Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3BannerLottery

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời thú tội của một Sát thủ Kinh tế

 

"Confessions of an Economic Hit Man"

  

Tác giả: John Perkins

 

 

 

Chương 35

Phá vỡ lớp vỏ bọc

 

 

 

 

Chỉ ít lâu sau khi tôi từ Ecuador trở về, năm 2003, Mỹ tiến hành xâm lược Iraq lần thứ hai trong vòng hơn mười năm. Các EHM đã thất bại. Lũ chó săn giết người đã thất bại.Vì thế mà có thêm rất nhiều thanh niên, cả nam lẫn nữ, bị đưa đến vùng gió cát sa mạc này để giết chóc và rồi chính họ cũng bị chết . Cuộc xâm lược này đã đặt ra một câu hỏi quan trọng, mà theo tôi chỉ có một số ít người Mỹ có đủ tư cách để trả lời. Câu hỏi đó là cuộc chiến này có ý nghĩa như thế nào đối với Hoàng gia Ảrập Xêút. Một khi Mỹ chiến được Iraq, đất nước mà theo nhiều ước tính có trữ lượng dầu mỏ còn lớn hơn cả Ảrập Xêút, Mỹ hẳn sẽ không phải tiếp tục tôn trọng cái thỏa thuận mà chúng tôi đã ký với Hoàng gia Ảrập Xêút vào thập niên 70, bắt nguồn từ vụ rửa tiền của Ảrập Xêút.

 

Sự kết thúc của chính quyền Saddam, cũng giống như của chính quyền Noriega ở Panama, có thể sẽ khôi phục lại chính quyền bù nhìn, Mỹ đã kiểm soát được kênh đào Panama, bất chấp tất cả những điều kiện ghi trong Hiệp ước đàm phán giữa Torrijos và Tổng thống Carter. Vậy một khi Mỹ có được Iraq, liệu Mỹ có thể phá vỡ khối OPEC được không? Phải chăng Hoàng gia Ảrập Xêút sẽ chẳng còn vai trò gì trên trường chính trị dầu mỏ toàn cầu? Một số học giả đã cho đặt câu hỏi, tại sao chính quyền Bush lại tấn công Iraq mà không dồn toàn lực để truy quét AlQaeda ở Afghanistan. Liệu có phải trong con mắt của chính quyền này - cái gia đình dầu lửa này - thì có việc tạo lập các nguồn cung cấp dầu, cũng như việc cần phải có các hợp đồng xây dựng còn quan trọng hơn nhiều so với việc chống khủng bố?

Tuy nhiên, vẫn còn có một khả năng khác nữa là OPEC sẽ cố gắng lên tiếng đòi quyền lợi của mình. Nếu Mỹ chiếm được Iraq, các nước có nhiều dầu mỏ khác cũng chẳng mất gì vì họ có thể tăng giá dầu hoặc giảm lượng cung dầu. Khả năng này gắn liền với một kịch bản khác. Kịch bản đó chỉ xảy ra với một số ít người nằm ngoài thế giới tài chính quốc tế cấp cao, song lại có thể làm nghiêng cả cán cân quyền lực địa chính trị và dần dà sẽ phá vỡ hệ thống mà chế độ tập đoàn trị đã cố hết sức để dựng lên. Trên thực tế, có thể đây là nhân tố duy nhất khiến đế chế toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử đi đến chỗ hủy diệt.

 Suy cho cùng, đế chế toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào việc đồng đô la hiện đang là đồng tiền tiêu chuẩn của thế giới và chỉ có cơ quan in tiền Mỹ có quyền in những đồng đôla này mà thôi. Vì thế, chúng tôi cho những nước như Ecuador vay những khoản vay mà chúng tôi biết chắc rằng họ không bao giờ có thể trả được.

Trên thực tế, chúng tôi cũng không muốn họ thanh toán các khoản nợ này đúng hạn vì có như thế chúng tôi có quyền và có cớ để thúc nợ. Thông thường, chúng tôi có thể gặp rủi ro vì nguồn vốn của chúng tôi sẽ dần hao kiệt khi làm như vậy vì xét cho cùng, không chủ nợ nào có thể cầm cự được khi có quá nhiều khoản vay không được thanh toán. Tuy nhiên, trường hợp của chúng tôi lại khác. Tiền nước Mỹ in ra không dựa trên kim bản vị. Trên thực tế, sức mạnh của đồng đola không dựa trên bất cứ thứ gì ngoài lòng tin nói chung của toàn thế giới đối với sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và đối với khả năng kiểm soát được tất cả các nguồn lực và thế lực của đế chế mà Mỹ đã tạo ra để hậu thuẫn cho mình.

Việc có được đồng ngọai tệ mạnh nhất thế giới đã đem lại cho nước Mỹ một sức mạnh vô biên. Điều này có nghĩa là, Mỹ có thể tiếp tục cung cấp những khoản vay không bao giờ được hoàn lại, và chính nước Mỹ cũng có thể tích lũy những khoản nợ khổng lồ. Tính đến đầu năm 2003, nợ quốc gia của Mỹ đã vượt quá mức 6.000 tỷ USD - một con số khổng lồ và được báo sẽ lên tới 7.000 tỷ USD trước khi bước sang năm 2004. Như vậy, trung bình mỗi công dân nước Mỹ nợ 24.000 USD. Phần lớn các khoản nợ của  Mỹ là nợ các nước Châu Á, đặc biệt là Nhật Bản và Trung Quốc. Những nước này mua trái phiếu kho bạc Mỹ (về cơ bản dưới dạng vay nợ không chính thức) từ tiền tích lũy được qua việc bán đồ tiêu dùng - các mặt hàng điện như đồ điện tử, máy tính, ôtô, các thiết bị và hàng may mặc sang thị trường Mỹ và thị trường thế giới.1

Chừng nào cả thế giới còn công nhận đồng đôla là đồng tiền của thế giới, khoản nợ quá mức này sẽ chẳng gây ra cản trở nghiêm trọng nào đối với chế độ tập đoàn trị. Tuy nhiên, trong trường hợp có một đồng tiền khác mạnh lên và đủ sức thay thế đôla, và nếu các chủ nợ của Mỹ, như Nhật Bản hay Trung Quốc, quyết định thu hồi các khoản nợ của Mỹ, tình hình sẽ trở  nên hết sức tồi tệ. Khi đó, nước Mỹ sẽ bất thình lình rơi vào tình thế vô cùng nguy hiểm.

Trên thực tế hiện nay, sự tồn tại một đồng tiền như vậy không còn chỉ là một giả thiết. Sau khi xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới vào tháng 1 năm 2002, hàng tháng, sức mạnh và vị thế của đồng Euro không ngừng tăng lên. Đồng Euro mang lại một cơ hội hiếm có cho các nước OPEC nếu các nước này quyết định trả đũa cho cuộc tấn công của Mỹ vào Iraq, hoặc bất chợt ví một lý do nào đó họ muốn đối đầu trực diện với Mỹ. Quyết định của OPEC sử dụng đồng Euro thay cho đồng đôla làm đồng tiền tiêu chuẩn của tổ chức này sẽ làm rung chuyển đến tận gốc rễ đế chế toàn cầu Mỹ. Một khi điều đó xảy ra, và nếu một hoặc cả hai chủ nợ của Mỹ đòi tới nước Mỹ thanh toán các khoản vay bằng Euro, tác động của chúng tới nước Mỹ sẽ thật khủng khiếp.

Buổi sáng ngày thứ sáu Tuần thánh, 18/4/2003, vừa đi bộ từ nhà ra gara cũ đã được cải tạo lại làm văn phòng, tôi vừa nghĩ về những điều này. Nhưng khi đến nơi, ngồi vào bàn, bật máy tính lên và như thường lệ, mở trang tin của tờ New York Times, một tiêu đề báo đập ngay vào mắt tôi: “Mỹ trao cho tập đoàn Bechtel một hợp đồng quan trọng để tái thiết Iraq”.

Ngay lập tức, nó khiến suy nghĩ của tôi chuyển từ những cục diện mới của thế giới tài chính quốc tế, về nợ quốc gia và đồng Euro sang công việc trước đây của tôi. Bài báo viết: “Chính quyền Bush đã ban tặng cho tập đoàn Bechtel ở San Francisco hợp đồng đầu tiên của ngày hôm nay trong một kế hoạch rất lớn về tái thiết Iraq”. Ở đoạn dưới, tác giả thông báo cho người đọc biết: “Người Iraq sau đó sẽ làm việc với Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ Quốc tế, những cơ quan quốc tế mà Mỹ có tầm ảnh hưởng lớn, để tái thiết lại đất nựớc”.2

 

Tầm ảnh hưởng lớn! Rõ ràng tác giả đã nói nhẹ đi rất nhiều

 

Tôi nhấp chuột chuyển sang một bài báo khác của Times có tiêu đề “ Một công ty có những mối quan hệ ở Washington, và với Iraq”. Tôi bỏ qua vài khổ đầu, chủ yếu là nhắc lại các thông tin đã nêu trong bài báo trước, và đọc tới đoạn:

Bechtel có những mối quan hệ gắn bó lâu năm với hệ thống cơ quan an ninh quốc gia... Một giám đốc của công ty là Geogre P.Shultz, người trước đây từng giữ chức ngoại trưởng dưới thời tổng thống Ronald Reagan. Trước khi làm việc cho chính quyền Reagan, ông Shultz, người hiện đang giữ cương vị cố vấn cấp cao của Bechtel, đã từng là chủ tịch công ty, làm việc cùng với Caspar W.Weinberger, từng là giám đốc điều hành công ty đặt tại San Francisco trước khi được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ quốc phòng. Trong năm nay, Tổng thống Bush đã bổ nhiệm ông Riley P.Bechtel, Tổng giám đốc của Bechtel tham gia trong hội đồng xuất khẩu của tổng thống.3

Những gì viết trong các bài báo này đã tóm gọn lịch sử hiện đại và sự phát triển của đế chế toàn cầu. Những gì đang diễn ra ở Iraq và được miêu tả trong tờ báo buổi sáng đó là kết quả của công việc mà Claudine đã huấn luyện tôi khoảng 35 năm về trước, và công việc mà những người khác đã làm, những người có chung một lòng tự phụ không khác gì tôi trước đây. Nó đánh dấu bước tiến của chế độ tập đoàn trị trên con đường quy phục tất cả mọi người trên thế giới trong vòng ảnh hưởng của mình.

Những bài báo trên viết về cuộc xâm lược Iraq của Mỹ năm 2003 và về những hợp đồng đang được ký kết, cả hai đều nhằm tái thiết đất nước này từ sự điêu tàn do chính quân đội Mỹ gây ra, và xây dựng lại theo một mô hình hiện đại và tây hóa. Tất nhiên, dù không nói thẳng ra nhưng tin tức của ngày 18/4/2003 cũng quay trở lại với giai đoạn những năm đầu thập niên 70 và phi vụ rửa tiền của Ảrập Xêút. SAMA với các hợp đồng của mình đã tạo nên những tiền lệ mới và không thể thay đổi, đó là cho phép - thực tế là ủy thác các công ty chế tác, xây dựng và ngành dầu khí Mỹ tham dự vào sự phát triển một vương quốc trên sa mạc. Cũng với một sự ủng hộ tương tự, SAMA đã thiết lập nên các quy định mới về vấn đề quản lý xăng dầu trên toàn cầu, đánh giá lại tình hình địa chính trị và cùng với Hoàng gia Ảrập hình thành một liên minh nhằm bảo đảm vị trí bá chủ của họ cũng như những cam kết của họ về việc tuân thủ các luật chơi của chúng tôi.

Khi đọc những bài báo này, tôi không thể không thắc mắc, có bao nhiêu người, giống như tôi, đã biết rằng Saddam có thể vẫn nắm quyền nếu như ông ta đi theo con đường mà người Ảrập Xêút đã đi. Ông ta sẽ có tên lửa và các nhà máy sản xuất hóa chất; chúng tôi - nước Mỹ sẽ xây dựng chúng cho ông ta, và người của chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm nâng cấp và bảo quản những nhà máy và tên lửa đó. Đó sẽ là một thỏa thuận tuyệt vời, thậm chí có thể sánh ngang với vụ làm ăn ở Ảrập Xêút.

 

Mới gần đây, các phương tiện truyền thông chính thống vẫn còn rất thận trọng chưa hề công bố gì về câu chuyện này. Nhưng hôm nay, câu chuyện đó đã xuất hiện trên mặt báo. Đúng là nó vẫn còn là một ý niệm mơ hồ; các bài báo chỉ đưa ra vài nét dễ nghe nhất của một bản tóm tắt, song dường như câu chuyện đó đang nổi lên. Tôi tự hỏi không hiểu có phải tờ New York Times có quan điểm khác với đa số hay không, tôi vào website của hãng CNN và đọc bài báo có tiêu đề “Bechtel giành được hợp đồng tại Iraq”. Câu chuyện mà CNN đăng tải khá giống bài báo của Times, ngoại trừ đoạn sau đây:

 

Có vài công ty khác cũng đã nhiều lần được nhắc đến trong vai trò các đối thủ cạnh tranh đối với hợp đồng đó, hoặc với tư cách là nhà thầu chính hay tham gia trong một nhóm chung, trong đó có Kellogg Brown và Root (KBR), một nhánh của tập đoàn Halliburton- tập đoàn mà trước đây Phó Tổng thống Dick Cheney giữ từng chức tổng giám đốc... Halliburton đã thắng một hợp đồng trị giá tới 7 tỷ USD và có thể kéo dài trong hai năm, nhằm sửa chữa khẩn cấp các cơ sở vật chất về dầu của Iraq.4

 

Câu chuyện về con đường đi lên đế chế toàn cầu có vẻ thực sự đang bị rò rỉ ra bên ngoài. Không phải những chi tiết hay sự kiện cho thấy đó là một bi kịch về những khoản nợ, về sự lừa dối, tình trạng nô dịch hóa, tình trạng bóc lột hay sự chiếm đoạt những trái tim, khối óc, linh hồn và các nguồn lực của nhân loại trên thế giới một cách trắng trợn nhất. Cũng chẳng có chi tiết nào trong các bài báo này ám chỉ rằng câu chuyện Iraq năm 2003 là đoạn tiếp nối của một câu chuyện này, dù đã cũ như chính cái đế chế đó, song giờ đây đang phát triển theo những hướng mới còn kinh khủng hơn cả bởi vì quy mô của trong thời đại toàn cầu hóa và cả vì bản chất tinh vi của nó. Cho dù đã được cắt xén đi, trong câu chuyện thực sự có vẻ đang bị rò rỉ ra bên ngoài, dù là bất đắc dĩ.

Việc này đã đánh trúng suy nghĩ của tôi. Nó làm tôi nhớ tới câu chuyện của chính tôi mà trong rất nhiều năm tôi đã chần chừ không dám kể lại. Tôi đã biết từ lâu rằng tôi có những chuyện cần phải thú nhận; tuy nhiên tôi vẫn cứ lần nữa không làm. Nghĩ lại, tôi thấy, những nghi ngờ, những lời thì thầm về tội lỗi đã xuất hiện trong tôi ngay từ ban đầu. Chúng tôi bắt đầu có trong tôi từ lúc tôi bước vào căn hộ của Claudine, thậm chí trước cả khi tôi cam kết đến Inđônêxia trong chuyến công tác đầu tiên của mình, và không ngừng ám ảnh tôi trong suốt những năm tháng sau đó.

Tôi cũng biết rằng nếu như những nghi ngờ, những đau đớn, dằn vặt và cảm giác tội lỗi đó không liên tục day dứt tôi, tôi sẽ không bao giờ thoát ra được khỏi hệ thống đó. Giống như nhiều người khác, tôi sẽ bị trói buộc vào đó mãi mãi. Tôi sẽ không thể đứng trên bãi biển ở Virgin Island và quyết định rời khỏi MAIN. Mặc dù vậy, tôi vẫn cố trì hoãn, hình như trì hoãn đã trở thành một nét văn hóa của tôi vậy.

Những tiêu đề này dường như ám chỉ đến liên minh giữa các tập đoàn như bản lý lịch của tôi ở MAIN, những bài báo này mới chỉ chạm đến bề nổi, đến bề ngoài của vấn đề. Thực chất của câu chuyện chẳng liên quan gì đến việc các công ty chế tác và xây dựng lớn tiếp tục nhận được hàng tỷ đôla để xây dựng lại một đất nước theo tưởng tượng của chúng tôi - cho một dân tộc chắc chắn không muốn điều đó xảy ra. Nó cũng chẳng liên quan gì đến chuyện một nhóm nhỏ tầng lớp quý tộc đang lặp lại cái thói quen xấu có từ xa xưa là lợi dụng chức quyền trong chính phủ để thu lợi bất chính.

Bức tranh đó còn quá đơn giản. Nó hàm ý rằng tất cả những gì chúng tôi cần làm, để sửa đổi cả hệ thống, là vứt bỏ tất cả những con người đó đi. Nó nuôi dưỡng thuyết âm mưu và vì thế tạo lý do chính đáng cho tất cả mọi người bật tivi lên xem, quên đi tất cả những điều sai trái, và thoải mái nhìn nhận lịch sử bằng đôi mắt của học sinh lớp 3 là “Họ” sẽ lo điều đó; con tàu đất nước có thể chống chọi với sóng gió và vẫn luôn được giám sát. Chúng tôi có thể phải đợi tới cuộc bầu cử lần sau, nhưng tất cả diễn ra theo chiều hướng tốt nhất.

Câu chuyện thật về đế chế hiện đại - đế chế của chế độ tập đoàn trị đang bóc lột đến tận xương tủy những con người tuyệt vọng và đang tiến hành những cuộc vơ vét nguồn lực một cách tàn bạo nhất, ích kỷ nhất và cuối cùng sẽ đi đến tự hủy diệt - chẳng liên quan gì đến những điều được tiết lộ trong các bài báo buổi sáng hôm đó, song lại liên quan trực tiếp đến chúng tôi.

Và tất nhiên điều đó giải thích tại sao chúng tôi khó lòng muốn nghe câu chuyện thực đó. Chúng tôi muốn tin vào một điểu hoang đường là, hàng nghìn năm tiến hóa của xã hội loài người cuối cùng đã hoàn thiện một hệ thống kinh tế lý tưởng chứ không muốn đối mặt với thực tế là chúng tôi đã mang lại một khái niệm sai lầm và rồi chấp nhận nó như một đức tin. Chúng tôi đã tự lừa dối mình rằng tăng trưởng kinh tế luôn đem lại lợi ích cho nhân loại, tăng trưởng càng cao, lợi ích càng rộng khắp. Cuối cùng, chúng tôi thuyết phục hết người này đến người khác rằng hệ quả của khái niệm này là đúng đắn và xét về mặt đạo đức là công bằng: Chính những con người có tài nhóm lên ngọn lửa tăng trưởng kinh tế phải được đề cao và được đền đáp xứng đáng, còn những người sinh ra từ tầng lớp hèn kém thì đáng bóc lột.

Khái niệm này và hệ quả của nó được dùng để biện minh cho tất các kiểu cướp bóc- người ta cấp giấy phép cho tất cả các hành động hãm hiếp, cướp bóc và sát hại con người vô tội ở Iran, Panama, Côlômbia, Iraq và còn nhiều nơi khác. Chừng nào những hoạt động của những sát thủ kinh tế, lũ chó săn giết người, và quân đội còn được chứng minh là để tạo ra tăng trưởng- và đúng là các hoạt động này cũng luôn chứng tỏ sự tăng trưởng như vậy thật, chừng đó những con người này vẫn còn chỗ đứng. Nếu anh ném bom một thành phố và sau đó tái thiết nó thì nhờ các ngành “khoa học” sai lệch về dự báo, kinh tế lượng và thống kê, anh sẽ đưa ra được các dữ liệu cho thấy một sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc.

Thực sự là chúng tôi đang sống trong sự dối trá. Giống như bản lý lịch của tôi ở MAIN, chúng tôi đã tạo ra một vỏ bọc bên ngoài che giấu đi tất cả những tế bào ung thư chết người bên trong. Những tế bào ung thư này sẽ hiện ra dưới tia X-quang của các số liệu thống kê của chúng tôi, làm hé lộ một thực tế khủng khiếp là trong cái đế chế hùng mạnh và giàu có nhất lịch sử, tỷ lệ tự sát, nghiện ma túy, ly hôn, quấy rối trẻ em, hãm hiếp, và giết người cao đến mức kỳ quặc. Giống như khối u ác tính, những tai họa này di căn đến khắp các tế bào với bán kính không ngừng mở rộng mỗi năm. Trong sâu thẳm trái tim mỗi chúng tôi, ai cũng cảm nhận được sự đau đớn. Chúng tôi thét lên đòi phải thay đổi. Song chúng tôi lại tự lấy tay bịt miệng mình, cố nén tiếng thét đó và vì thế mà chẳng ai nghe thấy chúng tôi cả.

 Sẽ thật tuyệt vời nếu chúng tôi có thể buộc tội cho một âm mưu về tất cả những điều trên, nhưng chúng tôi không thể. Đế chế này phụ thuộc vào hiệu lực của các ngân hàng lớn, các tập đoàn và các chính phủ- chế độ tập đoàn trị, song nó không phải là một âm mưu. Chế độ tập đoàn trị chính là bản thân chúng tôi- chúng tôi biến nó thành hiện thực và đó chính là lý do vì sao chúng tôi cảm thấy khó có thể vùng lên và chống lại đế chế đó. Chúng tôi đành cứ phải nhìn thấy những kẻ chủ mưu đứng trong bóng tối, bởi vì đa số chúng tôi làm việc cho một trong số những ngân hàng, tập đoàn hay chính phủ đó, hoặc là theo cách nào đó chúng tôi bị lệ thuộc vào những hàng hóa và dịch vụ mà họ đã sản xuất ra và quảng cáo. Chúng tôi không thể phản lại những kẻ đang nuôi sống chúng tôi.

Đó là tình huống mà tôi suy nghĩ khi nhìn chằm chằm vào những tiêu đề báo trên màn hình máy tính trước mặt. Và tôi lại đặt ra vô số câu hỏi. Làm thế nào anh có thể chống lại cái hệ thống có vẻ như đã đem lại cho anh nhà cửa, xe cộ, cơm ăn áo mặc, điện nước và hệ thống y tế, ngay cả khi anh biết rõ rằng cũng chính hệ thống này đã tạo ra một thế giới mà cứ mỗi ngày lại có hai mươi tư nghìn người chết vì đói, cái thế giới khiến hàng triệu người căm ghét anh, hay ít nhất là căm ghét chính sách mà những đại diện cho các anh bầu ra vẽ lên? Làm thế nào anh có đủ can đảm bước ra khỏi hệ thống và thách thức cái khái niệm mà anh cũng như những người xung quanh anh vẫn thường coi là đức tin, ngay cả khi anh nghi ngờ rằng hệ thống đó đang trên đường đi đến chỗ diệt vong?

Tôi chậm rãi đứng lên, quay về nhà để uống thêm một tách cà phê nữa. Tôi đi đường vòng và lấy tờ Palm Beach Post đặt gần hộp thư trên đường lái xe vào nhà. Tờ báo này cũng có một bài về vụ Bechtel - Iraq, trích từ tờ New York Times.

Nhưng giờ đây, điều làm tôi chú ý là ngày tháng ghi trên tiêu đề: Ngày 18 tháng 4. Đó là một ngày nổi tiếng, ít nhất là ở New England, đã khắc sâu trong trí nhớ của tôi nhờ cha mẹ tôi, những người luôn nhắc đến cuộc Cách mạng giải phóng kể đi kể lại và nhờ những câu thơ của Longfellow.

 

Hãy lắng nghe, con yêu, và con sẽ thấy

Tiếng vó ngựa trong đêm của Paul Revere,

Vào ngày mười tám tháng tư, năm bảy mươi nhăm;

Liệu có ai đang sống vẫn còn nhớ đến

Những tháng năm hào hùng bi tráng đó.

 

Năm nay, ngày Thứ sáu Tuần thánh rơi đúng vào ngày kỷ niệm hành động dũng cảm của Paul Revere. Ngày tháng trên trang bìa tờ báo Post khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh người thợ bạc đang rạp mình phóng ngựa qua những dãy phố tối tăm trong các thị trấn của New England, vừa vẫy mũ vừa thét lớn: “Quân Anh đang tới!” Revere đã dám mạo hiểm tính mạng của mình để truyền thông điệp đó, và những người Mỹ trung thành với Tổ quốc đã đáp lại. Họ đã chặn đứng đế chế Anh ngay từ ngày ấy.

Tôi băn khoăn tự hỏi điều gì đã thôi thúc họ, tại sao những người Mỹ thuộc địa đó lại dám trái lệnh? Những người cầm đầu quân nổi dậy chống chính quyền khi đó đã rất giàu có. Vậy cái gì đã thôi thúc họ dám mạo hiểm cả công việc làm ăn của họ, chống lại chính quyền người đã nuôi sống họ và mạo hiểm cả cuộc sống của họ nữa? Không nghi ngờ gì, hẳn là mỗi người trong số đó đều có những lý do riêng song chắc chắn đã có một động lực chung, một năng lượng hay một cái gì đó thôi thúc họ, một tia lửa giúp thổi bùng lên những ngọn lửa nhỏ trong từng con người vào cái thời khắc duy nhất đó của lịch sử.

 

Và tôi đã tìm ra: Đó chính là từ ngữ.

 

Việc kể lại câu chuyện thật về đế chế Anh, về hệ thống trọng thương đầy ích kỷ và cuối cùng đã đi đến chỗ tự diệt vong đã nhóm lên tia lửa đó. Phơi bày những ý nghĩa sâu xa qua từng câu chữ của những người như Tom Paine và Thomas Jefferson đã kích thích trí tưởng tượng của những người đồng hương, mở rộng trái tim và tâm hồn của họ. Dân đi khai phá những vùng đất mới bắt đầu đặt ra câu hỏi, và khi làm việc đó, họ phát hiện ra một thực tế mới đã bị che lấp bởi sự dối trá. Họ nhận thức được sự thật ở dưới lớp vỏ bóng bẩy bề ngoài, hiểu được cái cách mà đế chế Anh đã thao túng, lừa dối và nô dịch hóa bản thân họ.

Họ nhận ra rằng, những ông chủ người Anh đã dựng lên một hệ thống và sau đó thuyết phục những người khác tin vào một điều dối trá- rằng đó là hệ thống tốt nhất mà con người có thể nghĩ ra, rằng việc đó được một thế giới tốt đẹp hơn phụ thuộc vào việc chuyển các nguồn lực qua vị Vua của nước Anh, và rằng cái cách tiếp cận kiểu đế quốc về thương mại và chính trị là phương pháp hiệu quả nhất và nhân đạo nhất để giúp đỡ đa số nhân dân. Trong khi đó, trên thực tế, hệ thống này chỉ làm giàu cho một số rất ít người bằng mồ hôi nước mắt của số đông những người còn lại. Sự dối trá này, và hậu quả của nó là sự khai thác đến cạn kiệt các nguồn lực đã tồn tại và vươn xa trong nhiều thập niên, cho đến khi xuất hiện một nhóm các nhà triết học , các doanh nhân, những người nông dân, ngư dân, những người dân quê sống ở các vùng biên giới, các nhà văn, nhà diễn thuyết dám đứng lên nói ra sự thật.

Từ ngữ. Tôi cứ nghĩ mãi về đến sức mạnh của từ ngữ khi rót cho mình một tách cà phê, quay lại văn phòng và ngồi trước máy tính.

Ra khỏi trang web của CNN và quay trở lại với tập tài liệu tôi đang làm tối hôm qua. Tôi đọc lại khổ cuối cùng tôi đã viết:

Câu chuyện này phải được kể ra. Chúng ta đang sống trong thời đại của những cuộc khủng hoảng trầm trọng - và cả của những cơ hội vô cùng lớn lao. Câu chuyện về sát thủ kinh tế này kể lại công việc chúng tôi đã vươn tới vị trí hiện tại như thế nào và tại sao giờ đây chúng tôi phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng tưởng chừng không thể vượt qua. Cần phải kể ra câu chuyện này bởi vì chỉ khi chúng ta hiểu ra những sai lầm trong quá khứ, chúng ta mới có thể tận dụng những được những cơ hội trong tương lai; bởi sự kiện 11/9 đã xảy ra, và chiến tranh Iraq lần thứ 2 cũng đã xảy ra; bởi vì ngoài 3000 người đã chết vào ngày 11/9/2001, mỗi ngày còn có thêm 24000 người chết đói, vì họ không thể kiếm nổi thức ăn(1).

Quan trọng nhất là, câu chuyện này cần phải được kể ra vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một quốc gia có đủ khả năng, tiền bạc và quyền lực để thay đổi tất cả những điều này. Đó là quốc gia đã sinh ra tôi và tôi đã từng phụng sự với vai trò là một EHM: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.       

Lần này tôi sẽ không dừng lại. Những gì tôi đã làm mỗi khi gặp các sự kiện ngẫu nhiên trong cuộc đời đã đưa tôi đến ngày hôm nay. Tôi phải tiến lên phía trước.

Tôi lại nghĩ về người anh hùng đó, người kỵ sỹ đã một mình phi ngựa qua những dãy phố tối tăm của New England và thét to lời cảnh tỉnh. Người thợ bạc đó biết rằng những từ ngữ của Paine và Jeffeson đã đi trước anh, rằng nhà nhà, người người đều đang đọc những từ ngữ đó và tranh luận với nhau về chúng trong một quán rượu. Paine đã chỉ ra sự thật về sự chuyên chế của đế chế Anh. Jeffeson đã tuyên bố đất nước chúng tôi đã nguyện chung thành với những nguyên tắc cơ bản về cuộc sống, quyền tự do và sự mưu cầu hạnh phúc. Và Revere, khi phi ngựa xuyên qua màn đêm, cũng hiểu rằng những người đàn ông, đàn bà trên khắp các thuộc địa đang được những từ ngữ đó tiếp thêm sức mạnh. Họ sẽ vùng lên và chiến đấu vì một thế giới tốt đẹp hơn.       

Từ ngữ... Tôi không cho phép mình chần chừ thêm nữa. Tôi quyết định phải kết thúc cái việc mà tôi đã định làm rất nhiều lần trong những năm qua để nói hết, để thú tội - và viết những từ ngữ trong cuốn sách này.

 

 

LỜI KẾT   

           

 

Chúng ta đã đi đến phần cuối của cuốn sách, và cũng là điểm khởi đầu. Hẳn bạn đang băn khoăn liệu sẽ phải đi tiếp như thế nào, có thể làm gì để ngăn chặn chế độ tập đoàn trị và chấm dứt cuộc hành quân điên cuồng, tự hủy diệt để xây dựng lên đế chế toàn cầu này. Bạn đã sẵn sàng gập cuốn sách lại hùng dũng bước ra thế giới.

Bạn muốn có những ý tưởng, và tôi có thể cho bạn một số gợi ý. 

Tôi có thể chỉ ra rằng, những thông tin chứa đựng trong chương cuối mà bạn vừa đọc Bechtel và Halliburton ở Iraq đã cũ rồi. Đến thời điểm bạn đọc những dòng này, thì câu chuyện đó có thể trở thành thừa. Song tầm quan trọng của những bài báo đó vượt ra ngoài cái khung khổ thời gian của nội dung. Tôi hy vọng, chương đó sẽ giúp bạn thay đổi cách nhìn đối với tin tức, giúp bạn đọc được ẩn ý đằng sau những tiêu đề báo mà bạn đọc và giúp bạn đặt câu hỏi về những hàm ý đằng sau những tin tức mà bạn nghe được trên đài hay trên tivi. Mọi thứ đều không giống như vẻ ngoài. NBC thuộc quyền sở hữu của General Electric, ABC thuộc Disney, CBS thuộc Viacom, và CNN là một bộ phận của tập đoàn khổng lồ AOL Time Warner. Các phương tiện truyền thông của chúng tôi đều bị các tập đoàn quốc tế khổng lồ sở hữu hoặc chi phối. Phương tiện truyền thông đại chúng của chúng tôi là một phần của chế độ tập đoàn trị. Các quan chức và các giám đốc, những người kiểm soát gần như tất cả các phương tiện liên lạc của chúng tôi ý thức được chỗ đứng của mình. Trong cuộc đời mình, họ luôn được dạy rằng một trong những công việc quan trọng nhất của họ là duy trì, củng cố và mở rộng hệ thống mà họ đang được thừa hưởng. Họ có thể trở nên hết sức tàn nhẫn. Vì thế trách nhiệm của bạn là phải nhìn thấu sự thật ẩn dưới lớp vỏ bọc bề ngoài và để cho mọi người cùng biết nó. Hãy nói những sự thật mà bạn biết cho gia đình và bạn bè của bạn, hãy để sự thật được lan truyền khắp thế giới này.

 Tôi có thể đưa ra một danh sách những việc mà bạn có thể làm. Ví dụ, giảm mức tiêu thụ năng lượng của chính mình. Năm 1990, trước cuộc tấn công đầu tiên vào Iraq, nước Mỹ nhập khẩu 8 triệu thùng dầu; đến năm 2003 và đến cuộc tấn công thứ hai, số dầu nhập khẩu của nước Mỹ đã tăng hơn 50%, lên đến hơn 12 triệu thùng dầu1 Lần tới thay vì đi mua sắm, bạn hãy cố đọc một cuốn sách, tập thể dục, hoặc ngồi thiền. Thu hẹp diện tích nhà của bạn, của tủ quần áo, ô tô, văn phòng, và hầu như tất cả mọi thứ trong cuộc sống của bạn. Hãy phản đối các hiệp định thương mại “tự do”, chống lại các công ty đã vắt kiệt sức lao động của những con người khốn khổ trong các xí nghiệp, hay những công ty đang tàn phá môi trường.

Song tôi có thể nói với bạn rằng, vẫn còn có thể đặt nhiều hy vọng vào hệ thống hiện tại, và về cơ bản các người, các tập đoàn và các chính phủ - hoặc những người đang điều hành các tổ chức này không có gì xấu và rằng chắc chắn họ không phải là những người tạo nên chế độ tập đoàn trị. Những vấn đề hiện nay đang thách thức chúng ta không phải là kết quả của những định chế độc ác, thực ra, chúng bắt nguồn từ những khái niệm sai lầm về phát triển kinh tế. Sai lầm không nằm trong bản thân các định chế mà là trong nhận thức của chúng ta về cách thức mà các định chế đó hoạt động và tương tác qua lại, và về vai trò của những nhà quản lý các định chế đó trong quá trình.

Trên thực tế, những hệ thống viễn thông và mạng lưới phân phối có hiệu quả cao trên thế giới có thể được dùng để đem lại những thay đổi tích cực và nhân đạo. Hãy tưởng tượng nếu các biểu tượng hình vảy Nike, hình vòng cung của MacDonald và lôgô của Coca-Cola trở thành biểu tượng của những công ty với những mục tiêu chính là tạo cơm ăn áo mặc cho người nghèo trên thế giới mà không làm hại đến môi trường. Giờ đây, điều này cũng thực tế như việc đưa con người lên mặt trăng, sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, hay việc tạo ra cơ sở vật chất cho phép các công ty có thể đến được mọi ngóc ngách của hành tinh này. Chúng ta cần một cuộc cách mạng trong cách thức tiếp cận đến giáo dục để tạo thêm sức mạnh cho bản thân chúng ta và cho con cháu chúng ta suy nghĩ, đặt câu hỏi và dám hành động. Bạn có thể đưa ra một ví dụ. Hãy vừa là người thầy, đồng thời cũng là một người học trò; hãy truyền cảm hứng cho những người xung quanh bạn bằng ví dụ mà bạn đưa ra.

 Tôi có thể khuyến khích bạn nên làm những hành động cụ thể để tác động đến các thể chế trong cuộc sống của chính bạn. Hãy nói ra tại bất cứ diễn đàn nào mà bạn tham gia, hãy viết thư và email, gọi điện để chất vấn và suy nghĩ, bỏ phiếu cho các ban giám hiệu trường học, hội đồng địa phương, và các sắc lệnh địa phương sáng suốt.

Tôi có thể nhắc cho bạn nhờ những gì người Shuars đã nói với tôi năm 1990, rằng thế giới này giống như những gì bạn mơ về nó, và chúng ta có thể đánh đổi cơn ác mộng về những ngành công nghệp đầy ô nhiễm, những con đường cao tốc luôn tắc nghẽn và những thành phố đông đúc quá mức lấy một giấc mơ mới dựa trên lòng kính trọng mẹ trái đất và có trách nhiệm với một xã hội bền vững và bình đẳng. Chúng ta có sức mạnh để thay đổi bản thân chúng ta, thay đổi mô hình mà chúng ta đang sống.

Tôi có thể liệt kê những cơ hội tuyệt vời mà chúng ta có để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, ngay từ bây giờ: đủ thức ăn và nước uống cho tất cả mọi người, thuốc chữa bệnh và phòng ngừa các bệnh hiện đang hoành hành hàng triệu con người; các hệ thống giao thông có thể vận chuyển các hành hóa thiết yếu cho cuộc sống tới những vùng hẻo lánh nhất trên hành tinh; khả năng nâng cao lỷ lệ biết chữ và cung cấp các dịch vụ Internet giúp mọi người trên trái đất này có thể liên lạc với nhau; các công cụ có thể giúp giải quyết các xung đột và khiến các cuộc chiến tranh trở nên lỗi thời; các công nghệ có khả năng khai thác cả sự rộng lớn của không gian cũng như những nguồn năng lượng nhỏ nhất, năng lượng siêu nguyên tử để từ đó xây dựng những ngôi nhà phù hợp với hệ sinh thái và hiệu quả hơn cho tất cả mọi người; có đủ các nguồn lực để thực hiện tất cả các điều trên và còn nhiều hơn nữa.

Tôi có thể gợi ý một số bước mà bạn có thể thực hiện ngay lập tức để giúp những người khác nhận thức được những cuộc khủng hoảng và những cơ hội của chúng ta. “Lập ra một nhóm nghiên cứu về cuốn sách này ở thư viện hoặc các hiệu sách ở địa phương của bạn, hoặc ở cả hai nơi đó (bản hướng dẫn thực hiện công việc này được đăng trên trang web).  

“Viết một bài diễn văn phát biểu ở một trường tiểu học gần nơi ở của bạn về đề tài yêu thích của bạn (có thể là về thể thao, nấu ăn, về các loài kiến - bất cứ thứ gì bạn muốn), và dùng bài phát biểu đó để thức tỉnh các em học sinh về bản chất thực của cái xã hội mà họ đang được thừa hưởng.  

“Gửi email cho tất cả các địa chỉ trong danh sách của bạn, bày tỏ những suy nghĩ của bạn sau khi đọc xong cuốn sách này và các cuốn sách khác mà bạn đã đọc.  

Song tôi ngờ rằng, có thể bạn đã nghĩ đến tất cả những cách này. Bạn chỉ cần chọn lấy một vài cách mà bạn thấy phù hợp nhất và thực hiện chúng. Rồi bạn sẽ nhận ra rằng tất cả những cách đó là một phần của một cam kết với bản thân mình một cách chắc chắn và rõ ràng rằng chúng ta sẽ làm cho chính bản thân mình và những người xung quanh thức tỉnh. Chúng ta phải mở rộng trái tim và tâm hồn mình trước mọi khả năng, phải nhận thức và bắt tay vào hành động.  

Tuy nhiên, bạn không buộc phải làm theo những gì cuốn sách này nói; đó chỉ đơn giản và đơn thuần là một lời thú tội mà thôi. Đó là lời thú tội của một người đàn ông đã từng cho phép mình trở thành một quân tốt thí trong ván cờ của người khác, một sát thủ kinh tế; một người đã chấp nhận một hệ thống bẩn thỉu chỉ bởi vì hệ thống đó khiến anh ta có được một vẻ bề ngoài hào nhoáng, và bởi vì có rất nhiều lý do để biện minh cho việc tham gia vào hệ thống đó; một người biết rõ có thể làm cho mọi chuyện trở nên tốt hơn nhưng anh ta luôn tìm được cách để thanh minh cho lòng tham của bản thân, cho việc bóc lột tàn tệ những con người khốn khổ và cướp bóc cả hành tinh này; một người đã lợi dụng triệt để cái lợi thế được sinh ra trong một xã hội giàu mạnh nhất trong lịch sử, và là người luôn thương hại chính bản thân mình vì cha mẹ anh ta không thuộc tầng lớp hàng đầu của xã hội; một người đã từng lắng nghe lời thầy cô giáo, đọc những cuốn sách giáo khoa về phát triển kinh tế, và sau đó đi theo những ví dụ của những người đàn ông, đàn bà khác - những người luôn hợp pháp hóa mọi hành động của mình là nhằm thúc đẩy đế chế toàn cầu, ngay cả khi kết quả của những hành động đó là những vụ giết người, những vụ thảm sát, phá hoại môi trường; một người đã từng đào tạo những người khác bước theo bước chân của anh ta. Đó là lời thú tội của chính tôi.  

Việc bạn đã đọc hết cuốn sách cho tới tận đây cho thấy, có lẽ bạn, trên phương diện cá nhân nào đó, đã hiểu và thông cảm với những hối lỗi của tôi, bạn và tôi có thể chia sẻ với nhau nhiều điểm tương đồng. Chúng ta có thể đang đi trên những con đường khác nhau, nhưng chúng ta đang sử dụng cùng một loại phương tiện, cùng một loại nhiên liệu, và đã dùng bữa tại những nhà hàng do cùng một số tập đoàn sở hữu.  

Đối với tôi, thú tội là một phần không thể thiếu để thức tỉnh. Giống như tất cả các lời thú tội khác, đây là bước đầu tiên chuộc lỗi của tôi.  

Và bây giờ đến lượt bạn. Bạn cũng cần phải có lời thú tội của riêng mình. Khi nào bạn có thể trả lời được hết những câu hỏi nha bạn là ai, tại sao bạn lại ở vị trí hiện tại trong giai đoạn này của lịch sử, tại sao bạn lại làm những việc bạn đã từng làm, trong đó có cả những việc khiến bạn tự hào và xấu hổ, và bạn định sẽ đi đâu, ngay lập tức bạn sẽ có cảm giác được giải thoát. Nó sẽ khiến bạn thấy thật thanh thản.  

Hãy tin tôi khi tôi nó rằng viết quyển sách này mang lại cho tôi những cảm xúc sâu sắc, và đã là một trải nghiệm đau đớn và tủi nhục với riêng tôi. Nó gây cho tôi cảm giác sợ hãi mà trước đây tôi đã từng có. Nhưng nó cũng mở ra cho tôi cảm giác được giải thoát mà tôi chưa bao giờ được biết cho đến tận lúc này, một cảm giác mà tôi chỉ có thể miêu tả là rất tuyệt vời.

Hãy tự hỏi bản thân mình những câu hỏi như: Tôi phải thú tội về điều gì? Tôi đã lừa dối bản thân và những người khác ra sao? Tôi còn chần chừ ở điểm nào? Tại sao tôi lại để bản thân mình tham gia vào một hệ thống mà tôi biết rõ là không công bằng? Tôi sẽ phải làm gì để chắc chắn rằng con cháu tôi và tất cả trẻ em trên thế giới có thể hoàn thành giấc mơ của cha ông ta, giấc mơ về cuộc sống, về quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc? Tôi cần phải làm gì để chấm dứt nạn đói không cần thiết và để đảm bảo rằng sẽ không xảy ra sự kiện nào tương tự như sự kiện ngày 11/9? Làm thế nào tôi có thể giúp con cháu chúng ta hiểu rằng những người đang sống những cuộc sống thíếu lành mạnh và tham lam cần được thương hại, chứ đừng bao giờ bắt chước họ, ngay cả khi những người này luôn tự thể hiện bản thân mình, thông qua những phương tiện truyền thông mà họ đang kiểm soát, như những biểu tượng văn hóa và cố gắng thuyết phục chúng ta rằng những căn nhà và du thuyền có thể đem lại hạnh phúc? Tôi sẽ cam kết thay đổi những gì trong quan niệm và thái độ của mình? Tôi sẽ sử dụng những diễn đàn nào để nói điều đó cho những người khác và để chính bản thân tôi học hỏi thêm?  

Trong chúng ta cần phải trả lời những câu hỏi đó theo cách riêng của mình và cần thể hiện rõ ràng câu trả lời của mình. Pain và Jefferson và tất cả những người yêu nước khác đang dõi theo chúng ta. Ngày hôm nay, những lời nói của họ vẫn tiếp tục khích lệ chúng ta. Linh hồn của những người đã dám từ bỏ những trang trại, những chiếc thuyền đánh cá, vùng lên chống lại đế chế Anh, những người đã đấu tranh để xóa bỏ chế độ nô lệ trong cuộc Nội chiến, và những người đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ thế giới trước chủ nghĩa phát xít, đang nói với chúng ta. Và chúng ta cũng đang lắng nghe linh hồn của người dân sống ở hậu phương, sản xuất ra thức ăn, quân áo và cổ vũ tinh thần cho những người chiến sỹ, và của tất cả những người đàn ông, đàn bà đã chiến đấu bảo vệ những thành quả đạt được trên những chiến trường đó: Những thầy cô giáo, nhà thơ, nhạc sỹ, các doanh nhân, những nhân viên y tế, những người lao động chân tay..., bạn và tôi.  

Thời khắc này là của chúng ta. Đây là thời điểm để mỗi người và tất cả chúng ta đứng lên làm thành một chiến tuyến, đặt ra những câu hỏi quan trọng, tự vấn tâm hồn mình để tìm ra những câu trả lời của riêng chúng ta và bắt tay vào hành động.  

Những ngẫu nhiên trong cuộc đời bạn, và những lựa chọn mà bạn đã quyết định trước những ngẫu nhiên đó, đã đưa bạn đến cuộc sống ngày hôm nay.

 

 

 

TIỂU SỬ JOHN PERKINS

 

 

 

 

1963    Tốt nghiệp trung học cơ sở, vào học Trường Cao đẳng Middlebury

1964    Kết bạn với Farhad, con trai của một tổng tư lệnh Iran. Rời Middlebury.

1965    Làm việc cho tờ Hearst ở Boston.

1966    Vào Trường Đại học Quản trị Kinh doanh ở Boston.

1967    Kết hôn với bạn học cũ ở Middlebury, có chú là Frank, một quan chức cấp cao trong Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA).

1968    Được NSA coi là một EHM lý tưởng. Được sự bảo trợ của chú Frank, gia nhập Quân đoàn Hòa bình và được cử đến vùng Amazon ở Êcuađo, nơi các bộ lạc bản xứ đang chiến đấu chống lại các công ty dầu mỏ của Mỹ.

1969    Sống trong rừng nhiệt đới và vùng núi Andes. Trực tiếp tham gia vào các công việc mang tính hủy diệt và lừa dối của các công ty dầu mỏ và các cơ quan chính phủ, gây tác động tiêu cực tới văn hóa và môi trường địa phương.

1970    Tại Êcuađo, gặp Phó Chủ tịch Công ty Tư vấn Quốc tế MAIN, cũng là một điệp viên của NSA.

1971    Làm việc cho MAIN, được đào tạo bí mật ở Boston để trở thành 1 EHM, và được gửi đến Java, Inđônêxia trong một nhóm gồm 11 người. Đấu tranh với lương tâm khi chịu áp lực phải bóp méo các nghiên cứu kinh tế.

1972    Do sẵn sàng “hợp tác”, ông được đề bạt làm chuyên gia kinh tế trưởng và được xem như là “một người thành đạt sớm”. Gặp gỡ các nhà lãnh đạo quan trọng, trong đó có Giám đốc Ngân hàng Thế giới Robert McNamara. Được cử sang Panama làm nhiệm vụ đặc biệt. Kết bạn với lãnh tụ tôn giáo và là Tổng thống Panama, Omar Torrijos; hiểu được về lịch sử đế quốc Mỹ và quyết tâm của Torrijos chuyển quyền sở hữu kênh đào từ Mỹ sang Panama.

1973    Lên như diều gặp gió. Tạo dựng quyền lực ở MAIN; tiếp tục công việc ở Panama; đi rất nhiều nơi và tiến hành các nghiên cứu ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh, và Trung Đông.

1974    Có công giúp EHM đạt được thành công to lớn ở Ảrập Xêút. Gia đình Hoàng gia của nước này đồng ý đầu tư hàng tỷ đô la thu nhập từ dầu mỏ vào cổ phiếu của Mỹ và cho phép Bộ Tài chính Mỹ được sử dụng lợi nhuận đầu từ này để thuê các công ty Mỹ xây dựng các hệ thống điện nước, đường cao tốc, bến cảng, và thành phố ở Ảrập Xêút. Đổi lại, Mỹ phải đảm bảo cho gia đình Hoàng gia tiếp tục nắm quyền ở nước này.

1975    Tiếp tục được thăng chức - trở thành hội viên trẻ nhất trong lịch sử 100 năm của MAIN - và được bầu làm Trưởng phòng Kinh tế và Quy hoạch vùng. Xuất bản hàng loạt các tài liệu quan trọng; giảng bài ở Đại học Harvard và các tổ chức khác.

1976    Chủ trì các dự án quan trọng trên khắp thế giới ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, và Trung Đông. Học hỏi từ vua nước Iran một cách thức hoàn toàn mới để tạo dựng quyền lực cho EHM. 1977    Do những quan hệ cá nhân ở Côlômbia, ông đã tận mắt chứng kiến cảnh khốn cùng của những nông dân đang cố gắng bảo vệ gia đình và mái ấm của mình song lại bị quy là những kẻ khủng bố và buôn lậu ma túy.

1978    Cùng Farhad chạy khỏi Iran. Sau đó, họ cùng bay đến Rome, nơi có nhà của cha Farhad, một viên tướng người Iran. Ông này đã tiên đoán rằng vua Iran sẽ sớm bị hạ bệ. Ông cũng buộc tội cho các chính sách của Mỹ, các nhà lãnh đạo tham nhũng và các chính quyền chuyên chế đã gieo rắc hận thù trên khắp Trung Đông. Ông cảnh báo rằng nếu Hoa Kỳ không chịu khoan nhượng, tình hình sẽ trở nên ngày càng tồi tệ.

1979    Cắn rứt lương tâm khi vua Iran phải trốn khỏi đất nước và người Iran tấn công sứ quán Mỹ, bắt giữ 52 người làm con tin. Nhận ra rằng Mỹ đang cố phủ nhận sự thật về vai trò đế quốc của mình trên thế giới. Sau nhiều năm căng thẳng và liên tục ly thân, quyết định ly hôn người vợ đầu tiên.

1980    Rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mặc cảm tội lỗi, và nhận thức được rằng tiền bạc và quyền lực đã trói buộc ông với MAIN. Rời bỏ MAIN.

1981    Bất ổn nặng nề khi Tổng thống Êcuađo là Jaime Roldos  (người đã vận động chiến dịch chống lại các công ty dầu mỏ Hoa Kỳ) và Tổng thống Panama Omar Torrijos (người đã vấp phải cơn thịnh nộ của chính quyền Washington do lập trường của mình đối với kênh đào Panama và các căn cứ quân sự Mỹ) bị chết trong những tai nạn máy bay có bàn tay của CIA. Kết hôn lần thứ hai với một người mà cha là Tổng công trình sư của Tập đoàn Bechtel, chịu trách nhiệm thiết kế và xây dựng các thành phố ở Ảrập Xêút - công trình được tài trợ nhờ một phi vụ do EHM tiến hành vào năm 1974.

1982    Thành lập Tập đoàn Các hệ thống cung cấp điện độc lập (IPS), cam kết sản xuất điện không gây ô nhiễm môi trường. Trở thành cha của Jessica.

1983- 1989    Thành công lừng lẫy trong vai trò Giám đốc điều hành IPS, phần nhiều là nhờ “những sự trùng hợp ngẫu nhiên” - quen thân những người có địa vị, được miễn thuế... Là một người cha, ưu phiền về những cuộc khủng hoảng trên thế giới và vai trò EHM trước đây. Bắt đầu viết một cuốn truyện tả thực, nhưng sau đó được giữ lại làm tư vấn với mức lương hậu hĩnh với điều kiện không được viết cuốn sách đó nữa.

1990-1991     Tiếp theo sự kiện Mỹ xâm lược Panama và việc bỏ tù Noriega, bán tập đoàn IPS và nghỉ hưu ở tuổi 45. Dự định viết tự truyện về cuộc đời của một EHM, nhưng sau đó lại bị thuyết phục tập trung công sức thành lập một tổ chức phi lợi nhuận. Người ta nói với ông rằng, một cuốn sách như vậy sẽ có những tác động tiêu cực.

1992-2000     Chứng kiến những thật bại của EHM ở Iraq mà hậu quả là chiến tranh vùng vịnh lần đầu tiên. Đã 3 lần bắt tay vào viết cuốn sách về cuộc đời của một EHM, nhưng lại phải đầu hàng trước những lời đe dọa và những món đút lót. Cố gắng xoa dịu lương tâm bằng cách viết sách về những người dân bản xứ, ủng hộ cho các tổ chức phi lợi nhuận, tham gia giảng dạy tại các diễn đàn Thời đại mới, tới thăm vùng Amazon và đỉnh Himalaya, gặp gỡ với Dalai Lama...

2001-2002     Dẫn đầu một nhóm người Bắc Mỹ đi sâu vào vùng Amazon, và đang ở cùng bộ lạc bản xứ vào ngày 11/9/2001. Dành ra 1 ngày ở Ground Zero và cam kết sẽ viết sách để có thể hàn gắn vết thương và tiết lộ sự thật đằng sau các EHM.

2003-2004     Trở lại vùng Amazon thuộc Êcuađo để gặp gỡ với các bộ lạc bản xứ, những người thề sẽ đấu tranh chống lại các công ty dầu mỏ, viết Lời thú tội của một st (EHM).

 

 

GHI CHÚ

Lời tựa

1.  Chương trình Lương thực của Liên Hợp Quốc, http://www.wfp.org/index.asp?section=1 (được truy cập vào ngày 27/12/2003). Ngoài ra, Hiệp hội Quốc gia về chống đói nghèo đã ước tính rằng “Mỗi ngày có tới 34000 trẻ em dưới 5 tuổi chết vì đói hay vì bệnh tật do đói nghèo mà có thể ngăn chặn được” (http://www.napsoc.org , truy cập ngày 27/12/2003. Starvation.net ước tính rằng “Nếu tính thêm cả 2 nguyên nhân gây ra cái chết của người nghèo nhất (sau chết đói), thì con số tử vong có thể tăng lên 50000” (http://www.starvation.net, truy cập vào ngày 27/12/2003).

2.  Các nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, do Trung tâm Nghiên cứu lương thực và hành động (FRAC), http://www.frac.org (được truy cập vào 27/12/2003).

3.   Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc (New York: Liên Hợp Quốc, 1999).

4.  Năm 1998, Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc đã tính toán rằng sẽ phải mất thêm 9 tỷ đô la ($) (ngoài chỉ tiêu hiện hành) để cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường cho mọi người trên hành tinh này. Họ nói rằng phải mất thêm 12 tỷ $ để cung cấp các dịch vụ chăm sắc sức khỏe sinh sản cho tất cả phụ nữ trên thế giới. Thêm 13 tỷ $ sẽ cung cấp không những cho mọi người trên hành tinh này đủ thức ăn mà còn cung cấp đầy đủ cho họ dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu. Thêm 6 tỷ $ nữa thì có thể đem lại nền giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người... Tổng cộng là phải có thêm 40 tỷ $.”- John Robbins, tác giả của Thực đơn cho một nước Mỹ kiểu mới và Cuộc cách mạng lương thực, http://www.foodrevolution.org, (được truy cập vào ngày 23/12/2003).

 

Phần mở đầu

 

Gina Chavez et al., Tarimiat- Firmes en Nuestro Territorio: FIPSE vs. ARCO, eds. Mario Melo và  Juana Sotomayor (Quito, Êcuađo: CDES và CONAIE, 2002).

Sandy Tolan, Êcuađo: Thất hứa, Đài phát thanh Quốc gia, Bản tin sáng, 9/7/2003, http://www.npr.org/programs/morning/features/2003/jul/latinoil (được truy cập vào ngày 9/7/2003).

Juan Forero, Tìm kiếm sự cân bằng: Tăng trưởng với văn hóa vùng Amazon, tờ Thời báo New York, 10/12/2003. Abby Ellin, Suit nói rằng Chevron Texaco đổ thuốc độc xuống Êcuađo, tờ Thời báo New York, 8/3/2003.

Chris Jochnick, Hiểm họa trước mắt, New Internationalist, tháng 7 năm 2001, http://www.newint.org/issue335/perilous.htm.

Để biết thêm thông tin, xem Pamela Martin, Toàn cầu hóa chính trị: Phong trào đòi quyền của những bộ lạc Amazon (New York: Rutledge, 2002); Kimerling, Amazon hoang dã (New York: Ủy ban Bảo vệ tài nguyên, 1991); Leslie Wirpsa, trans... Sự biến động ở sân sau: các khoản vay nợ và quyền con người không chính đáng - Trường hợp của Êcuađo- Nauy (Quito, Êcuađo: Centro de Derechos Economicos y Sociales, 2002); và Guardian, ngày 8 tháng 10 năm 2000.

 

 

Để biết thêm thông tin về tác động của dầu mỏ lên nền kinh tế các nước và nền kinh tế thế giới, xin xem Michael T. Klare, Các cuộc chiến giành giật nguồn tài nguyên thiên nhiên: Mảnh đất mới cho xung đột toàn cầu (New York: Henry Holt và công ty, 2001); Daniel Yergin, Giải thưởng: Cuộc săn lùng trường kỳ dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực (New York: Tạp chí miễn phí, 1993); và Daniel Yergin và Joseph Stanislaw, Độ cao kỳ vĩ: Cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới (New York: Simon & Schuster, 2001). James S. Henry, Tiền đi đâu, Trên mọi lĩnh vực; tháng 3, tháng 4, năm 2004, trang 42-25. Để biết thêm chi tiết, xin xem sách Ngân hàng máu: Chuyện kể về nền kinh tế thế giới ngầm của Henry (New York: 4 bức tường 8 cánh cửa, 2003).

 

Gina Chavez et al., Tarimiat- Firmes en Nuestro Territorio: FIPSE vs. ARCO, eds. Mario Melo & Juana Sotomayor (Quito, Êcuađo: CDES & CONAIE, 2002); Petroleo, Ambiente y Derechos en la Amazonia Centro Sur, Edition Victor Lopez A, Centro de Derechos Economicos y Sociales, OPIP, IACYT-A (được tài trợ của Tổ chức Oxfam America) (Quito, Êcuađo: Sergrafic, 2002).

 

Để biết thêm thông tin về jackals và các loại hình báo kinh tế, xem P.W. Singer, Tập đoàn: Sự nổi lên của lĩnh vực quân sự thuộc sở hữu tư nhân (Ithaca, NY & London: Cornell University Press, 2003); James R. Davis, Các chiến binh của số phận: Những quân nhân và trật tự thế giới mới (Vancouver & Toronto: Douglas & McIntyre, 2000); Felix I. Rodriguez & John Weisman, Các chiến binh giấu mặt: Người hùng CIA của 100 trận đánh không tên (New York: Simon & Schuster, 1989).

 

Chương 2. “Không đường lui”

Để biết thêm chi tiết về hoạt động tội ác này, xem Stephen Kinzer, Mọi thần dân của vua Iran: Hành động tội ác của Mỹ và những căn nguyên của sự khủng bố ở Trung Đông (Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, Inc., 2003). Jane Mayer, Thể thao: Vị phó chủ tịch đã làm được gì cho Halliburton?, New Yorker, ngày 16 & 23 tháng 2 năm 2004, trang 83.

 

Chương 3. Những bài học cho một EHM

Để hiểu thêm đất nước Inđônêxia và lịch sử của nó, xem thêm Jean Gelman Taylor: Inđônêxia: Con người và lịch sử (New Haven & London).

 

Chương 15. Vụ rửa tiền của Ảrập Xêút

Để biết thêm về những sự kiện dẫn đến lệnh cấm vận dầu lửa năm 1973 và tác động của lệnh cấm này, mời xem: Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút (Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 155-159; Daniel Yergin, Phần thưởng Cuộc tìm kiếm trường kỳ dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực (New York: Free Press, 1993);

Stephen Schneider, Cuộc cách mạng về giá dầu mỏ  (Baltimore: Tạp chí của Trường Đại học Johns Hopkins, 1983);

Ian Seymour, OPEC: Công cụ của sự thay đổi (London: McMillan, 1980). Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút (Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 160.

David Holder và Richard Johns, Ngôi nhà của Saud: Sự nổi lên và luật lệ của một đế chế hùng mạnh nhất trong thế giới Ảrập Xêút (New York: Holt Rinehart và Winston, 1981), trang 359. Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút  (Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 167

 

Chương 16. Dẫn khách và đổ tiền cho Osama bin Laden

Robert Baer, Ngủ với quỷ dữ: Washington đã bán linh hồn của mình để lấy dầu lửa của Ảrập Xêút như thế nào (New York: Nhà xuất bản Crown, 2003), trang 26. Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút ((Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 162. Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút ((Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 62.

Henry Wasswa, Idi Amin, tên độc tài Uganda đầy sát thí, đã chết, Tạp chí Associated, 17 tháng 8/2003. Liên kết Ả rập, Báo cáo tình hình thế giới và nước Mỹ, 15 tháng 12/2003, trang 21. Liên kết Ả rập, Báo cáo tình hình thế giới và nước Mỹ, 15 tháng 12/2003, trang 19, 20, 26.

Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003. Để biết thêm thông tin về sự liên đới của gia đình Bush, Bechtel,... xin xem: Tập đoàn dầu khí Zapata., tạp chí Fortune, tháng 4 năm 1958, trang 248;

Darwin Payne, Sáng kiến về năng lượng: Các ngành thuộc da, 1880-1978 (New York: Simon và Schuster, 1979); Nathan Varid, Cơn bão sa mạc: nhóm Bechtel đang dẫn đầu cuộc tập kích, và Giao thiệp để lấy hợp đồng, tạp chí Forbes, ngày 23/6/2003, từ trang 63 đến 66;

Graydon Carter, Bức thư của nhà biên tập: Bay trong bầu trời thân thiện... Hội chợ Vanity, tháng 10/2003; Richard A. Oppel với Diana B. Henriques, Một đất nước đang chiến tranh: Hợp đồng. Công ty có những mối quan hệ với Washington, và với Iraq, Tạp chí New York, ngày 18/4/2003.

 

Chương 17. Các cuộc đàm phán về kênh đào Panama và Graham Greene Xem ví dụ: John M. Perkins, Không có chỗ cho chủ nghĩa thực dân ở Panama vào năm 1975, tờ Boston Evening Glob, trang Op-Ed, ngày 19/9/1975; John M. Perkins, Hiệp định giữa Mỹ và Brazil khiến Êcuađo lo lắng, tờ Boston Globe, trang Op-Ed, ngày 10/5/1976.

 

Lấy ví dụ về những tài liệu của John Perkins xuất hiện trong các tạp chí kỹ thuật, xem: John M. Perkins et al., Một quy trình Markov áp dụng cho dự báo, Phần I- Phát triển kinh tế và Một quy trình Markov áp dụng cho dự báo, Phần II- Nhu cầu về điện năng, Viện Cơ khí điện và Điện tử, Tài liệu hội thảo C 73 475-1 (tháng 7/1973) và C74 146-7 (tháng 1/1974); John M. Perkins và Nadipuram R. Prasad, Mô hình mô tả mối quan hệ tương tác trực tiếp và gián tiếp giữa nền kinh tế và môi trường, Tư vấn về cơ khí, tháng 4/1973; Edwin Vennard, John M. Perkins, và Robert C. Ender, Nhu cầu về điện từ và các hệ thống kết nối, TAPPI Journal (Hiệp hội Kỹ thuật giấy và bột giấy), Tài liệu hội thảo lần thứ 28, 1974; John M. Perkins et al., Ngành thép của Iran: Tác động tới nền kinh tế và nhu cầu về điện năng và Phương pháp Markov áp dụng cho kế hoạch hóa, được trình bày tại Hội thảo về cơ khí tại Iran lần thứ 4, Trường Đại học Pahlavi, Shiraz, Iran, 12-16 tháng 5; và Các lý thuyết kinh tế và những ứng dụng: Tuyển chọn các tài liệu kỹ thuật với lời giới thiệu của John M. Perkins (Boston: công ty Chas. T. MAIN, 1975)

 

John M. Perkins, Không có chỗ cho chủ nghĩa thực dân ở Panama vào năm 1975, tờ Boston Evening Glob, trang Op-Ed, ngày 19/9/1975 Graham Greene, Tiến tới biết cái đại thể (New York: Sách cầm tay, 1984), trang 89-90.

 

Chương 18. Vua của những vị vua

William Shawcross, Chuyến đi cuối cùng của vua Iran: Số phận của một liên minh (New York: Simon & Schuster, 1988). Để biết thêm cuộc chiến giành quyền lực của vua Iran, mời xem H.D.S. Greenway, Mưu đồ của Iran, Sách New York, ngày 23/9/2003; Stephen Kinzer, Mọi thần dân của vua Iran: Hành động tội ác của Mỹ và những căn nguyên của sự khủng bố ở Trung Đông (Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, Inc., 2003). Để biết thêm về Yamin, Dự án sa mạc hoa, và Iran, xem John Perkins, Thay đổi hình dạng (Rochester, VT: Sách đạo đức, 1997).

 

Chương 20: Sự sụp đổ của một vị vua

Để biết thêm cuộc chiến giành quyền lực của vua Iran, mời xem H.D.S. Gr Greenway, Mưu đồ của Iran, Sách New York, ngày 23/9/2003; Stephen Kinzer, Mọi thần dân của vua Iran: Hành động tội ác của Mỹ và những căn nguyên của sự khủng bố ở Trung Đông. Xem các bài xã luận ở tờ tạp chí Time về Ayatollah Ruhollah Khomeini, ngày 12 tháng 2 năm 1979, ngày 7 tháng 1 năm 1980, và ngày 17 tháng 8 năm 1987.

 

 

Chương 21: Côlômbia: trung tâm của Châu Mỹ Latinh

Gerard Colby và Charlotte Dennet, Chúng tôi sẽ được thực hiện, chinh phục vùng Amazon: Neison Rockefeller và Evangelism trong thời đại dầu lửa (New York: HarperCollins, 1995), trang 381.

 

Chương 14: Tổng thống củ Êcuađo chiến đấu để giành dầu lửa

Để biết thêm chi tiết về SIL, lịch sử của nó, và các hoạt động, và mối quan hệ với các công ty dầu lửa và Rockefellers, xem Gerard Colby và Charlotte Dennet, Chúng tôi sẽ được thực hiện, chinh phục vùng Amazon: Neison Rockefeller và Evangelism trong thời đại dầu lửa (New York: HarperCollins, 1995); Joe Kane, Savages (New York: Alfred A. Knopt, 1995) (để biết thêm thông tin về Rachel Saint, trang 85, 156, 227). John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 272. Jose Carvajal Candall, Objetivos y Politicas de CEPE (Quito, Êcuađo: Primẻ Seminario, 1979), trang 88.

 

Chương 26. Cái chết của Tổng thống Êcuađo

John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 272. Gerard Colby và Charlotte Dennet, Chúng tôi sẽ được thực hiện, chinh phục vùng Amazon: Neison Rockefeller và Evangelism trong thời đại dầu lửa (New York: HarperCollins, 1995), trang 813.

John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 303. John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 381, 400.

 

Chương 27. Panama: Lại một vị Tổng thống nữa bị ám sát

 

Graham Greene, Tiến tới biết cái đại thể (New York: Sách cầm tay, 1984), trang 11. George Shultz là Bộ trưởng Bộ Tài chính và là Chủ tịch Hội đồng Chính sách kinh tế dưới thời Tổng thống Nixon và Ford, 1972-1974, Chủ tịch Tập đoàn Bechtel, 1974-1982, làm Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Reagan và Bush, 1982-1989; Caspar Weinberger là Giám đốc Văn phòng Quản lý và Ngân khố và làm Bộ trưởng Bộ Y tế, Giáo dục, và Phúc lợi dưới thời Nixon và Ford, 1973-1975, Phó chủ tịch và Tư vấn trưởng của Tập đoàn Bechtel, 1975-80, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời Reagan và Bush, 1980-87.

 

Trong suốt năm 1973 là năm diễn ra vụ nghe trộm Watergate, trong bản điều trần trước Quốc hội, John Dean là người đầu tiên tiết lộ âm mưu của Mỹ là ám sát ngài Torrijos; năm 1975, theo yêu cầu của Quốc hội đối với CIA, do thượng nghị sĩ Frank Church chủ tọa, bản tường trình bổ sung và việc lập kế hoạch ám sát cả ngày Torrijos và Noriega được đệ trình. Xem, chẳng hạn như, Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 107.

 

Chương 28. Công ty của tôi, Enron, và George W. Bush

 

Để biết thêm thông tin về IPS, Tập đoàn Năng lượng Archbald, và ngài Giám đốc điều hành John Perkins, xem Jack M. Daly và Thomas J. Duffy, Đốt thn ở Archbald, Cơ khí dân dụng, tháng 7/1988; Vince Coveleskie, tờ The Scranton Times, ngày 17/10/1987; Nhà máy Archibald sẽ biến bụi than thành năng lượng, Citizen’s Voice, Wilkes-Barre, PA, ngày 6/6/1988;

Tài sản nợ cho tới tài sản có: Từ bụi than cho đến ánh sáng, thức ăn; xã luận, tờ Citizen’s Voice, Wilkes-Barre, PA, ngày 7/6/1988. Joe Conason, Câu chuyện thành công của ngày George W. Bush, Tạp chí Harpers, tháng 2/2000; Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165. Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165

Xem George Lardner Jr. Và Lois Romano, Bước ngoặt sau khi cạn kiệt, tờ Bưu điện Washington, ngày 30/7/1999; Joe Conason, Câu chuyện thành công của ngày George W. Bush, Tạp chí Harpers, tháng 2/2000; và Sam Parry, Tập đoàn dầu lửa của gia đình Bush-Phần II: Thế hệ thứ ba, http://www.newnetizen.com/predidential/busholigarchy.htm (đc truy cập vào ngày 19/4/2002. Học thuyết này mang một ý nghĩa mới mẻ và dường như đã sắp sụp đổ đến nơi khi chịu nhiều sự săm soi của công chúng, và khi mà vài năm sau đó công ty kế toán có tiếng là Arthur Andersen đã câu kết với các giám đốc của Enron để lừa gạt những người tiêu dùng năng lượng, công nhân của Enron, và công chúng Mỹ hàng tỷ đô la. Cuộc chiến ở Iraq năm 2003 đã gạt tâm điểm này sang một bên. Trong suốt cuộc chiến, Bahrain đã đóng một vai trò quyết định trong chiến lược của Tổng thống George W. Bush.

 

Chương 29. Tôi nhận hối lộ Jim Garrison,

Đế chế Mỹ: Kẻ vay nợ toàn cầu hay quyền lực xấu xa? (San Francisco: Nxb. Berret- Koehler, 2004), trang 38.

 

Chương 30. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xâm lược Panama

 

Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 56. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 31-34. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 43. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165 Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 114. Xem www.farmousexans.com/georgebush.htm, trang 2. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 56-57. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 6. www.farmousexans.com/georgebush.htm, trang 3. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 4. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 248. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 211. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang xxi.

 

Chương 31. Một thất bại của EHM tại Iraq Morris Barret, Thế giới hoang dại của Web, tờ Time, ngày 26/4/1999, trang 62.

 

Chương 32. Sự kiện 11/9 và những ảnh hưởng xấu tới riêng cá nhân tôi

Để biết thêm về Huaranis, mời xem Joe Kane, Những kẻ hoang dã (New York: Alfred A. Knòp, 1995).

 

Chương 33. Vênêzuêla: được Saddam cứu giúp

Vênêzuêla bên bờ vực, xã luận trên tờ Thời báo New York, ngày 18/12/2002. Cuộc cách mạng sẽ không được phát đi, do Kim Bartley và Donnacha O’Briain làm đạo diễn (liên kết với Hội đồng phim của Ireland, 2003). Xem www.chavezthefilm.com. Tổng thống Vênêzuêla bị buộc từ chức, Association Press, ngày 12/4/2002. Simon Romeo, Thời điểm ngừng bắn rất mong manh ở Vênêzuêla, tờ Thời báo New York, ngày 24/4/2002. Bob Edwards, Điều gì đã khiến giấc mơ về dầu lửa ở Vênêzuêla trở nên sai lầm, Đài phát thanh Quốc gia, Bản tin buổi sáng, ngày 8/7/2003. Ginger Thompson, Những người biểu tình ở Vênêzuêla tiếp tục gây áp lực đối với ngày Chavez và việc xuất khẩu dầu mỏ, tờ Thời báo New York, ngày 30/12/2002.

 

Để hiểu thêm về những tay sát thủ và các loại tình báo kinh tế khác mời xem: P.W. Singer, Các chiến binh: Sự nổi lên của ngành công nghiệp quân sự được tư nhân hóa (Ithaca, NY và London: báo của trường Cornell, 2003); James R. Davis, Những chiến binh của số mệnh: Quân đội tư nhân và Trật tự thế giới mới (Vancouver và Toronto: Douglas & McIntyre, 2000); Felix I. Rodriguez và John Weisman, Các chiến binh giấu mặt: Người hùng CIA của 100 trận đánh không tên (New York: Simon & Schuster, 1989).

Tim Weiner, Một hành động dũng cảm, tờ Thời báo New York, ngày 14/4/2002. Nhà lãnh đạo Vênêzuêla mất 20 năm mới dẹp được bạo loạn, Association Press, ngày 22/2/2003. Paul Richter, Mỹ đã thương lượng để phế truất Chavez, tờ Thời báo Los Angeles, ngày 17/4/2002.

 

Chương 34. Thăm lại Êcuađo

 

Chris Jochnick, Sự thịnh vượng nguy hiểm, báo Quốc tế mới, tháng 6/2001, http://www.newint.org/issue335/perilous.htm. Liên Hợp Quốc, Báo cáo phát triên con người (New York: Liên Hợp Quốc, 1999). Để biết thêm thông tin về tình hình bắt giữ con tin, xem Alan Zibel, Những người bản địa tìm tiền bồi thường do ô nhiễm, Oakland Tribune, ngày 10/12/2002; Tàu nhỏ (Quito, nhật báo Êcuađo) tạ chí ra ngày 10-2-2003; Achuar giải phóng 8 còn tin, El Commercio (nhật báo Quito), ngày 16/12/2002 (cũng được Reuters đưa tin); Êcuađo: Công ty dầu lửa ngừng hoạt động do nhân viên yêu cầu chính phủ phải hành động và Những người bản địa Sarayacu họp mặt để bàn cách giải phóng những công nhân dầu lửa dang bị bắt cóc, El Universo (Guayaquil Êcuađo, nhật báo), http://www.eluniverso.com, ở vùng Amazon, tờ Thời báo New York, ngày 10/12/2003. Thông tin cập nhật về người dân vùng Amazon ở Êcuađo có tại trang web Pachamama Alliance: http://www.pachamama.org.

 

Chương 35. Phá vỡ lớp vỏ bọc

1.        Thống kê về nợ quốc gia từ Vụ công nợ, được báo cáo tại www.publicdebt.treas.gov/opdpenny.htm; thống kê tài khoản quốc gia từ Ngân hàng Thế giới tại www.worldbank.org/data/databytopic/GNIPC.pdf.

2.        Elizabeth Becker và Richard A. Oppel, Một quốc gia đang có chiến tranh: Tái kiến thiết. Mỹ đưa Bechtel một hợp đồng chính để tái kiến thiết Iraq, tờ Thời báo New York, ngày 18/4/2003, http:// www.nytimes.com/2003/04/18/ quốc tế/ chuyên mục quốc tế đặc biệt/18REBU.html.

3.        Richard A. Oppel với Diana B. Henriques, Một quốc gia đang có chiến tranh:Nhà thầu Công ty có mối quan hệ với Washington, và với Iraq, tờ Thời báo New York, ngày 18/4/2003, http:// www.nytimes.com/2003/04/18/ quốc tế/ chuyên mục quốc tế đặc biệt/18REBU.html.

4.        http://money.cnn.com/2003/04/17/news/companies/war-bechtel/index.htm. Phần kết Quản lý thông tin về năng lượng, tờ Nước Mỹ ngày nay, ngày 1/3/2004, trang 1.

 

VỀ TÁC GIẢ

 

Trong đời mình, John Perkins đã đóng 4 vài: một EHM, giám đốc điều hành của một công ty năng lượng phát đạt, người đã được khen thưởng vì đã không tiết lộ thân phận là một EHM của mình; một chuyên gia về văn hóa bản địa và samn giáo; một giảng viên và một nhà văn, người đã dùng chuyên môn của mình để thúc đẩy công tác nghiên cứu về sinh thái học và tính bên vững trong khi vẫn tíếp tục tôn trọng lời thề không tiết lộ về quãng đời làm EHM; và giờ đây lại đóng vai trò một nhà văn, người đang kể một câu chuyện có thật về những mối quan hệ lạ thường khi còn là một EHM, tiết lộ bí mật về một thế giới với đầy những âm mưu và thủ đoạn tầm cỡ quốc tế, đang biến nền cộng hòa Mỹ trở thành một đế chế toàn cầu mà ngày càng bị nhiều người trên khắp toàn cầu khinh miệt.

Là một EHM, công việc của John là thuyết phục các nước thuộc thế giới thứ ba chấp nhận các khoản vay khổng lồ để phát triển cơ sở hạ tầng- các khoản vay này lớn hơn rất nhiều so với nhu cầu của họ - và phải đảm bảo rằng các dự án phát triển đó sẽ rơi vào tay các tập đoàn của Mỹ như Halliburton và Bechtel. Một khi các nước này chồng chất bởi gánh nặng nợ thì chính phủ Mỹ và các tổ chức cứu trợ quốc tế liên minh với Mỹ sẽ có thể kiểm soát được nền kinh tế các nước này và đảm bảo rằng dầu mỏ và các nguồn lực khác sẽ được dùng để phục vụ lợi ích từ việc xây dựng một đế chế toàn cầu.

Với tư cách là một EHM, John đã đi khắp nơi trên thế giới và tham gia trực tiếp hay chỉ chứng kiến một số những sự kiện gây chấn động lịch sử hiện đại, bao gồm vụ án rửa tiền ở Ảrập Xêút, vụ phế truất vua Iran, cái chết của Tổng thống Panama Omar Torrijos, cuộc xâm lược Panama sau đó, và các sự kiện dẫn đến việc xâm lược Iraq năm 2003.       

Năm 1980, Perkins sáng lập nên tập đoàn IPS, một công ty năng lượng thay thế. Dưới sự lãnh đạo của ông với tư cách là giám đốc điều hành, IPS đã trở thành một công ty cực kỳ thành đạt trong một lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro đến mức phần lớn các đối thủ cạnh tranh của nó đều đã thất bại. Nhiều “sự trùng hợp ngẫu nhiên” và những ưu ái của những người có quyền thế đã giúp IPS trở thành một tập đoàn kinh doanh hàng đầu trong lĩnh vực đó. John cũng đã từng được trả lương hậu hĩnh để tư vấn cho một số tập đoàn mà trước đó ông đã giúp để có được lợi nhuận - sở dĩ ông đảm nhận vai trò này một phần là vì chịu rất nhiều mối đe dọa trắng trợn và còn vì các khoản trả lương hậu hĩnh.

Sau khi bán IPS và năm 1990, John trở thành người đi đầu trong các phong trào bảo vệ môi trường và bảo vệ quyền lợi của người dân bản địa. Ông cũng hợp tác đặc biệt chặt chẽ với các bộ lạc ở Amazon để giúp họ bảo vệ các cánh rừng nhiệt đới của họ. Ông đã viết 5 cuốn sách, được xuất bản nhiều thứ tiếng về các nền văn hóa bản địa, saman giáo, sinh thái học, và tính bền vững; giảng dạy tại các trường đại học và các trung tâm giáo dục ở cả 4 lục địa. Ông là người sáng lập và cũng là thành viên ban quản trị của một vài tổ chức phi lợi nhuận hàng đầu.       

Một trong những tổ chức phi lợi nhuận mà ông đã sáng lập và điều hành, với cái tên là Dream Change Coalition (sau này được gọi đơn giản là Dream Change, hay DC), đã trở thành một mô hình nhằm thôi thúc mọi người đạt được những mục tiêu của mình, đồng thời giúp họ nhận thức rõ hơn về những ảnh hưởng mà cuộc sống của họ tạo ra với những người khác và với cả hành tinh này. DC tìm cách tạo thêm sức mạnh cho các cá nhân để họ tạo lập nên những cộng đồng bền vững và cân bằng hơn. chương trình Pollution Offset Lease for Earth của DC (POLE) có mục tiêu bù đắp những tổn hại từ sự ô nhiễm bầu khí quyển do mỗi chúng ta gây nên, giúp người dân bản địa bảo vệ những khu rừng của họ, và thúc đẩy những thay đổi về nhận thức hướng tới sự tôn trọng tự nhiên. DC đã tạo dựng một nhóm những người ủng hộ trên khắp thế giới và thúc giục người dẫn ở nhiều quốc gia hình thành nên các tổ chức với những sứ mệnh tương tự.

Trong suốt những năm 90 cũng như khi bước sang thiên niên kỷ mới, John vẫn luôn tôn trọng lời thề giữ im lặng về cuộc đời làm một EHM của ông và tiếp tục nhận được các khoản phí dịch vụ tư vấn công ty hết sức hậu hĩnh. Ông đã tìm cách chuộc lại lỗi lầm bằng cách dùng phần nhiều số tiền kiếm được từ nghề tư vấn của mình vào các công việc phi lợi nhuận. Kênh truyền hình Nghệ thuật & Giải trí đã phác họa chân dung ông trong một dòng tít đặc biệt “Những kẻ săn đầu người của vùng Amazon”, do Leonard Nimoy phác họa lại. Tờ Cosmopolitan của Italia lại cho đăng một bài báo dài về những hội thảo “Thay đổi trạng thái” do ông tổ chức. Tờ Time thì lại xếp Dream Change là một trong 13 tổ chức trên thế giới có trang web phản ánh tốt nhất những lý tưởng và mục tiêu của Ngày Trái đất.       

Rồi sự kiện 11/9 năm 2001 xảy ra. Những cảnh tượng kinh khủng của ngày hôm đó đã khiến John quyết định sẽ vén bức màn bí mật về cuộc đợi làm một EHM của ông, để viết nên cuốn Lời thú tội của một sát thủ kinh tế bất chấp những lời đe dọa và mua chuộc. Ông dần dần tin tưởng rằng ông có trách nhiệm phải chia sẻ những kiến thức của bản thân về việc chính quyền Mỹ, các tổ chức “cứu trợ” đa quốc gia, và các tập đoàn phải chịu trách nhiệm những gì khi buộc cả thế giới phải gánh chịu một hậu quả như vậy. Ông muốn tiết lộ một thực tế rằng các EHM chưa bao giờ lại phát triển ở nhiều nơi như thế. Ông cảm thấy mắc nợ với đất nước mình, với con gái mình, với tất cả những ai trên thế giới này bị ảnh hưởng bởi công việc của Trong cuốn sách này, ông đã phác họa nên con đường nguy hiểm mà đất nước ông đang đi vì nó đang rời xa những lý tưởng bắt đầu của một nền cộng hòa Mỹ khi hướng tới mục tiêu tìm kiếm quyền thống trị thế giới.       

Những tác phẩm trước đó của John Perkins gồm có: Thay đổi trạng thái, Thế giới như những gì bạn mơ ước, Định hướng tâm lý, Tập thói quen tránh căng thẳng, và Tinh thần của người Shuar.       

Để hiểu thêm về John, có thể tìm kiến những nơi mà ông đang giảng dạy, để đặt mua sách của ông, hay liên lạc với ông, xin vào trang web: www.JohnPerkins.org.

       

Để hiểu thêm về công việc của Dream Change, một tổ chức phi chính phủ đang thay đổi nhận thức của cả thế giới, xin mời vào trang: www.dreamchange.org.

 

 

                                                             ---HẾT---

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Biên dịch: Lê Đồng Tâm

NXB: NXB Văn hóa-Thông tin Năm xuất bản: 2007

Biên tập: Nguyễn Ánh Hồng

 

 

 

 

  1. Confessions of an Economic Hit Man

  2. Confessions of an Economic Hit Man

  3. Confessions of an Economic Hit Man

  4. Confessions of an Economic Hit Man

  5. Confessions of an Economic Hit Man

  6. Confessions of an Economic Hit Man

  7. Confessions of an Economic Hit Man

  8. Confessions of an Economic Hit Man

  9. Confessions of an Economic Hit Man

  10. Confessions of an Economic Hit Man

 

http://www.chinhnghia.com/

http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

http://nguoidalat.informe.com/forum/

http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: