phản đối nào do DGER nêu lên về những hoạt động t́nh báo đặc biệt;
- Trong việc vạch kế hoạch và chỉ huy những hoạt động t́nh báo về Đông Dương, OSS phải hành động thông qua những đường liên lạc chỉ huy b́nh thường của Pháp, đặc biệt là đối với những hoạt động t́nh báo thông qua DGER và những hoạt động quân sự thông qua Sabattier.
Chúng ta đă nêu lên một hay hai điểm thừa nhận chính thức DGER như một cánh tay của Chính phủ Paris và đồng ư một mức độ tự trị nào đó của nó, nhưng chúng ta không từ bỏ sự kiểm soát hay chịu để cho Sabattier có quyền cao nhất. Khi chúng tôi hỏi Sainteny ông ta nghĩ như thế nào về thỏa thuận mới này, ông ta nhận xét một cách thô lỗ: “Mới ǵ?
”.

MỘT TRƯỜNG HỢP CHƠI TR̉ ẢO THUẬT

Trong những tuần lễ thỏa thuận và không thỏa thuận của chúng tôi, tôi đă yêu cầu M.5 khẩn cấp lấy bản dự án mang tên COMORE. Đó là một phần của việc chuẩn bị cho Carbonado để tăng thêm những thông tin của chúng tôi về việc người Nhật đă biết đến mức nào về các kế hoạch của Mỹ - Trung Quốc, những lực lượng nào được tập trung ở khu vực Hà Nội - Hải Pḥng và ở hành lang Lạng Sơn - Lào Cai, những sân bay và hải cảng nào có những hoạt động bất thường, và đang có những di chuyển quân đội như thế nào.
Tôi giao nhiệm vụ cho một người Jedburgh cũ, đại úy Lucien E. Conein(20), một chuyên gia về các chiến thuật phá hoại và du kích, nói thạo tiếng Pháp, đáng tin cậy, và không hoàn toàn đồng ư với chính sách của Pháp đối với Đông Dương. Đội này có khoảng 100 binh sĩ Pháp - Việt và 5 sĩ quan và binh sĩ Mỹ. COMORE thực hiện được những cuộc đột kích song song vào các cứ điểm Nhật trong những hoạt động bắt đầu đêm 28 rạng 29 tháng 7 và tiếp tục cho đến 8-8, chỉ có một trường hợp thương vong. Mặc dù người Nhật chống cự mạnh mẽ, nhân viên COMORE đă đốt cháy và phá hoại các kho xăng và đạn dược, một ban chỉ huy tiểu đoàn và một số doanh trại. Họ bắt được hai tù binh Nhật (một là sĩ quan) về để hỏi cung và những tài liệu có thể mang theo được.
Thành công của COMORE là một thước đo của sự yên tâm về triển vọng cộng tác với người Pháp, nếu không có những khó khăn mới đồng thời tăng lên trong cùng thời kỳ đó. Tôi hết sức ngạc nhiên khi Sainteny đang trên đường về Paris th́ tôi nhận được của M.5 ngày 20-7 một kế hoạch hoàn toàn mới mang mật danh MAROC, một cuộc hoạt động Hải quân nhằm thu lượm t́nh báo từ lục địa Trung Quốc và những vùng ven biển. Nó đ̣i hỏi một số đơn vị phụ thuộc, bao gồm một số binh sĩ không hạn định của Pháp - đâu vào khoảng mấy trăm đến mấy ngh́n. Theo người Pháp, MAROC được phục vụ bởi một trạm vô tuyến điện của OSS, mà những đơn vị phụ thuộc ấy sẽ gửi những tin tức của họ đến trạm theo mật mă OSS. “Những đường liên lạc hiện có của Pháp chỉ được dùng cho việc buôn bán công khai”. Kế hoạch có vẻ nghe xuôi tai khi mới đọc qua, ngoại trừ việc OSS cấp vũ khí và trang bị cho binh sĩ Pháp.
Tuy nhiên, một sự xem xét kỹ lưỡng kế hoạch MAROC lại để lộ ra rằng vị trí chỉ huy của nó được đặt ở lănh sự Pháp ở Pakhoi, chỉ do người Pháp đảm nhiệm. Thủy thủ của hai chiếc thuyền (Bluebird và Vieux Charles) được đặt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Ngoài ra, hai đơn vị phụ (Oise và Bạch Long Vĩ) cũng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, có liên lạc với người Trung Quốc và AGAS. Nhân viên OSS sẽ chỉ tham gia với sự đồng ư hoàn toàn của chỉ huy Pháp. Trung úy Jordan, lúc đó ở Pakhoi, được cắt cử vào kế hoạch MAROC để nhận những đồ tiếp tế của Mỹ thả dù xuống, do người Pháp phân phối.
Tôi tức điên lên. Rơ ràng OSS chỉ được trông đợi để cấp tiền và vũ khí cho những hoạt động không hề chịu một yếu tố kiểm soát nào của Mỹ. Về điểm này, tôi đă thật sự mệt mỏi với sự “cộng tác” và những âm mưu của M.5, và ngay lập tức tôi yêu cầu M.5 làm sáng tỏ vấn đề chỉ huy và kiểm soát. Các bản sao bức thư của tôi gửi Heppner và Helliwell có ghi chú: “Nếu có những thay đổi ấy, th́ sự kiểm soát của OSS đối với những hoạt động ở Đông Dương thuộc Pháp sẽ c̣n lại con số không, và chúng tôi sẽ chủ yếu thành một cơ quan tiếp tế cho những hoạt động độc lập của DGER”. Sự kết thúc đột ngột của cuộc chiến tranh đă may mắn cứu tôi khỏi một trong những điều bực ḿnh và tranh chấp mà kế hoạch MAROC rơ ràng đă đẻ ra.
Binh sĩ Pháp tại chỗ đă bị bỏ mặc trong suốt thời kỳ bất đồng và thương lượng kéo dài ấy. Ở K’aiyuan, Posech, Tŕnh Tây và ở những khu vực khác có người Pháp tập trung, họ được cung cấp rất tồi tệ về áo quần, giày, thuốc men và những khoản khác. Vấn đề huấn luyện và sử dụng những binh sĩ ấy vào các hoạt động của OSS c̣n tùy thuộc vào việc họ được trang bị bởi Chiến trường như thế nào. Cứ mỗi lần chúng ta trang bị cho một đơn vị để làm nhiệm vụ đặc biệt, th́ một phần lớn nhân viên của đơn vị ấy lại bị chuyển ra khỏi sự kiểm soát của OSS và một nhóm binh sĩ mới không ai thừa nhận lại thay thế họ. Rơ ràng là sự khôn ngoan tầm thường ấy đă làm cho nhiều người hơn có áo quần mặc, nhưng chương tŕnh huấn luyện tất nhiên phải bị tiến triển chậm lại. Một khía cạnh nghiêm trọng hơn nhiều của cái lối láu cá ấy, không đơn giản lắm, là khi chúng tôi biết được rằng những đồ tiếp tế như vũ khí và đài vô tuyến điện không phải bao giờ cũng được giữ lại ở những đơn vị ấy mà lại bị cất giấu đi cho những hoạt động sau này của Pháp để chiếm lại Đông Dương. Tôi đưa cho Heppner một đanh sách những đồ tiếp tế, tất cả đều được các sĩ quan Pháp nhận một cách hợp lệ, mà không c̣n thấy ở những đơn vị Pháp được chỉ định làm nhiệm vụ của OSS nữa, và Heppner đă báo cáo vấn đề lên tướng Olmsted.
Một lần nữa, Alessandri gặp các tướng Maddocks, Caraway và Olmsted. Tấn công ngay lập tức, Alessandri hỏi chúng tôi đă nhận được chỉ thị từ Washington về việc cung cấp cho người Pháp những thứ hàng theo luật cho Vay - Mượn vũ khí hay không. Olmsted trả lời có, người Pháp có đủ tư cách để nhận sự viện trợ ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bắt đầu lấy được trang bị của Mỹ ngay, mà phải 6 tháng sau mới có thể cung cấp trang bị ấy và chở đến Trung Quốc được. Hơn nữa, Olmsted không thể đồng ư với tiền đề của Alessandri là mọi đồ cung cấp hiện có để trang bị cho quân đội Pháp không phải là để cho họ tách khỏi những hoạt động do Chiến trường chỉ huy: “Chúng tôi không có một sự bố trí riêng nào cho những lực lượng chiến đấu tách biệt của Pháp cả”.
Alessandri tỏ vẻ ngạc nhiên v́ thông tin ấy: ông ta đă được trả lời mọi điều mà ông ta phải hỏi. Olmsted kiên tŕ giải thích rằng chỉ có một số ít hàng ăn mặc đă có sẵn. C̣n trang bị chiến đấu th́ phải đợi gửi từ Mỹ sang và nói chung phải mất 6 tháng. Alessandri trông ỉu x́u. Sáu tháng là quá dài, ông ta nói. Caraway hỏi Alessandri đang chờ có bao nhiêu binh sĩ ở Chiến trường Trung Quốc; ông ta trả lời: “5.000!”. Olmsted cố làm nguôi bớt sự choáng váng của Alessandri, nhưng nói thẳng thắn rằng ông ta không có cách nào để đẩy nhanh hơn quá tŕnh này cả.
Lúc đó, tướng Alessandri đề nghị mua trang bị bất cứ ở đâu và chuyên chở bằng máy bay Pháp. Và ông ta lại được nhắc cho biết rằng các sân bay đều đang hoạt động hết năng lực rồi. Alessandri cố gắng một lần nựa: liệu ông có thể mua trang bị ở Ấn Độ và mua các xe chở hàng để chuyển qua con đường Miến Điện không? Ông ta được nói cho biết rằng xăng dầu cho xe chở hàng bị hạn chế rất ngặt nghèo và nhiều đoàn xe đang chờ đợi có đường để đi và trong trường hợp ông ta không hiểu được điều đó th́ ông ta sẽ yêu cầu tới 2.500 chiếc xe tải để duy tŕ 5.000 binh sĩ bằng những nguồn tiếp tế lấy ở Ấn Độ. Hoàn toàn thất vọng, Alessandri nhắc lại rằng binh sĩ Pháp sẽ không thể tham gia các hoạt động nếu như trang bị cho họ đến quá muộn. Maddocks ghi nhận một cách lịch sự rằng ông ta đă hiểu được những ǵ viên tướng này cần phải làm. Mọi người đều thấy rơ ràng mối lo lắng của Alessandri không phải là để đánh bại Nhật, mà là để sẵn sàng giữ Đông Dương cho nước Pháp. Vấn đề tiếp tế của OSS thậm chí cũng không được nhắc đến tại cuộc gặp gỡ, nhưng điều muốn nói đă toát lên rất rơ - binh sĩ Pháp chỉ được cung cấp vũ khí và trang bị cho những hoạt động do OSS kiểm soát và do Chiến trường chỉ huy.
Alessandri cố cứu văn t́nh h́nh một cách tuyệt vọng bằng cách bày tỏ sự thất vọng của ông ta đối với việc giao cho binh sĩ Pháp giữ các sân bay và tham gia các hoạt động của OSS. Ông ta nói rằng, ông ta muốn thấy họ được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu. Tướng Maddocks đă gợi ư một cách lịch sự là sẽ nêu vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm, và Hà sẽ có những đề nghị thích hợp của ḿnh cho Thống chế. Tất cả chúng tôi đều biết rằng người Pháp đă được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu ở vùng đông bắc Trung Quốc, nhưng họ đă từ chối, bề ngoài nói là do bộ đội của họ chưa thật khỏe mạnh để làm nhiệm vụ chiến đấu. Sự thật là người Pháp thích ở gần biên giới Đông Dương một cách tiện lợi hợn là chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu ở những nơi khác ở Trung Quốc.
Khoảng 10 ngày sau đó, trong khi Sainteny vẫn tiếp tục vắng mặt, Flichy gửi cho tôi những nhận xét và những sửa đổi riêng của ông ta đối với kế hoạch MAROC và dường như chúng tôi có thể đạt tới một bước tiến nào đó về vấn đề này. Nhưng vào lúc đó có cả một ḍng tin tức lại từ Pakhoi đến bất ngờ và chặn đứng bước tiến ấy. Người Pháp giải thích không đâu vào đâu rằng khi chúng tôi bàn bạc về kế hoạch MAROC th́ việc phải có người và trang bị để những công việc trùng lên nhau trong cùng một khu vực là vô nghĩa. Sự giải thích ấy hoàn toàn không thuyết phục. MAROC vẫn chưa tồn tại và OSS hoàn toàn chưa nhận được ǵ hết từ Pakhoi gửi đến. Và thế là sự “cộng tác” OSS - M.5, vốn đă chưa có, lại trở thành phá sản.
Chúng tôi may mắn có được những nguồn t́nh báo khác. Ba hệ thống t́nh báo lớn dă tung được người vào phạm vi hoạt động gồm những người Pháp và Việt đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan chính quy Pháp trung thành với Sabattier. Chúng tôi c̣n có 5 nhóm có những mục tiêu riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người Pháp. Tất cả có chừng 300 đội t́nh báo và đơn vị du kích, với một mạng lưới liên lạc rộng lớn hoạt động không dựa vào DGER chút nào. Chúng tôi cũng nhận được một luồng tin tức t́nh báo đều đặn và đáng tin cậy từ bộ máy Hồ Chí Minh và từ những cá nhân ở những địa phương khác nhau không gắn với bất cứ một mạng lưới t́nh báo nào.
Với sự kết thúc chiến tranh đột ngột chỉ trước có mấy ngày, nhiệm vụ bảo đảm t́nh báo về Đông Dương của tôi để cung cấp cho những hoạt động quân sự của chúng ta cũng đ́nh chỉ đột ngột, nhưng những cuộc xung đột với Nhật vẫn chưa kết thúc hẳn v́ những hoạt động của Sainteny: chiến dịch của ông ta chỉ mới bắt đầu.
Chú thích :

(1) trước đó - tiếng Pháp
(2) nguyên trạng - tiếng Pháp
(3) chỉ huy phó nhóm M.5
(4) Jean Roger Sainteny (1907-1978), chỉ huy nhóm M.5 ở Côn Minh, con rể cựu Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (1872-1962); đến Hà Nội cùng với toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng ḥa Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1945-1947), là người đại diện nước Pháp kư bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Hồ Chí Minh; sau làm tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại VNDCCH (1954-1957)
(5) hay Bắc Hải, một cảng thuộc Quảng Đông cách Móng Cái 60 dặm
(6) trưởng toán OSS/SO, mật danh là “Chow”, đóng ở Posech, bắc Tŕnh Tây 60 dặm
(7) Cảnh giác - tiếng Pháp
(8) thuộc Quảng Đông, bắc Pakhoi 120 dặm
(9) thuộc Hải quân Mỹ, chịu trách nhiệm phối hợp với AGAS để trinh sát bờ biển cho OSS
(10) Nhóm gồm 8 sĩ quan, 40 lính lê dương người Âu và 60 lính người Việt
(11) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
(12) Thủ trưởng DGER ở Paris
(13) Chỉ huy trưởng SLFEO/Cacutta
(14) nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách Pakhoi 25 dặm
(15) nằm trong vịnh Bắc Bộ, các Móng Cái 100 dặm
(16) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
(17) Trợ lư Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa, phụ trách Ban t́nh báo G-2
(18) Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
(19) sau là sĩ quan CIA tại miền Nam Việt Nam, đạo diễn cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đ́nh Diệm 1-11-1963

 

Chương 12

“Quyền ủy trị” được xác định lại

Chỉ thị gián tiếp của Roosevelt về Đông Dương là nhằm để giải quyết vấn đề đó vào thời kỳ sau chiến tranh chứ không phải vào giũa năm 1945, khi Mỹ đang phải đương đầu với t́nh h́nh thay đổi nhanh chóng ở Đông Nam Á, hoặc đang ở trong một t́nh trạng cấp bách của chiến tranh. Những chỉ thị của Washington lúc đó chỉ gây thêm phức tạp và rối rắm cho các quyết định cấp bách về chỉ huy và làm gây cấn thêm t́nh trạng tranh chấp giữa Pháp, Trung Quốc và Mỹ.
Những điều bí mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng 2, cuộc đảo chính tháng 3 của Nhật và cái chết của Roosevelt trong tháng 4 ngay trước khi bước vào Hội nghị San Francisco đă làm cho vai tṛ của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm vóc của nó. Trong những kế hoạch tiến hành chiến tranh của chung ở Trung Quốc dự kiến cho đến năm 1946, chúng tôi không đặt vấn đề có sự tham gia của Pháp. Tuy vậy đến đầu năm 1945 th́ Pháp đă được coi như là thành viên của Chiến trường Đồng minh. Do đó, Đại sứ Hurley, tướng Wedemeyer và đại tá Heppner đă phải thường xuyên chất vấn Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và OSS ở Washington xem có phải là đă có một sự thay đổi chính sách hoặc ít ra th́ cũng phải có một sự giải thích để làm sáng tỏ t́nh h́nh.
DE GAULLE ÉP TRUMAN

Trong ṿng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle đă tiến hành một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận thế giới sang phía có lợi cho việc giữ nguyên t́nh trạng của Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi ư một cách không có cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương đă thay đổi dưới chính quyền Truman. Đợt tuyên truyền đó đă được triển khai đồng thời ở Trung Quốc và ở nước Mỹ vào ngày 25-4 khi tướng (đại sứ) Pechkov đọc một bài diễn văn tại cuộc họp báo cùng lúc với việc mở đầu Hội nghị San Francisco. Ông nói:
“Pháp đang chiến đấu ở Thái B́nh Dương, nơi có chiến hạm Richelieu, một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới đang tuần tiễu và ở Đông Dương, nơi những du kích Pháp đang quấy rối người Nhật và ngăn chặn không cho họ tiến đánh Vân Nam và Quảng Tây...
Trong cuộc xung đột này, người Đông Dương tỏ ra trung thành với sự nghiệp của Pháp. “Quyền ủy trị” thực sự đă nằm trong trái tim chúng ta…”.
Ở đây, có vấn đề được đặt ra là trên thực tế tàu Richeheu phải chăng có mặt ở Thái B́nh Dương vào thời điểm đó? Tôi chỉ có thể trả lời rằng, theo Hải quân Mỹ cho biết th́ trong khoảng từ 15 đến 30 tháng 4 năm 1945, tàu đó đang có mặt ở Ấn Độ Dương. Nhưng luận điệu nói là “du kích người Pháp” quấy rối Nhật ở Đông Dương và ngăn chặn những cuộc tấn công vào phía nam Trung Quốc đă được xác định rơ là cường điệu hoàn toàn. Người Việt Nam đă sớm nói lên tiếng nói của họ.
Sau khi Roosevelt mất, người phát ngôn của Pháp ở San Francisco đă t́m được những vũ khí tuyên truyền tốt nhất của họ trong lời tuyên bố năm 1942 của Sumner Welles và trong chương tŕnh về các dân tộc phụ thuộc của Mỹ đưa ra tại Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944. Ngày 2-5, G. Bidault, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San Francisco, đă tuyên bố một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng quyết định về tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào nước Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đă đề cập đến quyền ủy trị như đă được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố rằng nguyên tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào đó chứ không phải cho Đông Dương.
Sau này Bonnet phàn nàn với Ngoại trưởng Stettinius rằng “mặc dù Chính phủ Pháp hiểu lời tuyên bố của Welles năm 1942 có liên quan đến việc khôi phục lại chủ quyền của Pháp đối với đế quốc Pháp trước đây là có bao gồm Đông Dương ở trong đó, nhưng báo chí Mỹ vẫn cứ tiếp tục nói rằng một qui chế đặc biệt vẫn dược dành cho khu vực thuộc địa này”. Để tránh có sự bất đồng trong hội nghị, Stettinius khẳng định với Bidault rằng “bất cứ lời tuyên bố chính thức nào của Chính phủ nói đến chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, thậm chí… nhưng trong dư luận công chúng Mỹ cũng có những ư kiến nào đó lên án những chính sách và những điều thực hành của Pháp ở Đông Dương”.
Sau bước thăm ḍ kết quả, De Gaulle tăng sức ép đối với chính quyền mới ở Washington từ một hướng khác. Trong một bức công hàm riêng, De Gaulle yêu cầu Tổng thống Truman tiếp Bộ trưởng Ngoại giao của ông ta để ông này thảo luận về sự tham gia của các lực lượng Pháp “bên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến dịch quyết định chống Nhật”.
Bidault thăm Nhà Trắng ngày 17-5. Sau khi bày tỏ ḷng cảm kích đối với đề nghị được tham gia chiến đấu của De Gaulle, Tổng thống nói với Bidault rằng chính sách của ông ta là để cho Tổng tư lệnh Chiến trường (Mac Arthur) quyết định nếu như có thể được và có cần thiết phải để các lực lượng Pháp tham gia vào các cuộc hành quân chống Nhật hay không. Bản thân Tổng thống cho rằng việc này c̣n tùy thuộc khá nhiều vào điều kiện chuyên chở vận tải, một vấn đề đ̣i hỏi phải có một lực lượng lớn gấp 3 lần trong chiến tranh ở Đại Tây Dương.
Ngày hôm sau, Grew và Bidault cũng thống nhất với nhau sau khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề nói trên. Nhưng Bidault lại cho biết thêm là đă có hai sư đoàn của Pháp sẵn sàng để đưa ngay sang Viễn Đông. Có thể là nhằm cho Grew yên tâm về những động cơ của Pháp, Bidault nói ngay rằng các sư đoàn đó có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào tại Viễn Đông và Pháp không có ư định hạn chế sự đóng góp của họ chỉ ở trong việc chống lại kẻ thù ở Đông Dương. Grew đáp lại là sẽ nêu ngay vấn đề này với các nhà chức trách quân sự của chúng ta.
Trong khi bộ máy ngoại giao khuấy động th́ cơ quan đấu tranh chính trị của DGER ở Calcutta và Trùng Khánh cũng cho tung ra tin đồn là do “các nhân vật cao cấp” cho biết Washington đă bỏ rơi quan niệm về quyền ủy trị và cũng không c̣n phản đối việc Pháp quay trở lại Đông Dương nữa.
ĐIỀU G̀ ĐĂ XẢY RA Ở YALTA

Chiến trường Trung Quốc là “điểm chót tận cùng” trong Thế chiến. V́ vậy tin tức về những sự kiện ở Washington, London và Paris đến đó được, chủ yếu là do con đường trao đổi thư từ cá nhân giữa những người bạn quen thuộc với nhau. Những đường thông tin liên lạc chính thức giữa những người vạch ra quyết định ở các thủ đô thế giới với các nhà lănh đạo ngoại giao và quân sự ở Trung Quốc thường bị hạn chế trong những chỉ thị từng phần nhằm ngăn ngừa việc giải thích theo ư cá nhân hoặc các hành động có tính chất độc lập. Những chính sách cơ bản giao cho tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley từ khi họ mới được chỉ định sang Trung Quốc đă thay đổi liên tục ở Washington, nhưng những thay đổi đó lại chỉ được nêu lên một cách rơ ràng sau khi sự việc thực tế có liên quan đến sự thay đổi đó đă xuất hiện. Cũng may mà t́nh trạng đó không phải chỉ riêng những người Mỹ ở Trung Quốc mới có; trong những chừng mực nhất định, nó c̣n tồn tại ở người Anh, người Pháp. Và ngay cả trong các chính sách của người Trung Quốc cũng có t́nh trạng tương tự.
Để đối phó với những yêu sách quá mức của người Pháp và đấu tranh với các tin đồn đại về việc Mỹ thay đổi chính sách, chúng tôi phải dựa vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Đại sứ quán Mỹ. Đại sứ Hurley cũng khá thông thạo về vấn đề quyền ủy trị của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944 và cũng biết rằng vấn đề đó đang được “ba nước lớn” thảo luận tại Yalta. Tuy vậy, ông cũng không được thông báo là vấn đề đó đă được phê chuẩn hay đă bị sửa đổi. T́nh huống nào cũng đều tác động đến mối giao dịch của ông ta cũng như của giới quân sự đối với người Pháp ở Trung Quốc. V́ vậy, Hurley muốn biết quyết định cuối cùng của Washington và ngày 10-5, ông đă điện về Mỹ, nhắc đến lời tuyên bố báo chí của Pechkov, như sau:
“V́ một thực tế là qui chế tương lai của khu vực đó chắc chắn sẽ làm cho người ta ở đây quan tâm và thảo luận ngày càng nhiều nên thật là bổ ích cho tôi nếu như Bộ ngoại giao bí mật thông báo riêng cho tôi biết nội dung các quyết định ở Yalta (hoặc bất cứ một quyết định nào khác về chính sách) xung quanh vấn đề ấy. (Tôi biết rơ chính sách của Roosevelt đối với Đông Dương nhưng muốn xác định xem chính sách đó có ǵ thay đổi không)”.
Tám ngày sau, Hurley nhận được một trả lời ngắn gọn: “Không có quyết định nào của Yalta (SFAMB) liên quan đến Đông Dương mà Bộ Ngoại giao được biết (URTEL 750, ngày 10-5). Các tài liệu về chính sách quân sự và chính trị hiện đang nghiên cứu sẽ được chuyển đến để làm thông báo một khi đă được phép. Grew (điện).
Câu trả lời kín đáo của Grew làm tăng thêm sự lẫn lộn. Nếu không có quyết định nào đạt được ở Yalta, tại sao Bộ Ngoại giao lại không muốn tiết lộ ra. Thư tín trao đổi giữa các nhân viên tham mưu dự họp ở Yalta với Trùng Khánh nói rằng vấn đề Đông Dương đă được thảo luận chí ít là giữa Roosevelt và tướng Marshall, và có thể dưới một h́nh thức nào đó với cả Churchill và Xtalin.
Vài ngày sau, Hurley gửi một bức điện cá nhân dài đến Tổng thống Truman, đề cập đến quyền lợi và các cuộc vận động của Anh ở châu Á. Với một ngôn ngũ rơ ràng, Hurley bày tỏ mối lo ngại về việc Mountbatten đă sử dụng viện trợ Vay - Mượn và các nguồn tài nguyên khác của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương, nhằm làm thất bại cái mà Hurley cho là chính sách của Mỹ và để thiết lập lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ta muốn tổng thống hiểu rằng hiện nay ở châu Á có dư luận ngày càng tăng, cho là ở đây Mỹ đang nghiêng về xu hướng đế quốc hơn là dân chủ. Theo Hurley th́ đó là một điều phi lư và cần uốn nắn. Từ vị trí xa xôi cách biệt của ḿnh, ông có ấn tượng rằng đoàn đại biểu Mỹ ở San Francisco h́nh như ủng hộ thuyết đặt các thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc dưới sự kiểm soát đế quốc với h́nh thức các nước đế quốc riêng rẽ hoặc liên kết với nhau chứ không phải đặt dưới sự ủy trị của Liên Hợp Quốc.

TRUMAN NÓI: KHÔNG THAY ĐỔI

Bức điện của Hurley được Nhà Trắng chuyển cho Bộ Ngoại giao ngày 29-5 để phúc đáp lại một cách thích đáng vào 8 ngày sau, đồng thời cũng nêu hai vấn đề là sự kiểm soát của Pháp ở Đông Dương và nguyện vọng chiếm lại Hongkong của Anh.
“…Tổng thống yêu cầu tôi nói rằng không có thay đổi cơ bản nào trong chính sách... Và lập trường hiện nay là như sau:
Tổng thống cho rằng ông thông hiểu lời phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao ngày 3-4-1945, trong đó được sự đồng ư của Tổng thống Roosevelt, Stettinius đă tuyên bố rằng kết quả các cuộc thảo luận ở Yalta cho thấy, cơ cấu về quyền ủy trị phải được xác định thế nào để cho phép đặt dưới nó những lănh thổ nhất định chiếm được từ kẻ thù trong cuộc chiến tranh này (như đă được thông qua vào một ngày sau đó) và cả những lănh thổ khác nếu họ tự nguyện chấp nhận sự ủy trị. T́nh h́nh vừa được công bố liền được khẳng định bằng những cuộc trao đổi ư kiến hiện nay đang diễn ra ở San Francisco bàn về các quyền ủy trị. Suốt trong các cuộc thảo luận này, đoàn đại biểu Mỹ nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc một h́nh thức tiến bộ về Chính phủ tự quản để họ đi đến một kiểu liên bang nào đó phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của các dân tộc có thể loại trừ việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông Dương, trừ khi Chính phủ Pháp đồng ư. Mà điều đó th́ h́nh như không thể được. Tuy nhiên đó chỉ là ư định của Tổng thống vào những thời điểm thích hợp nhằm đ̣i hỏi Chính phủ Pháp có những biểu hiện tích cực tỏ rơ ư định muốn thiết lập các quyền tự do công dân và nới rộng các biện pháp về Chính phủ tự quản ở Đông Dương trước khi hoàn thiện hơn nữa tuyên ngôn về chính sách trong lĩnh vực này”.
Sau đó, bức điện kể lại cuộc nói chuyện của Tổng thống với Bidault và vạch ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng các tiêu chuẩn về khả năng sử dụng các lực lượng Pháp:
“a/ Trong khi tránh để không đi tới phải làm một điều ǵ không thiết thực, hay một cam kết dài hạn về khối lượng và tính chất của viện trợ mà Mỹ có thể cung cấp cho lực lượng kháng chiến của Pháp ở Đông Dương th́ Chính phủ (Mỹ) vẫn tiếp tục giúp đỡ trong chừng mực không ảnh hưởng đến những yêu cầu của các chiến dịch đă được hoạch định. V́ phải đáp ứng nhu cầu tập trung mọi tiềm lực của chúng ta ở Thái B́nh Dương cho các chiến dịch đă được vạch ra, do đó trong lúc này không dự liệu những chiến dịch qui mô lớn nhằm trực tiếp giải phóng Đông Dương. Quân đội Mỹ sẽ không được sử dụng ở Đông Dương ngoài các chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại Nhật.
b/ Lời đề nghị giúp đỡ được đánh giá về mặt quân sự như là một hành động nhằm mục đích đánh bại Nhật Bản cũng giống như trường hợp của Anh và Hà Lan.
V́ vậy không có ǵ ngăn trở việc cung cấp viện trợ cho các lực lượg quân đội và Hải quân Pháp theo như quan niệm đă được nêu ở trên, nhưng phải tính đến việc đừng để gây ra cho Chiến trường, nơi phải cung cấp sự viện trợ đó, một sự phân tán tiềm lực quân sự, kinh tế mà đáng lẽ Hội đồng tham mưu trưởng phải tập trung cho các nơi khác”.
Vào quăng giữa thánh 6, Heppner đă có dịp được đọc toàn văn bức điện nói trên và được phép phổ biến một số đoạn cần thiết cho một số ít nhân viên trong cơ quan, trong đó có tôi.
Cả Heppner và tôi đều cho là chính quyền Truman đă đầu hàng trước yêu sách của De Gaulle, chấp nhận chỉ chịu để cho Đông Dương thuộc quyền ủy trị nếu có sự đồng ư của Pháp. Nhưng đối với giới quân sự, th́ Đông Dương có được đặt thuộc quyền ủy trị hay không lại là một việc không quan trọng. Điều đáng quan tâm là vấn đề cung cấp cho Pháp những sự hỗ trợ và tiếp tế hậu cần, và nhằm vào mục đích ǵ. Chúng tôi hy vọng sẽ có những lời tuyên bố dứt khoát hơn, một lời tuyên bố có thể làm tiêu tan những mập mờ mà chúng tôi đang phải cố gắng khắc phục. Điều cơ bản mà chúng tôi cần là những tiêu chuẩn chính trị cho phép OSS có thể cộng tác với người Pháp, Anh và Việt Nam; các giới hạn địa lư của khu vực hoạt động và việc mở rộng các hoạt động phi quân sự của OSS.
Heppner đă triệu tập một hội nghị để hy vọng làm sáng tỏ những điểm này. Hội nghị gồm các đại diện Đại sứ quán, các nhà làm kế hoạch của Chiến trường và các trưởng ngành của OSS.
BỐN CƯỜNG CUỐC TRỞ THÀNH NĂM

Theo báo cáo viên Đại sứ quán, mục tiêu chủ yếu của Roosevelt là nhằm bảo đảm và duy tŕ ḥa b́nh bằng một cơ chế tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc). Ông đă phác họa ra cơ chế lănh đạo là một nền chuyên chính tay tư, gồm những cường quốc tham gia chủ yếu vào cuộc chiến tranh: Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng sau các hội nghị Dumbarton Oaks và Yalta, rơ ràng là Anh cần có sự cộng tác của Pháp ở châu Âu và Roosevelt đă chấp nhận khái niệm “năm cường quốc”.
Cũng có thể là cuộc viếng thăm Mỹ vào tháng 7-1944 của De Gaulle đă ảnh hưởng đến Roosevelt. De Gaulle đă hứa là Pháp sẽ để cho Đông Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh. Roosevelt không nài ép ông về vấn đề ủy trị. Roosevelt cũng rất biết sự thù ghét của Churchill đối với việc xáo trộn cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á, mặc dù Xtalin và Tưởng đều tán thành thủ tiêu nó. (Quentin Roosevelt đă tiết lộ cho tôi biết là vào giữa tháng 3-1945, Tổng thống có thể đă có một lập trường ôn ḥa hơn nhưng không phải là đă hoàn toàn từ bỏ lư tưởng về quyền ủy trị. Theo “Q” th́ Roosevelt đă nói rằng, nếu nước Pháp cam kết nhận cho ḿnh vai tṛ của người được ủy nhiệm th́ ông sẽ không phản đối việc Pháp giữ lại các thuộc địa của ḿnh với ư nghĩa là một sự độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa đó sẽ được đảm bảo thực hiện).
Theo báo cáo viên Đại sứ quán, lần đầu Đông Dương đă trở thành một vấn đề nói trong các công hàm của Tổng thống vào tháng 11-1944. Khi Wedemeyer báo cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp đang hoạt động mạnh mẽ nhằm khôi phục lại địa vị chính trị và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á; Wedemeyer nói về phái đoàn quân sự của Blaizot ở Ấn Độ đang chuẩn bị xâm nhập vào Đông Dương và yêu cầu phải có chỉ thị chính trị v́ theo Wedemeyer th́ Đông Dương thuộc Chiến trường Trung Quốc. Ngày 16-11-1944, Tổng thống đă chỉ thị cho Hurley thông báo cho Wedemeyer biết rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương không thể được xác định trước khi có sự tham khảo với các đồng minh trong hội nghị Tham mưu hỗn hợp sắp tới và Tổng thống yêu cầu Hurley cung cấp đầy đủ cho ông các tin tức về hoạt động của Anh, Pháp và Hà Lan ở Đông Nam Á. Nhưng Hurley đă chẳng có ǵ để báo cáo thêm với Tổng thống và Tham mưu Trưởng Liên quân cũng chẳng rơ đồng minh của chúng ta mưu toan làm ǵ, ở đâu.
Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng 3-1945, Tổng thống đă nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và Pháp trong khu vực này, và chỉ được giúp đỡ họ những ǵ mà các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đ̣i hỏi.
Người ta đă kể lại chuyện Churchill đă điện cho Tổng thống rằng ông biết đang có những khó khăn nhất thời giữa Wedemeyer và Mountbatten chung quanh các hoạt động ở Đông Dương, và đề nghị có chỉ thị cho Hội đồng Tham mưu trưởng Hỗn hợp Anh - Mỹ (CCS) tổ chức một cuộc trao đổi sâu sắc và thẳng thắn về các ư đồ, kế hoạch và t́nh báo giữa hai tư lệnh chiến trường. Ngày 22-3, Roosevelt đă phúc đáp là ông và Churchill nên thống nhất với nhau để quyền cho Wedemeyer được phối hợp mọi chiến dịch của Anh, Mỹ và Trung Quốc.
Churchill đă không trả lời cho đến ngày 14-4, khi Wedemeyer trên đường từ Washington về Trung Quốc và đă dừng lại để gặp Mountbatten ở Bộ Tổng hành dinh SEAC. Lúc đó, giữa hai vị tư lệnh đă đạt được một sự “thống nhất hiểu lầm”. Wedemeyer ra về và cứ tưởng rằng SEAC sẽ không cho tiến hành các chiến dịch ở Đông Dương trước khi chưa được ông ta thông qua với tư cách là Tổng tham mưu trưởng của Tưởng. Mountbatten lại hiểu rằng tất cả những ǵ mà ông phải làm theo như sự thỏa thuận đă đạt được chỉ là thông báo cho Wedemeyer biết về những chiến dịch được dự kiến ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu trong công hàm của Churchill gửi cho Tổng thống sau đó đă phản ánh cách nh́n của Mountbatten. Ngày 14-4, Tổng thống Truman phúc đáp lại, đă chẳng có ǵ thống nhất với Churchill, mà lại nêu lên một cách đầy đủ hơn quan điểm của Wedemeyer về vấn đề thống nhất ư kiến.
Vào giữa tháng 5, sự bất đồng giữa hai vị tư lệnh trở thành công khai. Mountbatten thông báo cho Wedemeyer biết ông dự định cho 26 chuyến bay của không quân vào Đông Dương để tiếp tế cho các toán “du kích người Pháp”. Cho rằng Chính phủ Pháp đă đặt tất cả các đơn vị nói trên dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của Tưởng, Wedemeyer đ̣i Mountbatten phải bố trí để đảm bảo là tất cả đồ thiết bị tiếp tế phải được sử dụng vào việc chống Nhật. Mountbatten đă không đáp lại về vấn đề đó. Sau một đợt trao đổi tin tức chớp nhoáng mà Momlbatten cũng chẳng cho biết số lượng và địa điểm các đơn vị dự kiến được tiếp tế của Pháp, Mountbatten đă bất chợt ra lệnh cho phi cơ bay mà không chờ phải có sự đồng ư của Wedemeyer và Tưởng. Ngày 25-5, Wedemeyer đă kịch liệt phản đối Mountbatten và báo cáo với Hội đồng Tham mưu trưởng của chúng ta. Quan hệ chỉ huy giữa hai tư lệnh trở nên căng thẳng.
Trở lại hội nghị, Heppner yêu cầu chúng tôi đánh giá t́nh h́nh dưới ánh sáng của chỉ thị hiện hành, nhưng phải hết sức thận trọng đừng để vi phạm chính sách đă được công khai tuyên bố của Mỹ.
Helliwell mở đầu cuộc thảo luận bằng cách xem xét lại những mối quan hệ của chúng ta với Anh, Pháp và Việt Nam. Chúng tôi thống nhất ư kiến là OSS không cần quan tâm nhiều đến những hành động phối hợp Mỹ - Anh, ngoại trừ trường hợp có liên quan trực tiếp đến Đông Dương, và khi đó có thể phải chờ có quyết định của cấp trên. Đối với người Pháp và người Việt th́ vấn đề lại hoàn toàn khác. Trong một công hàm dài của Bộ Ngoại giao, Grew đă tuyên bố rơ ràng là ở đây không có ǵ thay đổi về cơ bản trong chính sách. Do đó chúng ta cần phải duy tŕ một cách hợp lư một nguyên trạng như trước đây. OSS chỉ việc không cần biết tới những cố gắng của Pháp để chiếm lại Đông Dương, và sẽ không làm ǵ để hỗ trợ hoặc ngăn chặn các cố gắng đó nhưng nếu có thể được th́ sẽ dùng các đội quân Pháp vào các cuộc hành quân bí mật. Những điều đó bao giờ cũng phải là một bộ phận hoặc phải được gắn chặt với các kế hoạch phối hợp của Chiến trường. C̣n đối với người Việt, th́ có nhiều sự hạn chế không cho chúng ta đóng góp vào việc thực hiện nguyện vọng chính trị của họ.
Một người trong hội nghị đă đặt câu hỏi xem phải làm thế nào khi đă rơ ra là tổ chức của người Việt Nam thực chất là chính trị, chống Pháp và chiến đấu giành độc lập dân tộc. Có ư kiến nêu lên là việc sử dụng các cá nhân người Việt cho các hoạt động bí mật do Chiến trường phối hợp không được coi như là một sự ủng hộ về chính trị hay quân sự đối với họ. Điều này đă gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối cùng, một trong những người thảo kế hoạch của Chiến trường đă kết luận là trong chừng mực mà người Việt có đóng góp vào nỗ lực của Đồng minh chống lại Nhật th́ chúng ta cũng không cung cấp cho họ một số khí giới nhiều hơn số họ cần để tự vệ cho cá nhân ḿnh. Như vậy, không ai có thể phê phán chúng ta là đă hoạt động một cách thiên vị.
Điểm phải bàn tiếp theo là vấn đề SEAC thâm nhập vào Đông Dương. Đă được khẳng định là Đông Dương tức là Việt Nam, Lào và Kampuchia là một bộ phận của Chiến trường Trung Quốc và thuộc quyền chỉ huy kiểm soát của Tưởng. Một người nào đó đă nêu lên tính chất hợp pháp của các khu vực hoạt động v́ ở đây thực ra chỉ có một thỏa thuận “lịch sử” giữa Mountbatten và Tưởng. Những thỏa thuận không chính thức như vậy rất không đáng tin cậy. Heppner ủng hộ ư kiến này và đưa ra những công văn của OSS gửi SEAC nói về các hoạt động của lực lượng 123 ở Lào và nam Đông Dương để làm chứng cứ. Tất nhiên, đó là sự thiếu phối hợp trong các kế hoạch hoạt động bí mật giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc.
Lúc đó, một người thảo kế hoạch của Chiến trường báo cáo là Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp có ư kiến như một phương án chia Đông Dương làm hai phần, một phần sẽ do SEAC có toàn quyền kiểm soát, bao gồm vùng phía nam của vĩ tuyến 15 hoặc 16 bắc. Theo ông, đây mới chỉ là đang giai đoạn chuẩn bị, và c̣n phải chờ có sự chấp nhận của OSS và sự đồng ư của Tưởng. Nhưng ông gợi ư OSS cần phải lưu ư đến vấn đề này để làm kế hoạch hoạt động tương lai ở Đông Dương. Heppner đă đồng ư. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe nói đến ư định cắt Việt Nam làm đôi và chúng tôi đă coi vấn đề đó là một vấn đề quy định pháp lư giữa các Chiến trường.
Hội nghị đă rất bổ ích cho những ai trong chúng tôi đang chuẩn bị hoạt động. Trong khi không có những chỉ thị hướng dẫn chi tiết của Washington, chúng tôi cũng đă có thể dựa vào một số điểm nói về cách giải quyết cấn đề ở cấp cao để vận dụng ở cấp chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi chưa nhận thức được đề án của Washington cắt Đông Dương làm hai phần đă có một ư nghĩa xa đến thế, nhưng đó cũng là một nhân tố quyết định t́nh h́nh của năm đang đi tới.

 

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: