Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB Radio

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tự do ngôn luận và tự do báo chí trong đời sống cộng đồng

 

 23/07/12 | Tác giả: Phan Quang Tuệ

 

LTS: Thẩm phán Toà án di trú San Francisco trong bài nói chuyện tại St.Paul, Minnesota, ngày 22 tháng 7, 2012 nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota đă nói rằng, “Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận.

Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn sử dụng tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính kiến với họ.

Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc giả. Sự phẫn nộ có thể được chia sẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự phẫn nộ chính đáng.

Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lư do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả chỉ c̣n những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tiêu diệt!

Dưới đây là nguyên văn bài nói chuyện:

—————————————–

Thẩm phán Phan Quang Tuệ

Kính thưa Quư Vị,

Khi chọn đề tài Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí cho buổi nói chuyện hôm nay, tôi chỉ nhằm mục đích chọn một đề tài thích hợp với ư nghĩa nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota. Tôi không ngờ đă vô t́nh mở cánh cửa bước vào một vũ trụ bao la vô tận. Một biển cả mà càng đi tới, chân trời càng xa. Tôi xin giải thích tại sao tôi có cảm tưởng như vậy. 10 ngày trước đây tôi khởi sự ngồi xuống để soạn bài nói chuyện. Tôi vào Google và đánh hai chữ:”free speech”. Trên màn ảnh của máy computer hiện ra con số 63,100,000 tài liệu liên quan đến đề mục tôi muốn t́m hiểu. Con số tài liệu lớn lao này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tự do ngôn luận và tự do báo chí.

Năm 1993, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đă chọn ngày 3 tháng 5 hàng năm là ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới hầu cổ vơ cho quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí trên toàn cầu. Thomas Jefferson, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ công bố vào ngày 7 tháng 4, năm 1776 và là vị Tổng Thống thứ 3 của Hoa Kỳ, đă tuyên bố như sau:

“The basis of our government being the opinion of the people, the very first object should be to keep that right; and were it left to me to decide whether we should have a government without newspapers, or newspapers without a government, I should not hesitate a moment to prefer the latter. But I should mean that every man should receive these papers and capbable of reading them.” “Nền tảng của các chính quyền của chúng ta đặt trên ḷng dân, v́ thế quyền phát biểu phải là đối tượng được bảo vệ trên hết. Nếu phải chọn lựa giữa một chính quyền không có báo chí và một t́nh trạng báo chí không có chính quyền, tôi sẽ chọn t́nh trạng thứ hai. Nhưng tôi cần nói thêm là với điều kiện mọi người đều có cơ hội đọc báo và có đủ hiểu biết để đọc và hiểu các bài báo!” Và đó là lời phát biểu 236 năm trước đây của tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập!

Câu tuyên bố của Thomas Jefferson chỉ nhằm nhấn mạnh đến vai tṛ không thể thiếu trong một xă hội không có báo chí, không ngờ lại đă xảy ra trong thực tế hơn hai trăm năm sau, không phải tại Hoa Kỳ, mà là tại một quốc gia ở Âu Châu!! Đó là Vương Quốc Bỉ. Thực vậy, sau ngày bầu cử Quốc Hội Bỉ vào tháng 6, 2010 đă không có một đảng phái nào hội đủ túc số để thành lập nội các. Các cuộc thương thuyết nhằm thành lập nội các giữa 11 đảng phái đă kéo dài từ tháng 6, 2010 cho đến khi đạt được thỏa hiệp và một nội các đă được thành lập ngày 5 tháng 12, 2011. Tổng cộng nước Bỉ và dân tộc Bỉ đă có một đời sống quốc gia 540 ngày mà không có một chính quyền. Nhưng tất cả các cơ quan báo chí, truyền thông, hệ thống Internet tại quốc gia này vẫn tiếp tục trong suốt thời gian gần hai năm đó!! Đời sống quốc gia, sinh hoạt hằng ngày của người dân, các phương tiện giao thông, chuyên chở công cộng vẫn tiếp tục trong ṿng trật tự cho thấy tầm quan trọng của dân trí và ư thức trách nhiệm của người công dân Vương Quốc Bỉ.

Tuy tự do ngôn luận và tự do báo chí có một vị thế quan trọng như vậy trong đời sống con người, quyền tự do này lại không phải là một quyền sở hữu, gắn liền với con người như con người có tay và chân cùng các bộ phận khác! Tự do ngôn luận quan trọng v́ con người là một con vật xă hội. Khi chúng ta sống một ḿnh cô quạnh như Robinson Crusoe trên một hoang đảo chơi vơi giữa biển cả mênh mông xung quanh không có ǵ khác hơn là một cây dừa lẻ loi th́ quyền tự do ngôn luận không cần thiết phải đặt ra.

Theo cuộc kiểm kê dân số vào năm 2010 th́ dân số Minnesota hơn 5,300,000 triệu người mà trong đó dân số người Việt có hơn 27,000 người, đứng hạng thứ 13 về dân số người Việt so với toàn quốc. Twin Cities, mà tôi thấy có quư vị địa phương dịch là Song Thành có dân số gần 2,500 người ở St.Paul và 2,000 người ở Minneapolis. Dẫu tỷ lệ dân số nhỏ so với dân số toàn tiểu bang, báo Việt ngữ vẫn là một nhu cầu cần thiết vừa để thông tin, vừa làm nhịp cầu liên lạc giữa cộng đồng người Việt, đồng thời nhằm nuôi dưỡng tiếng Việt, vốn là một nét đặc thù của văn hoá Việt Nam.

Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí được xem là đệ tứ quyền trong hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy gọi là đệ tứ quyền nhưng tự do ngôn luận, tự do báo chí lại không được quy định trong 7 điều khoản chính của Hiến Pháp. Thực vậy tự do ngôn luận, tự do báo chí được quy định trong nửa phần thứ hai của Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ:

Congress shall make no law…abridging the freedom of speech, or of the press…” “Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, hay tự do báo chí”

Chúng ta cần lưu ư đến kỹ thuật thảo hiến điêu luyện của những nhà lập hiến Hoa Kỳ mà các tài liệu lịch sử đều nhắc đến họ như là: the Framers of the Constitution, những con người đă gầy dựng nên nền móng khuôn khổ của Hiến Pháp. Phần lớn các bản Hiến Pháp của các quốc gia trên thế giới đều viết đại loại như: Quốc Gia công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hay: Công Dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo qui định của pháp luật như điều 70 trong Hiến Pháp 1992 của Cộng Sản Việt Nam. Tu Chính Án thứ nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ qui định một cách rơ ràng và vắn tắt: Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, và tự do báo chí.

Kỹ thuật thảo hiến của các nhà lập hiến Hoa Kỳ 225 năm trước đây đưa đến hai hệ quả song hành: thứ nhất, xác nhận ư chí của nhà lập hiến không cho cơ quan lập pháp, nghĩa là Quốc Hội Liên Bang, quyền làm luật hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí. Thứ hai, đặt nguyên tắc căn bản cho việc giải thích tính cách hợp hiến đối với những văn kiện luật pháp hay lập qui, cho dầu trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Hệ thống công quyền của Hoa Kỳ được đặt trên nguyên tắc căn bản checks and balances, kiểm soát và cân bằng. Cả ba ngành luật pháp, hành pháp, tư pháp đều có mối liên hệ hỗ tương, ngành này kiểm soát ngành kia. Thí dụ Lập Pháp có quyền làm luật, biểu quyết ngân sách, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế. Hành Pháp có quyền đề nghị các dự luật, phủ quyết các đạo luật do lập pháp biểu quyết. Tư Pháp có quyền giải thích Hiến Pháp, tuyên bố tính cách hợp hiến hay không của các đạo luật của ngành lập pháp.

Nhưng c̣n tự do ngôn luận, tự do báo chí vốn được xem như là đệ tứ quyền th́ sao? Ngoài điều khoản công nhận tự do ngôn luận và tự do báo chí trong Tu Chính Án Thứ Nhất, không có một giới hạn hiến định nào khác được trù liệu để giới hạn hay kiểm soát quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Một sử gia Anh Quốc, Lord Acton, trong thế kỷ 19 đă từng nói:”Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely”. Quyền hạn dễ đưa đến lạm dụng, và quyền hạn tuyệt đối sẽ đưa đến lạm dụng tuyệt đối.

Quyền lực, hay quyền hành, tự bản chất thực ra không hẳn đối ngịch với đời sống dân chủ. Vấn đề là làm sao để điều hành quyền lực như thế nào cho phù hợp với sinh hoạt dân chủ. Chúng ta đă thấy các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được giới hạn và kiểm soát hỗ tương như thế nào. Trong lănh vực tư, chúng ta cũng thấy mối tương quan hỗ tương giữa các công ty sản xuất và nghiệp đoàn nhân công, và những giới hạn của cả hai bên bởi luật pháp và các cơ quan hành chánh. Nhưng c̣n tự do ngôn luận, tự do báo chí được công nhận trong Tu Chính Án Thứ Nhất th́ sao?

Ai cũng đồng ư tự do báo chí là điều cần thiết cho tự do chính trị, và nơi đâu mà con người không được chuyển đạt, bày tỏ tư tưởng giữa con người với con người, nơi đó không có tự do. Nhưng nếu tự do này bị lạm dụng th́ sao? Và phải chăng tự do bị lạm dụng sẽ đưa đến sự hủy diệt của tự do? Nhưng câu hỏi trên chính là vấn đề khó xử khi thảo luận về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Và đâu là ranh giới phân biệt giữa những điều có thể chấp nhận và những điều không chấp nhận được mỗi khi hành xử quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Không ai có thể nghĩ rằng qua Tu Chính Án Thứ Nhất, những nhà thảo hiến có thể chủ trương rằng tất cả mọi người dân đều có quyền tự do phát biểu không giới hạn về bất cứ vấn đề ǵ theo ư muốn, bất cứ ở đâu và bất cứ vào lúc nào. Thí dụ, khai gian trước toà hay phổ biến tài liệu khích dục có được bảo vệ như là một phần của tự do ngôn luận hay không? Thí dụ viết bài đặt điều nói xấu người khác, phỉ báng (libel) hay phát biểu nói xấu gây thiệt hại cho người khác (mạ lỵ, slander) có phải là tự do ngôn luận được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hay không?

Khi giải thích những vấn đề liên quan đến tự do ngôn luận và tự do báo chí, án lệ Toà Án thường đối chiếu quyền tự do ngôn luận với những quyền khác cần được bảo vệ trong một xă hội tự do dân chủ. Đó là những quyền như quyền được sống an toàn, quyền được bảo vệ trong đời sống riêng tư, quyền của những người khác trong một xă hội mà mọi người đều có quyền được đối xử b́nh đẳng. Khi mang đối chiếu với các quyền lợi khác, Toà Án thường đặt quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí vào một điạ vị ưu tiên, preferred position v́ đây là hai quyền tự do căn bản cho đời sống dân chủ. Đặc biệt toà án có khuynh hướng bảo vệ tự do ngôn luận trong lănh vực các phát biểu về những vấn đề chính trị.

Trong lănh vực này, phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ án New York Times v. Sullivan (1964) là một án lệ căn bản trong lănh vực tự do báo chí. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đă phán rằng giới chức chính quyền phải chứng minh là người chủ nhiệm hay chủ bút tờ báo đăng bài chỉ trích phải biết là điều chỉ trích không đúng với sự thật và người chủ nhiệm có ác ư (malice) khi đăng bài báo chỉ trích. Trách nhiệm dẫn chứng (burden of proof) này đặt một tiêu chuẩn quá cao khó cho các nguyên đơn có thể đạt được. Từ tiêu chuẩn áp dụng cho các giới chức chính quyền (government officials) lư luận của án lệ Sullivan đă dần dà nới rộng cho những người tuy không phải là giới chức chính quyền nhưng v́ điạ vị và hoạt động của họ, được xem như là những khuôn mặt công cộng (public figures).

Ngoài tiêu chuẩn “preferred position”, vị trí ưu tiên, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ c̣n áp dụng 4 tiêu chuẩn khác cần phải chứng minh trước khi một đạo luật giới hạn tự do ngôn luận được công nhận là hợp hiến.

Tiêu chuẩn thứ nhất, luật giới hạn tự do ngôn luận phải không là một luật nhằm mục đích ngăn chận trước, prior restraint. Điều này nhằm tránh t́nh trạng kiểm duyệt và tiêu chuẩn này được xem như là trách nhiệm dẫn chứng khó khăn nhất trong phạm vi luật pháp.

Thứ hai, luật giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí phải có nội dung vô tư, neutral. Thí dụ, nếu một thành phố ra quyết định cấm dán giấy quảng cáo trên các cột đèn, th́ quyết định này phải nhằm cho tất cả các quảng cáo, không phải cho một loại quảng cáo nào đặc biệt.

Thứ ba, điều giới hạn phải không quá bao quát, too vague, khiến cho ai cũng ngần ngại. Một đạo luật như vậy sẽ có thể gây một tác dụng mà án lệ gọi là chilling effect sẽ làm tất cả mọi người ngần ngại, chùn bước không dám hành xử quyền tự do ngôn luận.

Tiêu chuẩn thứ tư là khi một đạo luật hay một nghị định đi quá xa trong mức giới hạn tự do ngôn luận th́ đạo luật hay nghị định có thể bị xem là bất hợp hiến. Thí dụ tất cả mọi người đều có thể đồng ư là trật tự và an toàn lưu thông là cần thiết cho ích lợi chung. Nhưng khi một thành phố quyết định cấm hết tất cả mọi cuộc diễn hành hay biểu t́nh trên đường phố th́ quyết định hành chánh này có thể bị xem là bất hợp pháp. Thành phố có thể giới hạn cuộc diễn hành vào một thời gian và trên một số đường phố th́ giới hạn này có thể được xem là không vi phạm quyền tự do ngôn luận.

Những tiến bộ trong kỹ thuật thông tin ngày nay, đặc biệt là Internet, cho thấy những khó khăn mà Toà Án gặp phải khi phân biệt thế nào là tự do ngôn luận khả chấp và tự do ngôn luận bất khả chấp. Khi Tu Chính Án Thứ Nhất ra đời 221 năm trưóc đây nào đâu đă có Internet!! Ngày nay qua Internet, hệ thống liên mạng, tất cả mọi công dân b́nh thường đều có thể nhận được vô vàn tin tức trong đủ mọi lănh vực và liên lạc hầu như ngay tức khắc với một số người hầu như không giới hạn mà không cần phải rời nhà của ḿnh. Trong số lượng những tin tức thông tin này có cả những tài liệu, h́nh ảnh khiêu dâm, bạo hành rất có hại cho trẻ em. Năm 1995, Quốc Hội liên bang đă biểu quyết đạo luật Communications Decency Act, gọi tắt là CDA, xem việc xử dụng Internet để chuyển các tài liệu “indecent material”, xúc phạm công sĩ, là tội h́nh sự có thể bị phạt 2 năm tù và phạt vạ $250,000 Mỹ kim cho mỗi vi phạm.

Đạo luật CDA đă bị Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tuyên bố bất hợp hiến trong phán quyết Reno v. ACLU (American Civil Liberties Union), 521 U.S.844 ((1997). Phán quyết này được biểu quyết thuận bởi tất cả 9 thẩm phán Tối Cao Pháp Viện, với thẩm phán John Paul Stevens là tác giả thảo ra phán quyết. Reno v. ACLU là phán quyết quan trọng đầu tiên của Tối Cao Pháp Viện đối với những luật lệ quy định cách thức và nội dung các tài liệu gửi qua trên hệ thống Internet. Trong phán quyết này, TCPV đă phán đạo luật CDA bất hợp hiến v́ đă không tôn trọng các tiêu chuẩn quá mơ hồ (too vague), nội dung không khách quan (content not neutral), v́ đă gộp chung tài liệu khiêu dâm với những tài liệu thuộc loại khác dưới một danh xưng quá rộng “indicent material”, và sau cùng đă không t́m những biện pháp ít cực đoan hơn nhằm bảo vệ các trẻ em không được xem các tài liệu khiêu dâm.

Mặc dầu có phán quyết Reno v. ACLU, án lệ về tự do ngôn luận trong lănh vực Internet vẫn chưa rơ ràng và TCPV và các toà án c̣n nằm ở giai đoạn ḍ dẫm trong lănh vực mới mẻ này.

Nói chung, luật lệ giới hạn quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí có thể được xếp vào 3 loại: giới hạn về nội dung, content restriction, giới hạn về nơi chốn, place restriction, và tự do ngôn luận có tính chất biểu tượng, symbolic speech. Cộng thêm vào đó là loại phát biểu gây nên mối nguy hiểm rơ ràng và tức khắc, clear and present danger. Thí dụ giới hạn về nội dung là những tài liệu khiêu dâm. Giới hạn v́ lời phát biểu có thể gây nên mối nguy cơ rơ ràng và tức khắc là trường hợp trong một rạp hát đông nghẹt có một người đứng lên hô to “cháy, cháy” tạo nên hỗn loạn. Giới hạn về biểu tượng, symbolic speech, như khi chống chiến tranh bằng cách đốt thẻ động viên. US v. O’Brien, 391 U.S.367 (1968) là một phán quyết liên quan đến phong trào phản chiến. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng hành vi đốt thẻ động viên không phải là một hành vi có tính cách tự do ngôn luận được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất.

Các mục quảng cáo trên báo chí, truyền h́nh, đài phát thanh được xếp chung vào loại commercial speech. So với political speech được luật pháp bảo vệ nhiều th́ commercial speech được bảo vệ ít hơn. Nói thế không có nghĩa là các mục quảng cáo không được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ. Nhưng nếu quảng cáo sai lạc, thổi phồng quá đáng, gây nên thiệt hại cho người tiêu thụ th́ lại là vấn đề khác.

Bài nói chuyện của tôi sẽ thiếu sót nếu tôi không đề cập đến tự do ngôn luận trong công tư sở, hăng xưởng. Đa số chúng ta thường hay nói: tôi có quyền tự do của tôi khi phát biểu về vấn đề ǵ. Điều này đúng nhưng không đúng cho nơi làm việc, work place. Nguyên tắc chung là quyền tự do ngôn luận rất giới hạn tại nơi làm việc, nhất là khi nơi làm việc là một hăng xưởng hay công ty tư, không phải công sở. Mục đích của chủ nhân thâu nhận chúng ta vào làm việc là để làm việc, không phải để xử dụng tự do ngôn luận. Tu Chính Án Thứ Nhất quy định: Quốc Hội không làm luật … hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tu Chính Án này không hề quy định là chủ nhân không được sa thải một nhân viên khi nhân viên này nói quá nhiều, không chịu làm việc!

Tôi vừa tŕnh bày cùng quư vị về tự do ngôn luận và tự do báo chí dưới khía cạnh hiến pháp, luật pháp, trong đời sống quốc gia. Bây giờ chúng ta thử xét vấn đề trong đời sống cộng đồng. Cộng đồng đây là Cộng Đồng người Việt tại Hoa Kỳ, không phải là cộng đồng người Việt tại Twin Cities Song Thành ở đây.

Theo cuộc kiểm tra dân số thực hiện năm 2010 vừa qua th́ dân số người Việt tại Hoa Kỳ là 1,548,449 người, xếp hạng thứ tư trong dân số người Á Châu. Bốn thành phố có người Việt đông nhất là San Jose, Garden Grove, Westminster và Houston.

Tôi sẽ đơn cử 4 trường hợp liên quan đến quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí trong đời sống cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Bốn trường hợp này đều xảy ra tại 4 thành phố nói trên.

Trường hợp đầu tiên là trường hợp tờ Thời Báo xuất bản ở San Jose, California. Vào khoảng đầu năm 1984, tờ Viêtnam, nhật báo đầu tiên của người Việt tại hải ngoại ra đời. Sau đó, người chủ báo tách ra làm tờ Thời Báo, phát hành 5 số một tuần, số báo ra cuối tuần có trên 80 trang. Năm 1986, số Xuân Thời Báo đang hai bài phỏng vấn xếp cạnh bên nhau, một bài phỏng vấn thẩm phán Phan Quang Tuệ, một người quốc gia, một bài phỏng vấn Nguyễn Xuân Phong, lănh sự Cộng Sản tại San Francisco. Ngay lập tức có phản ứng chống đối tờ Thời Báo v́ đă đăng bài phỏng vấn viên lănh sự Cộng Sản. Các người chống đối tổ chức biểu t́nh 86 lần, kéo dài hơn 100 ngày. Ngày ngày họ kéo đến trước toà soạn tờ Thời Báo chửi rủa. Họ điện thoại đến toà báo chửi rủa. Họ làm áp lực với các thân chủ quảng cáo trên tờ Thời Báo chấm dứt quảng cáo. Họ đ̣i hỏi tờ báo phải công bố tên người kư giả đă phỏng vấn trực tiếp 2 nhân vật cho hai bài phỏng vấn. Tờ Thời Báo cho tới nay vẫn c̣n tồn tại nhưng không c̣n mạnh mẽ như trước.

Vụ thứ hai xảy ra gần đây tại Houston, Texas. Luật sư Hoàng Duy Hùng nộp đơn kiện cựu Đại Tá Trương Như Phùng đă phỉ báng ông qua những lời tố cáo LS Hùng đă thụt két công quỹ Fema, đă liên lạc với Toà Lănh Sự Việt Nam tại Houston và đă làm ăn với Việt Cộng. Tin mới nhất cho biết vụ kiện đă được Toà Án băi nại chiếu theo đạo luật Anti-Slap. Anti-Slap là một đạo luật ở Texas và ở 26 tiểu bang khác cộng với vùng Hoa Thịnh Đốn nhằm mục đích giảm thiểu các vụ kiện về phỉ báng, mạ lỵ giữa các người tố cáo và các nhân vật có khuôn mặt công chúng (public figure).

Trường hợp thứ ba lại cũng xảy ra ở San Jose. Tháng Sáu vừa qua một số người đứng ra tổ chức mời ông Bùi Tín, cựu Đại Tá Cộng Sản, đă ly khai đảng Cộng Sản và từ năm 1990 là một nhà báo sống tại Paris, đến nói chuyện. Một số người Việt tổ chức biểu t́nh phản đối. Xem cuộc biểu t́nh trên YouTube, c̣n thấy một người đi dự buổi nói chuyện bị một người biểu t́nh nhổ nước miếng vào mặt.

Trường hợp thứ tư là trường hợp mới nhất xẩy ra tại quận Cam vào đầu tháng 7 này. Báo Người Việt phát hành tại Westminster, đăng một lá thư của một độc giả đă viết “..ngày 30 tháng 4 là ngày vui mừng của dân tộc và Việt Nam Cộng Hoà là bè lũ tay sai của giặc Mỹ”! Lập tức có phản ứng ngay từ các cá nhân, hội đoàn, và ngay cả các báo khác. Chủ nhiệm của báo Người Việt quận Cam có thư xin lỗi ngay trên trang đầu, công nhận “đă phạm lỗi nặng nề nên xin lỗi toàn thể cộng đồng”. Thư xin lỗi cho biết tờ báo đă điều tra và cho nhân viên phụ trách chọn đăng bức thư độc giả nghỉ việc. Ban Điều Hành báo Người Việt Westminster đă tổ chức một cuộc tiếp xúc giữa Ban Điều Hành và đại diện cộng đồng để tŕnh bày những biện pháp kỷ luật mà tờ bào đă áp dụng với những nhân viên trách nhiệm trong việc đăng lá thư nói trên.

Khi các nhà thảo hiến soạn thảo Tu Chính Án Thứ Nhất vào năm 1791, hơn 200 năm trước đây, họ nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của người công dân đối với với nhà cầm quyền. Tu Chính Án nhằm đến chính quyền và quy định: Quốc Hội sẽ không làm luật hạn chế tự do ngôn luận và tự do báo chí. Các nhà thảo hiến đă xem chính quyền là nguồn gốc chính đe dọa quyền tự do báo chí.

Trong 4 trường hợp đơn cử, không có một trường hợp nào có sự can thiệp của chính quyền, dẫu cho là cấp liên bang, tiểu bang, quận hạt, hay thị xă, để giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí của cộng đồng người Việt. Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc xử dụng quyền tự do ngôn luận. Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn xử dụng tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính kiến với họ. Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc giả. Sự phẫn nộ có thể được chia xẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự phẫn nộ chính đáng. Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lư do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả chúng ta chỉ c̣n những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tận diệt!

Và nếu như thế th́ lợi ích và mục tiêu chính đáng của Tu Chính Án Thứ Nhất có c̣n cần thiết nữa hay không?

Ngày 3 tháng 5 năm 2012 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đă tổ chức mừng ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới. Ông Ban Ki-moon, Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc và bà Irina Bokova, Giám Đốc UNESCO đă ra một tuyên bố chung có đoạn như sau: Freedom of Expression is one of our most precious rights. It underpins every other freedom and provides a foundation for human dignity. Free, pluralistic and independent media is essential for its exercise. Tự do ngôn luận là một trong những quyền quư báu nhất của chúng ta. Nó là căn bản cho các quyền tự do khác và đặt nền móng cho phẩm cách của con người. Tự do, đa dạng và độc lập của báo chí là điều tối cần thiết cho việc thực thi quyền tự do ngôn luận.

Tôi xin mượn đoạn trên trong bản tuyên bố chung làm kết luận cho bài nói chuyện hôm nay.

Xin cám ơn quư vị!

Theo Chuyển Hóa

 

Chúng Tôi Không Nhận “Quả Tim Hồng” của Nhật Báo Người Việt

 

 

Đỗ Văn Phúc

 

 

Nhân đọc bài “Trận Chiến Trên Diễn Đàn” của ông Đỗ Thái Nhiên.

Sau hàng loạt bài phê b́nh rất sâu sắc về vụ nhật báo Người Việt, chúng tôi tưởng rằng cũng đă tạm đủ và chung kết. Cái nh́n của chúng tôi đối với báo Người Việt đă rơ ràng qua những phân tích rất rạch ṛi, đưa đến những lời kêu gọi tẩy chay một cơ quan ngôn luận man trá, núp bóng tị nạn để làm lợi cho đối phương. Nhưng mới đây, ông Đỗ Thái Nhiên vừa viết một bài nhằm bào chữa cho một hành động sai trái của Nhật Báo Người Việt mà chủ bút là Vũ Quư Hạo Nhiên.

 

Trước hết, ông đề cập như có ư than phiền (?) những phê b́nh; nhẹ có, nặng có của độc giả và các tác giả, các Hội đoàn.

 

Dĩ nhiên, ban Chủ trương và ban Biên tập báo Người Việt là một đơn vị (entity) ít nhất cũng có tính đồng nhất trên nhiều mặt: quan điểm, lập trường, mục tiêu, phương hướng vân vân. C̣n quần chúng (mass) là một tập thể rộng lớn với nhiều thành phần phức tạp. Có người phê b́nh khéo léo, nhẹ nhàng, và cũng không hiếm người đả kích mạt sát.

 

Đă là một tờ báo hay một nhân vật của công chúng, chắc chắn ai cũng phải chấp nhận sự phê b́nh từ mọi phía. Trên b́nh diện chủ quan, nếu cái sai do đi lạc hướng với quan điểm, th́ phải biết xin lỗi và sửa chữa. C̣n nếu cái sai nh́n từ quan điểm của quần chúng, nhưng vẫn đúng với quan điểm của ḿnh, th́ lời xin lỗi chẳng qua chỉ là sự trí trá, lấp liếm mà thôi.

 

Trường hợp báo Người Việt thuộc về vế hai của cách nh́n trên.

Tại sao chúng tôi có thể mạnh dạn nói như thế?

 

1.- Người sáng lập ra báo Người Việt là ông Đỗ Ngọc Yến (đă quá cố). Khi c̣n chế độ Việt Nam Cộng Hoà, không rơ ông có từng làm ngành t́nh báo cho chính phủ VNCH như lời ông Vơ Long Triều viết ra hay không? Nhưng khi chế độ VNCH sụp đổ và không có chính phủ lưu vong để tiếp tục sự nghiệp chống Cộng, th́ chức nghiệp t́nh báo của ông đă chấm dứt từ 30-4-1975.

Người ta đă phát hiện ra các bức h́nh ông Đỗ Ngọc Yến chụp với các lănh tụ CSVN. Một lần với Nguyễn Tấn Dũng (lúc đó là Phó Thủ Tướng); lần khác với Nguyễn Xuân Phong, Tổng Lănh Sự VC tại Bắc Cali. Trong h́nh chụp với Nguyễn Tấn Dũng, ông Yến ngồi ở một vị thế quan trọng như một chủ tọa. Do dó, không thể chấp nhận sự lư giải của các người nối nghiệp trong nhật báo Người Việt đại ư rằng: “ông Yến là một nhà báo, có tính ṭ ṃ, nên tiếp xúc với kẻ địch để thăm ḍ.”. Lại càng không nghe nổi lư luận của Vơ Long Triều rằng ông Yến “là một t́nh báo viên của VNCH, cho dù người đó có tiếp xúc với đồng minh hay kẻ thù, biết đâu theo yêu cầu của cấp trên anh ấy?”

Như đă nói, VNCH không c̣n tồn tại sau 1975, các cơ quan t́nh báo của VNCH cũng không c̣n, vậy th́ ông Yến nhận lệnh cấp trên là ai ba thập niên sau?

2.- Trong một cuộc phỏng vấn ông Chủ nhiệm báo Người Việt Phan Huy Đạt do phía Việt Cộng thực hiện, đăng trên điện báo Tân Đại Dương ngày 3 tháng 11, năm 2011, Ông Đạt đă biểu lộ: “Chúng tôi mong ước được đóng góp cho quê hương ngay từ các ngành chuyên môn ḿnh đang làm việc. Thí dụ, thật đơn giản, chúng tôi đang cố lập một chương tŕnh đưa anh em đang giảng huấn ở các trường đại học bên Mỹ về để chuyển giao cho anh em trong nước những kiến thức mới.”

Trích từ nguồn sau đây:

http://thongtinduhocmy.org/dai-hoc/du-hoc-my-dai-hoc-my-co-tinh-khai-pha/#comments

 

Như thế đă quá rơ ràng. Quan điểm và lập trường chính trị của Nhật báo Người Việt không thể đi ra ngoài quan điểm lập truờng của vị sáng lập và người chủ nhiệm.

Và đó là quan điểm thân Cộng, từng có những hành vi làm lợi cho CSVN.

 

Đă có rất nhiều sự việc xảy ra để minh chứng cho lập luận trên. Từ việc đăng bài thơ Xuân của thầy bói Nhâm Quang một cách trang trọng trên trang nhất với dụng ư vinh danh bọn đầu sỏ CSVN; cho đến việc đăng tấm ảnh cái chậu rửa chân trong nghề nail với lá Quốc Kỳ VNCH nhằm mạ lị Tổ Quốc; cho đến việc đăng những bài xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ QLVNCH. Mới đây nhất là đăng trong mục “Thư Độc Giả” một bài của một tên Việt Cộng với nội dung hoàn toàn không thể chấp nhận khi tên này cho rằng ngày Quốc Hận 30-4 là ngày thống nhất, vui mừng của toàn dân, cũng như mạ lị toàn thể Quân cán chính VNCH là tay sai đế quốc Mỹ.

 

Á Đông có câu “Sự Bất Quá Tam”. Một lần lầm lỡ th́ có thể tha thứ để cho một cơ hội sửa sai. Hai lần th́ đă khó tha. Đàng này nhật báo Người Việt cứ tiếp diễn cái “Sai Lầm” một cách đều đặn.

 

Sau mỗi lần làm bậy, họ lại họp báo, xin lỗi, đổ thừa cho nhân viên. Lại bày tṛ sa thải, rồi sau một thời gian cho êm êm, người này trở về làm việc trở lại.

 

Trong bài, ông Đỗ Thái Nhiên bào chữa cho nhân viên báo Người Việt khi ông viết:

Trích: 

Người phụ trách mục Diễn Đàn của báo Người Việt đă hiểu sai ư nghĩa của đa nguyên trong dân-chủ-đa-nguyên nên đă cho phép tội ác 30 tháng 4, 1975 được tự do nhảy múa trên sân khấu dân chủ đa nguyên có tên gọi là “Diễn Đàn Người Việt”.

Đây là điều lỗi hiển nhiên của báo Người Việt. Đây là nguyên nhân trọng tâm dẫn đến sự việc được gọi là Trận Chiến Trên Diễn Đàn.

Ngưng trích

 

Điều này trái nghịch với lời đề cao cũng của ông Đỗ Thái Nhiên khi ông viết:

 Trích 

Ban Biên Tập Báo Người Việt bao gồm những cây bút thượng thặng, chuyên nghiệp và dồi dào kinh nghiệm báo chí. Nếu báo Người Việt tri t́nh tuyên truyền cho Cộng Sản th́ họ có thừa khôn ngoan để KHÔNG sử dụng kiểu viết của Sơn Hào, một kiểu viết của kẻ tâm thần không b́nh thường, viết chỉ để gây phản tác dụng.

 Hết trích

 

Chúng tôi lấy làm lạ! Đă là “Thượng Thặng, chuyên nghiệp, dồi dào kinh nghiệm” th́ ban Biên Tập nói chung và người phụ trách nói riêng đă không vi phạm liên tiếp những “sai lầm” rất nghiêm trọng mang tính chất quan điểm lập trường như đă xảy ra.

 

Chúng tôi cũng có đọc một bài để bào chữa cho Nhật báo Người Việt, trong đó đưa tên tuổi ông Ngô Nhân Dụng ra để làm b́nh phong. Lư luận rằng, những bài viết chống Cộng sâu sắc của Ngô Nhân Dụng chứng tỏ báo Người Việt đứng trên lập trường Quốc Gia.

 

Đối với những người từng học hỏi về tuyên truyền, văn hoá vận, th́ các lư luận trên không thuyết phục được. Tên Sở Khanh khi đến với Kiều chắc chắn dưới một khuôn mặt khả ái, đầy t́nh tứ chân thật mà chỉ bị lột ra sau khi đă chiếm đoạt Kiều. Để cho một cơ quan ngôn luận dễ xâm nhập và tạo dựng uy tín, th́ bắt đầu phải theo chiêu bài chung của tập thể quần chúng ḿnh muốn xâm nhập. Nếu không có các bài chống Cộng, th́ làm sao phát triển nổi trong một cộng đồng tị nạn CS?

 

Bà Đào Nương đă tiết lộ rằng ông Đỗ Thái Nhiên đă từng phê phán báo Viet Weekly khi đám bát nháo này đăng bài viết “Bài Học Khó Quên” của Hà Văn Thủy trong số ra ngày 24-5-2007. Tại sao ông Đỗ Thái Nhiên lại có thể làm hai việc mâu thuẫn nhau đến thế, khi ông trước đây th́ phê b́nh Viet Weekly; rồi nay lại mất công bào chữa cho Người Việt trong hai vấn đề xảy ra cho hai bên mà cùng một bản chất?

 

Trong phần cuối, ông Đỗ Thái Nhiên kết luận:

Trích:

Báo Người Việt không tri t́nh phạm lỗi. Báo Người Việt không hề vi phạm luật pháp Hoa Kỳ thông qua hồ sơ Sơn Hào. V́ vậy cung cách xin lỗi của Người Việt đối với đồng hương hoàn toàn không do áp lực từ lưỡi kiếm trên tay của Thần Công Lư. Trung tâm của cung cách ứng xử kia chính là quả tim hồng mà báo Người Việt kính tặng đồng hương Việt Nam. Người làm báo, người viết báo hay người đọc báo, tất cả chúng ta đều xuất thân từ thân phận u ám xoáy tim óc của những người tị nạn Cộng Sản Việt Nam.

 Hết trích

 

Chúng tôi không xét sự việc báo Người Việt trên b́nh diện luật pháp, mà trên cơ sở lập trường chính trị khi lằn ranh Quốc Cộng vẫn c̣n rất rơ nét. Có nhiều sự việc không phải là “tội phạm” (crime) theo pháp luật, nhưng là “tội ác” (Sin) theo quan điểm chính trị xă hội.

 

Việc đăng bài của tên Việt Cộng Sơn Hào là một tội ác mà báo Người Việt đă hành xử lên vết thương 37 năm c̣n nhức nhối của một tập thể gần ba triệu người Việt tị nạn, và cả hàng triệu người yêu nước c̣n kẹt lại bên quê nhà. Chúng tôi không thể nhận “quả tim hồng” của nhật báo Người Việt, v́ quả tim hồng này nó cũng gần gủi với “quả tim đỏ” mà chúng tôi vô cùng ghê tởm và căm hận.

 

Khi nào quư ông báo Người Việt có “quả tim vàng”, chúng tôi sẽ nghĩ đến việc xét lại mà chấp nhận sự xin lỗi thực t́nh của quư ông.

 

Đỗ Văn Phúc

Để tiện cho quư độc giả theo dơi, chúng tôi đăng nguyên bài viết của ông Đỗ Thái Nhiên

 

22/07/12 | Tác giả: Đỗ Thái Nhiên

“Trận chiến” trên Diễn Đàn

 

 

 

 

Thống nhất trong đa dạng

 

Trên mục diễn đàn của báo Người Việt số ra ngày Chủ Nhật 08 tháng 7, 2012 đột nhiên xuất hiện một bài viết kư tên Sơn Hào. Bài này hết lời ca tụng biến cố 30 tháng 4, 1975 bằng ngôn ngữ ấu trĩ, thô thiển, bóp méo sự thực của lịch sử.

Lập tức trận chiến bùng nổ: Bên này là đông đảo độc giả yêu nước, yêu lẽ phải, căm ghét chế độ bạo quyền Cộng Sản. Bên kia là Ban Lănh Đạo báo Người Việt. Thay v́ đấm đá lẫn nhau, trận chiến vừa kể diễn ra hết sức đặc biệt: Độc giả tấn công Người Việt bằng nhiều lời tiếng khác biệt: Khi thân t́nh, khi căm ghét; khi khuyên lơn, khi mắng mỏ, khi văn vẻ, khi cộc cằn; khi nhẹ nhàng độ lượng, khi “căm thù muôn năm”…

 

Ngược lại, Ban Lănh Đạo báo Người Việt đă đáp lễ độc giả qua cung cách tôn kính không thể tôn kính hơn, chân thành không thể chân thành hơn. Tất cả những tôn kính và chân thành kia chỉ để phát âm thật rơ ràng hai chữ: “Xin Lỗi”.

 

Người-Việt-Nam-không-chấp-nhận-Cộng-Sản đang đấu tranh cho dân chủ đa nguyên. Đa nguyên là đa ư kiến, đa tư tưởng… Tuy nhiên đa nguyên rất dễ bị rơi vào tệ trạng đa ốc đảo, tệ trạng quần chúng cấu xé lẫn nhau, xă hội rối loạn, đất nước chia năm xẻ bảy…

 

Làm thế nào xă hội vừa tôn trọng đa nguyên vừa có khả năng tiến tới đồng thuận để hợp tác và phát triển? Muốn vậy, sinh hoạt dân chủ đa nguyên cần diễn ra trên nền tảng lương hảo. Đa nguyên không là sân chơi b́nh đẳng giữa thiện và ác. Đa nguyên không chấp nhận kẻ gian manh trà trộn vào đám dân lành để đục phá xă hội. Muốn vậy đa nguyên phải loại bỏ ngay từ đầu, loại bỏ dứt khoát những nguyên của ung thối, nguyên của trộm cắp tham ô, nguyên của các tội ác h́nh sự, nguyên chống dân chủ nhân quyền, nguyên Cộng Sản độc tài phản quốc… Người phụ trách mục Diễn Đàn của báo Người Việt đă hiểu sai ư nghĩa của đa nguyên trong dân-chủ-đa-nguyên nên đă cho phép tội ác 30 tháng 4, 1975 được tự do nhảy múa trên sân khấu dân chủ đa nguyên có tên gọi là “Diễn Đàn Người Việt”.

 

Đây là điều lỗi hiển nhiên của báo Người Việt. Đây là nguyên nhân trọng tâm dẫn đến sự việc được gọi là Trận Chiến Trên Diễn Đàn.

 

Nhận biết điều lỗi của ḿnh, ngày 13 tháng 7, 2012 Ban Lănh Đạo Báo Người Việt đă tổ chức một buổi gặp gỡ các hội đoàn trong cộng đồng Việt Nam cùng cơ quan truyền thông Việt ngữ để công bố Thư Xin Lỗi Cộng Đồng về vụ việc tạm gọi là “hồ sơ Sơn Hào 8 tháng 7, 2012”. Một người dầu khó tánh tới đâu cũng không thể phủ nhận tính chất mở cửa, chân thành, tích cực và tôn kính của báo Người Việt trong hành động xin lỗi vừa kể. Đón nhận lời xin lỗi kia, Độc Giả của Người Việt nghĩ ǵ? Thưa rằng có ba suy nghĩ đáng quan tâm:

 

1. Ban Biên Tập Báo Người Việt bao gồm những cây bút thượng thặng, chuyên nghiệp và dồi dào kinh nghiệm báo chí. Nếu báo Người Việt tri t́nh tuyên truyền cho Cộng Sản th́ họ có thừa khôn ngoan để KHÔNG sử dụng kiểu viết của Sơn Hào, một kiểu viết của kẻ tâm thần không b́nh thường, viết chỉ để gây phản tác dụng. Như vậy lỗi của báo Người Việt là lỗi không tri t́nh.

 

2. Báo Người Việt không tri t́nh phạm lỗi. Báo Người Việt không hề vi phạm luật pháp Hoa Kỳ thông qua hồ sơ Sơn Hào. V́ vậy cung cách xin lỗi của Người Việt đối với đồng hương hoàn toàn không do áp lực từ lưỡi kiếm trên tay của Thần Công Lư. Trung tâm của cung cách ứng xử kia chính là quả tim hồng mà báo Người Việt kính tặng đồng hương Việt Nam. Người làm báo, người viết báo hay người đọc báo, tất cả chúng ta đều xuất thân từ thân phận u ám xoáy tim óc của những người tị nạn Cộng Sản Việt Nam.

 

3. Như đă tŕnh bày ở trên, muốn xă hội dân chủ đa nguyên tiến tới đồng thuận và hợp tác phát triển th́ đa nguyên phải lấy dân chủ nhân quyền làm điểm đồng qui, đồng thời phải loại bỏ những nguyên chống dân chủ nhân quyền. Tiến tới điểm đồng qui dân chủ nhân quyền phải là đồng tiến. Phải nh́n nhận lẫn nhau để đồng tiến. Nh́n nhận và đồng tiến mà bài viết này muốn đề cập tới rơ ràng là sự chấp nhận thư xin lỗi của báo Người Việt để báo Người Việt và Đồng Hương Việt Nam tiếp tục sinh hoạt dân chủ đa nguyên trong quyết tâm loại bỏ những nguyên độc tài tham ô kiểu CSVN.

 

© Đỗ Thái Nhiên

Bài của nhà báo Bùi Văn Phú :Tờ Người Việt sợ biểu tình?

 

 "Đầu năm 1998 tôi thực hiện cho nhật báo Thời Báo ở San Jose cuộc phỏng vấn hai người với hai quan điểm trái nghịch.

 

"Tờ Thời Báo đã từng bị phản đối sau bài phỏng vấn ông Nguyễn Xuân Phong

 

Tổng Lănh sự Nguyễn Xuân Phong đưa ra quan điểm của nhà nước Việt Nam và Thẩm phán Phan Quang Tuệ đưa ra quan điểm của người quốc gia chống cộng sản.

 

Sau khi Thời Báo Xuân Mậu Dần 1998 với chủ đề “Việt Nam Nh́n Từ Hai Phiá” với các bài phỏng vấn được phát hành th́ sóng gió và tranh căi nổi lên trong cộng đồng người Việt.

 

Nhiều người đă kéo tới biểu t́nh trước toà soạn để phản đối. Các cuộc biểu t́nh kéo dài nhiều tháng trời, tổng cộng 86 lần, đ̣i hỏi chủ bút xin lỗi và nêu danh tính phóng viên thực hiện phỏng vấn nhưng người chủ trương tờ báo không nhượng bộ v́ đă không làm ǵ sai khi cho cả hai phiá có tiếng nói.

 

Trong một nền dân chủ pháp trị, biểu t́nh là quyền của người dân nhưng tự do báo chí không thể giới hạn.

 

Vụ việc báo Người Việt đuổi nhân viên liên quan đến thư độc giả mới đây cho thấy Người Việt không vững tin và can đảm để thể hiện quyền tự do báo chí.(Ngưng trích)

 

Tờ Người Việt sợ biểu tình?

 

Nhà báo tự do Bùi Văn Phú

 

Cập nhật: 11:22 GMT - thứ sáu, 20 tháng 7, 2012

 

Nhật báo Người Việt ở Hoa Kỳ là tờ báo lớn và có tiếng nhất của người Việt hải ngoại. Ra đời từ năm 1978, báo này đă có được thế đứng vững vàng và trước nay chứng tỏ không bị áp lực từ phe nhóm hay tổ chức nào.

 

Tờ báo lớn nhất trong cộng đồng người Việt tại California đã sa thải phụ tá chủ bút Vũ Quý Hạo Nhiên

 

Tôi đă có một thời gian dài cộng tác với Người Việt qua nhiều bài phóng sự và b́nh luận.

 

Vài năm qua, một vài thử thách về cách đưa ra những quan điểm khác biệt trên mặt báo này đã gây ra chuyện chà đạp lên quyền tự do báo chí.

 

Tự do báo chí ở đây là phản ánh những quan điểm trái nghịch trên mặt báo và quyền bảo vệ kư giả, bảo vệ nguồn tin. Trong một xă hội tự do, dân chủ, người làm báo cũng như người dân trân trọng sự tự do này, cho dù những quan điểm đưa ra nghe rất chói tai, nhức óc.

 

Tư duy cuộc chiến

 

Nói về quan điểm trái nghịch nhau th́ tương phản nhất là quan điểm về cuộc chiến Việt Nam và hệ lụy của nó. Đề tài này luôn gây tranh căi giữa người Việt với nhau, giữa những điều gọi là thắng thua, giữa thất bại và thành công. Cũng như người dân Hoa Kỳ là quốc gia đă có những can dự sâu đậm vào Việt Nam và đến nay cũng vẫn có những tranh căi do bởi hệ lụy của cuộc chiến này.

 

Người dân Việt trong nước v́ thiếu tự do phát biểu quan điểm, ư kiến riêng nên không thể tranh luận về nguyên ủy và hệ lụy của cuộc chiến cũng như về tự do dân chủ cho Việt Nam.

 

Trong khi tại hải ngoại, nhất là từ sau khi Internet bùng phát, trên nhiều diễn đàn, các cơ sở thông tin báo chí đều có những quan điểm trái nghịch nhau.

 

Mới đây, khi Người Việt cho đăng ư kiến của độc giả Sơn Hào về hệ quả của chiến tranh Việt Nam trên số báo ngày 8-7-2012, như một phản biện cho bài viết của ông Nguyễn Gia Kiểng, viết cho diễn đàn Thông Luận từ tháng 5-1999, được Người Việt cho đăng lại vào ngày 16-4-2012 về cách nh́n của tác giả về ngày 30-4-1975.

 

Ông Kiểng viết: “Ngày 30 tháng 4, 1975 đă không đến trong niềm vui thống nhất đất nước, ḥa giải và ḥa hợp dân tộc mà mọi người mong ước.”

 

Theo ông, đất nước Việt Nam sau đó là những trại học tập cải tạo giam hàng trăm ngh́n cựu quân cán chính Việt Nam Cộng hoà, trí thức bị đàn áp, bỏ tù, các quyền tự do căn bản bị chà đạp và ngay những người đă từng ủng hộ chế độ Hà Nội như Nguyễn Thanh Giang, Tiêu Dao Bảo Cự v́ lên tiếng phản kháng với nhà nước mà bị canh chừng, quản chế.

 

Về các hệ lụy của ngày 30-4-1975, ông Kiểng viết:

 

"Ngày 30 tháng 4, 1975 đă không đến trong niềm vui thống nhất đất nước, ḥa giải và ḥa hợp dân tộc mà mọi người mong ước"

 

Ông Nguyễn Gia Kiểng

 

“Các xí nghiệp tư cũng được ‘tiếp thu.’ Thanh thiếu niên diện ‘ngụy quân ngụy quyền’ bị đuổi khỏi trường học. Các đường phố, trường học mang tên những danh nhân miền Nam được đổi thành những đường mang tên liệt sĩ cộng sản, có khi chỉ là những tay khủng bố rất tầm thường.”

 

Ông nhận định: “Ḥa giải và ḥa hợp dân tộc được hiểu một cách giản dị là tha chết cho kẻ chiến bại.”

 

Nh́n chung, ông Kiểng coi này 30-4 là một ngày đau buồn của dân tộc Việt Nam.

 

Phản bác lại cách nh́n của ông Nguyễn Gia Kiểng, Sơn Hào cho rằng những người lính Việt Nam Cộng hoà chỉ là thành phần tay sai, có nợ máu cần được cải tạo.

 

Theo độc giả này th́ 30-4 là ngày vui của cả dân tộc và “… chỉ có đội quân xâm lược Mỹ và bè lũ Việt gian tay sai của Mỹ là thất thủ, là mất miền Nam, mất Sài G̣n, c̣n dân tộc Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc là người thắng trận, thu giang sơn về một mối, chấm dứt ách thống trị của thực dân mới.”

 

Ư kiến tương tự như của Sơn Hào trước đây đă có trên các báo trong nước và ngày nay được thấy qua những phản hồi trên mạng thông tin điện tử, kể cả những diễn đàn quốc tế như VOA, BBC hay RFA.

 

Quan điểm này giống như quan điểm chính thống của nhà nước Việt Nam.

 

Hai quan điểm trái nghịch này có được sự tán đồng của nhiều người hay không th́ không thể biết rơ v́ không có những thăm ḍ, nghiên cứu khách quan và khoa học.

 

Quan trọng nhất là hơn 80 triệu dân Việt trong nước hiện không được tự do biểu lộ nên không biết được đa số nằm ở đâu.

 

Lo sợ phản ứng

 

Là một tờ báo lớn đă làm đúng chức năng thông tin khi cho những quan điểm trái nghịch được thể hiện, nhưng ban chủ trương báo Người Việt sau đó lại lo sợ phản ứng của một số người và đă phải xin lỗi cộng đồng, đuổi người trách nhiệm.

 

Nếu có người kéo đến biểu t́nh th́ đó cũng là quyền của người dân để lên tiếng nói bất đồng. Tuy nhiên việc đưa ra quan điểm trái nghịch là việc phải có trong một xă hội tự do dân chủ. Vấn đề là cách đưa ra lá thư độc giả rất nhạy cảm này. Và có kiểm chứng được độc giả này là ai chưa trước khi đăng?

 

Không phải đến nay báo chí Việt ngữ ở hải ngoại mới tŕnh bày những quan điểm khác nhau về cuộc chiến hay đưa ra những cái nh́n khác nhau về đất nước Việt Nam.

 

Đầu năm 1998 tôi thực hiện cho nhật báo Thời Báo ở San Jose cuộc phỏng vấn hai người với hai quan điểm trái nghịch.

 

Tờ Thời Báo đã từng bị phản đối sau bài phỏng vấn ông Nguyễn Xuân Phong

 

Tổng Lănh sự Nguyễn Xuân Phong đưa ra quan điểm của nhà nước Việt Nam và Thẩm phán Phan Quang Tuệ đưa ra quan điểm của người quốc gia chống cộng sản.

 

Sau khi Thời Báo Xuân Mậu Dần 1998 với chủ đề “Việt Nam Nh́n Từ Hai Phiá” với các bài phỏng vấn được phát hành th́ sóng gió và tranh căi nổi lên trong cộng đồng người Việt.

 

Nhiều người đă kéo tới biểu t́nh trước toà soạn để phản đối. Các cuộc biểu t́nh kéo dài nhiều tháng trời, tổng cộng 86 lần, đ̣i hỏi chủ bút xin lỗi và nêu danh tính phóng viên thực hiện phỏng vấn nhưng người chủ trương tờ báo không nhượng bộ v́ đă không làm ǵ sai khi cho cả hai phiá có tiếng nói.

 

Sau này cũng đă có một số báo khác ở California phỏng vấn quan chức cộng sản Việt Nam và những nhân vật bất đồng với chính sách cai trị của Hà Nội.

 

Cũng có báo đă đăng những bài viết đưa ra những quan điểm trái nghịch về Việt Nam và đă có biểu t́nh phản đối nhưng không lớn và kéo dài như đă xảy ra với nhật báo Thời Báo ở San Jose.

 

Đưa ra những quan điểm trái nghịch nhau là phản ánh sinh hoạt tự do báo chí trong một xă hội dân chủ. Đây là điều mà báo chí trong nước không có được.

 

Trong một nền dân chủ pháp trị, biểu t́nh là quyền của người dân nhưng tự do báo chí không thể giới hạn.

 

Theo Thomas Jefferson: “Tự do của chúng ta tùy thuộc vào nền tự do báo chí và giới hạn tự do đó tức là làm mất nó” (Our liberty depends on the freedom of the press, and that cannot be limited without being lost.)

 

Vụ việc báo Người Việt đuổi nhân viên liên quan đến thư độc giả mới đây cho thấy Người Việt không vững tin và can đảm để thể hiện quyền tự do báo chí.

 

Bên trong trụ sở của báo Người Việt có treo một bức tranh phản ánh tu chính án thứ nhất. Những người làm việc ở toà soạn mỗi ngày có nh́n vào đó và hiểu được ư nghĩa của nó không?

Tác giả hiện dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco. Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả

 

 Nguồn : BBC on line , 20/7/2012

 

 


 


 

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

www.nguyenkinhdoanh.com

www.nguyenkinhdoanh.net

www.lesyminhtung.net

www.diendantheky.net

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: