Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Những Ngày của Tháng Tư 1975

 

 

1-4-1975 :Mặt trận Khánh Dương :

 

 

 

* Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tử chiến với CQ tại mặt trận Khánh Dương, tỉnh Khánh Ḥa.

Trong ngày 1/4/1975, cùng với cuộc tấn công cường tập pḥng tuyến tiền phương của Quân đoàn 2, tại Phú Yên, Cộng quân đă mở nhiều cuộc tấn công vào vị trí pḥng thủ của các đơn vị Quân lực VNCH tại Khánh Ḥa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Phát chỉ huy đă kịch chiến với 4 trung đoàn của 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng của lữ đoàn này đă giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư đoàn F-10 và F-320 của CQ. Các tiểu đoàn Dù đă đánh trả quyết liệt và bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn phá khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.

-Theo nhật kư của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2, trong t́nh h́nh sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1/4/1975, Trung tá Lê Văn Phát tŕnh với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, rằng nếu không có tăng viện và không được cấp phát thêm hỏa tiễn Tow chống chiến xa th́ tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ đoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư đoàn 22 Bộ binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với 1 trung đoàn của sư đoàn 23 BB được tái chỉnh trang. Đến 2 giờ 10 chiều ngày 1/4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương th́ Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đă tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến pḥng ngự đă bị cắt nhỏ. Sau đó phía dưới đất tắt máy.

 

*Sư đoàn 23 Bộ binh lập tuyến pḥng thủ Động Ba Th́n, Cam Ranh

2 giờ 50 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay từ Khánh Dương về Phan Rang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú chỉ thị cho Đại tá Lê Hữu Đức, quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh gom lực lượng về cố thủ Động Ba Th́n, Cam Ranh.

 

2-4-1975 Ngày cuối cùng QĐ 2 :

 

* Ngày cuối cùng trên chiến trường của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 Phạm Văn Phú

Ngày 2 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu nhận được lệnh bàn giao phần lănh thổ cuối cùng của Quân khu 2 cho Quân đoàn 3/Quân khu 3. Đó cũng là ngày cuối cùng củaThiếu tướng Phạm Văn Phú trên chiến trường trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2. Những giờ cuối cùng của vị tướng này tại Nha Trang và tại Phan Thiết đầy bitráng. Trong nhật kư hành quân mang sang Mỹ được và được phổ biến trong cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí-đă ghi lại một số sự kiện xảy ra cho vị tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 trong hai ngày 1 và 2/4/1975 với nội dung được tóm lược như sau:

5 giờ 50 chiều ngày 1/4/1975, Thiếu tướng Phú vào bộ Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân ở Nha Trang, nhưng vị Tư lệnh Sư đoàn này đi vắng. Ông phải ngồi ngồi đợi, 20 phút sau th́ Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh-chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân và Chuẩn Tướng

Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân, bước vào. Lúc bấygiờ Tướng Phú ngồi ở chiếc ghế sát bàn của Tư lệnh của Sư đoàn 2 Không quân. Tướng Lượng và Tướng Oánh thấy Tướng Phú không chào hỏi và tới ngồi ở bàn khác đối diện. Thấy thái độ và cách xử sự khác thường của vị Tư lệnh Sư đoàn 2 Không quân,một trong 2 sư đoàn Không quân thống thuộc quyền điều động của bộ tư lệnh Quânđoàn 2, Tướng Phú hơi ngạc nhiên nhưng rồi ông chợt hiểu. Ông hỏi Chuẩn tướng Lượng:

-Có chuyện ǵ xảy ra?

Chuẩn tướng Lượng không trả lời, mặt lầm ĺ. C̣n Chuẩn Tướng Oánh, với giọng từ tốn, lễ độ nói với Thiếu tướng Phú:

-Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng tôi được chỉ định làm Tư lệnh Mặt trận Nha Trang, v́ Quân đoàn 2 không c̣n nữa. Tướng Phú mặt biến sắc, hỏi dồn:

-Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?

Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm răi nói: Thưa Thiếu Tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, của Trung tướng Đồng Văn Khuyên (Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu) từ Sài G̣n.

Nghe Chuẩn tướng Oánh tŕnh bày, Thiếu tướng Phú cảm thấy danh dự bị tổnthương, v́ theo tổ chức quân đội, người có quyền ra lệnh cho ông là Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, c̣n Trung tướng Khuyên là tham mưu trưởng, không có quyền ra lệnh cho các tư lệnh Quân đoàn, về vai vế và quyền hạn th́ Tư lệnh quân đoàn và Tư lệnh quân chủng chỉ xếp sau Tổng tham mưu trưởng. 18 giờ 40 Tướng Phú dùng điện thoại tại văn pḥng Tướng Lượng để gọi về Sài G̣n gặp Trung tướng Khuyên. Ngay từ câu đầu tiên, Thiếu tướng Phú đă hét lên trong ống liên hợp:

-Trung tướng hỏi tôi đi đâu à? Tôi bay chỉ huy.

Sau một hồi tranh cải, Thiếu tướng Phú nói lớn:

-Tôi là Tư lệnh Quân đoàn. Đi đâu, đó là quyền của tôi. Trung tướng Thuần (Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan) cùng đi trên máy bay chỉ huy của tôi mấy tiếng đồng hồ, nhưng tôi không cần Trung tướng phải tin. Và tôi cũng không phải tŕnh Trung tướng.

19 giờ 45 phút cùng ngày, Thiếu tướng Phú ra trực thăng bay về Phan Rang. Khi ông vừa ngồi lên xe Jeep để ra băi đậu trực thăng, th́ một sự việc bất ngờ xảy ra. Một xe chở đầy lính và vũ khí phóng tới, một Thiếu tá Không quân nhẩy xuống nói lớn:

-Tại sao, tại sao, các ông là Tướng lại bỏ lính chạy. Ai pḥng thủ căn cứ này.

Khi đó, Thiếu tá Phạm Huấn cùng đi với Thiếu tướng Phú, đă ngồi đè lên người Thiếu tướng Phú, và chĩa khẩu AR 18 về phía người sĩ quan này và nói:”Anh không được vô lễ, ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn không có nhiệm vụ phải pḥng thủ căn cứ Không quân”. Cuối cùng th́ mọi việc êm xuôi, Thiếu tướng Phú hiểu được sự phẫn nộ của vị sĩ quan Không quân và những người lính đi cùng.

* Quân đoàn 2 bàn giao phần lănh thổ c̣n lại cho Quân đoàn 3.

Đêm 1 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phú nằm dưới chân núi, trên một cái giường bố, tại ban chỉ huy của một tiểu đoàn Địa phương quân Ninh Thuận, pḥng thủ căn cứ Phan Rang. 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng1/1975, Tướng Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, để thảo luận về việc bàn giao phần lănh thổ c̣n lại của Quân đoàn 2 &Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân đoàn 3. Theo kế hoạch,Quân đoàn 3 chính thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-B́nh Thuận từ ngày 3/4/1975. Vào giờ này, Bộ Tham mưu của Tướng Phú chỉ c̣n lại Thiếu tá Vinh, chánh văn pḥng; Thiếu tá Hóa tùy viên, Thiếu tá Huấn, sĩ quan báo chí và Đại tá Lê Hữu Đức, Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23BB.

Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng ngày, Thiếu tá Hóa tŕnh với Thiếu tướng Phú là trực thăng của Thiếu tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu tá Hóa vừa quay gót, Thiếu tướng Phú rút khẩu súng ngắn ra khỏi vỏ,nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức vang lên: “Thiếu Tướng!”, ngay sau đó, khẩu súng trên tay Tướng Phú bị đại tá Đức gạt bắn xuống đất. Tướng Phú không chết trong ngày 2 tháng4/1975, nhưng 28 ngày sau ông đă tự sát tại Sài G̣n.

 

* Cuộc hội ngộ cuối cùng của hai vị Tư lệnh Quân đoàn

Cũng theo nhật kư của Thiếu tá Huấn, trước đó vào 5 giờ chiều ngày 30 tháng 3/1975, Tướng Phú đă bay ra Cam Ranh, để cùng với Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, Tư lệnh Hải quân Vùng hai duyên hải, đitrên một soái hạm chỉ huy ra vùng biển ngoài Cam Ranh để đón Trung tướng Trưởng đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404 từ Cam Ranh vào (Tướng Trưởng đă phải bơi từ bờ để ra tàu hải quân đậu ngoài biển). Trên tàu lúc này có rất đông chiến binh Thủy quân Lục chiến từ Quân khu 1 vào. Tướng Phú và Phó Đề đốc Minh phải khó lắm mới lách xuống được chỗ Trung tướng Trưởng nằm dưỡng bệnh. Theo ghi nhận của Thiếu tá Phạm Huấn, có mặt vào giờ phút đó, th́ lúc này Trung tướng Trưởng thở thoi thóp nhờ b́nh nước biển. Quanh Trung tướng Trưởng có Chuẩn Tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân (ĐàNẵng), Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa Thiên. Thiếu tướng Phú ghé sát tai Trung tướng Trưởng hỏi hai lần, nhưng sắc diện Trung tướng Trưởng không thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng Trưởng ngước nh́n lên. Đôi mắt như muốn bật máu v́ uất ức. Chi tiết về cuộc gặp gở này cũng đă được Hải quân Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, hạm trưởng HQ404 kể lại trong một bài viết phổ biến vào năm 1995. Có một điểm khác biệt về mốc thời gian là tài liệu của Trung tá Nhơn th́ lại ghi là cuộc gặp gở giữa Tướng Phú và Tướng Trưởng diễn ra vào tối ngày 1/4/1975, (nhật kư của Thiếu tá Huấn ghi là 5 giờ chiều 30/3/1975, như đă tŕnh bày ở trên). Trong khi đó theo lời kể của một số sĩ quan đi theo Tướng Trưởng, HQ 404 rời Đà Nẵng ngày29/3/1975 và đến chiều ngày 30/3/1975 th́ đă vào vùng biển ở ngoài Cam Ranh.

Theo lời của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, tối ngày 1/4/1975, Tướng Phú đă đi tàu nhỏ cập vào chiến hạm để lên tàu thăm và nói chuyện với Tướng Trưởng. T́nh cờ khi vào pḥng lấy hồ sơ, Trung tá Nhơn đă nghe câu nói của Thiếu tướng Phú: “Dù sao đi nữa tôi cũng c̣n vài tiểu khu ở đây với tôi chiến đấu”. Cũng cần ghi nhận rằng Tướng Phú đă có một thời gian làm việc chung với Tướng Trưởng: năm 1967, khi c̣n là đại tá, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 Bộ binh do Tướng Trưởng làm tư lệnh; năm 1972, khi Tướng Trưởng là Tư lệnh Quân đoàn 1 th́ Tướng Phú là Tư lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quânđoàn này). Cuộc gặp gỡ của hai vị tư lệnh Quân đoàn diễn ra đúng10 phút. Sau đó, Thiếu tướng Phú đứng nghiêm chào từ biệt Trung tướng Trưởng.Rồi ông bước nhanh ra khỏi căn pḥng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi tráng chờ đợi ông, người hùng Điện Biên Phủ năm nào.

 

3-4-1975 Phan Rang hỗn độn:

 

*T́nh h́nh Phan Rang

Sau khi các đơn vị VNCH triệt thoái khỏi Nha Trang ngày 2/4/1975, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, t́nh h́nh tỉnh Ninh Thuận trở nên hỗn loạn, nhốn nháo, công chức bỏ nhiệm sở, quân nhân các đơn vị Địa phương quân bỏ đơn vị đi t́m gia đ́nh. Gần một nửa số tiểu đoàn Địa phương quân tỉnh NinhThuận bảo vệ Căn cứ Phan Rang đă bỏ vị trí pḥng thủ. Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Ninh Thuận bỏ Phan Rang sau khi ra lệnh thiêu hủy một số dụng cụ và phương tiện thiết yếu.

* Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến giữ chức Tổng trấn Vũng Tàu

Ngày 3 tháng 4/1975, sau cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng bằng tàu Hải quân vào ngày 29/3/197, lực lượng c̣n lại của Sư đoàn 3 Bộ binh do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh chỉ huy đă cập bến Vũng Tàu. Vào ngày này, lực lượng Thủy quân Lục chiến đă phối trí lực lượng bảo vệ pḥng tuyến Vũng Tàu. Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, kiêm nhiệm chức vụ Tổng trấn Vũng Tàu.

* Sư đoàn 3 Bộ binh tái chỉnh trang tại Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp

Theo kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH, lực lượng Sư đoàn 3 Bộ binh tập trung về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Sư đoàn 2 Bộ binh lên B́nh Tuy. Tất cả sẽ phải chỉnh trang và sẵn sàng chiến đấu.

Sau khi liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 3 duyên hải và Đặc khu Vũng Tàu, vào 15 giờ chiều ngày 3 tháng 4/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh và các đơn vị của Sư đoàn này về đến Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp.

 

4-4-1975 Mặt trận Ninh Thuận :

 

*Quân đoàn 3 lập pḥng tuyến Ninh Thuận

Sau khi 6 tỉnh Cao nguyên và 8 miền tỉnh miền Trung bị lọt vàotay CSBV, để ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh Ninh Thuận,B́nh Thuận, thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham MưuQuân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến pḥngthủ bảo vệ hai tỉnh này.Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉthị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3,thành lập Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang,và Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tư

lệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phươngcủa Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là chỉ huytrưởng trường Bộ Binh, ông cũng đă từng giữ chức tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đă giư ơchức vụ tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đếntháng 5/1972).

 

* T́nh h́nh tỉnh Ninh Thuận

Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lậptại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđă được văn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lậpviệc pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành chínhtrong tỉnh. Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí pḥng thủgần thị xă, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵnan ninh tại thị xă và các vùng phụ cận. Lực lượng ṇng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.

Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và t́nh h́nh tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.

 

5-4-1975 Thủ Tướng Khiêm từ chức:

 

*Thủ tướng Trần Thiện Khiêm từ chức

Ngày 5 tháng 4/1975, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng Chính phủ kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng đă nộp đơn lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu xin từ chức. Tổng thống đă chấp thuận và cử ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ Viện, thành lập nội các (Ngày 14/4/1975, nội các của ông Nguyễn Bá Cẩn mới hoàn tất thành phần nhân sự và tŕnh diện Tổng thống). Trong thời gian chờ chính phủ mới h́nh thành, nội các của Đại tướng Trần Thiện Khiêm tiếp tục hoạt động dưới h́nh thức xử lư thường vụ. (Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, và hồi kư của Trung tướng Trần Văn Đôn)

 

* Phối trí lực lượng tại mặt trận Ninh Thuận.

Theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tưlênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, th́ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 (Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư lệnh Tiền phương), đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với bộ Tư lệnh Sưđoàn 6 Không quân. Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng pḥng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận.

Lực lượng chính để bảo vệpḥng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù (Lữ đoàn này về Sài G̣n vào ngày 7/4/1975, sau khi có Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra thay thế).Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân. Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.

 

6-4-1975 :Trận chiến B́nh Thuận :

 

* 1 sư đoàn CSBV tiến về gần Phan Thiết, tỉnh lỵ tỉnh B́nh Thuận.

Theo phân tích của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH, vào thượng tuần tháng 4/1975, sau khi đă chiếm Nha Trang, Cam Ranh và các quận tỉnh Khánh Ḥa, do bị thiệt hại nặng tại mặt trận Khánh Dương, Cộng quân cần phải bổ sung quân số, chưa đủ lực lượng để mở đợt tấn công lớn vào Ninh Thuận. Các tin tức t́nh báo nhận được cho biết sư đoàn 7 CSBV sau khi mở các cuộc tấn công vào Cao nguyên đă được điều động về hoạt động tỉnh B́nh Thuận. Ngày 6 tháng 4/2005, sư đoàn 7 CSBV này đă khai triển lực lượng hoạt động tại phiá Tây Phan Thiết. Trong khi đó sư đoàn 3 CSBV và một vài đơn vị của sư đoàn 10 CSBV đóng cách Cam Ranh khoảng 50 km về hướng Tây Bắc.

 

*Lữ đoàn 2 Nhảy Dù thay thế Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại pḥng tuyến Phan Rang.

Ngày 6 tháng 4/1975, Bộ Tổng Tham Mưu điều động Lư đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang bằng không vận để thay thế cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. (Một ngày sau, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trở về Sài G̣n sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ra Phan Rang). Cùng với cuộc chuyển quân của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, c̣n có các toán thám sát của Nha Kỹ Thuật đến hoạt động tại khu vực Đông Bắc và Tây Bắc Phan Rang.

 

7-4-1975:Trận chiến Miền Đông

 

* Cộng quân gia tăng áp lực tại B́nh Dương, Long Khánh

Tại miền Đông Nam phần, thuộc vùng trách nhiệm của Quân đoàn 3/ Quân khu 3, áp lực của CQ đă gia tăng tại B́nh Dương, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh do Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ làm tư lệnh; tại Long Khánh, thuộc khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 18 Bộ binh mà vị Tư lệnh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo.

* 2 sư đoàn CSBV khai triển lực lượng gần Dầu Giây

Ngày 7/4/1975, 2 sư đoàn Cộng quân 341 và 3 CSBV đă khai triển lực lượng tiến về gần Dầu Giây. (2 sư đoàn CQ này đă cùng với sư đoàn 7 CSBV mở cuộc tấn công vào Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh vào ngày 9 tháng 4/1975).

*Lữ đoàn 2 Nhảy Dù bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang

-Ngày 7 tháng 4/1975, pḥng tuyến Phan Rang được bảo vệ với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.

 

QĐ 3 Pḥng tuyến Phan Rang :

 

* Tổng lược t́nh h́nh 7 tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2 trước khi Quân đoàn 3 thành lập pḥng tuyến Phan Rang

Như đă tŕnh bày, kể từ ngày 10/3/1975 ,ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập vào thị xă Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho đến ngày 3 tháng 4/1975, trong ṿng 23 ngày, CQ đă chiếm vùng Cao nguyên sau khi lực lượng VNCH triệt thoái, theo tŕnh tự sau đây.

-Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku và Kontum, và CQ đă chiếm 2 tỉnh này mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đă mở nhiều cuộc tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được ghi nhận là thất thủ vào ngày này.

-Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đă triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975.(Theo nhật kư hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang th́ diễn tiến t́nh h́nh chiến sự tại Lâm Đồng như sau: “Vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đă tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào thị xă tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh Lâm Đồng, người đă rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa ngày 29/3/1975, th́ ”không hề có vấn đề thị xă Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập, ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày này, mà chỉ có việc quân ta tự ư rút lui và đồng bào di tản theo mà thôi.)

- Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành phố cuối cùng của Cao nguyên bị CQ chiếm là tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS sát nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ của tỉnh này).

*Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ pḥng tuyến Phan Rang

Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉnh NinhThuận,B́nh Thuận, thành lũy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến pḥng thủ bảo vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & QuânKhu 3, thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử làm Tưl ệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này. Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đă từng giữ chức Tư lệnh Quânđoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau khi đă giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972).

Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và B́nh Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 & Quân khu 3, th́ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.

Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 là chỉ huy các lực lượng pḥng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975, lực lượng chính để bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang là Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ Sài G̣n ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6 Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1 tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động đến.

Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 đă khởi sự phối trí lực lượng để bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang như sau.

Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.

* T́nh h́nh Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975:

 Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh nàyđă được văn hồi ngay. Vị Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ninh Thuận bỏ đi trong ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lập việc pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành chính trong tỉnh. Tuy nhiên lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ c̣n một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh sĩ và hạ sĩ quan đă bỏ đơn vị vào Nam t́m gia đ́nh.

Theo kế hoạch, lực lượng Địa phương quân được phối trí pḥng thủ gần thị xă, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵn an ninh tại thị xă và các vùng phụ cận. Lực lượng ṇng cốt để bảo vệ Phan Rang vẫn trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.

Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không quân hữu hiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái lập và t́nh h́nh tại Phan Rang lắng dịu lại sau những ngày hỗn loạn.

* Phần bổ sung về cuộc hành tŕnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng trên đường vào Nam

Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa th́ một số tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà Nẵng vào Nam. Như đă tŕnh bày, chỉ có một ít đơn vị của Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một số sĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải quân HQ 404 vớt sau khi ông phải bơi từ bờ.

Trong cuộc hải tŕnh vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng đă nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ tiện nghi và sạch sẽ hơn v́ HQ 404 quá chật chội, không có máy lạnh và chở toàn binh sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, th́ lúc đó tàu này dơ bẩn và hôi hám v́ có nhiều người chết. Dù được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng Trưởng không đồng ư,

Ông yêu cầu Trung tá Nhơn báo về Sài G̣n là ông xin ở lại trên tàu với anh em Thủy quân Lục chiến chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận.

Khi HQ 404 đến Cam Ranh, Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một ḿnh Trung tướng Trưởng vào Sài G̣n. Để thực hiện lệnh này, HQ 404 được phép ủi băi Tân Cảng để đổ Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổ quân bắt đầu, Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung tá Nhơn thấy vậy tiến đến tŕnh bày: “Lệnh Sài G̣n yêu cầu tôi chở Trung tướng về Sài G̣n. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rơ từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài G̣n cho Thủy quân Lục chiến về Sài G̣n để dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh th́ tôi cũng xuống đây luôn.

Liền ngay sau đó, Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về Sài G̣n và chờ đợi kết quả. Cuối cùng công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được chấp thuận”. Quân nhân Thủy quân Lục chiến đă xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân nhân Thủy quân Lục chiến đă có mặt đầy đủ, với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào pḥng của ông.

 

8-4-1975:Trận chiến Quốc lộ 20:

 

* 3 sư đoàn CSBV áp lực nặng pḥng tuyến Long Khánh

Sau khi đă điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày 8 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến hiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

Ngày 8/4/1975, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đă thực hiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộng quân, tuy nhiên, các phi tuần này đă gặp khó khăn do màn lưới pḥng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh pḥng không của Cộng quân.

*Dinh Độc Lập bị dội bom

Cũng trong ngày 8 tháng 4/1975, 1 trung úy Không quân tên là Nguyễn Thành Trung, nội tuyến của VC, đă lái 1 phản lực cơ chiến đấu F5 thả bom xuống dinh Độc Lập. Vụ ném bom này chỉ gây hư hại 1 phần của đại sảnh đường. Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng tin đồn được truyền đi cho rằng số phận miền Nam đă được định đoạt bởi những thế lực lớn”.

 

9-4-1975: Trận chiến Long An :

 

*Cộng quân đột kích vào thị xă Tân An, tỉnh lỵ tỉnh Long An

-Ngày 9/4/1975, cùng lúc CQ mở cuộc tấn công vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh, th́ tại tỉnh Long An thuộc phạm vi trách nhiệm của Sư đoàn 25 Bộ binh, vào lúc 6 giờ 30 sáng ngày 9/4/1975, 1 tiểu đoàn đặc công Cộng quân đă đột nhập vào thị xă Tân An (tỉnh lỵ Long An), 1 biệt đội đặc công đă tấn công vào một phi trường cách thị xă Tân An 1.5 km. Lực lượng pḥng thủ thị xă và đơn vị Địa phương quân pḥng thủ phi trường đă đẩy lùi được cuộc tấn công của Cộng quân vào lúc 2 giờ chiều cùng ngày, hạ tại chỗ 25 CQ, tịch thu một số vũ khí đủ loại.

 

*Mặt trận Long Khánh bùng nổ

Rạng sáng ngày ngày 9 tháng 4/1975, sau khi đă đặt các chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20, CQ mở cuộc tấn công cường tập vào pḥng tuyến Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh. Cùng thời gian, CQ đă pháo kích dữ dội vào căn cứ Không quân Biên Ḥa, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, căn cứ Tiếp vận Long B́nh.

 

9-4-1975: Long Khánh bùng nổ:

 

*Tổng lược về trận chiến Long Khánh ngày 9/4/1975

 

Theo tài liệu ghi trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi đă điều động 3 sư đoàn chính quy vào mặt trận Long Khánh, ngày ngày 9 tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật tại ngă ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai triển lực lượng tại khu vực nói trên, rạng sángngày 9/4/1975, Cộng quân đă pháo kích như mưa vào Căn cứ Khôngquân Biên Ḥa, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Căn cứ Tiếp vận Long B́nh.

Tại tỉnh lỵ Xuân Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng quân đă đồng loạt pháo kích khoảng vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1 giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn 341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công tấn công vào ngay thị xă.

Cũng với trận tấn công vào vào thời gian đó, CQ tấn công vào khu vực ngă ba Dầu Giây. Kế hoạch của Cộng quân là muốn chiếm Dầu Giây để từ đây tấn công vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh.

Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận các đợt tấn công của Cộng quân, Không quân VNCH đă thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí đóng quân của Cộngquân, tuy nhiên, các phi tuần này đă gặp khó khăn do màn lưới pḥng không dày dặc của các trung đoàn pháo binh pḥng không của Cộng quân được bố trí quanh ṿng đai pḥng tuyến của Sư đoàn 18Bộ binh.

 

*Lực lượng VNCH tại mặt trận Long Khánh

Về lực lượng tác chiến của Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài liệu của Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn Viên ghi lại trong hồi kư, th́ tính đến sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị pḥng ngự gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động quân, hai tiểu đoàn Pháo binh. Các đơn vị này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318 và 322 được phối trí án ngữ quanh ṿng đai thị xăXuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại táPhạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh.

 

* Diễn tiến các trận giao tranh trong ngày 9/4/1975.

Theo bản tin chiến sự do phát ngôn viên Quân sự QL.VNCH phổ biến và được báo Chính Luận số ra ngày 10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao tranh tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975 được ghi nhận như sau.

Tại pḥng tuyến quanh thị xă Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh), 7 giờ 30 sáng, Cộng quân đă mở nhiều đợt tấn công vào vị trípḥng ngự của các chiến đoàn 316, 318 và 320. Tại trung tâm tỉnhlỵ Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại nhà thờ Chánh ṭa vàgiữa chợ Xuân Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùngthiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xă, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đă điều động thêm lực lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.

Lực lượng tăng viện và trú pḥng đă quyết chiến và đẩy lùi đượccác đợt tấn công của Cộng quân. 4 chiến xa của địch đă bị bắncháy gần chợ Xuân Lộc. Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốtcầm cự của Cộng quân trong tại thị xă Xuân Lộc, nhà thờ Chánh Ṭađă hoàn toàn bị đẩy lui, 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại cáckhu vực kế cận thị xă, trận chiến vẫn kéo dài đến 10 giờ đêm mớitạm lắng sau khi lực lượng tăng viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân.

 

* Cuộc chuẩn bị của Cộng quân tại mặt trận Long Khánh

Theo lời khai của 2 tù binh Cộng quân, những binh sĩ này thuộcmột trung đoàn mới từ miền Bắc xâm nhập vào Nam từ đầu năm 1975.Trước khi tấn công vào thị xă Xuân Lộc, đơn vị của hai tù binhnày đă được tập dượt trước với sự tham gia của một tiểu đoàn thiết giáp.

Theo tài liệu trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 ( do tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, th́ kế hoạch chuẩn bị cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2 lần B 2 xin quân th́ tôi (Lê Đức Thọ) vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước đó, anh em (CSBV) đă đánh Thủ Thừa, đường số 4, nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường. Ngoài ra địch c̣n chống cự

như trận đánh vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV) không phải là ít, tôi có ư định toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội CSBV, tôi cũng nghĩ có thể ḿnh mới vào chưa rơ t́nh h́nh; cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem (CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra.

Cũng theo tài liệu nói trên, lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh trong những ngày đầu là quân đoàn 4 CSBV do tướng CSBV Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ là tướng CSBV Hoàng Đ́nh Hiệp. Các đại đơn vị thống thuộc quân đoàn này gồm có: sư đoàn 6 sư đoàn 7 và sư đoàn 341, sư đoàn này vưà di chuyển từ Thanh Hóa vào với thành phần Pháo binh cơ hữu. (Tài liệu phổ biến trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên có phần khác biệt về danh hiệu các sư đoàn CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3 và 341 là những đại đơn vị đầu tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh, sau đó được tăng cường thêm sư đoàn 7 CSBV).

 

10-4-1975:Trận chiến Xuân Lộc:

 

*Trận chiến Xuân Lộc ngày N+ 1

Ngày 10 tháng 4/1975, trận chiến tại mặt trận Long Khánh đă bước vào ngày thứ hai. Sau khi bị đẩy lùi khỏi trung tâm thị xă Xuân Lộc trong buổi chiều ngày 9 tháng 4/1975, 7 giờ sáng ngày 10 tháng 4/1975, CQ lại mở đợt tấn công thứ hai. Khởi đầu là CQ pháo kích khoảng 1 ngàn quả đạn đủ loại vào thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ Long Khánh, và vào các vị trí trọng điểm dọc theo các pḥng tuyến ṿng đai tỉnh lỵ, trận mưa pháo kéo dài trong ṿng 1 giờ. Sau đó, các đơn vị bộ binh và thiết giáp của Cộng quân đă đồng loạt tấn công vào thị xă này từ hai hướng Đông Bắc và Tây Bắc. Đợt tấn công này đă bị quân trú pḥng chận đứng từ các ngă ba dẫn vào tỉnh lỵ.

* Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây

Tại ngă ba Dầu Giây, trận chiến đă xảy ra quyết liệt. Cộng quân áp dụng chiến thuật “xa luân chiến”, các đơn vị Cộng quân thay nhau liên tục mở các đợt tấn công vào hệ thống công sự pḥng thủ của quân trú pḥng. Để triệt tiêu lối đánh của đối phương, các đơn vị trú pḥng VNCH đợi Cộng quân đến gần mới khai hỏa đồng loạt, mỗi đợt tấn công có ít nhất một trung đội Cộng quân đi đầu bị loại khỏi ṿng chiến. Để yểm trợ cho các đơn vị pḥng ngự, các pháo đội Pháo binh VNCH đă bắn trực xạ chận đứng các đợt tấn công biển người của Cộng quân.

 

11-4-1975:Trận chiến Dầu giây:

 

-Tại Xuân Lộc, đến sáng ngày 11/4/1975, trận chiến đă bước vào ngày thứ ba. Sau hai ngày giao tranh 9 và 10/4/1975, hơn 500 CQ bỏ xác tại trận, 8 chiến xa T54 bị bắn cháy, lực lượng pḥng ngự VNCH thu được gần 200 vũ khí đủ loại. 7 giờ sáng ngày 11/4/1975, hai trung đoàn CQ từ hướng đông bắc và tây nam tấn công vào trung tâm thị xă, đây là đợt tấn công thứ ba. Quân trú pḥng từ những công sự chiến đấu quanh các khu vực đă giao tranh quyết liệt với Cộng quân.

 

-Tại ngă ba Dầu Giây, liên tục trong 3 ngày từ 9 đến 11/4/1975, CQ đă tung 2 trung đoàn có thiết giáp yểm trợ quyết chiếm khu vực này, để từ đây mở những cuộc tấn công lớn vào pḥng tuyến của Trung đoàn 52 BB đang án ngữ hướng tây bắc của thị xă tỉnh lỵ. Tính từ 6 giờ sáng ngày 11/4/1975 đến 18 giờ ngày 11/4/1975, CQ đă mở đến 6 đợt xung phong biển người vào các vị trí ở mặt trận Dầu Giây, và đều bị đẩy lùi.

 

12-4-1975 :Kịch chiến ở Xuân Lộc

 

* CQ tung 4 sư đoàn vào mặt trận Long Khánh

-Trong ngày 12/4/1975, trận chiến tại Long Khanh đă trở nên quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường 7) vào mặt trận tại ngă ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xă.Kịch chiến đă diễn ra tại nhiều pḥng tuyến ṿng đai tỉnh lỵ Xuân Lộc của tỉnh Long Khánh.

-Tính đến ngày 12/4/ 1975, lực lượng Cộng quân tại mặt trận Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh) và khu vực phụ cận có 4 sư đoàn chính quy: 431, CT 6 và CT 7, thuộc Quân đoàn 4, F3 tân lập (trong số các sư đoàn chính quy của Cộng quân, có 1 sư đoàn mang tên là CT3-Sao Vàng) ; lực lượng yểm trợ có 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn thiết giáp và khoảng 3 tiểu đoàn đặc công.

* Lữ đoàn 1 Dù nhảy vào mặt trận Xuân Lộc

- Trước áp lực nặng của CQ, để đối đầu với 3 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo, 2 trung đoàn thiết giáp của CSBV, ngày 12 tháng 4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tung lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến: đó là Lữ đoàn 1 Dù với 4 tiểu đoàn và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.

 

13-4-1975:Trận chiến Bảo Định :

 

*Cộng quân áp lực pḥng tuyến Dầu Giây

-Trong ngày 13/4/1975, tại tỉnh Long Khánh, trận chiến đă diễn ra quyết liệt khi Cộng quân tung thêm 1 sư đoàn có bí số CT 7 (công trường7) vào mặt trận tại ngă ba Dầu Giây, 1 trung đoàn biệt lập và 1 trung đoàn thiết giáp thuộc khu miền Đông tấn công vào trung tâm thị xă.

* Lữ đoàn 1 Dù tái chiếm Bảo Định, tỉnh Long Khánh

-Sau khi di chuyển từ Biên Ḥa đến Trảng Bom, lực lượng Lữ đoàn 1Nhảy Dù được phối trí như sau: hai tiểu đoàn Dù đầu tiên hành quân trực thăng vận xuống ấp Bảo B́nh, cách tỉnh lỵ Long Khánh 5km về hướng Nam, và cách Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18BB ba cây số về hướng Đông.

-Theo phân nhiệm của Bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù được lệnh tái chiếm xă Bảo Định, cách ấp Bảo B́nh 2 km vềhướng Bắc. Xă này đă bị Cộng quân chiếm giữ từ ngày 10 tháng4/1975 khi trận chiến Xuân Lộc mới bước vào ngày thứ hai.

-Một tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được đổ xuống một khu vườn cao su, bênsuối Gia Cốp, cách xă Bảo Định 1 km về phía Bắc để đánh đuổi mộttiểu đoàn đặc công của Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ, cựu Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH từ

1955 đến tháng 8/1963. Tiểu đoàn thứ 4 được đổ xuống ngay Xuân Lộc để giải tỏa áp lực Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu và pḥng tuyến của 1 tiểu đoàn Địa phương quân.

 

14-4-1975:Nội các mới trỉnh diện :

 

*Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tŕnh diện thành phần nội các

Sau 9 ngày tiến hành tuyển chọn nhân sự để thành lập chính phủ, vào ngày 14/4/1975, tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn tŕnh diện thành phần nội các lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu. Tân chính phủ có 3 phó thủ tướng, 4 quốc vụ khanh, 15 tổng trưởng, 1 bộ trưởng (Phủ Thủ tướng), 6 thứ trưởng. Trong chính phủ mới, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, nguyên Phó thủ tướng của nội các Trần Thiện Khiêm, giữ chức vụ phó thủ tướng đặc trách Tổng thanh tra kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng; Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách sản xuất kiêm Tổng trưởng Canh Nông và Kỹ Nghệ; Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, phó thủ tướng đặc trách Chương tŕnh cứu trợ và định cư; Chuẩn tướng Phan Ḥa Hiệp giữ chức Tổng trưởng Thông tin-Chiêu Hồi; Luật sư Vương Văn Bắc giữ chức Tổng trưởng Ngoại giao.

* Trận chiến khốc liệt tại ngă ba Dầu Giây

Ngày 14/41975, tại ngă ba Dầu Giây, Cộng quân đồng loạt tấn công vào vị trí pḥng thủ của Trung đoàn 52 Bộ binh từ Kiệm Tân đến ấp Phan Bội Châu trên Quốc lộ 20. Trước t́nh h́nh mới, Bộ Tư lệnh chiến trường Xuân Lộc đă điềuđộng lực lượng tăng viện lên mặt trận ngă ba Dầu Giây để cùng với Trung đoàn 52 BB giữ pḥng tuyến tại ngay ngă ba Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20.

 

15-4-1975:Mặt trận Long Khánh :

 

* Kịch chiến tại ngă ba Dầu Giây, tỉnh Long Khánh

Tại pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây, đến ngày 15/4/1975, trận chiến tại đây bước vào ngày thứ 7. Lực lượng bảo vệ pḥng tuyến này là Trung đoàn 52 Bộ binh với sự yểm trợ của Thiết giáp và Pháo binh. Từ chiều ngày 14/4/1975 đến sáng ngày 15/4/1975, các tiền đồn, công sự pḥng thủ của các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 52 từ Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu đă bị Cộng quân tràn ngập. Chiều ngày 15/4/1975, trận chiến đă xảy ra quyết liệt ngay tại xă Dầu Giây, ở ngă ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng trú pḥng và 2 sư đoàn chính quy và 1 trung đoàn thiết giáp của Cộng quân.

Thế trận và tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch. Lực lượng trú pḥng c̣n khoảng 2 ngàn quân sĩ (kể cả các tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu khu Long Khánh từ Định Quán rút về hợp cùng với các đơn vị Trung đoàn 52 Bộ binh), trong khi đó lực lượng củaCộng quân đông gấp 10 lần. Những người lính VNCH tại pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây đă phải chiến đấu với thế trận 1 chống 10. Trận chiến đă diễn khốc liệt ngay từ những phút đầu. Cộng quân pháo kích như mưa xuống các vị trí công sự của quân trú pḥng, sau đó là đợt tấn công biển người.

Sau 3 giờ kịch chiến, Cộng quân đă tràn ngập chia cắt các lực lượng của quân lực VNCH án ngữ trên quốc lộ 1 và quốc lộ 20. Do trời tối, và 4 chiến xa M-48 của Lữ đoàn 3 Thiết kỵ bị trúng đạn pháo của Cộng quân ngay từ đầu nên việc yểm trợ của Thiết giáp đă không thực hiện được. Khoảng 8 giờ tối ngày 15/4/1975 th́ toàn pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây vị vỡ. Tất cả chiến xa và đại bác của quân trú pḥng VNCH bị hủy diệt. Về lực lượng Bộ binh và Địa phương quân, chỉ c̣n khoảng 200 người rút về tuyến sau.

Chiếm được ngă ba Dầu Giây, 2 sư đoàn Cộng quân tiến về Xuân Lộc. Tuy nhiên đại quân của Cộng sản Bắc Việt đă không thể tiến ngay như Văn Tiến Dũng mong muốn, v́ rằng ngay sau khi pḥng tuyến Dầu Giây thất thủ, hai quả bom khổng lồ “Daisy Cutter” (do Mỹ cung cấp vào trung tuần tháng 4/1975) đă được Không quânVNCH thả xuống khu vực tập trung quân của Cộng quân, và một đoàn xe dài chở quân lính và đại bác Cộng quân trên quốc lộ 20. Theo các tài liệu t́nh báo, hơn 7 ngàn Cộng quân và hàng trăm vũ khí nặng, quân xa CSVN bị tiêu diệt bởi hai trái bom này.

Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc pḥng Hoa Kỳ vào cuối tháng 2/1975, Đại tướng Cao Văn Viên đă yêu cầu Bộ Quốc pḥng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn băi đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand. Vào giữa tháng 4/1975, ba trái chuyển đến trước và sau đó ba trái nữa chuyển đến chỉ hai ngày trước khi cuộc chiến kết thúc. Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn cho chuyên viên VN cách gắn ng̣i nổ và cách gắn bom lên phi cơ. Thế nhưng chuyên viên Mỹ này không đến kịp. Trước t́nh h́nh khẩn cấp và v́ mức độ nguy hiểm nếu tồn trữ thứ bom này tại Tân Sơn Nhất hay tại Long B́nh nên Bộ Tổng Tham Mưu và Bộ Tư lệnh Không quân VNCH phải chọn một phi công VNCH kinh nghiệm để bay thả thử trái đầu tiên.

*Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tại mặt trận Long Khánh

Như đă tŕnh bày trong phần trước, để tăng viện cho lực lượng pḥng thủ tại mặt trận Long Khánh, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 đă điều động Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, lực lượng trừ bị cuối cùng, nhảy vào mặt trận Xuân Lộc.

Theo kế hoạch, hai tiểu đoàn Nhảy Dù được trực thăng vận xuống ấp Bảo B́nh, cách Xuân Lộc 5 km về hướng Nam. Theo lệnh hành quân của Bộ Tư lệnh Chiến trường Long Khánh, sau khi nhảy xuống ấp Bảo B́nh, 2 tiểu đoàn Nhảy Dù mở cuộc tấn công tái chiếm xă Bảo Định, một xă nhỏ bé giữa rừng cao su, cách ấp này 2 km về hướng Bắc. Tin từ Trung tâm hành quân của bộ Tư lệnh chiến trường Long Khánh cho biết xă này đă bị một tiểu đoàn Cộng quân chiếm giữ từ ngày 10 tháng 4/1975 khi địch tung đợt tấn công thứ hai vào khu vực quanh tỉnh lỵ Long Khánh.

Tiểu đoàn Nhảy Dù thứ ba được trực thăng vận xuống khu vườn cao su, cách xă Bảo Định 1 km về phía Bắc. Từ vị trí này tiểu đoàn được lệnh tiến đánh một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Theo sự phối nhiệm tác chiến, tiểu đoàn phải thanh toán thật nhanh mục tiêu nói trên để giải tỏa áp lực cho 1 tiểu đoàn Địa phương quân đang bị Cộng quân bao vây. Cùng thời gian này, tiểu đoàn thứ 4 được trực thăng vận xuống ngay trung tâm thị xă Xuân Lộc để đánh bật các đơn vị Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu, để bộ chỉ huy này có thể rút về phía sau, hoạt động chung với bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh. Cuộc tiến quân tái chiếm xă Bảo Định đă có những sự kiện bất ngờ, lạ lùng. Khi 2 đại đội đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Dù tiến đến gần trụ sở xă Bảo Định th́ trời đă về chiều. Điều làm cho các đại đội trưởng ngạc nhiên là tại pḥng Thông tin xă, giáo đường Bảo Định, cờ Việt Nam Cộng Ḥa vẫn bay phất phới, trong khi cả xă im vắng, không một bóng người, một sinh vật nào ở ngoài đường.

Trung đội đi đầu của đại đội 2 được lệnh khai hỏa. Ngay khi đó, các loạt đạn từ bên trong bắn ra. Lại một bất ngờ nữa là tiếng súng từ trong xă bắn ra không phải là từ loại súng AK 47 của Cộng quân mà lại là tiếng súng M 16 và đại liên 30 của Quân lực VNCH. Vị tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 Dù cho lệnh các đại đội ngưng tấn công và bố trí chờ đợi. Vị tiểu đoàn trưởng gọi về Trung tâm Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh xin xác nhận lần chót về t́nh h́nh trước khi tiểu đoàn 9 Dù tấn công. Một sĩ quan có thẩm quyền của trung tâm hành quân quả quyết là xă Bảo Định đă bị Cộng quân chiếm trước đó vài ngày và yêu cầu tiểu đoàn 9 Dù thanh toán mục tiêu thật nhanh.

Khi tiểu đoàn Dù sắp tấn công th́ chuông nhà thờ Bảo Định kéo lên, một sĩ quan Địa phương quân chạy ra hô lớn là lực lượng trong xă không phải là Việt Cộng. Thế là lệnh tấn công được hủy bỏ, các đại đội Dù tiến hành cuộc lục soát quanh khu vực đề pḥng Cộng quân ẩn núp. Sau khi kiểm soát xă Bảo Định, các đơn vị Dù tiến nhanh về phía suối Gia Cốp, cũng nằm trong rừng cao su, gần vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ.

Lại thêm một bất ngờ là khi lực lượng Dù vừa rời khỏi xă Bảo Định khoảng 200 mét, khi đó trời đă tối, th́ “đụng đầu” một tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân. Trận tao ngộ chiến diễn ra hơn một giờ trong rừng cao su, những người lính Nhảy Dù với kinh nghiệm đánh đêm và cận chiến đă tiêu diệt gần trọn cả tiểu đoàn này. Theo tài liệu t́nh báo, tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân từ Định Quán được lệnh băng rừng di chuyển theo tỉnh lộ 332, bọc xuống phía nam Xuân Lộc để chiếm đóng xă Bảo Định, sau đó sẽ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị của sư đoàn có bí số CT6 đang tập trung tại đồn điền Xuân Lộc. Tuy nhiên vừa đến gần xă Bảo Định th́ tiểu đoàn Cộng quân đă bị Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù tiêu diệt.

 

15-4-197 Dầu Giây thất thủ :

 

*Pḥng tuyến Dầy Giây của Trung đoàn 52 Bộ binh bị tràn ngập

-Từ chiều 14/4/1975 đến sáng ngày 15/4/1975, Cộng quân đă mở các trận tấn cường tập vào tuyến pḥng thủ của Trung đoàn 52 Bộ binh từ Kiệm Tân về đến ấp Phan Bội Châu.

-Chiều ngày 15/4/1975, kịch chiến đă ra quyết liệt ngay tại xă Dầu Giây, ở ngă ba Quốc lộ 1 và 20, giữa lực lượng của lực lượng trú pḥng VNCH Bộ binh và 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng Pháo binh và Chiến xa yểm trợ cho Trung đoàn 52 Bộ binh và các đơn vị của trung đoàn này đă bị thiệt hại nặng.

-Trận chiến tại Dầu Giây đă diễn ra vô cùng khốc liệt khi Cộng quân mở các đợt pháo kích dồn dập vào công sự của lực lượng trú pḥng, tiếp đó là đợt tấn công cường tập. Đến tối, hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 52 Bộ binh bị bắn sập. Vị Trung đoàn trưởng cho lệnh rút quân.

-Tối ngày 15/4/1975, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh nhận được báo cáo tuyến pḥng tuyến ngă ba Dầu Giây do Trung đoàn 52 Bộ binh bị tràn ngập

 

16-4-1975:Tại pḥng tuyến Phan Rang :

 

* Lược ghi t́nh h́nh chiến sự tại pḥng tuyến Phan Rang

Như đă tŕnh bày, pḥng tuyến Phan Rang được tăng cường lực lượng với nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù và các toán thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Trước đó, vào ngày 4/4/1975, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập tại căn cứ Không quân Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, giữ chức Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3. Với hệ thống chỉ huy mới, lực lượng mới đến tăng cường, được sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân, t́nh h́nh an ninh, trật tự tại Ninh Thuận-B́nh Thuận được văn hồi nhanh chóng.

Trong tuần lễ đầu, chỉ có vài trận đụng độ nhỏ không đáng kể, chỉ có áp lực của sư đoàn 7 CSBV ở cạnh sườn Phan Thiết. Trong khi đó, tại Quân khu 3, áp lực của CQ đă gia tăng tại mặt trận Biên Ḥa-Long Khánh. Trước t́nh h́nh đó, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, quyết định rút Lữ đoàn 2 Nhảy Dù từ Phan Rang về để củng cố lực lượng trừ bị phản ứng cấp thời. Thay thế cho Lữ đoàn 2 Dù và tăng cường lực lượng pḥng thủ B́nh Thuận là thành phần c̣n lại của Sư đoàn 2 BB được tái chính trang sau khi rút khỏi Quân khu 1 vào hai tuần trước đó, một liên đoàn Biệt động quân cũng vừa được củng cố cách đó ba ngày và một chi đoàn M-113 thuộc Quân đoàn 2 mới được tái thành lập.

Theo tài liệu ghi trong hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên th́ lực lượng Sư đoàn 2 BB được tái thành lập với 2 trung đoàn BB, 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1 pháo đội 155 ly và chi đoàn M- 113. Việc chuyển quân ra thay thế vừa sắp hoàn tất th́ chiến trận bùng nổ. Ngày 14 tháng 4/1975, Sư đoàn F-10 CSBV được tăng cường bởi các đơn vị của Sư đoàn 3 CSBV tấn công vào cụm vị trí của Thiết giáp và Pháo binh. Trước t́nh thế nguy kịch, Trung tướng Nghi yêu cầu giữ lại một tiểu đoàn Nhảy Dù đang chuẩn bị rút về để đối phó.

 

* Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn thị sát mặt trận Phan Rang.

Ngày 15/4/1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng (nội các của Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn) đă bay ra Phan Rang để thị sát t́nh h́nh. Sau khi nghe Trung tướng tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, tŕnh bày về quân số, vũ khí và thực trạng chiến trường, Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn hứa là sẽ t́m mọi cách để cung cấp các loại vũ khí chiến lược như hỏa đạn CBU cho lực lượng bảo vệ pḥng tuyến Phan Rang. Sau khi về đến Sài G̣n, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn cho mời Thiếu tướng Smith, Tùy viên Quân sự ṭa đại sứ Mỹ, đến gặp ông tại văn pḥng Tổng trưởng Quốc pḥng VNCH ở đường Gia Long. Trong cuộc gặp này, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đă yêu cầu Thiếu tướng Smith cung cấp cho Bộ Quốc pḥng VNCH những loại vũ khí mà Quân lực VNCH đang cần đến, trong đó có hỏa đạn CBU, ống ḍm và máy truyền tin cho các đơn vị chiến đấu.

Trước yêu cầu của Bộ Quốc pḥng VNCH, Thiếu tướng Smith cho biết hiện trong kho vũ khí của Hoa Kỳ không c̣n những loại này. Tướng Smith hứa sẽ hỏi lại Bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, v́ vào thời gian này vũ khí và đạn dược đều nằm ở những tổng kho ngoài lănh thổ Việt Nam. Rời Bộ Quốc pḥng, Thiếu tướng Simth ghé qua Văn pḥng của Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông báo cho Đại tướng Viên biết qua về nội dung cuộc gặp gỡ của ông với Tổng trưởng Quốc pḥng VNCH. Thiếu tướng Smith nói với Đại tướng Viên: “Tôi được ông Tổng trưởng Quốc pḥng mời đến, tưởng ông bàn chuyện di tản gia đ́nh của ông, không ngờ ông bàn chuyện tiếp vận cho các đơn vị ngoài tiền tuyến. Lần đầu tiên, ông Tổng trưởng Quốc pḥng bàn với tôi vấn đề đó từ mấy tháng nay”.

 

 

* Ngày 16-4-1975: trận chiến cuối cùng tại pḥng tuyến Phan Rang

 

Trong khi Bộ Quốc pḥng VNCH đang t́m cách để cung cấp các vũ khí tối cần thiết cho các đơn vị tại chiến trường th́ tại mặt trận Phan Rang, ngày 16/4/1975, Cộng quân tung 2 sư đoàn tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xă. Pḥng thủ ṿng đai căn cứ Không quân là 1 tiểu đoàn Nhảy Dù và 1 tiểu đoàn Địa phương quân. Tiểu đoàn Nhảy Dùø này thuộc Lữ đoàn 2 Dù chuẩn bị về Sài G̣n theo kế hoạch chuyển quân của Bộ Tổng Tham mưu nhưng do t́nh h́nh chiến sự rất nguy ngập, nên Trung tướng Nghi đă xin giữ lại đơn vị này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù cũng c̣n ở lại Phan Rang khi Cộng quân tấn công vào thị xă này. Tại Trung tâm thị xă, lực lượng pḥng thủ là một trung đoàn của Sư đoàn 2 BB và một tiểu đoàn Địa phương quân thuộc tiểu khu Ninh Thuận.

Hệ thống bảo vệ từ xa của pḥng tuyến Phan Rang do một liên đoàn Biệt động quân, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1 chi đoàn M 113 phụ trách, đă bị Cộng quân tấn công từ ngày 14 tháng 4/1975. Để dọn đường cho bộ binh tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xă, Cộng quân đă pháo liên tục vào các vị trí pḥng ngự ṿng quanh căn cứ Không quân, đồng thời bắn phá dồn dập vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo để không cho phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không quân cất cánh. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công mạnh vào thị xă bằng ba hướng. Lúc bấy giờ đại đa số cư dân Phan Rang đă di tản vào Nam, thị xă chỉ c̣n lại quân nhân, cảnh sát và một số công chức. Lực lượng pḥng thủ thị xă chống trả quyết liệt, nhưng do Cộng quân quá đông nên lần lượt các tuyến pḥng thủ trung tâm đều bị chiếm. Cùng lúc đó, Cộng quân tung một trung đoàn cắt đứt đường giao thông trên Quốc lộ 1 ở khu vực Cà Ná cách thị xă Phan Rang khoảng 48 km về hướng Tây Nam cốt để chặn đường rút quân của các đơn vị VNCH.

 

* Ngày 16-4-1975: Phan Rang thất thủ

 

Không c̣n lực lượng trừ bị để tăng viện cho các tuyến pḥng thủ, trong khi đó căn cứ Không quân bị tấn công dữ dội, nên sáng ngày 16 tháng 4/1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 kiêm Tư lệnh mặt trận Phan Rang, họp khẩn cấp với Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, sư đoàn đang phụ trách căn cứ Không quân Phan Rang, và Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, để bàn kế hoạch rút quân. Giải pháp mà các vị tướng chọn lựa là phân tán và rút theo cá nhân.

T́nh h́nh tại bộ Tư lệnh của Tướng Nghi vào lúc đó rất nguy kịch, do hệ thống truyền tin bị trúng đạn pháo kích của Cộng quân, nên Bộ Tư lệnh tiền phương Quân đoàn 3 ở Phan Rang đă không c̣n liên lạc được với Bộ Tư lệnh chính của Quân đoàn 3/Quân khu 3 đóng tại Biên Ḥa, cũng như Bộ Tổng tham mưu ở Sài G̣n. Đến trưa ngày 16/4/1975, thị xă Phan Rang bị Cộng quân chiếm.

Tại Bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến ṿng đai phi trường, Trung tướng Nghi và Chuẩn tướng Sang cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú pḥng tùy nghi phân tán. Riêng Chuẩn tướng Nhựt được trực thăng (dành riêng cho Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh) đáp xuống ngoài hàng rào phi trường Phan Rang bốc đưa ra biển. Trực thăng chở Tướng Nhựt gặp tàu Hải quân. Tướng Trần Văn Nhựt kể lại rằng từ trực thăng ông nhảy xuống biển và được chiến hạm HQ 3 vớt lên. Từ HQ3, Tướng Nhựt dùng máy truyền tin của Hải quân báo cáo về Sài G̣n là Phan Rang đă thất thủ.

Trở lại với t́nh h́nh tại căn cứ Không quân Phan Rang, sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh trại và hệ thống công sự pḥng thủ trong căn cứ, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trong t́nh h́nh nguy kịch, Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đă mở đường máu ra khỏi phi trường và “bắt tay” Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù ở ngoài.

Sau đó, Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, đă liên lạc được với phi cơ quan sát, sĩ quan liên lạc của Sư đoàn Nhảy Dù trên phi cơ yêu cầu Đại tá Lương t́m băi đáp để 25 trực thăng sẽ hạ cánh bốc quân đi. Vị lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù tŕnh với Trung tướng Nghi đưa bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn và Sư đoàn 6 Không quân di chuyển đến băi trống phía trái phi trường để lên chuyến trực thăng đầu, c̣n toàn bộ anh em Nhảy Dù sẽ di chuyển bộ đi về hướng núi Cà Núi để gặp một số đại đội Nhảy Dù bố pḥng tại đây.

Theo tài liệu của cựu thiếu tá Nhảy Dù Trương Dưỡng, th́ Trung tướng Nghi đă từ chối kế hoạch bảo vệ sự an toàn cho ông và các sĩ quan tham mưu của Quân đoàn tiền phương, ông nói với Đại tá Lương: “Báo cho đoàn trực thăng trở về túc trực, sáng mai sẽ tính. Bây giờ chúng ta tiếp tục di chuyển về Cá Ná lập pḥng tuyến chận địch tại đó”. Nghe Trung tướng Nghi nói như vậy, Đại tá Lương đành cho lệnh bố trí chờ đêm tối băng đường ra khỏi ṿng vây của Cộng quân. Về phần Trung tướng Nghi và Chuẩn tướng Sang, do từ chối kế hoạch đầy t́nh huynh đệ chi binh của Đại tá Lương, nên bị kẹt lại và cuối cùng đă bị CQ bắt.

 

16-4-1975 Phan Rang thất thủ :

 

*Cộng quân tấn công căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị xă

Ngày16/4/1975, Cộng quân đă mở cuộc tấn công cường tập vào vị trí pḥng ngự của lực lượng Dù và Địa phương quân ṿng quanh căn cứ Không quân, đồng thời pháo kích vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công mạnh vào thị xă Phan Rang.

-Trưa ngày 16/4/1975, thị xă Phan Rang nằm trong tay Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh mặt trận Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua quân tiến sát đến ṿng đai phi trường, Trung tướng Nghi, Tư lệnh Tiền Phương Quân đoàn 3, và Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, cho lệnh các sĩ quan và đơn vị trú pḥng tùy nghi phân tán.

-Sau hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi trường, doanh trại và hệ thống công sự pḥng thủ, Cộng quân cho bộ binh và thiết giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Sang đă bị Cộng quân bắt sau đó.

 

17-4-1975 Mặt trân Xuân Lộc :

 

* CQ tấn công vào phía Nam thị xă Xuân Lộc

Trong ngày 17 tháng 4/1975, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 3, 6, 7 Cộng quân tiếp tục mở các đợt tấn kích vào pḥng tuyến phía Nam thị xă Xuân Lộc do 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù án ngữ. Những pha cận chiến giữa chiến binh Nhảy Dù và CQ đă diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của khu vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không quân đă thực hiện nhiều phi tuần F-5 và A-37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một trung đoàn Cộng quân trong khu vườn này.

 

* Pḥng tuyến B́nh Thuận

Tại pḥng tuyến Ninh Thuận-B́nh Thuận, sau khi CQ chiếm Phan Rang, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 Tiền phương và Sư đoàn 6 Không quân đă hoàn toàn tê liệt sau khi Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Sang bị bắt. Theo lệnh của tân Tổng trưởng Quốc pḥng VNCH Trần Văn Đôn, Quân đoàn 3 lập tuyến pḥng thủ tại Phan Thiết. Chỉ huy mặt trận Phan Thiết là Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh từ Phan Rang rút về. Lực lượng pḥng thủ thị xă Phan Thiết do Ttrung đoàn 6 của Sư đoàn 2 BB và lực lượng Địa phương quân của Tiểu khu B́nh Thuận phụ trách.

 

18-4-1975 Mặt trận Phan Thiết:

 

* T́nh h́nh Phan Thiết ngày 18-4-1975

Sau khi tỉnh Ninh Thuận thất thủ, tỉnh B́nh Thuận trở thành pḥng tuyến cuối cùng của VNCH tại miền Trung. Biết trước Cộng quân sẽ tấn công chiếm Phan Thiết, lực lượng VNCH đă bố pḥng tại các ngă ba và ngỏ vào thị xă. Ngoài các đơn vị Địa phương quân của Tiểu Khu, lực lượng pḥng thủ Phan Thiết c̣n có Trung đoàn 6 Bộ binh thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh.

Sáng ngày 18-4-75, t́nh h́nh Phan Thiết trở nên hỗn loạn, mặc dù Cộng quân c̣n ở xa ṿng đai tuyến pḥng thủ tỉnh lỵ. Tối 18/4/1975, sau khi bộ chỉ huy nhẹ của Tiểu khu B́nh Thuận rút khỏi lầu ông Hoàng để về bờ biển Phan Thiết, các đơn vị của Trung đoàn 6 Bộ binh, lực lượng Thiết giáp, Địa phương quân cũng lần lượt rút quân. Theo ghi nhận của Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, th́ trong t́nh h́nh Phan Thiết bất ổn, ông đă dặn riêng Trung tá Tôn Thất Hồ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 6 Bộ binh, chuẩn bị các ghe đánh cá thuê của dân, khi cần th́ rút về Vũng Tàu.

-Vào 9 giờ đêm 18-4-1975, Cộng quân tràn vào thị xă Phan Thiết, chiếm Ṭa Hành Chánh của Tỉnh B́nh Thuận.

-Theo các tài liệu tổng hợp, phải đến rạng sáng ngày 19/4/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 mới nhận được tin chính thức là Phan Thiết thất thủ (một số tài liệu ghi là Phan Thiết thất thủ vào ngày 19/4/1975, nhưng theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên viết theo sự cung cấp tin tức của Chuẩn tướng Trần Đ́nh Thọ-trưởng pḥng 3 bộ Tổng tham mưu, và theo lời của một số sĩ quan có mặt tại Phan Thiết khi trận chiến xảy ra th́ tỉnh lỵ này thất thủ vào ngày 18/4/1975, đến ngày 19/4/1975 toàn tỉnh B́nh Thuận lọt vào tay Cộng quân).

 

19-4-1975 Trận chiến Định Quán :

 

* Kịch chiến tại pḥng tuyến Định Quán

-Tại mặt trận Long Khánh, sau khi pḥng tuyến Dầu Giây do Trung đoàn 52 Bộ binh pḥng ngự bị vỡ, Cộng quân chuyển mục tiêu tấn công sang khu vực Định quán do một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43 Bộ binh trấn giữ, đồng thời gia tăng áp lực tại pḥng tuyến của lực lượng VNCH tại núi Chứa Chan, Gia Rai. Cùng lúc đó, Cộng quân điều động 2 trung đoàn tấn công vào trung tâm thị xă Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.

Tại khu vực Định Quán, Cộng quân tung 1 trung đoàn tấn công ồ ạt vào tuyến pḥng ngự của 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 43 Bộ binh. Quân trú pḥng đă dũng cảm đánh trả nhiều đợt xung phong của địch quân. Sau những giờ tử chiến với Cộng quân, tuyến pḥng thủ Định Quán đă bị vỡ trong ngày 19/4/1975. Một số chiến binh của tiểu đoàn nói trên rút về được tuyến sau.

* T́nh h́nh chiến sự tại miền Nam ngày 19-4-1975

Tính đến ngày 19 tháng 4/1975, Cộng quân đă chiếm toàn lănh thổ Quân khu 1 và Quân khu 2.

Về lực lượng Lục quân của Quân Lực VNCH, c̣n 6 sư đoàn Bộ Binh đủ quân số và khả năng tham chiến: Sư đoàn 5, 7, 9, 18, 21, 25; 2 sư đoàn tổng trừ bị là Dù và Thủy Quân Lục chiến, 2 Lữ đoàn Thiết Kỵ (Lữ đoàn 3 và 4), gần 10 Liên đoàn Biệt động quân, hơn 30 tiểu đoàn Pháo binh của các sư đoàn và quân đoàn.

 

20-4-1975 Kịch chiến ở Xuân Lộc :

 

* Những trận đánh cuối cùng tại chiến trường Long Khánh

Tại chiến trường Long Khánh, rạng sáng ngày 20 tháng 4/1975, 2 trung đoàn Cộng quân từ hướng Đông Nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh và Bộ Chỉ huy Tiểu Khu Long Khánh. Cộng quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.

Tại pḥng tuyến sát tỉnh lỵ Long Khánh, một trận chiến khác diễn ra rất khốc liệt giữa Tiểu đoàn 9 Dù và một trung đoàn Cộng quân trong khu vườn cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ. Cộng quân đă xây dựng hệ thống pḥng ngự kiên cố trong khu vực này nên các đợt tấn công của Tiểu đoàn 9 Dù đă gặp rất nhiều khó khăn.

 

* Bộ tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 rút quân khỏi pḥng tuyến Xuân Lộc

Trong khi toàn mặt trận Xuân Lộc đang khốc liệt th́ 10 giờ sáng cùng ngày (20/4/1975), theo lệnh của Bộ tư lệnh Quân đoàn 3, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh, đă có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và Tiểu khu trưởng Long Khánh. Trong ṿng 1 giờ, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh phổ biến lệnh mới của Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 là toàn bộ lực lượng VNCH rút khỏi Xuân Lộc.

 

21-4-1975 TT Thiệu từ chức:

 

Trong khi cuộc rút quân của lực lượng VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc đang diễn ra trên liên tỉnh lộ 2, th́ tại Sài G̣n, vào sáng ngày 21/4/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia với sự tham dự của các nhân vật sau đây: Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang. Ngoài các thành viên kể trên, c̣n có Trung tướng Nguyễn Văn Toàn ( Tư lệnh Quân đoàn 3), Trung tướng Nguyễn Văn Minh (Tư lệnh Biệt khu Thủ đô), Thiếu tướng Nguyễn Khắc B́nh (Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia).

-Một ghi nhận đặc biệt là phiên họp không có mặt Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn, nhân vật đáng lư phải được thông báo và được mời dự. Theo lời của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn th́ Tổng thống Thiệu không mời ông v́ biết ông đă hai lần họp với các tướng lănh và nghi ngờ ông vận động buộc Tổng thống Thiệu phải từ chức. Theo hồi kư của Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc họp này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă thông báo quyết định từ chức và trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Giải thích cho sự ra đi của ḿnh, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói rằng Hoa Kỳ muốn ông từ chức và dù ông có bằng ḷng hay không th́ nhiều tướng lănh cũng muốn ông phải rút lui.

-19 giờ 30 ngày 21/4/1975, lễ bàn giao chức vụ Tổng Thống đă diễn ra tại Dinh Độc lập và được trực tiếp truyền h́nh. Trong khi đó tại nhiều pḥng tuyến thuộc Quân khu 3 chiến trận vẫn diễn ra giữa các đơn vị Quân lực VNCH và các sư đoàn Cộng quân.

 

22-4-1975 Pḥng tuyến Trảng bom .

 

Ngày 22/4/1975: Quân Đoàn 3 Lập Pḥng Tuyến Trảng Bom

*Diễn tiến cuộc triệt thối của Lực lượng VNCH khỏi Long Khánh

Sau hơn 10 ngày quyết chiến với 4 sư đoàn Cộng quân, vào ngày 20 tháng 4/1975, toàn bộ lực lượng VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc được lệnh rút khỏi chiến trườngnày để về Phước Tuy. Cuộc rút quân được diễn ra từ chiều ngày 20 tháng 4/1975, đến sáng ngày 22/4/1975, tất cả các đơn vị đă có mặt tại các vị trí mới do Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 phối trí.

Theo kế hoạch rút quân, lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc sẽ sử dụng liên tỉnh lộ 2 phía Nam Long Khánh, rút về Phước Tuy theo thứ tự: Sư đoàn 18 Bộ binh và các đơn vị trực thuộc. Bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh và các tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu này. Lữ đoàn 1 Dù và tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù.

Lộ tŕnh rút quân là các cánh quân sẽ xuất phát từ Tân Phong, Long Giao, theo Liên tỉnh lộ 2 về Phước Tuy. Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục giao chiến và đánh bật Cộng quân ra khỏi các vị trí trọng điểm trong thị xă và là lực lượng hậu đoạn sẽ rút đi sau cùng. Các đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng Địa phương quân rút đi ngay trong buổi chiều. Cánh quân của Sư đoàn 18 BB rút đi tương đối an toàn. C̣n cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh chỉ huy đă bị Cộng quân chận đánh. Gần tối 20/4/1975, khi Đại tá Phúc và bộ chỉ huy của ông đang di chuyển, một đơn vị Cộng quân từ trên một đồi cao sát với Liên tỉnh lộ 2, đă bắn nhiều loạt đạn B 40 và bích kích pháo xuống đoàn quân.

Là lực lượng đi đoạn hậu (rút quân sau cùng), các tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 Dù đă phải tử chiến với các trung đoạn Cộng quân trên đường lui binh. Do phải bảo mật cho cuộc rút quân, đồng thời để nghi binh, nên chỉ đến tối 20/4/1975, các tiểu đoàn Dù mới nhận được lệnh rời bỏ chiến tuyến. Tại khu vực Bảo Định, 7 giờ tối ngày 20/4/1975, trong khi lực lượng Dù đang giao tranh quyết liệt với Cộng quân th́ được lệnh rút quân. Các đơn vị phân thành 2 bộ phận: một bộ phận tiếp tục đánh chận Cộng quân cho bộ phận khác rút. Nói một cách khác, Lữ đoàn 1 Dù vừa đánh vừa tiến hành kế hoạch di chuyển quân về pḥng tuyến mới. Lộ tŕnh rút quân của Lữ đoàn Dù dài hơn 40 cây số đường rừng ven theo Liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Đức Thành, Long Lễ về Bà Rịa…

Trong cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc và khu vực phụ cận, các chiến sĩ Dù được lệnh mang theo tất cả cấp số đạn và lựu đạn, quân trang quân dụng. Nhưng có một điều đă làm xót xa các cấp chỉ huy và binh sĩ Dù, đó là những chiến sĩ Dù bị thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh rút quân đang chờ đợi tải thương. Với những người bị thương, nhưng c̣n tỉnh táo, c̣n có thể đi được th́ từng tổ binh sĩ 4 người sẽ thay nhau d́u đi, c̣n với những chiến binh Dù bị trọng thương th́ thật đau ḷng. Trong một t́nh thế bất khả kháng, tất cả những người lính Dù đều khóc khi phải cố nén đau thương từ biệt những đồng đội của ḿnh đang bị trọng thương ở các chiến hào.

Trước phút lên đường, nhiều người lính Nhảy Dù đă ̣a lên khóc lớn, ôm chầm lấy đồng đội, máu từ áo bạn thấm sang áo ḿnh, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ phải để bạn bè bị thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường… Họ sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội, vuốt từng đôi mắt sau khi các quân y sĩ, y tá quân y đă chích cho thương binh những mủi thuốc an thần. Nón sắt của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối trên ba lô, súng cá nhân để bên cạnh. Như một thước phim bi tráng trong các tác phẩm điện ảnh về đề tài chiến tranh, những người lính Dù đứng nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn quân lên đường.

Đến 9 giờ tối ngày 20 tháng 4/1975, các tiểu đoàn Dù ra đến Quốc lộ 1. Tại đây, đông đảo dân chúng của các khu Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo An đă đứng sẵn ở hai bên đường và xin đi theo các chiến sĩ Dù để di tản. Cuộc hành tŕnh gian khó bắt đầu…

*Những cảm tử quân trên đường rút quân

Theo kế hoạch rút quân, ngoại trừ Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù được di chuyển trên đường lộ với sự bảo vệ an ninh lộ tŕnh của đại đội Trinh sát Dù, các tiểu đoàn Dù đều phải băng rừng mở đường di chuyển. 4 giờ sáng ngày 21/4/1975, tại ấp Quí Cả, gần địa giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy, đoàn xe chở Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù và Đại đội Trinh Sát Dù bị 2 tiểu đoàn Cộng quân phục kích. Pháo đội C và một trung đội của đại đội Trinh Sát Dù bảo vệ pháo đội này đă bị tổn thất, đa số quân sĩ đều bị thương vong trước các đợt tấn công biển người của Cộng quân. Trên lộ tŕnh triệt thối, đại đội đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù đă đụng độ nặng với Cộng quân tại thung lũng Yarai, dưới chân núi Cam Tiên. Đại đội này đă bị những “chốt” của Cộng quân từ trên cao bắn xuống. Cuộc giao tranh kéo dài nhiều giờ. Để diệt các chốt của Cộng quân, các tốp cảm tử Dù được thành lập ngay tại trận địa với những quân nhân t́nh nguyên. Những cảm tử quân này mặc áo giáp, đeo súng phóng hỏa tiển cá nhân M 72, lựu đạn, ḅ đến các “chốt” Cộng quân ở trên núi cao. Có nhiều toán vừa ḅ lên núi, đă bị cả chục trái lựu đạn của địch từ trên cao ném xuống.

Họ phải lách thật nhanh, nằm xuống, trước khi lựu đạn địch quân nổ, hoặc chụp lấy và ném trả lại. Trong trường hợp bắn M-72 nếu không có kết quả, họ phải thay đổi ngay vị trí để tránh sự bắn trả của Cộng quân.

Có những người lính Dù đă làm cho mọi người khâm phục về sự dũng cảm phi thường của họ. Chiếc bunker cuối cùng của Cộng quân trên núi Cam Tiên vô cùng kiên cố. Đó là hầm chỉ huy của một đơn vị CSBV. Hai cảm tư quân Dù đă bắn M72 vào bunker này nhưng vẫn không hạ được mục tiêu. Một đồng đội của họ từ lưng chừng núi đứng lên, để M 72 trên vai, bắn thẳng vào mục tiêu. Từng loạt đạn của Cộng quân bắn trả tới tấp. Nhưng người xạ thủ gan dạ này vẫn đứng thẳng không chịu cúi xuống tiếp tục bắn: chiếc bunker chỉ huy và các ổ súng nặng của Cộng quân bị hủy diệt. Thanh toán xong mục tiêu này, các đơn vị Dù tiếp tục cuộc hành tŕnh gian khó tiến về Bà Rịa. (Phần này biên soạn theo tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, 1 nhà báo quân đội, và lời kể của một số nhân chứng)

* Tái phối trí tại pḥng tuyến mới: Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy.

Ngày 22 tháng 4/1975, cuộc rút quân hoàn tất. Sư đoàn 18 Bộ binh sau khi về đến Long Lễ trong ngày 21/4/1975, đă được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 cho di chuyển nghỉ dưởng quân hai ngày tại Long B́nh, sau đó các trung đoàn và đơn vị thuộc dụng được điều động đi tăng cường pḥng thủ tuyến mặt Đông thủ đô Sài G̣n, kéo dài từ Tổng kho Long B́nh đến Kho đạn Thành Tuy Hạ, tiếp cận với lực lượng của các quân trường như Trường Bộ Binh, Trường Thiết Giáp;

Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ Quốc lộ 15 từ Long Thành về Bà Rịa, và là lực lượng tiếp ứng cứu Vũng Tàu khi thành phố này bị tấn công.

Với kế hoạch phối trí mới của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 để bảo vệ Sài G̣n, kể từ sáng 22/4/1975, pḥng tuyến án ngữ phía Bắc và phía Đông của Quân đoàn 3 và Quân khu 3 được thành h́nh với liên tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại pḥng tuyến này có Sư đoàn 18 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ (do Chuẩn tướng Trần Quang Khôi chỉ huy) và Lữ đoàn 468 Thủy quân Lục chiến. Trước đó, Lữ đoàn 147 và 258 Thủy quân lục chiến đă được tăng phái cho Quân đoàn 3 và là lực lượng bảo vệ phía Bắc của phi trường Biên Ḥa.

Về lực lượng pḥng thủ ṿng đai xa của Sài G̣n, tính đến ngày 22 tháng 4/1975, có 3 sư đoàn Bộ binh: Sư đoàn 18 BB do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy; Sư đoàn 25 Bộ binh do Tướng Lư Ṭng Bá chỉ huy, phụ tại pḥng tuyến Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An; Sư đoàn 5 Bộ binh do Tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, phụ trách pḥng tuyến B́nh Dương.

 

22-4-1975 Trận chiến Tây Ninh :

 

* T́nh h́nh tại Tây Ninh

-Sau khi lực lượng VNCH rút khỏi Xuân Lộc, An Lộc và Chơn Thành, áp lực của Cộng quân gia tăng đáng kể từ nhiều hướng nhắm vào Sài G̣n. Quốc lộ 22 nối Củ Chi và Tây Ninh bị Cộng quân chốt nhiều đoạn. Các đoàn quân xa chở tiếp phẩm lên Tây Ninh thường xuyên bị phục kích. Cùng với các hoạt động trên quốc lộ và tỉnh lộ, trong ngày 22/4/1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của Lực lượng VNCH trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

*Cộng quân gia tăng áp ṿng đai Sài G̣n.

-Tại các tỉnh B́nh Dương, Biên Ḥa,Cộng quân gia tăng các đợt pháo kích bằng hỏa tiễn và đại bác 130mm. Các tin tức t́nh báo cho biết Cộng quân đang siết chặt ṿng vây quanh Sài G̣n bằng nhiều mũi dùi, mỗi mũi là một quân đoàn có từ 2 đến 3 sư đoàn bộ binh có thiết giáp và pháo binh yểm trợ.

-Cũng trong ngày 22/4/1975, lực lượng VNCH tại Long Khánh đă hoàn tất cuộc triệt thoái, rút về bảo vệ ṿng đai Sài G̣n và Biên Ḥa.

 

23-4-1975 Dàn xếp t́nh h́nh VNCH :

 

* Cuộc họp tại Bộ Tổng Tham Mưu

Để ổn định t́nh thế, 6 giờ chiều ngày 23/4/1975, với chức danh là Tổng trưởng Quốc pḥng, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đă họp các tướng lĩnh tại văn pḥng Tổng tham mưu trưởng. Tại buổi họp này, cựu Tướng Đôn nói “Dù có thương thuyết để đ́nh chiến, chúng ta cũng cố giữ những ǵ chúng ta có”. Vị Tổng trưởng Quốc pḥng yêu cầu Đại tướng Viên, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân khu 3 sắp xếp lại tuyến pḥng thủ để bảo vệ Sài G̣n và đoạn đường từ Sài G̣n.Cũng tại cuộc họp này, Đại tướng Viên đă báo cáo t́nh h́nh chiến sự và khả năng pḥng ngự của Quân lực VNCH tại khu vực ṿng đai thủ đô Sài G̣n và khu vực các tỉnh lân cận. Tướng Viên cho biết lực lượng Cộng quanh chung quanh Sài G̣n và Biên Ḥa đă lên đến 15 sư đoàn, trong đó có 1 sư đoàn pháo binh, nhiều lữ đoàn thiết giáp và các đơn vị pḥng không sử dụng hỏa tiển SAM.

* Các cuộc dàn xếp về nhân sự lănh đạo VNCH trong những ngày cuối của cuộc chiến

Cùng với những diễn biến dồn dập về quân sự, những dị biệt và bất đồng về vấn đề nhân sự lănh đạo miền Nam cũng đang được các nhà hoạt động chính trị bàn thảo ráo riết, trong đó có cả sự tham dự “nhiệt t́nh” của Đại sứ quán Pháp.

Theo hồi kư của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức, Ṭa Đại sứ Pháp đă nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đă gặp cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng của nội các do ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ tướng. Nhà ngoại giao này đă cho Phó Thủ tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh thêm: “Nếu có thương thuyết th́ Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Minh cần sự hợp của Tướng Đôn.

Trước khi ra về, ông Brochard hỏi Phó Thủ tướng Trần Văn Đôn: Ông Minh có thể gọi điện thoại cho ông được không? Tướng Đôn gật đầu. Mười phút sau, ông Dương Văn Minh gọi điện thoại cho Tướng Đôn và xin một cuộc hẹn. Mười giờ tối ngày 22/4/1998, Tướng Đôn gặp ông Minh. Tướng Đôn hỏi ông Minh:

- Anh có thể thương thuyết với bên kia được không?

- Được, nhưng phải thật lẹ, nếu không chúng ta không có hy vọng.

Tướng Đôn cho rằng ông Minh biết Cộng sản Hà Nội đang chờ ông nắm quyền rồi sẽ thương thuyết. Ông Minh chưa tiếp xúc với Tổng thống Trần Văn Hương v́ vị tân Tổng thống không thích ông Minh. Theo Tướng Đôn, việc này rất bất lợi nhất là sau khi VNCH bỏ Xuân Lộc. Ông Minh đề nghị Tướng Đôn đi gặp Đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương. Rời nhà ông Minh, ngay trong đêm 22/4/1975, Tướng Trần Văn Đôn đă đến nhà đại sứ Mỹ Martin dù đă gần 12 giờ khuya. Tướng Đôn kể lại khi ông vừa ngồi xuống trong pḥng khách th́ sĩ quan tùy viên của Đại sứ Hoa Kỳ đến nói nhỏ bên tai ông Martin. Vị đại sứ xin lỗi Tướng Đôn, bước vào pḥng riêng, khi trở ra ông nói: Có một phi cơ xin phép đáp xuống phi trường Manila, v́ bên đó Luật Tân nghi trên phi cơ có Tổng thống Thiệu nên họ điện thoại hỏi thử có đúng không. Hỏi lại th́ biết Tổng thống Thiệu c̣n ở trong Dinh Độc Lập.

Cựu Tướng Đôn xin lỗi ông Martin v́ t́nh h́nh bắt buộc nên phải đến gặp vị đại sứ Hoa Kỳ trong giờ khuya. Sau đó, Tướng Đôn trao đổi với ông Marin về ư kiến của ông Dương Văn Minh và yêu cầu Đại sứ Martin đề nghị Tổng thống Trần Văn Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương thuyết với CSBV. Ông Martin hứa với Tướng Đôn là sẽ cố thuyết phục Tổng thống Hương. Bấy giờ là 1 giờ sáng ngày 23/4/1975…

Cũng theo tài liệu của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, để t́m một giải pháp ổn định trước những biến động thời cuộc, ngày 23 tháng 4/1975, một một số tướng lănh và sĩ quan cao cấp do Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu, lúc bấy giờ đang giữ chức Tổng cục trưởng Quân Huấn; Trung tướng Vĩnh Lộc, nguyên Chỉ huy trưởng trường Cao Đẳng Quốc Pḥng, hướng dẫn, đă đến tư dinh của Tướng Trần Văn Đôn. Phái đoàn này đề nghị Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc pḥng chỉ định người thay thế Đại tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng tham mưu trưởng v́ theo các vị này, Đại tướng Viên không c̣n thiết tha với quân đội nữa.

Trước đề nghị của một số tướng lănh, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn nói: “T́nh thế sắp thay đổi, tôi không cần chỉ định ai, tự nhiên cũng có người thay thế.” Khi đó, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị đề nghị: “Thôi Trung tướng làm Tổng trưởng Quốc pḥng kiêm luôn Tổng Tham Mưu trưởng đi.” Cựu Trung tướng Đôn từ chối và nói: “Tôi đă về hưu lâu rồi, lâu nay không c̣n mặc quân phục nữa, nhưng nếu cần tôi cũng có thể đảm nhận vai tṛ Tổng Tham mưu trưởng lúc khó khăn này. Nhưng tôi thấy t́nh thế biến chuyển quá mau, chưa biết nó sẽ đi tới đâu.” Tướng Trần Văn Đôn hỏi lại Trung tướng Trị: “Vậy th́ ai có thể thay thế Đại tướng Viên?” Trung tướng Trị trả lời: “Trung tướng Nguyễn Đức Thắng, gần hai năm nay ông ấy không có làm việc.”

Theo lời cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi kư th́ ông biết rơ khả năng của Trung tướng Thắng và đă gợi ư nhưng Tướng Thắng đă từ chối. Tướng Thắng xuất thân khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định-Thủ Đức năm 1952, là một trong bốn tiểu đoàn trưởng đầu tiên của binh chủng Pháo binh VNCH. Từ 1960-1969, ông đă giữ nhiều chức vụ quan trọng: đầu năm 1961, khi c̣n ở cấp trung tá, ông đă được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh và chỉ 1 tháng sau, được thăng cấp đại tá. Tháng 10/1961, ông bàn giao chức vụ nói trên cho Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1967 là Tổng Thống VNCH) và về làm Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh, cuối năm 1962, ông được điều động về Bộ Tổng Tham mưu, phụ trách về kế hoạch hành quân; được thăng Chuẩn tướng vào tháng 8 năm 1964, thăng Thiếu tướng tháng 11/1965 và giữ chức Tổng trưởng bộ Xây dựng Nông thôn trong nội các của Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ (từ 1965-1967), Tổng Tham mưu phó đặc trách Địa phương quân-Nghĩa quân (tháng 9 năm 1967); cuối tháng 1/1968 được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 4 & Quân khu 4 (năm 1968), thăng trung tướng vào tháng 5/1968, một tháng sau ông xin thôi giữ chức tư lệnh Quân đoàn, trở lại Bộ Tổng tham mưu giữ chức phụ tá Kế hoạch của Tổng Tham mưu trưởng (1969 đến 1972); năm 1973, ông xin nghỉ dài hạn không lương 5 năm để hoàn tất chương tŕnh cử nhân và cao học toán (trước đó ông đă thi đổ một số chứng chỉ Toán của đại học Khoa học với hạng ưu).

Tại cuộc gặp gỡ nói trên, một số tướng lănh c̣n đề nghị với cựu Tướng Đôn là nên bắt tất cả những người Mỹ c̣n lại làm con tin để Mỹ tiếp tục viện trợ giữ miền Nam. Tướng Đôn trả lời với phái đoàn là chuyện đó đă có tin đồn rồi, thế nào Mỹ cũng biết và có kế hoạch đối phó. Lực lượng Thủy quân Lục chiến Mỹ đang chờ ở ngoài khơi sẽ đổ bộ với lực lượng hùng hậu, chừng đó, theo Tướng Đôn sẽ có đổ máu và t́nh thế sẽ rối rắm nguy ngập hơn nữa. Cựu Tướng Đôn cũng phân tích là hơn một ngàn người Mỹ c̣n lại ở Việt Nam muốn cùng với Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa để cùng chiến đấu đồng thời thúc đẩy, xoay chuyển dư luận Mỹ yểm trợ cho miền Nam. Cuối cùng cựu Trung tướng Trần Văn Đôn khuyên mọi người là cần phân biệt chính quyền Mỹ và những người Mỹ ở Sài G̣n. Ông nói rằng chính quyền Mỹ ở Sài G̣n chỉ có ông đại sứ đại diện mà thôi, bỏ rơi Việt Nam là chính phủ Mỹ và Quốc hội Mỹ, chứ không phải là những người Mỹ đang ở Sài G̣n, nếu bắt một số người Mỹ ở Sài G̣n làm con tin th́ tội nghiệp cho họ và chẳng có ích lợi ǵ.

 

23-4-1975 Thủ tướng Cần từ chức :

 

* Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn từ chức

-Sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/19975, và sau cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không c̣n thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, ông muốn từ chức và ra khỏi quân đội. Trong khi đó, tân Tổng thống Trần Văn Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Viên làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà tướng Viên đă nắm giữ từ tháng 10/1965.

-Trong khi chưa t́m ra một người để giao trọng trách tổng chỉ huy Quân đội VNCH trong giai đoạn cam go nhất của lịch sử th́ ngày 23 tháng 4/1975, nội các do ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ tướng nộp đơn lên Tổng thống Trần Văn Hương xin từ chức. Tổng thống Trần Văn Hương đă yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn và các thành viên của nội các tiếp tục xử lư thường vụ cho đến khi có nội các mới được thành lập.

 

25-4-1975 Trận chiến B́nh Dương :

 

* Giao tranh ở pḥng tuyến B́nh Dương

Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân gia tăng áp lực tại Phú Giáo, Tân Uyên nằm về phía Đông Nam tỉnh B́nh Dương. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân tại đây đă bị các trung đoàn Cộng quân của khu Miền Đông tấn công liên tục, cuối cùng phải rời bỏ pḥng tuyến.

Tại Bến Sắn, Cộng quân điều động Sư đoàn có bí số CT-7 và 2 trung đoàn cơ động áp sát tuyến pḥng thủ của Sư đoàn 5 Bộ binh. Cộng quân muốn chọc thủng mặt Đông của tỉnh B́nh Dương và mặt Tây của tỉnh Biên Ḥa để tiến về Sài G̣n.

* Tuyến pḥng thủ Long An

Tại mặt trận Long An, Sư đoàn 22 Bộ binh, vừa được tái tổ chức sau khi từ B́nh Định rút vào Nam, được giao nhiệm vụ pḥng thủ ṿng đai thị xă Long An và khu vực từ Tân An về Sài G̣n. Các đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh được đặt thuộc quyền điều động của Biệt khu Thủ đô do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm tư lệnh. Trước tháng 4/1975, chiến trường Long An do Quân đoàn 3 và Quân khu 3 trách nhiệm và Biệt khu Thủ đô (gồm Sài G̣n và tỉnh Gia Định) chịu sự chỉ huy tổng quát của Bộ Tư lệnh Quân khu 3. Từ tháng 4/1975, Biệt khu Thủ đô chịu trách nhiệm cả Long An.

 

26-4-1975 Kịch chiến ở Bà Rịa :

 

* CQ tấn công thị xă Bà Rịa

-Vào 6 giờ chiều ngày 26/4/1975, mặt trận Phước Tuy bắt đầu sôi động trở lại. Cộng quân pháo kích vào thị xă Bà Rịa, bộ chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh tỉnh trưởng, Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp. Trận mưa pháo kích kéo dài 3 tiếng. Toàn bộ hệ thống điện trong thị xă Bà Rịa đều bị hư hại. Khoảng 10 giờ đêm, Cộng quân tổ chức tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp CSBV phối hợp đánh vào trung tâm tiếp vận tiểu khu và tư dinh tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía Nam thị xă Bà Rịa.

-Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 BB kiêm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa điều động 1 tiểu đoàn Dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Cộng quân ra khỏi trung tâm thị xă. Tiểu đoàn Dù đă bắn cháy 5 chiến xa Cộng quân ngay trong đêm 26/4/1975.

* CQ tấn công Long Thành

-Tại Long Thành, tối 26 tháng 4/1975, Cộng quân tấn công vào trường Thiết Giáp, chiếm quận lỵ Long Thành và cắt đứt Quốc lộ 15 nối liền Vũng Tàu và Sài G̣n. Cũng trong ngày 26 tháng 4/1975, một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đánh chiếm cầu xe lửa về hướng Tây Nam thành phố Biên Ḥa trong khi đại bác của các đơn vị pháo binh Cộng quân bắn phá vào căn cứ Không quân Biên Ḥa.

 

27-4-1975 Bầu tân Tổng Thống :

 

*Quốc hội VNCH họp khẩn xét 2 đề nghị của Tổng thống VNCH Trần Văn Hương về chức vụ Tổng Thống và Thủ tướng VNCH

Sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương đă mở cuộc họp đặc biệt tại tư dinh với thành phần tham dự gồm các ông: Trần Văn Linh, Chủ tịch Tối cao Pháp viện; Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng viện; Phạm Văn Út, Chủ tịch Hạ Viện ; cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng (Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đă từ chức từ 23-4-1975), và 1 phụ tá Tư pháp của Tổng thống. Tại cuộc họp này, Tổng thống Trần Văn Hương nhắc lại 2 biện pháp mà ông đă đề nghị trong phiên họp với Quốc hội ngày 26/4/1975:

Thứ 1: Giao cho Tổng thống đương nhiệm toàn quyền chỉ định 1 Thủ tướng toàn quyền.

Thứ 2: Bầu ông Dương Văn Minh làm Tổng thống.

Theo lời kể của Cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng, trong phiên họp sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương tŕnh bày diễn tiến cuộc họp riêng với ông Dương Văn Minh, và cho biết “ông có mời ông Minh làm Thủ tướng toàn quyền nhưng ông Minh không nhận, mà yêu cầu ông phải từ chức, giao chức vụ Tổng thống cho ông Minh để ông Minh có toàn quyền nói chuyện với Việt Cộng”.

Chiều ngày 27 tháng 4/1975, Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều Tướng lănh trong Bộ Tổng Tham mưu và vị Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đến tham dự cuộc họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội. Phái đoàn của Tổng trưởng Quốc pḥng đến trước, và khoảng 7 giờ 30 phút tối ngày này th́ có 138 nghị sĩ, dân biểu hiện diện. Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn tóm tắt t́nh h́nh quân sự: Sài G̣n đang bị bao vây bởi 15 sư đoàn CSBV đặt dưới quyền của ba quân đoàn CSBV. Quốc lộ Sài G̣n-Vũng Tàu bị cắt đứt và CQ đang tiến về Long B́nh. Đến 8 giờ 20 ngày 27 tháng 4/1975, Đại hội đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu (136 thuận-2 chống) chấp thuận trao chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh.

* Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Trần Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn Minh.

Như đă tŕnh bày, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức vào ngày 21/4/1975, Ṭa Đại sứ Pháp đă nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đă gặp Tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc pḥng. Ông Brochand đă cho Tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh rằng “Nếu có thương thuyết th́ Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Dương Văn Minh cần sự hợp của Tướng Trần Văn Đôn.

Theo sự sắp xếp trung gian của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1975, cựu Đại tướng Dương Văn Minh đă đến gặp Tổng Thống Trần Văn Hương tại tư dinh của Đại tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham mưu. Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Trung tướng Đôn cũng đến nhà Đại tướng Khiêm để t́m hiểu t́nh h́nh, ông đă gặp bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ tướng và Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của nội các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lư thường vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này, các nhân vật trên đă nói là cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh đă thất bại v́ ông Minh từ chối ghế “Thủ tướng toàn quyền”.

Trước t́nh h́nh như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị cựu Trung tướng Đôn nên nhận chức vụ thủ tướng để thương thuyết. Cựu Tướng Đôn đă kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông Brochand là Pháp đă liên lạc với CS Hà Nội và phía CS chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi. Sau đó cựu Trung tướng Đôn đến thẳng Ṭa Đại sứ Pháp. Các viên chức cao cấp sứ quán này lặp lại ư kiến trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến ngày Chủ nhật 27/4/1975, nếu không tiến triển ǵ th́ CQ sẽ pháo kích vào Sài G̣n. Theo lời kể của cựu Trung tướng Đôn, sau khi nghe tin này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của Cộng quân bắn bừa băi, nên ông hứa sẽ cố gắng dàn xếp để t́m một giải pháp tạm thời. Chiều hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho cựu Tướng Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định ông Nguyễn Ngọc Huy làm Thủ tướng. Theo Đại tướng Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để nên khó có thể ḥa giải được. Cựu Trung tướng Đôn điện thoại báo cho cựu Đại tướng Minh, ông Minh mời cựu Trung tướng Đôn lại nhà để bàn tính t́m một giải pháp.

Lúc 5 giờ 45 ngày 24/4/1975, cựu Trung tướng Đôn vào Dinh Độc Lập th́ gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với ông Nguyễn Xuân Phong, Quốc vụ khanh đặc trách ḥa đàm, từ Pháp mới về. Vừa lúc đó, Đại sứ Martin từ trong văn pḥng Tổng Thống Trần Văn Hương đi ra. Cựu Trung tướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải Tổng Thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay không. Nhưng ông Martin đă trả lời là không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra báo cho cựu Trung tướng Đôn biết là ông Hương sẽ chỉ định ông Huy làm thủ tướng. Đến lượt ông Huy vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên vào tŕnh bày cho Tổng thống Hương t́nh h́nh quân sự: Cộng quân đang tiến sát ṿng đai Sài G̣n, vũ khí, quân dụng, đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút… Nghe xong phần tŕnh bày, Tổng Thống Hương nh́n Đại tướng Viên và nói: “Ông sẽ Tổng tư lệnh Quân đội”. Tổng Thống Hương nói tiếp rằng ông sẽ chia xẻ với số phận của anh em quân nhân trên các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng với anh em binh sĩ.

Trước khi rời Dinh Độc Lập, cựu Trung tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: “Cụ nghiên cứu lại, v́ bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi”. 8 giờ tối hôm đó, cựu Trung tướng Đôn trở lại nhà ông Dương Văn Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ quán Pháp. Cựu Tướng Đôn giải thích với ông Dương Văn Minh: “Ông Hương vừa mới lên mà yêu cầu ông từ chức th́ cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa c̣n Hiến pháp, c̣n Quốc hội.” Ư kiến của cựu Trung tướng Đôn chỉ có ông Huyền đồng ư, c̣n ông Minh và ông Mẫu th́ cho rằng ông Hương tŕ hoăn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận.

* TT Nguyễn Văn Thiệu gặp cựu Trung tướng Trần Văn Đôn lần cuối cùng

8 giờ sáng ngày 25 tháng 4/1975, cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho cựu Trung tướng Đôn ngỏ ư muốn gặp ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, cựu TT Nguyễn Văn Thiệu vẫn c̣n ở trong dinh này) để nhờ lấy giúp cho bạn của ông một giấy chiếu khán đi ngoại quốc. Khi cựu Trung tướng Đôn vào dinh Độc Lập, cựu Tổng Thống Thiệu cho biết là ông đă hiểu rơ diễn biến. Câu chuyện nửa chừng th́ cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho Tổng thống Hương và nói: “Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm Thủ tướng toàn quyền th́ cụ t́m một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Đôn”.

Để điện thoại xuống, cựu Tổng Thống Thiệu nói với ông Đôn: “Theo tôi, ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận trách nhiệm này. Tôi đă nghĩ đến ông từ năm 1973. Tôi đă biết ông từng tiếp xúc nhiều giới chức…Ông có uy tín trong giới chính trị và quân đội. Nhưng tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết tôi đă mời ông làm Thủ tướng từ năm 1973 rồi. Nhưng ngày nay th́ tôi đề nghị với ông Hương mời ông làm việc”.

Cựu Trung tướng Đôn hỏi lại cựu TT Thiệu: “Ông có nghĩ là bây giờ đă trễ không?” Ông Thiệu im lặng không đáp. Trước khi từ giă, cựu Trung tướng Đôn nh́n thẳng cựu TT Thiệu, rồi nói: “C̣n phần ông, chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ không muốn chuyện xảy ra như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông nhất là khi nghe có tân thủ tướng và chính phủ mới. Ông phải đi cho nhanh. Nếu tôi làm Thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đ̣i bắt ông và tôi làm theo.”

Từ biệt cựu TT Thiệu, cựu Trung tướng Đôn ghé nhiều nơi để trao đổi ư kiến với một số yếu nhân và sau đó trở về nhà. Đến nhà, cựu Trung tướng Đôn được biết cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho ông mấy lần và có để lại số điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại th́ cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giả với cựu Tướng Đôn: “Chúc anh thành công và cám ơn anh.” Cựu Tướng Đôn nhắc lại những ǵ đă nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và nói: “Ông đừng quên những ǵ tôi đă nói hồi sáng, nghĩa là ông phải ra đi.” Sau đó, cựu Tướng Đôn được báo là người Mỹ đă giúp cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cả gia đ́nh hai vị này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay đặc biệt đến Đài Bắc, Thủ đô Đài Loan.

 

28-4-1975 Tướng Minh nhận chức :

 

* Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh

Trong khi Cộng quân áp lực nặng quanh ṿng đai Thủ đô Sài G̣n, th́ một sự kiện trọng đại đă xảy ra trong ngày 28/4/1975: Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền nguyên thủ quốc gia cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều ngày 28 tháng 4/1975. Trong buổi lễ này, Quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không quân và Trung tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng thống Trần Văn Hương đă công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng tham mưu trưởng (theo nguyện vọng của Đại tướng Viên). Sau nghi lễ nhận chức, ông Dương Văn Minh đă giới thiệu ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.

*Tướng Trần Văn Đôn kể lại những biến cố, sự kiện trong ngày 28/4/1975

Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong Việt Nam Nhân Chứng, trong buổi lễ bàn giao, ông Dương Văn Minh đă “trầm tĩnh đọc bản tuyên bố đường lối của ḿnh là “sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách thương thuyết và ḥa giải với Mặt trận Giải phóng miền Nam”. Vào 6 giờ chiều, cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra cổng. Nhà của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh Độc Lập nên chỉ vài phút sau ông đă về đến nhà, lại nghe “tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Trên dinh Độc Lập. Nưả giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ máy bay nhỏ dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Không quân th́ được báo cáo có 3 phi cơ của Không quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và Việt Cộng đă sử dụng để bay vào Sài G̣n dội bom. Hai phản lực cơ F-5 của Không quân đă bay lên nghinh chiến đuổi 3 phi cơ này. (Tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên cho biết đó 3 phi cơ tham gia cuộc dội bom là phản lực cơ A-37 ).

Cũng theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, trước lễ bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH diễn ra vào buổi chiều 28/4/1975, th́ vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4, cựu Trung tướng Đôn đă đến văn pḥng Tổng tham mưu trưởng như thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo dơi t́nh h́nh quân sự. (Theo tài liệu ghi trong Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu , ông Cao Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng pḥng 4 Bộ Tổng Tham mưu).

Trong cuộc gặp nói trên, Tướng Viên nhắc với Tướng Đôn rằng Tổng thống Trần Văn Hương đă kư sắc lệnh cho ông nghỉ, do đó, ông yêu cầu Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc pḥng, cử người thay thế. Ngay lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh gọi cho Tướng Đôn, dặn ông cố gắng giữ Tướng Viên ở lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, đừng cho Tướng Viên đi.

Trước sự việc như thế, Tổng trưởng Quốc pḥng Trần Văn Đôn không biết xử sự làm sao v́ Tướng Viên đă được Tổng thống Trần Văn Hương cho nghỉ ( sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn Hương công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Tướng Đôn hỏi Tướng Viên:

-Nếu anh đi, th́ theo anh ai sẽ thay thế được ?

Tướng Viên không trả lời thẳng mà hỏi lại Tướng Đôn:

-Anh sẽ làm ǵ ?

Tướng Đôn trả lời:

-Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước ông Minh và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng trưởng Quốc pḥng nhưng tôi chưa trả lời, nay ông Minh cho tôi biết Hà Nội không muốn có người nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới.”

Về lại văn pḥng, Tướng Đôn nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đă kư cho phép Tướng Viên nghỉ dài hạn không lương, nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần Văn Hương đă kư trước khi bàn giao chức vụ Tổng thống.

*Chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào những ngày cuối tháng 4

Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, như đă tŕnh bày, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên không c̣n thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên làm Tổng tư lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu trưởng mà Đại tướng Viên đă nắm giữ từ tháng 10/1965. Thế nhưng, Đại tướng Cao Văn Viên đă tŕnh xin Tổng Thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống Trần Văn Hương không đồng ư và yêu cầu Đại tướng Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng Thống Trần Hương trao quyền cho ông Dương Văn Minh th́ Đại tướng Viên mới nhận được quyết định giải nhiệm. Kể lại chuyện này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi trong hồi kư như sau: “Trước khi Tổng Thống Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc lệnh giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu Đại tướng Dương Văn Minh) muốn chọn người thay thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn Khuyên, lúc ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận”.

*T́nh h́nh chiến sự trong ngày ông Dương Văn Minh nhận chức Tổng Thống

T́nh h́nh chiến sự trong ngày 28/4/1975 ghi nhận nhiều diễn biến dồn dập. Cộng quân đă tung thêm lực lượng áp sát ṿng đai SàiG̣n.Tại B́nh Dương, sau khi đă đưa một sư đoàn vào khu Đông Nam và tấn công vào các khu vực Phú Giáo, Tân Uyên, Cổ Mi, Cộng quân đă điều động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 CSBV tiến sát đến các tuyến pḥng tuyến do các trung đoàn 7, 8, 9 của Sư đoàn 5 Bộ binh. Trong các trận đánh tại B́nh Dương vào 10 ngày cuối của tháng 4/1975, nổi bật nhất là trận Bến Sắn giữa sư đoàn 5 Bộ binh và 1 sư đoàn chủ lực Quân đoàn 1 củaCộng quân. Cộng quân muốn chiếm Bến Sắn để từ đó chọc thủng mặt đông của tỉnh B́nh Dương và mặt tây của tỉnh Biên Ḥa nhưng đă bị sự kháng cự mănh liệt của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân bị tổn thất nặng.

Cũng trong ngày 28/4/1975, Căn cứ Không quân Biên Ḥa bị pháo kích dữ dội. Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, tất cả các phi cơ tại căn cứ này đều đă được dời qua phi trường Tân Sơn Nhất hay xuống phi trường Trà Nóc ở miền Tây. Sư đoàn 3 Không quân bắt đầu phá hủy những phương tiện c̣n lại trong căn cứ Biên Ḥa.

 

28-4-1975 Sư đ̣an 5 BB tử chiến :

 

*Sư đoàn 5 Bộ binh tử chiến tại B́nh Dương

-Ngày 28/4/1975, sau khi chận đứng được đợt tấn công tại khu đông tỉnh B́nh Dương, Sư đoàn 5 Bộ binh đă tử chiến để đối đầu với 2 sư đoàn Cộng quân từ hướng Chơn Thành-An Lộc. (Trước tháng 4/1975, pḥng tuyến chính ở An Lộc và Chơn Thành do 2 liên đoàn Biệt động quân, 2 tiểu đoàn Địa phương quân án ngữ. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, trước áp lực của Cộng quân, lực lượng Biệt động quân đă rút từ An Lộc về hợp cùng các đơn vị Địa phương quân, Nghĩa quân của Chơn Thành lập pḥng tuyến mới tại nam Chơn Thành và đă chống trả quyết liệt các đợt tấn công của địch quân muốn chọc thủng pḥng tuyến này).

* Trận chiến tại Vũng Tàu

-Tại pḥng tuyến Vũng Tàu, căn cứ Cát Lở và Trung tâm huấn luyện Chí Linh bị pháo kích. Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh kiêm Tư lệnh mặt trận Vũng Tàu, đă ra thông cáo thiết quân luật từ 19 giờ đến 6 giờ sáng.

*Cụ Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh

-Chiều ngày 28/4/1975, tại Dinh Độc Lập, cụ Trần Văn Hương trao quyền Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh theo quyết định của Quốc hội VNCH trong phiên họp chiều ngày 27/4/1975.

 

Thứ ba 29-4-1975

 

Vào lúc 4 giờ Sáng ngày 29, Cộng quân pháo kích nhiều trái đạn đại bác 130 ly và hoả tiễn 122 ly vào khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH và Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Bến Bạch Đằng. Cuộc pháo kích này đă gây nhiều tổn thất quan trọng tại phi trường Tân Sơn Nhứt: một chiếc C-130 của Không Lực Hoa Kỳ bị trúng đạn khi sắp sửa cất cánh, hai chiếc C-130 khác chở người ty nạn may mắn đă cất cánh trước đó chừng vài ba phút vâ hai binh sĩ Thủy Quân lục Chiến Hoa Kỳ, hạ sĩ Darwin Judge và bạ sĩ Cbarles McMahon, vừa mới được đưa đến Sài G̣n cách đó 10 ngày để phụ trách về an ninh cho chiến dịch di tản Mỹ kiều, bị tử thương trong ṿng đai pḥng thủ phi trường. Hai binh sĩ này là hai người Mỹ cuối cùng bị thiệt mạng trong lịch sử Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam trong hai thập niên.

Một điều đáng chú ư là dường như McMahon là một cái tên định mệnh: người Mỹ đầu tiên bị chết tại Việt Nam là Trung Tá Peter Dewey, nhân viên của cơ quan t́nh báo OSS, là một người Mỹ rất ủng hộ Việt Minh, ông ta đă nhiều lần lên tiếng phản đối người Pháp và tiếp xúc trực tiếp với các đại diện của Việt Minh, do đó đă bị người Pháp yêu cầu phải rời khỏi Sài G̣n. Vào ngày 26 tháng 9 năm 1945, Trung Tá Dewey phải trở về Ấn Độ, tuy nhiên v́ máy bay bị trục trặc, ông từ phi trường Tân Sơn Nhứt lái xe trở về Sài G̣n ăn trưa và đă bị tự vệ của Việt Minh tưởng lầm là người Pháp cho nên bắn chết tại cầu McMahon, lúc đó người Việt Nam gọi là cầu “Bạc Má Hồng,” sau này là cầu Công Lư. Đúng 30 năm sau th́ người Mỹ cuối cùng bị giết chết tại phi trường Tân Sơn Nhứt v́ đạn pháo kích của quân Cộng sản Bắc Việt vào rạng sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975 là một hạ sĩ quan Mỹ cũng mang tên là McMahon, cái tên mà người Việt ngày xưa đă gọi là ” bạc má hồng “.

Sau trận pháo kích này, kế hoạch di tản người Mỹ và người Việt ty nạn bằng phi cơ C-13O xem như là bị huỷ bỏ hoàn toàn v́ phi trường Tân Sơn Nhứt đă bị hư hại nặng nề.

Đến 10 giờ 3O sáng, Tướng Homer Smith, Tuỳ Viên Quân Lực tại Sài G̣n, gọi điện thoại cho ĐÔ Đốc Noel Gayler, Tổng Tư Lệnh Quân lực Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương tại Honolulu báo cáo rằng phi trường Tân Sơn Nhứt không c̣n ở trong t́nh trạng sử dụng được nữa. Tin này được tŕnh lên cho Bộ Trưởng Quốc Pḥng James Schlesinger đang tham dự phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội Các tại Bạch Cung và ông ta đă phúc tŕnh ngay cho Tổng Thống Ford.

Vào lúc 7 giờ sáng tại Washington tức là 7 giờ tối tại Sài G̣n, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia đă triệu tập một phiên họp khẩn cấp dưới quyền chủ toạ của Tổng Thống Gerald Ford với sự hiện diện của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, Bộ Trưởng Quốc Pḥng James Schlesinger, Đại

Tướng George Brown, Chủ Tịch Bộ Tham Mưu Liên Quân (Jcs) và ông William Colby, Tổng Giám Đốc Cơ Quan T́nh Báo CIA. Phiên họp đặc biệt này nhắm vào việc t́m giải pháp hữu hiệu để di tản những người Mỹ c̣n lại ở Sài G̣n. Ngoại trưởng Kissinger bác bỏ đề nghị sừ dụng khu trục cơ để hộ tống cho phi cơ vận tăi C-13O, ông nói rằng nên thận trọng không có những hành động tấn công gây hấn để gây hiểu lầm cho Hà Nội trong lúc này. Sau cùng th́ hội đồng chấp thuận đề nghị dung hoà của Đại Tướng George Brown, đó là thử dùng 7 phi cơ C-13O từ Phi Luật Tân và Thái Lan bay đến phi trường Tân Sơn Nhứt, nếu những phi cơ này c̣n đáp xuống được th́ chiến dịch di tản bằng phi cơ có cánh sẽ tiếp tục, tuy nhiên trong trường hợp phi đạo không c̣n sử dụng được th́ phải quay sang sử dụng kế hoạch cuối cùng, đó là kế hoạch “Frequent Wind: Option-IV”.

Đến 9 giờ 45 sáng, Tổng Thống Ford đă triệu tập một phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội các tại Bạch Cung. Mở đầu phiên họp, Tổng Thống Ford nói rằng “trong hai tuần lễ vừa qua, Hoa Kỳ đă gặp phải rất nhiều khó khăn. Tuy cho đến giờ này th́ việc di tản đang diễn ra một cách tốt đẹp nhưng chúng ta cũng vẫn chưa thoát ra đước những khó nhăn có thể xảy ra. Mục tiêu của chúng ta là ngăn không để cho hốn loạn xẩy ra tại Nam Việt Nam rồi sẽ gây ra nguy hiếm cho việc di tản của người Mỹ, ngăn chận những hoạt động của Bắc Việt và gữ cho t́nh h́nh đựơc ổn địnb nhằm hoàn tất cuộc di tản.

Ngoại trưởng Kissinger phúc tŕnh rằng cho đến giờ này (9 giờ 45 tối tại Sài G̣n), chỉ c̣n có khoảng tư 300 đến 400 người Mỹ c̣n đang hoạt động trong khuôn viên toà đại sứ Hoa Kỳ và trong hơn hai ngày qua, có bơn 4,650 người đă được di tản ra khỏi Sài G̣n, nâng tổng sổ người đựơc Hoa Kỳ di tản lên đến con số gần 45, 000 người, trong số này chỉ có từ 500 đến 60O là người Mỹ.

Bộ trưởng Quốc pḥng James Schlesinger báo cáo rằng c̣n có khoảng 700 người tại trụ sở của Văn Pḥng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhứt nhưng phi cơ vận tăi C 13O không thể đáp xuống được nữa, do đó phải di tản bằng trực thăng từ trên sân trhựơng của toà đại sứ. Ông cho biết thêm rằng vấn đề này cũng gặp phải khó khăn v́ chỉ có hai chiếc trực thăng có thể đáp xuống cùng một lúc và quân Bắc Việt đă bắn vào trực thăng di tản.

Ngoại Trưởng Kissinger nói rằng mặc dù Tổng thống Ford đă ra lệnh là chỉ di tản người việt Nam nếu các phi cơ vận tăi C-130 c̣n đáp xuống đựơc phi trường Tân Sơn Nhứt và trong trường hợp không c̣n sử dụng phi cơ C-130 nữa th́ chỉ di tản người Mỹ mà thôi, tuy nhiên tại Sài G̣n Đại Sứ Martin và thiếu Tướng Homer Smith đă quyết định vẫn tiếp tục di tản cả những người Việt Nam c̣n đang có mặt trong toà đại sứ Hoa Ky.

Tổng Thống Ford nhấn mạnh rằng ông muốn phải di tản ít nhất là tủ 43,OOO cho đến 45,000 người Việt Nam ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Bộ Trưởng Morton hỏi Tổng thống Ford: “những người Việt Nam đựơc di tản này sẽ đựợc đưa đi đâu và trong số này có bao nhiêu người là thuộc thành phần “chuyên nghiệp và có học” (white collar)?

Tổng thống Ford trả lời rằng Bộ ngoại Giao đang lo giải quyết vấn đề này và sẽ có 3 căn cứ quân sự tại Hoa Kỳ đang đựợc chuẩn bị để đón người tỵ nạn. Tổng thống Ford cũng cho biết rằng theo Ngoại trưởng Kissinger th́ một số các quốc gia khác đă đựơc Hoa Kỳ tiếp xúc để đón tiếp một số người ty nạn, tuy nhiên có lẽ Hoa Kỳ sẽ đón nhận 90 phần trăm số người này.

Ngoại trưởng Kissinger nói rằng cũng khó mà biết rơ được số người tỵ nạn có đủ tŕnh độ Nghề nghiệp” và “học vấn” là bao nhiêu tuy nhiên ông đoán chắc rằng có lẽ con số này cũng khá cao. Về đề nghị của Bộ Trưởng Norton dự định đưa một số khoảng 5,OOO người tị nạn Việt Nam sang Lănh Thổ Giám Hộ tại Thái b́nh Dương (Pacific trust Territories) của Hoa Kỳ, nơi đó có lẽ sẽ cần đến tài năng của những người ty nạn này th́ Ngoại Trưởng Kissinger nhận xét rằng “đó có vẻ là một ư kiến bay”.

Đó là những chi tiết về phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội Các Hoa Kỳ sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975 và Tổng Thống Ford tuyên bố bế mạc phiên họp vào lúc 10 giờ rưỡi sáng, tức là 10 giờ rưỡi tối tại .Sài G̣n, khoảng hơn 12 tiếng đồng hồ trước khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng” *194

Sáng ngày 29 tháng 4, ‘”thủ tướng” Vũ Văn Mẫu đă đọc đi đọc lại liên tục trên Đài Phát thanh Sài G̣n một bản thông cáo của tân Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ rút ra khỏi Việt Nam trong 24 tiếng đồng hồ. Bản thông cáo đó là Văn thư Số O33-TT/VT của Phủ Tổng Thống nguyên văn như sau:

 

Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà

Kính gởi: ông Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Thưa ông Đại Sư

Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại Sư vui ḷng chỉ thị cho nhân viên của Cơ Quan Tùy Viên Quân Sự DAO rời khỏi Việt Nam trong 24 tiếng đồng hồ kể từ ngày 29 4-1975 để vấn đề Hoà b́nh Việt Nam sớm được gỉai quyết.

Trân trọng kính chào ông Đại Sư

SAIGON, ngày 28 tháng 4 năm 1975

Kư tên và đóng dấu:

Việt Nam Cộng Hoà-Tổng Thống

Đại Tủớng Dương Văn Minh “

 

*194: “cabinet Meeting Minutes. April 29. 1975. Giải mật ngày 12 tháng 10 năm 1990. Tài liệu “Box 4, James E. Connor Files,” lưu trữ tại Thư

Viện Gerald Ford tại Grand Rapids, tiểu bang Michigan.

Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đă phúc đáp như sau:

 

Thưa Tổng Thống,

Tôi đă nhận được văn thư nói trên và tôi đă ra chỉ thị thi hành đúng như lởi yêu cầu của Tổng Thống.

Tôi tin rằng Tổng thống sẽ ra lệnh cho các lực lượng quân đội của chính phủ cộng tác trên mọi phương diện để giúp cho sự triệt thoái của các nhân viên Ṭa Tuỳ Viên Quân Lực được dễ dàng và trong an toàn.

Tôi cũng xin bày tỏ sự hy vọng rằng Tổng thống sẽ can thiệp với phía bên kia để họ có thể cho phép các nhân viên Toà Tuỳ viên Quân Lực Hoa Kỳ được ra đi trong sự an toàn và trật tự.

Xin chúc Tổng thống đươc mọi sự lành.

Grabam Martin

Đại sứ Hoa Kỳ “

 

Tổng thống“ Dương Văn Minh hân hoan đuổi được người Mỹ ra đi và hy vọng rằng sẽ có triển vọng để nói chuyện với “người anh em bên kia” của ông th́ vào lúc 10 giờ sáng ngày hôm đó, Lê Duẩn đă gửi một điện văn “gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tuấn, anb Tư, đồng điện anh Tấn” như sau:

 

Bộ Chính Trị và Quân Ủy đang họp th́ được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngưng bắn. Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị:

1-Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài G̣n theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng.

2. Công bố đặt thành phố Sài G̣n-Gia Định dưới quyền của ủy Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. ‘

Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay.

BA *

195

Như vậy th́ Bộ Chính Trị Cộng sản Bắc Việt đă có quyết định “giải tán chính quyền các cấp của tổng thống “Dương văn Minh và đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng ” chứ không hề nói đến hai chữ ” bàn giao” mà ông Dương Văn Minh cùng với nhóm Ḥa Giải Ḥa Hợp của ông đang mong đợi. .

Sau khi phúc tŕnh về Bộ Tổng Tư Lệnh Thái B́nh Dương tại Hawaii, Tướng Smith tŕnh cho Đại sứ Martin biết về vấn đề phi trường Tân Sơn Nhứt không c̣n có thể sử dụng được cho phi cơ vận tăi C-13O và ông Martin cuối cùng phải nhượng bộ v́ cho đến ngày 29 tháng 4, ông đại sứ vẫn cương quyết chống lại lệnh di tản tức khắc tất cả người Mỹ ra khỏi Việt Nam của Bộ Ngoại Giao. Thâm ư của Đại sứ Martin là giữ người Mỹ lại để di tản càng nhiều người Việt Nam ra khỏi Sài G̣n th́ càng tốt chừng đó. Đại sứ Martin gọi điện thoại thông báo cho Ngoại Trưởng Kissinger và ông Kissinger tŕnh ngay cho tổng Thống Gerald Ford. Chỉ trong ṿng vài phút, TT Ford ra lệnh cho thi hành Chiến dịch “Frequent Wind Option IV” tức là kế hoạch di tản toàn bộ người Mỹ ra khỏi Việt Nam vào lúc 10 giờ 51 phút sáng tại Sài G̣n.

Trước đó, vào lúc 1 giờ sáng giờ Washington tức là

*195: văn kiện Đảng: trang 324.

khoảng 1 giờ trưa ngày 29 tháng 4, Đại sứ Martin nhận được bức điện văn “thựơng khẩn” số White House 50782 ngày 29 tháng 4 nguyên văn như sau:

 

Nơỉ gửi: White House

Nơi nhận: Toà Đại Sứ Hoa Kỳ-Saigon

Ngoại trưởng Henry A . Kissinger

Gửi đến: Đại Sứ Graham Marizn

1.”Tổng thống đă chủ tọa một phiên bọp của Hội đồng An ninh Quốc Gia và đă có những quyết định sau đây:

A.Nếu ngày hôm nay mà phi trường Tân Sơn Nhứt c̣n có thể sử dụng đựơc cho các loại phi cơ có cánh (phi cơ vận tăi C-13O) th́ ông Đại sứ được phép cho di tản những người Việt Nam được xếp vào thành phần có thể bị nguy hiếm đến tính mạng. Cho đến cuối ngày hôm nay ông đại sứ phải cho di tản tất cả nhân viên người Mỹ tại phi trường Tân Sơn Nhứt cũng như là tất cả những nhân viên ngoại giao tại ṭa đại sứ, ngoại trừ một thiểu số tối cấn thiết cho nhiệm vụ di tản.

B.Ông Đại Sứ không đựơc tiết lộ cho ai biết rằng hôm nay là ngày cuối cùng loại phi cơ vận tăi C-130 sẽ được sử dụng để di tản từ phi trường Tâ Sơn Nhứt.

C.Nếu phi trường trở thành bất khiển dụng đối với phi cơ vận tăi và trở thành nguy hiểm nếu bị Cộng sản pháo kích, ông Đại Sứ phhải tức khắc cho di tản tất cả – lặp lại: tất cả- người Mỹ tại văn pḥng Tùy Viên Quân Lực DAO và toà đại sứ bằng phương tiện trực thăng. Nếu cần th́ các phi cơ chiến đấu v́ các phi cơ chiến đấu sẽ yểm trợ và hoả lực sẽ được sử dụng để pḥng vệ trong trường hợp các trực thăng bị tấn công trong khi thi hành việc di tản.

2. Đô Đốc Gayler, Tư lệnh Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương, sẽ nhận được lệnh tương tự từ Bộ Quốc Pḥng.

Trân trọng

Henry A . Kissinger. *196

 

Trong khi bản thông cáo của “Tổng Thống “ Dương Văn Minh đ̣i người Mỹ phải triệt thoái nhân viên của DAO được “Thủ Tướng” Vũ Văn Mẫu đọc đi đọc lại nhiều lần trên đài phát thanh Sài G̣n th́ trên đài phát thanh của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam được gọi tắt là AFRS, vào buổi trưa một ngày cuối tháng 4 nóng bức, người xướng ngôn viên đọc đi đọc lại nhiều lần lởi nhắn: “Mother wants you to call home” (Mẹ muốn con gọi về nhà) và người dân Sài G̣n được nghe bản nhạc “I’m Dreaming of a White Christmas “ (Tôi mơ một Giáng Sinh Đầy Tuyết Trắng) phát đi phát lại liên tục trong ngày hôm đó. Lời nhắn và bản nhạc này là mật hiệu báo cho tất cả mọi người Mỹ tại Sài G̣n biết rằng Chiến Dịch Frequent Operation IV đă khởi đầu và tất cả mọi công dân Hoa Kỳ đều phải đến những điểm hẹn đă ấn đinh sần từ trước để được di tản ra khỏi Việt Nam.

Trong ngày 29 tháng 4, hàng trăm trực thăng C-53 và C-46 đă từ Hạm Đội Thứ Bảy ngoài khơi bờ biển Việt Nam bay đến Sài G̣n di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người Việt Nam đang tập trung tại các địa điểm như Văn Pḥng DAO ở Tân Sơn Nhứt, các cao ốc của người Mỹ và nhất là toà đại sứ Hoa Kỳ trên đại lộ Thống Nhất. Đại sứ Graham Martin không chịu di tản v́ ông muốn ở lại toà đại sứ để

*196: “Secretary of State Henry Kissinger’s Cable on President Ford’s Decisions on the Saigon Evacuation, April 29, 1975.” (Công Điện của Ngoại Trưởng Henry Kissinger về Quyết Định của Tổng Thống Ford trong việc Di Tản Sài G̣n ngày 29 tháng 4 năm 1975). Tài liệu giải mật ngày 10 tháng 1 năm 2000, lưu trữ tại Thư Viện Gerald Ford, Grand Rapids, Michigan.

kéo dài thời gian nhằm di tản thêm một số người Việt Nam dù rằng Ngoại trưởng Kissinger đă nhiều lần ra lệnh cho ông phải ra đi càng sớm càng tốt.

Vào lúc 11 giờ 40 tối 29 tháng 4, một toán chuyên viên chất nổ của Thuỷ Quân lục chiến Hoa Kỳ đă phá nổ toàn bộ Toà Tuỳ Viên Quân Lực DAO, tức là Bộ Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam gọi tắt là MAC-V trước năm 1973, nơi mà trong hơn 10 năm đă từng là biểu hiệu của sự cam kết của Hoa Kỳ với trên nửa triệu quân nhằm chống lại âm mưu thôn tính Miền Nam Việt Nam của Cộng sản Bắc Việt. Sự phá huỷ cơ sở này, trước đây được giới báo chí gọi là “Ngũ giác Đài Phương Đông” (Pentagon East) là dấu hiệu cho biết rằng đối với người Mỹ, chiến tranh Việt Nam đă kết thúc.

 

Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương

Không Chịu Di Tản

 

Trong ngày 29 tháng 4, dù rất bận rộn trong việc di tản hàng chục ngàn người Mỹ và người ty nạn Việt Nam, Đại sứ Martin cũng đă t́m cách đến gặp Cụ Trần Văn Hương, cựu Tổng Thống VNCH tại Phủ Phó Tổng Thống trên đường Công Lư lần chót. Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc An, bạn thâm giao của Cụ Hương th́ cuộc gặp gỡ này đă diễn ra như sau:

Cũng ngày đó, 29 tháng 4 nam 1975, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lư với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp Đại khái đại sứ nói:

 

Thưa Tổng Thống, t́nh trạng hiện nay rất nguy hiểm. nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chánh phủ chúng tôi Cam kết bảo đám cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống trăm tuổi già. “

 

Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời:

 

Thưa Ngài Đại Sứ tôi biết t́nh trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đă đến đỗi như vậy Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông đại sứ. Nhưg tôi đă suy nghĩ kỷ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng Cộng sản vào được Sài G̣n, bao nhiêu đau khổ nhục nhă sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lănh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi t́nh nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước.

Cám ơn ông Đại Sứ đă đến viếng tôi”.

 

Khi nghe câu: “les États Unis ont aussi leur part de responsibilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách niệm trong đó), Đại Sứ Martin giựt ḿnh nh́n trân trân Ông Trần Văn Hương.

Năm 198O, ông thuật lại với tôi: “Dứt câu chuyện, on se sépare sans même se serrer la main” (chúng tôi từ giă nhau mà cũng chẳng có hề bắt tay nhau). *197

 

Đây không phải là lần đầu tiên cụ Trần Văn Hương từ chối lời mời di tản ra ngoại quốc. Trong cuốn hồi kư “Saigon et Moi”, cựu đại sứ Pháp Mérillon cho biết rằng trước ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông ta có chuyển lời mời cụ Trần Văn Hương sang sinh sống ở Pháp sau khi giao quyền lại cho Dương Văn Minh th́ cụ đă trả lời như sau:

 

Ông đại sứ à, tôi đâu có ngán Việt Cộng. Nó muôn đánh, tôi sẽ đánh tới cùng. Tôi chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tôi, nước tôi mất, tôi thề sẽ ở lại đây và mất theo nước ḿnh”.

 

*197: G.S. Nguyễn Ngọc An: “Cụ Trần Văn Hương” đăng trên Báo Thời Luận, không rơ ngày.

 

Cựu Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của Phó Tổng Thống Trầ Văn Hương cho người viết biết vào những ngày cuối cùng trong tháng 4 năm 1975, Cụ Trần Văn Hương đă nói với các anh em phục vụ tại Phủ Phó Tổng Thống rằng “thấy các em c̣n trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ v́ chiến tranh “qua” rất thương, tuy nhiên sổ phận của đất nủớc ḿnh là như vậy, ḿnh phải đánh cho tới cùng.”

Sau khi bàn gian chức vụ tổng thống cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng 4, cụ Trần Văn Hương dă dọn ngay về tư gia ở trong đường hẻm đường Phan Thanh Giản, tuy nhiên qua sáng ngày hôm sau, 29 tháng 4, cụ phải trở lại Dinh Phó Tổng Thống ở đường Công Lư một lần cuối cùng để tiếp kiến đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin khi ông Martin đến từ giă cụ.

Trong một cuộc tiếp xúc với Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, cựu phó thủ tướng Việt Nam Cộng Ḥa tại Westminster vào cuối năm 2005, Bác sĩ Viên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm Cụ Trần Văn Hương một lần cuối và Cụ Hương đă nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn nhưng ông đă từ chối ḷi mời của họ.

Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại “quyền công dàn” cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo” đều bị đi xem h́nh ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng thống” Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu quốc hội ” đảng cử dân bầu” của Cộng sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được Cộng sản trả lại “quyền công dân” nhưng cụ đă từ chối. Cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đă gửi bức thư sau đây đến các cấp lănh đạo chính quyền Cộng sản:

 

.. hiện nay vẫn c̣n có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn vơ, từ Phó Thủ tướng, Tổng Bộ trưởng, các tướng lănh, quân nhân công chức các cấp các chính trị gia, các vị lănh đạo tôn giáo, đảng phái đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai th́ ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được Vê’.

Tôi là người đứng đầu hàng lănh đạo Chánh phủ Việt Nam Cộng Ḥa, xin lănh hết trách nhiệm một ḿnh. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết v́ họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội ǵ cả. Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, c̣n lo làm ăn xây dựng đất nuớc.

Chừng nào những nguời tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi”.

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận “quyền công dân” của Cộng sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 th́ cụ vẫn c̣n lâ công dân của Việt Nam Cộng Ḥa

 

Thứ tư 30-4-1975 :

 

Cuộc di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, tuy nhiên con số người Mỹ c̣n lại ở Sài G̣n vẫn c̣n nhiều. Vào lúc 1 giờ 30 sáng, Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Ṭa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài G̣n, và Đại sứ Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. Tuy nhiên đến 3 giờ 45 sáng, vẫn c̣n có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đă quyết định kết thúc cuộc di tản và tất cả các phi công đều nhận được lệnh như sau: “Đây là lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ và lệnh này phải được chuyển lại bởi bất cứ phi công trực thăng nào liên được với Đại Sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ mới được phép di tản và Đại Sứ Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin phát đi ám hiệu “Tiger, Tiger, Tiger” để báo cho biết rằng ông Martin đă được di tản”.

Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại Sứ Martin”bị hộ tống” lên trực thăng mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trục thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến đă được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp tăi lên phi cơ nếu ông ta c̣n chống lại lệnh di tản. Đại Sứ Hoa Kỳ Graham Martin đă cố t́nh cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam v́ nếu không có ông th́ họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài G̣n trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger th́ Đại Sứ Martin đă phối hợp di tản được 6,000 ng­ời Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài G̣n.

Sau khi Đại Sứ Martin bị hộ tống lên trực thăng, trong toà đại sứ lúc đó vẫn c̣n gần 200 người Mỹ mà trong số đó có 170 người là lính Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ bảo vệ cho chiến dịch di tản. Cuộc di tản vẫn tiếp tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 3O tháng 4 năm 1975 th́ chiếc trực thăng CH-46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài G̣n mang theo Trung sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.

Chuyến phi cơ trực thăng cất cánh khỏi sân thượng của ṭa đại sứ Mỹ vào hồi 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 này đánh dấu sự kết thúc của chính sách “ủng hộ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ qua 5 đời tổng thống: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford trong hơn 20 năm. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh đă chấm dứt nhưng đối với một số người Việt Nam th́ cuộc chiến vẫn chưa tàn. Vào ngày 30 tháng 4, có một số chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n tiếp tục chiến đấu dù rằng trong vô vọng.

 

Duơng Văn Minh Ra Lệnh Đầu Hàng

 

Vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, “Tổng thống” Dương Văn Minh đă đọc nhật lệnh trên đài phát thanh Sài G̣n ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân thuộc Quân Lực VNCH phải buông súng đầu hàng. Ông Dương Văn Minh đă tuyên bố như sau:

 

Đường lối, chủ trương của chúng tôi là ḥa giải và ḥa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự ḥa hợp ḥa giải gữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. V́ lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa hăy b́nh tĩnh ngưng nổ súng và ở đậu th́ ở đó.

 

Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính Phủ Cách Măng Lâm Thời Cộng Ḥa miền Nam ngưng nổ súng, v́ chúng tôi ở đây đang chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong ṿng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào.”

 

Thủ tướng “Vũ Văn Mẫu cũng đọc lời kêu gọi mọi tầng lớp dân chúng hăy chào mừng “ngày Hoà b́nh cho Dân tộc Việt Nam” và ra lệnh cho mọi công chức phải trở về nhiệm sở. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực VNCH nhân danh Trung tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh của ” tổng thống” Dương Văn Minh về vấn đề hưu chiến.

 

Dương Văn Minh cũng đưa ra lời kêu gọi những “người anh em bên kia” hăy ngưng mọi hoạt động gây hấn và ông ta nói rằng chính quyền của ông đang chờ đợi được gặp gỡ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam để cùng thảo luận về ” buổi lễ bàn giao quyền hành và để tránh đổ máu cho nhân dân.” Dương Văn Minh không hề đề cập đến cũng như không đưa ra lời kêu gọi nào với Cộng sản Bắc Việt, lúc đó dường như ông cố t́nh làm như không biết việc chính Cộng sản Bắc Việt mới là những người lănh đạo hàng ngũ những người anh em bên kia” của ông.

Ông Dương Văn Minh chỉ kêu gọi những “người anh em bên kia” trong cái gọi là “chính phủ cách Mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam”, chắc là ông ta đă nghĩ đến những người lănh đạo trong cái chính phủ này như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Nguyễn Thị B́nh v.v, nhưng ông ta không biết rằng những người mà ông ta kêu gọi đó không hề có một quyền hành nào, c̣n những kê có quyền hành lúc đó như Lê Đức Thọ, Ván Tiến Dũng, Phạm Hùng, ba ủy viên Bộ Chính trị đại diện cho Hà Nội đang thực sự nắm toàn quyền trong chiến dịch Hồ Chí Minh th́ ông ta không có đả động tới.

Thượng Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt và đồng thời cũng là Tư Lệnh Chiến trường Miền Nam Việt Nam lúc đó đang nghe lời kêu gọi của Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài G̣n. Ngay sau đó, thay v́ tiến về Sài G̣n để “bàn giao” như lời kêu gọi của Dương Văn Minh, Văn Tiến Dũng đă ra lệnh cho “tất cả các quân đoàn, các vùng quân sự và mọi đơn vị các cấp phải tiến càng nhanh càng tốt đến các mục tiêu đă được chỉ định ở sâu trong các đô thị cũng như các tỉnh, kêu gọi địch quân đầu hàng, giao nạp vũ khí và bắt giữ tất cả các sĩ quan từ cấp thiếu tá trở lên; đập tan ngay tức khắc mọi mưu toan kháng cự. “

Ông “Tổng Thống” Dương Văn Minh không thể nào biết được rằng trưa ngày hôm đó, Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương đă gửi điện văn số 516/TV ra lệnh cho các cấp lănh đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh phải “bắt địch đầu hàng vô điều kiện”:

vấn đề hiện nay là bắt địch đầu hàng không điều điện chứ không phải cử người thương lương với địch để ngưng bắn tại chỗ như có nơi đă làm.

Những nơi địch chịu đầu hàng: ta kéo quân vào bắt địch, hạ vũ khí và tước vũ khí của chúng, giải tán quân đội và bộ máy chính quyền của địch, phát động quân chúng truy kích, tiêu diệt bọn gian ác và phản động c̣n ẩn nấp chống lại ta.

Những nơi địch không chịu đầu hang: ta cần phát động quần chúng nổi dậy, kêu gọi binh sĩ khởi nghĩa kết hợp với mũi tấn công đánh vào các điểm then chốt của địch, tiêu diệt những đơn vị ngoan cố chống lại ta, buộc chúng phải đầu hàng không điều kiện.

Phải đặc biệt chú ư chiếm lĩnh, khống chế các sân bay không để chúng sử dụng các máy bay để chống lại ta và tẩu thoát”.*198

Ngoài bức điện văn nói trên, chính Vơ Nguyên Giáp thay mặt cho Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương cũng đă gửi bức điện văn số 151 ngày 3O tháng 4 năm 1975 gửi cho “anh Sáu” tức là Lê Đức Thọ, “anh Bảy” tức là Phạm Hùng, “anh Tuấn” tức là Văn Tiến Dũng, “anh Tư tức là Trần Văn Trà và “anb Tấn” tức là Lê Trọng Tấn nội dung như sau:

Theo ư kiến của Bộ Chính Trị và Quân ủy trung ương,

1.việc chỉ đạo Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n-Gia định (kể cả những mệnh lệnh, tuyên bố) giao cho Trung Ương Cục và Quân Ủy Miền phụ trách.

2.Hôm nay sẽ ra một lời kêu gọi của Bộ Chỉ Huy Quân giải Phóng. Chúng tôi đang dự thảo và cho phát.

3.Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí, nhưng không phải với tư cách Tổng thống mà chỉ với tư cách một người đă sang hàng ngũ nhân dân.

*198: Đại Thắng Mùa Xuân, trang 329-331.

4. Sẽ tuyên truyền lớn về thắng lơi giải pbóng Sài G̣n-Gia Định, nhưng nhấn mạnh cuộc chiến đấu đang tíếp tục nhằm hoàn toàn giải phóng miền Nam. Đă chỉ thị chuẩn bị ngày mừng chiến thắng, sau khi hoàn thành việc giải phóng miền Nam sẽ tổ chức thống nhất cả nước. Anh Tố Hữu sẽ có điện cho các Anh.

5. Mười một giờ đă nhận được tin ta cắm cờ trên Dinb Độc Lập.

Gửi các anh lời chúc đại thắng lơi.

Các anh Bộ chính Trị rất vui, rất vui . . .

VĂN*199

Như vậy th́ trước khi xe tăng của Cộng sản Bắc Việt ủi cổng sắt- đă được mở rộng- để vào chiếm Dinh Độc Lập, nơi mà ông “Tổng thống” Dương Văn Minh cùng với các ông “phó Tổng thống” Nguyễn Văn Huyền, “thủ tướng” Vũ Văn Mẫu cùng với một số nhân viên trong “nội các” của họ để chờ “bàn giao” cho Cộng sản th́ các giới lănh đạo ở Hà Nội đă quyết định không coi ông như là “tổng thống” mà chỉ là “một ngưới đă sang hàng ngũ nhân dân,” tức là một kẻ đầu hàng, “đầu hàng không điều kiện” như đă ṇi trong văn thư số 505 cùng ngày. Các sĩ quan Cộng sản cấp dưới cũng đă nhận được lệnh này cho nên đối với họ th́ những người tự nhận là tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng v.v. đang ngồi trong Dinh Độc Lập chỉ là những kẻ đầu hang mà thôi. .

Bởi vậy, vào lúc 12 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, khi chiến xa mang số 879 của Lữ Đoàn Thiết Giáp 203 của quân

*199: văn kiện Đảng: trang 332-333.

đội cộng sản Bắc Việt ủi sập hàng rào sắt tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, “Tổng thống” Dương Văn Minh thấy vị sĩ quan Cộng Sản đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, v́ không biết cấp bậc của quân đội Nhân dân miền Bắc nên ông Minh tưởng rằng đang đứng trước một tướng lănh cao cấp:

Thưa Quan Sáu, tôi đă chờ ông từ ban sáng để trao quyền cho ông”.

 

Viên sĩ quan Bắc Việt chỉ huy đoàn chiến xa này là Thượng Tá Bùi Tùng đă dùng danh từ “mày tao “ xằng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:

 

Mày dám nói trao quyền hả? Mày chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nh́n. Mày làm ǵ có quyền nào để trao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng này đây.

Ngoài ra tao xác nhận với mày là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mày bông được ngồi xuống!” *2OO

 

Người thuật lại những lời đối thoại trên là cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, một người rất thân cận với ông Dương Văn Minh. Vào năm 1963 ông là Thiếu Tá ngành Thiết giáp, đă theo tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và đă được Dương Văn Minh tin cậy cử vào phái đoàn đi vào Chợ Lớn “đón” ông Diệm. Trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đă bị giết trên xe thiết vận xa M-113

*200 Dương Hiếu Nghĩa : “Hồi Kư Dang Dở,” kể lại theo lời của Trung Tá Nguyễn Văn Binh, cựu Quận Trưởng G̣ Vấp, cựu dân biểu, có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân Bắc Việt chiếm Sài G̣n. Xuân Thời Luận, Califonia 2004, trang 141.

và từ đó cho đến nay, có nhiều người vẫn c̣n có nghi vấn là ông Dương Hiếu Nghĩa có thể là một trong những người có trách nhiệm trong cái chết của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Chắc chắn rằng ông Dương Hiếu Nghĩa không phải là kẻ thù hay có hiềm khích với ông Dương Văn Minh mà đặt điều viết lại sự đối thoại trên đây nếu chuyện đó không có thật.

Chiều hôm đó, Cộng sản không cho phép Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng tại Dinh Độc Lập tức là Phủ Tổng Thống của VNCH, họ đă áp giải ông đến đài phát thanh Sài G̣n để đọc lời kêu gọi như sau:

 

Tổng Thống chính quyền Sài G̣n kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bổ chính quyền Sài G̣n, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đền địa phương trao lại cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam”.

 

Ngay buổi chiều ngày 30 tháng 4, Đài Phát Thanh Giải Phóng loan báo kể từ nay, thành phố Sài G̣n được cải danh là ” thành Phố Hồ Chí Minh”.

 

Kể từ ngày hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài G̣n đă mất tên, Sài G̣n không c̣n nữa.

Kể từ ngày hôm đó,

Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà không c̣n nữa.

Và cũng kể từ ngày hôm đó, tại Miền Nam Việt Nam Tự Do cũng không c̣n nữa.

 

 

  http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: