Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vạch Áo Cho Mọi Người Cùng Xem

 

 

PhanThanhTam

 

 

 

*Ông Phan Thanh Tâm, tác giả bài này, là cháu năm đời của cụ Phan Thanh Giản. Trước 1975, ông làm ở Việt Tấn Xă, Sài G̣n. Sau 75, ông vượt biển trên một chiếc thuyền nhỏ 13 người từ năm 1976. Lưu lạc một tháng trời giáp một ṿng bờ biển các nước Đông Nam Á, đâu đâu ông cũng bị người ta đẩy trở lui ra biển cả. Chặng cuối cùng là đảo Palawan, Phi Luật Tân, thuyền được nhận trở lại vào bờ, nhờ sự can thiệp của một ông cố đạo người Ư đang coi một họ đạo tại đảo này. Ông là một trong nhũng «thuyền nhân» đầu tiên được đặt chân lên đảo nói trên. Bài này viết cách đây 6 năm rồi, với một phong thái thẳng thắn, nhưng ôn hoà, về một vấn đề tự-bản khá gay gắt. Tác giả sẵn ḷng cho phép đăng lại để độc giả có dịp chia sẻ những suy nghĩ với ông. *

 

Tốt khoe ra, xấu xa đậy lại và nhất định không có chuyện vạch aó cho mọi người cùng xem. Đó là phương châm của phe ta. Tại sao vậy? Tự cho là thuộc ḍng giống con rồng cháu tiên, và có quá khứ hơn bốn ngàn năm văn hiến nên người ḿnh lúc nào cũng tốt, cũng bảnh, cũng anh hùng, xuất chúng. Hễ nói tới người ngoại quốc th́ xách mé, trịch thượng; gọi họ bắng thằng, bắng con. C̣n nước VN phải là minh châu trời đông, là bó đuốc soi đường. Tuy nhiên gần đây, có dư luận lên tiếng là phải xét lại cái ư tưởng tự tôn, tự đại, ngông cuồng đó. Họ cho rằng cứ hót ca, nâng bi dân tộc ḿnh một cách lộ liễu như vậy hoài th́ ta sẽ măi măi ngất ngư như con gà mắc dây thun. Chắc hằn phải có vấn đề, có trục trặc đâu đó v́ tài khôn như vậy mà chưa ra cái con ǵ cả trong khi các nước lân bang ở Đông Nam Á nay đă là con cọp, con beo, con sư tử rồi.  

Cái hay ở chỗ, người tạo ra dư luận là một nhà thơ hồi nhỏ ở Sài G̣n, du học ở Nhật; năm 1966, định cư ở Pháp; năm 1996, trong khi sang Tàu, vớ đựơc một cuốn sách khiến ông “thích thú quá cơ” và ông nghĩ rằng “bất cứ người VN nào khác đọc được, bảo đảm cũng sẽ thích thú”' như ông. Ông tin rằng quyển sách sẽ “giúp nh́n lại mà đánh giá bản thân, dân tộc và văn hoá của ḿnh trong giai đoạn hiện nay”. V́ thiện ư, ông bỏ công ra dịch và mong có nhiều người đọc. Nhà xuất bản Chân Mây Cuối Trời phát hành bản dịch lần đầu tiên tại Paris năm 1998. Cuốn sách được đón tiếp nồng hậu. Giới báo chí đua nhau nói về nó. Nhà xuất bản Văn Nghệ ở quận Cam, thủ đô người tị nạn, hưởng ứng in lại; quyển sách được coi là bán chạy trong năm 1999.  

Nhà báo Lê Đ́nh Điểu, trước khi qua đời, trong lúc nằm trên giường bệnh, viết bài điểm sách đăng trên Thế Kỷ 21 số tháng 04/1999: “Đọc Người Trung Hoa Xấu Xí của Bá Dương", người VN nào cũng liên tưởng đến việc đây là chuyện của ḿnh. Có lẽ chỉ thay cái tựa là Người Việt Nam Xấu Xí cuốn sách cũng vẫn có ư nghĩa. Phải chăng đó là lư do nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ bỏ th́ giờ, công sức ra dịch cuốn sách sang Việt Ngữ? Trả lời câu hỏi của nhà phê b́nh văn học Đặng Tiến, đăng trong Việt Mercury, dịch giả, tên thật là Nguyễn Khôi Minh, sinh năm 1945 tại Hà Bắc nói sự đời là thuốc đắng đả tật; có chướng tai cũng phải lên tiếng. Ông tâm sự: «không đọc quyển sách này có khi đở phải nghĩ ngơị lôi thôi; c̣n chẳng may đọc c̣ thể sẽ bị đau khổ nhiều hơn là thích thú».  

Trong bà́ phỏng vấn hồi tháng 10/1999, khi đề cập về những cuốn sách như Người Việt Đáng Yêu, Người Việt Cao Quư, dịch giả, đă có bảy tập thơ xuất bàn ờ ngoại quốc từ năm 1968, cho biết: «Đó là chuyện ngược đời. Ở những nước tiên tiến giàu mạnh, chưa có nước nào bốc thơm dân tộc ḿnh một cách lố bịch như thế cả. Người Mỹ, người Nhật, người Pháp, người Đại Hàn đều chỉ có những sách nói lên khuyết điểm, những cái tồi dở của dân tộc, đất nước ḿnh. Bây giờ đến lượt người Trung Hoa. Cuốn Người Trung Hoa Xấu Xí xuất bản ban

đầu ở Đài Loan; sau đó được tái bản ở lục địa. Họ đă biết nghĩ, tuy là môt nước lớn, văn hoá lâu đời, nhưng nếu cứ măi ra rả về những cái vĩ đại th́ theo nhá báo Bá Dương, tác giả cuốn sách, Trung Hoa sẽ đi đến chỗ diệt vong mà thôi».  

Nhà thơ Nguyễn Hồi Thủ, trong phần lời người dịch viết, ngay sau khi từ Trung Hoa về đến VN, ông đă đưa bản sao cho một ngươi bạn ở Hà Nội và cổ vơ người này dịch ra tiếng Việt. Nước Trung Hoa Cọng Sản đă chấp nhận cuốn sách. Người Âu Mỹ cũng thế, th́ không có lư do ǵ người VN lại không thề được đọc nó, cho dù không phải đề học hỏi, mà có thể v́ hiếu kỳ, tin tức về một nước láng giềng. Ông đă hy vọng cuốn sách sẽ xuất hiện tại VN; nhưng cho

đến nay, người trong nước vẫn chưa được đọc. Theo dịch giả, cuốn sách sẽ rất có ích cho tất cả các cộng đồng có liên quan it nhiều đến văn hoá Trung Hoa. Chủ đích của tác giả Bá Dương là nếu muốn phục hưng dân tộc, phải bắt đầu bằng việc thừa nhận các khuyết điểm, sai trái của ḿnh.

*

Đọc người rồi ngẫm đến ta*

Tác giả Bá Dương, là nhà báo, nhà văn, nhà thơ và là sử gia, sinh năm 1920, chạy sang Đài Loan năm 1949, ở tù 10 năm v́ các bài viết bị xem là phạm thượng. Ra tù ông đi diễn thuyết về hiện tượng Người Trung Hoa Xấu Xí. Cuốn sách gồm những bài nói chuyện của ông và của những người tranh luận với ông. Có người cho rằng nếu không đọc được sách của Bá Dương là một sự thiệt tḥi lớn. Sách hấp dẫn hơn chuyện chưởng của Kim Dung v́ nó khiến thiên hạ phải đọc người rồi ngẫm đến ta. Thấy sao nó giống dữ vậy. Giống dễ sợ. Theo ông,

văn hoá Trung Hoa đă biến thành một đầm nước chết, càng lâu càng thối, thành một vại tương rồi. Đăc tính rơ nhất của người Trung Hoa là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Có nhiều nơi, nếu người Trung Hoa đến ở là những người khác dọn đi.  

Bất kỳ ở chân trời góc biển nào hễ có người Trung Hoa là có cắn xé nhau. Mỗi  người Trung Hoa đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới th́ tài trị quốc b́nh thiên hạ có dư. Nhưng nếu ba người Trung Hoa họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con gịi. Người Trung Hoa vĩnh viễn không đoàn kết được. Mỗi người lại c̣n có đầy đủ lư do để có thể viết một quyển sách nói tai sao họ lại không đoàn kết. Bất cư xă hội người Hoa nào it nhất cũng phải có 365 phe phái t́m cách tiêu diệt lẫn nhau. Họ chưa biết tầm quan trọng của sự hợp tác; nhưng họ có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết, hay ho đến Thượng Đế cũng có thể khóc được. Những thói xấu đó đă thâm căn cố đế. Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: chết cũng không chịu nhận lỗi. Họ thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa. Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hay tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định.

 Người Trung Hoa sống tại Mỹ cũng vậy, nào cánh tả, cánh hưũ, trung lập, độc lập, thiên tả, trung, trung thiên hưũ, hưũ thiên trung vân vân và vân vân, chẳng biết đường nào mà ṃ. Người này đối với kẻ nọ đều mang mối cựu thù như nó giết bố ḿnh. Thật không hiểu là thứ dân tộc ǵ? Đối xử với người Trung Hoa tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính là ngươi Trung Hoa với nhau. Bán rẻ, hăm doạ người Trung Hoa lại không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Người Tây Phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Hoa đă đánh nhau rồi th́ cưù hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đơi cũng chưa hết. Sống trường kỳ trong cái hũ tương lâu ngày quá tự nhiên sinh ra thói cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, c̣n mặt khác tự ti, ích kỷ; không có can đảm dám khen người khác, chỉ có dũng khí dùng để đả kích kẻ khác; chửi bới sau lưng; yêu th́ sợ chúng cười, ghét th́ sợ chúng thù. Họ vĩnh viễn không thể nào so sánh được với người Do Thái, chỉ cần so sánh với người Nhật, ngươi Đại Hàn là cũng thấy bị thua tới cả trăm ngh́n năm ánh sáng rồi.  

Người Hoa sợ sệt đủ mọi thứ trên đờ́. Cái năo trạng hăi sợ này đă nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. V́ vậy bạo chúa, bạo quan không bao giờ bị tiêu diệt, và đă biến dân tộc Trung Hoa thành một dân tộc hèn mọn. Sức tưởng tượng, óc suy xét, tư tưởng của giới trí thức bị bóp chết, xơ cứng. Trong 4000 năm, từ Khổng Tử trở đi, không c̣n có một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái hũ tương văn hoá, cái hũ tương thối làm cho người

Trung Hoa xấu xí, không thể dùng tư tưởng của ḿnh giải quyết, phải bắt chước, phải dùng cái tư tưởng của kẻ khác; lớn lên trong tham ô, hỗn loạn, chiến tranh, giết chóc, bần cùng, cho nên chẳng bao giờ có cảm giác an toàn, lúc nào cũng hoảng hốt, lo âu. Trung Hoa diện tích rộng thế, lâu đời thế mà người Hoa lại có một tâm địa thật hẹp ḥi, không muốn ai hơn ḿnh. Phải chăng Thượng Đế đă phú cho chúng ta có một nội tâm xấu xa? 

Trên đây là những đoạn trích các ư tưởng trong sách của nhà báo Bá Dương. Ai cũng biết, gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng. Hơn một ngàn năm bị đô hộ, lại sống sát nách một kẻ như thế, chẳng lẽ ta gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?

Họ sao ta vậy hay ta tệ hơn th́ chẳng có ǵ lạ cả. Hơn nữa, mỗi dân tộc có mỗi bệnh trạng xă hội. Bệnh trạng của ta cọng thêm bệnh trạng của anh bạn láng giềng th́ chắc phải hết thuốc chữa; hèn ǵ nước ta lúc nào cũng loay hoay như gà mắc đẻ, lệt bệt đi sau hửi đít thiên hạ. Nếu văn hoá Trung Hoa đă biến thành một cái hũ tương thối th́ văn hoá ta là cái hũ ǵ? Hũ vàng hay là hũ mắm thối? C̣n Người VN ra sao? Thử nh́n thoáng vào gương xem.

 

*Mẫu người Việt Nam*

Trong cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có đoạn tả tính t́nh người VN trước năm 1930 như sau: Về đàng trí tuệ và tính t́nh, th́ người VN có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái th́ trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lấy sự nhân nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy cũng có hay tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường th́ nhút nhát, hay khiếp sợ

và muốn sự hoà b́nh nhưng mà đi trận mạc th́ cũng có can đảm, biết giữ kỹ luật. Tâm điạ th́ nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang, và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma, tin quỷ, sùng sự lễ bái nhưng mà vẫn không nhiệt tin tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có ḷng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn. Đàn bà th́ hay làm lụng và hay đảm đang, khéo chân, khéo tay, làm được đủ moi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết ḷng chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quư là tiết, nghĩa, cần, kiệm. 

Với mẫu người nói trên và nếu cho rằng, văn hoá là sinh hoạt, ta không hiểu văn hoá ta là văn hoá ǵ, lại có thể sinh ra một tay gian hùng nhưng rất thành công như Trần Thủ Độ. Việt Nam Sử Lược của học gỉả Trần Trọng Kim cho biết, v́ cốt gây dựng cơ nghiệp cho nhà Trần, dù tàn bạo đến đâu Trần Thủ Độ cũng làm cho được. Ông đă chôn sống cả gịng họ Lư. Trước đó, Trần Thủ Độ nói với vua Lư Huệ Tông, tuy đă bỏ ngôi vua, xuất gia đi tu, môt câu để đời

“nhổ cỏ th́ phải nhổ cả rể cái”. Trong khi đó, Nguyễn Trăi, đại công thần của vua Lê Lợi, thảo ra B́nh Ngô Đại Cáo, môt bản văn chương giá trị, và là tác gỉả câu đầy t́nh người 'Thương người như thể thương thân', trong tập Gia Huấn Ca, th́ lại bị giết cả họ v́ bị kết tội là dùng người thiếp đẹp và giỏi thơ, Nguyễn Thị Lộ, để mưu hại nhà vua.  

Trong cuốn Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, tác giả Hoàng văn Chí cho biết, vào những năm 1954 và 1956, khi Cộng Sản Việt Nam đem chiến thuật «Cải Cách Ruộng Đất» của Mao Trạch Đông, áp dụng tại Bắc Việt, mới thấy người ḿnh sao lại có đầu óc nô lệ dữ vậy. Đúng như cụ Trần Trọng Kim phê b́nh: «Từ tư tưởng cho chí công việc làm, điều ǵ ḿnh cũng lấy Tàu làm gương. Hễ ai bắt chước được Tàu là giỏi, không bắt chước được là dơ». Mà theo Bá Dương, Trung Hoa hiện tại c̣n là một nước dă man nguyên thuỷ, th́ việc Cọng Sản Việt Nam đưa ra phương châm: “thà sai hơn là bỏ sót” trong khi phát động chiến dịch long trời lở đất nói trên cũng là điều hiển nhiên thôi. Ở các nước văn minh th́ khác. Nguyên tắc luật pháp của CSVN là: thà tha lầm hơn bắt lầm.

 Mặt khác, trên sân khấu ch́nh trị nước ta có một “diễn viên kỳ tài”, chữ của nhà văn Vũ Thư Hiên khi nói về Hồ Chí Minh, một người làm cách mạng chuyên nghiệp, được huấn luyện tại Nga, tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Ông tiến, ông thoái, khi hai bước, khi ba bước, khi khóc, khi cười, khi ôm hôn thắm thiết, biến ảo khôn lường. Cả thế giới đều nghe danh ông. Cho đến nay chưa ai biết rơ «con đường bác đi». Theo giáo sư Nga Anatoli Sokolov, chuyên viên Liên Sô về Việt Nam Học, tại Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Phương ở Mạc Tư Khoa, trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, ông có trên 150 bí danh. Để cho «chủ nghĩa xă hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới» ông sẵn sàng mua chiến thắng đó «dẫu phải đốt sạch cả dăy Trường Sơn» hay phải «đánh Mỹ đến người VN cuối cùng». Không hiểu khí thiêng sông núi VN thế nào mà lại có thể sinh ra một con ngươi kỳ dị như vậy? Chính ông đă gây ra bao cuộc bể dâu, chết chóc.  

Hồi thập niên 60, có bài Tâm Ca Số Năm của Phạm Duy mang tên Để Lại Cho Em nói lên thực tế của đất nước: «Bây giờ chỉ c̣n là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi bom đạn. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo lực vênh vang bề thế»; và «Đường về tương lai nghẽn lối». Thế hệ đàn anh chỉ đề lại «những giả dối, đê hèn, và vụng dại». Bài hát lưu hành ở miền Nam rồi rơi vào quên lăng, bị át bởi tiếng xe tăng, máy bay, hoả tiển, AK, M16. Vũ khí này được cung cấp bởi các nước đồng minh của hai miền Nam Bắc. Đó là hệ quả của việc t́m đường cứu nước của bậc tiền bối. Kẻ đi Tàu, đi Nga, ngựi đi Tây, đi Nhật, đi Mỹ. Ai cũng cho là thuốc ḿnh mang về là thuốc tiên; nhưng v́ muốn độc quyền trị nước nên VN thành nơi thử lửa cuộc chiến tranh lạnh. Nước ta hết nạn hủ nho, th́ đến nạn hủ Marx, hủ Mao. «Tôi không có tư tưởng ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê Nin». Hồ Chí Minh đă khẳng định như thế (1).

  Trong ba mươi năm nội chiến từng ngày, nửa nước từ con sông Bến Hải trở ra Bắc theo Nga, theo Tàu; nửa nước phía Nam chống lại bằng dựa vào Tây, vào Mỹ. Cuối cùng miền Nam sụm v́ đỡ hoài th́ ắt có ngày bị đánh gục. Lại nữa, Hoa Kỳ rút lời cam kết, ngưng viện trợ. Chỉ nội hai tháng 03 và 04 năm 1975, cả một chế độ tan tành. Khôn sống, mống chết. Tướng tá cao chạy xa bay, t́m đường thoát thân. Trong lúc trời đất nổi cơn gió bụi mới thấy nhân tài, khôn lanh th́ nhiều như lá mùa Thu, c̣n tuấn kiệt th́ như sao mai buổi sớm. Có bao nhiêu người đứng lại chịu chết, chịu tù, chịu nhục, chịu chia sẻ với thuộc cấp? Anh hùng tất phải hiếm. Điều đó dễ hiểu. Nhưng đâu rồi câu hát “Dân ta hằng anh dũng, dân ta vẫn oai hùng, dân ta dù nguy biến không nao”?  

Ngày 30/04/1975 là ngày phơi bày rơ ràng bộ mặt của cấp lănh đạo hai miền: Miền Nam hèn kém, miền Bắc xảo trá, đê tiện, đầu óc nô lệ. Sau khi chiếm Sài G̣n, nhà cầm quyền Cộng Sản t́m cách tiêu diệt các thành phần tinh nhuệ bằng học tập cải tạo và vơ vét, cướp bóc tài sản của miền Nam một cách có hệ thống bằng hai chữ quản lư. Họ lại đốt sách báo và cấm lưu trữ các sản phẩm văn hoá cũ như thời Tần Thuỷ Hoàng. Họ cố xoá bỏ căn cước của dân miền Nam. Dân miền này không thấy được giải phóng mà thấy ḿnh là dân bị trị, bị người anh em làm nhục, trả thù v́ thế mới có chuyện người Việt dù chết vẫn t́m cách lao đầu ra biển, làm mồi cho hải tặc, cho sóng dữ. Đến ngay «cả cái cột đèn nếu biết đi cũng c̣n muốn bỏ nước ra đi». Dân tộc VN, có quá khứ dài lâu; anh em như thể chân tay, sao lại không thể sống chung với nhau, mà lại đi ra xứ người sống với thiên hạ?

 

Con Rồng Cháu Tiên?

Sau thế chiến thứ hai, chỉ trong ṿng 20 năm, hai nước chiến bại, Đức và Nhật đă phục hưng nhanh chóng, trở thành cường quốc kinh tế. Ông Bá Dương đă ví họ, “chẳng khác nào, một anh khổng lồ ba đầu sáu tay, đùng một cái bị đánh gục xuống đất, một lúc sau từ từ hồi tỉnh, đứng dậy phủi quần aó bước đi, vẫn đường đường là một hảo hán”. C̣n nước ta, Việt Nam là một nước nghèo. Đời sống nói chung so với các nước ở Đông Nam Á hăy c̣n thấp. Theo tin báo, nhà nước lại tăng cường tốc độ các bức tường lửa để kiểm soát các ngướ vào Internet. Người dân chưa được tự do sử dụng máy in, một phát minh từ thế kỷ 15 của ông Johann Gutenberg. Mọi ấn phẩm đều phải có giấy phép của nhà cầm quyền. Ở thời đại tin học mà c̣n phải làm báo chui, báo lậu như tờ Thao Thức của một số sinh viên th́ phải kể là chuyện lạ bốn phương.  

Tháng 05/1999, nhà văn Dương Thu Hương, từ trong nước đă gửi lén ra Hải Ngoại một đoản văn. Theo bà: “sau chiến tranh ngót một phần tư thế kỷ, trên dải đất này vẫn chỉ nghe rơ tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen trên các nghĩa địa nối dài từ bắc vào Nam, từ nam ra Bắc” và «Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, khôn ngoan hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thoả hiệp hơn vơi sự nhục nhă, dễ cúi đầu hơn trước tội ác». Tại sao vậy? Ông Nguyễn Gia Kiểng, thuộc nhóm Thông Luận trong bài Vết Thương 30/04/1999 cho rằng: "Đó là v́ dân tộc ta đă ră hàng, mỗi người tự thấy ḿnh cô đơn, có muốn cũng chẳng làm được ǵ. Đó cũng là v́ đă quá chán đất nước, đă mệt mỏi, đă mất ư chí và ḷng tự hào. Đảng Cọng Sản VN không phải chỉ đánh gục phe quốc gia hay miền Nam. Họ đă đánh gục được cả dân tộc VN. Chúng ta đă bị đả thương quá đau nên không thể đứng dậy».  

C̣n Hải Ngoại, được coi như là một VNCH nối dài th́ thế nào? Tờ báo Hợp Lưu số 49 viết: «có nước nào trên thế giới chỉ bé tí bằng lỗ chân lông như Bolsa tiểu quốc, thế mà cái ǵ cũng thặng dư lạm phát. Báo chí th́ rợp trời kín đất như lá mùa Thu. Văn bút th́ chúng tôi có đến nhị vị chủ tịch (dù bây giờ chả c̣n ai trên thế giới công nhận, nhưng mặc xác thế giới, chúng tôi cứ là văn bút, cứ là chủ tịch, làm ǵ nhau?), cộng đồng cũng đương kim hai ngài

Tổng Thống (dù thật thà mà nói, trông mặt các ngài, con nít sẽ khóc thét như gặp ma, người lớn sẽ nôn nao ruột gan muốn ói), và chính phủ lưu vong cùng đảng phái yêu nước, nói không phải khoe, trung b́nh mỗi tháng mọc thêm chừng mươi cái, nhanh, nhiều như nấm dại mùa Đông». Sang đây, mất tất cả, thiên hạ mơ có quyền lực, mong có cái danh. Ông nào cũng tự cho ḿnh có sứ mệnh, như «ai bao năm từng lê gót nơi quê người» của thuở nào. Vàng thau lẫn lộn, không biết đâu là thật, đâu là giả.  

Năm 1958 hai tác giả William J Lederer và Eugene Burdick cho phát hành cuốn The Ugly American (Người Mỹ Xấu Xí), nói về thói hư, vụng về, ngu dốt, tham nhũng, dốc tướng, của các chính khách Mỹ. Cuốn sách gây xôn xao trong chính trường Hoa Kỳ, bán rất chạy. Hơn sáu triệu ấn bản được bán ra. Tổng Thống Mỹ Eisenhower phải cho thành lập một uỷ ban gồm chín nhân vật có uy tín để duyệt xét lại các chương tŕnh viện trợ quân sự. Thượng Viện Hoa Kỳ cùng lập một nhóm nghiên cưú cuốn sách và gửi cho mỗi Nghị sĩ mỗi người một cuốn. Ông Bá Dương viết, họ có năng lực sửa sai, tự điều chỉnh ḿnh. Thay v́ lấy tay che đít, họ nói toáng lên cho mọi người biết “'tôi có bệnh trĩ đây”. Họ có được cái trí tuệ và dũng cảm, t́m cách sửa đổi và giải quyết một cách thoả đáng những lỗi lầm. 

Nước Việt Nam cứ lẩn quẩn trong ṿng chậm tiến, cũng «hoang mang lúng túng chẳng kém các cụ nhà Nho cách đây một thế kỷ» là v́ ta không biết ḿnh biết ta. Ta cần có một cuốn Người Việt Xấu Xí để «nôn ra được tất cả những thứ dơ bẩn trong ruột», rồi t́m ăn những thứ có chất dinh dưỡng tốt, giúp ta có thể tự phản tỉnh. Bỏ chuyện tự kiêu hăo, giấy rách giữ lấy lề hay đói cho sạch rách cho thơm, thẳng thắn nói lên những tệ hại của dân tộc ḿnh, để cùng nhau cải tiến. Trong thế kỷ và thiên niên kỷ mới, nhân loại đang tiến nhanh tiến mạnh trong cuộc cách mạng truyền thông, chúng ta phải lẹ lẹ lên. Chậm th́ chết. Chúng ta hăy hè nhau vạch áo cho mọi người cùng xem, nếu không, thay v́ Con Rồng Cháu Tiên lại trở thành con khùng cháu điên mất. Phải không quư vị?

 

*Phan Thanh Tâm *

  

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/portal.html

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: