MINH THỊ

 

NGƯỜI  QUỐC  GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG CHỨ KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.

NGƯỜI QUỐC  GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN  MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG XĂ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI XU   THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa

֎ Bài Viết Của Kim Âu ֎ Đại Kỷ Nguyên

֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot

֎ Vietnamese Commandos

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử

 

 

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

 

    ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎ 07-2008 ֎ 08-2008 ֎ 09-2008 ֎ 10-2008

֎ 11.2008 ֎ 11-2008 ֎ 12-2008 ֎ 01-2009

֎ 02-2009 ֎ 03-2009 ֎ 04-2009 ֎ 05-2009

֎ 06-2009 ֎ 07-2009 ֎ 08-2009 ֎ 09-2009

֎ 10-2009 ֎ 11-2009 ֎ 12-2009 ֎ 01-2010

֎ 03-2010 ֎ 04-2010 ֎ 05-2010 ֎ 06-2010

֎ 07-2010 ֎ 08-2010 ֎ 09-2010 ֎ 10-2010

֎ 11-2010 ֎ 12-2010 ֎ 01-2011 ֎ 02-2011

֎ 03-2011 ֎ 04-2011 ֎ 05-2011 ֎ 06-2011

֎ 07-2011 ֎ 08-2011 ֎ 09-2011 ֎ 10-2011

֎ 11-2011 ֎ 12-2011 ֎ 01-2012 ֎ 06-2012

֎ 12-2012 ֎ 01-2013 ֎ 12-2013 ֎ 03-2014

֎ 09-2014 ֎ 10-2014 ֎ 12-2014 ֎ 03-2015

֎ 04-2015 ֎ 05-2015 ֎ 12-2015 ֎ 01-2016

֎ 02-2016 ֎ 03-2016 ֎ 07-2016 ֎ 08-2016

֎ 09-2016 ֎ 10-2016 ֎ 11-2016 ֎ 12-2016

֎ 01-2017 ֎ 02-2017 ֎ 03-2017 ֎ 04-2017

֎ 05-2017 ֎ 06-2017 ֎ 07-2017 ֎ 08-2017

֎ 09-2017 ֎ 10-2017 ֎ 11-2017 ֎ 12-2017

֎ 01-2018 ֎ 02-2018 ֎ 03-2018 ֎ 04-2018

֎ 05-2018 ֎ 06-2018 ֎ 07-2018 ֎ 08-2018

֎ 09-2018 ֎ 10-2018 ֎ 11-2018 ֎ 12-2018

 

 

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

     ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

     ֎ The Fall of South Vietnam

     ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

     ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎ Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

.

 

 

\

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Diễn Đàn ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Video/TV ֎ Lottery ֎ Đà Lạt ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlatevWSWS

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFact

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite   

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAmerican ProgressvFaivCity

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvNewsnow

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvCreate

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedgevDailySignvNewser

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia MilitatyvPradva

vScien&TechvACLUvGatewayvVeteranvRussiavTass

vOpen CulturevSyndicatevCapital ResearchvXinHua

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNG

vBảoTàng LSvNghiên Cứu LS vNhân Quyền

vThời Đại vVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn Đông vNgười Việt vViệt Báo vQuán Văn

vViệt Thức vViệt List vViệt Mỹ vXây Dựng

vPhi Dũng v Hoa Vô Ưu vChúngTa v Eurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nh

vDân ViệtvViệt LuậnvNam ÚcvDĐ Người Dân

vTin MớivTiền PhongvXă Luận vvv

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gương

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền Phong

vS.G.EchovSài G̣nvThế GiớivTCCSvLuật Khoa 

vĐCSVNvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa Sàm

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu Trữ

vST/HTVvvThống KêvĐiều Ngự

 

Đặc sứ cuối cùng của TT Kennedy:

 

 TT Ngô Đ́nh Diệm từ chối sự không chịu vào tạm trú trong toà đại sứ Mỹ

 

Trần Đông Phong

 

 

Những tin tức liên quan đến vai tṛ của người Mỹ trong cuộc đảo chánh đưa đến cái chết của Tổng Thống VNCH Ngô Đ́nh Diệm vào ngày 2 tháng 11 năm 1963 càng ngày càng được tiết lộ thêm qua các tài liệu được giải mật, tuy nhiên có một tài liệu rất ít người biết đến, đó là việc Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy đă bí mật gửi một người bạn rất thân là Dân biểu Torbert Macdonald sang gặp TT Ngô Đ́nh Diệm vào tháng 10 năm 1963.  

 

Trong một cuốn sách nhan đề “The Dark Side of Camelot” (Mặt trái của TT Kennedy) xuất bản vào năm 1997, nhà báo Seymour M. Hersh đă tiết lộ nhiều chi tiết về TT Kennedy và Việt Nam, đặc biệt là những tin tức liên quan đến đến quan điểm của Kennedy và các cố vấn thân cận của ông đối với Miền Nam Việt Nam cũng như là đối với Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu.

Seymour M. Hersh là một trong những kư giả chuyên về điều tra hàng đầu (premier investigative reporters) của Hoa Kỳ. Năm 1969, ông là người đầu tiên viết về vụ thảm sát Mỹ Lai, trong thập niên 1970 ông làm việc cho nhật báo New York Times và đă được hàng chục giải thưởng về báo chí rất quan trọng, trong đó có Giải Pulitzer năm 1970 về tường tŕnh quốc tế (International Reporting). Ông là tác giả sáu cuốn sách nổi tiếng trong đó có cuốn “The Price of Power: Kissinger in the Nixon White House” đă được giải National Book Critics Circle Award và Los Angeles Times Book Award.  

 

Trong phần giới thiệu cuốn sách The Dark Side of Camelot, nhà xuất bản Little, Brown and Company nói rằng:

“Tác giả Seymour Hersh tŕnh bày cho chúng ta thấy một John F. Kennedy mà chúng ta chưa hề biết đến Kennedy chỉ tin cậy những người trong ḍng họ Kennedy. Jack chỉ định em trai là Robert Kennedy giữ ǵn những bí mật của gia đ́nh: món nợ đối với băng đảng tội ác (Mafia), thực trạng về sức khoẻ của TT Kennedy, nguồn gốc của sự thắng cử của Kennedy, những âm mưu thanh toán các vị lănh đạo ngoại quốc và nhất là chủ trương của TT Kennedy đối với vấn đề Việt Nam.” 

 

Trong lời nói đầu của tác giả, Seymour Hersh nói rằng:

“Đây không phải là một cuốn sách viết về những giai đoạn đầy hào quang, những chính sách vinh quang của John Kennedy. Đây cũng không phải là cuốn sách viết về cái thời gian đầy bi thảm sau cái chết của ông và nguyên nhân tại sao ông đă bị giết chết.

Những chính sách của Kennedy và cuộc đời của ông đă có nhiều giai đoạn tuyệt vời. Sau khi từ trần, hào quang và sự khôn ngoan của ông được phối hợp thêm với những sự thành công trên lănh vực đối ngoại cũng như là lănh vực đối nội–thật sự cũng có mà tưởng tượng ra cũng có- để tạo ra những huyền thoại cho Camelot (TT Kennedy).

Nhưng mà cũng có một mặt trái của Camelot, và của Kennedy.” 

 

Nhận thấy trong cuốn sách này, tác giả Seymour M. Hersh có đưa ra nhiều chi tiết về Tổng Thống John F. Kennedy, nhất là một số chi tiết liên quan đến chính sách về Việt Nam của ông, có liên quan đến cuộc đảo chánh 1-11-1963 và cái chết bi thảm của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cùng với bào đệ là ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu mà đa số người Việt Nam chưa hề được biết đến, người viết xin tóm lược lại Chương thứ 23 trong cuốn sách để cho người đọc có thêm một vài khái niệm về giai đoạn lịch sử này. 

 

Người viết cũng xin minh xác rằng những tài liệu trong cuốn sách The Dark Side of Camelot không phải là những tài liệu mật, cũng không phải là những tài liệu chính thức mới được giải mật, đó chỉ là những tài liệu do tác giả Seymour Hersh sưu tầm qua những cuộc phỏng vấn những nhân vật có nêu rơ tên tuổi, do đó có thể được xem là có thể tin được. Bằng chứng cho thấy là S. Hersh tiết lộ nhiều điều chẳng mấy tốt đẹp ǵ về đời tư của Tổng Thống Kennedy, tuy nhiên sau khi cuốn sách này được xuất bản vào năm 1997, tác giả cũng như là nhà xuất bản không hề bị gia đ́nh Kennedy đưa ra toà về tội phỉ báng hay mạ lỵ. Ngược lại, có những lời đồn đại nói rằng cuốn sách này sở dĩ bán chạy cho đến nỗi chỉ vài tháng sau khi phát hành, cuốn sách đă hoàn toàn bị biến mất trên thị trường, đó là v́ gia đ́nh Kennedy đă bỏ tiền ra mua hết.  

 

Người viết xin lưu ư độc giả rằng những tài liệu do S. Hersh đưa ra hoàn toàn do tác giả sưu tầm và người đọc cần phải suy luận trước khi đánh giá những tài liệu này. 

 

*

Phe Kennedy gian lận bầu cử năm 1960

Ngoài chương thứ 23 nói về Việt Nam, trong những chương khác S. Hersh Nhận có đưa ra một số chi tiết về sự thành công của Kennedy trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1960 và nhất là những liên hệ t́nh dục quá phóng túng của Kennedy trong giai đoạn trước ngày ông bị ám sát mà đa số người Việt Nam chúng ta chưa hề được biết, người viết xin tóm trích lại một vài chi tiết mà Seymour Hersh đă tiết lộ về những chuyện này. 

 

Trong Mặt Trái của Camelot, Seymour Hersh đă viết những điều ít người hay biết về gia đ́nh Tổng Thống Kennedy, nhất là liên hệ giữa thân phụ của ông với băng đảng tội ác Mafia.  

 

Hersh cho biết thân phụ của Kennedy là Joseph Kennedy đă cộng tác với Mafia để hành nghề buôn rượu lậu dưới thời Prohibition (Cấm bán rượu) vào thập niên 1920-1930 do đó mà trở nên vô cùng giàu có. Nhờ sự liên hệ này với Mafia mà sau này, khi con trai là John F. Kennedy ra ứng cử tổng thống vào năm 1960, Joseph Kennedy đă đi đêm với Sam Giancana, bố già Mafia trong vùng Chicago để y bảo đảm cho đàn em, tay chân bộ hạ trong băng đảng Mafia đi “vận động” bắt buộc những người có chân trong những nghiệp đoàn do Mafia kiểm soát (mob-controlled unions) ở Chicago và những tiểu bang phụ cận bỏ phiếu cho Kennedy, đồng thời ra lệnh cho nghiệp đoàn mang tiếng là thối nát Teamters Union dùng tiền quỹ hưu trí của đoàn viên để đóng góp vào quỹ vận động tranh cử tổng thống của Kennedy. Hersh cũng cho biết rằng “một vài tháng sau cuộc bầu cử, có nhiều tin đồn về sự gian lận bỏ phiếu (vote fraud) tại tiểu bang Illinois đă được tŕnh lên cho Bộ Tư Pháp do chính Bobby Kennedy làm bộ trưởng -nhưng không hề được sự đáp ứng nào. Cuộc bầu cử tổng thống năm 1960 đă bị đánh cắp (stolen).” 

 

Trong một cuốn hồi kư mang tên là My Story của Judith Campbell Exner xuất bản vào năm 1967, người t́nh cũ của cả Kennedy và Giancana vào đầu thập niên 1960 này cho biết rằng ông trùm Mafia có nói với bà như sau: “Này cưng ơi, nếu không có tôi th́ người bạn trai của em đă không được ngồi trong Toà Bạch Ốc đâu!” (Listen, honey, if it wasn’t for me, your boyfriend wouldn’t even be in the White House). 

 

Theo tác giả Seymour Hersh th́ em trai của TT Kennedy cũng biết rất rơ về chuyện này: “Như Bobby Kennedy cũng biết, TT Kennedy và Sam Giancana không những có chia sẻ với nhau về việc gian lận bầu cử và âm mưu ám sát (Fidel Castro), cả hai người này cũng c̣n chia sẻ một mối t́nh thân thiết với một người phụ nữ ly dị chồng và cũng là một nghệ sĩ xinh đẹp và nổi tiếng tên là Judith Campbell Exner tại thành phố Los Angeles. Những cuộc phỏng vấn sau này cho biết Judith Exner đă gặp Kennedy lần đầu tiên vào đầu năm 1960 qua sự giới thiệu của tài tử Frank Sinatra, cũng là t́nh nhân của Judith, và cô ta không những chỉ là người t́nh (sex partner) của tổng thống mà c̣n đóng vai trung gian chuyển tài liệu của TT Kennedy và Bobby Kennedy cho Giancana và đồng nghiệp Mafia của hắn, c̣n chuyển cả mấy cái túi đầy tiền mặt nữa. Martin U. Underwood, một nhân viên tiền đạo của Bạch Cung cho biết vào năm 1966 rằng ông ta được lệnh theo dơi Judith Exner đi bằng xe lưả từ Los Angeles đến Chicago và khi chuyến tàu này đến Chicago th́ ông ta chứng kiến Judith Exner đă giao một cái túi cho người của Giancana dang đứng đợi tại sân ga. Trong nhiều cuộc phỏng vấn về sau cho cuốn sách này, Exner đă thú nhận với tác giả rằng cô ta đă chuyển giao tiền bạc, rất nhiều tiền, của các nhà doanh nghiệp tại California có đấu thầu với chính phủ liên bang cho TT Kennedy.” 

 

Hersh cũng cho biết rằng đảng Cộng Hoà đă tố cáo Richard Daley, thị trưởng Chicago thuộc đảng Dân Chủ, đă gian lận giúp cho Kennedy thắng Richard Nixon chỉ có 9,400 phiếu, nhờ đó Kennedy thắng 27 phiếu cử tri đoàn của tiểu bang Illinois và đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Hersh nhắc đến chuyện vào đêm thứ ba sau khi pḥng phiếu vưà đóng cưả, Thị trưởng Chicago Daly đă gọi điện thoại cho ứng cử viên Kennedy nói rằng: “Thưa Tổng Thống, với một chút may mắn và sự giúp đỡ của “một ít người bạn thân” (a few close friends), ông sẽ thắng tiểu bang Illinois.”

 

Ngoài ra, đảng Cộng Hoà cũng tố cáo đảng Dân Chủ đă gian lận bầu cử trong 11 tiểu bang tuy nhiên ứng cử viên Richard Nixon của đảng Cộng Hoà không chấp thuận đề nghị “đếm phiếu lại” (recount) tại những tiểu bang này và nhất là vùng Chicago v́ ông biết rằng có đếm lại cũng chẳng đi đến đâu v́ đảng Dân Chủ nắm hết mọi guồng máy bầu cử trong những vùng này, do đó Kennedy trở thành vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. 

 

Kennedy ngày nào cũng phải có đàn bà

Kư giả Seymour Hersh cho biết rằng: “Em trai của TT Kennedy là Bộ Trưởng Tư Pháp Bobby Kennedy, cũng như là bao nhiêu người đàn ông và đàn bà khác phục vụ tại Bạch Cung đều biết rằng TT Kennedy đă công khai nói láo khi ông vờ đóng vai một người chồng gương mẫu của Đệ Nhất Phu Nhân Jacqueline Kennedy trong khi bên trong th́ Kennedy đă sống một cuộc đời ăn chơi với những parties trác táng cho đến nỗi các vệ sĩ trong ngành Mật Vụ bảo vệ cho Tổng Thống tại Bạch Cung cũng phải rụng rời...” 

 

Hersh cũng dành một chương, chương thứ 21, để nói về tật mê gái (womanizing) của Kennedy. Vào mùa thu năm 1963, khi một số nghị sĩ thuộc đảng Cộng Hoà mở cuộc điều tra về những bê bối về tham nhũng và t́nh dục (graft-and-sex scandal) tại Quốc Hội th́ t́nh cờ họ được biết về sự mê gái qúa độ của Kenndedy và được biết Ellen Rometsch, một trong những người t́nh của Kennedy là một cựu đảng viên đảng Cộng sản Đông Đức. 

 

Cuộc điều tra cho biết rằng Bobby Baker, tổng thư kư của nhóm Nghị sĩ Dân Chủ tại Thượng Viện là một nhân vật vô cùng quan trọng v́ ông ta có nhiệm vụ làm tất cả những điều ǵ có thể được để giúp cho đảng Dân Chủ thắng trong các cuộc bỏ phiếu tại thượng viện, ông ta phải làm bất cứ điều ǵ mà các vị nghị sĩ Dân Chủ cần làm và dĩ nhiên là ông ta cũng kín đáo làm những điều ǵ mà các vị nghị sĩ muốn, kể cả vấn đề gái. Baker cho biết rằng trong thời gian Kennedy đang làm thượng nghị sĩ, ông ta cũng đă cung cấp gái gọi cho Kennedy. 

 

Bobby Baker cho biết vào mùa xuân năm 1963, Bill Thompson, một phụ tá thân tín của Kennedy, hỏi ông ta về một người đàn bà: “Này Baker, người đàn xinh đẹp ấy là ai vậy? Cái cô trông giống như Elisabeth Taylor ấy mà!” Bobby trả lời rằng: “Cô ta là người Đức, vợ của một viên trung sĩ phục vụ tại toà đại sứ Tây Đức. Cô ta là một cô gái chuyên nghiệp và những ai đă từng là khách hàng của cô th́ đều rất hài ḷng.” Thompson hỏi tiếp: “Nếu tôi mời cô ta vào Bạch Cung th́ liệu cô ta có muốn đi để gặp Tổng Thống Kennedy hay không?” Baker hỏi Ellen và Ellen trả lời rằng cô ta rất hoan hỷ và ông ta dàn xếp để Thompson đưa Ellen vào Bạch Cung. Sau lần đó, Ellen cho Baker biết rằng “Tổng Thống Kennedy là một người rất vui nhộn (fun) và cô ta rất thích thú được gần gũi ông ta.” Về sau Baker vào Bạch Cung th́ Kennedy cho Baker biết rằng Ellen là người đàn bà đă làm cho ông ta thích thú nhất trong số những người mà ông ta đă gần gũi. Bobby Baker cho biết thêm rằng có một lần ông ta được mời vào Bạch Cung để gặp TT Kennedy nhưng ông tổng thống chẳng có nói năng ǵ về vấn đề Thượng Viện mà chỉ nói với ông: “Anh biết không, tôi cứ bị bệnh nhức đầu nếu tôi không có một người đàn bà lạ mỗi ngày (I get a migraine headache if I don’t get a strange piece of ass every day.)” Baker nói rằng ông ta đă dùng Ellen Rometsch để “chưă” bệnh nhức đầu cho Kennedy và Ellen cho biết thêm rằng cô ta đă dự những cuộc parties bên hồ tắm (pool parties) tại Bạch Cung và mọi người ai nấy cũng đều khoả thân chạy ṿng ṿng quanh hồ, thường thường th́ chỉ có khoảng năm người khách đàn ông nhưng lại có đến 12 khách đàn bà. Baker cho biết vào mùa xuân và mùa hè năm 1963, Ellen Rometzsh đă đi vào Bạch Cung ít nhất là trên mười lần. 

 

Chẳng may vào tháng 6 năm 1963, có một vụ tai tiếng xảy ra tại London liên quan đến việc Bộ Trưởng Quốc Pḥng John Profumo có liên hệ về t́nh dục với một cô gái điếm hạng sang là Christine Keeler và cô này cũng đang là bồ của Yevgeny Ivanov, tùy viên Hải Quân của toà Đại sứ Liên Xô. Báo chí Anh cũng khui thêm về vụ này: Profumo cũng có liên hệ t́nh dục với bốn cô gái điếm hạng sang khác, trong số đó có một cô người Tàu tên là Suzy Chang và một cô gái tóc vàng người Tiệp Khắc tên là Maria Novotny và hai cô này đă ghi âm những câu hỏi về chính sách nguyên tử của Anh Quốc do Ivanov đặt ra để hỏi Bộ trưởng Quốc Pḥng Profumo trong những cuộc gặp gỡ cuối tuần. Profumo phải từ chức và đảng Bảo Thủ của Thủ Tướng Harrold Macmillan bị dân chúng Anh bất tín nhiệm trong cuộc bầu cử năm 1964. 

 

Cuộc khủng hoảng chính trị về gái tại Anh lại có liên quan đến Hoa Kỳ v́ hai cô Suzy Chang và Maria Novotny cũng c̣n hành nghề tại New York. Maria Novotny cho biết rằng cả Suzy Chang và cô đều có phục vụ cho John Kennedy trước và cả sau khi ông đắc cử tổng thống vào năm 1960. Có bằng chứng cho thấy rằng khi c̣n là nghị sĩ, ông Kennedy đă dẫn Suzy Chang đi ăn tối tại Câu lạc bộ 21, một tiệm ăn của câu lạc bộ nổi tiếng sang trọng và quư phái nhất tại New York. Chính Suzy Chang sau này cũng xác nhận chuyện cô ta đi ăn tối với Kennedy tại Club 21. Về phần Maria Novotny th́ cô ta có viết một đoạn hồi kư trước khi từ trần tiết lộ rằng cô ta đă được tài tử Peter Lawford, anh rể cuả TT Kennedy môi giới để tham gia vào một cuộc làm t́nh tay ba một vài tuần trước khi Kennedy tuyên thệ nhậm chức: Kenndy đóng vai bệnh nhân c̣n Novotny và một cô gái điếm khác đóng vai bác sĩ và y tá. 

 

Vào tháng 7, Tổng Giám Đốc FBI Edgar Hoover báo cho Robert Kennedy biết rằng FBI được mật báo rằng Ellen Rometsch có những mối liên hệ bất chính (illicit relations) với những viên chức cao cấp của Hoa Kỳ. Hoover c̣n cho biết thêm rằng FBI nghi rằng Ellen Rometsch là người sinh trưởng tại Đông Đức, đă từng phục vụ cho Walter Ulbricht, lănh tụ Cộng sản Đông Đức và cô ta cũng từng là đảng viên Cộng sản Đức. Hoover cho biết rằng ngành Phản gián của FBI sẽ mở một cuộc điều tra về vấn đề Ellen Rometsch có thể là một gián điệp ngoại quốc vào mùa hè năm 1963. 

 

Robert Kennedy, người được ḍng họ Kennedy chỉ định giữ vai tṛ bảo vệ uy tín, tên tuổi và uy danh của cả gia đ́nh cảm thấy rằng nếu vụ Ellen Rometsch nổ ra th́ đó sẽ là một vụ Profumo của nước Mỹ, sẽ gây ra tai tiếng nghiêm trọng và TT Kennedy v́ đó mà có thể thất cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1964. Kennedy gửi văn thư cho FBI cám ơn Hoover đă dành sự kín đáo trong vụ Rometsch và ông ta cho biết Bộ Tư Pháp của ông ta sẽ giải quyết vấn đề này. Vào ngày 21 tháng 8 năm 1963, Ellen Rometsch bất th́nh ĺnh bị trục xuất ra khỏi Hoa Kỳ theo đề nghị của Bộ Ngoại Giao. Rometsch được LaVern Duffy, một phụ tá thân cận của Robert Kennedy, hộ tống về Đức trên một chuyến phi cơ đặc biệt của Không Lực Hoa Kỳ, tuy nhiên theo Bộ Ngoại giao th́ không hề có một văn kiện chính thức nào lưu trữ tại đây về việc trục xuất này. Rolf Rometsch, chồng của Ellen cũng bị trục xuất về Đức vài hôm sau đó và ông ta đă ly dị với Ellen với lư do là vợ của ông ta đă có những liên hệ với những người đàn ông khác.  

 

Seymour Hersh cho biết rằng LaVern Duffy, người hộ tống Ellen về Đức là nhân t́nh của cô ta và hai người này c̣n giữ liên lạc mật thiết sau khi cô ta về nước. Trong một lá thư gửi cho LaVern, Ellen yêu cầu ông ta nên gửi tiền cho cô ta bằng ngân phiếu (check) thay v́ bưu phiếu (money order) v́ ngân hàng Đức không thích nhận money order từ ngoại quốc. Wayne A. Duffy, em trai của LaVern Duffy xác nhận rằng sau khi người anh qua đời, ông ta đă t́m thấy những thư từ của Ellen Rometsch gửi cho LaVern và những thư từ này cho thấy Ellen Rometsch đă nhận nhiều tiền của phe Kennedy. Wayne nói thêm rằng “Người ta không thể nào trục xuất một người đàn bà ra khỏi nước Mỹ rồi nói với cô ta rằng hăy giữ im lặng mà không trả cho cô ta một món tiền nào.” Khi được hỏi đó có phải là tiền của anh ông ta hay không th́ Wayne trả lời dứt khoát “Tuyệt đối là không phải. Đó là tiền của Kennedy.” 

 

Việc Robert Kennedy trục xuất Ellen Rometsch về Đức là một điều may mắn cho Kennedy trong cuộc bầu cử năm 1964 v́ theo lời Robert Kennedy thú nhận với Ben Bradlee th́ “vụ Ellen Rometsch là điểm yếu duy nhất đối với gia đ́nh Kennedy ngoài những biến chuyển tại Nam Việt Nam.” Robert Kennedy nói thêm rằng cần phải giữ không cho Ellen Rometsch trở lại Hoa Kỳ để điều trần như dự định của các đảng viên Cộng Hoà muốn dùng vụ này để làm mất uy tín của TT Keneedy. 

 

Cuộc điều tra của Thượng Viện về vụ tai tiếng này kết thúc v́ TT Kennedy bị ám sát vào tháng 11 năm 1963, tuy nhiên trong cuốn Mặt Trái của Kennedy, ngoài Ellen Rometsch, Seymour Hersch c̣n cho đăng h́nh ảnh của những nhân vật phụ nữ khác có liên hệ với Kennedy, đó là Phyllis McGuire, Judith Campbell Exner, Durie Malcolm, Alicia Clark, Pamela Turnure và Marilyn Monroe. Riêng tài tử điện ảnh Marilyn Monroe th́ Hersh cho biết rằng bà ta yêu Kennedy một cách tuyệt đối, bà Marilyn Monroe tự ví ḿnh như là một quân nhân và Kennedy là Tổng Tư Lệnh Tối Cao và theo bà th́ người quân nhân th́ phải luôn luôn tuân lệnh của vị tổng tư lệnh. 

 

Hersh cho biết rằng v́ những liên hệ t́nh dục quá đáng như vậy, Tổng Thống Kennedy đă mắc một loại bệnh “phong t́nh” không thể chữa được và căn bệnh này ông vẫn c̣n mang trong người cho đến khi từ trần. Kennedy không phải là nhà lănh đạo duy nhất bị bệnh phong t́nh v́ bốn mươi năm trước đó, vị lănh đạo tối cao của khối Xă Hội Chủ Nghiă là V.I. Lenin cũng mắc phải bệnh “giang mai” từ một cô gái điếm ở Paris vào khoảng năm 1902 và bị trở thành bại liệt mà chết vào năm 1924. Tuy nhiên, trước Lenin c̣n có những nhà lănh đạo nổi tiếng khác cũng đă bị mắc phải bệnh giang mai: đó là Vua Henry VII, Ivan Bạo Chúa, Napoleon Bonaparte và Adolf Hitler.

 

 

Sau chương 21 nói về sự mê gái của Kennedy, Seymour Hersh đă dành chương thứ 22 kế tiếp để nói đến những khám phá của ông về chính sách của TT Kennedy về Việt Nam và nhất là những chi tiết liên quan đến cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 và đặc biệt là việc TT Kennedy đă gửi một đặc phái viên sang Sài G̣n thuyết phục TT Ngô Đ́nh Diệm phải loại ông Ngô Đ́nh Nhu và tạm thời lánh nạn trong toà đại sứ Hoa Kỳ, nhưng ông Ngô Đ́nh Diệm từ chối. 

 

Trong phần dưới đây, người viết sẽ tóm lược những điều Seynour Hersh viết về Kennedy và Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm trước cuộc đảo chánh 1963. 

 

Kennedy rất sợ TT Ngô Đ́nh Diệm thương thuyết với CSBV

Theo tác giả Seymour Hersh th́ vào mùa thu năm 1963, có một diễn biến rất quan trọng xảy ra tại Việt Nam nhưng lại không được giới truyền thông báo chí Hoa Kỳ quan tâm đến: đó là những nguồn tin t́nh báo liên quan đến việc Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu đang t́m cách thương thuyết một cách không chính thức với Cộng sản Bắc Việt nhằm tiến đến việc thiết lập một chế độ trung lập tại miền Nam.  

 

Nếu quả thật có việc đó th́ những cố vấn quân sự, những phi công Hoa Kỳ đă được chính phủ Ngô Đ́nh Diệm chính thức mời sang giúp cho VNCH sẽ bị yêu cầu rời khỏi miền Nam Việt Nam. Những nguồn tin về việc mật đàm giữa Sài G̣n và Hà Nội được đồn đại khắp Sài G̣n, tuy nhiên theo các giới quan sát th́ nếu có xảy ra chăng nữa đó cũng chỉ là những đồn đại suông mà thôi v́ ai ai cũng đều biết rằng TT Ngô Đ́nh Diệm là một người yêu nước và cũng là một người tích cực chống Cộng sản, một người luôn luôn chia sẻ quan điểm của ngựi Mỹ thời bấy giờ: “thà chết hơn là Cộng sản (better dead than Red.) 

 

Seymour Hersh cho biết rằng vào giai đoạn đó, có hai nhân vật rất quan trọng của Hoa Kỳ lại xem những sự đồn đại này là vô cùng quan trọng, đó là Tổng Thống John F. Kennedy và ông Henry Cabot Lodge, đại sứ Mỹ tại Sài G̣n. 

 

Seymour Hersh cho biết rằng nhà báo Charle Bartlett, một người bạn rất thân của Kennedy đă cho ông biết rằng vào mùa thu năm 1963, TT Kennedy đă trút sự phẫn nộ -và sự sợ hăi- về vấn đề Việt Nam với ông. Bartlett nói rằng trước khi bị ám sát vào cuối năm 1963, TT Kennedy đă tỏ ra rất bi quan về toàn bộ vấn đề Việt Nam. Kennedy đă nói với Bartlett như sau:

“Này Charlie, tôi không thể để cho Việt Nam rơi vào tay Cộng sản rồi th́ sang năm 1964 lại đi xin cử tri Hoa Kỳ bỏ phiếu bầu lại cho tôi vào chức vụ tổng thống. Bằng bất cứ cách nào chúng ta cũng phải bảo vệ phần lănh thổ đó cho qua khỏi cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1964. Chúng ta đă nhượng Ai Lao cho Cộng sản và nếu tôi lại bỏ Việt Nam th́ tôi khó mà ăn nói với cử tri Hoa Kỳ được. Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ không có tương lai ǵ ở Việt Nam đâu! Người Nam Việt Nam ghét (hate) chúng ta. Họ muốn chúng ta rút ra khỏi đất nước của họ. Đến một lúc nào đó, họ sẽ ‘đá đít’ (kick our asses) chúng ta ra khỏi Việt Nam!” 

 

Hersh cho biết rằng ngoài Charles Bartlett, TT Kennedy c̣n tiết lộ với sử gia William Manchester, tác giả cuốn sách “The Death of a President,” rằng rất có thể TT Diệm sẽ tham gia vào việc thương thuyết với Cộng sản Bắc Việt. Manchester nói rằng Kennedy có sự bất đồng ư kiến với ông Diệm và Kennedy không tin tưởng ông Diệm (He did not trust Diem.) 

 

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm có âm mưu thương thuyết với Cộng sản hay không?

Seymour Hersh cho biết rằng trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1995, một nhân vật thân tín của TT Diệm xác nhận với ông ta rằng điều đó có thật. Nhân vật này là ông Trần Văn Dĩnh, hồi năm 1963 làm Sứ Thần tại toà Đại sứ VNCH tại Washington và sau khi Đại sứ Trần Văn Chương từ chức th́ trên nguyên tắc, ông Trần Văn Dĩnh được xem như là Xử Lư Thường Vụ toà Đại Sứ. Ông Trần Văn Dĩnh được xem như là một trong những người rất thân tín của TT Diệm v́ vào năm 1944, người ta đồn rằng chính ông Dĩnh là người đă cứu ông Diệm khỏi bị thực dân Pháp bắt giam tại Huế và sau đó ông Diệm được người Nhật bí mật đưa vào Sài G̣n để trốn tránh người Pháp. 

 

Hersh cho biết rằng theo ông Trần Văn Dĩnh th́ “ông Ngô Đ́nh Diệm và bào đệ của ông biết rơ điều ǵ sẽ xảy ra, và họ đă chấp nhận cái số phận dành cho họ.” Ông Trần Văn Dĩnh nói rằng: “Tôi được lệnh của Tổng Thống Diệm triệu hồi về nước và đến Sài G̣n vào ngày 30 tháng 10 năm 1963. Ngay sau đó tôi được vào yết kiến Tổng Thống sau khi ông ta vưà tiếp Đại sứ Cabot Lodge. Tổng Thống Diệm ra lệnh cho tôi tức khắc quay về Washington để nói với người Mỹ rằng “ông Diệm đầu hàng qúy vị” (Diem is surrendering to you) -một cách nói để mua thời gian. Sau khi t́m cách tŕ hoăn người Mỹ, tôi được lệnh phải bay qua Ấn Độ để thương thuyết với Bắc Việt.” Ông Dĩnh nói với S. Hersh rằng “Tôi tin tưởng rằng ông Diệm biết rơ một cuộc đảo chánh sắp sửa diễn ra và trước khi bị giết, ông ta cũng sắp sửa nói với người Mỹ là các ông hăy rút ra (get out) khỏi Việt Nam. Ông Diệm nói thêm: “Tôi không thể nào nói chuyện với người Mỹ được nưă!” 

 

Theo Hersh th́ ông Trần Văn Dĩnh không có cơ hội đi sang Ấn Độ v́ mấy ngày sau th́ cuộc đảo chánh xảy ra và Tổng Thống Diệm bị giết. Ông Dĩnh cho biết rằng chính phủ VNCH không hề bao giờ cứu xét đ̣i hỏi (demand) của Hoa Kỳ về việc phải loại bỏ ông Ngô Đ́nh Nhu. Ông ta hỏi lại Seymour Hersh: “Hoa Kỳ có cái quyền ǵ mà đ̣i ông Diệm phải loại bỏ người này hay thêm người kia? Người Mỹ có thể đến nhà tôi rồi ra lệnh cho tôi phải lấy một người vợ mới hay không?” 

 

Trong phần phụ chú, Hersh nói rằng ông Trần Văn Dĩnh sẽ không lấy ǵ làm ngạc nhiên nếu ông ta được nghe cuốn băng ghi lại cuộc đối thoại giưă TT Kennnedy và Roger Hilsman, Phụ Tá Ngoại Trưởng về Đông Nam Á Sự Vụ tại Bộ Ngoại Giao ngay sau cuộc đảo chánh 1-11-1963 xảy ra. Cuộc đối thoại này liên quan đến việc Thái Tử Sihanouk tỏ ra nghi ngờ rằng chính người Mỹ đă âm mưu việc lật đổ ông Diệm. Hilsman nói rằng “sau những mối nghi ngờ này là sự sợ hăi của Sihanouk về những điều đă xảy ra cho hai ông Diệm và Nhu. Sự sợ hăi chính quân đội của ông. Sihanouk cũng lo ngại hơn v́ dưới thời Tổng Thống Eisenhower, CIA đă có dính dáng đến âm mưu lật đổ Sihanouk. TT Kennedy hỏi lại:

“CIA có làm vậy hay không? Chuyện âm mưu đảo chánh hồi năm 1959 là có thật hay không?”

 

Hilsman trả lời: “Quả thật đúng như vậy.” 

 

Kennedy: “CIA làm việc đó?” 

 

Hilsman: “Chắc chắn rồi. CIA đă cung cấp tiền bạc và dính dáng đến âm mưu nhằm lật đổ Sihanouk ngay cả trong thời kỳ trước chính phủ này.” 

 

Kennedy: “Chúa ơi! CIA đă đảo chánh ở Indonesia, CIA đă đảo chánh ở Lào, họ cũng đă âm mưu đảo chánh ở Cambodia.” 

 

TT Kennedy chỉ nhắc đến việc CIA dính dáng đến các cuộc đảo chánh dưới thời Eisenhower tuy nhiên ông đă được thông báo rơ ràng về âm mưu của CIA trong việc giết Thủ Tướng Patrice Lumumba của nước Cộng Hoà Congo và giết Rafael Trujillo của nước Cộng Hoà Dominican. Ông ta cũng biết rơ và đồng ư về âm mưu của CIA về dự định ám sát Fidel Castro của Cuba và dĩ nhiên là cả việc giết chết TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Ngô Đ́nh Nhu. Hersh nói thêm rằng Phó Tổng Thống Lyndon Johnson không hề hay biết ǵ về những âm mưu này v́ ông không hề được tay chân của Kennedy thông báo cho biết một điều ǵ. 

 

Lansdale từ chối không sang Việt Nam v́ không muốn loại trừ TT Ngô Đ́nh Diệm theo ư của Kennedy. 

 

Sự phẫn nộ và lo sợ đối với ông Diệm đă khiến cho Kennedy nghĩ đến biện pháp loại trừ TT Ngô Đ́nh Diệm. Seymour Hersh nói rằng Michael Forrestal, một cộng sự viên rất thân cận của Kennedy trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, người đă cùng với Harriman và Roger Hilsman thảo bức điện văn 243 chỉ thị cho Toà Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n xúc tiến cuộc đảo chánh loại trừ TT Ngô Đ́nh Diệm, có tiết lộ rằng vào mùa thu năm 1963, ông ta có mời Rufus Phillips đến tham dự một buổi họp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Bạch Cung với sự tham dự của TT Kennedy. 

 

Rufus Phillips là một sĩ quan Mỹ được phái sang Việt Nam vào năm 1954, ông được cử phục vụ cho Saigon Military Mission (SMM: Phái bộ Quân sự Sài G̣n,) một tổ chức của CIA dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Edwards Lansdale. Rufus Phillips là người trong ḍng họ Phillips, một gia đ́nh rất giàu có và nổi tiếng tại Hoa Kỳ v́ họ là chủ nhân của công ty dầu hoả Phillips. Trong thời gian phục vụ dưới quyền Lansdale, ông đă chịu ảnh hưởng Lansdale rất nhiều và tỏ ra vô cùng ngưỡng mộ vị chỉ huy này của ông. Sau khi trở về Mỹ một thời gian, Rufus Phillips lại nhận lời trở lại Việt Nam vào mùa thu năm 1962 để giữ chức vụ giám đốc Chương tŕnh Yểm trợ Nông thôn (Rural Assistance Program) của USOM và do đó mà ông trở thành một “chuyên viên” về vấn đề ẤỊp Chiến Lược của VNCH. Rufus Phillips lúc đó vẫn tin tưởng rằng người Mỹ có thể giúp cho miền Nam Việt Nam chiến thắng được Cộng sản, ông tin tưởng rằng vẫn c̣n có thể tách rời ông Ngô Đ́nh Nhu ra khỏi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và người duy nhất có thể làm được việc đó th́ không ai khác hơn là Tướng Ed Lansdale. 

 

Michael Forrestal biết rơ về quan điểm của Rufus Phillips cho nên Forrestal đă mời Phillips đến tham dự một phiên họp của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Bạch Cung dưới sự chủ toạ của TT Kennedy vào mùa thu năm 1963 và Forrestal đă mời Rufus Phillips lên phát biểu ư kiến. Hersh cho biết rằng dường như là việc mời Phillips đến tham dự phiên họp cũng như là lên phát biểu ư kiến đă được Forrestal tŕnh với Kennedy và đă được Kennedy chấp thuận v́ Phillips chỉ là một viên chức cấp nhỏ khó mà có thể được mời tham dự phiên họp này. 

 

Hersh cho biết rằng trong cuốn hồi kư chưa xuất bản của Rufus Phillips th́ ông ta nói rằng trong phiên họp này, ông đă nói với TT Kennedy như sau:

Vấn đề là ở ông Nhu. Ông ta đă mất hết sự kính trọng của đa số trong giới lănh đạo dân sự cũng như là quân sự. Nhu phải rời khỏi Việt Nam nếu không th́ sẽ xảy ra hỗn loạn. Tôi tin rằng cần phải tách rời Nhu ra khỏi ông Diệm tuy nhiên chỉ có một người duy nhất mà Tổng Thống Diệm tin tưởng và có thể thuyết phục được ông Diệm để cho ông Nhu ra đi mà thôi. Người đó là Tướng Edward Lansdale. Không có một người nào khác có đầy đủ khả năng và tư cách để giúp cho ông Diệm thiết lập một chính phủ mới để đối phó với t́nh h́nh. Tôi xin đề nghị Tổng Thống nên gửi Tướng Lansdale sang Việt Nam càng sớm càng tốt...” 

 

Theo Hersh th́ căn cứ vào biên bản của phiên họp này, được giải mật vào năm 1995, lời phát biểu của Phillips rất xác thật. Biên bản này cho biết rằng Phillips đă nói lên điều mà Forrestal và cả TT Kennedy đều muốn mọi người trong phiên họp nghe: “Chúng ta có thể giữ ông Diệm nhưng mà chúng ta không thể nào thắng được cuộc chiến tranh nếu ông Nhu c̣n ở trong chính quyền. Điều cần thiết là một chiến dịch của Hoa Kỳ (a US campaign) và một người quản lư chiến dịch (campaign manager). Landsdale là người có nhiều khả năng nhất để đảm nhận công tác quản lư chiến dịch này. Phillips tin tưởng rằng chúng ta có thể chiến thắng với Tướng Lansdale.” TT Kennedy trả lời rằng: “Nhu có thể gây ra sự suy yếu vô cùng trầm trọng cho chính phủ (Việt Nam) hiện nay rồi th́ sau đó ông ta sẽ chạy sang Pháp. C̣n người Mỹ chúng ta th́ lại sẽ bị quy trách là người đă gây ra sự sụp đổ của nước Việt Nam.” 

 

Phillips cho Hersh biết rằng TT Kennedy đă ghi chép những lời phát biểu của ông và đó là những sự ghi chép duy nhất của ông trong phiên họp này. Sau phiên họp, TT Kennedy đă nói với ông: “Ông Phillips, tôi muốn cám ơn ông, nhất là việc ông đề cử ông Lansdale.” 

 

Về phần Tướng Lansdale th́ Hersh cho biết rằng ông Lansdale đă nhiều lần tâm sự với Tiến sĩ Daniel Ellsberg, hai người đều là “nạn nhân” dưới thời Kennedy c̣n được hoạt động dưới thời TT Lyndon Johnson, khi cả hai người đều được mời sang Sài G̣n phục vụ cho Chương Tŕnh B́nh Định Nông Thôn (Pacification Program) vào giữa thập niên 1960. Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sau này là người đă tiết lộ “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” (The Pentagon Papers,) đă cho biết rằng ông đă “nghe Lansdale kể đi kể lại về những thành tích của ông ta hồi c̣n hoạt động cho CIA tại Phi-luật-Tân và Việt Nam hồi thập niên 1950 hơn một năm rưỡi trời tại nhà của Lansdale ở Sài G̣n.” 

 

Daniel Ellsberg nói rằng vào một buổi tối, Lansdale đă kể cho ông ta nghe những chuyện về những mối liên lạc giữa Lansdale và Bộ Trưởng Quốc Pḥng Robert McNamara. Và nhất là mối liên hệ đó đă kết thúc như thế nào v́ Lansdale và McNamara không có thuận thảo với nhau nhiều. Nên nhớ rằng khi Kennedy lên nhậm chức th́ cả hai người, Edward Lansdale và Daniel Ellsberg đều là nhân viên dưới quyền McNamara: Thiếu Tướng Lansdale là Phụ Tá cho Bộ Trưởng và Ellsberg là một “người trẻ kiệt xuất” (whiz kid) giữ chức vụ viết diễn văn và chuyên viên về chiến tranh nguyên tử của bộ trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ. Vào mùa thu năm 1963, Lansdale không có tên trong danh sách được vinh thăng trung tướng, do đó ông xem như là cuộc đời binh nghiệp của ông đă “hết thời” và dự định về hưu. Lansdale cho Ellsberg biết một hôm ông bỗng nhận được một cú điện thoại của McNamara chỉ thị cho ông phải tháp tùng Bộ Trưởng Quốc Pḥng vào Bạch Cung để gặp TT Kennedy. Trong cuộc họp này, chỉ có ba người là TT Kennedy, Bộ Trưởng McNamara và Lansdale mà thôi.  

 

Daniel Ellsberg kể lại rằng trong phiên họp này, TT Kennedy đă nói với Lansdale rằng:

“Tôi đang chuẩn bị gửi ông sang Việt Nam để làm việc với Tổng Thống Diệm và t́m cách để có thể tách rời (separate) Diệm với Nhu.” 

 

Nhu bị xem như là người đă gây ra cuộc khủng hoảng -- một thiên tài của tội lỗi (evil genius). TT Kennedy hỏi Lansdale ông ta có đồng ư sang Việt Nam hay không. Lansdale trả lời rằng ông ta muốn đi. 

 

Ellsberg nói rằng khi Lansdale nhận lời, TT Kennedy nói thêm rằng:

“Nếu không thực hiện được việc đó -ông Nhu không chịu đi- hay là nếu tôi thay đổi ư kiến và quyết định rằng chúng ta cần phải loại trừ (get rid of) ngay cả ông Diệm, ông có đồng ư với quyết định đó hay không?”  

 

Lansdale lắc đầu buồn bă trả lời:

“Thưa Tổng Thống, tôi không thể làm việc đó được. Ông Diệm là bạn của tôi và tôi không thể làm như vậy được!” 

 

Theo Ellsberg, Lansdale cho biết TT Kennedy không tỏ ra giận dữ khi ông ta nói thẳng là ông ta không thể và không chịu đồng ư với việc loại trừ ông Diệm, tuy nhiên Lansdale hiểu ngay rằng ông ta sẽ không được gửi sang Việt Nam. Ông đă trả lời không, đă từ chối một công việc mà ông ta cần và muốn nhất: sang làm đại sứ tại Việt Nam. Lansdale không chỉ trích Kennedy và ông nói rơ rằng TT Kennedy có quyền hỏi ông như vậy.  

 

Trên đường trở về Ngũ Giác Đài, McNamara đă nổi trận lôi đ́nh với Lansdale, một việc mà xưa nay ông ta chưa hề có. McNamara nói với Lansdale: “Anh không có quyền nói với một vị tổng thống Hoa Kỳ như vậy. Khi tổng thống muốn anh làm một việc ǵ, ông không thể trả lời ‘không, tôi không làm’ với tổng thống.” 

 

Lansdale cho Ellsberg biết rằng khi ông sửa soạn dọn đồ đạc và tài liệu để rời khỏi Bộ Quốc Pḥng th́ nghe tin Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă bị giết. Ellsberg cho biết rằng khi Lansdale kể lại chuyện này, ông ta nói rằng TT Kennedy không bao giờ dùng chữ “kill” (giết) hay “assassinate” (ám sát) khi nói đến ông Diệm, tuy nhiên Lansdale nghĩ rằng trong đầu óc của ông th́ đó là việc mà TT Kennedy đă thảo luận với ông.

  

Cabot Lodge: Ông Diệm coi thường Tổng Thống Hoa Kỳ

Sau khi Edward Lansdale từ chối, TT Kennedy mời Henry Cabot Lodge, cựu ứng cử viên Phó Tổng Thống của Đảng Cộng Hoà trong liên danh Nixon sang làm đại sứ tại Việt Nam. 

 

Cabot Lodge xuất thân trong một đă gia đ́nh danh giá tại tiểu bang Massachusetts, cựu thượng nghị sĩ, đă t́nh nguyện gia nhập vào quân đội trong Đệ Nhị Thế Chiến và từng làm thông dịch viên tiếng Pháp cho Thống Tướng Eisenhower, Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội Đồng Minh tại Âu châu. Chính Cabot Lodge là người đă thuyết phục Thống Tướng Eisenhower nhận lời đại diện cho đảng Cộng Hoà ra ứng cử và ông đă đắÔc cử tồng thống vào năm 1952. Cabot Lodge là một nhân vật cao cấp trong hàng ngũ đảng Cộng Ḥa, đă từng là ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng này năm 1960 và Kennedy đă mời Cabot Lodge làm đại sứ tại Việt Nam với thâm ư là chính sách về Việt Nam của ông là một chính sách lưỡng đảng, được cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà ủng hộ, do đó nếu có thất bại th́ chính đảng Cộng Hoà cũng phải nhận lănh một phần trách nhiệm. Ngược lại, Cabot Lodge nhận lời Kennedy sang làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cũng có một mục đích khác: tạo thêm tên tuổi và uy tín để đoạt lấy sự đề cử của đảng Cộng Hoà trong cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 1964. 

 

Đại sứ Lodge đến Việt Nam vào tháng 8 năm 1963, ngay sau khi vụ tấn công các chùa chiền diễn ra và sau này ông ta tiết lộ rằng TT Kennedy đă ra lệnh cho ông là phải báo cáo thẳng cho tổng thống qua hệ thống CIA: “Tôi được chỉ thị là phải gửi tất cả mọi điện tín trực tiếp đến Tổng Thống Kennedy và chỉ có Tổng Thống mới có quyền quyết định phân phối những phúc tŕnh này cho những người nào ông ấy muốn cho đọc mà thôi.” 

 

Cabot Lodge là một trung tướng trừ bị của Lục Quân Hoa Kỳ, ông cũng rất tin tưởng vào quan niệm của Bạch Cung cho rằng “điều ǵ tốt đẹp cho nước Hoa Kỳ th́ cũng tốt đẹp cho Miền Nam Việt Nam.” Về sau Cabot Lodge viết lại rằng:

“Tôi không có liên hệ hay dính dáng ǵ đến nguồn gốc của chính sách về Việt Nam này nhưng mà tôi nghĩ rằng chính sách đó là đúng. Tôi nghĩ một cách thẳng thắn rằng chúng ta có quyền tuyệt đối để sử dụng những áp lực hợp pháp nhằm gây ảnh hưởng một phần nào đó trong sự mặc cả với một chính phủ ngoại quốc khácà Khi người ta nhận sự giúp đỡ của chúng ta th́ chúng ta có cái quyền làm áp lực hay ‘lèo lái’ họ phải làm những điều chúng ta muốn.”

  

Trong lần gặp gỡ đầu tiên với TT Ngô Đ́nh Diệm ngay sau khi mới đến Sài G̣n nhậm chức, Đại sứ Cabot Lodge có cảm tưởng rằng ông Diệm coi thường TT Kennedy:

“... Ông Diệm cứ nh́n lên trần nhà rồi nói về thời thơ ấu của ông, nói về lịch sử Việt Nam nhưng lại tuyệt đối từ chối không thèm thảo luận ǵ với tôi về những vấn đề mà Tổng Thống Kennedy muốn tôi thảo luận với ông ta. Tôi nghĩ rằng điều này là một hành động không chính đáng để đối xử với vị đại diện của Tổng Thống Hoa Kỳ... Tôi tin rằng nếu chế độ Ngô Đ́nh Diệm c̣n tiếp diễn th́ sẽ có thể đưa đến việc Cộng sản thôn tính miền Nam: hoặc là do dân chúng chống lại những việc thất nhân tâm mà chính quyền đang làm, hoặc là do chính ông Ngô Đ́nh Nhu, em trai của Tổng Thống Diệm, có thể thương thuyết để đạt một thoả hiệp với Cộng sản.”

  

Theo Hersh th́ chính TT Kennedy cũng công khai tuyên bố trong một cuộc họp báo vào ngày 12 tháng 9 năm 1963 như sau:

“Những điều ǵ giúp cho sự chiến thắng trong cuộc chiến (tại Việt Nam) th́ Hoa Kỳ sẽ ủng hộ, c̣n những điều ǵ gây ảnh hưởng bất lợi cho cuộc chiến th́ chúng ta sẽ chống đối... Chúng ta đến Việt Nam không phải để mà chứng kiến một sự thảm bại và chúng ta sẽ theo đuổi những chính sách mà tôi đề cập đến hôm nay để đẩy mạnh cho những nguyên nhân cũng như là những vấn đề có thể giúp cho chúng ta đạt đến sự chiến thắng.”  

 

Vài ngày trước đó, trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền h́nh CBS, khi kư giả nổi tiếng Walter Cronkite hỏi: “Thưa Tổng Thống, Ngài có tin rằng chính phủ VNCH có thể thu phục lại được sự ủng hộ của dân chúng Việt Nam hay không?” th́ TT Kennedy trả lời rằng: “Tôi tin tưởng như vậy. Nếu có sự thay đổi về chính sách cũng như là về nhân sự th́ tôi nghĩ rằng chính phủ Việt Nam có thể lấy lại được sự ủng hộ của dân chúng. Nếu họ không thay đổi, tôi nghĩ rằng cơ may nắm lại sự ủng hộ của dân chúng sẽ không lấy ǵ làm sáng sủa.” 

 

Như vậy, trước khi cuộc đảo chánh diễn ra vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, TT Kennedy tin tưởng rằng cần phải có sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của TT Ngô Đ́nh Diệm, đó là việc tách rời ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu ra khỏi ông Diệm, đó là việc đưa cả hai vợ chồng ông Nhu ra ngoại quốc (The Nhu’s must go!) 

 

Kennedy bí mật gửi người bạn rất thân sang Sài G̣n

Tài liệu của Seymour Hersh có tiết lộ một chi tiết mà trước đây người Việt Nam không hay biết: đó là TT Kennedy đă nhờ một trong những người bạn rất thân, thân nhất của ông (one of his closest friends) bay sang Sài G̣n vào tháng 10 năm 1963 để thuyết phục TT Ngô Đ́nh Diệm loại ông Ngô Đ́nh Nhu ra khỏi chính quyền. 

 

Hersh cho biết:

“Trong quá tŕnh t́m hiểu tài liệu để soạn cuốn sách này, người ta (Hersh) được biết rằng vào mùa thu năm 1963, TT Kennedy đă có một nỗ lực thứ hai nhằm tách rời ông Nhu với TT Ngô Đ́nh Diệm. Lần này, Kennedy không sử dụng một nhân vật có liên hệ thân hữu đặc biệt ǵ với ông Diệm, như là Lansdale, thay vào đó, ông ta đă gửi một vị sứ giả riêng đại diện cho quyền lực của Tổng thống Hoa Kỳ. Đây là cơ hội cuối cùng để cho ông Diệm tự cứu ḿnh và giữ lại được ngôi vị tổng thống. Vào đầu tháng 10 năm 1963, Cabot Lodge đă được Lucien Conein báo cáo rằng các tướng lănh âm mưu đảo chánh dự định sẽ giết ông Diệm. Dù rằng không có một bằng chứng nào, không có một văn kiện nào c̣n lưu lại chứng minh về việc đó, tuy nhiên thật là rất khó để có thể tin được rằng Đại sứ Lodge lại không trực tiếp chuyển một tin quan trọng như vậy lên TT Kennedy.” 

 

Hersh cho biết rằng vào tháng 10, Lucien Conein đóng vai tṛ liên lạc và trung gian giữa Cabot Lodge và những sĩ quan âm mưu đảo chánh. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho tác giả Hersh vào năm 1996, Conein nói rằng:

“Tôi thảo luận vấn đề này với Cabot Lodge và tôi nói với ông ta rằng không bao giờ có một sự nghi ngờ nào rằng Tướng Dương Văn Minh, người cầm đầu âm mưu đảo chánh, lại để cho hai ông Diệm và Nhu sống sót. Một tháng trước đó (tháng 9-1963,) Dương Văn Minh đă nói với tôi rằng họ sẽ hạ sát (knock off) ông Diệm. Tôi nói: “Đừng có làm việc đó v́ có thể gây ra nhiều rắc rối.” Big Minh trả lời: “Chúng ta sẽ không thảo luận về chuyện này nữa!” Conein cho biết: “Tôi đă phúc tŕnh việc này với Đại sứ Lodge.” 

 

Nhân vật cuối cùng trong tấn thảm kịch Ngô Đ́nh Diệm vào mùa thu năm 1963 là Torbert Macdonald, người bạn ở trọ cùng pḥng (roommate) của Kennedy thời c̣n là sinh viên đại học và cũng là một trong những người bạn thân thiết nhất của TT Kennedy (one of his closest friends). 

 

Tolbert Macdonald cũng là một dân biểu thuộc đảng Dân Chủ của tiểu bang Massachusetts như Kennedy tuy vậy rất ít người biết về những liên hệ giữa ông với TT Kennedy. Chính Arthur Schlesinger, một sử gia và cũng là bạn thân của Kennedy trong cuốn hồi kư nổi tiếng “A Thousand Days: John F. Kennedy in the White House” dài trên một ngàn trang cũng không hề nhắc nhở ǵ đến nhân vật Macdonald này, duy Ted Sorensen th́ chỉ có nhắc sơ qua về Macdonald mà thôi. Trong một cuộc phỏng vấn thu âm dành cho Thư Viện Tổng Thống Kennedy, Macdonald đ̣i phải bảo mật tuyệt đối tài liệu này, tuy nhiên đến năm 1995, sau khi cuốn băng này được giải mật th́ người ta thất vọng v́ Macdonald không tiết lộ một chi tiết nào quan trọng cả. Trong những tài liệu liên quan đến cuộc đời chính trị làm dân biểu liên tiếp 10 nhiệm kỳ của Macdonald, không có một chi tiết nào nhắc nhở đến mối liên hệ giưă ông và TT Kennedy. Em trai của Kennedy là Bobby Kennedy cũng có dành một tài liệu được ghi âm cho Thư Viện Tổng Thống Kennedy, tuy nhiên ông này cũng không hề nhắc nhở ǵ đến Macdonnald, người bạn rất thân của anh ḿnh. 

 

Sau này, Hersh cho biết rằng Joe Croken, một chính trị gia tại Boston và có một thời gian làm phụ tá hành chánh cho Macdonald, đă tiết lộ với ông vào năm 1997 rằng Tolbert Macdonald là một trong những người bạn ăn chơi (playpals) của Kennedy, thường xuyên có mặt trong những parties bên hồ tắm (pool parties) vào ban đêm tại Bạch Cung và đồng thời cũng là người bạn đồng hành trong nhiều cuộc phiêu lưu t́nh ái và t́nh dục cuả Kennedy, nhất là trong vùng Hollywood. Joe Croken nói rằng Macdonald là một người bạn mà Kennedy hoàn toàn tin tưởng, có nhiều điều bí mật giữa Kennedy và Macdonald mà chỉ có riêng hai người biết, họ không hề thổ lộ với bất cứ ai, kể cả Bobby Kennedy. 

 

Joe Croken tiết lộ rằng một trong những điều bí mật mà Macdonald không hề nói đến đó là một cuộc du hành bí mật mà Kennedy đă gửi Macdonald sang Sài G̣n: “Macdonald là một nhân vật quan trọng đáng kể sau cùng của Hoa Kỳ đă gặp gỡ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Đó là chuyến đi duy nhất của ông ta theo lời yêu cầu của Tổng Thống.” Joe Croken cho biết thêm rằng Macdonald có tiết lộ với ông về chuyến đi này tuy nhiên ông ta không hề nói ǵ liên quan đến nội dung của sứ mạng này cả. 

 

Nếu Macdonald không tiết lộ ǵ với Joe Croken về sứ mạng của ông ta sang Sài G̣n nhưng ông ta lại không giữ kín với Eleanor Carney, người t́nh lâu năm của ông. Hersh nói rằng Joe Croken cũng xác nhận với ông rằng Eleanor Carney đă giữ một vai tṛ rất thân tín của Torbert Macdonald cho nên bà ta có thể biết được một vài trong những “chuyện bí mật” giữa ông ta với Kennedy. Sau khi Macdonald qua đời, bà Eleanor Carney lúc bấy giờ đang phục vụ tại Viện Y Tế Quốc Gia, đă có nghĩ đến chuyện viết hồi kư với sự cộng tác của Herbert Parmet, giáo sư sử học tại trường Đại Học Thành phố New York (City University of New York). Vào năm 1977, bà Eleanor Carney đă dành cho Giáo sư Herbert Parmet một cuộc phỏng vấn được ghi âm trong suốt bốn tiếng đồng hồ. Cuốn hồi kư này không hề được xuất bản, tuy nhiên vào năm 1983 th́ Giáo sư Parmet đă sử dụng một số chi tiết trong cuộc phỏng vấn này trong cuốn sách của ông: “JFK: the Presidency of John F. Kennedy.” 

 

Giáo sư Parmet cho biết rằng một nguồn tin rất đáng tin cậy (Eleanor Carney) tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn của ông như sau:

“Kennedy giải thích với Macdonald rằng ông ta được biết Tướng Dương Văn Minh và nhóm của ông ta đang dự định ‘ám sát’ (assassinate) ông Ngô Đ́nh Diệm. (Hersh ghi chú thêm rằng nguồn tin này có thể xuất phát từ Đại sứ Cabot Lodge v́ trước đó Conein đă báo động cho Lodge biết về việc các tướng lănh này đă quyết tâm hạ sát ông Diệm.) Carney nói với giáo sư Parmet rằng: “Tổng Thống Kennedy muốn thiết lập một sự liên lạc trực tiếp với Tổng Thống Diệm. Ông ta do dự không muốn sử dụng đường dây chính thức qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n v́ ông ta không thể tin cậy (trust) được người của toà đại sứ. Ông ta cũng không tin cậy cả Đại sứ Cabot Lodge... và sau cùng th́ cũng không có một người (Nam) Việt Nam nào mà ông ta có thể tin cậy được. Do đó ông đă nhờ đến Torbert Macdonald mang một lời kêu gọi của chính cá nhân ông đến ông Diệm, đó là để cho ông Ngô Đ́nh Nhu ra đi và vào trú ẩn trong toà đại sứ Hoa Kỳ.” Eleanor Carney nói với Giáo sư Parmet rằng trong cuộc hội kiến này, Dân biểu Torbert Macdonald đă cảnh cáo ông Diệm nguyên văn như sau:

“Họ sẽ giết ông. Xin ông hăy rời khỏi Dinh (Gia Long) để tạm thời xin vào trú ẩn trong toà đại sứ Hoa Kỳ.” Nhưng mà ông Diệm lại từ chối. Macdonald tường tŕnh lại với Kennedy rằng: “Ông ta nhất định không chịu làm như vậy. Ông ta quá ương ngạnh, ông ta từ chối việc đó!”  

 

Seymour Hersh cho biết thêm rằng ông đă nhiều lần phỏng vấn con trai của Macdonald là Torbert Macdonald Jr. về chuyện này và người con nói rằng qua nhiều cuộc tranh luận với thân phụ của ông về sự đạo đức của cuộc chiến tranh (Việt Nam) vào thập niên 1960 khi ông ta c̣n là sinh viên tại trường đại học Harvard, ông có nhớ lại rằng thân phụ của ông có nói: “Kennedy đă nhờ cậy đến ông trong việc cảnh cáo ông Diệm tại v́ ông ta không thể tin cậy những người trong hệ thống chính thức tức là toà đại sứ Mỹ ở Sài G̣n.” Tobert Jr. nói rằng thân phụ của ông có báo cáo cho Kennedy rằng “Ông Diệm không chịu từ bỏ người em là ông Nhu.” Torbert Jr. cũng tiết lộ rằng thân phụ của ông đă yêu cầu Kennedy để cho ông bay sang Sài G̣n bằng phi cơ quân sự thay v́ hàng không dân sự để bảo toàn bí mật. Torbert Jr. cho biết thêm rằng thân phụ của ông không hề lưu giữ một hồ sơ chính thức nào và sau khi ông ta từ trần th́ gia đ́nh t́m thấy giấy thông hành của ông trong thời gian làm dân biểu đă bị cắt xén nhiều trang bằng dao cạo râu. 

 

Về vấn đề này, Hersh có đưa ra một nhận xét rằng nếu quả Tổng thống Kennedy có ư muốn cảnh cáo ông Diệm như lời bà Eleanor Carney kể lại th́ trên bề mặt, điều này có vẻ mâu thuẫn: tại sao ông tổng thống cho phép người của ông ta âm mưu chống lại tổng thống của miền Nam Việt Nam rồi th́ lại mật báo cho ông Diệm biết về số phận của ông ta? Hersh giải thích rằng vào mùa xuân năm 1961, Kennedy cũng đă làm một hành động tương tự: ông ta đă yêu cầu George Smathers của CIA gặp riêng Rafael Trujillo, nhà độc tài của nước Cộng Hoà Dominican và đề nghị ông này nên rời bỏ chức vụ và đi lưu vong. Trujillo chẳng thèm quan tâm đến đề nghị này và chỉ trong ṿng vài tuần sau đó th́ bị ám sát, với sự đồng loă của Hoa Kỳ. Ngoài ra cũng c̣n có thêm một nguyên nhân riêng khác trong quyết định của Kennedy nhằm giúp đỡ vào giờ chót cho ông Diệm: ông Diệm là một người bạn cũ (old friend) cũng như là một người tín hữu Thiên Chúa giáo mà trong nhiều năm trước đây chính thân phụ của ông là Joseph Kennedy cũng rất kính phục. 

 

Kennedy dự định rút ra khỏi Việt Nam sau cuộc bầu cử 1964?

Seymour Hersh nói rằng sau khi Kennedy bị ám sát, những cộng sự viên thân tín của TT Kennedy đă cho biết rằng ông ta không dự định sẽ duy tŕ quân lực Mỹ tại Việt Nam sau năm 1965. Hersh cho biết rằng Charles Bartlett, một kư giả được xem như là bạn thân và rất được Kennedy tin cậy (confidant,) đă nói với ông rằng chính TT Kennedy có nói với Bartlett như sau: “Tôi không tin rằng Hoa Kỳ có một tương lai nào ở Việt Nam, nhưng mà chúng ta phải giữ quân đội lại đó qua cuộc bầu cử tổng thống năm 1964.” 

 

Theo Hersh th́ dự định này được nói rơ trong bài “Johnny, We Hardly Knew Ye” của Kenneth O’Donnell, một cộng sự viên rất thân tín và cũng là bạn ăn chơi của Kennedy, khi ông này thuật lại cuộc đối thoại riêng giữa Kennedy và Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield vào năm 1963. TNS Mike Mansfield là một trong những nhân vật tích cực ủng hộ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm trong giai đoạn ông mới về chấp chánh vào năm 1954, tuy nhiên sang đến thập niên 1960 th́ ông lại chống những chính sách của ông Ngô Đ́nh Diệm cũng như là công khai chống lại sự tham chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Theo O’Donnell th́ TT Kennedy đă nói với TNS Mansfield rằng: “Tôi sẽ ra lệnh hoàn toàn triệt thoái quân Mỹ ra khỏi Việt Nam vào năm 1965. Nhưng mà tôi không thể ra lệnh như vậy trước năm 1965 -sau khi tôi được tái cử vào cuối năm 1964.” 

 

Khi tác giả Hersh phỏng vấn TNS Mansfield về cuộc đối thoại này th́ chính ông Mansfiel đă xác nhận chi tiết này của O’Donnell là có thật. Bài viết của Kenny O’Donnell về sau trở thành trọng tâm của những sự tranh luận về trách nhiệm của Kennedy trong cuộc chiến tranh Việt Nam, một việc được người ta xem như là một trong những sự sa lầy bi thảm nhất trong lịch sử đối ngoại của nước Hoa Kỳ. Vào thời gian khi O’Donnell viết bài này, có lẽ ông ta chưa được biết rơ một cách hoàn toàn tường tận về âm mưu triệt hạ ông Ngô Đ́nh Diệm cũng như là ông ta không hề tiên đoán được rằng việc Tổng Thống Kennedy có biết trước về cái chết của ông Diệm về sau sẽ được công bố.  

 

Tác giả Hersh kết luận rằng nếu những tường thuật của Charles Bartlett, Kenny O’Donnell và TNS Mansfield là đúng th́ rơ ràng là Tổng Thống Kennedy luôn luôn sắp đặt kế hoạch để triệt thoái ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, sở dĩ ông ta chọn lựa không hành động như vậy vào mùa thu năm 1963 khi mà Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đang mất uy tín và sắp sửa bị đảo chánh là một cơ hội bằng vàng, đó chính là v́ -theo tường thuật của ba nhân vật kể trên- th́ chính sách của Kennedy không phải là để cứu Miền Nam Việt Nam mà chỉ muốn tŕ hoăn điều không thể tránh được là việc mất Việt Nam cho đến sau khi ông được tái đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào cuối năm 1964. 

 

Về cái chết của TT Ngô Đ́nh Diệm, Hersh nhận xét rằng:

“Sở dĩ ông Ngô Đ́nh Diệm bị giết là tại v́ ông ta muốn làm một điều ǵ vào năm 1963 -đ̣i người Mỹ triệt thoái ra khỏi Việt Nam- một điều mà TT Kennedy cũng muốn làm tuy nhiên chỉ sau khi cuộc bầu cử diễn ra vào năm 1964. Như vậy th́ Kennedy đă giữ sự tham dự của người Mỹ trong cuộc chiến tại Việt Nam chẳng qua là chỉ v́ những nguyên nhân thuận lợi nhất cho ông ta: đó là sự bảo đảm cho việc tái đắc cử chức vụ tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa vào năm 1964. Kennedy cũng quyết định chọn sự đứng bên ngoài, và tối thiểu, đă đồng ḷng trong việc thảm sát một người bạn cùng gốc Thiên Chúa giáo và một người bạn chống Cộng sản (a fellow Catholic and fellow anticommunist.) Ông Diệm có những sai lầm, có rất nhiều, tuy nhiên ông ta không phải là một mối an nguy về chính trị cho Hoa Kỳ. Ông Diệm không phải là một Fidel Castro. Thực ra th́ ông ta có cơ nguy bị thất bại hơn là Fidel Castro nhiều.” 

 

“Trong cuộc họp báo vào ngày 14 tháng 11 năm 1963, cuộc họp báo cuối cùng trước khi bị ám sát, Tổng Thống Kennedy được hỏi ba câu hỏi chiếu lệ (perfunctory questions) về t́nh h́nh tại Nam Việt Nam, chẳng có câu hỏi nào chứng tỏ cho thấy giới truyền thông Mỹ tại Washington không có một ư niệm nào về sự dính dáng của tổng thống Hoa Kỳ trong cuộc lật đổ ông Diệm. 

 

“Kennedy nói với các kư giả rằng: “Bây giờ, mục tiêu của Hoa Kỳ là đưa người Mỹ về nhà (to bring Americans home,) cho phép (permit) người Nam Việt Nam bảo tồn cho họ một quốc gia tự do và độc lập, và cho phép các lực lượng dân chủ trong nước được hoạt động.” 

 

Seymour Hersh kết luận:

“Không có một mục tiêu nào trong những mục tiêu này có thể đạt được trong những năm sắp tới.”

 

 

Trần Đông Phong

Tháng 11 năm 2009

 

NHỮNG BÀI LIÊN QUAN

  1. Đảo chính Hiến Chương 2011 Kim Âu

  2. Tẩu Hỏa Nhập Ma Kim Âu

  3. Hài Kịch Lên Lon Kim Âu

  4. Nặc nô: tài nhỏ chí láo Kim Âu

  5. Bản Chất Khó Dấu

  6. Hành động tuyệt vọng của những kẻ cùng đường

  7. Lấy sai làm đúng Kim Âu

  8. Xác định tư cách Sáng lập Viên CĐNVQGHK Kim Âu

  9. Con Giun Đất Rộng Kim Âu

  10. Giữ lấy danh nghĩa và tính độc lập  Kim Âu

  11. Làm thế nào để cứu lấy cộng đồng Kim Âu

  12. Thế hệ gach nối - Con dao hai lưỡi Kim Âu

  13. Đại Hội Bất Thường Quậy

  14. Thực Chất Về Tổ Chức Cộng Đồng Kim Âu

  15. Các Tổ Chức Cộng Đồng Hoa Kỳ Thực Chất Là Ǵ

 

 


Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 


 

Your name:


Your email:


Your comments: