MINH THỊ

DÂN TỘC VIỆT NAM KHÔNG CẦN THẮP ĐUỐC ĐI T̀M TỰ DO, DÂN CHỦ, NHÂN  QUYỀN Ở WASHINGTON, MOSCOW, PARIS, LONDON, PÉKING, TOKYO. ĐÓ LÀ CON ĐƯỜNG  CỦA BỌN NÔ LỆ VỌNG NGOẠI LÀM NHỤC DÂN TỘC, PHẢN BỘI TỔ QUỐC, ĐĂ ĐƯA ĐẾN KẾT THÚC ĐAU THƯƠNG VÀO NGÀY 30 - 4- 1975 ĐỂ LẠI MỘT XĂ HỘI  THẢM HẠI, ĐÓI NGHÈO, LẠC HẬU Ở VIỆT NAM GẦN NỬA THẾ KỶ NAY. ĐĂ ĐẾN LÚC QUỐC DÂN VIỆT NAM PHẢI DŨNG CẢM, KIÊN QUYẾT ĐỨNG LÊN GIÀNH LẠI QUYỀN QUYẾT ĐỊNH VẬN MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC.  

Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu

 

 

 

֎ Kim Âu ֎ Chính Nghĩa ֎ Chính Nghĩa

֎Tinh Hoa ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Constitution

֎ Đại Kỷ Nguyên ֎ Vietnamese Commandos 

֎ Biệt kích trong gịng lịch sử ֎ Chính Nghĩa Media

֎ Lưu Trữ ֎ Làm Sao ֎ T́m IP ֎ Computer

֎ Dictionaries ֎ Tác Giả ֎ Mục Lục ֎ Pháp Lư

֎ Tham Khảo ֎ Thời Thế ֎ Văn  Học

 

    ֎ Served  In A Noble Cause

֎ Tṛ Bịp Cứu Trợ TPB: Cám Ơn Anh

֎ Hiến Chương Liên Hiệp Quốc

֎ Văn Kiện Về Quyền Con Người

֎ Liberal World Order

֎ The Heritage Constitution

֎ The Invisible Government Dan Moot

֎ The Invisible Government David Wise

֎ Montreal Protocol Hand Book

֎ Death Of A Generation

֎ Việt Nam Đệ Nhất Cộng Ḥa Toàn Thư

֎ Sự Thật Về Nguyễn Hữu Luyện

֎ Phân Định Chính Tà

֎ Giáo Hội La  Mă:Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác

֎ Secret Army Secret War ֎ CIA Giải mật

֎ Mật Ước Thành Đô: Tṛ Bịa Đặt

֎ Hồ Chí Minh Hay Hồ Quang- HCM Toàn Tập

֎ Ngô Đ́nh Diệm Và Chính Nghĩa Dân Tộc

֎ Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống NĐD

֎ Lănh Hải Việt Nam ở Biển Đông

֎ Sự Thật Về Trận Hoàng Sa

֎ Nhật Tiến: Đặc Công Văn Hóa?

֎ Cám Ơn Anh hay Bám Xương Anh

֎ Chống Cải Danh Ngày Quốc Hận

֎ Tṛ Đại Bịp: Cứu  Lụt Miền Trung

֎ 8406= VC+VT

֎ Hài Kịch Nhân Quyền

֎ CĐ Người Việt QG Hoa Kỳ

֎ Tội Ác PG Ấn Quang

֎ Âm mưu của Ấn Quang

֎ Vụ Đài VN Hải Ngoại

֎ Mặt Thật Nguyễn Hữu Lễ

֎ Vấn đề Cựu Tù Cải Tạo

֎ Lịch Sử CTNCT

֎ Về Tác Phẩm Vô Đề

֎ Hồng Y Và Lá Cờ

֎ Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
֎ Giấc Mơ Lănh Tụ

֎ Biến Động Miền Trung

֎ Con Đường Đạo

֎ Bút Kư Tôi Phải Sống

֎ Dân Chủ Cuội - Nhân Quyền Bịp

֎ Đặc Công Đỏ Việt Thường

֎ Kháng Chiến Phở Ḅ

֎ Băng Đảng Việt Tân

֎ Mặt Trợn Việt Tân

֎ Tù Binh và Ḥa B́nh

֎ Mộng Bá Vương

֎ Phía Nam Hoành Sơn

֎ Nước Mắt Trước Cơn Mưa

֎ 55 Ngày Chế Độ Sài G̣n Sụp Đổ

    ֎ Drug Smuggling in Vietnam War

    ֎ The Fall of South Vietnam

    ֎ Giờ Thứ 25

    ֎ Economic assistant to South VN 1954- 1975

    ֎ RAND History of Vietnam War era 

 

 

 ֎ LƯU TRỮ BÀI  VỞ THEO THÁNG/NĂM

 

֎07/2008 ֎08/2008 ֎09/2008 ֎10/2008

֎11/2008 ֎11/2008 ֎12/2008 ֎01/2009

֎02/2009 ֎03/2009 ֎04/2009 ֎05/2009

֎06/2009 ֎07/2009 ֎08/2009 ֎09/2009

֎10/2009 ֎11/2009 ֎12/2009 ֎01/2010

֎03/2010 ֎04/2010 ֎05/2010 ֎06/2010

֎07/2010 ֎08/2010 ֎09/2010 ֎10/2010

֎11/2010 ֎12/2010 ֎01/2011 ֎02/2011

֎03/2011 ֎04.2011 ֎05.2011 ֎06.2011

֎07/2011 ֎08/2011 ֎09/2011 ֎10/2011

֎11/2011 ֎12/2011 ֎05/2012 ֎06/2012

֎12/2012 ֎01/2013 ֎12/2013 ֎03/2014

֎09.2014 ֎10.2014 ֎12/2014 ֎03/2015

֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2015 ֎02/2016

֎02/2016 ֎03/2016 ֎07/2016 ֎08/2016

֎09/2016 ֎10/2016 ֎11/2016 ֎12/2016

֎01/2017 ֎02/2017 ֎03/2017 ֎04/2017

֎05/2017 ֎06/2017 ֎07/2017 ֎08/2017

֎09/2017 ֎10/2017 ֎11/2017 ֎12/2017

֎01/2018 ֎02/2018 ֎03/2018 ֎04/2018

֎05/2018 ֎06/2018 ֎07/2018 ֎08/2018

֎09/2018 ֎10/2018 ֎11/2018 ֎12/2018

 

  ֎ Nov/2016. Dec/2016. Jan/2017. Feb/2017. 

  ֎ Mar/2017. Apr/2017. May/ 2017. Jun/2017.

  ֎ Jul/2017. Aug/2017. Sep/2017. Oct/2017.

  ֎ Nov/2017. Dec/2017. Jan/2018. Feb/2018

  ֎ Mar/2018. Apr/2018. May/ 2018. Jun/2018.

  ֎Jul/2018. Aug/2018. Sep/2018. Oct/2018.

  ֎ Nov/2018. Dec/2018.

 

֎ Kim Âu ֎ Tinh Hoa ֎ Chính Nghĩa ֎ Đà Lạt ֎ Bài Của Kim Âu ֎ Báo Chí ֎ Dịch ֎ Tự Điển ֎Tiếng Việt ֎ Learning ֎ Sports֎ Chính Nghĩa Việt Blogspot ֎ Sports ֎ Video/TV ֎ Lottery֎ Diễn Đàn ֎ Tác Phẩm ֎ Tác Gỉa

 

 

 

 

 

 

vCNBCvFoxvFoxAtlvOANvCBSvCNNvVTV

vWhiteHouse vNationalArchives vFedReBank

vFed RegistervCongr RecordvHistoryvCBO

vUS GovvCongRecordvC-SPANvCFRvRedState

vVideosLibraryvNationalPriProjectvVergevFee

vJudicialWatchvFRUSvWorldTribunevSlate

vConspiracyvGloPolicyvEnergyvCDPvArchive

vAkdartvInvestorsvDeepStatevScieceDirect

vRealClearPoliticsvZegnetvLawNewsvNYPost

vSourceIntelvIntelnewsvReutervAPvQZvNewAme

vGloSecvGloIntelvGloResearchvGloPolitics

vNatReviewv Hillv DaillyvStateNationvWND

vInfowar vTownHall vCommieblaster vExaminer

vMediaBFCheckvFactReportvPolitiFactvIDEAL

vMediaCheckvFactvSnopesvMediaMatters

vDiplomatvNews Link vNewsweekvSalon

vOpenSecretvSunlightvPol CritiquevEpochTim

vN.W.OrdervIlluminatti NewsvGlobalElite

vNewMaxvCNSvDailyStormvF.PolicyvWhale

vObservevAme ProgressvFaivCityvBus.Insider 

vGuardianvPolitical InsidervLawvMediavAbove

vSourWatchvWikileaksvFederalistvRamussen

vOnline BooksvBreibartvInterceiptvPRWatch

vAmFreePressvPoliticovAtlanticvPBSvWSWS

vN PublicRadiovForeignTradevBrookingsvWTimes

vFASvMilleniumvInvestorsvZeroHedge DailySign

vPropublicavInter InvestigatevIntelligent Media  

vRussia NewsvTass DefensevRussia Militaty

vScien&TechvACLUvVeteranvGateway

vOpen CulturevSyndicatevCapitalvCommodity vCreatevResearchvXinHuav

vNghiên Cứu QTvN.C.Biển ĐôngvTriết Chính Trị

vT.V.QG1vTV.QGvTV PGvBKVNvTVHoa Sen

vCa DaovHVCông DânvHVNGvDấuHiệuThờiĐại

vBảoTàngLSvNghiênCứuLS vNhân Quyền

vThời ĐạivVăn HiếnvSách HiếmvHợp Lưu  

vSức KhỏevVaticanvCatholicvTS KhoaHọc

vKH.TVvĐại Kỷ NguyênvTinh HoavDanh Ngôn

vViễn ĐôngvNgười ViệtvViệt BáovQuán Văn

vTCCSvViệt ThứcvViệt ListvViệt MỹvXây Dựng

vPhi DũngvHoa Vô ƯuvChúngTavEurasia

vNVSeatlevCaliTodayvNVRvPhê B́nhvTrái Chiều

vViệt LuậnvNam ÚcvDĐNgười DânvBuddhism

vTiền PhongvXă LuậnvVTVvHTVvTrí Thức

vDân TrívTuổi TrẻvExpressvTấm Gươngv

vLao ĐộngvThanh NiênvTiền PhongvMTG

vEchovSài G̣nvLuật Khoa Văn NghệvSOTT

vĐCSvBắc Bộ PhủvNg.TDũngvBa SàmvCafeVN

vVăn HọcvĐiện ẢnhvVTCvCục Lưu TrữvSoHa

vST/HTVvvThống KêvĐiều NgựvVNMvB́nh Dân

  

SỰ THẬT LỊCH SỬ VÀ HƯ CẤU NGHỆ THUẬT

 

Đỗ Ngọc Yên

 

 

 

Vấn đề này tưởng chừng đă được giải quyết xong từ lâu. Vậy mà, khi xem xét, đánh giá một tiểu thuyết, truyện ngắn hay trường ca về đề tài lịch sử, không ít người luôn t́m cách đem sự thật lịch sử được ghi chép lại ở các tập biên niên sử hay các giáo tŕnh lịch sử do các nhà sử học viết ra làm công cụ giảng dạy cho học sinh, sinh viên ra để so sánh với những sự kiện, nhân vật lịch sử trong các tác phẩm văn chương.

 

*

 

1. Trước hết nếu các chi tiết được phản ánh trung thực gần như sao chép sự thật đă và đang xảy ra trong đời sống thực th́ cùng lắm đấy chỉ là một cuốn biên niên sử, chứ không thể là một tác phẩm văn học nghệ thuật (VHNT). Bởi lẽ một thuộc tính cơ bản nằm ngay trong bản chất cấu thành của tác phẩm VHNT là sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sỹ. Ngay cả khi một sự kiện lịch sử được đưa vào tác phẩm VHNT tưởng như giống hệt sự kiện đó đă từng diễn ra trong đời sống thực, th́ nó cũng đă phải thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể sáng tạo - nghệ sỹ. Lăng kính chủ quan của nghệ sỹ giống như một cái filter chắt lọc và loại bỏ tất thảy những ǵ không mang lại giá trị thẩm mỹ cho h́nh tượng tác phẩm theo quan niệm của mỗi người.

 

Một mặt, nhà nghệ sỹ vừa phải tôn trọng đến mức tối đa sự thật lịch sử, nhưng  mặt khác bằng cảm xúc, tài năng cá nhân, anh ta cần phải sáng tạo ra một lịch sử khác, mà tôi gọi là lịch sử của VHNT. Nhưng như vậy không có nghĩa anh ta chỉ là người sao chép lại nguyên si những sự kiện đă từng xảy ra trong đời sống thực. Tôi rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của đại thi hào Nga Macxim Goorki khi ông ta nói về vai tṛ của cảm xúc và tưởng tượng cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật một cách thật sự hóm hỉnh đại ư rằng: Nếu một bài thơ viết về chiếc bánh mỳ mà không có ǵ khác chiếc bánh mỳ th́ người ta sẽ chọn chiếc bánh mỳ, chứ không ai chọn bài thơ cả.

 

Đă nói đến sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sỹ cũng có nghĩa là thừa nhận tính không đồng nhất giữa sự thật lịch sử đă từng tồn tại trong đời sống thực và các chi tiết, sự kiện đó được phản ánh vào trong tác phẩm VHNT. Người nghệ sỹ có thể bớt đi hay thêm vào, nhấn mạnh hay làm lu mờ đi một vài chi tiết nào đó phục vụ cho ư tưởng sáng tạo của ḿnh là điều dễ hiểu. Một chi tiết hay một nhân vật nào đó được thêm vào không nhất thiết là có thật, ngược lại nó có thể hoàn toàn được tạo nên bởi sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ, cốt sao cái lịch sử trong tác phẩm không trở thành một cái ǵ đó hoàn toàn xa lạ với cái lịch sử đă từng tồn tại trong đời sống thực. Hơn thế việc bớt đi hay thêm vào các chi tiết, nhân vật nào đó phải nhằm mục đích tái hiện lại lịch sử ở một cấp độ cao hơn và v́ thế nó c̣n thật hơn cái sự thật mà mọi người đă từng biết từ sự trải nghiệm cá nhân hay từ những cuốn biên niên sử.

 

2. Đại văn hào Liev Toltoi đă từng nói đại ư rằng: khi sáng tạo h́nh tượng cô Anna trong tác phẩm Anna Karenina th́ trong đầu ông ta có tới hàng ngàn cô Anna khác nhau. C̣n đại văn hào Lỗ Tấn cũng nói tương tự như vậy khi mọi người hỏi về nhân vật nổi tiếng A.Q trong tác phẩm A.Q chính truyện của ông. Lỗ Tấn đă nói một cách đại ư rằng: nhân vật A.Q của ông có cái đầu ở Triết Giang, cái thân ở Thượng Hải, và đôi chân ở Quảng Đông... Tuy vậy, rơ ràng cái anh chàng A.Q và cô Anna là đại diện cho một lớp người nguyên mẫu bằng xương bằng thịt, có những nét tương đồng về tính cách và các điều kiện xă hội nên nó mang tính khái quát cao thông qua trí tưởng tượng và khả năng hư cấu của nhà văn.

 

Vấn đề ở đây không phải là được hay không được quyền hư cấu, hay sự so le giữa sự thật lịch sử và h́nh tượng nghệ thuật, mà chính là giới hạn của sự so le ấy đến đâu và như thế nào để công chúng có thể chấp nhận được. Người nghệ sỹ có quyền hư cấu thông qua cảm xúc và tưởng tượng bằng những kinh nghiệm chủ quan của anh ta. Nói một cách chính xác hơn anh ta hoàn toàn có quyền tái hiện lịch sử theo cách riêng của ḿnh. Nhưng tuyệt nhiên người nghệ sỹ không được phép bịa đặt ra lịch sử. Dù khả năng sáng tạo của anh ta có dồi dào và bay bổng đến đâu th́ cũng không thể bịa đặt 100% ra một nhân vật lịch sử có thật đă từng tồn tại. Chẳng hạn như trận chiến đấu chống quân Tống trên bờ sông Như Nguyệt của Lư Thường Kiệt diễn ra vào năm 1076 là một sự thật lịch sử cho đến nay không một ai chối căi. V́ thế trong tác phẩm VHNT không thể nói rằng trận chiến đấu là do Lê Lợi cầm quân hay Lư Thường Kiệt chống quân Tống ở Nghệ An vào thế kỷ XVIII chẳng hạn, là hư cấu nghệ thuật. Cũng vậy triều đại nhà Hồ chỉ tồn tại trong ṿng 7 năm từ 1400- 1407 không thể nói thành 70 năm, tức là từ 1400- 1470 được. Làm như thế gọi là xuyên tạc và bịa đặt ra lịch sử, chứ không phải là hư cấu nghệ thuật.

 

3. Trong tiểu thuyết lịch sử Hồ Quư Ly của Nguyễn Xuân Khánh h́nh tượng quận chúa Quỳnh Hoa, người vợ quá cố của Hồ Nguyên Trừng, con trai của Hồ Quư Ly, là một nhân vật hoàn toàn hư cấu nhằm bộc lộ và nhấn mạnh thêm tính cách Hồ Nguyên Trừng, một con người đầy ḷng trắc ẩn nên dễ dàng tha thứ cho người khác. Nhưng cơ bản toàn bộ giai đoạn thật lịch sử thời cuối Trần đầu Hồ không v́ thế bị bóp méo hay xuyên tạc. Cũng tương tự như thế đoạn miêu tả Hồ Quư Ly đứng lặng im phía sau để chờ vợ cầu kinh bên bàn thờ Phật là do nhà văn Nguyễn Xuân Khánh hư cấu nên, nhưng lại hoàn toàn có thể chấp nhận được. Bởi lẽ trong các tài liệu lịch sử c̣n lưu trữ được về Hồ Quư Ly không có chi tiết đó. Nhờ vào những chi tiết đó mà bạn đọc hôm nay có thêm điều kiện để hiểu rơ một nét tính cách của ông vua nhà Hồ. Đó chính là ở chỗ sâu thẳm c̣n có một Hồ Quư Ly cô đơn và hướng thiện. Cũng v́ thế qua tiểu thuyết Hồ Quư Ly của Nguyễn Xuân Khánh, người đọc lại có thêm cơ hội để nhận thức sâu hơn sự thật lịch sử thời bấy giờ. Giai đoạn lịch sử đó đă nảy sinh ra những con người táo bạo, cách tân, mưu lược, đầy tham vọng và  cô đơn như Hồ Quư Ly; anh hùng, dũng mănh, có tài binh lược như hai vị tướng Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh; lũ người bất tài vô dụng, nhưng trung thành với một triều đại đă mục nát như Trần Nguyên Hàng, Nguyên Dận, Nguyên Uyên; và c̣n có cả những người như quận chúa Quỳnh Hoa, cô gái Thanh Mai... những người phụ nữ rất mực thuỷ chung, hết ḷng thương yêu chồng con và cũng sẵn sàng xả thân v́ nghĩa lớn.

 

Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du cũng là một minh chứng sinh động về mức độ chuẩn xác giữa nguyên tác và các bản sao chép của hậu thế. Chắc ǵ bản tiếng Việt mà chúng ta đang có trong tay hiện nay đă hoàn toàn xác thực so với nguyên tác Truyện Kiều của Nguyễn Du đă viết cách đây gần 200 năm về trước. Bởi lẽ, cách đây chưa lâu, người ta lại t́m thấy những dị bản Truyện Kiều khác ở tận bảo tàng Louvre tại Paris, Pháp. Ấy là chưa kể đến các văn bản Truyện Kiều được nhiều người khác nhau dịch ra các thứ tiếng Nga, Anh, Pháp,... th́ khả năng sai lệch của nó là khó tránh khỏi.  

 

4. Đại văn hào Liev Toltoi, người đă sáng tạo ra bộ tiểu thuyết bất hủ Chiến tranh và Hoà b́nh viết về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Nga dưới sự chỉ huy của nguyên soái Kutuzov chiến đấu chống lại sự xâm lăng của quân viễn chinh Pháp do Napoléon cầm đầu, có bao nhiêu phần trăm sự thật và bao nhiêu phần trăm hư cấu, đến nay vẫn chưa ai dám khẳng định một cách chắc chắn được. Cũng tương tự như vậy, trên văn đàn thế giới có biết bao tác phẩm căn chương viết về/có liên quan đến các sự kiện lịch sử như: Don Quijote (Đôn Ki-ô-tê) của Miguel de Cervantes và Les Trois Mousquetaires (Ba người lính ngự lâm) của Alexandre Dumas là những tiểu thuyết lịch sử được hư cấu phần lớn,…nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến sự đúng sai của những sự kiện lịch sử đă được các nhà nghệ sĩ tái hiện trong tác phẩm so với nguyên mẫu lịch sử. Dù rằng cái gọi là nguyên mẫu lịch sử đó, cả những người đương thời lẫn hậu thế không ai dám chắc đấy là sự thật lịch sử một trăm phần trăm.

 

Mặt khác, người nghệ sĩ phản ánh lịch sử chủ yếu là bằng các cung bậc của cảm xúc và t́nh cảm cá nhân, chứ không dừng lại ở ranh giới đúng - sai của nguyên mẫu lịch sử như các nhà biên niên sử thường làm. Tính không đồng nhất giữa sự thật đă từng tồn tại như nó vốn có trong đời sống thực và những sự kiện được phản ánh trong tác phẩm văn học nghệ thuật chính là hư cấu nghệ thuật, một đặc trưng cơ bản của sáng tạo văn học nghệ thuật.

 

Cũng không phải đến gần đây các tác phẩm văn chương Việt mới viết về/có liên quan đến các sự kiện lịch sử, mà trước đấy có Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên đă từng viết về/có liên quan đến Lê Lợi, Nguyễn Trăi ở Đông Quan của Nguyễn Đ́nh Thi viết về/có liên quan đến Nguyễn Trăi, rồi Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác viết về/có liên quan đến Hoàng đế Quang Trung- Nguyễn Huệ,...nhưng không thấy ghi lại những cuộc tranh luận về vấn đề lịch sử đă được đặt ra và phản ánh trong các tác phẩm ấy của họ. Riêng đối với Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp ra đời cách đây hơn 20 năm đă viết về/có liên quan đến vị vua triều Nguyễn là Quang Trung- Nguyễn Huệ,... cũng đă từng xảy ra cuộc tranh luận khá sôi nổi. Đấy là chuyện của hơn hai mươi năm về trước khi chúng ta mới bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới đất nước.

 

Những sự kiện và nhân vật lịch sử mà ngày nay chúng ta biết được về nhà Hậu Lê mà tiểu thuyết Hội thề của nhà văn Nguyễn Quang Thân đă mô tả về/có liên quan đến cũng được dịch từ nguyên bản chữ Hán/Nôm ra tiếng Việt hiện đại, nên thật khó có thể nói rằng mọi bản dịch đều chính xác tuyệt đối so với nguyên tác.

 

5. Như vậy, có thể thấy, dù có chân thực đến mấy th́ nhận thức lịch sử cũng chỉ mang tính chất tương đối, v́ các sự kiện lịch sử như nó vốn có, là những cái đă từng tồn tại trong lịch sử chứ không phải những cái đang tồn tại hôm nay, nên rất khó có thể kiểm chứng được độ xác tín của nó, cái mà người đương thời có đă không ít hơn một lần bị tam sao, thất bản. Nếu mỗi người cầm trong tay một văn bản về một sự kiện, nhân vật lịch sử nào đấy rồi đem ra đối chiếu, tranh biện, chắc chắn ai cũng sẽ nói văn bản của ḿnh là đúng, c̣n văn bản của người kia là sai. Vậy văn bản nào đúng/sai sẽ là một câu chuyện chẳng bao giờ có hồi kết. Âu đấy cũng là lư do chính đáng làm nên sự tồn tại của khoa nghiên cứu lịch sử và ngành văn bản học. Tóm lại, lịch sử và văn chương không bao giờ là một cặp song sinh cả.

 

Sẽ là sai lầm nếu ai đó cho rằng khi tái hiện những sự kiện và nhân vật lịch sử, người nghệ sỹ không được phép làm thay đổi lịch sử như nó vốn có. Ngay cả những cuốn biên niên sử đương thời hay hậu thế cũng không thể nào ghi chép một cách đầy đủ và chi tiết những sự kiện đă từng xảy ra. Bởi v́ những sự thật đó được ghi chép lại c̣n bị các điều kiện kinh tế, chính trị, đạo đức, lịch sử và xă hội đương thời, cũng như tri thức, tầm hiểu biết và cái tâm của nhà chép sử chế định, nên tính nghiêm ngặt lịch sử đă ít nhiều bị giảm thiểu. Theo tôi vấn đề này đă được Nguyễn Xuân Khánh lư giải một cách khá thuyết phục qua sự hư cấu h́nh tượng nhà chép sử Văn Hoa trong tiểu thuyết Hồ Quư Ly của ông. Như vậy điều quan trọng chỉ c̣n là mức độ và giới hạn cho phép nhà nghệ sỹ hư cấu khi sáng tạo các sự kiện lịch sử trong tác phẩm VHNT để làm sao cho công chúng có thể tiếp nhận được bộ mặt của lịch sử qua tác phẩm c̣n thật hơn cái lịch sử đă từng tồn tại. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng sáng tạo của nghệ sỹ./.

 

http://vanvn.net/van-hoc-voi-doi-song/su-that-lich-suva-hu-cau-nghe-thuat/496

 

 

 

 

Đạt đến hư cấu mới thực sự là văn học

 

 

Có người từng nói: sự phát triển của văn học thực chất là quá tŕnh thoát ra khỏi lịch sử và hư cấu. Khi nào đạt đến hư cấu th́ mới thực sự là văn học. Pgs.Ts Lưu Khánh Thơ nhận định: “Đă là văn học phải có hư cấu và đọc văn phải khác đọc sử”.

Cảm hứng lịch sử vẫn là mạch chính trong văn học đương đại Việt Nam, với nhiều tác phẩm gây chú ư của các nhà văn: Nguyễn Huy Thiệp (Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết), Nguyễn Xuân Khánh (Hồ Quư Ly), Trần Chiến (Cậu ấm; Gót Thị Mầu, đầu Châu Long), Nguyễn Ngọc Tiến (Me Tư Hồng)… Tại tọa đàm Trong văn có sử – sự giao thoa của tư duy về quá khứ, do NXB Trẻ tổ chức, Ts Trần Trọng Dương, Viện Nghiên cứu Hán Nôm cho rằng: viết văn bám khá chặt vào sự kiện lịch sử vốn là truyền thống của phương Đông. Điều đó tạo ra những tác phẩm văn học mang tính sử liệu. Tuy nhiên, những cuốn sách như vậy rất dễ khiến bạn đọc “rơi vào bẫy”, bởi chúng không phải lúc nào cũng tạo nên từ sử liệu, mà có cả hư cấu. Ví dụ, Hoàng Lê nhất thống chí có đoạn nói về vua Lê Chiêu Thống mở tiệc để đón người xâm lăng vào trong kinh thành Thăng Long. Ảnh hưởng của nhân vật điển h́nh trong tác phẩm này khiến Lê Chiêu Thống được dựng lên như một biểu tượng của sự bán nước. Biểu tượng ấy ăn sâu bám rễ trong suy nghĩ của người nghiên cứu sử nhiều thế hệ, của nhiều tầng lớp nhân dân. Trong khi sử liệu, thư từ ngoại giao cho thấy, chi tiết ấy không phải sự thật.

 

Lịch sử được các nhà văn khai thác theo nhiều cách: có thể dựa vào thông tin tư liệu để dựng nên câu chuyện về một thời kỳ, một nhân vật có thật; hoặc chuyện xưa viết lại; cũng có tác phẩm chỉ lấy cảm hứng, không khí lịch sử, nhà văn hư cấu hoàn toàn… Dù có phần nào dựa trên sự thật, nhưng quá khứ mà các tác phẩm văn học thể hiện vẫn là cái nhà văn tưởng tượng, theo cách nh́n của nhà văn, không phải thứ mặc định, hay cái đă diễn ra. Tuy nhiên, một cộng đồng thường nuôi dưỡng niềm tin về quá khứ. Khi viết tác phẩm, niềm tin cá nhân của nhà văn đối diện với niềm tin của cộng đồng là điều không đơn giản. Từng có nhà văn bị phê phán gay gắt khi viết về giai đoạn lịch sử, nhân vật lịch sử trái ngược với suy nghĩ của cộng đồng. Nhà văn phải có tư duy mạnh mẽ mới có thể viết tiểu thuyết không kể lại, minh họa lịch sử. Cũng bởi vậy mà nhà phê b́nh Phạm Xuân Nguyên nhận xét: “nhiều nhà tiểu thuyết lịch sử Việt Nam vẫn sợ, viết nương theo lịch sử”.

Không phải ngẫu nhiên con người có xu hướng muốn viết và muốn đọc văn viết về lịch sử. Theo Ts Trần Ngọc Hiếu, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: “Khi bế tắc trong hiện tại, người ta t́m về quá khứ. Viết về lịch sử như cách để nhà văn nói câu chuyện hiện tại, tạo ra sự móc nối giữa quá khứ và hiện tại. Ở mức độ nào đó, tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam lúc này vẫn là câu chuyện về hiện tại nhiều hơn là câu chuyện của quá khứ. Các trang viết về lịch sử ấy giống như truyện ngụ ngôn”. Tuy nhiên, ngoài việc mượn xưa nói nay, các nhà văn viết về lịch sử c̣n để giải phóng cái nh́n, bởi nhiều khi người ta nh́n quá khứ một chiều. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến viết Me Tư Hồng dựa trên tư liệu ít ỏi về một nhân vật có thật, giúp độc giả thấy cách người ta nh́n nhận phụ nữ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở những tư liệu có được, nhà văn hư cấu, chắp nối để tạo ra nhân vật cô Tư Hồng khác so với những người đi trước đă viết, hoặc những người thời đó từng nghĩ. Hoặc, dựa trên những tư liệu khảo cứu về Hà Nội và từ những nguyên mẫu, nhà văn Trần Chiến đă cho ra đời Cậu ấm, giúp người đọc thấy cuộc sống thăng trầm, suy nghĩ của tầng lớp trung lưu Hà Nội giai đoạn trước và sau 1945, cái mà ông thấy “ít người viết”…

Để có tác phẩm văn học về lịch sử, các nhà văn thường bắt đầu ở những điểm mà chính sử ít ghi chép, hoặc có những điểm mù. Ts Trần Ngọc Hiếu cho rằng: “Qua các tác phẩm như vậy, nhà văn đă giúp người đọc biết nhiều hơn về lịch sử. Với độ lùi của thời gian, người đọc tiểu thuyết lịch sử ngày nay dường như không quan tâm nhiều đến tính chính xác của thông tin trong tác phẩm, bởi lịch sử trong văn chương là của lịch sử cái nh́n, chứ không phải lịch sử sự kiện”. Đúng như Lưu Khánh Thơ nhận định: “Đă là văn học phải có hư cấu và đọc văn phải khác đọc sử”.

 

 

Lê Thủy

 

 

Văn học hư cấu là nghệ thuật sống

 

Mario Vargas Llosa (sinh năm 1936) là nhà văn đương đại nổi tiếng người Peru. Ông được trao giải de Cervantes năm 1994 và giải Nobel văn học năm 2010. Các tác phẩm chủ yếu của Mario Vargas Llosa như: “Thành phố và lũ chó”, “D́ Lulia và nhà văn quèn”, “Tṛ chuyện trong quán Catedral”… đă được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

 

Kể từ khi tôi viết truyện ngắn đầu tiên, người ta thường hỏi những ǵ tôi viết có “thật” hay không. Dù những câu trả lời của tôi đôi lúc cũng thỏa măn được trí ṭ ṃ của họ, mỗi lần trong tôi, dù câu trả lời có thành thật đến mức nào, vẫn c̣n lại một cảm giác dai dẳng rằng tôi đă nói ǵ đó không trúng chủ đề cho lắm.

 

Với một số người, việc tiểu thuyết chính xác hay sai lệch cũng quan trọng như việc nó hay hay dở, và nhiều độc giả, hữu ư hay vô thức, đă liên kết hai vấn đề này với nhau. Ví dụ, các quan ṭa dị giáo Tây Ban Nha đă cấm xuất bản hay nhập khẩu tiểu thuyết vào các thuộc địa châu Mĩ nói tiếng Tây Ban Nha, cho rằng những cuốn sách vô nghĩa, vô lí - tức là sai sự thật - ấy có thể làm hại sức khỏe tinh thần của người bản địa. Do đó, trong 300 năm, người châu Mĩ nói tiếng Tây Ban Nha chỉ đọc các tác phẩm tiểu thuyết lậu, và phải đến sau Độc lập (năm 1816, ở Mexico) cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản ở châu Mĩ nói tiếng Tây Ban Nha mới xuất hiện. Thánh Bộ, trong việc cấm không chỉ các tác phẩm cụ thể mà c̣n cả một thể loại văn học nói chung, đă tạo nên trong đôi mắt của nó một luật lệ không có ngoại lệ: tiểu thuyết luôn dối trá, chúng thể hiện một góc nh́n sai lầm về cuộc sống. Mấy năm trước tôi đă viết một bài châm biếm những kẻ cuồng tín tùy tiện ấy. Giờ tôi tin các quan ṭa dị giáo Tây Ban Nha là những người đầu tiên hiểu được - trước cả các nhà phê b́nh và tiểu thuyết gia - bản chất của văn học hư cấu và những khuynh hướng lật đổ của nó.

 

Trên thực tế, tiểu thuyết có nói dối - chúng không thể không làm như vậy - nhưng đấy chỉ là một phần của câu chuyện. Phần c̣n lại là thông qua việc nói dối, chúng thể hiện một sự thật lạ lùng, vốn chỉ có thể được thể hiện trong một thời trang che đậy và giấu kín, giả dạng là cái không phải là nó. Phát biểu này nghe có vẻ vô nghĩa. Nhưng thực ra nó khá đơn giản. Con người không thỏa măn với số phận của ḿnh và gần như tất cả - giàu hay nghèo, xán lạn hay tầm thường, nổi tiếng hay vô danh - đều muốn có một cuộc sống khác với cuộc sống họ đang có. Để (khéo léo) xoa dịu thèm muốn này, văn học hư cấu ra đời. Nó được viết và được đọc để cho con người những cuộc đời mà họ không cam chịu là không có. Mầm mống của mỗi tiểu thuyết đều chứa đựng một thành tố là sự không cam chịu và ham muốn.

 

Có phải điều này có nghĩa là tiểu thuyết đồng nghĩa với phi thực tế? Có phải những kẻ cướp biển hướng nội của Conrad, những quư tộc uể oải của Proust, những người bé nhỏ vô danh nguy khốn của Kafka, và những nhân vật siêu h́nh uyên bác trong những câu chuyện của Borges khơi gợi chúng ta hoặc khiến chúng ta cảm động bởi họ không liên quan ǵ đến chúng ta, và bởi không thể đồng nhất những trải nghiệm của họ với trải nghiệm của chúng ta? Không phải. Ta phải tiến bước thận trọng, bởi con đường - của sự thật và dối trá trong địa hạt tiểu thuyết - này chứa đầy cạm bẫy và bất ḱ ốc đảo hấp dẫn nào cũng thường chỉ là ảo vọng.

 

Nói tiểu thuyết luôn nói dối nghĩa là thế nào? Không phải là những ǵ mà các sĩ quan và học viên vẫn tin ở Học viện Quân sự Leoncio Prado nơi - ít nhất là có vẻ - cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, Thành phố và những con chó, lấy bối cảnh, và là nơi nó bị đốt, với cáo buộc vu khống học viện này. Không phải là những ǵ mà người vợ đầu của tôi từng nghĩ sau khi đọc cuốn tiểu thuyết khác của tôi, D́ Julia và nhà biên kịch, bị cô hiểu không đúng rằng nó là chân dung của cô, và dẫn đến việc cô xuất bản một cuốn sách với ư định khôi phục sự thật đă bị văn học hư cấu thay đổi. Dĩ nhiên, cả hai câu chuyện đều chứa đựng nhiều sáng tác, sai lệch, và phóng đại hơn so với kí ức, và chưa bao giờ trong lúc viết chúng tôi t́m cách giữ độ trung thành với những con người và sự kiện nhất định, trước và không liên quan đến tiểu thuyết. Trong cả hai ví dụ, cũng như trong mọi thứ mà tôi từng viết, tôi bắt đầu với những trải nghiệm vẫn c̣n sống động trong kí ức và vẫn kích thích trí tưởng tượng của tôi rồi tưởng tượng ra những ǵ vốn là sự phản ánh rất không trung thành với chất liệu ban đầu ấy.

 

*

*   *

Tiểu thuyết không được viết nhằm kể lại cuộc sống mà nhằm biến đổi nó bằng cách thêm thắt vào nó. Trong những tiểu thuyết ngắn của nhà văn người Pháp Restif de La Bretonne, thực tại giống ảnh chụp nhất có thể, một biên mục phong tục Pháp thế kỉ 18. Nhưng trong danh mục phong tục hết mực kĩ càng ấy, nơi mọi thứ đều giống đời thực, vẫn c̣n thứ ǵ đó nữa, khác biệt, tối giản, và mang tính cách mạng - đó là việc trong thế giới này đàn ông không phải ḷng phụ nữ v́ sự thuần khiết của những đường nét của họ, vẻ đẹp của cơ thể họ, tư chất tinh thần của họ... mà chỉ v́ vẻ đẹp của đôi chân họ.

 

Ít thô hơn, ít rơ ràng hơn, và cũng ít ư thức hơn, mọi tiểu thuyết gia đều tái tạo cuộc sống - tôn tạo nó hoặc cắt xén nó - như Restif phi thường đă làm với sự chân thật thú vị. Những bổ sung tinh tế hoặc thô thiển vào cuộc sống ấy - nơi tiểu thuyết gia vật chất hóa những ám ảnh của ḿnh - tạo nên sự độc đáo của một tác phẩm hư cấu. Nó phụ thuộc sâu sắc vào việc nó thể hiện đầy đủ một nhu cầu chung đến đâu, và vào số lượng độc giả, qua thời gian và không gian, những người có thể nhận biết những muộn phiền tăm tối, ám ảnh của ḿnh với những cuộc thâm nhập lậu vào cuộc sống ấy. Có thể nào trong những tiểu thuyết của ḿnh, tôi đă cố gắng tạo ra một sự tương quan chính xác với những kí ức thực tế? Dĩ nhiên. Nhưng dù tôi có hoàn thành ḱ công tẻ nhạt của việc chỉ đơn giản thuật lại các sự kiện thực tế và mô tả những người có tiểu sử phù hợp với mô h́nh của họ như một chiếc găng tay th́ những tiểu thuyết của tôi cũng không v́ thế mà ít trung thực hay không trung thực hơn so với họ.

 

Giai thoại không phải là cái quyết định về cơ bản tính hiện thực hay giả dối của một tác phẩm hư cấu, mà đúng hơn là một ư tưởng không được sống mà được viết, được tạo nên từ từ ngữ mà không phải bằng những trải nghiệm sống. Sự kiện được chuyển dịch thành từ ngữ trải qua một quá tŕnh sửa đổi sâu sắc. Thực tế - trận chiến đẫm máu mà tôi tham gia, mô tả kiểu Gothic người con gái mà tôi yêu - chỉ là một điều, trong khi những dấu hiệu để mô tả nó lại là vô số. Bằng cách lựa chọn một số và loại bỏ số khác, tiểu thuyết gia ưa chuộng một và giết chết vô số khả năng hoặc phiên bản khác của cái mà anh ta đang mô tả. Tiểu thuyết gia do đó làm thay đổi bản chất, cái mô tả trở thành cái được mô tả.

 

Ở đây tôi đang chỉ đề cập đến trường hợp của nhà văn hiện thực, trường phái hay truyền thống mà tôi thuộc về, với những cuốn tiểu thuyết có liên quan đến các sự kiện mà người đọc có thể nh́n nhận là hợp lí từ trải nghiệm thực tế của riêng họ. Trên thực tế, có thể mối liên kết giữa thực tế và hư cấu có vẻ thậm chí không phải là vấn đề đối với một nhà văn mang phong cách giả tưởng, người mô tả những thế giới không thể ḥa giải và rơ ràng không tồn tại. Thật ra nó là một vấn đề nhưng theo một cách khác. Sự “phi thực tế” của văn học giả tưởng, đối với độc giả, trở thành một biểu tượng hay phúng dụ, nói cách khác, một đại diện của các thực tại, của những trải nghiệm mà anh ta có thể xem là có thể xảy ra trong đời sống. Cái quan trọng trong điều này - bản chất “hiện thực” hoặc “giả tưởng” của một giai thoại không phải là cái đánh dấu đường biên giới giữa sự thật và giả dối trong văn học hư cấu.

 

Cùng với sự thay đổi đầu tiên này - dấu vết của từ ngữ trong các sự kiện - c̣n có một sự thay đổi khác, không ít căn bản hơn: sự thay đổi của thời gian. Cuộc sống thực không ngừng trôi, thiếu trật tự, hỗn loạn, mỗi câu chuyện sáp nhập với mọi câu chuyện khác và do đó không bao giờ có một khởi đầu hay kết thúc. Cuộc sống trong một tác phẩm là một mô phỏng trong đó sự hỗn độn chóng mặt giành được trật tự, tổ chức, nguyên nhân và kết quả, khởi đầu và kết thúc. Phạm vi của một tiểu thuyết không chỉ được xác định bằng ngôn ngữ mà nó được viết mà c̣n bằng cả khung thời gian của nó, cách thức mà sự tồn tại diễn ra trong đó - những khoảng dừng và tăng tốc và góc nh́n theo tŕnh tự thời gian mà người kể chuyện dùng để mô tả khoảng thời gian được tường thuật ấy.

 

Dù có một khoảng cách giữa từ ngữ và sự kiện, luôn có một vực thẳm giữa thời gian thực và thời gian hư cấu. Thời gian trong tiểu thuyết là một thiết bị được tạo ra nhằm đạt được những hiệu ứng tâm lí nhất định. Trong đó, quá khứ có thể đến sau hiện tại - tác động đến trước nguyên nhân - như trong Hành tŕnh về hạt giống của Alejo Carpentier, bắt đầu bằng cái chết của một ông già và tiếp tục cho đến khi ông được thụ thai trong tử cung người mẹ. Nó cũng có thể chỉ là một quá khứ xa vời và không bao giờ chạm đến quá khứ gần đây, thời điểm mà từ đó người kể chuyện dẫn truyện, như trong phần lớn tiểu thuyết kinh điển. Nó cũng có thể là một hiện tại vĩnh cửu mà không có quá khứ hay tương lai, như trong các tác phẩm hư cấu của Samuel Beckett. Hoặc là một mê cung trong đó quá khứ, hiện tại, và tương lai cùng tồn tại, tiêu diệt lẫn nhau, như trong Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner.

 

Tiểu thuyết có một khởi đầu và kết thúc và, ngay cả trong những tiểu thuyết lỏng lẻo và rời rạc nhất, cuộc sống cũng mang một ư nghĩa rơ ràng, bởi chúng ta được quan sát một góc nh́n không bao giờ có trong đời thực mà chúng ta ch́m đắm trong đó. Trật tự này là một phát minh, một bổ sung của tiểu thuyết gia, người giả dối mang vẻ tái tạo cuộc sống khi, trên thực tế, anh ta đang chỉnh đốn nó. Văn học hư cấu phản bội cuộc sống, có lúc một cách tinh tế, có lúc một cách thô bạo, tóm gọn nó vào một sợi từ ngữ, làm giảm nó về quy mô và đặt nó trong tầm với của độc giả. Nhờ đó độc giả có thể đánh giá nó, thấu hiểu nó và, trên hết, sống cuộc sống đó mà không phải nhận sự trừng phạt như trong đời thực.

 

Như vậy, đâu là khác biệt giữa một tác phẩm hư cấu với một bản tin báo chí và một cuốn sách lịch sử? Chẳng phải chúng đều tạo nên từ từ ngữ hay sao? Và chẳng phải chúng, trong thời gian nhân tạo của tường thuật, cũng gói gọn cái thời gian thực, chảy vô bờ bến đó hay sao? Đó là câu hỏi về những hệ thống đối lập trong cách tiếp cận với thực tế: tiểu thuyết nổi dậy chống cuộc sống và vượt qua nó, các thể loại khác chỉ là nô lệ muôn kiếp của cuộc sống. Quan niệm về sự trung thực hoặc giả dối hoạt động khác nhau trong cả hai trường hợp. Trong lịch sử, nó xoay quanh mối tương quan giữa những ǵ được viết và thực tế tương ứng: càng gần th́ càng đúng, và càng xa th́ càng sai. Nói Lịch sử cách mạng Pháp của Michelet hay Chinh phục Peru của Prescott mang tính “tiểu thuyết” là một phê b́nh, một lời ám chỉ chúng thiếu nghiêm túc. Ghi lại những lỗi lịch sử trong Chiến tranh và ḥa b́nh so với các cuộc chiến tranh của Napoleon th́ thật phí thời gian - sự thật của tiểu thuyết không phụ thuộc vào sự kiện.

 

Thế th́ nó phụ thuộc vào điều ǵ? Vào quyền lực thuyết phục của riêng nó, vào sức mạnh giao tiếp của tính giả tưởng của nó, vào kĩ năng của sự ḱ ảo của nó. Mỗi cuốn tiểu thuyết hay đều nói thật và tiểu thuyết dở th́ nói dối. Với tiểu thuyết, “nói thật” là khiến độc giả trải nghiệm một ảo ảnh, và “nói dối” là không thể hoàn thành thủ đoạn ấy. Tiểu thuyết do đó là một thể loại phi luân lí, hay đúng hơn, đạo đức của nó là độc nhất, trong đó sự thật và giả dối là những khái niệm độc quyền thẩm mĩ.

 

Có thể nhận xét trên đây của tôi gợi ư rằng văn học hư cấu là một bịa đặt vô ích, một màn tung hứng thiếu sự siêu việt. Nhưng trái lại, dù có thể hoang dă, gốc rễ của văn học hư cấu lại ch́m trong trải nghiệm của con người, từ đó nó nhận được nguồn sống và đến lượt ḿnh nó lại nuôi dưỡng trải nghiệm đó. Một chủ đề xuyên suốt trong lịch sử văn học hư cấu là rủi ro trong việc tiến hành những ǵ tiểu thuyết nói theo nghĩa đen, trong việc tin rằng cuộc sống là con đường như những ǵ các tiểu thuyết gia mô tả. Những cuốn sách viết về tinh thần hiệp sĩ đă làm tê liệt bộ năo của Don Quixote và đưa ông lên đường đánh nhau với cối xay gió, và bi kịch của Emma Bovary đă không xảy ra nếu nhân vật của Flaubert không cố gắng làm như các nhân vật nữ trong những tiểu thuyết lăng mạn mà bà ấy đọc.

 

Bằng cách tin rằng thực tế giống văn học hư cấu, Alonso Quijano và Emma Bovary đă trải qua những biến động kinh hoàng. Chúng ta có lên án họ v́ điều đó không? Không, câu chuyện của họ khiến chúng ta cảm động và kính sợ; quyết định bất khả của việc sống trong tiểu thuyết ấy với chúng ta dường như là hiện thân của một thái độ lí tưởng chủ nghĩa tôn vinh loài người. Muốn khác đi khỏi cuộc sống của một người là khát vọng tối cao của nhân loại. Nó tạo nên điều tốt nhất và tệ nhất trong lịch sử được ghi nhận. Bao gồm cả các tác phẩm hư cấu.

 

Khi đọc tiểu thuyết, chúng ta không chỉ là chúng ta nữa mà bên cạnh đó c̣n là những sinh vật bị bỏ bùa ở giữa nơi tiểu thuyết gia đưa chúng ta vào. Sự đưa vào này là một cuộc hóa thân - nút thắt ngạt thở của cuộc đời chúng ta mở ra và chúng ta tiến tới trở thành những người khác, để có những trải nghiệm gián tiếp mà văn học hư cấu đă biến đổi thành trải nghiệm của chính chúng ta. Một giấc mơ ḱ diệu, một hiện thân giả tưởng, văn học hư cấu hoàn thiện chúng ta, những sinh vật hư hại mang gánh nặng của sự phân tách khủng khiếp giữa việc chỉ có một cuộc đời với khả năng mong muốn có một ngàn cuộc đời. Khoảng cách giữa đời thực với những mong muốn và tưởng tượng đ̣i hỏi nó phong phú và đa dạng hơn chính là địa hạt của tiểu thuyết.

 

Ở trung tâm của mọi tác phẩm hư cấu nổ ra một cuộc biểu t́nh. Tác giả tạo ra chúng bởi họ không thể nào sống trong chúng, c̣n độc giả (và người tin tưởng) chúng th́ gặp trong những sinh vật tưởng tượng ấy những gương mặt và những cuộc phiêu lưu cần thiết để nâng cao cuộc sống của ḿnh. Đó là sự thật được thể hiện bởi những dối trá trong văn học hư cấu - những dối trá mà chính chúng ta là chúng, những dối trá an ủi chúng ta và bù đắp cho những khát vọng và thất vọng của chúng ta. Thế th́ đáng tin cậy đến đâu lời kể của một tiểu thuyết về chính xă hội đă tạo ra nó? Có phải những con người ấy thực sự như thế? Họ có như thế, theo nghĩa đó là cách mà họ muốn, đó là cách họ h́nh dung ḿnh yêu thương, đau khổ, và vui mừng. Những dối trá ấy không ghi lại cuộc sống của họ mà thay vào đó là những muộn phiền của họ - những giấc mơ chuốc say họ và khiến cuộc sống của họ dễ chịu hơn. Sống trong một kỉ nguyên không chỉ có những sinh vật tạo nên từ máu thịt, mà c̣n có những sinh vật tưởng tượng mà chúng được biến đổi thành để phá vỡ những rào cản giới hạn chúng.

*

*    *

Những dối trá trong tiểu thuyết không vô ích - chúng lấp đầy những thiếu sót của cuộc sống. Do đó, khi cuộc sống dường như vẹn toàn và tuyệt đối, khi con người v́ một đức tin toàn tâm toàn ư mà cam chịu số phận, th́ tiểu thuyết không phụng sự ǵ. Các nền văn hóa tôn giáo tạo thơ ca và kịch nghệ, không phải tiểu thuyết. Văn học hư cấu là một nghệ thuật của các xă hội mà trong đó đức tin đang trải qua một dạng khủng hoảng, trong đó người ta cần tin tưởng một điều ǵ đó, trong đó tầm nh́n nhất thể, tin tưởng, và tuyệt đối đă bị thay thế bằng một tầm nh́n tan vỡ và sự bất trắc về thế giới mà chúng ta đang sống và về hậu thế giới.

 

Mỗi tiểu thuyết, ngoài việc phi luân lí, c̣n chứa đựng trong cốt lơi của nó một thái độ hoài nghi nhất định. Khi văn hóa tôn giáo rơi vào khủng hoảng, cuộc sống dường như mất đi mọi khung đỡ, giáo điều, và giáo luật ràng buộc và biến thành hỗn loạn. Đó là thời khắc tối ưu của tiểu thuyết. Những trật tự nhân tạo của nó cung cấp nơi trú ẩn, an ninh, và tự do giải phóng những ham muốn và sợ hăi mà đời thực khơi gợi nhưng không thể thỏa măn hay xua đuổi. Văn học hư cấu là sự thay thế tạm thời cho cuộc sống. Trở lại với thực tế gần như là một sự khốn cùng, sự chứng thực tàn bạo rằng chúng ta kém hơn những ǵ chúng ta mơ ước. Điều đó có nghĩa là văn học hư cấu, bằng cách khích lệ trí tưởng tượng, vừa xoa dịu bất măn của con người đồng thời vừa kích động nó.

 

Ṭa dị giáo Tây Ban Nha hiểu được mối nguy ấy. Sống cuộc sống qua văn học hư cấu mà không sống trong thực tế là một nguồn lo ngại, một sai lệch với sự tồn tại có thể biến thành sự phản kháng, một thái độ bất tuân với cái vốn có từ lâu. Ta có thể hiểu rơ tại sao các chế độ t́m cách nắm quyền kiểm soát toàn bộ cuộc sống lại ngờ vực các tác phẩm hư cấu và đưa chúng vào kiểm duyệt. Thoát khỏi bản ngă của một người, trở thành một người khác, ngay cả trong ảo tưởng, là một cách trở nên ít nô lệ hơn và trải nghiệm những rủi ro của tự do

 

NGUYỄN HUY HOÀNG dịch

 

 

Vấn đề “hư cấu và giải thiêng” trong tiểu thuyết lịch sử 

 

 

Tiểu thuyết lịch sử, tự bản thân tên gọi của nó đă thể hiện rơ đặc trưng thể loại, phản ánh tính chất kép: pha trộn giữa những sáng tạo, hư cấu vốn là đặc tính cố hữu của tiểu thuyết với những sử liệu, một thứ kí ức đă được ghi chép lại của nhân loại. Tận trong gốc tích xa xưa th́ nó chính là sản phẩm thoát thai từ cuộc hôn phối đặc biệt giữa văn học - sử học (thời ḱ văn - sử - triết bất phân). Và đến nay th́ tiểu thuyết lịch sử đă trưởng thành với đầy đủ tư cách là một thể loại văn học độc lập, có sức vóc vạm vỡ đóng vai tṛ quan trọng trong đời sống văn học nói chung.

 

Mối quan hệ giữa hiện thực với văn học cũng như mối quan hệ mẫu - tử. Hiện thực luôn để lại dấu ấn trên tác phẩm văn học như cuống nhau nối kết giữa bà mẹ với đứa con. Dấu ấn hiện thực trong tiểu thuyết lịch sử chính là những sử liệu đă được nhà văn khai thác như là chất liệu để xây dựng tác phẩm. V́ lịch sử cũng là hiện thực, nhưng là thứ hiện thực đă từng xảy ra tại một phân đoạn trong ḍng chảy bất hoàn của thời gian. Thuộc về quá khứ nên lịch sử có hai đặc tính: vừa là cái đă hoàn kết, đóng băng trong những giá trị đă được cộng đồng qua nhiều thế hệ chấp thuận, lại vừa “mù mờ”, khó minh định.

 

Lí do khiến lịch sử “mù mờ” bất khả kiểm trong nhận thức của hậu thế là bởi xét đến cùng tất cả các pho sử, công tŕnh sử học do các nhà chép sử chấp bút đều bị chi phối bởi một thể chế, thế lực nhất định, hay chí ít cũng là thiên kiến chủ quan của cá nhân anh ta. Trong t́nh thế có tính thời đại th́ lịch sử chỉ là một thứ văn bản bị quyền uy thao túng, là tṛ chơi của một số ít người. Nguyên tắc sử quan phải tôn trọng sự thật luôn luôn bị phá vỡ, bị vi phạm. Do đó yêu cầu các ghi chép lịch sử phải đạt đến độ “chân không” - chân thực, khách quan tuyệt đối là một điều không tưởng. V́ thế tinh thần hoài nghi lịch sử là một trạng thái có thật. Những ǵ được ghi chép lại và truyền đến tận ngày nay rất có thể chỉ là “phẩn nổi” của tảng băng, c̣n bao nhiêu phần trăm của sự thật bị khuất lấp? Đặc điểm c̣n bỏ ngỏ này đă trao cho nhà văn cơ hội tuyệt vời để hư cấu, phục dựng, tái tạo lịch sử. Nếu như trong các thư tịch cổ, những nhân vật lịch sử chỉ được biết đến trong vài ḍng ngắn ngủi ghi lại sự tích, công trạng, quê quán, và những sự kiện lịch sử chỉ được biết đến với những cột mốc ghi lại ngày tháng, được, bại th́ tiểu thuyết lịch sử giúp kéo gần khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại. Nhờ thế  mà lớp hậu thế có thể “nhận mặt cha ông của ḿnh” thấy họ gần gũi hơn trong những giá trị NGƯỜI phổ quát chứ không phải là những vĩ nhân măi măi ở trên bệ thờ để cháu con chiêm bái từ xa.

 

 

 

Tiểu thuyết lịch sử  

 

Hư cấu lịch sử

 

Hư cấu là một yếu tố không thể không có trong các tiểu thuyết lịch sử. Không chỉ bởi đặc quyền của tiểu thuyết là hư cấu và tưởng tượng, mà c̣n bởi ở chính bản thân chất liệu lịch sử đă chứa đựng, khơi gợi những khả năng cho phép tác giả hư cấu và tưởng tượng. Mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu là mối quan hệ b́nh đẳng, giữa cái cần có và cái phải có. Đồng thời chúng cũng quy định, ràng buộc lẫn nhau. Là tiểu thuyết đương nhiên nó phải được hư cấu, là lịch sử đương nhiên nó phải mang dấu ấn hiện thực, phải chịu sự quy định của hiện thực. Mục đích của các công tŕnh sử kí là tái hiện một cách chân thực/tương đối những ǵ đă xảy ra trong quá khứ để chỉ ra tiến tŕnh vận động và những quy luật của lịch sử. C̣n mục đích của tiểu thuyết lịch sử lại là những h́nh tượng nghệ thuật - mà qua đó khái quát nên những quy luật lịch sử, những bài học nhân sinh một cách gián tiếp theo phương thức tiếp nhận đặc thù của nghệ thuật. Sử dụng các yếu tố hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử không những để cung cấp cho người đọc một cái nh́n khác về lịch sử mà c̣n nhằm gia tăng chiều sâu cho cái nh́n đó. Người đọc sẽ thấy một bản diện tinh thần sống động đằng sau những cái tên đă bị đóng băng bởi thời gian, bị cố định trong những những nhận định đă hóa thành chân lí của người đời. Nhà văn hướng tới một mục đích gần gũi hơn và thiết thực hơn là nắm bắt, thấu hiểu được những suy tư, trăn trở từng diễn ra trong tâm thức cha ông. Lấy nay để hiểu xưa và ngược lại nhờ thế lịch sử mang ư nghĩa giáo dục của nó.

 

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cho rằng: “Đă gọi là tiểu thuyết th́ phải hư cấu. Khi hư cấu người viết vận dụng toàn bộ văn hóa tinh thần của ḿnh, toàn bộ kinh nghiệm sống của ḿnh. Đó là sự tổng hợp, sự ḥa trộn nhuần nhuyễn giữa thực và hư, giữa lịch sử và hiện tại, giữa tri thức và cảm thức.” Gần gũi với quan điểm đó, nhà văn Hoàng Quốc Hải th́ cho rằng: “Tiểu thuyết nói chung kể cả tiểu thuyết lịch sử đều phải lấy hư cấu làm phương tiện nghệ thuật. Vấn đề là phải hư cấu như thế nào đạt đến chân thực lịch sử và chân thực cuộc sống. Chân thực đến mức người đọc phải thừa nhận đây mới là lịch sử. Cũng không có nghĩa là sự bịa tạc, mà là sự t́m ṭi đi đến chân thực. Và sự thật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử đáng tin cậy hơn v́ nó được giải mă, nó có cuộc sống. Sự thật lịch sử trong lịch sử chỉ là những tín hiệu chứa đựng những thông tin vô cảm nhưng trong tiểu thuyết lịch sử nó lại sống động. Đấy là nói đến những tiểu thuyết lịch sử đă được giải mă đúng hướng.” 

 

Giải thiêng lịch sử

 

Vấn đề hư cấu lịch sử luôn đi liền với vấn đề giải thiêng lịch sử. Có thể nói rằng thuật ngữ “giải thiêng lịch sử” gần đây đă không được hiểu một cách thấu đáo hay cố t́nh gán ghép cho những ư nghĩa thuần tiêu cực. Nhiều người luôn cho rằng giải thiêng lịch sử là bóp méo, xuyên tạc lịch sử bằng quyền hư cấu và tưởng tượng của người viết. Giải thiêng lịch sử là ǵ, theo nghĩa của từ điển: “giải thiêng” là làm mất đi tính thiêng liêng của vật hay người đó. Như vậy “giải thiêng lịch sử” là làm cho lịch sử mất đi tính thiêng liêng của nó.

 

Mới nghe nói “giải thiêng” làm cho lịch sử mất đi tính thiêng liêng th́ hơi đao to búa lớn nhưng nếu nh́n nhận ở tính hai mặt th́ giải thiêng lịch sử cũng có những ư nghĩa tích cực của nó. Giải thiêng lịch sử và quá tŕnh giải mă lịch sử, là quá tŕnh đưa các nhân vật lịch sử trở nên gần gũi với đời sống hơn. Các nhân vật lịch sử trong các tác phẩm văn học nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng được quyền đi lại, ăn nói, sinh hoạt như các cá nhân b́nh thường khác trong hoàn cảnh xă hội, thời đại của họ. Họ không phải những con người không có thực mà hoàn toàn là những cá nhân đă từng tồn tại trong một thời điểm nhất định. Giải thiêng lịch sử là quá tŕnh thúc đẩy sự gần gũi, tiếp cận với các nhân vật lịch sử trong mối quan hệ với các thế hệ hậu sinh, để cho các nhân vật lịch sử không đơn thuần là những ông thánh, là những người cao xa vời vợi chỉ có đứng từ xa để chiêm bái, ngưỡng vọng…

 

Nếu khai thác theo hướng tích cực th́ việc giải thiêng lịch sử tạo cơ hội cho người đọc hiểu và yêu quư hơn các nhân vật là thần tượng của ḿnh, họ không những là các vĩ nhân, anh hùng trong các chiến trận mà c̣n là những cá nhân có một cuộc sống đời thường như những người khác. Quan sát họ, hiểu họ qua sự tái hiện, hư cấu, sáng tạo của nhà văn từ đó nhiều bài học hữu ích, thiết thực được rút ra. Cách sống, cách xử thế của đời trước có ích cho đời sau và người đọc cũng có thể nhờ đó tránh được các lỗi lầm mà tiền nhân, dù là các vĩ nhân cũng có khi mắc phải.

 

Trong các bộ tiểu thuyết lịch sử được chú ư gần đây như Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Hồ Quư Ly,Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Băo táp triều Trần, Tám triều vua Lư của Hoàng Quốc Hải, Giàn Thiêu của Vơ Thị Hảo, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Du, Thông reo ngàn Hống của Nguyễn Thế Quang, Sương mù tháng Giêng của Uông Triều… đă phần nào lí giải được các khuynh hướng đó. Người anh hùng Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ không chỉ hiện lên như một bậc anh hùng có tài cầm quân bách chiến, bách thắng mà cũng là con người có những yêu ghét đời thường, thậm chí có những t́nh cảm rất giản dị, tha thiết với một người con gái nơi quê nhà. Hồ Quư Ly trong tiểu thuyết cùng tên th́ không chỉ là một con người túc chí đa mưu, một nhân vật đầy uy quyền khi triều Trần đă sắp suy tàn mà ông cũng canh cánh trong ḷng những ư định cải cách quốc gia, sự buồn tủi v́ không được nhân dân ủng hộ và có cả những đau buồn rất riêng tư với người vợ mà ông yêu quư. Nguyên phi Ỷ Lan trong Giàn thiêu th́ ngoài những ḱ tích về tài nhiếp chính th́ bà cũng có những sai lầm, ghen tuông nhất thời mà đă phải ân hận cay đắng cả đời. Nguyễn Trăi trong cuốn tiểu thuyết Hội thề gây tranh căi cũng có bao trăn trở, mâu thuẫn giữa phe trí thức, phe vơ biền trong hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. C̣n Trần Khánh Dư trong Sương mù tháng Giêng vừa là con người kiêu hùng, dũng mănh trong chiến trận nhưng cũng là bậc đào hoa trong t́nh trường, mưu lợi trong việc công tư…

 

Có thể nói, qua những diễn giải mới, cách hiểu mới của các nhà văn, các nhân vật lịch sử đă hiện lên sống động hơn, người hơn. Các anh hùng thời đại đă không hiện ra với một mô típ đơn điệu nhàm chán mà có xương có thịt, có tính cách, có sự yêu ghét, trăn trở như những người thực ngoài đời. Sự giải thiêng với chiều hướng tích cực đă mang lại nhiều cách tiếp cận, cách hiểu lịch sử. Điều đó cũng góp phẩn đẩy lùi được khuynh hướng ca ngợi một chiều, thần thánh hóa quá mức, khiến cho đến các nhân vật lịch sử trở lên nhàm chán, ít mang ư nghĩa giáo dục hay người đọc có thể hoài nghi về sự tồn tại của chính các nhân vật đó. Ngoài ra, đối với nhà văn, khuynh hướng ca ngợi một chiều chính là lực cản, ḱm hăm quá tŕnh t́m ṭi, sáng tạo.

 

Song song với quá tŕnh “giải thiêng lịch sử” theo hướng tích cực nói trên th́ cũng có những người lợi dụng sự giải thiêng, quyền hư cấu và trí tưởng tượng của ḿnh để bôi nhọ hoặc khai thác quá mức các nhược điểm của các danh nhân. Nhân vật lịch sử đôi khi có một khuyết điểm, lỗi lầm nhỏ mà bị lợi dụng để thổi phồng lên, quy kết về tư cách đạo đức hoặc phủ nhận các giá trị mà nhân vật mang lại. Nhà văn có quyền hư cấu theo trí tưởng tượng của ḿnh, thậm chí có quyền hư cấu hoàn toàn như một nhà văn lăo thành chuyên viết tiểu thuyết lịch sử đă từng tuyên bố. Nhưng chỗ nào là giới hạn cho sự hư cấu, chỗ nào người viết có thể giải thiêng, chỗ nào cần có một sự tiếp cận, tường giải thận trọng là điều phải tính đến. Không thể lợi dụng sự cởi mở của tư duy sáng tạo để bôi nhọ lịch sử, thóa mạ các danh nhân. Vấn đề liều lượng và những giới hạn, những ngưỡng được chạm đến trong quá tŕnh sáng tác cần được suy nghĩ thấu đáo, cái tâm của người viết, tránh lối suy diễn vô căn cứ với dụng ư xấu. Giải thiêng lịch sử là một ḍng chảy, một khuynh hướng không thể cưỡng lại hoặc ngăn cản nhưng làm cách nào để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực và có một thái độ khách quan đúng mức là điều quan trọng cho những người cầm bút. Giải thiêng nhân vật lịch sử không có nghĩa là hạ bệ, tầm thường hóa họ mà để kéo họ lại gần với hậu thế hơn.

 

 

 


 

SERVED IN A NOBLE CAUSE

 

 

 

Vietnamese commandos : hearing before the Select Committee on Intelligence

of the United States Senate, One Hundred Fourth Congress, second session ...

Wednesday, June 19, 1996

 

CLIP RELEASED JULY 21/2015

https://www.youtube.com/watch?list=PLEr4wlBhmZ8qYiZf7TfA6sNE8qjhOHDR6&v=6il0C0UU8Qg

  

 

US SENATE APPROVED VIETNAMESE COMMANDOS COMPENSATION BILL

http://www.c-span.org/video/?73094-1/senate-session&start=15807

BẮT ĐẦU TỪ PHÚT 4:22:12 - 4:52:10  (13.20 - 13.50)

 


Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Những người lính một thời bị lăng quên: Viết Lại Lịch Sử

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

֎ Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn  ֎ Một Trang Lịch Sử

֎ Vietnamese Commandos' History ֎ Vietnamese Commandos vs US Government ֎ Lost Army Commandos

֎ Bill of Compensation ֎ Never forget ֎ Viết Lại Lịch Sử  Video ֎ Secret Army Secret War Video

֎ Đứng Đầu Ngọn Gió Video ֎ Con Người Bất Khuất Video ֎ Dấu Chân Biệt Kích Video ֎ Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video

֎ The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.֎ Gulf of Tonkin Incident ֎ Pentagon Bạch Hóa ֎ The heart of a boy

֎ U.S Debt Clock ֎ Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton

֎ Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton ֎ None Dare Call It Conspiracy Gary Allen

֎ Chiến Tranh Tiền Tệ (Currency War) ֎ Confessions of an Economic Hit Man John Perkins

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Trăm Việt trên vùng định mệnh ֎ Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)

֎ OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis ֎ Lyndon Baines Johnson Library Musuem

֎ Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn ֎ Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam B́nh Nguyên Lộc

֎ Nghi Thức Ngoại Giao ֎ Lễ Nghi Quân Cách ֎ Sắc lệnh Cờ Vàng ֎ Quốc Tế Cộng Sản

֎ How Does a Bill Become Law?֎ New World Order ֎ Diplomacy Protocol. PDF

֎ The World Order Eustace Mullin ֎ Why Vietnam? Archimedes L. A. Patti

֎ Vietnam War Document ֎ American Policy in Vietnam

֎ Foreign Relations Vietnam Volum-1 ֎ The Pentagon Papers ֎ Pentagon Papers Archives

֎ Vietnam and Southeast Asia Doc ֎ Vietnam War Bibliogaphy ֎ Công Ước LHQ về Luật Biển

֎ CIA and NGOs ֎ CIA And The Generals ֎ CIA And The House Of Ngo ֎ Global Slavery

֎ Dấu Binh Lửa ֎ Đại Hội Toàn Quân? Phùng Ngọc Sa

֎ Bách Việt  ֎ Lược Sử Thích Ca  ֎ Chủ thuyết Dân Tộc Sinh Tồn

֎ Silenced! The Unsolved Murders of Immigrant Journalists in the USA. Juan Gonzales

֎ Society of Professional Journalists: Code of Ethics download

֎ Douglas Mac Arthur 1962 ֎ Douglas Mac Arthur 1951 ֎ John Hanson, President of the Continental Congress

֎ Phương Pháp Biện Luận ֎ Build your knowledge

֎ To be good writer ֎ Ca Dao -Tục Ngữ ֎ Chùa Bái Đính ֎ Hán Việt

֎ Top 10 Crime Rates  ֎ Lever Act ֎ Espionage Act 1917 ֎ Indochina War ֎ Postdam ֎ Selective Service Act

֎ War Labor Board ֎ War of Industries ֎ War Production Board ֎ WWII Weapon ֎ Supply Enemy ֎ Wold War II ֎ OSS

֎ Richest of The World ֎ Truman Committee   ֎ World Population ֎ World Debt ֎ US Debt Clock ֎

֎ An Sinh Xă Hội - Cách T́m IP Email ֎ Public Holiday ֎ Funny National Days

֎ Oil Clock ֎ GlobalResearch ֎ Realworldorder ֎ Thirdworldtraveler ֎ Thrivemovement ֎ Prisonplanet.com ֎ Infowars

֎ Rally protest ֎ Sơ Lược VềThuyền Nhân ֎ The Vietnamese Population in USA

֎ VietUni ֎ Funny National Days  ֎ 1DayNotes 

 

Liên lạc trang chủ

E Mail: kimau48@yahoo.com, kimau48@gmail.com

Cell: 404-593-4036

 

Tặng Kim Âu


Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.


Thảo Đường Cư Sĩ.

 

Your name:


Your email:


Your comments: